A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa

阿彌陀經疏鈔演義

Phần 109

Chủ giảng: Lăo pháp sư Tịnh Không năm 1984

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Minh Tiến, Huệ Trang và Đức Phong

 

Tập 217

 

      Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang bốn trăm ba mươi mốt:

 

      (Sớ) Xứng Lư, tắc tự tánh xuất sanh nhất thiết pháp, thị thiện căn nghĩa. Tự tánh phú hữu nhất thiết pháp, thị phước đức nghĩa.

      (疏)稱理,則自性出生一切法,是善根義;自性富有一切法,是福德義。

(Sớ: Xứng Lư th́ tự tánh sanh ra hết thảy các pháp là ư nghĩa của thiện căn, tự tánh phong phú hết thảy các pháp là ư nghĩa của phước đức).

 

      Trong đoạn văn thuộc phần trước, đối với đoạn kinh văn “bất khả dĩ thiểu thiện căn, phước đức, nhân duyên, đắc sanh bỉ quốc” (chẳng thể do ít thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được sanh về cơi ấy), Liên Tŕ đại sư đă nói thiện căn là ǵ, phước đức là ǵ, “nhiều thiện căn, nhiều phước đức” là ǵ, Ngài đă giải thích rất cặn kẽ. Ở đây, trong đoạn này, lời chỉ dạy của Ngài mang tính cách hướng dẫn tiêu quy tự tánh, cũng chính là “tâm đắc tu học” như người thế gian chúng ta thường nói. Trong Phật pháp, [tâm đắc ấy] được gọi là “tiêu quy tự tánh”.

 

      (Diễn) Tự tánh xuất sanh nhất thiết pháp, thị thiện căn nghĩa giả, căn hữu xuất sanh nghĩa.

      (演)自性出生一切法,是善根義者,根有出生義。

(Diễn: Tự tánh xuất sanh hết thảy các pháp là ư nghĩa của thiện căn. “Căn” lại có nghĩa là “xuất sanh”).

 

      Kinh nói Căn () th́ Căn có nghĩa là căn bản. Thực vật có gốc, có rễ, th́ nó có thể đơm hoa, kết trái. V́ thế, Căn có ư nghĩa sanh trưởng. Ở đây nói “Căn có nghĩa là xuất sanh” tức là nói theo ư nghĩa “sanh trưởng”.

 

      (Diễn) Kim tứ thánh lục phàm, sắc tâm y chánh, tùng tự tánh sanh.

(演)今四聖六凡,色心依正,從自性生。

(Diễn: Nay tứ thánh, lục phàm, sắc, tâm, y báo, chánh báo đều sanh từ tự tánh).

 

      “Tứ thánh, lục phàm” là nói tới mười pháp giới. Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới do đâu mà có? Thực tại là t́m đến căn bản thật sự, nó cũng chính là “bản thể của vạn hữu trong vũ trụ” như triết học đă nói. “Thánh” là thánh nhân, “tứ thánh” (四聖) là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, và Phật. “Lục phàm” (六凡) là nói tới lục đạo. Mười pháp giới đều được bao gồm trọn vẹn [trong từ ngữ “tứ thánh lục phàm”]. Chánh báo là như vậy, y báo cũng chẳng ra ngoài lệ ấy. Y báo là hoàn cảnh sống của chúng ta, núi, sông, đại địa, cho đến hư không, đều là hoàn cảnh sống của chúng ta, những thứ ấy do đâu mà có? Từ trong tự tánh biến hiện. Do vậy, điều được mong cầu trong Phật pháp chính là cầu minh tâm kiến tánh. Tâm tánh là cái mà mỗi chúng sanh đều trọn đủ viên măn, thường nói là “tại thánh chẳng tăng, nơi phàm chẳng giảm”. Tự tánh của lũ phàm phu chúng ta xác thực là chẳng bị giảm thiểu chút nào; tự tánh của chư Phật cũng chẳng thể nhiều hơn chúng ta chút nào! Nói theo tự tánh, hoàn toàn là b́nh đẳng: Thể b́nh đẳng, tướng b́nh đẳng, tác dụng b́nh đẳng, chẳng có ǵ bất b́nh đẳng. Tuy b́nh đẳng, trong ấy có mê hay ngộ sai khác. Trừ mê và ngộ ra, chẳng có ǵ khác nhau. V́ chư Phật, Bồ Tát cũng ở trong mười pháp giới, phàm phu chúng ta cho đến các loài ngọ ngoạy, bay, ḅ, ngạ quỷ, địa ngục, vẫn sống trong mười pháp giới. Đă ngộ th́ sẽ tự tại, vui sướng; hễ mê bèn tạo nghiệp chịu báo, vấn đề xuất hiện từ mê hay ngộ. Giáo học Phật pháp nhằm dạy chúng ta phá mê khai ngộ. Mê chính là cái nhân của hết thảy phiền năo, khổ nạn; ngộ là cái nhân của hết thảy vui sướng. Chỉ cần phá mê khai ngộ bèn ĺa khổ được vui. “Ĺa khổ được vui” là nói về quả báo; phá mê khai ngộ là nói đến nhân duyên, phải thực hiện từ nhân duyên. V́ vậy, chúng ta biết chân tướng sự thật là [hết thảy các pháp] sanh từ tự tánh.

Chư Phật, Bồ Tát đă ngộ, ngộ ǵ vậy? Ngộ tự tánh. Hết thảy phàm phu mê th́ cũng là mê tự tánh. Trong tự tánh chẳng có mê hay ngộ, mê hay ngộ do con người! Chúng ta phải hỏi: “Mê là như thế nào? Chư Phật, Bồ Tát ngộ như thế nào?” Đó là điều then chốt. Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật dạy chúng ta: “Hết thảy chúng sanh đều do vọng tưởng, chấp trước, mà chẳng thể chứng đắc”. Vọng tưởng, chấp trước là mê. Chư Phật, Bồ Tát chẳng có vọng tưởng, mà cũng chẳng có chấp trước. Đại Thừa Khởi Tín Luận nói: “Một niệm bất giác, bèn có vô minh”. Kinh Lăng Nghiêm đă giảng rất rơ về hiện tượng mê: “Một niệm bất giác”. Do vậy có thể biết, một niệm bất giác c̣n có trước vô minh. Do một niệm bất giác, nên mới thành vô minh. Do vô minh, nên mới sanh ra ba tế tướng. Từ ba tế tướng mới biến hiện sáu thô tướng. Tam tế và lục thô mới diễn biến thành y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới. Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới do vậy mà có. Nếu nay chúng ta truy cứu: Cớ sao có một niệm bất giác? Nói thật ra, bất giác là “có” một niệm. Hễ có một niệm th́ gọi là bất giác. Nói kiểu này rất minh bạch, trong chân tâm bản tánh quyết định chẳng có một niệm. Quư vị khởi một niệm là bất giác, bèn mê. Chúng ta từ sáng đến tối niệm này nối tiếp niệm kia, chẳng biết là có bao nhiêu vọng niệm? [Muốn] ngưng dứt niệm cũng chẳng thể ngưng được, chuyện này rất rắc rối! V́ sao biến thành nông nỗi này? Ấy là v́ một niệm bất giác trong quá khứ cho đến nay đă dưỡng thành thói quen. Nếu nói khó nghe hơn th́ là đă “dưỡng thành thói quen dấy vọng tưởng”. Do vậy, vọng tưởng vĩnh viễn có muốn ngưng dứt cũng chẳng thể ngưng được, rắc rối xuất hiện từ chỗ này!

      Đức Phật dạy: Nếu quư vị muốn khôi phục bản lai diện mục, muốn thật sự triệt để giác ngộ, ắt phải đoạn sạch vọng niệm. Trong các vọng niệm, vọng niệm vi tế nhất được gọi là Vô Minh, vọng niệm thô hơn một chút bèn gọi là Trần Sa, lại thô hơn chút nữa bèn gọi là Kiến Tư phiền năo. Kiến Tư phiền năo, Trần Sa phiền năo, và Vô Minh phiền năo được gọi chung là “vọng niệm”, c̣n gọi là “vọng tưởng”. Vọng tưởng dấy lên, từ vi tế nhất dần dần cho đến cái thô nhất. Nay đức Phật dạy chúng ta muốn đoạn vọng niệm th́ chỉ có thể [dốc sức đoạn trừ] từ cái thô nhất, [rồi đến] cái ít thô hơn, [kế đó là cái] vi tế rồi đến cái vi tế nhất. Đoạn trừ như vậy đó. Giống như chúng ta mặc quần áo: Mặc lớp quần áo thứ nhất ở bên trong, lại mặc lớp khác ra ngoài; khi cởi th́ cũng phải cởi từ lớp ngoài cùng, cởi từng lớp một cho đến lớp trong cùng, chẳng thể cởi ngay từ lớp bên trong. Có cùng một đạo lư!

      Do đó, trước hết là phải đoạn Kiến Tư phiền năo. Nếu chư vị chẳng đổ công dốc sức nơi đây, niệm kinh sẽ là niệm uổng công, niệm Phật cũng chẳng thể văng sanh, cũng chẳng thu được hiệu quả. Trong vô lượng vô biên pháp môn của Phật pháp, các phương pháp và đường lối là để làm ǵ? Nhằm giúp chúng ta đoạn phiền năo, phá trừ vọng tưởng và chấp trước. Bởi lẽ, Kiến Tư phiền năo là thô nhất, đoạn được Kiến phiền năo, sẽ chứng quả Tu Đà Hoàn trong Tiểu Thừa. Do quư vị đă phá phiền năo, nên dự vào ḍng Thánh. Quả Tu Đà Hoàn, nói thông thường theo Giáo Hạ, sẽ là Vị Bất Thoái. Tuy chẳng ra khỏi tam giới, nhưng từ nay trở đi, người ấy quyết định chẳng đọa trong ba đường ác, hạn mực thấp nhất sẽ là nhân đạo, qua lại trong cơi trời hay chốn nhân gian. Kiến phiền năo là ǵ? Tư phiền năo là ǵ? Nói theo kiểu hiện thời, Kiến () là kiến giải. Quư vị có cách nh́n sai, đă thấy sai bét. Đó gọi là Kiến Hoặc. Tư Hoặc (思惑) là [sai lầm nơi] tư tưởng, quư vị đă suy nghĩ sai bét. Do vậy có thể biết, đă đoạn Kiến Tư phiền năo, đối với vũ trụ và nhân sinh, quư vị sẽ có cách nh́n và cách nghĩ rất chánh xác, chẳng sai lầm. Đoạn Tư Hoặc bèn chứng quả A La Hán. Trong pháp môn Niệm Phật, đoạn sạch Kiến Hoặc bèn chứng Sự nhất tâm bất loạn, đó là hạ phẩm. Nếu đoạn Tư Hoặc, phẩm vị bèn cao, chứng thượng phẩm Sự nhất tâm bất loạn.

      Nếu chúng ta chia Sự nhất tâm thành ba phẩm thượng, trung, hạ; Tiểu Thừa Tu Đà Hoàn là hạ phẩm, Tiểu Thừa Nhị Quả và Tam Quả là trung phẩm, Tứ Quả A La Hán là thượng phẩm. Nhưng pháp môn [Niệm Phật] này hết sức đặc thù, xét theo phương diện đoạn chứng, tức là xét theo tầng cấp đoạn phiền năo, sẽ giống như người Tiểu Thừa, nhưng xét theo thiện căn, phước đức, trí huệ và đức năng th́ hàng Tiểu Thừa chẳng mong hít bụi kịp! Chẳng thể sánh bằng được! V́ lẽ đó, pháp môn này thù thắng, vượt trỗi hàng Nhị Thừa quá nhiều. Nếu tiến hơn bước nữa, Trần Sa phiền năo cũng đoạn hết, lại phá một phẩm vô minh, chứng đắc Lư nhất tâm bất loạn. Lư nhất tâm cũng có ba phẩm thượng, trung, hạ. Hạ phẩm là Sơ Trụ Bồ Tát, thượng phẩm là Đẳng Giác Bồ Tát. Kinh Hoa Nghiêm nói bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ, c̣n nói theo Tịnh Độ sẽ đều là [những vị đă] chứng đắc Lư nhất tâm bất loạn. Do vậy có thể biết, bất luận là Sự nhất tâm hay Lư nhất tâm, đối với người thật sự chứng đắc, công phu của mỗi người cạn hay sâu vẫn khác nhau! Nói theo Đại Thừa Phật pháp, Lư nhất tâm có bốn mươi mốt tầng cấp, thứ tự cạn hay sâu khác biệt. Lư nhất tâm là như thế, mà Sự nhất tâm cũng chẳng phải là ngoại lệ. Do vậy có thể biết, chúng ta nói “công phu thành phiến” tức là chưa thể phá một phẩm phiền năo. Thật sự đắc nhất tâm, tối thiểu là đoạn hết Kiến Hoặc, [tức là đoạn hết] tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc trong tam giới th́ mới thật sự thuộc về Sự nhất tâm bất loạn.

      Chúng ta biết chân tướng sự thật này, phải nghiêm túc tự kiểm điểm bản thân: Chúng ta niệm Phật, niệm kinh, tu hành, cớ sao công phu chẳng đắc lực? Phải t́m cho ra nguyên nhân ấy. Chuyện này giống như chữa bệnh, t́m cho ra nguyên nhân gây bệnh, sau đó mới có thể cắt thuốc đúng theo chứng bệnh, [như vậy] th́ mới có thể đạt công hiệu! Chúng ta xem Cao Tăng Truyện, hoặc xem Cư Sĩ Truyện trong Đại Tạng Kinh, [sẽ thấy] xưa kia, tại gia, xuất gia, nam chúng, nữ chúng tu hành, người căn tánh nhạy bén, dăm ba năm bèn khai ngộ, cũng có người chứng quả. Người căn tánh kém hơn đôi chút th́ mười năm hay tám năm cũng có thành tựu. V́ sao chúng ta tu suốt đời mà chẳng thể thành tựu? Nguyên nhân ở chỗ nào? T́m ra nguyên nhân ấy chẳng khó, tuyệt đại đa số người tu hành chúng ta trong hiện thời nhắm đến mục đích là cầu phước báo nhân thiên, cầu điều này. Cổ nhân tu hành nhằm mục đích đoạn Kiến Tư phiền năo, họ có mục đích khác hẳn! Cùng niệm Phật như nhau, nhưng họ niệm Phật nhằm niệm cho hết vọng tưởng, chấp trước, hoặc chế ngự chúng, mục đích của người ta là ở chỗ này! Nay chúng ta niệm Phật, mong mỏi sẽ được Phật, Bồ Tát phù hộ chúng ta thăng quan phát tài, khác hẳn! V́ vậy, thành tựu của chúng ta chẳng bằng cổ nhân.

      Niệm Phật, Bồ Tát có thể thật sự thăng quan phát tài hay chăng? Nếu thật sự linh như vậy, cứ niệm Phật, Bồ Tát sẽ thăng quan phát tài, quư vị c̣n phải đến trường học hành để làm ǵ nữa? Chẳng cần thiết! C̣n phải làm lụng vất vả để làm ǵ? Niệm Phật, Bồ Tát bèn có thể phát tài, quư vị c̣n phải đi làm vất vả chi nữa? Do đó, phải hiểu: Bất quá chỉ là một chút an ủi về mặt tinh thần mà thôi, giống như chích thuốc tê vậy, hễ tan thuốc rồi th́ có hữu dụng ǵ hay không? Một tí tác dụng cũng chẳng có. Nhưng những điều đức Phật đă dạy trong kinh đều là lời thật, đức Phật chẳng nói dối. “Trong cửa nhà Phật, có cầu ắt ứng”. Đáng tiếc là chúng ta nghe câu này chỉ hiểu bề ngoài, chẳng lănh hội nội dung chân thật. “Trong cửa nhà Phật, có cầu ắt ứng” th́ cách cầu như thế nào? V́ sao có cầu ắt ứng? V́ tự tánh có thể sanh ra vạn pháp, nên cầu nơi cửa Phật là cầu ở nơi đâu? Cầu từ ngay trong tự tánh. Chẳng phải là cầu từ bên ngoài, cầu từ bên ngoài sẽ chẳng đạt được. Quư vị cầu nơi Phật, Bồ Tát, Phật bên ngoài, tượng Phật, Bồ Tát bằng đất nặn, gỗ khắc, bản thân [những tượng ấy] khó thể giữ vững, làm sao có thể phù hộ cho quư vị cho được? Phải cầu từ trong tự tánh, sẽ đích xác là “có cầu ắt ứng”, chẳng phải là giả! V́ thế, cổ nhân tu hành thật sự đổ công dốc sức nơi tự tánh, c̣n người học Phật chúng ta trong hiện thời chuyên môn đổ công dốc sức bề ngoài, dụng công nơi h́nh thức, chẳng hướng đến tự tánh để cầu. Đấy là nguyên nhân căn bản.

      Trong các buổi giảng, tôi thường kính khuyên các đồng tu, nhất định phải hiểu rơ chân tướng sự thật này, phải trừ sạch chướng ngại trên đường Bồ Đề. Đối với chướng ngại, chúng tôi không nói tới chướng ngại vi tế. V́ sao? Chúng ta chẳng làm được. Chúng tôi nói những thứ trước mắt, những thứ nặng nề, thô thiển nhất! Trong là phải đoạn phiền năo, ngoài là chẳng bị dụ dỗ, mê hoặc, công phu của chúng ta mới có thể đắc lực. Phiền năo bên trong gọi là Tam Độc, [kể cả mạn và nghi sẽ là] tham, sân, si, mạn, nghi. Tham, sân, si là Tam Độc, phải trừ khử những thứ ấy. Dụ dỗ, mê hoặc bên ngoài lớn nhất là tài, sắc, danh, lợi. Tài, sắc, danh, lợi là tứ đại ma vương. Hằng ngày quư vị ở trong ḷng bàn tay của ma vương, trốn chẳng khỏi ḷng bàn tay của hắn, há c̣n có thành tựu ǵ nữa ư? Quư vị làm sao có thể thoát khỏi lục đạo luân hồi? Làm sao có thể văng sanh cho được? Do đó, ngàn muôn phần phải ghi nhớ: Ngoài là chẳng bị dụ dỗ, mê hoặc, trong là phải diệt trừ tham, sân, si; sau đấy mới khôi phục tự tánh, tự tánh có thể sanh ra vạn pháp.

      Thù thắng nhất trong vạn pháp, đó cũng là điều chúng ta hằng ngày mong cầu, có thể sanh trí huệ, có thể sanh thiện căn, có thể sanh phước đức, đấy đều là những điều chúng ta mong cầu. Những điều ấy đều phải cầu từ cái tâm thanh tịnh th́ mới có thể cầu được. Ĺa khỏi tâm thanh tịnh, quư vị ngẫm xem, tâm độc địa dường ấy, những thứ do nó sanh ra toàn là có chất độc, lẽ đâu có thể sanh ra những thứ tốt lành cho được? Những thứ được sanh ra là Thập Ác, Ngũ Nghịch, sanh ra những thứ đó. Nếu dẹp trừ Tam Độc, sẽ sanh ra Thập Thiện, khác hẳn!

 

      (Diễn) Dĩ tùng Lư cụ khởi Sự tạo cố.

      ()以從理具起事造故。

      (Diễn: V́ từ Lư sẵn đủ mà dấy lên sự tạo tác nơi Sự).

 

      “Lư” () là lư luận, phàm hết thảy mọi sự đều nương theo Lư mà sanh. Rời ĺa đạo lư, chẳng thể nào có sự tướng. Mỗi sự tướng đều có một đạo lư tồn tại [trong ấy]. Khoa học hiện thời nói “vật lư”, [tức là]: Hễ là vật th́ vật chất luôn có đạo lư, luôn có một cái Lư. Nhưng các nhà Vật Lư Học trên thế giới hiện thời nghiên cứu lư của hết thảy các vật, chỉ là nghiên cứu hời hợt bề ngoài, chỉ thấy tầng bên ngoài, chứ họ vẫn chưa phát hiện cái lư tinh vi, sâu xa thật sự! Bất quá chúng ta nh́n vào sự thành tựu của họ, cũng chẳng thể không bội phục, họ cũng có thành tựu khá khả quan, nhưng vẫn chưa thể t́m được căn bản thật sự. Nếu họ t́m được căn bản thật sự, họ sẽ thành Phật, thành Bồ Tát, sẽ khác hẳn, sẽ mới có thể thật sự giải quyết vấn đề.

 

      (Diễn) Tự tánh phú hữu nhất thiết pháp, thị phước đức giả. Phước đức hữu phú hữu nghĩa. Kim tứ thánh, lục phàm, y, chánh, sắc, tâm, tự tánh bổn cụ, dĩ bỉ Sự tạo do Lư cụ cố.

()自性富有一切法,是福德者,福德有富有義,今四聖六凡,依正色心,自性本具,以彼事造由理具故。

(Diễn: “Tự tánh giàu có hết thảy các pháp là phước đức”: Phước đức có ư nghĩa “giàu có”. Nay tứ thánh, lục phàm, y báo, chánh báo, sắc, tâm, tự tánh vốn trọn đủ, tạo tác nơi mặt Sự là do Lư sẵn trọn đủ vậy).

 

      Hai cách nói đều cùng diễn tả một đạo lư. Một là nói theo phương diện “có thể sanh” (năng sanh), nên gọi là thiện căn. Một đằng là nói theo phương diện “vốn sẵn trọn đủ” (bổn lai cụ túc). Câu cuối cùng hay lắm. Cuối cùng, Ngài trích dẫn hai câu nói từ trong Lục Tổ Đàn Kinh.

 

      (Sao) Hà kỳ tự tánh, năng sanh vạn pháp; hà kỳ tự tánh, bổn tự cụ túc.

      ()何期自性,能生萬法;何期自性,本自具足。

      (Sao: Nào ngờ tự tánh có thể sanh ra vạn pháp, nào ngờ tự tánh vốn tự trọn đủ).

 

      Lục Tổ đại sư nói như vậy. Ư nghĩa “có thể sanh” chính là ư nghĩa thiện căn. Ư nghĩa “trọn đủ” là ư nghĩa phước đức. Tự tánh chẳng có ǵ không trọn đủ. Trí huệ trọn đủ, đức năng trọn đủ, tài nghệ trọn đủ. Lại thưa cùng quư vị, các thứ thọ dụng vật chất cũng trọn đủ. Mọi người cầu tài, tài cũng trọn đủ, chẳng có ǵ không trọn đủ. Nếu quư vị tu từ nơi tự tánh, chẳng có ǵ không trọn đủ! Thứ ǵ cũng đều trọn đủ. V́ sao? Hết thảy vật chất đều do tự tánh biến hiện, tự tánh là bản thể của vạn pháp. V́ vậy, từ nơi tâm tánh mà nói đến thiện căn và phước đức. Do vậy có thể biết, thiện căn và phước đức của mỗi người chúng ta chẳng hai, chẳng khác với chư Phật, quyết định chẳng thể nói chính ḿnh chẳng có thiện căn, chẳng có phước đức. Chúng ta tuy có, [không những có mà c̣n] b́nh đẳng, chẳng hai với đức Phật, vấn đề hiện thời là thiện căn và phước đức của chúng ta chẳng thấu lộ, tuy có mà chẳng khởi tác dụng! Trong kinh luận, đức Phật đă dạy: Chúng ta tuy trọn đủ Tánh Đức, nhưng khuyết thiếu Tu Đức. Ắt cần phải dùng Tu Đức để hiển lộ, khiến cho Tánh Đức khai hiển th́ chúng ta sẽ có thể thọ dụng. “Tu” là tu chỉnh, sửa chữa, sửa đổi hết thảy những chỗ trái nghịch Tánh Đức, khiến cho tư tưởng, kiến giải, và hành vi của chúng ta đều có thể tương ứng với Tánh Đức; như thế th́ Tánh Đức sẽ dần dần có thể khai hiển.

      Tu Đức có tiêu chuẩn hay không? Chẳng có tiêu chuẩn. Chúng ta tu theo cách nào? Có tiêu chuẩn! Kinh luận của đức Phật là tiêu chuẩn tốt nhất. Trong hết thảy các kinh, nhất là kinh này và kinh Vô Lượng Thọ, tức là Tiểu Bổn và Đại Bổn, kinh Vô Lượng Thọ là Đại Bổn, kinh A Di Đà là Tiểu Bổn. Đại Bổn và Tiểu Bổn là tiêu chuẩn thù thắng nhất trong Phật pháp. Nương theo tiêu chuẩn ấy để tu, quyết định thành tựu trong một đời. Cách tu như thế nào? [Điều ấy sẽ được tŕnh bày] trong khoa tiếp theo.

 

      Nhị, thị chánh hạnh.

      二、示正行。

(Hai, nêu bày chánh hạnh).

 

Dạy chúng ta phương pháp tu hành, chương này hết sức quan trọng. Đoạn lớn này giảng về cách tu hành; phần trước giảng về trợ hạnh, nay bèn giảng về chánh hạnh. Chánh hạnh là nhân, trợ hạnh là duyên; trước hết, ắt phải hội đủ các điều kiện tu hành, [tức là] thiện căn, phước đức, nhân duyên. “Chẳng thể do chút thiện căn, phước đức, nhân duyên” [mà được sanh về cơi ấy], những điều kiện này quư vị đều hội đủ bèn có thể bắt đầu tu. Tu chứng chẳng dễ dàng! Chúng ta chẳng hội đủ điều kiện tu hành, mà đă toan bắt đầu thực hiện, tu kiểu nào cũng đều chẳng đạt được kết quả chi hết, công phu dự bị chưa được thực hiện tốt đẹp mà! Những điều đă nói trong phần trước toàn là công phu dự bị, nay nói đến chánh hạnh. Chúng ta hăy xem kinh văn:

 

      (Kinh) Xá Lợi Phất! Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, văn thuyết A Di Đà Phật, chấp tŕ danh hiệu, nhược nhất nhật, nhược nhị nhật, nhược tam nhật, nhược tứ nhật, nhược ngũ nhật, nhược lục nhật, nhược thất nhật, nhất tâm bất loạn.

      ()舍利弗。若有善男子。善女人。聞說阿彌陀佛。執持名號。若一日。若二日。若三日。若四日。若五日。若六日。若七日。一心不亂。

(Kinh: Xá Lợi Phất. Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, nghe nói A Di Đà Phật, bèn chấp tŕ danh hiệu hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, nhất tâm bất loạn).

 

      Đoạn kinh văn này dạy chúng ta cách tu hành, [nói đến] chánh hạnh. Chánh hạnh là ǵ? “Chấp tŕ danh hiệu”, danh hiệu là “A Di Đà Phật”. Liên Tŕ đại sư niệm Phật bèn niệm bốn chữ, chỉ niệm A Di Đà Phật, không niệm Nam-mô. Ngài dạy kẻ khác niệm Phật niệm sáu chữ, Nam-mô A Di Đà Phật. Người khác hỏi Ngài “do lư do nào?”, Ngài bảo: “Ta quyết định cầu sanh Tịnh Độ trong một đời này, cho nên chẳng cần tới những lời lẽ khách sáo!” Nam-mô là từ ngữ khách sáo! Chẳng cần phải khách sáo, niệm ngay A Di Đà Phật. V́ kinh nói “chấp tŕ danh hiệu”, “danh hiệu” là bốn chữ A Di Đà Phật. V́ sao dạy người khác niệm sáu chữ? Họ chẳng mong văng sanh thế giới Cực Lạc, thêm vào chữ Nam-mô, khách sáo một chút. Nam-mô có nghĩa là Quy Y, [nam-mô A Di Đà Phật] là “quy y A Di Đà Phật”. Nam-mô c̣n có nghĩa là Cung Kính, mang ư nghĩa lễ kính. Lễ kính A Di Đà Phật, kết thiện duyên với A Di Đà Phật. Đời này chẳng thể văng sanh, đợi tới nhiều đời, nhiều kiếp sau, cũng có lẽ [chờ tới khi] duyên ấy đă chín muồi, lại dùng cái nhân ấy để làm chánh nhân văng sanh.

 

      (Sớ) Thừa thượng “đa thiện, đa phước, năi sanh bỉ quốc”.

      ()承上多善多福,乃生彼國。

      (Sớ: Nối tiếp ư “nhiều thiện, nhiều phước th́ mới sanh về cơi ấy” trong phần trước).

 

      Trong phần trên đă nói “nhiều thiện căn, nhiều phước đức”, đó là duyên. Hội đủ những điều kiện ấy th́ mới có thể văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới.

 

      (Sớ) Nhi thiện căn nan thực, phước đức nan tu, huống phục vân đa, lũy kiếp cù lao, mạc chi năng biện, như Bảo Tích thập tâm, Hoa Nghiêm thập nguyện đẳng.

      ()而善根難植,福德難修,況復云多,累劫劬勞,莫之能辦,如寶積十心,華嚴十願等。

(Sớ: Nhưng thiện căn khó gieo, phước đức khó tu, huống lại c̣n là nhiều! Trải bao kiếp nhọc nhằn mà chẳng thể làm được, như mười tâm trong kinh Bảo Tích, mười nguyện trong kinh Hoa Nghiêm v.v…).

 

      Nói lên thiện căn và phước đức xác thực là khó tu.

 

      (Sớ) Kim hữu nhất pháp, trực tiệp giản dị, tức vi đa thiện, đa phước, cố hiển tŕ danh công đức thù thắng.

      ()今有一法,直捷簡易,即為多善多福,故顯持名功德殊勝。

(Sớ: Nay có một pháp thẳng chóng, đơn giản, dễ dàng để đạt được nhiều thiện, nhiều phước, tỏ rơ pháp tŕ danh có công đức thù thắng).

 

      Hiện thời có một phương pháp để tu nhiều thiện căn, nhiều phước đức rất dễ dàng. Pháp dễ dàng là như thế nào? Niệm A Di Đà Phật, thiện căn và phước đức của quư vị thảy đều đầy đủ. Nếu chẳng niệm A Di Đà Phật, tu thiện căn và phước đức hết sức khó khăn, tỏ rơ công đức thù thắng chẳng thể nghĩ bàn của câu Phật hiệu. Nói thật thà, câu Phật hiệu này tuy rất dễ niệm, [chỉ là] “Nam-mô A Di Đà Phật”, có mấy ai chịu niệm? Không chịu niệm! Người thật sự chịu niệm câu Phật hiệu sẽ như kinh Vô Lượng Thọ đă nói: Nhất định là từ đời quá khứ trong vô lượng kiếp cho tới nay, thiện căn do người ấy tu tập, tích lũy nay đă chín muồi, tức là: Thiện căn và phước đức đă chín muồi, nay lại được mười phương chư Phật Như Lai âm thầm gia tŕ, che chở, đó là nhân duyên. Mười phương hết thảy chư Phật Như Lai gia tŕ, nhiều nhân duyên đấy nhé! Do trong đời quá khứ có nhiều thiện căn, nhiều phước đức, người ấy mới nghe một câu A Di Đà Phật bèn sanh tâm hoan hỷ, khăng khăng một mực thật thà niệm măi, chẳng phải là chuyện đơn giản! V́ thế, phàm là người niệm Phật văng sanh, tuyệt đối chẳng phải là tu trong một đời, mà là đă tu tập, tích lũy nhiều đời, nhiều kiếp, tới đời này chín muồi.

 

      (Sao) Thiện căn nan thực giả, như tiền Thân Tử phát Đại Thừa tâm, nhân Bà-la-môn khất nhăn thoái thất đẳng.

      ()善根難植者,如前身子發大乘心,因婆羅門乞眼退失等。

(Sao: “Thiện căn khó gieo”: Như trước kia, ngài Thân Tử phát tâm Đại Thừa, do bị Bà-la-môn xin mắt mà thoái thất v.v…).

 

      Thân Tử là tôn giả Xá Lợi Phất, [câu chuyện của Ngài] nói rơ: Tu hành chẳng dễ dàng! Tôn giả Xá Lợi Phất thị hiện làm một vị Tăng Tiểu Thừa. Ngài nghe Đại Thừa Phật pháp bèn hết sức hâm mộ, phát tâm muốn học theo Bồ Tát, muốn hành Bồ Tát đạo. Bồ Tát đạo là “có thể bỏ điều khó bỏ”, Ngài phát tâm bằng ḷng bố thí, bằng ḷng thí xả. Khi ấy, người cơi trời biến hóa đến khảo nghiệm Ngài, biến thành một người mắc bệnh, bệnh t́nh rất đáng thương, khóc lóc trên đường. Ngài Xá Lợi Phất gặp kẻ ấy, bèn nói: “Ngươi gặp khó khăn ǵ? Ta hành Bồ Tát đạo, có thể giúp đỡ ngươi”. Người bệnh ấy nghe nói, rất hoan hỷ, thưa: “Nay tôi đang mắc bệnh nặng, tuy có thuốc, nhưng chẳng có thứ để dẫn thuốc”. Tôn giả hỏi: “Ngươi cần vật dẫn thuốc như thế nào?” Người ấy nói: “Phải dùng một con mắt của người đă chứng quả A La Hán để dẫn thuốc”. Tôn giả nói: “Ta đă chứng A La Hán, ta sẽ thí xả một con mắt cho ngươi”. Ngài liền móc một con mắt ra cho. Sau khi [tôn giả] móc xong, kẻ ấy nói: “Sai rồi! Ta cần con mắt trái, ông móc con mắt phải”. Ngài Xá Lợi Phất nói: “Sao ngươi không nói sớm? Ngươi nói sớm th́ ta đă c̣n giữ được một con mắt, nay th́ đến nỗi cả hai con mắt đều chẳng c̣n”. Do muốn hành Bồ Tát đạo, bất đắc dĩ, lại móc con mắt kia ra cho kẻ ấy. Bệnh nhân ngửi rồi nói: “Mùi vị rất khó ngửi, chẳng thể dùng làm đồ dẫn thuốc được, thôi đi!” Vứt đi, chẳng cần nữa! Ngài Xá Lợi Phất nghe vậy, rất tức giận: “Thôi đi! Ta vẫn hành Tiểu Thừa, chẳng hành Bồ Tát đạo”. Câu chuyện là như thế, v́ bị xin mắt mà ngă ḷng, vẫn là làm A La Hán hay hơn, chẳng làm Bồ Tát nữa! Chuyện này nói rơ tu tập, tích lũy thiện căn khó khăn, thật sự chẳng dễ dàng! Đây gọi là “nội tài bố thí”, nay chúng ta vật ngoài thân c̣n chưa buông xuống được, c̣n có thể dùng nội tài bố thí được ư? Quư vị hăy nghĩ thử xem, há dễ dàng ư? Chẳng phải là chuyện đơn giản! Nói th́ rất dễ nghe, xác thực là chẳng dễ ǵ thực hiện!

      Chư vị nhất định phải biết, đức hạnh của chính ḿnh chưa thật sự kiến lập th́ phát tâm luôn luôn là chẳng chân thật. Ngỡ chính ḿnh đă phát đại tâm, thật ra là “lộ thủy đạo tâm” (露水道心: đạo tâm mong manh như sương sớm), gặp phải cảnh duyên [trái nghịch] bèn lui mất. Nếu c̣n xen tạp tiếng tăm, lợi dưỡng, sẽ chẳng phải là thiện tâm, mà là ác tâm. Đấy chẳng phải là hoằng pháp lợi sanh, mà là buôn bán Như Lai, mượn chiêu bài nhà Phật để cầu tiếng tăm, lợi dưỡng, coi Phật pháp như công cụ để cầu danh lợi, tội nghiệp hết sức to lớn, quả báo chắc chắn là trong tam đồ. Quư vị bèn hiểu: Tu hành thật sự không dễ dàng. Bởi lẽ, tu hành trong hiện tại th́ nói thật thà, người xuất gia chẳng bằng kẻ tại gia. Người tại gia dùng Phật pháp để đạt danh lợi c̣n ít, chẳng dễ dàng cho lắm! Hàng xuất gia dùng Phật pháp làm công cụ cầu danh lợi dễ dàng, cũng đông lắm! Thời cổ, người ta xuất gia bèn thật sự tu hành, họ v́ liễu sanh tử, thoát tam giới. Người thời nay có quan niệm khác hẳn! Sanh tử là chuyện lớn, vô thường nhanh chóng, nếu kẻ xuất gia chẳng giữ bổn phận, c̣n muốn làm những thứ ngoài bổn phận, lầm lẫn đặc biệt to tát, cớ ǵ cứ phải xuất gia?

      Học Phật phải học theo những chuyện thuộc về bổn phận trong Phật pháp. Khổng lăo phu tử nói: “Quân tử vụ bổn, bổn lập nhi đạo sanh” (Người quân tử chú trọng cái gốc, sau khi gốc đă lập, đạo bèn sanh). Bổn phận của người xuất gia là tu hành, trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh, đó là căn bản của người xuất gia. Từ xưa tới nay, Phật môn chưa từng lập Phật Học Viện. Hiện thời có rất nhiều Phật Học Viện mà chẳng xuất hiện nhân tài! Xưa kia, chẳng lập Phật Học Viện, nhân tài liên tục xuất hiện! Nhân tài chẳng xuất thân từ Phật Học Viện, mà xuất hiện ra sao? Do họ ngộ được cái gốc bèn xuất hiện. Bản thân họ tu hành là trước đoạn phiền năo, sau học pháp môn. Cổ đức bồi dưỡng nhân tài sử dụng phương thức khác với chúng ta trong hiện thời. Nhân tài do thầy chọn lựa từ học tṛ. Cách chỉ dạy phổ biến là dạy quư vị hăy đoạn phiền năo. Nghiêm túc đoạn phiền năo, đă đoạn có hiệu quả kha khá, thầy sẽ chọn kẻ ấy ra và bảo: “Ngươi có thể học pháp môn”. [Đối với kẻ] phiền năo tập khí c̣n rất nặng, [thầy sẽ răn dạy]: “Nay ngươi c̣n chưa thể học. V́ sao? Chẳng phải là pháp khí!” Chẳng phải là thầy có ḷng thiên vị!

      Trong Phật môn thường có một tỷ dụ: Ở đây, thầy có đề-hồ, đó là một món ngon nhất được luyện từ sữa, [thầy bảo]: “Nay ta cho các con, các con phải mang đồ đến đựng”. Tôi đem bát đến đựng, trước kia bát ấy đựng thuốc độc, thầy thấy cái bát ấy chẳng sạch, chẳng cho: “Hăy rửa đi! Rửa sạch thuốc độc th́ thầy mới cho con”. V́ sao? Trong bát có chất độc, đựng đề-hồ trong bát, đề-hồ liền biến thành thuốc độc. Quư vị có hiểu ư nghĩa này hay không? Ư nghĩa rất sâu! Chẳng gột sạch sẽ Tam Độc phiền năo trong tâm mà quư vị học Phật pháp, Phật pháp đều biến thành độc tố. Độc tố ǵ vậy? Sở Tri Chướng. Trong bộ Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao, khi giảng về tựa đề kinh, Thanh Lương đại sư đă nói: “Chẳng đoạn phiền năo mà tu học pháp môn, cái đạt được là tà tri tà kiến”. Cớ sao là tà tri tà kiến? Trong tâm quư vị có tham, sân, si. Tham, sân, si biến Phật pháp thành tà tri tà kiến. Sau khi dẹp trừ tham, sân, si, Phật pháp sẽ là chánh tri, chánh kiến, Phật tri, Phật kiến. Quư vị bèn hiểu đoạn phiền năo có tầm mức trọng yếu dường ấy! Chẳng đoạn phiền năo, chẳng có tư cách học pháp môn.

      Tứ Hoằng Thệ Nguyện có thứ tự, trước hết bảo quư vị hăy phát tâm. Sau khi đă phát tâm bèn tu hành; phát tâm là phát nguyện, nguyện để hướng dẫn, giống như kẻ dẫn đường. Phát ra nguyện ấy “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, đồng tâm đồng nguyện với Phật. Nếu muốn độ chúng sanh th́ thực hiện từ nơi đâu? Trước hết là phải đoạn phiền năo. “Phiền năo vô tận thệ nguyện đoạn”. Sau khi đă đoạn phiền năo rồi mới học pháp môn, sẽ chẳng sai! Người hiện thời học Phật chắc chắn là chưa đoạn phiền năo, đă ngay lập tức toan học pháp môn. Càng học nhiều pháp môn, càng kiêu căng, ngă mạn, tham, sân, si tăng trưởng giống hệt [như sự tăng trưởng tri kiến về] pháp môn. Thanh Lương đại sư nói chẳng sai tí nào. V́ sao? Kẻ ấy chẳng có bản lănh trong Phật pháp th́ c̣n tạo nghiệp ít; đă hiểu đôi chút Phật pháp bèn tạo nghiệp to đùng. Nói cách khác, trong tương lai, người ấy đọa địa ngục cũng sâu!

      Chúng ta học Phật phải lấy cổ đại đức làm gương, chớ nên nh́n theo người hiện thời. Thấy người hiện thời học như thế nào, chúng ta học theo họ, họ vào địa ngục, ta cũng theo họ đọa địa ngục. Đó là ngu si! Học theo cổ nhân sẽ chẳng sai. Thật sự phát tâm muốn tiếp nối huệ mạng của Phật, hoằng pháp lợi sanh, nhất định phải thực hiện từ đoạn phiền năo, phải xa ĺa phiền năo (tức là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước). Đoạn càng sạch càng hay, quyết định chớ nên tăng trưởng. Những thứ này mỗi năm một ít hơn, mỗi tháng một ít hơn, tức là quư vị công phu đắc lực. Tuyệt đối chẳng phải là quư vị nghiên cứu kinh luận mỗi ngày một nhiều hơn, giảng diễn ngày càng hay hơn. Đó là giả, là gạt người, chẳng thật! “Thật” là phiền năo tập khí mỗi ngày một giảm thiểu, trí huệ và đức năng ngày càng tăng trưởng. Bồ Tát có Ngũ Đức và Lục Ḥa. Lục Ḥa là Lục Ḥa Kính, Ngũ Đức là như trong Nho gia, các môn đệ đă tán thán Khổng lăo phu tử là “ôn, lương, cung, kiệm, nhượng”, đó là Ngũ Đức! [Tức là tán thán Khổng Tử có các phẩm đức] ôn hậu (溫厚: ôn ḥa, đôn hậu), thiện lương, khiêm cung (謙恭: khiêm hư, cung kính), nhường nhịn, tiết kiệm, đấy là các đức của Bồ Tát. Chúng ta phải thực hiện từ chỗ này, phải nghiêm túc tu học từ chỗ này.

 

      (Sao) Phước đức nan tu giả.

      ()福德難修者。

(Sao: Phước đức khó tu).

 

      Thiện căn chẳng dễ dàng, khó tu. Phước đức cũng chẳng dễ dàng.

 

      (Sao) Như Niết Bàn tam thập tứ kinh vân.

      ()如涅槃三十四經云。

      (Sao: Như kinh Niết Bàn, quyển ba mươi tư có nói).

 

      Kinh Niết Bàn, quyển ba mươi bốn…

 

      (Sao) Ngũ phẩm tâm tu Thập Thiện, vị hạ, trung, thượng, thượng trung, thượng thượng, các thập thiện nhi thành ngũ thập, thỉ tu, chung tu, phương thành bách phước.

()五品心修十善,謂下、中、上、上中、上上,各十善而成五十,始修終修,方成百福。

(Sao: Cái tâm tu Thập Thiện chia thành năm phẩm, tức là hạ, trung, thượng, thượng trung, thượng thượng. Mỗi điều trong Thập Thiện [ứng hợp với năm tâm ấy] bèn thành năm mươi, [năm mươi điều ấy lại ứng với] tu lúc ban đầu và tu lúc rốt cục nên mới trở thành trăm phước).

 

      Hiện thời Tết đến, chúng ta đều chúc kẻ khác trăm phước. Trăm phước do đâu mà có? Trăm phước phát xuất từ Phật pháp. Do đâu mà có trăm phước, kinh Niết Bàn đă nói rất rơ ràng.

 

      (Sao) Tắc phước chi bất dị tu, minh hỹ.

     ()則福之不易修明矣。

      (Sao: Rơ ràng là phước chẳng dễ tu!)

 

      Tu phước cũng khó! Nhưng chỗ tinh yếu của phước đức là Thập Thiện, tức là quư vị đă dùng cái tâm như thế nào để tu Thập Thiện? Tâm chia thành năm bậc: Thượng thượng, thượng trung, thượng, trung, hạ. Quư vị dùng tâm loại nào để tu Thập Thiện Nghiệp Đạo? Chúng ta là tâm ǵ, phải hiểu điều này. Tâm thanh tịnh hoàn toàn nhằm lợi ích chúng sanh, đó là thượng thượng tâm. Theo Liễu Phàm Tứ Huấn, cư sĩ Viên Liễu Phàm cầu công danh phú quư cho chính ḿnh, nên tu Thập Thiện, đó là hạ tâm. V́ thế, phước cũng chẳng phải là dễ tu! Thoạt đầu, cư sĩ Liễu Phàm phát tâm làm ba ngàn chuyện lành, mười năm mới làm viên măn, quư vị thấy khó lắm! Sau khi đă viên măn, lại phát tâm làm ba ngàn việc thiện, ba năm mới làm viên măn. Phải có cái tâm thường hằng, phải có nghị lực, phải nghiêm túc đoạn ác tu thiện.

      “Bảo Tích thập tâm” (Mười tâm theo kinh Bảo Tích): Câu này nhằm giải thích “huống phục vân đa” (huống hồ nói là “nhiều”). Thiện căn và phước đức khó tu, kinh lại c̣n nói là “nhiều”! Ít là không được rồi! “Lũy kiếp cù lao, mạc chi năng biện” (Nhọc nhằn trải bao kiếp, chẳng thể thực hiện). Câu này là thật, tu chẳng thành công! Trong đời này, chúng ta thấy người thật sự tiếp nhận A Di Đà Phật, niệm Phật văng sanh, đó là do thiện căn và phước đức đă tu tập, tích lũy từ vô lượng kiếp, “lũy kiếp” hăy c̣n quá ít! Nh́n từ kinh Vô Lượng Thọ, kinh nói vương tử A Xà Thế và năm trăm đại trưởng giả trong đời quá khứ trụ Bồ Tát đạo, cúng dường bốn trăm ức Phật. [Cúng dường] bốn trăm ức Phật là [tu tập trong] bao nhiêu kiếp? Thiện căn như vậy, vẫn chẳng thể văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Thiện căn và phước đức của họ như vậy chưa đáng coi là nhiều! V́ từ kinh ấy, chúng ta đă thấy rất minh bạch: Họ nghe đức Phật giảng kinh Vô Lượng Thọ, nghe rất hoan hỷ, tâm dấy lên ư niệm “trong tương lai, ta thành Phật, sẽ giống như A Di Đà Phật”, chẳng dấy khởi ư niệm “ta quyết định cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới”. Có thể thấy là họ dấy lên ư niệm trong tương lai thành Phật th́ phải giống như A Di Đà Phật, chứ đời này chẳng văng sanh, chẳng thể văng sanh. Điều này chứng tỏ thiện căn và phước đức của họ vẫn chưa đủ nhiều, khó quá!

      Nay chúng ta nghe kinh này, có thể tiếp nhận Phật hiệu, khăng khăng một mực y theo pháp này để tu học, hết thảy đều có thể bỏ sạch, buông xuống, [tức là] thiện căn và phước đức do chúng ta tu tập và tích lũy trong quá khứ đă vượt trỗi họ quá nhiều, họ chẳng thể sánh bằng chúng ta! Từ kinh ấy, chúng ta thấy: Tôn giả A Nan thấy A Di Đà Phật, liền phát nguyện cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Từ kinh Vô Lượng Thọ ta thấy, ngài A Nan cầu văng sanh, nhóm vương tử A Xà Thế chẳng cầu văng sanh. Ở đây, kinh dạy: “Chẳng thể do chút thiện căn, phước đức, nhân duyên để được sanh về cơi ấy”. Đúng là chẳng dễ! Quư vị gộp chung những kinh luận ấy để xem, sẽ liễu giải chân tướng sự thật.

 

      (Sao) Bảo Tích thập tâm giả, nhất, ư chúng sanh khởi đại từ, vô tổn hại tâm. Nhị, ư chúng sanh khởi đại bi, vô bức năo tâm. Tam, ư Phật pháp, bất tích thân mạng, nhạo thủ hộ tâm. Năi chí thập, ư chư Phật, xả ly chư tướng, khởi tùy niệm tâm. Cụ thử thập tâm , văng sanh Tịnh Độ.

      ()寶積十心者,一、於眾生起大慈,無損害心。二、於眾生起大悲,無逼惱心。三、於佛法不惜身命,樂守護心。乃至十,於諸佛捨離諸相,起隨念心。具此十心,往生淨土。

(Sao: “Mười tâm theo kinh Bảo Tích”: Một là dấy ḷng đại từ đối với chúng sanh, chẳng có tâm tổn hại. Hai là dấy ḷng đại bi đối với chúng sanh, chẳng có tâm bức năo. Ba là đối với Phật pháp, chẳng tiếc thân mạng, tâm thích bảo vệ, ǵn giữ. Cho đến cái tâm thứ mười là đối với chư Phật, xả ĺa các tướng, khởi tâm tùy niệm. Trọn đủ mười tâm ấy, bèn văng sanh Tịnh Độ).

 

      Đây là những điều được nói trong kinh Đại Bảo Tích. Tuy chẳng trích lục hoàn toàn mười điều, nhưng bốn điều này cũng khá trọng yếu. Chúng ta xem chú giải:

 

(Diễn) Khởi đại từ, vô tổn hại tâm giả, vị ư pháp giới chúng sanh, dữ tự tánh chúng sanh, hàm dục dữ Vô Thượng Bồ Đề giác pháp lạc, Vô Thượng Niết Bàn tịch tĩnh lạc, thị vô tổn hại tâm.

()起大慈無損害心者,謂於法界眾生,與自性眾生,咸欲與無上菩提覺法樂,無上涅槃寂靜樂,是無損害心。

(Diễn: “Dấy ḷng đại từ, chẳng có tâm tổn hại” nghĩa là đối với chúng sanh trong pháp giới và tự tánh chúng sanh, đều muốn cho họ được hưởng niềm vui do giác ngộ pháp Vô Thượng Bồ Đề và niềm vui tịch tĩnh nơi Vô Thượng Niết Bàn. Đấy là chẳng có tâm tổn hại).

 

Tiêu chuẩn này khá cao. “Pháp giới chúng sanh” là hết thảy chúng sanh. “Tự tánh chúng sanh” là nói chính ḿnh. Nói theo cách hiện thời, sẽ là đối với người khác và đối với chính ḿnh, nói theo kiểu này. Đối với người khác phải từ bi, đối với chính ḿnh cũng chớ nên gây tổn thương. Kẻ ngu si hằng ngày hại chính ḿnh. Hằng ngày hại chính ḿnh như thế nào? Quư vị tăng trưởng vô minh là hại chính ḿnh, tăng trưởng tà kiến là hại chính ḿnh, tăng trưởng tham, sân, si là hại chính ḿnh. [Nói cách khác], hằng ngày hại tự tánh chúng sanh, có lỗi với chính ḿnh! Mỗi ngày giác ngộ, mỗi ngày ta bớt mê hoặc, điên đảo, giác ngộ nhiều hơn, đó là dấy ḷng đại từ đối với tự tánh chúng sanh. Như vậy th́ mới chẳng có lỗi với chính ḿnh. Tâm chính ḿnh mỗi ngày một thanh tịnh hơn, diệt tham lạc, ĺa khổ, ban vui. Tâm chúng ta có phải là ngày càng thanh tịnh hơn hay không? Trí huệ của chúng ta có phải là ngày càng tăng trưởng hơn không? Nếu đúng là như thế th́ là dấy ḷng đại từ đối với tự tánh chúng sanh, chẳng có tâm tổn hại. Trước hết là có thể độ chính ḿnh; sau đấy, giúp đỡ người khác, tự lợi, lợi tha, lại giúp pháp giới chúng sanh ĺa khổ được vui, phá mê khai ngộ. Đó là hạnh tu tập của Bồ Tát, chẳng phải là hạnh tu của phàm phu. Do vậy biết thiện căn khó gieo, phước đức khó tu!

 

      (Diễn) Khởi đại bi vô bức năo tâm giả, vị ư hữu t́nh thế gian cập Ngũ Ấm thế gian, giai dục bạt cảnh giới bức bách chi khổ, phiền năo triền phược chi khổ, thị vô bức năo tâm.

      ()起大悲無逼惱心者,謂於有情世間及五陰世間,皆欲拔境界逼迫之苦、煩惱纏縛之苦,是無逼惱心。

(Diễn: “Dấy ḷng đại bi, chẳng có tâm bức năo” nghĩa là đối với hữu t́nh thế gian và Ngũ Ấm thế gian, đều muốn dẹp trừ nỗi khổ bị cảnh giới bức bách, nỗi khổ phiền năo trói buộc, đó là tâm chẳng bức năo).

 

      “Hữu t́nh thế gian” là pháp giới chúng sanh, “Ngũ Ấm thế gian” là tự tánh chúng sanh. Bản thân chúng ta có phiền năo, vướng mắc, lo âu, pháp giới chúng sanh cũng có. Cùng một đạo lư như vậy, trước hết là phải dẹp trừ nỗi khổ của chính ḿnh, sau đấy mới có thể giúp đỡ người khác ĺa khổ được vui. Nói thật ra đều khó, bất luận tu học pháp môn nào, đạt tới mục đích này đều chẳng dễ dàng. Kinh văn nói đến cuối cùng bèn kết quy Tịnh Độ, pháp môn này chẳng khó, ai nấy đều có thể làm được. Tuy nói là chẳng khó, cũng đừng nên nghĩ nó quá dễ dàng, chẳng khó. [Nói dễ dàng] là v́ so sánh với các pháp môn khác, nó chẳng khó khăn như trong các pháp môn khác. “Không dễ dàng” tùy thuộc quư vị đă thật sự giác ngộ hay chưa! Nếu thật sự giác ngộ, sẽ dễ dàng. Thật sự giác ngộ bèn hiểu sanh tử là chuyện lớn, vô thường nhanh chóng. Chúng ta ở trong thế gian này, cổ nhân sánh ví “thạch hỏa, điển quang” (石火電光: tia lửa xẹt ra do đá đập vào nhau, ánh sáng của tia chớp). “Điển” () là tia chớp. “Mạng người vô thường”, thật sự giác ngộ, mười năm hay hai mươi năm đúng là khảy ngón tay một cái đă trôi qua. Người từ lứa tuổi trung niên trở đi, nghĩ lại thuở trẻ trung, giống như mới ngày hôm qua, thời gian trôi qua quá nhanh! Từ nay về sau c̣n có được thời gian dài như thế hay chăng? Chẳng có. Dẫu có thời gian dài ngần ấy, cũng là sát-na đă qua, quư vị nghĩ đến đây, đáng sợ thay! Một hơi thở ra chẳng hít vào được nữa, làm thế nào đây? Những chúng sanh trong thế gian làm chuyện ǵ? Sanh tử luân hồi! Phật pháp nói “sanh tử b́ lao” (生死疲勞: sanh tử nhọc nhằn), sanh rồi tử, tử rồi sanh, từ vô thỉ kiếp tới nay sanh sanh tử tử, luôn làm chuyện này, đúng là đáng thương, đáng xót! Thật sự giác ngộ chân tướng sự thật này, phát tâm dũng mănh, từ nay trở đi, ta chẳng muốn luân hồi sanh tử nữa, quư vị gặp gỡ pháp môn này sẽ thấy là dễ dàng, nhất định thành tựu trong một đời này.

      Người thế gian đừng nói là chưa học Phật, [ngay cả] những đồng tu đă học Phật, có thể nói đại đa số là “sống say, chết mộng!” Có mấy ai từ trong sanh tử luân hồi mà giác ngộ, thức tỉnh? Quá ít! Trong một vạn người học Phật, kẻ suốt ngày từ sáng đến tối “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật”, thật sự tỉnh thức, tôi thấy có được dăm ba người là đă ghê gớm lắm rồi! Đúng là rất thưa thớt, rất ít thấy! Tuy niệm Phật, vẫn ở trong mộng, vẫn đang nằm mộng, vẫn đang mê hoặc, điên đảo, làm sao có thể thành tựu cho được? Vẫn tiếp tục ngày ngày sanh tử luân hồi chẳng ngừng! Đấy là tổn hại chính ḿnh, tổn hại chúng sanh, chính là ngu si trong Tam Độc, hoàn toàn chẳng liễu giải chân tướng sự thật, mà cũng chẳng nhận thức Phật pháp.

 

      (Diễn) Bất tích thân mạng nhạo thủ hộ giả, ước Lư, tắc bị Tu Đức nhi viên Tánh Đức. Ước Sự, tắc cầu bán kệ nhi xả toàn thân. Tự lợi, tắc như Thiện Tài bất tỵ hỏa khanh; lợi tha, tắc như Bất Khinh cam thọ đả trịch.

      ()不惜身命樂守護者,約理則備修德而圓性德,約事則求半偈而捨全身,自利則如善財不避火坑,利他則如不輕甘受打擲。

(Diễn: “Chẳng tiếc thân mạng, thích bảo vệ, ǵn giữ”: Xét theo Lư, sẽ là đầy đủ Tu Đức bèn viên măn Tánh Đức. Xét theo Sự, sẽ là v́ cầu nửa bài kệ mà xả toàn thân. Tự lợi th́ như Thiện Tài chẳng tránh hố lửa, lợi tha th́ như Thường Bất Khinh cam chịu bị đánh đập).

 

      Thật sự nhận thức Phật pháp, thật sự hiểu rơ Phật pháp th́ người ấy mới chịu phát tâm hộ tŕ, hộ pháp chẳng tiếc thân mạng. V́ sao người ấy làm như vậy? Hiểu Phật pháp thật sự quư báu, không chỉ là độ chính ḿnh, mà có thể độ hết thảy chúng sanh. Trên thế gian hiện thời, chúng ta nói sự nghiệp ǵ có giá trị nhất? Hộ tŕ Phật pháp có giá trị nhất, đấy là công đức và lợi ích chân thật, những thứ khác đều là giả, chết rồi sẽ chẳng mang theo được. “Vạn ban tương bất khứ, duy hữu nghiệp tùy thân” (Muôn thứ chẳng mang được, chỉ có nghiệp theo thân), công đức hộ tŕ Phật pháp có thể đem theo được. V́ thế, nó là chuyện có giá trị nhất, có ư nghĩa nhất.

      Nói theo lư luận, “bị Tu Đức nhi viên Tánh Đức” (đầy đủ Tu Đức bèn viên măn Tánh Đức), đây là thật sự hộ pháp. Nói cách khác, chúng ta nói theo niệm Phật th́ niệm đến nhất tâm bất loạn mới là “hộ pháp”. Niệm đạt đến Lư nhất tâm, sẽ minh tâm kiến tánh. Chẳng có công phu cao như thế, niệm Phật đạt đến Sự nhất tâm, hoặc niệm đến mức công phu thành phiến, sẽ quyết định văng sanh Tịnh Độ, sanh vào cơi Phàm Thánh Đồng Cư, hạ hạ phẩm văng sanh cũng là thật sự hộ tŕ Phật pháp. Phật pháp ở đây là Phật pháp của chính ḿnh, Phật pháp của chính ḿnh cũng là Phật pháp của pháp giới chúng sanh. Quư vị văng sanh thành Phật, sau khi thành Phật, tất nhiên sẽ phổ độ chúng sanh. Do đó, chính ḿnh đă thành tựu, nhất định là có thể thành tựu người khác. Đó là từ Tu Đức mà viên măn Tánh Đức; đấy là hộ pháp.

      Nói theo sự tướng, “tắc cầu bán kệ nhi xả toàn thân” (v́ cầu nửa bài kệ mà bỏ toàn thân). Đây là chuyện xảy ra khi Thích Ca Mâu Ni Phật c̣n đang tu nhân. Thời Ngài cầu học, Phật pháp khó được nghe, rất khó khăn! Đế Thích Thiên (tức chúa trời Đao Lợi) biến hóa thành một La Sát đến thử thách Ngài. Thấy người tu hành bèn đến khảo nghiệm, bảo: “Ta là quỷ La Sát, bụng rất đói. Ta có Phật pháp, nhưng ta phải ăn no trước đă rồi mới nói cho ngươi được”. Ngài hỏi: “Ông ăn ǵ vậy?” Quỷ đáp: “Ta ăn thịt người”. Tiên nhân nói: “Chỉ cần ông chịu thuyết pháp cho tôi, tôi bằng ḷng đem thân thể này cúng dường ông”. La Sát nói cho Ngài bốn câu kệ, nói thật ra, đối với bốn câu kệ, quỷ chỉ nói hai câu[1], Ngài có thể chẳng tiếc thân mạng cầu pháp. Đó là nói theo Sự, thật sự hành Bồ Tát đạo!

      Nay chúng ta cầu pháp, nói thật ra, có được Phật pháp dễ dàng hơn thuở ấy nhiều lắm; hiện thời, kỹ thuật ấn loát phát triển, có được kinh điển chẳng khó khăn chút nào. V́ có được quá dễ dàng, đâm ra đánh mất tấm ḷng cung kính và tôn trọng. Hiện thời tại Đài Loan, Đại Tạng Kinh bị tùy tiện bỏ lăn, bỏ lóc, chẳng có ai quư trọng. Trái lại, ở Đại Lục [t́nh h́nh] khác hẳn! Ở Đại Lục, kinh điển hết sức khó có. Chúng tôi đưa [Đại Tạng Kinh] sang Đại Lục, người đến nghênh tiếp đều quỳ mọp dưới đất, mỗi người đầu đội một cuốn, đảnh đới (頂戴: đội trên đầu), cung kính dường ấy. Chúng ta thấy vậy, trong tâm có cảm tưởng ǵ? Chúng ta tùy tiện bỏ lăn bỏ lóc. Họ hết sức khó có được, cho nên có ḷng cung kính, tôn trọng như vậy, chính là có phước! Bất luận họ có cơ hội đọc hay không, tâm cung kính ấy chính là gieo phước. Xưa kia, có được kinh luận chẳng dễ dàng, tâm thái cung kính và tôn trọng [của cổ nhân] khác hẳn tâm thái của chúng ta trong hiện thời.

      “Tự lợi, tắc như Thiện Tài bất tỵ hỏa khanh” (Tự lợi th́ như Thiện Tài chẳng tránh hầm lửa): Thiện Tài tới tham phỏng Bà-la-môn Thắng Nhiệt. [Bà-la-môn bảo]: “Ngươi muốn cầu pháp, hăy nhảy vào hầm lửa”. Thiện Tài đồng tử v́ cầu pháp, đành phải nghe lời, nhảy xuống hầm lửa. Kết quả là hầm lửa ấy rất mát mẻ, rất tự tại, Ngài trọn chẳng bị thương tổn. Chư vị đọc kinh Hoa Nghiêm có thể thấy chuyện này.

“Lợi tha, tắc như Thường Bất Khinh Bồ Tát” (Lợi lạc người khác th́ như Thường Bất Khinh Bồ Tát). Kinh Pháp Hoa có nói: Thường Bất Khinh Bồ Tát thấy bất cứ ai cũng đều đảnh lễ, vái lạy, chẳng dám coi thường bất cứ chúng sanh nào! Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, hết thảy chúng sanh vốn đă thành Phật, chẳng dám khinh mạn một người nào.

      Đây là nói đối với Phật pháp, chẳng tiếc thân mạng để thủ hộ, nêu lên mấy trường hợp đều là nói đến người thuở trước. Nay chúng ta phải biết thủ hộ như thế nào? Đối với ư nghĩa chân thật trong [từ ngữ] “thủ hộ” (守護), nghĩa thứ nhất là “y giáo tu hành”, bắt đầu làm từ chỗ này, sau đấy cùng nhau tu học: Tu học Phật pháp, hoằng dương Phật pháp, lợi ích chúng sanh, đó là “thủ hộ”. Đồng tu tại gia có trách nhiệm này, các đồng tu xuất gia lại c̣n phải gánh vác cái được gọi là “gia nghiệp của Như Lai”. Sự nghiệp của Phật là ǵ? Là hoằng pháp lợi sanh. V́ thế, đạo tràng danh phù hợp sự thật, đạo tràng ấy có đạo! Đạo ǵ vậy? Đạo thành Phật. Đạo tràng ấy xác thực có “đạo thành Phật”, mới đáng gọi là đạo tràng. Nay chúng ta có tràng mà chẳng có đạo. Không chỉ là nói hộ pháp [chẳng được], mà ngay cả pháp, pháp cũng chẳng có! Chẳng có pháp, hộ ǵ đây? Cũng chẳng thể nói đến chuyện hộ được. Điều này đáng để cho chúng ta phản tỉnh sâu xa!

      Đạo chẳng ở trong kinh điển, đạo ở trong tâm tánh, trong hành vi sinh hoạt, đạo ở nơi ấy. Đạo là xử sự, đăi người, tiếp vật trong cuộc sống hằng ngày, thường nói là “người có thể hoằng đạo, chẳng phải là đạo có thể hoằng người”. Chữ Đạo trong câu trên đây là nói tới kinh điển, phải nương vào lư luận, giáo huấn và cảnh giới trong kinh điển để thực hiện. Có như vậy th́ mới có thể hoằng dương rạng rỡ Phật pháp, lợi ích chúng sanh. Nay chúng ta in rất nhiều kinh, đem kinh điển tặng cho kẻ khác, người ta đọc cũng không hiểu, dẫu đọc mấy lượt cảm thấy [kinh điển] hay quá, họ cũng chẳng thể làm, vậy th́ có tác dụng ǵ? Do đó, chúng ta in rất nhiều kinh điển, đưa đến khắp nơi trên thế giới, tôi lại c̣n phải tới những nơi đó biểu diễn, c̣n phải giảng giải. Chẳng giảng giải, họ sẽ không hiểu.  

Dịp Tết âm lịch này, ngày mồng Bảy, tôi phải sang Tân Gia Ba để giảng A Di Đà Kinh Yếu Giải. Không giảng cho họ, họ chẳng hiểu, chẳng biết tu như thế nào! Đi khắp nơi giảng giải, khiến cho các kinh điển đă gởi đi có thể dấy lên đôi chút tác dụng. V́ vậy, các đồng tu phải phát tâm, nhất là những người trẻ tuổi, phải nghiêm túc, phải nỗ lực sốt sắng tu hành, thành tựu đức hạnh, sau đó là thành tựu học vấn của chính ḿnh. Đấy mới là “nhạo thủ hộ tâm”. V́ pháp quên ḿnh, chẳng tiếc thân mạng, nỗi khổ nào cũng đều bằng ḷng hứng chịu, đấy mới là tự lợi lợi tha thật sự. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng tôi giảng tới chỗ này.

 

Tập 218

 

      Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang bốn trăm ba mươi hai.

 

      (Sao) Bảo Tích thập tâm giả, nhất, ư chúng sanh khởi đại từ, vô tổn hại tâm. Nhị, ư chúng sanh khởi đại bi, vô bức năo tâm. Tam, ư Phật pháp bất tích thân mạng, nhạo thủ hộ tâm.

      ()寶積十心者,一、於眾生起大慈,無損害心。二、於眾生起大悲,無逼惱心。三、於佛法不惜身命,樂守護心。

(Sao: “Mười tâm theo kinh Bảo Tích”: Một là dấy ḷng đại từ đối với chúng sanh, chẳng có tâm tổn hại. Hai là dấy ḷng đại bi đối với chúng sanh, chẳng có tâm bức năo. Ba là đối với Phật pháp, chẳng tiếc thân mạng, tâm thích bảo vệ, ǵn giữ).

 

      Từ đoạn này trở đi của sách Sớ Sao Diễn Nghĩa, [chúng ta] tiến nhập một bộ phận trọng yếu nhất trong toàn bộ bản kinh, chúng ta tu hành gần như dựa theo một đoạn lớn này. Phần sau của đoạn lớn này sẽ giảng về nhất tâm bất loạn. Đoạn chú giải này của Liên Tŕ đại sư chiếm hết một phần bảy toàn bộ Sớ Sao, nên nó là một bộ phận hết sức trọng yếu. “Bảo Tích thập tâm” [là mười loại tâm] được nói trong kinh Đại Bảo Tích.

 

(Diễn) Khởi đại từ vô tổn hại tâm giả, vị ư pháp giới chúng sanh, dữ tự tánh chúng sanh, hàm dục dữ Vô Thượng Bồ Đề Giác pháp lạc, Vô Thượng Niết Bàn tịch tĩnh lạc, thị vô tổn hại tâm.

()起大慈無損害心者,謂於法界眾生,與自性眾生,咸欲與無上菩提覺法樂,無上涅槃寂靜樂,是無損害心。

(Diễn: “Dấy ḷng đại từ, chẳng có tâm tổn hại” nghĩa là đối với chúng sanh trong pháp giới và tự tánh chúng sanh, đều muốn cho họ được hưởng pháp lạc nơi Vô Thượng Bồ Đề Giác, niềm vui tịch tĩnh nơi Vô Thượng Niết Bàn. Đấy là chẳng có tâm tổn hại).

 

      Xem từ lời chú giải, [sẽ thấy] tiêu chuẩn “đại từ vô tổn hại” là tiêu chuẩn tuyệt đối, chẳng phải là tiêu chuẩn thông thường. “Pháp giới chúng sanh” là nói tới người khác, “tự tánh chúng sanh” là nói tới chính ḿnh. Nói cách khác, đối với chính ḿnh và đối với người khác đều phải có Từ tâm, đều chớ nên tổn hại. Có lẽ chúng ta nghe nói như vậy bèn cảm thấy lạ lùng, người ta c̣n có thể tự hại chính ḿnh ư? Há có kẻ nào ngu si dường ấy? Nói thật ra, kẻ tự hại chính ḿnh quá đông, không chừng chính quư vị là một kẻ trong số đó. Do vậy, sau đó, Ngài đề ra một tiêu chuẩn tuyệt đối: Nếu chính quư vị là mê chẳng giác, há chẳng phải là hại chính ḿnh ư? Bản thân quư vị vẫn c̣n là phàm phu sanh tử trong lục đạo, tức là chính quư vị hại ḿnh. Đại Niết Bàn bất sanh, bất diệt, [thế mà] chúng ta vẫn luân hồi trong lục đạo, tức là tự hại chính ḿnh. Từ vô thỉ kiếp tới nay, đời đời kiếp kiếp chính ḿnh tạo nghiệp chịu báo, há chẳng phải là tự hại chính ḿnh ư? Ai chẳng hại chính ḿnh? Thưa cùng quư vị, từ A La Hán trở lên, đă thật sự giác ngộ, sẽ chẳng hại chính ḿnh. Lục đạo phàm phu và Quyền Giáo Bồ Tát quá nửa là hại người, hại ḿnh, ai biết chân tướng sự thật này?

Nay chúng ta muốn đạt tới mục tiêu như vậy, hăy dùng Từ tâm giúp đỡ hết thảy chúng sanh, phải làm cho chúng sanh đắc Vô Thượng Bồ Đề, phải khiến cho chúng sanh vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, bất thoái thành Phật, chúng ta có thể làm được hay không? Nói thật thà, đối với chuyện này, Đẳng Giác Bồ Tát c̣n cảm thấy khó khăn, [vậy th́] chúng ta có thể làm được hay không? Thật ra, xác thực là chúng ta có thể làm được, dùng phương pháp ǵ để thực hiện? Niệm một câu Di Đà đến cùng, chính ḿnh có thể thật thà niệm Phật. Giáo huấn ở trong kinh điển. V́ vậy, tôi đặc biệt nhắc nhở các đồng tu, bắt đầu chỗ này, liên tiếp cho đến phần sau, nói chung là cả một đoạn kinh văn khá dài này, từng câu, từng chữ đều đáng cho chúng ta học tập. Tiêu chuẩn để bản thân chúng ta tu hành là: Dùng phương pháp Niệm Phật để cứu chính ḿnh, dùng phương pháp Niệm Phật để cứu độ hết thảy chúng sanh. V́ lẽ đó, mười phương hết thảy chư Phật, chẳng có vị nào không tán thán, không tuyên dương pháp môn này. Đạo lư ở ngay chỗ này. Đấy mới là thật sự đại từ, thật sự chẳng tổn hại. Người thật thà niệm Phật th́ mới có thể thành tựu. Nếu vừa niệm Phật, vừa dấy vọng tưởng; nói cách khác, vẫn chẳng tránh khỏi “tự hại, hại người!” Có rất nhiều đồng học than thở: “Niệm Phật công phu chẳng đắc lực”. Chẳng khéo niệm Phật! V́ sao chẳng khéo niệm Phật? Có nguyên nhân cả đấy!

      Điều thứ hai là “ư chúng sanh khởi đại bi” (dấy ḷng đại bi đối với chúng sanh), Từ là ban vui, Bi là dẹp khổ.

 

      (Diễn) Khởi đại bi vô bức năo tâm giả, vị ư hữu t́nh thế gian cập Ngũ Ấm thế gian.

      ()起大悲無逼惱心者,謂於有情世間及五陰世間。

(Diễn: “Dấy ḷng đại bi, chẳng có tâm bức năo” nghĩa là đối với hữu t́nh thế gian và Ngũ Ấm thế gian…).

 

      “Hữu t́nh thế gian” là nói tới người khác. “Ngũ Ấm thế gian” là nói về chính ḿnh, nói theo phía chính ḿnh. “Ngũ Ấm thế gian” là tự tánh chúng sanh, “hữu t́nh thế gian” là pháp giới chúng sanh.

 

      (Diễn) Giai dục bạt cảnh giới bức bách chi khổ, phiền năo triền phược chi khổ, thị vô bức năo tâm.

      ()皆欲拔境界逼迫之苦、煩惱纏縛之苦,是無逼惱心。

(Diễn: Đều muốn dẹp trừ nỗi khổ bị cảnh giới bức bách, nỗi khổ phiền năo trói buộc, đó là tâm chẳng bức năo).

 

      Câu này là nguyện thứ hai, tức là “phiền năo vô tận thệ nguyện đoạn” trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện. Chúng ta biết chính ḿnh có phiền năo, có nghiệp chướng, có tập khí, v́ sao chẳng chịu dẹp trừ? Chẳng chịu dẹp trừ chính là thiếu bi tâm. Phật pháp, chúng ta nói quy nạp lại, sẽ chẳng ngoài “thanh tịnh, b́nh đẳng, từ bi”, ba câu ấy bao gồm trọn hết toàn thể Phật pháp. Chúng ta chẳng từ bi, không chỉ là thiếu từ bi đối với pháp giới chúng sanh, mà đối với chính ḿnh cũng chẳng có từ bi. Nếu mọi người hỏi phải đối xử với chính ḿnh như thế nào th́ mới là từ bi? Vẫn là một câu cũ mèm: “Thật thà niệm Phật”. Quư vị có thể thật thà niệm Phật th́ là từ bi đối với chính ḿnh, từ bi đối với hết thảy chúng sanh trong pháp giới, công đức niệm Phật chẳng thể nghĩ bàn! Niệm Phật nhất định phải niệm đến mức “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”. Mục đích của niệm Phật là ở chỗ nào? Niệm đến mức cái tâm của chính ḿnh thanh tịnh, b́nh đẳng, tự nhiên sẽ là giác chứ không mê. Nếu nói theo Tam Vô Lậu Học th́ thanh tịnh là Giới, b́nh đẳng là Định, giác là Huệ. Tam Vô Lậu Học Giới Định Huệ, câu Phật hiệu là phương tiện, niệm nào cũng đều tương ứng với Tam Học. Niệm Phật như vậy, công phu mới có thể đắc lực. Niệm Phật như vậy, từng tiếng Phật hiệu trọn đủ “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, tự nhiên là đại từ đại bi.

      Người chẳng chịu tự độ, c̣n có thể độ kẻ khác ư? Chẳng từ bi đối với chính ḿnh, làm sao có thể từ bi đối với người khác cho được? Chẳng có lẽ ấy! Nay nói [kẻ chẳng chịu tự độ] là “hại người” th́ chẳng có ǵ đáng để ngạc nhiên hết cả. V́ sao? Kẻ ấy đă hại chính ḿnh, làm sao không thể hại người khác? Đồng tu học Phật nhất định phải hiểu minh bạch, rơ ràng chân tướng sự thật của bản thân và hoàn cảnh. Học Phật là đối trị, sửa đổi cách nghĩ, cách nh́n và cách làm sai lầm, đó gọi là tu hành. Trước kia, chẳng từ bi đối với chính ḿnh, từ nay khởi tâm từ bi đối với chính ḿnh. Trong quá khứ đă thiếu từ bi đối với người khác, từ nay trở đi, phải từ bi đối với kẻ khác. Nghiêm túc niệm Phật, nhất tâm nhất ư niệm Phật, thật thà niệm Phật, thảy đều làm được.

      Nói thật ra, trong đoạn này, đại sư đă nêu lên khá nhiều kinh luận. Ở đây là nói đến các thứ pháp môn thuộc về hạnh nguyện Bồ Tát, một câu A Di Đà Phật đă bao gồm toàn bộ. Quả thật là chẳng thể nghĩ bàn. Quư vị mới biết công đức thù thắng của danh hiệu này. Điều thứ ba:

 

      (Diễn) Bất tích thân mạng, nhạo thủ hộ giả.

      ()不惜身命樂守護者。

(Diễn: Chẳng tiếc thân mạng, thích bảo vệ, ǵn giữ).

 

      Chúng ta nói tới chuyện hộ pháp, nói thật ra, trước hết phải hộ tŕ pháp chính ḿnh, sau đó mới có thể hộ tŕ pháp của chư Phật, mới có thể hộ tŕ pháp của chúng sanh trong pháp giới. Trong ấy có sự luận định dựa theo Lư hay theo Sự.

 

      (Diễn) Ước Lư tắc bị Tu Đức nhi viên Tánh Đức.

     ()約理則備修德而圓性德。

      (Diễn: Xét theo Lư th́ trọn đủ Tu Đức để viên măn Tánh Đức).

 

      Đây là nói theo Lư, “Bị” () là đầy đủ. Lục Tổ đại sư nói: “Nào ngờ tự tánh vốn trọn đủ”. “Vốn trọn đủ” là Tánh Đức; chẳng có Tu Đức th́ Tánh Đức chẳng thể hiện tiền.

Ví như trong tựa đề của Đại Kinh, Vô Lượng Thọ là Tánh Đức, là điều chúng ta mong cầu, chúng ta hy vọng đạt được. Tánh Đức là vô lượng vô biên. Trong vô lượng vô biên Tánh Đức, Vô Lượng Thọ là chủ yếu, [bởi lẽ], chẳng có thọ mạng, những thứ khác đều như không! V́ thế, thọ mạng là phẩm đức bậc nhất. Ngoại giáo nói vô lượng thọ là “sống đời đời”. “Sống đời đời” của họ là giả, [sống đời đời của] chúng ta là thật. Trang Nghiêm: Trang Nghiêm là Tánh Đức khởi tác dụng. Nay chúng ta nói Trang Nghiêm là tốt đẹp đến tột bậc, chẳng t́m được mảy may khiếm khuyết nào. Trong mười phương cơi Phật, chẳng có các thứ trang nghiêm như trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Cơi nước của bất cứ vị Phật nào cũng đều c̣n có những chỗ khuyết hăm, chỉ riêng Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng bị khuyết hăm; [đó là] trang nghiêm.

“Thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” thuộc về Tu Đức, chúng ta tu ǵ? Tu tâm thanh tịnh, tu tâm b́nh đẳng, đó là Tu Đức. Hằng ngày niệm một câu Phật hiệu, tuyệt đối chẳng phải là niệm cho A Di Đà Phật nghe! Ngàn muôn phần đừng nghĩ “ta nay niệm ba vạn câu hoặc năm vạn câu, nhất định A Di Đà Phật sẽ rất hoan hỷ”, [nghĩ như vậy là] sai bét mất rồi! Vừa niệm Phật, vừa nghĩ “Phật ưa thích ta, Phật chẳng ưa kẻ nọ!” Vừa niệm Phật vừa dấy vọng tưởng, làm sao có thể thành tựu cho được? Do đó, câu Phật hiệu phải khôi phục tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng của chính ḿnh. Phật hiệu chỉ là phương tiện mà thôi, phải nghiêm túc niệm. Nói “nghiêm túc” tức là quyết định chẳng hoài nghi, chẳng gián đoạn, chẳng xen tạp. Niệm Phật hay niệm kinh đều phải căn cứ trên nguyên tắc này, đó mới là “đầy đủ Tu Đức để viên măn Tánh Đức”. Tánh Đức là giác, nhà Thiền gọi giác là “đại triệt đại ngộ”. Tâm địa thanh tịnh, b́nh đẳng, sẽ triệt ngộ. Đă đại triệt đại ngộ, vô lượng trí huệ và vô lượng đức năng thảy đều hiện tiền. Đó là nói theo Lư.

      Xét theo Sự th́ thực hiện từ chỗ nào? Nay ta đă biết phải tu thanh tịnh, b́nh đẳng, giác, nhưng thực hiện từ chỗ nào?

 

      (Diễn) Ước Sự tắc cầu bán kệ nhi xả toàn thân.

      ()約事則求半偈而捨全身。

      (Diễn: Xét theo Sự th́ do cầu nửa bài kệ mà bỏ toàn thân).

 

      Ở đây, đại sư nêu tỷ dụ để nói với chúng ta, giống như tinh thần của những vị Bồ Tát đă xả thân v́ pháp trong quá khứ, hy sinh thân mạng chẳng tiếc nuối. Phật pháp là trọng yếu, Pháp Thân huệ mạng chắc chắn là quan trọng hơn thân mạng; người hiện thời biết sự thật này chẳng nhiều! Mất đi Pháp Thân huệ mạng, không chỉ là chính ḿnh khổ sở, mà chúng sanh cũng khổ. V́ sao chúng sanh khổ? Chúng sanh nhất định là càng mê càng sâu hơn, do mê hoặc bèn tạo nghiệp, do tạo nghiệp bèn hứng chịu quả báo. Càng mê sâu hơn, tạo nghiệp càng nặng, quả báo ngày càng tàn khốc! Pháp Thân huệ mạng trọng yếu dường ấy!

      Nói theo sự tướng, Pháp Thân huệ mạng của đức Thế Tôn chính là Tam Tạng kinh điển. Ở Trung Hoa vào thời cổ, các vị cao tăng sang Ấn Độ chẳng tiếc thân mạng để thỉnh kinh, cầu pháp. Thuở ấy, giao thông chẳng thuận tiện. Từ Trung Hoa sang Ấn Độ đi đường bộ phải mất ba năm, trên đường đi phải vượt qua sa mạc Đại Qua Bích (Gobi)[2]. Đối với sách vở thế gian th́ Tứ Khố Toàn Thư là Pháp Thân huệ mạng, phải nghiêm túc cầu pháp. Tứ Khố Toàn Thư có phân lượng bằng mười lăm bộ Đại Tạng Kinh. Chúng ta phát tâm nối tiếp huệ mạng của Phật, hoằng pháp lợi sanh th́ phải đọc những sách ấy. Mênh mông như khói trên biển cả, thực hiện từ chỗ nào? Có phương pháp, phương pháp ở chỗ nào? Chính là thanh tịnh, b́nh đẳng, giác. Học Phật th́ học khởi đầu từ đâu? Học khởi đầu từ cái tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng. Tâm địa thật sự thanh tịnh, b́nh đẳng, chỉ cần đọc lướt những sách ấy liền thông đạt ngay lập tức. Một quyển kinh thư, xem mấy ḍng đầu, mấy ḍng sau chẳng cần phải xem nữa, đều biết, c̣n có bản lănh này. Quư vị đọc Lục Tổ Đàn Kinh, [sẽ thấy] Lục Tổ chưa hề đọc kinh Pháp Hoa. Thiền sư Pháp Đạt thỉnh giáo Tổ, Ngài nói: “Ông hăy niệm kinh cho ta nghe”. Pháp Đạt là người đă niệm ba ngàn bộ kinh Pháp Hoa. Kinh Pháp Hoa gồm hai mươi tám phẩm, Sư chỉ đọc đến phẩm thứ hai là phẩm Phương Tiện, Lục Tổ đă nói: “Được rồi! Chẳng cần niệm nữa, ta biết cả rồi”. Lục Tổ có năng lực ấy. Khi chư vị thật sự đạt đến thanh tịnh, b́nh đẳng, trí huệ mở mang, quư vị mỗi ngày xem một quyển trong Đại Tạng Kinh chắc chắn là chẳng có vấn đề ǵ. Thông đạt toàn bộ! Toàn bộ Đại Tạng Kinh sẽ xem xong trong ṿng một trăm ngày, tốt nghiệp! Đâu phải tốn phí tinh thần to tát như vậy! Một bộ Tứ Khố Toàn Thư, tuy gồm một ngàn năm trăm tập, mỗi ngày xem năm sáu tập, chưa đầy một năm đă xem xong xuôi!

      Nay chúng ta mê mà bất giác, cho nên gặp khó khăn. Đức Phật nói hết thảy các kinh, chắc chắn là chúng sanh trong cơi Nam Diêm Phù Đề có năng lực thọ tŕ. Chẳng có năng lực thọ tŕ, chắc chắn là đức Phật sẽ chẳng nói. Đức Phật thuyết pháp thí giáo ứng theo căn cơ. Nói cách khác, chúng ta nhất định phải khôi phục căn tánh của chính ḿnh, phải tuân theo nguyên tắc tu học do đức Phật đă chỉ dạy. Nguyên tắc ấy chính là Tứ Hoằng Thệ Nguyện. Điều thứ nhất là phải phát tâm, ở đây là “Bảo Tích thập tâm”, [cũng như] “Hoa Nghiêm thập nguyện” trong phần sau đều dạy chúng ta phát tâm. Sau khi đă phát tâm, sẽ thực hiện từ chỗ nào? “Phiền năo vô tận thệ nguyện đoạn”, trước là đoạn phiền năo. Đoạn hết phiền năo rồi mới học pháp môn. Thật sự học pháp môn là khi nào? Bắt đầu từ địa vị Sơ Trụ của Viên Giáo. Trong kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử đă nêu gương cho chúng ta. Ngài ở chỗ Văn Thù Bồ Tát, Văn Thù là thầy Ngài. Trong hội Văn Thù, Ngài tu “phiền năo vô tận thệ nguyện đoạn”. Đoạn hết phiền năo, khai trí huệ rồi mới đi tham học. Tham học, tức năm mươi ba lần tham học, chính là “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”. Chính ḿnh đă đích thân chứng đắc Sơ Trụ trong Viên Giáo, nói cách khác, Kiến Tư phiền năo đă đoạn hết, tâm thanh tịnh. Đoạn hết Trần Sa phiền năo, tâm b́nh đẳng, phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân, đă giác rồi th́ mới có tư cách “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”. Quư vị chẳng thực hiện hoàn tất công phu phía trước, bắt đầu bằng học ngay vào pháp môn, chẳng có lẽ ấy! Thanh Lương đại sư nói: “Có giải, thiếu hành, tăng trưởng tà kiến”. Những thứ quư vị đă học chính là tà tri tà kiến, chẳng phải là trí huệ, lấy đâu ra Phật pháp! Coi tà tri tà kiến như Phật pháp, quư vị nói xem có hỏng bét hay là không? Đó là chính ḿnh hại chính ḿnh, lại c̣n hại chúng sanh, hằng ngày đều tạo nghiệp, cứ ngỡ chính ḿnh có vô lượng công đức, chẳng phải là điên đảo hay sao? Do vậy, các đồng học chớ nên không biết, chớ nên không dụng công, dụng công ǵ vậy? Đoạn phiền năo, sửa trừ tập khí, phải đổ công dốc sức ở chỗ này, thật thà niệm Phật. Đó là nói về chuyện “xả thân cầu pháp”. Tiếp theo đây lại nói theo phương diện tự lợi lợi tha:

      (Diễn) Tự lợi tắc như Thiện Tài bất tỵ hỏa khanh.

      ()自利則如善財不避火坑。

(Diễn: Tự lợi th́ như Thiện Tài chẳng tránh né hầm lửa).

 

      Thiện Tài đồng tử tham phỏng bà-la-môn Thắng Nhiệt. Bà-la-môn Thắng Nhiệt bảo Ngài nhảy vào hầm lửa, [giống như vào] hầm lửa, [lên] núi đao, bảo Thiện Tài: “Ngươi muốn hướng về ta cầu pháp ư? Hăy nhảy vào hầm lửa!” Thiện Tài suy nghĩ rồi vẫn nhảy, v́ cầu pháp mà! Nào ngờ, sau khi đă nhảy xuống đó, toàn thân mát mẻ, tự tại. Thấy là một vùng biển lửa, nhảy xuống đó bèn mát mẻ, tự tại. Ngài thật sự đạt được pháp ích (lợi ích nơi pháp). Nếu chúng ta nhảy xuống hầm lửa đó, chắc chắn sẽ bị thiêu chết. V́ sao Ngài nhảy vào hầm lửa mà mát mẻ? Trong tâm Ngài chẳng có ư niệm sân hận, ganh tỵ, nên lửa chẳng thể đốt được! Đối với chuyện này, chư vị niệm phẩm Phổ Môn cho nhiều sẽ biết: V́ sao lửa bên ngoài có thể đốt chúng ta? Chúng ta có những thứ lửa từ tâm sân khuể, tâm ganh tỵ, lửa bên ngoài dẫn khởi lửa bên trong bùng cháy. Chuyện này phiền toái to lớn. Bên ngoài có, nhưng bên trong chẳng có, sẽ thiêu chẳng được, chắc chắn là an toàn. Đây là nêu một thí dụ về chuyện bỏ thân cầu pháp.

 

      (Diễn) Lợi tha tắc như Bất Khinh cam thọ đả trịch.

      ()利他則如不輕甘受打擲。

(Diễn: Lợi tha th́ như ngài Thường Bất Khinh cam chịu bị đánh đập).

 

      Bất Khinh chính là Thường Bất Khinh Bồ Tát. Khi Bồ Tát hành Bồ Tát đạo, tu Phổ Hiền hạnh, tâm lượng Phổ Hiền hạnh rộng lớn khôn sánh, đối với bất cứ chúng sanh nào trong pháp giới đều giữ tấm ḷng cung kính, quyết định chẳng ngạo mạn. Thường Bất Khinh Bồ Tát đối với bất cứ ai cũng đều đảnh lễ, đều khen ngợi, đoạn sạch sành sanh thói kiêu căng ngă mạn từ vô thỉ kiếp tới nay. Thường Bất Khinh Bồ Tát thường bị đánh đập, Ngài có tâm oán hận hay không? Mảy may tâm oán hận cũng chẳng có. Người hiện thời chẳng chịu nổi, hễ có đôi chút thái độ nào không đúng cho lắm bèn ngă ḷng, người như vậy làm sao có thể thành công cho được? Chẳng thể nhẫn! Trong nguyên tắc tu hành của Bồ Tát có Nhẫn Nhục Ba La Mật. Kinh Kim Cang dạy: “Nhất thiết pháp đắc thành ư Nhẫn” (Hết thảy các pháp do Nhẫn mà thành tựu). Quư vị chẳng thể nhẫn, há c̣n có thành tựu chi nữa? Chúng ta đọc Thiền Lâm Bảo Huấn, xem gương của cổ nhân, [hễ thấy] trong một đạo tràng nào thật sự có pháp, bèn cam tâm chịu đựng hết thảy nhục mạ, khinh thường, ta cũng nhất quyết chẳng bỏ đi, ta đến đây để học pháp! Có như vậy th́ mới có thể thành tựu.

      Trong Thiền Lâm Bảo Huấn có chuyện một vị lăo ḥa thượng nh́n trúng một người học tṛ. Người học tṛ ấy là pháp khí, nhưng phải rèn luyện người ấy, xem thử người ấy rốt cuộc có đúng [là pháp khí] hay không? Đối trước công chúng, Sư chưa hề lộ vẻ mặt tử tế với người ấy, luôn kiếm chuyện gây khó dễ, muốn tống cổ người ấy đi. Đại chúng và đồng học thấy sư phụ chẳng có ấn tượng tốt đối với người ấy, nên họ cũng lăng nhục, khinh nhờn người ấy gấp bội. Người ấy đều chịu đựng được. Có lần, lăo ḥa thượng đem nước rửa chân hắt lên thân người ấy, tạt lên đầu, người ấy vẫn có thể chịu đựng, vẫn chẳng bỏ đi. Chẳng bỏ đi th́ lăo ḥa thượng chẳng khách sáo nữa, dời đơn[3], đuổi người ấy đi. Đơn đă bị dời th́ chẳng thể không đi, đi đến nơi đâu? Bỏ ra ngoài cửa. Lăo ḥa thượng giảng kinh, thuyết pháp, người ấy núp ngoài cửa sổ nghe, vẫn chẳng đi. Lăo ḥa thượng có biết hay không? Biết chứ! Biết người ấy có thành tựu. Có một ngày, lăo ḥa thượng muốn truyền pháp, mọi người đều chẳng biết lăo ḥa thượng sẽ truyền cho ai. Lăo ḥa thượng nói: “Kẻ ở ngoài cửa c̣n chưa đi, hăy t́m nó đến đây!” Nguyên lai là truyền cho người ấy! Mới biết lăo ḥa thượng dụng tâm, thành tựu Nhẫn Nhục Ba La Mật cho người ấy. Sau khi đă có Nhẫn th́ mới có Định, có Định rồi mới có Huệ, đấy mới là pháp khí thật sự, là vật báu của đất nước. Gây đôi chút khó chịu, bèn bỏ đi, [người như vậy] chẳng thể thành tài, giữ kẻ ấy lại sẽ vô dụng! Đúng như vậy đó, người như vậy thêm hay bớt một kẻ cũng chẳng sao cả!

      Tông Thiên Thai nói: “Nói được, chẳng làm được, chính là bậc quốc sư”. Có thể làm bậc thầy của đất nước, chỉ dạy mọi người. Những ǵ người ấy nói chính là Chánh Pháp, kiến giải chẳng sai, người ấy chẳng làm được [những ǵ đă nói] lại là chuyện khác nữa. Người ấy nói chẳng sai, Phật môn nói là “phá giới, chẳng phá kiến” bèn là quốc sư. “Nói được, lại làm được, vật báu của đất nước. Làm được, chẳng nói được, hiền nhân của đất nước”. Nhất định là phải tu Nhẫn Nhục Ba La Mật! Pháp thế gian chẳng thể nhẫn th́ c̣n chưa thể thành tựu, huống hồ Phật pháp? Phật pháp là vô thượng đại pháp trong thế gian và xuất thế gian, chẳng nhẫn th́ làm sao thành tựu cho được?

      [Tổ Liên Tŕ] nêu ra ba điều, pháp sư Cổ Đức đă chú giải cho chúng ta. Những điều khác, đại sư chẳng trích dẫn, chúng tôi cũng muốn nói. Thứ tư là…

 

      Tứ, ư nhất thiết pháp, phát sanh thắng nhẫn, vô chấp trước tâm.

      四、於一切法發生勝忍無執著心。

(Bốn là trong hết thảy các pháp, phát sanh nhẫn thù thắng, chẳng có tâm chấp trước).

 

      Đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, phải phát khởi ḷng kiên nhẫn thù thắng nhất, có ḷng kiên nhẫn khôn sánh để tu học. Tuy tu học, chẳng chấp trước hết thảy các pháp th́ mới có thể thật sự thông đạt hết thảy các pháp. V́ sao? Hễ chấp trước pháp, sẽ là phạm lỗi, chấp trước biến thành ǵ? Biến thành thành kiến, chẳng phải là Kiến Thủ Kiến th́ sẽ là Giới Thủ Kiến, biến thành tà kiến. Bất luận là đối với pháp thế gian hay pháp xuất thế gian, bất luận Lư hay Sự, nhân hay quả, điều ǵ ta cũng đều thông đạt, chẳng chấp trước điều ǵ. V́ sao không chấp trước? V́ “hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”, chẳng chấp trước là huệ, chấp trước là phạm sai lầm. Người khéo học, đối với những chỗ sáu căn tiếp xúc đều là trí huệ, đều là trí huệ hiện tiền. Người chẳng biết học, những chỗ sáu căn tiếp xúc sẽ đều là chướng ngại! Học Phật pháp bèn chết cứng nơi kinh Phật. Cổ đức bảo: “Y văn giải nghĩa, tam thế Phật oan”, Phật phải than oan uổng! Chẳng phải là đức Phật nói như vậy, những điều đức Phật giảng “ư ở ngoài lời”, quư vị ngỡ là thật, luôn chấp trước, nên Phật bị oan uổng! Khéo sao trong kinh Kim Cang, đức Phật đă nói rất hay: “Phật vô hữu định pháp khả thuyết” (Phật chẳng có pháp nhất định nào để có thể nói), cuối cùng là “Phật vô pháp khả thuyết” (Phật chẳng có pháp nào để có thể nói). Khi nào quư vị nghe Phật pháp? Nếu ai nói đức Phật thuyết pháp, đó là báng Phật, Phật chẳng hề thuyết pháp! Những lời này nói rất hay! Hết thảy các pháp đă nói trong bốn mươi chín năm bị phủ định hoàn toàn, đức Phật chẳng nói một câu nào, chẳng nói một chữ nào. Nếu quư vị nói ta đă nói năng ǵ đó tức là báng Phật. Hay lắm! Điều này có ư nghĩa nhằm bảo quư vị đừng nên chấp trước hết thảy. Chớ nên chấp trước th́ hết thảy các pháp do đức Phật đă nói bèn tương ứng với tự tánh của chúng ta. Mở kinh Phật ra, nghe đức Phật giảng kinh, thuyết pháp, hoàn toàn là do tự tánh lưu lộ; đó là đúng, đó mới là nghĩa chân thật của Phật. Bài kệ Khai Kinh có câu “nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”, có như vậy th́ mới là ư nghĩa chân thật của Phật.

      Đấy chính là phải “thắng nhẫn”, đặc biệt là trong giai đoạn thứ nhất. Điều được mong cầu trong giai đoạn thứ nhất là Căn Bản Trí, tức là “Bát Nhă vô tri” như kinh Bát Nhă đă nói. Trước hết, phải có ḷng nhẫn nại để cầu vô tri, đă vô tri rồi th́ mới có thể cầu “vô sở bất tri” (không ǵ chẳng biết). Giống Thiện Tài đồng tử trong pháp hội thuộc phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm, hội ấy chính là hội của Văn Thù Bồ Tát, sở học của Thiện Tài là vô tri. Nói cách khác, chính là tu tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng, tu những tâm ấy. Chẳng cầu hiểu biết nhằm thành tựu Căn Bản Trí, thành tựu vô tri mà! Sau đấy mới đi tham học, từ tỳ-kheo Đức Vân măi cho đến Phổ Hiền Bồ Tát, [tham học với] năm mươi ba vị thiện tri thức, đó là “không ǵ chẳng biết”, được gọi là Hậu Đắc Trí. Do đó, kinh Bát Nhă nói: “Bát Nhă vô tri, không ǵ chẳng biết”. Do vậy, [quá tŕnh] tu học của Ngài gồm hai giai đoạn, trong giai đoạn thứ nhất, phải có ḷng kiên nhẫn, phải nhẫn nại. Hiện thời, chúng ta phạm phải khuyết điểm là điên đảo, vừa khởi đầu bèn mong “không ǵ chẳng biết”, học đến cuối cùng sẽ là “thứ ǵ cũng đều không biết”, phạm phải khuyết điểm to lớn, hoàn toàn trái nghịch lời dạy bảo của đức Phật, học thứ này thứ nọ nhưng chẳng biết học từ căn bản.

      Học theo căn bản, kinh Phật thường dùng cây cối để tỷ dụ. Quư vị muốn trồng cây, trước hết phải gieo hạt của cây ấy xuống đất. [Thoạt đầu] thứ ǵ cũng đều chẳng thấy, rất lâu sau mới nẩy mầm thành một chồi cây nhỏ, phải mất vài năm, cây mới có thể mọc lớn, đơm hoa, kết quả. Người hiện thời chẳng cần rễ cây lẫn mầm cây, cứ mong hoa quả! Có thể đạt được hoa quả hay không? Có thể đạt được! Hoa quả ở trong b́nh rất nhiều, thiếu rễ, sẽ chết rụi! Từ vô tri đến “không ǵ chẳng biết” th́ sống. Vừa bắt đầu liền học “không ǵ chẳng biết”, thứ ǵ cũng đều học th́ chết cứng! Chết cứng là sao? Chẳng có trí huệ. Xác thực hoàn toàn là vô minh, là vọng tưởng, là tà kiến, chẳng phải là sống động. Sống động là trí huệ. Ở đây, chúng ta nhất định phải nhận biết rơ ràng giáo pháp cao minh của đức Phật. Từ mấy ngàn năm qua, tại Trung Hoa, tại ngoại quốc, những vị đại đức thuộc hàng xuất gia hay tại gia đă nương theo phương pháp này để tu học đều thành tựu. Trong thời đại của chúng ta, v́ sao chẳng có cao tăng đại đức xuất hiện? Phương pháp sai lầm. Tuyệt đối chẳng phải là do sự thông minh và trí huệ của chúng ta không bằng cổ nhân, mà là do phương pháp sai lầm, bày vẽ kiểu mới, lập ra phương cách khác lạ, chẳng biết tuân thủ các phương pháp trong quá khứ, chính ḿnh sáng chế một kiểu cọ mới mẻ, vấn đề bèn to đùng!

 

      Ngũ, bất tham lợi dưỡng, cung kính, tôn trọng, tịnh ư nhạo tâm.

      五、不貪利養恭敬尊重淨意樂心。

(Năm, chẳng tham lợi dưỡng, tâm cung kính, tôn trọng, ư ưa thích thanh tịnh).

 

      Đây cũng là chướng ngại rất lớn trong việc học Phật: Danh vọng, lợi dưỡng! Nhất là trong thời đại hiện tại, đủ mọi thứ! Những ǵ lục căn tiếp xúc có thể nói đều là sự dụ dỗ, mê hoặc ở mức độ cao nhất. Thời cổ chẳng có nhiều dụ dỗ, mê hoặc ngần ấy, c̣n hiện thời, nói thật ra, dụ dỗ, mê hoặc quá nhiều. Gần như là những ǵ quư vị mắt thấy, tai nghe toàn là dụ dỗ, mê hoặc, há quư vị có thể chẳng động tâm ư? Trong các buổi giảng, chúng tôi cũng thường khuyên lơn, khích lệ các đồng học, tôi nói: Nay chúng ta học Phật, chúng ta nằm trong ḷng bàn tay của ma. Tứ đại ma vương x̣e rộng tay, chúng ta chẳng có cách nào vượt khỏi bàn tay của họ, c̣n có thể thành tựu ǵ chăng? Tôi chẳng nói tới tứ đại ma vương như kinh Bát Đại Nhân Giác đă giảng, mà là nói đến “tài, sắc, danh, lợi”, tứ đại ma vương ấy, mấy ai có thể nhảy ra khỏi ḷng bàn tay của chúng nó? Quư vị chẳng nhảy thoát khỏi ḷng bàn tay của chúng nó, c̣n nói tới thành tựu chi nữa? Chẳng văng sanh được! Văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới th́ tâm phải thanh tịnh mới ḥng văng sanh, tâm tịnh, ắt cơi nước tịnh. Trong tâm c̣n có những thứ ấy, bên ngoài là tài, sắc, danh, lợi, trong là tham, sân, si, mạn, chẳng đọa vào địa ngục A Tỳ là đă may mắn quá rồi, c̣n có thành tựu chi nữa? Do vậy, các đồng tu học Phật phải có tâm cảnh giác cao độ, thời thời khắc khắc cảnh giác.

      Đầu tập sách kỷ niệm pháp sư Ấn Quang có đề mấy chữ Sanh, Tử, tôi phóng to chữ ấy ra, in thành rất nhiều bản, hy vọng các đồng tu thỉnh về, dán ở chỗ thường trông thấy nhất trong nhà của chính ḿnh để tự nhắc nhở, trọng yếu lắm! Thường nghĩ đời người sống trên thế gian rỗng tuếch, giống như nằm mộng, cũng giống như diễn tuồng, giả trất, chẳng thật! Ǵ là thật? Tạo nghiệp là thật. Phật môn thường nói “muôn thứ chẳng mang được, chỉ có nghiệp theo thân”. “Chẳng mang theo được” tức là quư vị chẳng đạt được ǵ, thứ ǵ cũng chẳng cầm theo được. Thứ quư vị có thể cầm theo được là ǵ? Nghiệp. Nghiệp chướng là thứ quư vị có thể cầm theo. Trừ thứ ấy ra, bất luận là quá khứ, hiện tại, vị lai, thứ ǵ quư vị cũng đều chẳng đạt được, toàn là giả. Trong thế gian này có ǵ đáng cho quư vị tranh giành? Khởi tâm động niệm tranh danh, đoạt lợi, tạo nghiệp đấy nhé! Người sáng mắt thấy rơ, [những kẻ tranh danh đoạt lợi] đáng thương thay! Hạng người ấy đáng thương nhất. Thứ ǵ cũng đều chẳng cần, suốt ngày từ sáng đến tối thật thà niệm A Di Đà Phật, người ấy có phước, thật sự rất lỗi lạc! Nhưng người thế gian coi kẻ ấy là vô dụng, tiêu cực! Người thế gian thấy hạng người như vậy tiêu cực, nhưng Phật, Bồ Tát thấy hạng người ấy thật sự có phước. [Những kẻ] hằng ngày tranh danh đoạt lợi, người thế gian thấy: Người ấy rất tài ba, có rất nhiều biện pháp. Phật thấy kẻ ấy quá sức đáng thương! Hiện tại tạo nghiệp, trải qua mấy năm bèn chịu báo, quả báo liền xảy tới. Đó là sự thật, nhất định phải nhận biết rơ ràng th́ chúng ta mới có thể thật sự hờ hững đối với tài, sắc, danh, lợi, biết những thứ ấy là có hại, chẳng có lợi ích ǵ! Nói thật ra, chúng có trăm điều hại, chẳng có lợi một điều nào, chẳng có tí ti lợi ích nào! Chúng ta đời đời kiếp kiếp học Phật mà đều chẳng có thành tựu là do bị những thứ ấy làm hại. Đời này vẫn bị chúng nó hăm hại, lại lỡ làng mất rồi, phải cảnh tỉnh chính ḿnh!

 

      Lục, cầu Phật Chủng Trí, ư nhất thiết thời, vô vong thất tâm.

      六、求佛種智於一切時無忘失心。

(Sáu, cầu Chủng Trí của Phật, trong hết thảy các thời, tâm chẳng quên mất).

 

      Phần trước là nói về chuyện đoạn phiền năo. Phiền năo đoạn sạch, bèn cầu trí huệ. Phật pháp là pháp trí huệ, Phật giáo là giáo dục trí huệ. Chỉ có trí huệ th́ mới có thể thấy rơ ràng chân tướng của hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian. Chỉ có trí huệ th́ mới biết: Trong thế gian và xuất thế gian, bản thân chúng ta phải nên làm theo cách nào, mới ḥng có thể thật sự ĺa khổ, được vui! Phá mê khai ngộ, sẽ ĺa khổ, được vui. Khổ là do mê hoặc, điên đảo mà có, lạc là do khai ngộ mà đạt được. Từ nay trở đi, chẳng c̣n tạo nghiệp nữa. Không chỉ là chẳng tạo ác nghiệp, mà thiện nghiệp cũng chẳng tạo. Nhưng chư vị phải hiểu rơ: Chẳng phải là Phật pháp thường dạy chúng ta tu Thập Thiện Nghiệp Đạo đó ư? Cớ sao thiện nghiệp cũng chẳng tạo? Đoạn hết thảy ác, tu hết thảy thiện, mà nếu quư vị chấp tướng, sẽ là quả báo hữu lậu trong thế gian. Đoạn ác tu thiện chẳng chấp tướng th́ chẳng gọi là thiện hay ác nghiệp, mà gọi là tịnh nghiệp. Chư vị nghĩ xem: Danh từ “tịnh nghiệp” danh phù hợp thực, mục tiêu của nó là “tu tâm thanh tịnh, đoạn ác”. Ta tu tâm thanh tịnh, tu thiện, vẫn là tu tâm thanh tịnh, mục đích chỉ là tu “thanh tịnh, b́nh đẳng” mà thôi, đó là tịnh nghiệp. Tây Phương Tịnh Độ cần phải có tịnh nghiệp th́ mới có thể thành tựu, chớ nên quên điều này!

 

      Thất, ư chư chúng sanh, tôn trọng, cung kính, vô hạ liệt tâm.

      七、於諸眾生尊重恭敬無下劣心。

(Bảy, đối với các chúng sanh tôn trọng, cung kính, chẳng có tâm kém hèn).

 

      Nói thật ra, câu này là điều được tu tập bởi Thường Bất Khinh Bồ Tát, quyết định chớ nên khinh dễ hết thảy chúng sanh. Khinh dễ hết thảy chúng sanh, sai mất rồi! Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, hết thảy chúng sanh vốn đă thành Phật, làm sao có thể khinh dễ họ cho được? Thường Bất Khinh Bồ Tát biết chân tướng sự thật này, nên Ngài mới thật sự triệt để làm được “lễ kính chư Phật”.

 

      Bát, bất trước thế luận, ư Bồ Đề phần, sanh quyết định tâm.

      八、不著世論於菩提分生決定心。

(Tám, chẳng chấp trước những luận định thế gian, sanh tâm quyết định đối với Bồ Đề phần).

 

“Trước” () là chấp trước. [“Trước thế luận”] là chấp trước những ngôn luận phê b́nh hoặc cách nh́n của người thế gian. Nếu quư vị chấp trước những điều ấy, sẽ chẳng thể tu Phật pháp. Trong kinh Bảo Tích, đức Phật dạy chúng ta: Bất luận người thế gian b́nh luận như thế nào, chẳng cần phải bận tâm. V́ sao? Người thế gian là Thế Trí Biện Thông, nói thật thà, năng lực của họ c̣n thua cả A La Hán. A La Hán đă đoạn Kiến Tư phiền năo, c̣n các triết gia, nhà khoa học, nhà tôn giáo trong thế gian đều chưa đoạn Kiến Tư phiền năo, hăy c̣n thị phi, nhân ngă, tham, sân, si, mạn. Không chỉ người đời là như vậy, chư thiên cũng chẳng phải là ngoại lệ, dẫu đạt đến Sắc Giới Thiên hay Vô Sắc Giới Thiên, phiền năo vẫn chẳng đoạn. Chẳng đoạn phiền năo th́ tri kiến của kẻ ấy là t́nh kiến, [tức là] tri kiến phát xuất từ cảm t́nh, chẳng phải là chánh tri chánh kiến. Họ phê b́nh, lẽ nào chúng ta có thể quan tâm? Nhưng trong thế gian này, họ đông người, chúng ta ít người, chúng ta nói chẳng lại họ. Chúng ta nói một câu, họ nói mười câu! Trong t́nh huống ấy, họ nói cứ nói, ta làm chuyện của ta. Dẫu họ nói nhiều cách mấy, cũng chẳng ảnh hưởng đến ta, ta vẫn là một câu A Di Đà Phật. Quư vị nói ta tiêu cực, ta cũng A Di Đà Phật; quư vị quở ta mê tín, ta vẫn một câu A Di Đà Phật, trọn chẳng lay động!

Nhất là trong thời kỳ Mạt Pháp, kinh Lăng Nghiêm nói thời đại này “tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng”, chúng ta rốt cuộc nghe lời ai? Nói ngay trong Phật môn, pháp sư này nói pháp môn này hay, bộ kinh này hay, pháp sư kia nói bộ kinh kia hay, pháp môn kia hay. Tiếp xúc mấy vị pháp sư bèn chẳng biết học môn nào th́ mới nên. Tôi thường gặp lắm! Gặp người đến nói với tôi họ thân cận vị pháp sư nào đó, dạy họ pháp môn ǵ đó, pháp sư nọ cũng có pháp môn [hay lắm]. Tôi nói: “A Di Đà Phật! Quư vị thấy pháp sư nào là tốt, tốt nhất là hăy theo học với pháp sư đó th́ mới có thể thành tựu. Môn nào cũng đều hay, chẳng có môn nào không hay, nhưng chỉ cần học một môn là được rồi. Học hai ba môn sẽ không hay! Giống như giảng đường này có rất nhiều cửa, theo mỗi cửa để tiến vào đều được. Quư vị muốn đồng thời bước vào bằng hai cửa hoặc ba cửa sẽ không bước vào được. V́ sao? Quư vị chẳng bước vào được! Nhất định phải là một môn thâm nhập”.

      Một môn thâm nhập, v́ sao chúng ta chọn lựa pháp môn Tịnh Độ? Ấy là v́ bản thân chúng ta chẳng có trí huệ, chẳng có năng lực, chính ḿnh chẳng biết căn tánh của chính ḿnh, chẳng biết phải nên chọn lựa như thế nào! Pháp môn này do Thích Ca Mâu Ni Phật và hết thảy chư Phật chọn lựa cho bọn hồ đồ chúng ta. Ta thừa nhận chính ḿnh chẳng [chọn lựa] được, Phật thay ta chọn lựa, ta bèn y giáo phụng hành, đó là đúng. Chính ḿnh có năng lực, sẽ chẳng cần đức Phật chọn lựa giùm ta, mà là chính ḿnh chọn lấy. Bản thân ta chẳng có năng lực, Phật thay ta chọn lựa, ta đương nhiên tiếp nhận. Đấy là nên quyết trạch (chọn lựa nhất quyết) pháp môn như thế nào. Sau khi đă quyết định, chẳng thay đổi ư niệm, nhất tâm nhất ư tu học, quyết định có thành tựu.

 

      Cửu, chủng chư thiện căn, vô hữu tạp nhiễm, thanh tịnh chi tâm.

      九、種諸善根無有雜染清淨之心。

(Chín, gieo các thiện căn chẳng có tạp nhiễm, tâm thanh tịnh).

 

      “Thiện căn”: Kinh Vô Lượng Thọ nói đến thiện căn bèn chỉ thẳng: “Một mực chuyên niệm”. Gieo thiện căn là ǵ? Quư vị niệm một câu Nam-mô A Di Đà Phật là gieo thiện căn. Chúng ta đă thấy điều này trong kinh Vô Lượng Thọ; xưa nay, các vị tổ sư đại đức khác miệng cùng lời bảo chúng ta: “Câu Phật hiệu này là tốt lành nhất trong các điều lành, tổng tŕ vô lượng pháp môn, hết thảy chư Phật đều do niệm Phật mà thành Phật, chẳng có ǵ tốt lành hơn điều này”. V́ thế, tín nguyện tŕ danh là gieo thiện căn viên măn tối thắng bậc nhất, chẳng giả tí nào!

 

      Thập, ư chư Phật xả ly chư tướng, khởi tùy niệm tâm.

      十、於諸佛捨離諸相起隨念心。

(Mười, đối với chư Phật bỏ ĺa các tướng, khởi tâm tùy niệm).

 

      Chúng ta hăy xem sách Diễn Nghĩa chú giải:

 

      (Diễn) Xả ly chư tướng giả, thị niệm chư Phật Thật Tướng thân, tức sở vị: Sắc thân phi thị Phật, âm thanh diệc phục nhiên. Nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai dă.

()捨離諸相者,是念諸佛實相身,即所謂色身非是佛,音聲亦復然,若見諸相非相,即見如來也。

(Diễn: “Bỏ ĺa các tướng” là niệm thân Thật Tướng của chư Phật, nghĩa là nói: “Sắc thân chẳng là Phật, âm thanh cũng như vậy”. Nếu thấy các tướng chẳng phải là tướng, chính là thấy Như Lai vậy).

 

      “Ư chư Phật xả ly chư tướng”: Niệm Phật như vậy, thưa cùng quư vị, chính là Thật Tướng Niệm Phật trong bốn cách niệm Phật, bọn sơ học chúng ta chẳng làm được! Kẻ sơ học phải chấp tướng niệm Phật, phải từ hữu tướng niệm đến vô tướng. Nếu chúng ta niệm theo kiểu chấp tướng niệm Phật mà niệm c̣n không nên hồn, mong học cách ly tướng niệm Phật chắc chắn chẳng làm được! Nhưng phải biết sự thật này xác thực là có, nó thuộc về pháp môn Niệm Phật bậc cao. Từ “sắc thân phi thị Phật” (sắc thân chẳng phải là Phật) cho đến “nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai” (nếu thấy các tướng chẳng phải là tướng chính là thấy Như Lai) chính là kinh văn trích từ kinh Kim Cang, mấy câu kinh văn ấy có ư nghĩa rất sâu. Khi nào th́ mới có thể thấy? Phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân, sẽ là cảnh giới này. Khi ấy, sẽ văng sanh Tây Phương Tịnh Độ, sanh trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm, chẳng phải là cơi Phàm Thánh Đồng Cư. Tâm địa thật sự đạt đến thanh tịnh, b́nh đẳng, giác, sáu căn tiếp xúc cảnh giới bên ngoài đều nhất loạt b́nh đẳng, v́ sao? Người ấy chẳng có hết thảy phân biệt, chấp trước, vọng tưởng. Phân biệt, chấp trước, vọng tưởng đều đoạn sạch, vạn pháp như một, tánh tướng bất nhị, nhập cảnh giới này, Thiền Tông gọi là “minh tâm kiến tánh”. Tánh là ǵ? Tánh là pháp b́nh đẳng, tánh là “các tướng chẳng phải là tướng”. Đó là kiến tánh. “Khởi tùy niệm tâm”, phải hiểu tùy niệm tâm như thế nào? “Tùy” () là tùy thuận, nói thật ra chính là “hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức” trong mười nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát. Có thể thấy: Để hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức, phải phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân, bậc Pháp Thân đại sĩ mới có thể làm đạt được, chúng ta chẳng làm được.

 

      (Diễn) Tùy, thuận dă, vị thuận lư chi niệm, tức Thiên Thai sở vị “an trụ Trung Đạo, bất vị nhị biên sở động”, danh chi vi niệm dă.

      ()隨,順也,謂順理之念,即天台所謂安住中道,不為二邊所動,名之為念也。

(Diễn: Tùy là thuận, ư nói: Niệm thuận theo Lư, tức là như tông Thiên Thai đă nói: “Trụ yên nơi Trung Đạo, không bị lay động bởi hai bên” nên gọi là Niệm).

 

      Tông Thiên Thai nói rất chánh xác, nhưng chúng ta không dễ thấu hiểu ư nghĩa của họ. Tôi vừa mới nêu ra hai nguyện trong Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, chắc là dễ hiểu hơn đôi chút, đó là ư nghĩa của Thiên Thai đại sư. Thật sự có thể đạt đến thần thông du hư, Lư Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại, thật sự đắc đại tự tại, bèn gọi là “khởi tùy niệm tâm”. Đó cũng chính là như kinh Kim Cang đă dạy: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (Hăy nên không trụ vào đâu mà sanh tâm). “Ư chư Phật xả ly chư tướng” (Xả ĺa các tướng nơi chư Phật) chính là “ưng vô sở trụ”. “Khởi tùy niệm tâm” chính là “nhi sanh kỳ tâm”. Cách nói khác nhau, nhưng cảnh giới hoàn toàn giống nhau.

 

      (Sao) Cụ thử thập tâm, văng sanh Tịnh Độ.

      ()具此十心,往生淨土。

(Sao: Đầy đủ mười tâm ấy sẽ văng sanh Tịnh Độ).

 

      Văng sanh Tịnh Độ cũng chẳng đơn giản. Tôi đă giới thiệu đại lược “mười tâm” cùng quư vị, điều sau sâu hơn điều trước, điều trước cạn, điều sau sâu. Văng sanh như thế nào? Nói thật ra, khái quát là bốn cơi, ba bậc, chín phẩm. Điều cuối cùng nói tới chuyện sanh trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Điều thứ nhất và thứ hai nói về cơi Phàm Thánh Đồng Cư. Xét như vậy, tâm chúng ta lại thêm thực tế hơn một chút, điều sau làm không được, nhưng hai điều trước có lẽ là có thể làm được. Cơi Thật Báo chẳng có phần, nhưng cơi Đồng Cư vẫn có phần. Mọi người phải đặc biệt chú ư ba điều trước, v́ sao? Đó là điều kiện để sanh vào cơi Phàm Thánh Đồng Cư. Tuy suốt ngày từ sáng đến tối niệm Phật, nhưng chẳng hội đủ [những điều kiện ấy], sẽ không được! Nhưng tôi thưa cùng quư vị, quả nhiên là thật thà niệm Phật th́ một câu Phật hiệu thảy đều trọn đủ những điều ấy, quyết định được văng sanh, chúng ta chớ nên hoài nghi! Nhưng trong cuộc sống hằng ngày, xử sự, đăi người, tiếp vật phải biết nguyên tắc ấy, phải ghi nhớ những lời khai thị này của đức Phật. Thật ra, đối với những lư luận, phương pháp, và giáo huấn do đức Phật đă giảng, có thể nói là trong kinh Vô Lượng Thọ đều có đầy đủ, xác thực là “một chính là hết thảy, hết thảy chính là một”.

 

      (Sao) Hoa Nghiêm thập nguyện giả, nhất giả lễ kính chư Phật, năi chí thập, phổ giai hồi hướng, diệc dĩ thử thập, sanh bỉ quốc độ.

()華嚴十願者,一者禮敬諸佛,乃至十普皆迴向,亦以此十生彼國土。

(Sao: “Mười nguyện Hoa Nghiêm”: Một là lễ kính chư Phật, cho đến mười là hồi hướng khắp cả, cũng dùng mười điều này để sanh vào cơi nước ấy).

 

      Kinh Hoa Nghiêm đến cuối cùng, Phổ Hiền Bồ Tát dùng mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc, các đồng tu chúng ta đều biết điều này. Trong ấy, có ư nghĩa sâu rộng, chẳng có mấy người biết! Mọi người đều biết kinh Hoa Nghiêm, trong toàn thể Phật pháp, nó đại diện cho pháp luân viên măn, trong hết thảy các kinh, [kinh Hoa Nghiêm] được gọi là “vua của các kinh”, thường nói “hết thảy các kinh đều là quyến thuộc của Hoa Nghiêm”. Hoa Nghiêm giống như một cái cây, nó là cội gốc, hết thảy các kinh đều là cành lá, quư vị mới hiểu tầm trọng yếu của kinh Hoa Nghiêm.

      Đức Thế Tôn nói “thành Phật trong một đời”, chỉ có ḿnh kinh Hoa Nghiêm là nói viên măn rốt ráo chuyện “thành Phật trong một đời”. Nhưng thật sự đạt tới viên măn rốt ráo th́ chính là đến cuối cùng, mười đại nguyện vương của Phổ Hiền dẫn về Cực Lạc. Nói cách khác, nếu không cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, sẽ chẳng thể viên măn! Cổ đức thấy điều này, mới nói “Hoa Nghiêm và Pháp Hoa dẫn đường cho kinh Vô Lượng Thọ”. Thật sự thâm nhập Đại Thừa, quư vị sẽ tin tưởng và có thể tiếp nhận cách nói này của cổ đức. Sau đó mới hiểu giá trị và địa vị chiếm lănh trong toàn thể Phật pháp của kinh Vô Lượng Thọ.

      Kinh Hoa Nghiêm dẫn đường là dẫn về đâu? Dẫn về kinh Vô Lượng Thọ. Kinh này (kinh Di Đà) là Tiểu Bổn của kinh Vô Lượng Thọ, kinh Di Đà và kinh Vô Lượng Thọ cùng bộ, chỉ là nói rộng răi hay nói đại lược mà thôi. Tuy kinh A Di Đà nói đại lược, nhưng do có thêm bộ Sớ Sao của Liên Tŕ đại sư và sách Diễn Nghĩa, nên lại c̣n nói rộng răi, rơ ràng, minh bạch hơn kinh Vô Lượng Thọ. Nếu thấy Sớ Sao Diễn Nghĩa là một bộ sách to như thế, niệm sẽ rất khó khăn, quư vị hăy niệm kinh Vô Lượng Thọ, niệm bản đơn giản ấy. [Niệm Sớ Sao Diễn Nghĩa] sẽ biến thành phức tạp, Tiểu Bổn biến thành Đại Bổn, Đại Bổn [so với Sớ Sao Diễn Nghĩa] lại biến thành Tiểu Bổn. Có thể thấy là lớn hay nhỏ chẳng có nhất định, nó có thể biến hóa. Nhận thức rơ ràng kinh Vô Lượng Thọ, nhận thức rơ ràng pháp môn này, chúng ta mới có thể hạ quyết tâm, đời này chẳng c̣n thay đổi nữa, nghiêm túc tu học, chính ḿnh tràn trề tín tâm, quyết định thành tựu trong một đời này, công đức lợi ích thù thắng khôn sánh!

      Nh́n th́ dễ dàng, thật ra chẳng dễ dàng, chúng ta đọc kinh Đại Thừa nhiều, sẽ hiểu: Nếu chẳng phải là thiện căn, phước đức, và nhân duyên trong đời quá khứ đă chín muồi trong một đời này th́ trong kiếp sống này, sẽ chẳng làm được! Quư vị chẳng gặp kinh điển này! Dẫu có gặp, cũng chẳng tin tưởng. Có tin tưởng th́ quư vị cũng không chịu nghiêm túc tu hành. Một người có thể tín, có thể nguyện, có thể hành, phải là do thiện căn trong vô lượng kiếp quá khứ tới nay đă chín muồi, đồng thời được mười phương ba đời hết thảy chư Phật Như Lai âm thầm gia tŕ. Đó là nhân duyên tụ hội, khiến cho chúng ta trong một đời này có thể vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, văng sanh bất thoái thành Phật. Chẳng gặp được nhân duyên này! Ông Bành Tế Thanh nói: “Một ngày hiếm có khó gặp từ vô lượng kiếp đến nay”. Lời ấy là thật, chẳng giả tí nào! Hiếm có, khó gặp, nay chúng ta đă gặp gỡ. Đă gặp gỡ, há nên khinh thường, vứt bỏ? Nhất định là phải trân trọng. Hôm nay đă hết thời gian rồi!

A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa

Phần 109 hết

 



[1] Câu chuyện này trích từ kinh Đại Bát Niết Bàn, phẩm Thánh Hạnh. Thuở ấy, đức Phật làm Bà-la-môn, tu hạnh Bồ Tát, nên kinh gọi Ngài là “tiên nhân”. Ngài chẳng được nghe kinh điển Đại Thừa, thậm chí tên gọi Phương Đẳng cũng chẳng được nghe. Do tu hành tinh tấn, nên Ngài mong được nghe biết kinh điển Đại Thừa. Chư thiên trông thấy, tán thán, khen ngợi. Đế Thích hóa thành La Sát, nói nửa bài kệ: “Các hành vô thường, là pháp sanh diệt”. Tiên nhân v́ nửa bài kệ c̣n lại mà xả thân cúng dường, quỷ La Sát bèn nói tiếp: “Sanh diệt diệt xong, là vui tịch tịnh”.

[2] Sa mạc Gobi (người Hoa c̣n gọi nó là Hàn Hải) rất lớn, diện tích đến 1.295.000 km2, nằm giữa miền Bắc Trung Hoa và Nam Mông Cổ, được bao bọc bởi rặng núi Altai và thảo nguyên Mông Cổ ở phía Bắc, tiếp giáp sa mạc Taklamakan ở phía Tây và hành lang Hà Tây và cao nguyên Tây Tạng. Sa mạc Gobi mỗi năm lớn dần với tốc độ đáng ngại do các hoạt động tàn phá như đốt rừng, chăn nuôi, tàn phá nguồn nước, khai thác quặng vô kế hoạch v.v… của Trung Cộng.

[3] Nguyên văn là “thiên đơn” (遷單). Đơn () là một tấm ván có bề ngang đủ rộng cho đúng một người nằm, dùng thay cho giường trong tăng pḥng. Hễ trở ḿnh không khéo sẽ rơi xuống đất. Khi xin nhập chúng, nếu thường trụ chấp nhận, sẽ cho kê đơn trong tăng đường cho ở, gọi là “quải đơn” (). Khi vị khách tăng ấy, xin giă từ ra đi, bèn gọi là “trừu đơn” (: rút đơn). C̣n “thiên đơn” là dẹp bỏ đơn của người ấy, tỏ thái độ thẳng thừng không cho người ấy ở nữa.