A Di Đà Kinh Sớ
Sao Diễn Nghĩa
阿彌陀經疏鈔演義
Phần 110
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Minh Tiến, Huệ Trang và
Đức Phong
Tập
219
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn
Nghĩa Hội Bản, trang bốn trăm ba mươi ba:
(Sao)
Hoa Nghiêm thập nguyện giả, nhất giả lễ
kính chư Phật, năi chí thập, phổ giai hồi hướng,
diệc dĩ thử thập sanh bỉ quốc độ.
(鈔)華嚴十願者,一者禮敬諸佛,乃至十普皆迴向,亦以此十生彼國土。
(Sao: “Mười nguyện
trong Hoa Nghiêm”: Một là “lễ kính chư Phật”, cho đến
mười là “hồi hướng trọn khắp”, cũng
dùng mười điều này để sanh về cơi kia).
Đây
là điều kiện văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới của bốn mươi mốt địa
vị Pháp Thân đại sĩ trong hội Hoa Nghiêm. Những
vị Bồ Tát ấy chẳng phải là Bồ Tát b́nh phàm,
mà đều là bậc Bồ Tát đă minh tâm kiến tánh. Các
Ngài sanh về Tây Phương Tịnh Độ đều
là sanh trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Do vậy có thể biết,
mười điều kiện ấy là các điều kiện
của cơi Thật Báo Trang Nghiêm, chẳng giống với mười
điều kiện của kinh Bảo Tích đă được
nói trong phần trước. Kinh Bảo Tích bao gồm bốn
cơi, chín phẩm, từ cạn đến sâu. Trong hội Hoa
Nghiêm, thật ra là cạn và sâu một vị! Đấy là
điều kiện để thượng thượng phẩm
văng sanh; tuy chúng ta chẳng làm được, nhưng nhất
định phải hiểu. Nếu có thể nỗ lực
tu học theo tiêu chuẩn ấy, tất nhiên sẽ nâng cao
phẩm vị văng sanh của chính ḿnh. Điều thứ
nhất là “lễ kính chư Phật”:
(Diễn)
Lễ kính chư Phật giả, sở hữu tận pháp
giới hư không giới, thập phương tam thế
nhất thiết chư Phật, ngă tất dĩ thanh tịnh
tam nghiệp, thường tu lễ kính, nhất nhất Phật
sở giai hiện bất khả thuyết vi trần số
thân, nhất nhất thân biến lễ bất khả thuyết
vi trần số Phật.
(演)禮敬諸佛者,所有盡法界虛空界,十方三世一切諸佛,我悉以清淨三業,常修禮敬,一一佛所皆現不可說微塵數身,一一身遍禮不可說微塵數佛。
(Diễn: “Lễ kính
chư Phật”: Đối với tất cả tận
pháp giới hư không giới, mười phương ba đời
hết thảy chư Phật, tôi đều dùng ba nghiệp
thanh tịnh để thường tu lễ kính. Nơi mỗi
đức Phật đều hiện bất khả thuyết
vi trần số[1] thân, mỗi thân lễ
khắp bất khả thuyết vi trần số Phật).
Trong
lời chú giải có cả Sự lẫn Lư. Nửa trước
nói về Lư, cảnh giới của Ngài (bậc Pháp Thân
đại sĩ) là tận hư không khắp pháp giới.
Tất cả hết thảy “thập
phương tam thế chư Phật”, đối với
tam thế, Phật trong đời quá khứ th́ đức
Thế Tôn đă từng nói, chúng ta cũng từng nghe nói về
chư Phật trong đời hiện tại, c̣n chư Phật
trong đời vị lai là những ai? Chữ “tam thế” (三世) bao gồm đời
vị lai; chư Phật trong đời vị lai chính là hết
thảy chúng sanh. Hết thảy chúng sanh vốn sẵn thành
Phật, [bởi lẽ], hết thảy chúng sanh đều
có Phật Tánh. Đă có Phật Tánh, ắt sẽ thành Phật.
Đó là Phật trong tương lai. Bao gồm hết toàn bộ
phạm vi của lễ kính; hễ chẳng tôn trọng một
chúng sanh nào, tức là công đức lễ kính chư Phật
của quư vị chẳng viên măn, bị khiếm khuyết.
Do vậy, chẳng dễ sanh về cơi Thật Báo Trang Nghiêm.
T́m chẳng ra mảy may khuyết điểm nào nơi đại
chúng trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Công
đức của cơi ấy đích xác là viên măn rốt ráo.
Nay chúng ta thấy người khác có rất nhiều kẻ
chẳng thuận mắt, thấy có rất nhiều chuyện
chẳng vừa ḷng, vậy th́ làm sao được nữa?
Đó chẳng phải là Phổ Hiền hạnh; dẫu tu
tốt đẹp cách mấy đi nữa, vẫn chẳng
phải là Phổ Hiền hạnh! Do vậy có thể biết,
Phổ Hiền hạnh chính là dùng cái tâm thanh tịnh và cái tâm
b́nh đẳng để tu.
“Thanh tịnh tam nghiệp”: Thanh tịnh thân, thanh tịnh
ngữ, thanh tịnh ư; ba nghiệp thân - khẩu - ư thanh tịnh
th́ mới có thể tu Phổ Hiền hạnh. Nói cách khác, đối
với hết thảy các loài chúng sanh trong hư không pháp giới,
quyết định chẳng có phân biệt, chấp trước;
khi ấy, sự lễ kính do quư vị tu sẽ chính là Phổ
Hiền hạnh. Quư vị đối trước tượng
Phật lạy Phật một lạy, sẽ là lạy khắp
tận hư không khắp pháp giới mười
phương ba đời hết thảy chư Phật. V́
sao? V́ trong tâm quư vị chẳng có giới hạn. Tâm chẳng
có giới hạn, cái tâm ấy sẽ to như hư không
pháp giới; do đó, lễ một vị Phật bèn là lễ
hết thảy chư Phật. Do cái tâm của bọn phàm
phu chúng ta có phân biệt, có chấp trước, cho nên tâm
lượng hết sức nhỏ bé, công đức đă
tu tập cũng là chút ít, thuận theo tâm lượng, chẳng
có cách nào mở rộng ra ngoài! Tu kiểu nào cũng không được,
tâm lượng vẫn rất nhỏ hẹp. Đây là nói
theo cảnh giới. Nói theo Lư, ắt phải do ba nghiệp
thanh tịnh.
“Thường tu lễ kính”: Hăy
chú trọng chữ Thường (常). “Thường” là chẳng gián đoạn, suốt
ngày từ sáng đến tối trong hai mươi bốn tiếng
đồng hồ chưa hề gián đoạn. Đó là tâm
cung kính. Nói thô thiển một chút, sẽ là đối với
người, đối với sự, đối với vật,
từ đầu đến cuối một ḷng cung kính. Nếu
nói theo cảnh giới của mười tâm trong kinh Bảo
Tích th́ là đối với pháp giới chúng sanh và tự tánh
chúng sanh, đối với người, đối với
sự, đối với vật mà cung kính, đấy chính
là cung kính tự tánh của chính ḿnh. Đối với người,
đối với sự, đối với vật mà chẳng
cung kính, tức là phạm lỗi đối với tự
tánh chúng sanh, có lỗi với chính ḿnh! V́ sao? Lễ kính là Tánh
Đức, [thiếu lễ kính tức là] Tánh Đức của
quư vị chẳng thể lưu lộ, Tánh Đức bị
chướng ngại, đó là lầm lỗi, là nghiệp
chướng! Phải trừ khử nghiệp chướng,
giống như chư Phật và các vị đại Bồ
Tát, Tánh Đức của các Ngài chẳng bị chướng
ngại. V́ thế, các Ngài đối với người, đối
với sự, đối với vật đều là b́nh
đẳng cung kính. Mỗi vị Bồ Tát thuộc bốn
mươi mốt địa vị Pháp Thân đại
sĩ trong hội Hoa Nghiêm đều tu theo cách này.
Hai
câu tiếp theo chính là nói theo mặt Sự. Sự chẳng
thể nghĩ bàn, Sự là cảnh giới Hoa Nghiêm, là cảnh
giới Sự Sự vô ngại. “Nhất
nhất Phật sở” (Ở nơi mỗi đức Phật),
ở nơi mười phương ba đời hết
thảy chư Phật Như Lai, đối trước các
Ngài, “giai hiện bất khả
thuyết vi trần số thân” (đều hiện bất
khả thuyết vi trần số thân). Người trong thế
giới Tây Phương có thể hóa thân bao nhiêu? Kinh Phạm
Vơng nói “trăm ngàn ức hóa
thân Thích Ca Mâu Ni Phật”, con số trăm ngàn ức ấy
rất nhỏ, hễ tính toán là tính được liền.
Nói thật ra, mỗi cá nhân trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới có năng lực hóa thân giống như kinh Hoa
Nghiêm [đă nói] “vô lượng
vô biên hóa thân”. Sanh về Tây Phương Cực Lạc
thế giới, ai nấy đều chứng đắc [năng
lực hóa thân ấy].
Chiều
nay, pháp sư Ngộ Không đến chỗ tôi, ở bên ngoài,
ông ta làm rất nhiều chuyện náo nhiệt. Tôi bảo ông
ta: “Thứ ǵ cũng đều là giả! Rỗng tuếch”.
Kinh Kim Cang dạy chẳng sai: “Phàm
những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”, “hết thảy pháp hữu vi, như
mộng, huyễn, bọt, bóng”. Điều ǵ là thật?
Văng sanh thế giới Cực Lạc là thật, tâm địa
thanh tịnh là thật. Ngày hôm nay, ông ta nói với tôi muốn
tổ chức Phật Thất, đại khái là quy mô rất
đáng nể. Tôi bảo ông ta: - Tốt nhất là Phật Thất
đừng vượt quá mười người. Nếu
mười người ấy văng sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới làm Phật, mười vị Phật!
Tuyệt diệu thay! Quư vị mấy ngàn, mấy vạn người
[đả Phật Thất xong, đời sau] là ngạ quỷ,
súc sanh, hay đọa địa ngục th́ chẳng có ư nghĩa
ǵ hết! Bảy ngày bảy đêm một câu Phật hiệu
không gián đoạn, không xen tạp, đó gọi là Phật
Thất. Nói chung là đối với người mới học,
bảy ngày sẽ chịu không nổi; trước hết,
hăy bắt đầu bằng một ngày một đêm, sau đó
lại tăng thành hai ngày hai đêm, ba ngày ba đêm, tăng
lên dần dần. Vẫn là mười người ấy,
đừng nên thay người khác, đấy gọi là người
thật sự thành tựu. Thời kỳ Mạt Pháp, “tà sư thuyết pháp nhiều như
cát sông Hằng”, người xuất gia phải chú tâm cẩn
thận, hôm nay tôi nhắc nhở thầy ấy. Pháp sư
Tường Vân kể với tôi: “Người xuất gia tướng
trạng khi mất cũng chẳng tốt lành, chẳng tốt
đẹp như người tại gia!” Nhất định
phải chú ư, cẩn thận, phải thật sự phát đạo
tâm, đừng làm chuyện thuộc về tiếng tăm,
lợi dưỡng, dính dáng đến chúng cũng không
được.
Chỉ
có ḿnh Tây Phương là chân thật! Tây Phương Cực
Lạc thế giới thọ mạng vô lượng, đó
là thật, chẳng giả. V́ sao trong thế gian này, hết
thảy đều là giả? V́ thọ mạng quá ngắn,
sau khi đă chết, thứ ǵ cũng chẳng mang theo được!
Chẳng có ǵ là của chính quư vị. Sanh mạng rất mong
manh, mất đi bất cứ lúc nào! Đừng tưởng
là trong tương lai ta c̣n sống được bao nhiêu năm,
chẳng có chuyện đó đâu nhé! Trong kinh, đức Phật
thường cảnh tỉnh chúng ta: “Nhân mạng tại hô hấp chi gian” (Mạng
người trong hơi thở). Một hơi thở ra, chẳng
hít vào được nữa, bèn sang đời thứ hai.
Do đó, chẳng có ǵ là thật, chẳng có thứ ǵ để
chính ḿnh có thể đạt được! Quư vị bèn hiểu
vô lượng thọ là chân thật.
Danh
hiệu của đức Di Đà trong thế giới Tây
Phương là vô lượng, trong vô lượng [ư nghĩa,
đức năng], v́ sao chỉ dịch thành Vô Lượng
Thọ? Thọ mạng là phẩm đức bậc nhất.
Chẳng có thọ mạng, vô lượng ǵ đi nữa cũng
đều uổng phí, đều là rỗng tuếch. Chỉ
riêng thọ mạng là vô lượng th́ hết thảy những
thứ vô lượng khác bèn biến thành chân thật. V́ lẽ
đó, thọ mạng được xếp hàng đầu,
là phẩm đức bậc nhất. Kế đó là vô
lượng quang, “quang” là
trí huệ. Tuy có thọ mạng, nhưng hồ đồ,
mơ màng, th́ cũng chẳng có ư nghĩa ǵ cả, vẫn
phải tạo nghiệp chịu báo. Có thọ mạng, c̣n
phải có trí huệ, quyết định là chẳng mê hoặc,
điên đảo, th́ mới là phước báo thật sự.
Chẳng có trí huệ, lấy đâu ra phước báo? Do vậy,
trong vô lượng, chỉ dùng thọ mạng và quang minh để
đại diện là được rồi!
Ở
đây, [phần kinh văn trích dẫn từ kinh Hoa Nghiêm] đă
hiển thị vô lượng thần thông, trong thần
thông nêu ra một loại là “hóa
thân”. Người ấy có thể biến hóa vô lượng
vô biên thân; v́ thế, trước vô lượng vô biên
chư Phật Như Lai, đều có bản thân người
ấy, tức là hóa thân [của người ấy] đến
lễ bái, cung kính, cúng dường, nghe pháp. Đấy là hiển
thị nhiều thân. “Nhất
nhất thân biến lễ bất khả thuyết vi trần
số Phật” (Mỗi một thân lễ khắp bất
khả thuyết vi trần số Phật), nói về một
hóa thân, hóa thân lại có thần thông to lớn ngần ấy.
Mỗi hóa thân có thể lễ khắp vô lượng vô biên
hết thảy chư Phật. Nếu chư vị suy nghĩ,
hiểu rơ sự thật này, có muốn đến thế
giới Tây Phương hay không? Chẳng bàn tới những
điều tốt đẹp khác, chỉ riêng một điều
này, chúng ta đă muốn đến đó rồi! Chẳng đến
thế giới Tây Phương, sẽ chẳng thể đạt
được loại năng lực ấy. Kinh Hoa Nghiêm nói
Bát Địa Bồ Tát mới có năng lực này. Sự
thù thắng của thế giới Tây Phương chính là bọn
phàm phu lè tè sát đất như chúng ta hễ sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới, năng lực sẽ
bằng với bậc Bát Địa Bồ Tát trở lên! Đây
là pháp khó tin, thật sự chẳng thể nghĩ bàn. Liên
Tŕ đại sư tỉnh lược những nguyện
giữa, nhưng chúng tôi vẫn phải giảng.
Nguyện
thứ hai là “xưng tán Như
Lai”. Cảnh giới của mỗi nguyện trong mười
nguyện đều giống nhau, đều là tất cả
tận pháp giới hư không giới mười
phương ba đời hết thảy chư Phật. Cảnh
giới giống nhau, tâm thái cũng giống nhau, đều
là dùng ba nghiệp thanh tịnh. Nguyện thứ nhất là thường
tu lễ kính, nguyện thứ hai là thường tu xưng
tán, tâm thái giống nhau. Ở đây, xưng tán không dùng “chư Phật” mà đổi thành
“Như Lai”. Như Lai và chư
Phật có ǵ sai biệt? Kinh Kim Cang có lúc nói “chư Phật”, có khi nói Như Lai. Hễ nói “chư Phật” tức là nói
theo sự tướng. Hễ nói Như Lai th́ là nói theo Tánh Đức;
đó là chỗ khác biệt. Lễ kính th́ phải nhất
loạt b́nh đẳng, thật sự b́nh đẳng
đối với hết thảy chúng sanh, chẳng có thân,
sơ, xa, gần, thiện, ác, tà, chánh. Dùng cái tâm thanh tịnh
tột bậc của chính ḿnh để tu lễ kính, quyết
định chẳng có phân biệt, chấp trước. Xưng
tán chẳng giống như vậy, trong ấy có phân biệt:
Tương ứng với Tánh Đức th́ xưng tán; trái
phạm Tánh Đức bèn chẳng xưng tán.
Khổng
lăo phu tử gọi “lễ kính chứ không xưng tán” là “kính nhi viễn chi” (敬而遠之). Viễn (遠) là ǵ? Chẳng phải
là lánh thật xa kẻ ấy, mà là chẳng tán thán, [vẫn]
kính trọng, nhưng chẳng thân cận. Trong Tứ Thập
Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử tham học năm mươi
ba lần, có ba người (ba vị thiện tri thức) tượng
trưng cho sự trái nghịch Tánh Đức:
1) Người thứ
nhất là Bà-la-môn Thắng Nhiệt, đại diện cho
ngu si trong Tam Độc phiền năo. Thiện Tài đến
tham phỏng, lễ kính, nhưng chẳng tán thán.
2) Vị thứ
hai là Cam Lộ Hỏa Vương, tượng trưng cho sân
khuể. Vua cảm thấy chẳng vừa ư, ngay lập tức
dùng h́nh phạt hết sức tàn khốc để đối
trị. Thiện Tài đồng tử tham phỏng nhà vua, có
lễ kính, nhưng chẳng tán thán.
3) Vị thứ
ba là cô gái Phạt Tô Mật Đa, tượng trưng cho
tham ái. Thiện Tài đồng tử đến tham phỏng
[cô ta] cũng là lễ kính, chẳng tán thán.
Tương ứng
với tham, sân, si bèn chẳng tán thán, nhưng có lễ kính. Ở
đây, [kinh văn] không dùng chữ “chư Phật”, mà đổi thành Như Lai, đấy
là đại từ đại bi, rát miệng buốt ḷng
[khuyên bảo]! Trong thế gian, Bồ Tát nêu tấm gương
tốt lành cho mỗi chúng sanh, niệm niệm thành tựu hết
thảy chúng sanh. Đó là từ bi. Thành tựu chúng sanh chính
là thành tựu chính ḿnh. Có thể suy nghĩ v́ người khác,
đó là Phật pháp; suy tưởng v́ chính ḿnh, đó là mê
hoặc, điên đảo, nhất định là khởi
Hoặc, tạo nghiệp. Do đó, xưng tán th́ có thể
xưng tán người nào? Nhất định là phải xưng
tán người nào chẳng khởi tác dụng phiền năo,
người như vậy bèn có thể xưng tán.
Thuở
ấy, tôi cầu học nơi thầy Lư, mới thân cận
thầy được một tuần, thầy bảo tôi:
“Đừng nên hủy báng người
khác”, tôi hiểu điều này. “Đừng ca ngợi kẻ khác”, tôi chẳng hiểu
điều này! Ca ngợi là chuyện tốt, người Hoa
có nói “ẩn ác, dương thiện”
(ẩn giấu điều ác, tuyên dương chuyện lành).
Thầy lại chẳng giải thích cho tôi. Tôi nghĩ suốt
một hai tuần mà vẫn nghĩ chẳng thông. V́ sao thầy
chẳng cho phép chúng tôi khen ngợi kẻ khác? Có một hôm,
thầy bảo tôi: “Khen ngợi
người ta c̣n gây hại cho người ta dữ dội
hơn hủy báng họ”. V́ sao? Quư vị vừa khen, kẻ
ấy sẽ cảm thấy chính ḿnh ghê gớm lắm, vừa
mới có một tí thành tựu bèn chẳng c̣n tinh tấn nữa,
[cứ nghĩ] “đến đây là đủ rồi, được
rồi”, [như vậy là ca ngợi không đúng chỗ] đă
chặt đứt con đường tiến lên của người
ta! Tôi mới hiểu rơ: Đúng là hại người! Nhất
là khen ngợi quá lố, càng hại người ta, khiến
cho kẻ ấy đắc ư, vênh váo, lui sụt Bồ Tát
đạo, dấy Hoặc, tạo nghiệp.
Khi
nào th́ có thể tán thán? Phải là [khi người được
tán thán đă đạt đến mức] “tám gió thổi chẳng động”. Quư vị hủy
báng người ấy, người ấy chẳng tức
giận. Khen ngợi người ấy, người ấy
trọn chẳng hoan hỷ, như như bất động.
Người như vậy th́ có thể tán thán. Nói cách khác, hễ
được khen mà c̣n có tâm hoan hỷ, chớ nên khen ngợi!
Thỉnh thoảng khen ngợi đúng mức như một
h́nh thức cổ vũ, khích lệ th́ được, đó
là một biện pháp. Đệ tử Phật tán thán Phật,
Bồ Tát nhằm mục đích khuyên lơn, hướng dẫn
những chúng sanh chưa nhận biết Phật pháp, khiến
cho họ sanh tâm cung kính, dẫn dụ họ thân cận Phật,
Bồ Tát, mang ư nghĩa này, trọn chẳng phải là Phật,
Bồ Tát ham chuộng tán thán. Tán thán nhằm tiếp dẫn
chúng sanh, mục đích ở chỗ này, dụng tâm ấy hết
sức tốt đẹp. Do vậy, trong “xưng tán Như Lai” có trí huệ cao độ.
Nguyện
thứ ba là “quảng tu cúng
dường”.
Đối
với chuyện cúng dường, đích xác là đệ tử
Phật tại Đài Loan tu cúng dường bậc nhất
thế giới, có phước hay không? Chưa chắc! Cuộc
đất Đài Loan giàu có, nhưng chẳng có phước.
Hoàn cảnh cư trú chẳng bằng người ngoại
quốc, ăn mặc cũng rất lôi thôi, cũng chẳng
bằng người ngoại quốc. Ăn uống th́ ba bữa
đều là nuốt chất độc, cũng chẳng bằng
người ngoại quốc! Có một đồng tu bảo
tôi, chỉ có lá khoai lang là không có thuốc sát trùng, những
loại rau xanh khác đều dính thuốc sát trùng, đều
chẳng nên ăn! Người học Phật tuy rất đông,
nhưng mê chứ không giác, họ mê tín, chẳng phải là chánh
tín, rất đáng thương! Do vậy có thể biết,
cúng dường th́ cũng phải có trí huệ, cũng phải
có phước báo. Người chẳng có phước th́
mong tu phước cũng chẳng tu nổi! Người
thiếu trí huệ th́ mong tu phước cũng tu chẳng
được! Người thật sự tu phước bèn
có phước, có huệ, đương nhiên là có mối
quan hệ đối với thiện căn, phước
đức, và nhân duyên trong đời quá khứ. V́ thế,
cúng dường tuyệt đối chẳng phải là chuyện
dễ dàng!
Rốt
cuộc phải tu cúng dường như thế nào th́ mới
là phước điền thật sự? Thật ra, muốn
phân biệt chẳng khó, nh́n vào kết quả sẽ biết
ngay. Chúng ta cúng dường để tạo dựng một
tự viện đạo tràng. Sau khi tự viện đạo
tràng ấy dựng xong, hằng ngày hoằng pháp, lợi sanh,
giảng kinh, thuyết pháp, lănh chúng tu hành, sẽ đúng là phước
điền. Sau khi đạo tràng xây dựng xong, chúng thường
trụ trong ấy tranh danh, đoạt lợi, hằng ngày
căi cọ, tranh đoạt tài sản nhà chùa, đấy là tạo
tội nghiệp. Chẳng cúng dường sẽ chẳng
có tội nghiệp; hễ cúng dường, tội nghiệp
đều có. Cúng dường người xuất gia, người
xuất gia ấy thật sự tinh tấn dụng công, sự
cúng dường ấy có phước. Cúng dường
người xuất gia, người xuất gia có tiền,
cất trong ngân hàng mấy trăm vạn, mấy ngàn vạn,
vênh váo đắc ư, tội lỗi của quư vị bèn to kềnh.
V́ sao? Kẻ ấy chẳng có đạo tâm. Khi chẳng có
tiền th́ có đạo tâm, chẳng suy nghĩ ǵ, chỉ
nghĩ đến Phật, Bồ Tát. Đă có tiền, hằng
ngày nghĩ tới tiền, quên bẵng Phật, Bồ Tát, đáng
ngại quá! V́ vậy, trước khi diệt độ, Thích
Ca Mâu Ni Phật đă khuyên lơn, khích lệ chúng ta hăy “lấy khổ làm thầy”.
Người tu đạo lấy khổ làm thầy, khổ
một chút cũng được! Khổ sở đôi chút,
sẽ chẳng lưu luyến thế giới này. Quá giàu
có, quá sung sướng, chẳng tốt! Sẽ dấy tâm
tham đối với thế giới này, chẳng nỡ rời
khỏi thế giới này, có cầu văng sanh cũng chẳng
cầu nổi! Chỉ cần miễn cưỡng có thể
sống được, chẳng cần tranh chấp với
kẻ khác, có thể ăn no, mặc ấm, có căn nhà nhỏ
để che mưa tránh gió, đủ rồi! Thân, tâm, thế
giới, hết thảy đều buông xuống, thật
thà niệm Phật, người như vậy có phước
báo bậc nhất, thật sự có phước báo. Cúng dường
người như vậy th́ mới thật sự có phước,
đấy mới là phước điền chân thật.
Hiện
thời, chỗ chúng ta rất nhỏ, v́ sao chẳng dựng
cho to hơn chút nữa? Nếu dựng to hơn, sẽ chẳng
có phước! Mấy người sống ở nơi đây,
vừa khít. Nếu to hơn nữa, to mà chẳng có đông
người như vậy, phước địa, phước
nhân cư, chẳng có lắm người có phước như
vậy đến ở, chẳng phải là phiền phức
ư? Đạo tràng chẳng quan trọng ở chỗ lớn
hay nhỏ, quan trọng là có đạo hay không? Có người
tu đạo hay không? Cơ sở nhỏ, ít người,
chi tiêu ít, cuộc sống đơn giản, dễ dàng, tâm
mọi người đều đặt nơi đạo.
Nơi chốn nhỏ, trụ nơi này bèn chẳng tranh giành,
chẳng có ǵ đáng để tranh giành! Chùa chiền to,
trong ấy liền chia bè kết đảng giành quyền,
tranh danh, đoạt lợi, tạo nghiệp mất rồi!
V́ thế, phải rất lắng ḷng quan sát rơ ràng: Tu cúng dường
như thế nào?
Kể
từ khi học Phật tới nay, tôi chưa hề khuyên người
khác kiến lập đạo tràng, mà khuyên kẻ khác in kinh,
phóng sanh, cứu giúp người nghèo khổ, tôi cảm thấy
những chuyện ấy là công đức chân thật. Tôi
muốn lập đạo tràng th́ cũng chẳng có tiền,
đó là nhân quả báo ứng. Tôi cũng chẳng dám hóa
duyên, v́ sao? Tôi biết ḿnh có hóa duyên th́ cũng không được.
V́ tôi chẳng tán thành tạo dựng đạo tràng, lấy
đâu ra duyên? Chẳng có duyên! V́ thế, đạo tràng là do
Phật, Bồ Tát tạo dựng, chẳng liên can ǵ đến
tôi! V́ sao Phật, Bồ Tát tạo dựng? Đại khái là
do thấy có mấy người thật sự muốn tu
đạo. Do v́ có người mà phải có nơi chốn,
nên Phật, Bồ Tát sẽ đưa cơ sở đến.
Không có người, th́ cũng chẳng có cơ sở. Điều
này tốt lắm! Đỡ lo, bớt việc, hễ đến
lúc [cần phải có đạo tràng] th́ sẽ có đạo
tràng đưa đến. Trước mắt, thấy đạo
tràng này thành tựu rất thuận lợi, xem ra chúng sanh thuộc
thế hệ sau có phước, bèn có một nhóm người
thật sự phát khởi đạo tâm, siêng năng tu học
ở nơi đây, trong tương lai hoằng pháp lợi
sanh, giáo hóa chúng sanh trong thế hệ tiếp theo. Họ có
phước, chúng tôi thấy vậy rất hoan hỷ. Cư
sĩ Giản Phong Văn nói với tôi, ông ta nói: “Thật sự
có phước”. Tôi nói: “Chúng ta tạo phước, họ hưởng
phước”. Chúng tôi mua một bộ Tứ Khố Toàn
Thư, có thể sẽ được chuyển đến
Mỹ rất nhanh; trong tương lai, thư viện tại
Mỹ sẽ hết sức hoàn bị. Tôi nói với Giản
cư sĩ: “Những thứ
thuộc Tam Tạng mười hai bộ nhường cho họ
ngộ; chúng ta tuổi già, cũng trao quyền lại, thật
thà niệm Phật. Những kẻ trẻ tuổi thuộc
thế hệ sau có phước, họ phải gánh vác sứ
mạng phục hưng Phật giáo. Chúng ta tận tâm tận
lực chuẩn bị tư lương cho họ, tạo
cho họ một hoàn cảnh tu học, chúng ta có thể làm
được điều này”. Quảng tu cúng dường!
Đừng
nghĩ đạo tràng này có chút xíu, [diện tích] là một
trăm năm mươi B́nh, quảng tu cúng dường như
thế nào? Tôi bồi dưỡng nhân tài ở nơi đây
để trong tương lai họ hoằng pháp khắp nơi
trên thế giới, làm sao không rộng cho được? Đương
nhiên là rộng răi. Học tṛ xuất thân từ nơi đây
trong tương lai đều sẽ hoằng pháp trên khắp
thế giới. V́ thế, tôi yêu cầu mọi người
ở chung một chỗ phải thật sự tu Tam
Phước và Lục Ḥa. Chẳng tu Tam Phước và Lục
Ḥa, sẽ chẳng ở trong đạo tràng được.
V́ sao? Phật, Bồ Tát, thần hộ pháp ở trong đạo
tràng ấy, quư vị chẳng phải là người tu hành
thật sự, thần hộ pháp sẽ khuấy phá bên cạnh,
đuổi quư vị đi. Không đi th́ cũng ngă bệnh,
khiến cho quư vị sống không được, mà chết
cũng không xong, khiến cho quư vị phải chịu tội.
Do vậy, phải thật sự phát đạo tâm, mọi
người ở chung với nhau cộng tu. V́ đây là đạo
tràng chân thật, chẳng phải tṛ đùa bỡn của
trẻ con, người chẳng thật sự có đạo
tâm sẽ chẳng ở được, nhất định
sẽ nẩy sanh phiền phức, sẽ sanh ra rối loạn.
Đối với bất cứ ai, chúng ta đều cung
kính, lễ bái. Nếu hành vi của kẻ ấy chẳng đoan
chánh, chúng ta cũng chẳng cần phải đuổi kẻ
ấy đi, Phật, Bồ Tát sẽ đuổi họ đi.
Chúng ta đuổi th́ sẽ mắc tội với người
ta, đôi bên kết thành mối oán cừu; Phật, Bồ
Tát, thần hộ pháp đuổi kẻ ấy, chứ chúng
ta không đuổi. Tôi dạy Giản cư sĩ như vậy.
Trước kia, có mấy người sau khi gia nhập Cơ
Kim Hội[2] đă khiến cho Giản
cư sĩ rất đau đầu, đến nói với
tôi, tôi bảo: “Không sao đâu! Đạo tràng này do Phật,
Bồ Tát dựng, Phật, Bồ Tát sẽ chịu trách nhiệm.
Chúng ta cứ mắt nhắm, mắt mở”. Không lâu sau, kẻ
ấy xuất hiện vấn đề, tự hắn bỏ
đi. Tốt hơn nhiều! Gặp lại nhau, chúng ta
đều rất hoan hỷ, khẽ gật đầu, tốt
lắm! Phật, Bồ Tát chịu trách nhiệm, chúng ta chẳng
cần làm mất ḷng kẻ khác, chẳng cần bận ḷng
chuyện tầm phào ấy! Tâm thanh tịnh là được
rồi. Quư vị thấy rơ ràng, rành rẽ hết thảy sự
lư này, xử sự sẽ rất đúng pháp, thích đáng!
Điều
thứ tư là “sám hối nghiệp
chướng”. Hai chữ Sám Hối tuân theo thể lệ
“Phạn Hoa hợp dịch”
trong việc phiên dịch kinh Phật. Sám là phiên âm tiếng
Phạn, Hối là chữ Hán. Chữ Sám Ma (Kṣamā) trong tiếng Phạn và Hối Cải
(悔改) của tiếng Hán có ư nghĩa rất gần
gũi, nên ghép cả hai lại, [đó là thể lệ] Phạn
Hoa hợp dịch! Đối với nghiệp chướng,
mỗi người chúng ta đều biết: “Tôi nghiệp
chướng rất nặng”. Lại hỏi quư vị “nghiệp
chướng là ǵ?” Chẳng biết! Chẳng hiểu rơ nghiệp
chướng, lại c̣n là nghiệp chướng rất nặng,
rất kỳ quái! Nghiệp chướng là ǵ? Nếu chẳng
hiểu rơ nghiệp chướng, chư vị ngẫm xem,
làm sao có thể sám trừ cho được? Giống như
bắt thằng trộm vặt, quư vị phải biết nó
là thằng trộm vặt th́ mới có thể bắt được.
Bắt thằng trộm vặt, mà thằng trộm vặt
là đứa nào? Chẳng biết! Đến đâu để
bắt nó? Chịu hết mọi nỗi khổ, tốn sạch
công sức, vẫn chẳng bắt được. Trước
hết, quư vị phải hiểu điều này! Tại Đài
Loan, người bái sám rất nhiều! Hằng ngày cầu
sám hối, nhưng nghiệp chướng chẳng sám trừ
được. V́ sao chẳng sám trừ được? Chẳng
biết nghiệp chướng là ǵ, sám kiểu nào cũng
chẳng sám được! Nếu hiểu nghiệp
chướng là ǵ, sám hối sẽ chẳng khó, sẽ thật
sự có hiệu quả!
“Nghiệp” là hoạt động,
hoạt động ấy đủ để tạo thành
chướng ngại, chướng ngại trí huệ và đức
năng trong tự tánh. Nghiệp ấy sanh ra chướng
ngại bèn gọi là nghiệp chướng. Đương
nhiên là phạm vi của hoạt động hết sức
rộng lớn, quy nạp lại th́ không ngoài ba loại lớn
là thân, ngữ, ư; do vậy, gọi là tam nghiệp, tức
ba loại hoạt động lớn. Thân thể tạo tác,
nhất cử nhất động là tạo tác. Ngữ nghiệp
là ngôn ngữ. Ư nghiệp là tư tưởng, ư niệm, kiến
giải. Chỉ cần có động tác bèn gọi là Nghiệp.
Nghiệp chia thành ba loại lớn là thiện nghiệp, ác
nghiệp và vô kư nghiệp (không thiện, không ác). Thiện
nghiệp có lợi ích cho hết thảy chúng sanh. Ác nghiệp
có lợi cho chính ḿnh, bất lợi cho chúng sanh. Vô kư nghiệp
là chẳng nói tới thiện hay ác, loại này chẳng thiện,
chẳng ác.
Ba loại này đều
sanh ra chướng ngại. Thiện nghiệp và ác nghiệp
sanh ra chướng ngại ǵ? Phiền Năo Chướng, tất
cả hết thảy phiền năo phát sanh từ chỗ này.
Vô kư nghiệp sanh ra chướng ngại ǵ? Vô minh chướng
ngại, thứ ǵ cũng đều chẳng hiểu rơ, đó
chính là ngu si trong Tam Độc. Do vậy, Tam Độc sanh
từ nghiệp chướng. Thiện nghiệp khởi
tham ái, ác nghiệp là sân khuể, vô kư nghiệp là ngu si. Suốt
ngày từ sáng đến tối luôn tạo tác, hằng ngày
tạo tác tham, sân, si, làm sao có thể tiêu nghiệp chướng
cho được? Thậm chí tôi c̣n nghe nói, niệm Phật
mà luôn dấy lên tham, sân, si. Niệm Phật mà dấy lên tham,
sân, si là như thế nào? Kẻ khác mỗi ngày niệm một
vạn câu, ta niệm hai vạn câu, phải vượt trội
hắn! Đó là tâm tham, tâm ngạo mạn, tâm ganh tỵ. Niệm
Phật kiểu đó có thể văng sanh Tây Phương được
không? Thắp hương trong chùa miếu cũng phải giành
thắp nén hương đầu tiên! Pháp sư cũng cao
minh, đ̣i tín đồ phải giao ra mười vạn đồng
để thắp nén hương đầu tiên! Nộp tám
vạn đồng cho nén thứ hai, mọi người giành
nhau, ngu si đấy nhé! Nói thật ra, những điều
đă làm đều tăng trưởng tham, sân, si, làm sao có
thể tiêu trừ nghiệp chướng cho được?
Nếu
hiểu rơ nghiệp chướng, tâm chúng ta thanh tịnh. Hiểu
rơ rệt, minh bạch hết thảy cảnh giới, đó
là Huệ. Trong hết thảy các cảnh giới, như
như bất động, chẳng phân biệt, không chấp
trước, đấy là Định. Có Định, có Huệ,
nghiệp chướng bèn chẳng c̣n! Niệm Phật và tụng
kinh là biện pháp, biện pháp ấy nhằm sanh ra hiệu
quả Giới, Định, Huệ. Tŕ giới là vâng giữ
pháp tắc, Tam Phước và Lục Ḥa là pháp căn bản.
Niệm câu Phật hiệu này, Tam Học Giới, Định,
Huệ được hoàn thành cùng một lượt. Đó
là thật sự tiêu trừ nghiệp chướng, thật
sự sám hối nghiệp chướng. Do vậy, niệm
kinh Vô Lượng Thọ, tôi khuyên đồng tu niệm
kinh, số lần niệm mỗi ngày càng nhiều càng tốt.
Mội ngày phải niệm đủ số lượt, chớ
nên gián đoạn, dần dần nghiệp chướng sẽ
tiêu trừ. Hằng ngày [do niệm kinh], chánh niệm nhiều,
vọng niệm ít đi, [nghiệp chướng] tiêu trừ.
Vọng niệm là nghiệp chướng, niệm kinh là chánh
niệm. Thời gian chánh niệm càng dài, thời gian vọng
niệm càng ngắn, đó gọi là “tiêu nghiệp chướng”. V́ thế, hết thảy
đều phải quan sát từ hiệu quả th́ mới
biết có phải thật sự là hữu hiệu hay không?
Có phải là thật sự đạt tới mục tiêu tu
học hay không? Tuyệt đối chẳng phải là nói hôm
nay tôi đă lạy Bát Thập Bát Phật[3],
hoặc hôm nay tôi đă lạy Lương Hoàng Sám, đă cử
hành nghi thức Thủy Lục, nghiệp chướng của
tôi bèn tiêu trừ, chẳng có chuyện ấy! Tôi là kẻ bàng
quan, tỉnh táo quan sát, [nhận thấy] không chỉ là [nghiệp
chướng] chẳng tiêu trừ, mà c̣n tăng thêm chẳng
ít! V́ sao chẳng tiêu trừ? Tăng trưởng tham, sân, si,
mạn, tăng trưởng những thứ ấy.
Nguyện
thứ năm là “tùy hỷ công
đức”. Đây là nói các vị đại Bồ Tát, Pháp
Thân đại sĩ phát nguyện, chúng sanh vô biên thệ
nguyện độ, độ như thế nào? Tùy hỷ
công đức. Tùy hỷ là ǵ? Chẳng phan duyên th́ gọi là
tùy hỷ. Hữu tâm để làm th́ chẳng phải là tùy
hỷ. Hữu tâm thực hiện, tâm sẽ chẳng thanh tịnh.
Vô tâm thực hiện th́ tâm mới thanh tịnh, hết thảy
mọi sự thuận theo tự nhiên. V́ sao thế giới
loạn như vậy? V́ sao chúng sanh khổ sở ngần ấy?
Đối
với chư Phật, Bồ Tát, chư vị hăy xét kỹ
năm mươi ba lần tham học [của Thiện Tài đồng
tử]. Năm mươi ba vị thiện tri thức các
nghề nghiệp đều có, chẳng có vị nào là chủ
động “ta phải làm những chuyện ǵ”. Chẳng hề
có! Đều là tùy hỷ. Các vị thích làm như thế nào,
chuộng làm như thế nào, tôi biết quư vị chẳng
làm chuyện xấu, tôi bèn tận tâm tận lực giúp quư
vị làm, tùy hỷ công đức! Nói cách khác, tùy hỷ
công đức không chỉ chẳng ngăn ngại Tam Học
Giới, Định, Huệ, mà trái lại c̣n có thể tăng
trưởng sự tu dưỡng Giới, Định, Huệ;
đó là đúng! Nếu phá hoại Tam Học, trái nghịch
Tam Học, sẽ là lầm lỗi đặc biệt to lớn!
Đấy là lư do v́ sao chư Phật, Bồ Tát, lịch
đại tổ sư bất cứ lúc nào cũng đều
răn dạy chúng ta “tùy duyên,
chớ nên phan duyên”. Phan duyên là rất miễn cưỡng,
không tốt! Chuyện tốt chẳng bằng không có chuyện
ǵ! Vô sự th́ thiên hạ thái b́nh, dân chúng mới có thể sống
cuộc đời thật sự hạnh phúc. Có một
ngày, thầy Lư dạy chúng tôi học, thầy viết bốn
chữ to trên bảng đen: “Hảo
nhân háo sự” (好人好事: Người tốt
ham bới ra chuyện). Thầy bảo chúng tôi: Đang trong lúc bầu cử,
bầu cử để chọn lựa người tốt,
việc tốt, thầy khoanh tṛn bên cạnh câu “hảo nhân háo sự”, người
tốt háo sự (ưa bới chuyện ra bày vẽ rườm
rà thêm). Lắm người hiếu sự (háo sự) sẽ
hay tranh căi, các vấn đề xă hội đều xuất
hiện! Trong Phật pháp, quyết định chẳng chấp
nhận chuyện này! Chớ nên đa sự, hăy tùy duyên, đừng
phan duyên. Tùy duyên th́ sẽ pháp hỷ sung măn, công đức
là ǵ? Là Tam Học Giới, Định, Huệ tăng
thượng, đấy là công đức. Không chỉ là chẳng
phá hoại Giới, Định, Huệ, mà ngược lại
c̣n tăng trưởng Giới, Định, Huệ. “Tùy” (隨) là tùy duyên, “hỷ” (喜) là pháp hỷ. Chỉ
có tùy duyên th́ mới có thể đạt được pháp
hỷ, mới có thể tăng thượng Tam Học Giới,
Định, Huệ.
Thứ
sáu là “thỉnh chuyển pháp
luân”. Nói thật ra, thỉnh chuyển pháp luân là thỉnh
Phật, Bồ Tát giảng kinh, thuyết pháp. Chúng sanh b́nh
phàm chẳng biết tới trí huệ và đức năng
của Phật, Bồ Tát, mà cũng chẳng biết khải
thỉnh. Người đă biết, người có cơ
duyên ấy, hăy nên thay cho hết thảy đại chúng thỉnh
Phật thuyết pháp. “Chuyển
pháp luân” chính là thuyết pháp. Chỉ có Phật pháp là có
thể giác ngộ hết thảy chúng sanh, chẳng phải
là mê hoặc hết thảy chúng sanh.
Phật
pháp là phá mê khai ngộ; hiện thời, lắm kẻ học
Phật chúng ta mê chứ chẳng ngộ. Chúng ta thấy
chuyện này rất đau ḷng, cảm thấy rất khó chịu.
Hăy gấp rút tuyên dương Chánh Pháp. Thật sự phát
tâm, phát khởi tâm thanh tịnh và tâm vô thượng để
theo đuổi công tác này, mười phương chư Phật
hộ niệm, long thiên hộ pháp ủng hộ, điều
này chẳng giả tí nào! Do đó, chúng ta tu cúng dường,
trao cho họ một hoàn cảnh tu học thuận lợi
dường ấy. Sự thuận lợi không thể tưởng
tượng ấy là do Phật, Bồ Tát, hộ pháp long
thiên âm thầm gia tŕ, và do những người ấy thật
sự phát đạo tâm. Trong mười người, chỉ
cần có một hai người thật sự phát đạo
tâm, Phật, Bồ Tát liền chiếu cố, những người
khác đều được hưởng lây, đều có
phước.
Thỉnh
Phật, Bồ Tát th́ nay Phật, Bồ Tát chẳng trụ
thế, hễ có thiện tri thức thật sự, có bậc
hữu tu hữu học, hăy thỉnh họ giảng kinh,
thuyết pháp ḥng lợi ích chúng sanh. Hôm trước, bên Mỹ
gọi điện thoại cho tôi, nói có mấy trường
đại học gần đó yêu cầu chúng ta phái người
đến giảng kinh, họ hỏi tôi có nên hay không? Tôi nói:
“Được chứ!” Các đồng học chúng ta đến
trường để luyện giảng, đến dạy
họ.
Nhân
duyên đúng là hết sức thù thắng, chúng ta gặp gỡ
bậc đại đức thật sự hữu tu hữu
học th́ phải thỉnh pháp. Trong thế giới hiện
thời, do thông tin phát triển, giao thông nhanh chóng và tiện
lợi, chẳng c̣n giới hạn trong một khu vực nào
nữa, có thể nói là đă phổ biến trên toàn thể
thế giới, khắp nơi đến thỉnh th́ sẽ
chẳng có cách nào phân thân. V́ thế, thiện tri thức thật
sự th́ chưa chắc là đă nhất định có thể
thỉnh được; nhưng có một biện pháp: Hiện
thời có băng thâu âm, chúng ta thỉnh băng thâu âm về,
mọi người cùng nhau nghe, cùng nhau học, được
lắm! Lần trước, ở Hương Cảng tôi đă
gặp hai vị tỳ-kheo-ni từ phương Bắc, kể
với tôi: Họ có một bộ băng thâu âm lời giảng
kinh Vô Lượng Thọ của tôi tại chùa Bát Nhă ở
Cáp Nhĩ Tân ([chùa ấy là] đạo tràng của lăo pháp
sư Đàm Hư). Ni sư nói: - Có hơn hai trăm người
đến nghe, người đến nghe giống như
thấy pháp sư vậy. Máy thâu âm đặt trên giảng đài,
mọi người ngồi ở dưới nghe. Hơn
hai trăm người cung kính, vô cùng thù thắng trang nghiêm.
Nay
chúng ta đọc đến “thỉnh
chuyển pháp luân” th́ cũng chớ nên chấp chết cứng
nơi câu chữ, phải nên liên tưởng: Hễ là những
ǵ có thể khiến cho chúng sanh có cơ duyên nghe pháp th́ đều
được gộp trong một điều này, chúng ta hăy
nên tận tâm tận lực hiệp trợ.
Thứ
bảy là “thỉnh Phật trụ
thế”. Căn tánh của chúng sanh đều kém hèn, há có
chúng sanh nào nghe kinh một lần, hoặc nghe giảng một
bộ kinh liền khai ngộ chứng quả? Tuyệt
đại đa số những người có thành tựu
đều là do không ngừng huân tập: Hằng ngày đều
nghe, mỗi ngày đều học, không ngừng huân tập
th́ mới có thể thành tựu. Thỉnh thoảng mời
một vị pháp sư đến giảng kinh, giảng
xong, [pháp sư] ra đi, vô ích, chỉ có thể thu được
hiệu quả tuyên truyền Phật giáo, chắc chắn
là chẳng thu được hiệu quả thành tựu
chúng sanh! Nếu muốn chúng sanh thật sự thành tựu,
chỉ có một phương pháp: Thỉnh thiện tri thức
ở lâu dài nơi chỗ chúng ta, đừng rời đi,
phải thỉnh Phật trụ thế. Lăo cư sĩ Lư Bỉnh
Nói
thật ra, mười nguyện Phổ Hiền chỉ có bảy
thệ nguyện, từ “lễ
kính” cho đến “thỉnh
Phật trụ thế” là bảy điều, ba điều
sau thuộc loại hồi hướng. Điều hồi
hướng thứ nhất là “thường
tùy Phật học”, điều này là hồi hướng
Bồ Đề. “Hằng thuận
chúng sanh” là hồi hướng chúng sanh. “Phổ giai hồi hướng” là hồi hướng
Thật Tế. Thật Tế là pháp giới, là Chân Như bản
tánh.
Học
Phật th́ đức Phật là gương mẫu, điển
h́nh, khuôn phép cho chúng ta, chúng ta phải học giống như
Phật. Chúng ta học giống như một vị Phật
như thế nào? Ở đây, mọi người đừng
lầm lẫn, chớ nên hiểu là giống như tượng
Phật suốt ngày từ sáng đến tối ngồi ́
ra cho người khác lễ bái, học Phật kiểu ấy
có tác dụng chi đâu? [Làm như vậy] là sai mất rồi!
Đối với vũ trụ, nhân sinh, hết thảy vạn
pháp, đức Phật có cách nh́n ra sao? Phật có cách nghĩ
ra sao? Phật có cách làm ra sao? Chúng ta học những điều
ấy! Trong hết thảy các kinh, giảng cặn kẽ và
hoàn bị nhất là kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm quá to, niệm
phần trước chẳng hiểu phần sau, niệm đến
phần sau, quên sạch phần trước, chẳng có tác
dụng! Rất khó có là chúng ta t́m được một bản
kinh Hoa Nghiêm đại lược, tức là kinh Vô Lượng
Thọ. Kinh Vô Lượng Thọ là Trung Bổn Hoa Nghiêm, kinh
Di Đà là Tiểu Bổn Hoa Nghiêm. Trung Bổn Hoa Nghiêm có phân
lượng rất thích đáng, vừa phải. Tiểu Bổn
Hoa Nghiêm quá đơn giản, [nên người đọc và
học] chẳng thể thọ dụng. Chúng ta niệm kinh
Di Đà rất khó được thụ dụng. Kinh Vô Lượng
Thọ phân lượng vừa khéo, chẳng nhiều mà cũng
chẳng ít, hăy y giáo phụng hành. Quư vị hăy xem A Di Đà Phật
có cách nh́n ra sao đối với vũ trụ và nhân sinh? Cách
nghĩ ra sao? Thực hiện như thế nào?
Đọc
kinh th́ phải biến những giáo huấn trong kinh điển
thành tư tưởng, kiến giải và hành vi trong cuộc
sống của chính ḿnh, ta và A Di Đà Phật chẳng khác
nhau. Đó là học Phật. Chẳng phải là mỗi ngày
niệm bao nhiêu kinh, lễ bao nhiêu lạy, niệm bao nhiêu câu
A Di Đà Phật th́ gọi là học Phật. Kẻ ấy
hoàn toàn chẳng học Phật! Học là làm theo, phải học
sao cho giống hệt như Phật, đó gọi là “học
Phật”. V́ lẽ này, quư vị đọc kinh, hoặc nghiên
cứu kinh điển, mỗi ngày học một câu, mỗi
ngày học một chuyện, một năm học được
ba trăm sáu mươi điều, ba năm sẽ giống
Phật. Tuy chưa thành Phật, nhưng là tương tự
Phật, chẳng kém Phật cho mấy. Học Phật có ǵ
khó khăn? Thật sự làm! Thực hiện từng điều
một, quư vị có thể làm trọn hết kinh Vô Lượng
Thọ, sẽ là A Di Đà Phật.
“Hằng thuận chúng sanh”: Chỉ
có hằng thuận chúng sanh, trong tâm mới chẳng dấy
lên phiền năo, tâm mới có thể b́nh lặng. Đối
với chúng sanh ác, hăy uyển chuyển dẫn dụ họ;
nếu thật sự chẳng thể [dẫn dụ], đành
để mặc họ! Khi nào họ hồi tâm chuyển
ư, khi ấy sẽ lại tới độ họ. Độ
chúng sanh chẳng phải là trong một đời này, mà là đời
đời kiếp kiếp. Đời này chẳng quay đầu,
đời sau hoặc kiếp sau, người ấy có thể
quay đầu. Đời sau, kiếp sau chẳng quay đầu
th́ lại qua một kiếp, hai kiếp, vô lượng A-tăng-kỳ
kiếp sau, người ấy vẫn có thể quay đầu,
chẳng cần lo lắng! Chư Phật, Bồ Tát đều
chẳng lo lắng, chúng ta nóng ḷng, không chỉ chẳng thể
độ chúng sanh, mà chính ḿnh cũng bị vạ lây, vấn
đề bèn nghiêm trọng. Do vậy, nếu hằng thuận
chúng sanh mà tâm địa của chính ḿnh thanh lương tự
tại, sẽ chẳng bị quấy nhiễu chút nào!
Trong
cuộc sống, trong gia đ́nh, đối với xóm giềng,
làng nước, thân thích, bạn bè, phải hằng thuận.
Hằng thuận là có trí huệ, có phương tiện thiện
xảo, thật sự tự lợi, lợi tha, khiến
cho hết thảy chúng sanh giác ngộ Phật pháp, chẳng
đến nỗi hiểu lầm Phật pháp. Có những kẻ
chẳng tin Phật pháp, tưởng lầm [Phật pháp] là
mê tín, chúng ta bảo họ: “Phật pháp chẳng mê tín”. Có
những kẻ nói “Phật pháp có chấp trước”, chúng ta bảo họ: “Phật
pháp không chấp trước”. Đối với người
nào bèn dùng phương pháp nấy, người học Phật
viên dung tự tại, thấy người bèn nói tiếng người,
thấy quỷ bèn nói tiếng quỷ. Nói chung, người
cũng vậy, mà quỷ cũng vậy, họ đều tin
tưởng Phật pháp, đều tán thán Phật pháp, mục
đích liền đạt được, đó là chánh pháp,
phá mê khai ngộ. Phải hằng thuận chúng sanh!
Có
nhiều đồng tu thông thường chẳng tụ hội
với người già trong nhà, khi sum họp vào dịp Tết,
ăn chay trường, người nhà trông thấy bèn chán
ngán, chê là mê tín. Người già rất yêu thương con trẻ,
[cứ nghĩ] “ăn chay trường chẳng đủ
dinh dưỡng”. Trong t́nh huống ấy, họ muốn quư
vị ăn thịt, quư vị cũng có thể ăn vài miếng.
[Họ thắc mắc]: “Nhà ngươi học Phật
ăn chay trường, cũng có thể ăn thịt à?” “Có
thể ăn, cớ sao không thể ăn?” Quư vị giảng
đạo lư cho họ một bài, [họ sẽ nói]: “Học
Phật như vậy th́ chẳng khó, ta cũng có thể học”,
họ liền học Phật. Nếu dứt khoát bắt ăn
chay, khá nhiều kẻ sẽ chẳng dám học Phật, đó
là sai lầm! Khuyên người khác ăn ba thứ tịnh
nhục, đừng nên sát sanh th́ họ có thể tiếp nhận!
Nhất định nói “chẳng thể không ăn chay”, tra
duyệt khắp Đại Tạng Kinh cũng chẳng [thấy]
có [lời dạy ấy]. Trên toàn thế giới, chỉ có
người Hoa ăn chay, người xuất gia ngoại
quốc thấy người Hoa ăn chay rất lấy làm
lạ, người Hoa thấy người xuất gia ngoại
quốc không ăn chay cũng rất lạ lùng. Trong giới
kinh, đức Phật bảo các tỳ-kheo ăn ba thứ
tịnh nhục, [tức là thịt của các con vật] chẳng
thấy chúng bị giết, chẳng nghe tiếng chúng nó bị
giết, chẳng v́ ta mà giết. Do đức Phật chế
định [tăng sĩ nuôi thân bằng cách] khất thực,
trong nhà người ta ăn món ǵ bèn cúng dường món đó,
chẳng cần phải nấu riêng những món dành cho người
xuất gia. Đó là từ bi, chẳng muốn làm phiền người
khác! Ăn chay đương nhiên là tốt, đặc biệt
là người trung niên hoặc lăo niên, ăn chay chắc chắn
có lợi cho sức khỏe, giảm bớt khá nhiều bệnh
tật. Quư vị có thể giảng đạo lư một
phen, họ sẽ nói: “Phật giáo có lư”, sẽ tin tưởng,
tiếp nhận. Do vậy, Phật pháp hưng suy, mỗi cá
nhân chúng ta có trách nhiệm, do sự tạo tác nơi ba nghiệp
mà chúng ta phải gánh lấy trách nhiệm trọng đại.
Thứ
mười là “phổ giai hồi
hướng”, tâm lượng mở rộng như hư
không pháp giới, công đức như vậy mới là công
đức viên măn. [Đoạn kinh văn này nhằm] nói rơ
các vị Pháp Thân đại sĩ trong hội Hoa Nghiêm niệm
Phật văng sanh phải tu mười thứ tâm này, đó là
điều kiện [để văng sanh trong] cơi Thật Báo
Trang Nghiêm. Hôm nay tôi giảng tới đây.
Tập
220
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn
Nghĩa Hội Bản, trang bốn trăm ba mươi ba.
(Sao)
Hoa Nghiêm thập nguyện giả, nhất giả lễ
kính chư Phật, năi chí thập, phổ giai hồi hướng,
diệc dĩ thử thập sanh bỉ quốc độ.
Dĩ thượng giai Bồ Tát quảng đại trí hạnh,
phi khả dị thực, dị tu. Kim tŕ danh công đức,
tựu sử thập tâm vị bị, thập nguyện vị
tề, tịnh nghiệp nhất thành, tiện sanh bỉ quốc.
Kư đắc văng sanh, thử tâm, thử nguyện, tự
nhiên thành tựu, khởi phi đa thiện căn phước
đức hồ? Bất kinh vu khúc, thị vị trực
tiệp; vô chư phiền tỏa, thị vị giản dị.
Trực tiệp nhi thâm tạo, giản dị nhi quảng
hoạch, chư dư pháp môn chi sở bất cập, thị
vị thù thắng.
(鈔)華嚴十願者,一者禮敬諸佛,乃至十普皆迴向,亦以此十生彼國土。以上皆菩薩廣大智行,非可易植易修。今持名功德,就使十心未備,十願未齊,淨業一成,便生彼國。既得往生,此心此願,自然成就,豈非多善根福德乎。不經迂曲,是謂直捷;無諸煩瑣,是謂簡易。直捷而深造,簡易而廣獲,諸餘法門之所不及,是謂殊勝。
(Sao: “Mười nguyện
Hoa Nghiêm”: Một là lễ kính chư Phật, cho đến
mười là hồi hướng trọn khắp, cũng
dùng mười nguyện này để sanh về cơi nước
ấy. Những điều trên đây đều là trí hạnh
rộng lớn của Bồ Tát, chẳng thể dễ
gieo, dễ tu. Nay do công đức của tŕ danh bèn khiến
cho [hành nhân tuy] mười tâm chưa đầy đủ,
mười nguyện chưa bằng [với Phổ Hiền
Bồ Tát], nhưng hễ tịnh nghiệp đă thành, liền
sanh về cơi ấy. Đă được văng sanh th́ tâm ấy
và nguyện ấy tự nhiên thành tựu, há chẳng phải
là nhiều thiện căn, lắm phước đức hay
chăng? Chẳng phải quanh co, nên nói là “thẳng chóng”. Không
có các nỗi rắc rối, nên nói là “đơn giản, dễ
dàng”. Thẳng chóng mà thành tựu sâu xa; đơn giản, dễ
dàng mà thu hoạch rộng lớn, các pháp môn khác chẳng sánh
bằng, nên nói là “thù thắng”).
Mười
đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ
Tát chính là pháp được tu học bởi các vị Pháp
Thân đại sĩ thuộc bốn mươi mốt địa
vị trong hội Hoa Nghiêm, dùng công đức tu hành ấy để
văng sanh Tây Phương Tịnh Độ. Từ kinh Vô Lượng
Thọ, chúng ta thấy các vị Bồ Tát trong thế giới
Tây Phương từ hạ hạ phẩm cho đến thượng
thượng phẩm, chẳng có vị nào không tu mười
nguyện Phổ Hiền. Cư sĩ Bành Tế Thanh nói kinh
Vô Lượng Thọ là Trung Bổn Hoa Nghiêm, kinh A Di Đà
là Tiểu Bổn Hoa Nghiêm. Kinh văn của ba bộ kinh ấy
có giản lược [hay chi tiết] khác nhau, nhưng có thể
nói là nghĩa lư và cảnh giới chẳng có mảy may sai
biệt. Chúng ta có thể tin tưởng điều này, ông
ta chẳng tùy tiện thốt ra lời ấy. Nhất là
nay chúng ta xem đoạn khai thị này của Liên Tŕ đại
sư, càng đáng cho chúng ta cảnh giác sâu xa!
“Bồ Tát quảng đại trí
hạnh, phi khả dị thực, dị tu” (Trí hạnh
rộng lớn của Bồ Tát chẳng phải là dễ
gieo, dễ tu): “Thực” (植) là gieo trồng,
vun bồi, cũng là gặp gỡ, chẳng dễ ǵ gặp
gỡ. Chẳng dễ ǵ gieo trồng, vun bồi, chẳng
dễ ǵ tu học! Nay chúng ta có được phương
pháp kỳ diệu nhất trong Đại Kinh là tŕ danh niệm
Phật. Công đức tŕ danh “tựu
sử thập tâm vị bị” (khiến cho mười
tâm chưa đầy đủ), “thập tâm” chính là mười thứ tâm văng sanh
Tây Phương Cực Lạc thế giới được
nói trong kinh Bảo Tích, đó là pháp tu của Bồ Tát, chúng
ta chưa tu, chưa có đủ mười tâm ấy. “Thập nguyện vị tề”
nghĩa là chúng ta cũng chẳng tu mười đại
nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát giống
như Ngài. Chẳng cần nói tới Phổ Hiền Bồ
Tát, ngay cả địa vị Bồ Tát thấp nhất
trong hội Hoa Nghiêm là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo,
chúng ta cũng chẳng bằng người ta, thế nhưng
“tịnh nghiệp nhất thành,
tiện sanh bỉ quốc” (tịnh nghiệp vừa thành,
liền sanh về cơi ấy).
Điều
then chốt trong hiện thời chính là tịnh nghiệp.
Nghiệp là ǵ? Trước hết, phải hiểu rơ ràng, minh
bạch hai chữ ấy. Hiện thời gọi Nghiệp
là “hoạt động”, cổ
nhân nói là “tạo tác”. Động
tác nơi thân chúng ta gọi là “thân
nghiệp”, ngôn ngữ nơi miệng gọi là “khẩu nghiệp”. Trong tâm, khởi
tâm động niệm được gọi là “ư nghiệp”. Ba nghiệp có thanh
tịnh hay không? Nay chúng ta lại phải hỏi: Ba nghiệp
thanh tịnh là ǵ? Chẳng thanh tịnh là ǵ? Thanh tịnh và
không thanh tịnh có một tiêu chuẩn: Bị nhuốm bẩn
th́ chẳng thanh tịnh, chẳng bị nhuốm bẩn bèn
là thanh tịnh. Nhuốm bẩn là ǵ? Trong là vọng tưởng,
chấp trước; ngoài là sáu trần dụ dỗ, mê hoặc.
Tướng cảnh giới bên ngoài dụ dỗ, mê hoặc,
nội tâm quư vị có bị nhuốm bẩn hay không? Bên
ngoài dụ dỗ, mê hoặc, thuận với ư nghĩ của
quư vị bèn dấy ḷng tham ái. Tham ái là nhuốm bẩn, nghiệp
bất tịnh. Hễ trái ư [tâm bèn nẩy sanh ư niệm] chán
ghét, ganh tỵ, oán hận, th́ cũng là nhuốm bẩn. Nói
cách khác, thất t́nh ngũ dục là nhuốm bẩn. Nếu
ba nghiệp của quư vị c̣n có nhuốm bẩn, sẽ
chẳng thành công, chẳng thể văng sanh. Văng sanh th́ ba nghiệp
phải thanh tịnh. Nói thật ra, công phu ấy cũng chẳng
khác với tiêu chuẩn đă nói trong kinh Kim Cang cho mấy: “Ngoài chẳng chấp tướng,
trong chẳng động tâm”. Bất luận thuận cảnh
hay nghịch cảnh, thiện duyên hay ác duyên, đều phải
đạt tới “chẳng chấp
tướng, như như bất động”. Đó là
tu tịnh nghiệp; muốn văng sanh trong một đời
này th́ nhất định phải ghi nhớ điều này.
Bồ
Tát cậy vào mười tâm và mười nguyện để
có thể thanh tịnh ba nghiệp, chúng ta cậy vào ǵ? Chúng
ta cậy vào một câu A Di Đà Phật. Trong tâm mới khởi
tâm động niệm, ngay lập tức chuyển [niệm
ấy] thành A Di Đà Phật, A Di Đà Phật là tịnh
nghiệp. Nói cách khác, nơi tâm và miệng chẳng có A Di
Đà Phật th́ là nhiễm nghiệp, nghiệp chẳng thanh
tịnh. Nhiễm nghiệp th́ chẳng thể văng sanh, tịnh
nghiệp mới có thể văng sanh. Hễ tịnh nghiệp
đă thành, một mai đă thành tựu, bèn sanh vào cơi ấy,
người ấy liền văng sanh. Do vậy, pháp môn này không
cần phải tu mười tâm, chẳng cần phải
tu mười đại nguyện vương, biết có mười
tâm và mười nguyện là được rồi, có thể
làm được th́ đương nhiên là rất tốt;
chẳng thể làm cũng không sao. Quư vị suốt ngày từ
sáng đến tối trong mười hai thời, trong tâm đừng
quên A Di Đà Phật, niệm niệm đều khởi lên
A Di Đà Phật, đó là tịnh nghiệp. Trong tâm có A Di
Đà Phật, tâm thanh tịnh; nơi miệng có A Di Đà Phật,
miệng thanh tịnh; thân thể lễ bái A Di Đà Phật,
thân thanh tịnh. Ba nghiệp thanh tịnh chính là điều
kiện để văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới, quư vị thấy điều kiện này đơn
giản, dễ dàng nhiều lắm!
“Kư đắc văng sanh” (Đă được
văng sanh), đă sanh sang Tây Phương Cực Lạc thế
giới, “thử tâm, thử
nguyện” (tâm ấy, nguyện ấy), tức là mười
tâm Bồ Tát được nói trong kinh Bảo Tích và mười
đại nguyện của Bồ Tát trong kinh Hoa Nghiêm, chỉ
cần sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới,
sẽ tự nhiên viên măn, sẽ thành tựu, chẳng tu mà đạt
được! Nếu quư vị hỏi: V́ sao có thể đạt
được ư? Họ tu mười tâm và mười
nguyện bèn văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới, ta dùng một câu A Di Đà Phật cũng văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới. Đă tới Tây
Phương Cực Lạc thế giới, c̣n có ǵ khác nhau
nữa? Thế giới ấy là một thế giới b́nh
đẳng, mọi thứ thảy đều đạt được!
V́ thế, đến Tây Phương Cực Lạc thế
giới đừng nói là mười tâm hay mười nguyện,
[mà là] vô lượng vô biên pháp môn thảy đều đạt
được. Do vậy, pháp môn này đúng là thù thắng
khôn sánh!
“Khởi phi đa thiện căn
phước đức hồ?” (Há chẳng phải là
nhiều thiện căn, nhiều phước đức
ư?) Thiện căn và phước đức ít ỏi, sẽ
không được nghe pháp môn này, chẳng gặp pháp môn
này. [Dẫu có] gặp gỡ, nghe thấy, kẻ ấy cũng
chẳng nghe hiểu pháp môn này, cũng chẳng tin tưởng
pháp môn này. Phàm là kẻ nghe, đọc kinh này mà đọc
không được, nghiệp chướng hết sức
nặng nề. Phàm là ai niệm kinh này mà rất hoan hỷ,
tức là nghiệp chướng nhẹ nhàng, là người
nhiều thiện căn và nhiều phước đức.
Một số đồng tu từ Hương Cảng sang Đại
Lục thăm viếng cụ Hoàng Niệm Tổ, cụ Hoàng
Niệm Tổ đă khai thị cho họ: “Đọc tụng kinh Vô Lượng Thọ, y giáo
phụng hành, khẳng định là đại thiện
căn và đại phước đức”.
“Bất kinh vu khúc” (Chẳng
quanh co). “Vu” (迂) là quanh co, “khúc” (曲) là uốn lượn.
Chẳng cần phải ṿng vèo, cũng chẳng cần uyển
chuyển uốn lượn, nên gọi là “trực tiệp” (直捷). “Trực tiệp” là nhanh chóng. Quư vị
nghĩ xem: Bảo Tích và Hoa Nghiêm đều là quanh co, ngoắt
ngoéo, phải tu nhiều kiếp mới có thể đạt
được, tŕ danh niệm Phật thành tựu ngay trong
một đời, há c̣n có ǵ nhanh chóng hơn pháp này? “Vô chư phiền tỏa, thị
vị giản dị” (Chẳng có các nỗi rắc rối,
nên gọi là đơn giản, dễ dàng). Không rắc rối,
mà cũng không phiền toái, [nên gọi là] đơn giản,
dễ dàng. “Trực tiệp nhi
thâm tạo” (Thẳng chóng mà thành tựu sâu xa), thành tựu
sâu rất quan trọng! Nếu thẳng chóng mà chúng ta đạt
được [thành tựu] rất nông cạn, rất ít ỏi,
sự thẳng chóng ấy cũng trọn chẳng đáng
quư. Do pháp môn thẳng chóng này mà đạt đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới, những ǵ quư vị
đạt được gần như bằng với Đẳng
Giác Bồ Tát, chẳng dễ dàng! Đấy mới là thật
sự hy hữu, thật sự đáng quư. “Giản dị nhi quảng hoạch” (Đơn giản,
dễ dàng, mà thu hoạch rộng lớn): Đơn giản,
dễ dàng mà [những ǵ] quư vị đạt được
đều là hữu hạn th́ sự đơn giản, dễ
dàng ấy chẳng đáng coi là quư. Do sự đơn giản,
dễ dàng này mà sanh về Tây Phương Cực Lạc thế
giới, trong kinh, đức Phật thường bảo,
sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới giống
như sanh về các thế giới của hết thảy chư
Phật, thấy A Di Đà Phật sẽ giống như thấy
hết thảy chư Phật Như Lai, thảy đều
đạt được. Đơn giản, dễ dàng, mà
thu hoạch chẳng thể nghĩ bàn! “
(Sớ)
Thiện nam tử nữ nhân giả.
(疏)善男子女人者。
(Sớ:
Thiện nam tử, thiện nữ nhân là…).
Kinh
nói “thiện nam tử, thiện
nữ nhân” th́ “thiện” là ǵ? Bất thiện là ǵ? Trong
kinh, đức Phật thường gọi “thiện nam tử, thiện nữ
nhân”, có gọi ta hay không? Gọi người khác chẳng
quan trọng, có gọi ta hay không? Ta có phải là một
trong số những người được đức
Phật gọi là “thiện nam tử, thiện nữ nhân”
hay không? Điều này rất trọng yếu. Ở đây,
đại sư đă giải thích, thiện có hai loại:
(Sớ)
Thiện hữu nhị nghĩa: Nhất thị túc sanh thiện
nhân, nhất thị kim sanh thiện loại. Nam nữ giả,
thông chỉ truy tố lợi độn, cập lục
đạo nhất thiết hữu duyên chúng sanh dă.
(疏)善有二義:一是宿生善因,一是今生善類。男女者,通指緇素利鈍,及六道一切有緣眾生也。
(Sớ: Thiện có
hai nghĩa: Một là cái nhân lành trong đời trước,
hai là những điều thiện trong đời này. “Nam nữ”
chỉ chung tăng, tục, lợi căn, độn căn
và hết thảy chúng sanh hữu duyên trong lục đạo).
Hai
câu này bao quát hết sức rộng răi. Trừ Bồ Tát và thánh
nhân ra, phàm phu trong lục đạo đều được
bao gồm, nhưng những người ấy phải hội
đủ hai điều kiện: Một là có nhân lành trong
nhiều đời nhiều kiếp, hai là thiện duyên
trong kiếp này. Nhiều đời nhiều kiếp có thiện
căn, nhưng đời này chẳng gặp duyên th́ cũng
không được. Trong các điều thiện, đặc
biệt chú trọng nơi duyên. Chúng ta xem lời giải thích
dưới đây của đại sư.
(Sao)
Túc thế thiện nhân giả, Đại Bổn vân: “Thế
gian nhân dân, tiền thế vi thiện, năi đắc văn
A Di Đà Phật danh hiệu công đức” .
(鈔)宿世善因者,大本云:世間人民,前世為善,乃得聞阿彌陀佛名號功德。
(Sao: “Nhân lành đời
trước”: Kinh Đại Bổn nói: “Nhân dân trong thế
gian, đời trước làm lành, bèn được nghe công
đức nơi danh hiệu A Di Đà Phật”).
Nói
rơ ràng: Đại Bổn là kinh Vô Lượng Thọ. Trong
kinh ấy, đức Phật đă dạy: “Thế gian nhân dân”, nhân dân bao gồm lục đạo
chúng sanh. “Tiền thế vi thiện”
(Đời trước làm lành), “đời trước” chẳng phải là một
đời, hai đời, ba đời, chẳng phải vậy!
V́ mọi người niệm kinh Vô Lượng Thọ rất
thuần thục đều biết: Đó chính là cái nhân lành
đă tu trong nhiều đời nhiều kiếp từ vô
lượng kiếp trong quá khứ cho đến nay. Do cái
nhân lành ấy quá dầy, quư vị mới gặp gỡ [pháp
môn này]. Do thiện căn sâu dầy như vậy, người
ấy mới có cơ hội, có cơ duyên nghe đến công
đức của danh hiệu A Di Đà Phật. Hăy đặc
biệt chú ư tới công đức. V́ sao? Người nghe danh
hiệu quá đông. Tại Đài Loan, có ai mà chẳng từng
nghe danh hiệu A Di Đà Phật? Có thể là chẳng t́m được
một ai, ngay cả tín đồ Cơ Đốc giáo hoặc
tín đồ Thiên Chúa giáo cũng biết có một vị A
Di Đà Phật. Nhưng, công đức của danh hiệu
ấy th́ có mấy ai biết. V́ sao? Nếu chẳng nghe
kinh Vô Lượng Thọ, chẳng nghe Sớ Sao và Yếu
Giải, làm sao họ có thể biết công đức của
danh hiệu ấy cho được?
Nếu
quư vị hỏi v́ sao niệm Phật mà chẳng khởi tác
dụng ư? Do chẳng biết công đức của danh
hiệu, đó gọi là “tâm chẳng chân thành”. Khi niệm bèn
nửa tin nửa ngờ, luôn luôn gián đoạn, luôn luôn xen
tạp; v́ vậy, chẳng có tác dụng. Chúng ta thấy niệm
Phật công phu rất đắc lực th́ niệm dăm ba
năm bèn nghiễm nhiên văng sanh. Niệm dăm ba năm, thân
thể chẳng đau bệnh, cảm ứng chẳng thể
nghĩ bàn. V́ sao? Do người ấy biết công đức
của danh hiệu, khác hẳn! Dưới đây là những
điều được nói trong kinh Vô Lượng Thọ.
(Sao)
Nhất văn Phật danh, từ tâm hỷ duyệt, chí ư
thanh tịnh, mao phát tủng nhiên, lệ tức xuất giả,
hoặc túc thế tằng hành Phật đạo, hoặc
tha phương Phật sở Bồ Tát, cố phi phàm nhân,
tắc tín tâm niệm Phật giả, giai túc tu thiện bổn
giả dă.
(鈔)一聞佛名,慈心喜悅,志意清淨,毛髮聳然,淚即出者,或宿世曾行佛道,或他方佛所菩薩,固非凡人,則信心念佛者,皆宿修善本者也。
(Sao: Vừa nghe danh hiệu
Phật, tâm sanh ḷng từ, vui sướng, chí ư thanh tịnh,
lông tóc dựng lên, liền ứa lệ, th́ hoặc là do
trong đời trước đă từng hành Phật đạo,
hoặc là Bồ Tát từ nơi các đức Phật ở
những phương khác, chẳng phải là phàm nhân. V́ vậy,
người tín tâm niệm Phật đều là do gốc lành
đă tu trong đời trước).
Đây
là thiện căn trong đời quá khứ phát hiện. Thích
Ca Mâu Ni Phật dạy như vậy: Người ấy chẳng
phải là phàm nhân, mà là người như thế nào? Nói thật
ra, người ấy là Bồ Tát trong thế giới Cực
Lạc, nay tuy chưa đến thế giới Cực Lạc,
nhưng đă ghi danh, nhập sổ bộ trong thế giới
Cực Lạc, có thể ra đi bất cứ lúc nào. Họ
là Bồ Tát trong thế giới Cực Lạc, chẳng phải
là phàm nhân.
(Diễn)
“Nhất văn Phật danh, từ tâm hỷ duyệt”
ngũ cú.
(演)一聞佛名慈心喜悅五句。
(Diễn: Năm câu [kể
từ] “vừa nghe danh hiệu Phật, tâm sanh ḷng từ,
vui sướng” trở đi…).
Năm câu ấy
cho đến “lệ tức xuất
giả” (liền ứa lệ), nói lên sự cảm động.
Sự cảm động ấy rất tự nhiên. Đời
đời kiếp kiếp trong quá khứ niệm Phật mà
chưa thể văng sanh, [là do] một niệm sai lầm! Nay
lại gặp gỡ, trong tâm cảm động.
(Diễn)
Dĩ Phật năi khoáng kiếp tu Từ vi Thể cố, Phật
năi đoạn tận vô minh tối thanh tịnh cố, Phật
năi huưnh xuất thường lưu, vạn kiếp nan
văn cố.
(演)以佛乃曠劫修慈為體故,佛乃斷盡無明最清淨故,佛乃迥出常流,萬劫難聞故。
(Diễn: Do từ nhiều
kiếp lâu xa, đức Phật đă dùng tu ḷng Từ để
làm Thể, Phật đă đoạn hết vô minh, thanh tịnh
bậc nhất, Phật đă vượt xa những hạng
bậc thông thường, muôn kiếp khó được
nghe [danh hiệu Ngài]).
Ba đạo lư,
ba lư do này hết sức thù thắng. Đức Phật
được nói ở đây là A Di Đà Phật. Nói thật
ra, trong vô lượng kiếp, A Di Đà Phật đă tu
tŕ đại từ đại bi. V́ thế, nguyện của
Ngài khác với những lời nguyện thông thường
của các vị Phật. Lời nguyện thông thường
của Phật là độ chúng sanh có phạm vi, có hạn
lượng. Chỉ riêng A Di Đà Phật phát nguyện
độ chúng sanh chẳng có số lượng, chẳng
có phạm vi. V́ thế, khu vực giáo hóa của A Di Đà Phật
cũng đặc biệt. Từ kinh điển, chúng ta thường
đọc thấy đức Thế Tôn dạy: Khu vực
giáo hóa của một đức Phật là một đại
thiên thế giới. Cũng có những vị Phật đặc
biệt thệ nguyện rộng lớn, khu vực giáo hóa của
Ngài là hai đại thiên thế giới, ba đại thiên
thế giới, hoặc mười, hoặc hai mươi
[đại thiên thế giới], vẫn là có phạm vi, có
hạn lượng. Chỉ riêng đại nguyện của
A Di Đà Phật lăo nhân gia là tận hư không khắp pháp
giới. Chúng sanh thuộc chín pháp giới trong tất cả
hết thảy các cơi Phật chỉ cần trọn đủ
tín nguyện tŕ danh, phát nguyện văng sanh, lăo nhân gia thảy
đều tiếp dẫn, b́nh đẳng nhiếp thọ.
Đó là chỗ hết thảy chư Phật chẳng thể
sánh bằng!
Lần
này, tôi ở Tân Gia Ba, có đồng học đến hỏi
tôi: “Có những kinh dạy c̣n có những thế giới Phật
trang nghiêm thù thắng hơn thế giới Cực Lạc.
Không phải chỉ là một cơi, mà là rất nhiều. Tây
Phương Cực Lạc thế giới trọn chẳng
phải là trang nghiêm bậc nhất, v́ sao thầy nói cơi Cực
Lạc thù thắng bậc nhất?” Tôi nói: - Quư vị đă
xem, tôi cũng đă xem, những thế giới ấy thù
thắng hơn thế giới Cực Lạc, chẳng sai!
Nhưng những vị Phật ấy có phát nguyện “tín
nguyện tŕ danh bèn văng sanh” hay chăng? Chẳng có! Chẳng
phát ra nguyện ấy, tức là chẳng sánh bằng thế
giới Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc dễ
đến, các thế giới khác chẳng dễ đến
được! Huống chi trong kinh đức Phật lại
c̣n dạy: Quư vị sanh trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới sẽ giống như sanh trong những thế
giới thù thắng hơn Tây Phương Cực Lạc thế
giới, thảy đều sanh về. Sanh về một cơi
là sanh trong hết thảy cơi! Thích Ca Mâu Ni Phật giảng
kinh, trọn chẳng nói “ngoại trừ những cơi Phật
nào”. Ngài đă chẳng nói câu ấy, vậy th́ “sanh về một
là sanh về hết thảy”. Mười phương vô
lượng vô biên các cơi Phật tốt đẹp hơn
hoặc chẳng bằng thế giới Cực Lạc, quư
vị đều có thể tới. [Vậy th́] thế giới
Cực Lạc vẫn là thù thắng bậc nhất, A Di
Đà Phật vẫn là bậc nhất, chẳng t́m thấy
[cơi nước hay vị Phật nào] thứ hai [mà có những
điều thù thắng như vậy được]! Do đó,
đối với pháp môn này, mọi người quyết
định chớ nên hoài nghi.
Câu
đầu tiên nói về Tu Đức chẳng thể
nghĩ bàn của A Di Đà Phật. Câu thứ hai nói về
Đoạn Đức của A Di Đà Phật, Kiến Tư,
Trần Sa, bốn mươi mốt phẩm vô minh đều
đoạn hết, thanh tịnh tột bậc. V́ thế,
nghe danh hiệu này, lẽ nào chẳng cảm động? Câu
thứ ba là tán thán: Trong hết thảy chư Phật, A Di
Đà Phật thù thắng khôn sánh. “Phật năi huưnh xuất thường lưu” (Phật
vượt xa những hạng bậc thông thường), “thường lưu” (常流): Những vị
cùng hàng với Ngài đều là Phật, Ngài đă vượt
trỗi hết thảy chư Phật! Trong hết thảy
chư Phật, A Di Đà Phật bậc nhất. “Vạn kiếp nan văn cố”
(Do muôn kiếp khó được nghe), chẳng có cơ hội
nghe danh hiệu này. Hiện thời, trên quả địa
cầu này, người được nghe danh hiệu A Di
Đà Phật chẳng nhiều! Có người suốt một
đời chẳng có cơ hội nghe, suốt cả đời
chẳng có duyên phận trông thấy tượng Phật,
hoặc nghe danh hiệu Phật. Có thể đọc hoặc
nghe bộ kinh này, chẳng thể nghĩ bàn! Đây chính là “thân người khó được,
Phật pháp khó nghe”. Danh hiệu A Di Đà Phật càng khó
nghe hơn, khó nhất trong những điều khó!
(Diễn) Kim
văn Phật danh tức sanh từ tâm.
(演)今聞佛名即生慈心。
(Diễn: Nay nghe danh
hiệu Phật bèn sanh ḷng Từ).
Đây
là trong đời quá khứ đă có thiện căn chân thật,
nghe danh hiệu A Di Đà Phật, tâm từ bi liền hiện
tiền.
(Diễn) Năi chí lệ tức xuất giả.
(演)乃至淚即出者。
(Diễn:
Cho đến “liền ứa lệ”).
Đó
là cảm động.
(Diễn)
Nhĩ văn Phật danh, tâm khế Phật tâm.
(演)耳聞佛名,心契佛心。
(Diễn:
Tai nghe danh hiệu Phật, tâm khế hợp tâm Phật).
Nghe
danh hiệu Phật, sanh khởi tâm từ bi, cảm động
đến nỗi ứa lệ. Do ḷng đại từ, đức
Phật đời đời kiếp kiếp hộ niệm
chúng ta, thời thời khắc khắc duỗi tay tiếp
dẫn chúng ta. Bản thân chúng ta chẳng tốt, tự ḿnh
tạo nghiệp, tự ḿnh chướng ngại chính ḿnh, cô phụ đức Phật một dạ từ
bi, [do nghĩ đến điều này] bèn cảm động
ứa lệ. “Nhĩ văn Phật
danh, tâm khế Phật tâm” (Tai nghe danh hiệu Phật,
tâm khế hợp tâm Phật), chư vị phải ghi nhớ:
Quư vị chẳng biết công đức của danh hiệu
th́ nghe danh hiệu Phật, tâm cũng chẳng phải
là tâm Phật. [Bởi lẽ], tâm địa của quư vị
chẳng sanh khởi từ bi. Nay tôi bảo mọi người
đọc kinh Vô Lượng Thọ, quư vị niệm càng
nhiều càng tốt, đạo lư ở chỗ nào? Nếu
nhân lành trong đời quá khứ hơi kém, dùng phương
pháp này có thể bổ túc, có thể văng sanh sớm hơn
trong một đời này. Nói cách khác, quư vị vốn chẳng
thể nào văng sanh trong một đời này, do gặp duyên
thù thắng này, tiên thiên bất túc, nhưng hậu thiên[4] có
thể bù đắp. Nếu tiên thiên bất túc, mà hậu
thiên lại chẳng có nhân duyên thù thắng để bù đắp,
đời này chỉ có thể kết thiện duyên, gieo thiện
căn, chẳng thể văng sanh!
Đọc
nhiều, nghe nhiều, giảng nhiều, mọi người
cùng tu với nhau, nghiên cứu thảo luận. Do giảng
nhiều, sự xác nhận đối với công đức
của danh hiệu sẽ ngày càng sâu thêm, quyết định
sẽ đoạn nghi sanh tín. Sau đấy, quư vị tín
nguyện tŕ danh mới thật sự đạt đến
“chẳng hoài nghi, không gián
đoạn, không xen tạp”, quyết định văng
sanh trong một đời này. Do đó, trong công khóa sáng tối,
chúng tôi bảo mọi người [khóa sáng] niệm bốn
mươi tám nguyện, [khóa tối] niệm từ chương
ba mươi hai cho đến chương ba mươi bảy,
nhằm khiến cho cái tâm của chính ḿnh giống như tâm
Phật, nguyện giống như Phật nguyện, kiến
giải giống như kiến giải của Phật, hạnh
đồng hạnh Phật, ba nghiệp thanh tịnh.
(Diễn)
Như Tu Đạt trưởng giả, nhân văn Phật
tự, thông thân mao thụ, thị dă.
(演)如須達長者,因聞佛字,通身毛豎是也。
(Diễn:
Như trưởng giả Tu Đạt Đa do nghe chữ
Phật mà lông trên khắp thân dựng hết lên, chính là v́ lẽ
này).
Nói
về bậc đại hộ pháp Kỳ Thọ Cấp Cô
Độc Viên thuở ấy, tức trưởng lăo Tu Đạt
Đa (Sudatta). Thoạt đầu, ông ta vừa nghe một chữ
Phật, lông trên thân dựng hết cả lên!
(Diễn)
Kim nhân văn Phật danh, phiếm nhĩ tầm thường
giả, bất tri Phật nghĩa, thiện căn thiển
cố.
(演)今人聞佛名,泛爾尋常者,不知佛義,善根淺故。
(Diễn: Người
thời này nghe danh hiệu Phật, nói chung là cảm thấy
tầm thường, do chẳng biết đến ư nghĩa
của chữ Phật, là v́ thiện căn nông cạn vậy).
Nay chúng
ta nghe danh hiệu Phật, thấy tượng Phật, chẳng
cảm thấy ǵ hết, rất b́nh thường, chính là v́
thiện căn nông cạn, chẳng biết đến công
đức của danh hiệu Phật. Biết công đức
của danh hiệu, ắt sẽ cảm động. Do vậy,
thiện căn của chính ḿnh nông cạn th́ phải đặc
biệt cảnh tỉnh, răn nhắc: Nhất là trong đời
loạn này, chỉ có tu phước, tích lũy công đức
th́ mới là thật sự bảo đảm. Trừ chuyện
này ra, muốn t́m một chỗ nào b́nh an, há có được
chăng? Trên thế giới này, chẳng có nơi nào an toàn!
Người có phước bất luận ở nơi đâu
cũng đều an toàn, đều có phước. Quư vị
bèn hiểu tích lũy công đức trọng yếu dường
ấy! Tích lũy công đức phải bắt đầu
bằng việc đọc sách thánh hiền. Đọc sách
thánh hiền, quư vị sẽ giác ngộ. Giác ngộ sẽ
chẳng mê hoặc. Chẳng mê hoặc, sẽ không tạo
tội nghiệp. Như vậy th́ mới có thể tích
lũy công đức. Phát tâm đi khắp nơi bỏ tiền
bố thí, nếu chẳng hiểu rơ, quư vị bố thí tiền,
người ta cầm tiền tạo tội nghiệp. Tiền
ít, họ tạo tội nghiệp nhỏ; tiền nhiều,
họ tạo tội nghiệp to. Nói cách khác, quư vị giúp họ
tạo tội nghiệp. Bố thí kiểu đó, họ đọa
địa ngục, quư vị theo chân họ! Họ là kẻ
đầu sỏ làm ác, quư vị giúp họ làm ác, lẽ nào
chẳng đọa địa ngục? Tùy thời gieo phước,
c̣n phải là [chọn đúng] người có phước
th́ mới thật sự gieo được phước.
[Gieo phước] nơi kẻ chẳng có phước, gieo
trật mất rồi!
Quư
vị mong có thể phân biệt chân, vọng, tà, chánh, đúng,
sai, mà nếu chẳng đọc sách thánh hiền, t́m đâu
ra tiêu chuẩn? Do vậy, chúng tôi đề xướng các
đồng tu hăy đọc kinh. Hiện thời, đọc
nhiều nhất là Tịnh Độ Ngũ Kinh. Đọc
Ngũ Kinh mà c̣n ngại nhiều th́ mức độ thấp
nhất là kinh Vô Lượng Thọ, Di Đà Kinh Yếu Giải,
đương nhiên là có thể đọc Sớ Sao th́ tốt
nhất, và Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện Phẩm.
Tôi kể ra bảy bộ sách mà các đồng tu Tịnh
Độ chúng ta bắt buộc phải đọc. Trong bảy
bộ sách, bốn bộ là kinh Phật, tức là ba thứ
trên đây (kinh Vô Lượng Thọ, kinh Di Đà, Phổ
Hiền Hạnh Nguyện Phẩm), cộng thêm A Nan Vấn
Sự Phật Cát Hung Kinh, ba thứ khác là Thái Thượng Cảm
Ứng Thiên, Liễu Phàm Tứ Huấn và Tứ Thư. Các đồng
tu trong đạo tràng này xác thực là có thiện căn, có
phước đức, hy vọng mọi người phải
trân trọng, y giáo phụng hành, chẳng cô phụ Phật,
Tổ, chẳng cô phụ đời này được làm
thân người, quyết định phải thành tựu
trong một đời này. Đoạn này nhằm giải
thích cái nhân lành trong đời trước.
(Sao)
Kim sanh thiện loại giả.
(鈔)今生善類者。
(Sao: Những điều
lành trong đời này).
“Thiện loại” nói thật
ra là nói về nhân duyên.
(Sao)
Như Hoa Nghiêm vân: “Ninh tại chư ác thú, hằng đắc
văn Phật danh. Bất dục sanh thiện đạo,
tạm thời bất văn Phật”.
(鈔)如華嚴云:寧在諸惡趣,恆得聞佛名。不欲生善道,暫時不聞佛。
(Sao:
Như kinh Hoa Nghiêm nói: “Thà trong các đường ác, luôn
được nghe tên Phật. Chẳng muốn sanh
đường lành, tạm thời chẳng nghe Phật”).
Nếu
quư vị thật sự tin tưởng, hiện thời có
máy niệm Phật rất tốt, có thể dùng nó, Phật
đường trong mười hai thời, từ đầu
năm đến cuối năm, Phật hiệu quyết
định chẳng gián đoạn. Khi chúng ta giảng
kinh, mở [máy sao cho tiếng] Phật hiệu nhỏ nhất,
Phật hiệu vẫn chẳng gián đoạn. Khi không giảng
kinh, mở Phật hiệu hơi to một chút, ngày đêm đều
chẳng gián đoạn. Máy niệm Phật hư cái này th́
thay tiếp bằng cái khác, huống hồ một cái máy niệm
Phật dùng mấy tháng cũng chẳng hư. V́ sao Phật
hiệu bị gián đoạn? Do chẳng biết công đức
của danh hiệu! Quư vị thấy chúng tôi đă giảng
ở đây nhiều năm như vậy, đừng nói là
quư vị nghe, người trong nhà chẳng biết, có cách ǵ
đây? Tôi cũng chẳng tiện nói với họ, nhân duyên
của mỗi người mỗi khác. Quư vị gián đoạn
là chuyện của quư vị, tôi nhất định chẳng
gián đoạn là được rồi, hết sức khó
khăn!
“Ninh tại chư ác thú, hằng
đắc văn Phật danh” (Thà ở trong đường
ác, thường được nghe danh hiệu Phật), “hằng” (恆) là chẳng gián
đoạn, [“hằng đắc
văn Phật danh” là] có thể nghe danh hiệu Phật chẳng
gián đoạn. “Bất dục
sanh thiện đạo” (Chẳng muốn sanh trong đường
lành), Dục Giới Thiên, Sắc Giới Thiên, phước
trời to lớn, thọ mạng lâu dài, nhưng chẳng được
nghe Phật hiệu. Đối với chỗ chẳng được
nghe Phật hiệu, dẫu hoàn cảnh tốt đẹp,
ta cũng chẳng muốn đến đó. Nơi có thể
nghe Phật hiệu, dẫu hoàn cảnh xấu hèn, ta cũng
chẳng muốn ĺa khỏi.
(Sao)
Phù bất dĩ nhân thiên vi thiện, nhi dĩ đắc
văn Phật danh vi thiện, tắc tín tâm niệm Phật
giả, giai thiện nhân chi trù loại dă.
(鈔)夫不以人天為善,而以得聞佛名為善,則信心念佛者,皆善人之儔類也。
(Sao: Chẳng coi nhân
thiên là lành, mà coi chuyện được nghe danh hiệu Phật
là lành. Do vậy, người tín tâm niệm Phật đều
thuộc loại người lành).
Trong
quá khứ, ở Đài Trung, các đồng học chúng tôi
cùng nhau nghiên cứu thảo luận, mỗi tuần một
lần, mười năm như một ngày, chúng tôi cùng tu
với nhau mười năm, đó là chuyện rất khó
có trong đời mỗi người, hết sức hiếm
có! Hiện thời, chúng thường trụ tại Đồ
Thư Quán mới giác ngộ, rất khó có, tôi thấy vậy
rất hoan hỷ, [những người ấy] mới giác
ngộ, mới quay đầu. Mỗi ngày cũng có tiểu
ṭa phức giảng[5], sáng
sớm đến dụng công, mọi người thảy
đều tụ tập cùng một chỗ, chẳng dễ
dàng! Nếu quư vị thật sự liễu giải rơ ràng,
duyên sẽ càng thù thắng hơn tôi trong quá khứ. V́ sao? Quư
vị mỗi tuần năm lần, c̣n tôi thuở đó mỗi
tuần một lần, nhân duyên này thù thắng lắm!
Tại
Bắc Kinh, lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ đă bảo
tôi rất nhiều lượt, khi viết thư, cụ cũng
thường nhắc tới. Cụ khuyên tôi đừng giảng
kinh nữa, cụ nói: “Thầy đă giảng kinh hơn ba
mươi năm rồi, chẳng cần phải giảng
nữa. Phật môn chúng ta chẳng có người kế tục,
đó là đại sự!” Cụ khuyên tôi hăy viết sách, bồi
dưỡng học tṛ. Đối với tiêu chuẩn dành
cho học tṛ, lăo nhân gia đặc biệt nhấn mạnh:
Pháp sư Tịnh Tông “tông lẫn thuyết đều thông”
th́ mới có thể thật sự đạt tới mục
tiêu “nối tiếp huệ mạng của Phật, hoằng
pháp lợi sanh”. “Tông lẫn
thuyết đều thông” là ǵ? Thuyết (說) là có thể giảng.
Hiện thời, người có thể giảng rất nhiều,
thuyết thông, nhưng tông chẳng thông! Tông (宗) là ǵ? Tâm địa
thanh tịnh, tương ứng với Phật tâm và Phật
nguyện, tôi thường nói là “tín nguyện giải hạnh
tương ứng với Phật”. Tâm đồng Phật,
nguyện đồng Phật, giải đồng Phật,
hạnh đồng Phật th́ gọi là “tông thông”. Hạng nhân tài ấy khó có, chứ “nói được,
mà chẳng làm được” th́ chẳng đáng quư. Phải
là “thật sự làm được”, tâm thật sự thanh
tịnh, đắc nhất tâm bất loạn, giảng
kinh thuyết pháp sẽ như Phật, không hai! Khác hẳn!
Cụ
Hoàng Niệm Tổ một ḷng mong mỏi có nhân tài như vậy
xuất hiện. Chẳng phải là tôi không có tâm, tôi đă
có nguyện vọng ấy từ lâu, nhưng chẳng có cơ
duyên, t́m đâu ra học tṛ? Giống như thầy Lư thuở
c̣n tại thế, tôi khuyên thầy Lư hăy thu thêm mấy học
tṛ, cụ bảo: “Anh hăy t́m học tṛ giùm tôi đi!” Sau đó,
tôi không dám nói năng chi nữa, t́m không ra! Nay nhân duyên chín muồi,
có mấy đồng tu ở cùng một chỗ với tôi để
cộng tu, tốt lắm! Cơ duyên này khó có! Đă có đồng
học có thể cộng tu cùng một chỗ với tôi, số
người chẳng câu nệ bao nhiêu, dăm ba người
đă là rất nhiều, chẳng coi là ít. V́ thế, từ
nay về sau, thời gian giảng kinh bên ngoài sẽ giảm
thiểu khá lớn, chẳng đi giảng kinh bên ngoài, tôi
cũng dành ra thời gian để hướng dẫn các đồng
tu cùng nhau nghiên cứu, thảo luận. Chúng tôi giảng tiểu
ṭa nhằm giúp đỡ mọi người, thật sự
tu hành th́ phải hiểu rơ kinh nghĩa (ư nghĩa trong kinh điển).
Kinh nghĩa là Phật nghĩa; trong bài kệ Khai Kinh có câu: “Nguyện giải Như Lai chân
thật nghĩa”. Sau khi đă hiểu nghĩa, điều
đáng quư là dâng hiến, y giáo tu hành. Điều này trọng
yếu, có giải và có hạnh, sẽ tự nhiên biết
giảng.
Do vậy,
tôi hy vọng thế hệ sau phải vượt trỗi
thế hệ chúng tôi th́ Phật pháp mới có thể
hưng long, chúng sanh mới có phước. Nếu chẳng
thể vượt trỗi, chúng sanh sẽ khổ sở, đáng
thương. Đối với các sản phẩm khoa học
kỹ thuật, hiện thời họ
cũng nói [sản phẩm thuộc] thế hệ thứ
nhất, thế hệ thứ hai. Thế hệ thứ hai
nhất định tiến bộ hơn thế hệ thứ
nhất, thế hệ thứ ba nhất định tiến
bộ hơn thế hệ thứ hai. Chẳng tiến bộ
hơn sẽ chẳng có ai thèm, công xưởng cũng bị
đóng cửa, công nhân cũng bị thất nghiệp. Hằng
ngày đều nghiên cứu, không ngừng tiến bộ, cải
tiến; hễ thay đổi liền tiến bộ
hơn, Phật pháp cũng là như vậy.
Hôm
nay tôi nói những lời này, nhằm tạo cơ sở
cho mọi người. Quư vị cải tiến th́ dùng những
điều cơ sở này để cải tiến. Hễ
quư vị sửa đổi, đương nhiên là nhất
định sẽ vượt trội tôi; nhưng nay quư vị
sửa kiểu nào vẫn chẳng có cách nào vượt trỗi
tôi, nguyên nhân ở chỗ nào? Do Tu Đức của quư vị
chẳng đủ; do vậy, quư vị phải thật sự
tu. Tâm quư vị phải thật sự thanh tịnh, b́nh
đẳng, từ bi. Quư vị có công phu thật sự, dùng
những điều tôi nói để sửa, chắc chắn
sẽ vượt trỗi tôi. Tôi đem bí mật này nói với
quư vị, hy vọng quư vị sẽ gánh vác trách nhiệm hoằng
pháp lợi sanh của thế hệ kế tục. Nói rất
trọng yếu, nhưng hành quan trọng hơn, nhất
định phải thực hiện được những
giáo huấn trong kinh Phật.
(Diễn)
Ninh tại chư ác thú tứ cú, ác thú nhiệt năo, thiện
thú thanh lương.
(演)寧在諸惡趣四句,惡趣熱惱,善趣清涼。
(Diễn:
Bốn câu “thà ở trong các đường ác”: Đường
ác nóng bức, khổ năo, đường lành mát mẻ).
Dùng
tám chữ này để cân nhắc thiện, ác. Nay chúng ta được
làm thân người, cũng là đường ác. V́ sao? Phiền
năo quá nhiều, chẳng dễ sống, thân tâm chẳng
thanh lương. Tuy được làm thân người, thân
người chẳng dễ chịu đựng. Đây là nói
về ba thiện đạo và ba ác đạo, hai đường
thiện ác.
(Diễn)
Kim ninh thọ nhiệt năo, bất dục thanh lương
giả.
(演)今寧受熱惱,不欲清涼者。
(Diễn:
Nay thà thọ nhiệt năo, chẳng muốn thanh
lương).
Đây
là nói tỷ dụ, nguyện thà ở trong ba đường
ác chịu khổ. Chẳng hy vọng được hưởng
phước báo nhân thiên, v́ sao?
(Diễn)
Dĩ hữu văn Phật, bất văn Phật chi đắc
thất, nhi phân tổn ích cố.
(演)以有聞佛不聞佛之得失,而分損益故。
(Diễn: Dùng lẽ được
mất do được nghe danh hiệu Phật hay không để
phân định tổn hại hay lợi ích).
Trong
ác đạo mà giả sử có thể được nghe danh
hiệu Phật th́ ta nguyện thà ở trong ác đạo,
chẳng mong ở trong thiện đạo, tiêu chuẩn ở
chỗ này. Nếu dùng tiêu chuẩn này, chúng ta có phước
sanh lên trời, trên cơi trời chẳng được nghe danh
hiệu Phật, nhưng trong nhân gian có
thể nghe danh hiệu Phật, ta chẳng mong hưởng
phước trời, chẳng mong hưởng thọ cơi trời,
ta sẽ vào nhân gian để chịu khổ, chịu nạn,
[ngơ hầu] hằng ngày được nghe danh hiệu
Phật. Nay danh hiệu Phật được nghe trọn
khắp, nhưng mọi người chẳng hiểu công
đức của danh hiệu, [vậy th́ có khác ǵ] nghe cũng
như chẳng nghe. Do vậy có thể biết, v́ sao mọi
người chẳng hiểu công đức của danh hiệu?
Người tuyên dương quá ít, chẳng có ai phổ biến,
giới thiệu. Tuy kinh điển rất hay, hiện thời,
mọi người công việc bận bịu, đó là một
nguyên nhân. Thời đại biến đổi, văn chương
Văn Ngôn chẳng có ai đọc. Dẫu có gặp gỡ,
họ xem cũng chẳng hiểu. Hiện thời, nếu
muốn Phật pháp được phổ cập, thuận
tiện nhất vẫn là dùng băng thâu âm, họ nghe băng
sẽ hiểu! Sau khi đă nghe, họ có thể đọc
[các sách vở giảng giải] bèn hiểu. Họ chẳng
nghe, sẽ đọc mà không hiểu. Chúng ta phải nghiêm túc
nỗ lực thực hiện những công tác ấy.
(Diễn)
Ác đạo văn Phật, như nhân thiệp khanh khảm
hiểm đạo, đắc đổ nhật nguyệt
quang minh.
(演)惡道聞佛,如人涉坑坎險道,得睹日月光明。
(Diễn: Trong ác đạo
được nghe [danh hiệu] Phật, như người
đi trên đường hiểm trở đầy hầm
hố, được trông thấy quang minh của mặt
trời và mặt trăng).
Đây
là tỷ dụ, giống như người đang ở
trong đường hầm hố hay đường hiểm
trở, tuy rất nguy hiểm, nhưng có quang minh của mặt
trời và mặt trăng [soi đường].
(Diễn)
Thiện thú bất văn Phật, như nhân lư b́nh thản,
khang trang, bất kiến nhật nguyệt chi quang.
(演)善趣不聞佛,如人履平坦康莊,不見日月之光。
(Diễn: Trong đường
lành chẳng nghe [danh hiệu] Phật, như người
đi trên đường bằng phẳng, khang trang, mà chẳng
thấy ánh sáng của mặt trời hay mặt trăng).
Đây
là tỷ dụ. Do vậy có thể biết, được
nghe danh hiệu hay không, xác thực là có thể biết là thiện
căn dầy hay mỏng, duyên phận cạn hay sâu.
(Sao)
Truy tố lợi độn giả, Tịnh Độ pháp
môn, nhất thiết thâu nhiếp.
(鈔)緇素利鈍者,淨土法門,一切收攝。
(Sao:
“Tăng, tục, lợi căn, độn căn”: Pháp môn Tịnh
Độ thâu nhiếp hết thảy).
Pháp
môn này hết sức rộng lớn, chẳng thể
nghĩ bàn, trên là đến bậc Đẳng Giác Bồ
Tát, dưới là cho tới A Tỳ địa ngục,
đều là đối tượng được nhiếp
thọ của A Di Đà Phật. Chỉ cần có thể tin
tưởng, có thể nguyện, có thể niệm câu danh
hiệu này, A Di Đà Phật thảy đều tiếp dẫn.
Pháp môn này là pháp môn b́nh đẳng thành Phật, là phương
pháp để hữu t́nh thuộc chín pháp giới b́nh đẳng
thành Phật, chẳng thể nghĩ bàn!
(Sao)
Như Đại Bổn vân.
(鈔)如大本云。
(Sao:
Như kinh Đại Bổn nói).
Kinh
Vô Lượng Thọ nói…
(Sao)
Kỳ thượng bối giả, xả gia ly tục nhi
tác sa-môn, diệc hữu bất xả gia ly tục giả,
tức xuất gia ngũ chúng, tại gia nhị chúng dă.
(鈔)其上輩者,捨家離俗而作沙門,亦有不捨家離俗者,即出家五眾、在家二眾也。
(Sao: Bậc thượng
là những người bỏ nhà ĺa tục, làm sa-môn, mà cũng
có người chẳng bỏ nhà ĺa tục, tức là [bao gồm]
năm chúng xuất gia và hai chúng tại gia).
Nói
tới “truy” và “tố”, “truy” (緇) là người xuất gia, Truy là ǵ?
Quần áo nhuộm màu [hoại sắc]. Người xuất
gia mặc y nhuộm hoại sắc [nên c̣n gọi là “truy y”, hay “truy”]. “Tố” (素) là áo trắng, tức
là tại gia cư sĩ. Trên đây đă trích dẫn đại
ư của đoạn kinh văn trong chương Tam Bối
Văng Sanh của kinh Vô Lượng Thọ. Thượng bối
văng sanh là những người bỏ nhà ĺa tục làm sa-môn,
mà cũng có người chẳng bỏ nhà ĺa tục, trung
bối văng sanh và hạ bối văng sanh. Nói thật ra, xuất
gia và chẳng xuất gia không do h́nh thức, khi giảng
kinh Vô Lượng Thọ, chúng tôi đă nói rất rơ ràng. Xuất
gia trên h́nh thức, tâm chẳng xuất gia, làm kiểu đó
sẽ chẳng thể văng sanh. Tâm xuất gia, chẳng xuất
gia nơi h́nh thức, đó là thượng phẩm thượng
sanh. Nhóm Hiền Hộ mười sáu vị Chánh Sĩ trong
kinh Vô Lượng Thọ đều là tại gia Đẳng
Giác Bồ Tát, địa vị của các Ngài chẳng khác Di
Lặc, Quán Âm, Phổ Hiền. Do vậy, người xuất
gia chú trọng tâm xuất gia, chẳng coi trọng thân xuất
gia.
Nếu
chư vị phát nguyện báo ơn Phật, trên đền
bốn ân trọng, dưới cứu khổ tam đồ,
quư vị phát nguyện trong tương lai đi hoằng
kinh, tôi khuyên quư vị tốt nhất là vẫn phải xuất
gia nơi h́nh thức. V́ sao? Người tại gia và người
xuất gia cùng ra ngoài giảng kinh như nhau, do thính chúng có phân
biệt, có vọng tưởng, họ sẽ có cảm nhận
khác nhau. Quư vị mặc y phục của người xuất
gia, có giảng sai, họ vẫn tin tưởng, [v́ họ]
chấp trước: “Đó là sư phụ, chắc chắn
là [thuyết pháp] không sai!” Người tại gia giảng đúng,
họ cũng chẳng tin tưởng. V́ sao? Thấy quư vị
nói chung là kẻ tại gia, chẳng có ǵ nổi trội cả,
chẳng khác ta cho mấy, [lư do] là như vậy đó. V́ thế,
nếu thật sự mong phát tâm hoằng pháp lợi sanh, quư
vị phải thọ h́nh thức ấy sẽ tốt hơn.
Nếu quư vị chẳng phát tâm giảng kinh trong tự viện,
làm kẻ hộ tŕ th́ tại gia cũng được. Người
hộ tŕ chẳng cần lên đài giảng kinh, nên có thể
[giữ h́nh thức tại gia], chẳng sao cả. Nếu phát
tâm lên đài giảng kinh, nhất định phải xuất
gia. Đó cũng là hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công
đức! Xuất gia năm chúng là tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
sa-di, sa-di-ni, học pháp nữ (thức-xoa-ma-na)[6], tại
gia gồm ưu-bà-tắc (cận sự nam) và ưu-bà-di (cận
sự nữ).
(Sao)
Đản niệm Phật giả, câu đắc văng sanh, thị
thông truy tố.
(鈔)但念佛者,俱得往生,是通緇素。
(Sao:
Chỉ cần là người niệm Phật, sẽ đều
được văng sanh, tăng lẫn tục đều là
như vậy).
Chỉ
cần tu học đúng pháp, tín nguyện tŕ danh, chẳng có
ai không văng sanh. Do vậy, pháp môn này rộng lớn khôn sánh.
(Sao)
Hựu liên phân cửu phẩm.
(鈔)又蓮分九品。
(Sao:
Lại chia thành chín phẩm sen).
Đây
là nói sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới,
phẩm vị sai biệt.
(Sao)
Thượng cai thịnh đức Bồ Tát, hạ cập
du du phàm phu, năi chí ác nhân đẳng.
(鈔)上該盛德菩薩。下及悠悠凡夫。乃至惡人等。
(Sao:
Trên bao gồm bậc Bồ Tát đức dầy, dưới
là đến hàng phàm phu chểnh mảng, cho đến những
kẻ ác v.v…)
Nói đến
căn tánh lợi hay độn.
(Diễn)
Thượng cai thịnh đức Bồ Tát, hạ cập
du du phàm phu giả, Quán Kinh Sớ vân: “Thượng phẩm
chi nhân, thỉ tùng Tập Chủng, chung chí Giải Hạnh
Bồ Tát. Trung phẩm giả, tùng ngoại phàm Thập Tín
dĩ hạ. Hạ phẩm tức thị kim thời du du
phàm phu”.
(演)上該盛德菩薩,下及悠悠凡夫者,觀經疏云:上品之人,始從習種,終至解行菩薩;中品者,從外凡十信以下;下品,即是今時悠悠凡夫。
(Diễn: “Trên bao gồm
bậc Bồ Tát đức dầy, dưới là đến
hàng phàm phu chểnh mảng”. Quán Kinh Sớ giảng: “Thượng
phẩm, khởi đầu từ hàng Tập Chủng (Thập
Trụ) cho đến cuối cùng là bậc Giải Hạnh
Bồ Tát. Trung phẩm là từ hạng ngoại phàm Thập
Tín trở xuống. Hạ phẩm chính là hạng phàm phu chểnh
mảng trong hiện thời”).
[Quán
Kinh Sớ ở đây chính là bộ] Quán Vô Lượng Thọ
Kinh Sớ Sao, lời Sớ do Thiên Thai Trí Giả đại
sư chú giải, lời Sao do tôn giả Tứ Minh soạn.
(Sao)
Thích vân: Thập Trụ danh Tập Chủng Tánh, Thập Hạnh
danh Tánh Chủng Tánh, Thập Hồi Hướng danh Đạo
Chủng Tánh. Thử tam thập vị tổng danh Giải Hạnh,
thị Biệt Giáo nội phàm, Thập Tín tức thị
ngoại phàm.
(鈔)釋云:十住名習種性,十行名性種性,十回向名道種性,此三十位總名解行。是別教內凡,十信即是外凡。
(Sao: Giải thích: Thập
Trụ gọi là Tập Chủng Tánh, Thập Hạnh gọi
là Tánh Chủng Tánh, Thập Hồi Hướng gọi là Đạo
Chủng Tánh. Ba mươi địa vị này được
gọi chung là Giải Hạnh, thuộc về nội phàm
trong Biệt Giáo, Thập Tín chính là ngoại phàm).
Đây
là cách giảng của Thiên Thai đại sư, nói theo Duy
Thức Luận. “Tập” (習) là thói quen. Tục
ngữ thường nói: “Thiểu
thành nhược thiên tánh, tập quán thành tự nhiên” (Do
đă h́nh thành từ nhỏ nên giống như là bẩm
sinh, do thói quen mà thành tự nhiên). Đây là địa vị
thấp nhất trong hàng Bồ Tát, huân tập thành chủng
tánh. “Tánh” (性) là không thay đổi,
có ư nghĩa “chẳng thay đổi”. Nói cách khác, đây chính
là Sự nhất tâm bất loạn như kinh Di Đà đă
nói, phẩm vị văng sanh đương nhiên là cao. Thượng
phẩm văng sanh gồm nhiều thứ bậc, cho đến
Đẳng Giác Bồ Tát gồm bốn mươi mốt
cấp bậc. Đây là công phu thấp nhất trong thượng
phẩm văng sanh. Hiểu đạo lư này, chúng ta bèn biết
tầm trọng yếu của việc niệm Phật. Chúng
ta niệm Phật có c̣n cần phải tạp tu hay không? Tạp
tu th́ khi nào quư vị mới có thể tu đạt đến
Tập Chủng Tánh? Tập Chủng Tánh chẳng thể
đạt tới th́ Tánh Chủng Tánh càng khó hơn nữa,
Đạo Chủng Tánh khỏi phải trông mong! Mỗi tầng
một cao hơn, chúng ta nhất định phải nhớ
kỹ điều này, cảnh giác rất sâu!
Trong
Tây Phương Xác Chỉ, Giác Minh Diệu Hạnh Bồ
Tát đă cảnh tỉnh chúng ta: “Người
niệm Phật kỵ nhất là xen tạp”. Xen tạp
là ǵ? Có khi đọc kinh hoặc tụng kinh, tụng kinh
là xen tạp. Đương nhiên là chẳng phải tụng
kinh Di Đà hay kinh Vô Lượng Thọ. Nếu tụng những
kinh này [mà là xen tạp], Ngài đă không chủ trương
niệm Phật trong một cây hương, niệm một
quyển kinh A Di Đà, niệm ba biến Văng Sanh Chú, niệm
một ngàn câu Phật hiệu. Giác Minh Diệu Hạnh Bồ
Tát dạy chúng ta như thế. Nếu niệm kinh Vô Lượng
Thọ cũng là xen tạp, chẳng phải là chính Ngài đă
ăn nói điên đảo ư? Kinh Vô Lượng Thọ
và kinh Di Đà đồng bộ, những ǵ chẳng đồng
bộ th́ đều là xen tạp. Nói cách khác, chẳng cần
niệm những kinh khác [ngoài kinh Tịnh Độ]! Đối
với Tịnh Độ Ngũ Kinh, niệm Phổ Hiền
Hạnh Nguyện Phẩm hoặc niệm Quán Vô Lượng
Thọ Phật Kinh, theo tiêu chuẩn của Giác Minh Diệu
Hạnh Bồ Tát, đều là xen tạp, huống hồ
những kinh điển ở ngoài Tịnh Tông! V́ sao hạn
chế nghiêm ngặt như vậy? Khiến cho quư vị thành
tựu Tập Chủng Tánh, đạo lư ở chỗ này!
Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, vô
lượng vô biên pháp môn không cần học mà thảy đều
đạt được, thảy đều thành tựu,
điều này chẳng thể nghĩ bàn, chúng ta nhất
định phải ghi nhớ chuyện này!
Tam
Hiền Bồ Tát “tổng danh giải
hạnh” (gọi chung là giải hạnh), địa vị
Tam Hiền (trên Tam Hiền là địa vị Thập Thánh),
thuộc về nội phàm trong Biệt Giáo. Địa vị
Thập Tín là ngoại phàm. Thập Tín vị Bồ Tát đắc
Sự nhất tâm bất loạn, chúng ta cũng thường
nói là “công phu thành phiến”. Trong công phu thành phiến,
cũng có cạn hay sâu khác nhau, các Ngài tương đối
sâu hơn một chút.
(Diễn)
Du du phàm phu thị danh tự nhân, thượng vị phục
Hoặc, tu hành bất tinh tấn giả.
(演)悠悠凡夫是名字人,尚未伏惑,修行不精進者。
(Diễn: “Phàm phu chểnh
mảng” là người thuộc địa vị Danh Tự,
c̣n chưa chế phục phiền năo, tu hành chẳng tinh tấn).
Nói
hàng “phàm phu chểnh mảng”,
[tức là những kẻ] giống như phàm phu, ắt phải
niệm đến mức công phu thành phiến, tịnh nghiệp
hễ thành sẽ được văng sanh. Quư vị phải
thành tựu tịnh nghiệp th́ mới được! Ba nghiệp
thân, miệng, ư đă thanh tịnh, phiền năo sẽ như
thế nào? C̣n chưa đoạn phiền năo, thậm chí c̣n
chưa chế phục. Nhưng ba nghiệp thanh tịnh, nói
thật ra, phiền năo bị khuất phục, mới bị
khuất phục, vừa mới chế ngự, điều
phục nó. Vừa chế phục, bèn có thể văng sanh, hạ
hạ phẩm văng sanh! [Phiền năo] vừa mới có thể
chế phục mà c̣n có hiệu quả to tát ngần ấy.
Chế phục phiền năo do một câu Phật hiệu. Trong
tâm chúng ta vừa khởi tâm động niệm, ngay lập
tức đổi nó thành Phật hiệu, tuyệt đối
đừng để vọng niệm tiếp tục dấy
lên; đó chính là chỗ chúng ta trông cậy để văng
sanh. Trong kinh, đức Phật dạy chúng ta: Chúng ta có thể
làm được điều này, kinh điển là giấy
bảo chứng, bảo đảm và chứng thực quư vị
văng sanh.
“Năi chí ác nhân” (Cho đến kẻ
ác), suốt đời mê hoặc, điên đảo, tạo
tác khá nhiều tội ác; một ngày nào đó, người ấy
nghe tới công đức của danh hiệu bèn giác ngộ,
thật sự sám hối. Sám hối có phải là đối
trước Phật, Bồ Tát, dập đầu đảnh
lễ, gào to khóc rống, kể lể tội lỗi của
chính ḿnh hay không? Chẳng cần phải vậy. V́ sao? Quư vị
ở nơi Phật, Bồ Tát nghĩ tưởng tội
lỗi một lần, nhắc lại một lần, tức
là lại tạo tác hai lần. Sám hối là ǵ? Một câu A
Di Đà Phật là sám hối. Những thứ trước
kia đều đoạn hết, thảy đều chẳng
màng tới chúng, thảy đều vứt bỏ, từ
nay trở đi, sẽ là một câu A Di Đà Phật, đấy
chính là thật sự sám hối. Những tội ác trong quá
khứ c̣n nghĩ tới để làm ǵ? Nghĩ một lần
là trong tâm tạo một lần, đáng sợ thay! Định
nghĩa của sám hối là “hậu
bất tái tạo” (về sau chẳng c̣n tạo nữa),
từ nay trở đi, ta chẳng c̣n tạo nữa! Niệm
A Di Đà Phật sẽ chẳng tạo; chẳng niệm A
Di Đà Phật sẽ c̣n tiếp tục tạo. Chẳng niệm
A Di Đà Phật bèn tạo nghiệp. V́ lẽ đó, người
niệm Phật suốt ngày từ sáng đến tối Phật
chẳng ĺa tâm, phải như vậy th́ mới được.
Hoàn
cảnh trong nhà khiến ta chẳng thể giữ cho Phật
hiệu không gián đoạn suốt hai mươi bốn
tiếng đồng hồ th́ chúng ta mang theo máy nghe cá nhân,
thứ này rất hợp mode. Người khác nghe lục
đạo luân hồi, chúng ta nghe A Di Đà Phật, nghe Tây
Phương Cực Lạc thế giới, do chúng ta tạo
tịnh nghiệp nên thành tựu tịnh nghiệp, dùng phương
pháp này. Cả nhà niệm Phật là tốt nhất, âm thanh
của Phật hiệu suốt hai mươi bốn giờ
từ đầu năm cho đến cuối năm đều
chẳng gián đoạn, đạo tràng ấy chẳng thể
nghĩ bàn.
(Sao)
Đản niệm Phật giả, diệc đắc văng
sanh, thị thông lợi độn.
(鈔)但念佛者,亦得往生,是通利鈍。
(Sao:
Chỉ cần niệm Phật cũng được văng
sanh, lợi căn và độn căn đều là như
vậy).
Bồ
Tát lợi căn, chúng sanh chểnh mảng là độn căn.
(Sao)
Hựu quỷ, súc, địa ngục, thư, hùng, tẫn,
mẫu, diệc khả quân danh nam nữ.
(鈔)又鬼畜地獄,雌雄牝牡,亦可均名男女。
(Sao:
Lại nữa, quỷ, súc sanh, địa ngục, trống,
mái, đực, cái, cũng đều có thể gọi là
nam nữ).
Lục
đạo chúng sanh thảy đều được bao gồm.
(Sao)
Đản niệm Phật giả, câu đắc văng sanh, thị
thông nhất thiết chúng sanh dă.
(鈔)但念佛者,俱得往生,是通一切眾生也。
(Sao:
Chỉ cần niệm Phật sẽ đều được
văng sanh, hết thảy chúng sanh đều là như vậy).
Quư
vị ngẫm xem, pháp môn này có phạm vi nhiếp thọ rộng
lớn dường ấy! Không chỉ là thế giới này,
mà mười phương vô lượng vô biên các cơi Phật,
A Di Đà Phật đều b́nh đẳng nhiếp thọ.
(Sao)
Kê cổ nghiệm kim, phả tải nhất, nhị, nguyện
tường lăm yên.
(鈔)稽古驗今,頗載一二,願詳覽焉。
(Sao:
Dẫn chuyện xưa để suy nghiệm chuyện
nay, [những điều được chép trong truyện
kư] chỉ là ghi chép một hai điều, mong hăy xem kỹ).
Bảo
chúng ta hăy quan sát cặn kẽ, chứng nghiệm. Từ xưa
đến nay đă có các ghi chép, đúng là trong ngàn vạn
chỉ ghi chép một, hai [trường hợp]. Người
được chép trong Văng Sanh Truyện chẳng nhiều.
Đó là những người văng sanh được mọi
người hay biết, c̣n có nhiều người văng sanh nhưng
không ai biết, nên chẳng ghi chép. Chúng sanh trong ác đạo,
quỷ đạo, địa ngục đạo, chúng ta đâu
có biết. Bộ sách Vật Do Như Thử chuyên ghi chép
chuyện súc sanh văng sanh. Sau khi quư vị đọc sách ấy,
liền biết danh hiệu Di Đà có công đức chẳng
thể nghĩ bàn.
Phàm
là người tin nhận, nhất tâm xưng niệm, chẳng
có ai không văng sanh. Văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới, công đức học Phật của chúng ta mới
coi như viên măn, đại công cáo thành. Phải biết rằng
đây chẳng phải là chuyện một đời, mà là
do nhiều đời nhiều kiếp tích lũy, nên mới
có thành tựu như ngày nay. Do vậy, phải quư trọng đời
này, phải nỗ lực, phải tinh tấn, quyết
định chớ nên bỏ lỡ. Hết thảy chuyện
thuộc về nhân sự trong thế gian hăy để mặc
nó, phải chịu đựng, chỉ cần chẳng trở
ngại chúng ta niệm Phật th́ chuyện ǵ cũng đều
hứng chịu được, ḥng thành tựu đạo
nghiệp của chính ḿnh. Đây là chuyện lớn bậc
nhất trong một đời này. Hôm nay, chúng tôi giảng tới
đây!
A Di Đà Kinh Sớ Sao
Diễn Nghĩa
Phần 110
hết
[1] “Bất
khả thuyết” có thể hiểu theo hai ư nghĩa:
1) Chẳng thể diễn tả được,
đây là cách nói và hiểu thông thường. Chẳng
hạn theo Du Già Sư Địa Luận, “bất khả
thuyết” lại có bốn nghĩa:
- Vô cố bất khả thuyết: Do chẳng
thể nào nói rạch ṛi nên chẳng thể nói, v́
vượt ngoài khả năng diễn tả của ngôn
ngữ, do không chấp trước vào hai bên, nên chẳng
thể nói.
- Thậm thâm bất khả thuyết: Nghĩa lư quá
sâu nên chẳng thể nói được. Chẳng hạn
Pháp Thân của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn,
cảnh giới của chư Phật chẳng thể
nghĩ bàn v.v… nên nói là bất khả thuyết.
- Năng dẫn vô nghĩa cố bất khả
thuyết: Nếu điều ǵ chẳng thể dẫn
khởi đến lợi ích nơi pháp, chư Phật
Như Lai chẳng nói.
- Pháp tướng pháp nhĩ chi sở an lập
cố bất khả thuyết: Pháp tướng về
bản chất vốn được an lập như
vậy nên chẳng thể nói. Chẳng hạn cảnh
giới Hoa Nghiêm là “trong một đầu lông, vô biên chư
Phật chuyển pháp luân”, trùng trùng duyên khởi, chẳng
có cách nào nói trọn hết được.
2) Bất khả thuyết (不可說) là một con số rất lớn trong
cách đếm của cổ Ấn Độ. Như trong
phẩm A Tăng Kỳ của Bát Thập Hoa Nghiêm đă
nói: “Một trăm lạc-xoa
là một câu chi, câu chi lần câu chi là một a dữu
đa. A dữu đa lần a dữu đa là một na do
tha. Na do tha lần na do tha là một tần bà la. Tần bà
la lần tần bà la là một căng yết la. Căng
yết la lần căng yết la là một a già la. A già la
lần a già la là một tối thắng. Tối thắng
lần tối thắng là một ma bà la. Ma bà la lần ma bà
la là một a bà la…. A tăng kỳ
lần a tăng kỳ là một
a tăng kỳ chuyển.
A tăng kỳ chuyển
lần a tăng kỳ chuyển
là một vô lượng. Vô lượng lần vô
lượng là một vô lượng chuyển. Vô
lượng chuyển lần vô lượng chuyển là
một vô biên. Vô biên lần vô biên là một vô biên chuyển.
Vô biên chuyển lần vô biên chuyển là một vô
đẳng. Vô đẳng lần vô đẳng là một
vô đẳng chuyển. Vô đẳng chuyển lần vô
đẳng chuyển là một bất khả số.
Bất khả số lần bất khả số là một
bất khả số chuyển. Bất khả số
chuyển lần bất khả số chuyển là một
bất khả xưng. Bất khả xưng lần
bất khả xưng là một bất khả xưng
chuyển. Bất khả xưng chuyển lần bất
khả xưng chuyển là một bất khả tư.
Bất khả tư lần bất khả tư là một
bất khả tư chuyển. Bất khả tư
chuyển lần bất khả tư chuyển là một
bất khả lượng. Bất khả lượng
lần bất khả lượng là một bất khả
lượng chuyển. Bất khả lượng
chuyển lần bất khả lượng chuyển là
một bất khả thuyết”. Một lạc-xoa là một trăm ngàn.
“Vi trần số” (微塵數) là số lượng vi trần trong
một tam thiên đại thiên thế giới.
[2] Đây chính là cơ sở Phật Đà
Giáo Dục Cơ Kim Hội, chính là một tổ chức bất
vụ lợi chuyên ấn hành để biếu tặng
kinh sách, băng giảng, tranh tượng Phật miễn
phí đặt cơ sở tại Đài Bắc. Cơ sở
này do ông Giản Phong Văn và các đạo hữu cùng chí hướng
sáng lập.
[3] Bát Thập Bát Phật nói ở đây
chính là nghi thức sám hối Hồng Danh Bảo Sám. Danh
hiệu của tám mươi tám vị Phật ấy bao
gồm danh hiệu ba mươi lăm vị Phật trích
từ kinh Quyết Định Tỳ Ni (từ Thích Ca Mâu Ni
Phật cho đến Bảo Liên Hoa Thiện Trụ Sa La
Thụ Vương Phật) và năm mươi ba vị
Phật trích từ kinh Quán Dược Vương
Dược Thượng Nhị Bồ Tát (từ Phổ
Quang Phật cho đến Nhất Thiết Pháp
Thường Trụ Măn Vương Phật).
[4] Tiên thiên (先天) và hậu thiên (後天) ở đây là hai khái niệm
được dùng trong y học cổ, với ư nghĩa:
Tiên thiên là điều kiện bẩm sinh, c̣n hậu thiên là
những điều kiện do bồi dưỡng, vun
bồi, tập luyện mà có. Chữ “tiên thiên” ở đây
chỉ thiện căn, phước đức và nhân duyên
của hành nhân đă tích tập trong đời
trước.
[5] Tiểu ṭa phức giảng (小座複講): các đồng học tụ lại
với nhau giảng lại những điều thầy
đă giảng, câu chữ có thể khác, lời giảng dài
ngắn không nhất định, nhưng người giảng
không tự tiện thêm vào ư của chính ḿnh, chẳng thêm vào
những ư nào thầy không nói, nên gọi là “phức giảng” (lặp lại ư tưởng
của thầy). Chúng tôi không dịch chữ “phức giảng” thành “trùng tuyên” v́ trùng tuyên là
lặp lại y hệt từng chữ, từng câu của
thầy đă nói, chẳng khác ǵ chính thầy đang nói. Do
đối tượng nghe giảng chính là đồng
học, thường là một ít người. Người
nghe giảng đóng vai tṛ khuyến khích, tán trợ,
đồng thời góp ư phê b́nh để người
tập giảng có thể cải tiến tốt
đẹp hơn nên gọi là “tiểu
ṭa”.
[6] Học pháp nữ (c̣n gọi là
Thức-xoa-ma-na, Sikkhamānā)
là giai đoạn tu tập chuyển tiếp giữa
sa-di-ni và tỳ-kheo-ni. Trước khi thọ Cụ Túc
Giới, sa-di-ni phải trải qua giai đoạn này ḥng
tập quen với cuộc sống và giới luật
của hàng tỳ-kheo-ni. Luật Tứ Phần quy
định Học Pháp Nữ ngoài mười giới Sa Di
phải tuân thủ, c̣n thọ thêm sáu giới nữa
(chẳng đụng chạm thân thể của nam nhân,
chẳng được ăn trộm của người
khác dù vật ấy giá trị chưa đến bốn
đồng, chẳng được cố ư dứt
mạng sống của súc sanh, chẳng được nói
dối dù những điều nhỏ nhặt, chẳng
ăn phi thời, chẳng uống rượu). Nhưng
Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ
Bật Sô Ni Tỳ Nại Da quy định Học Pháp
Nữ ngoài mười giới có sáu pháp (chẳng
được đi đường một ḿnh, chẳng được
vượt sông một ḿnh, chẳng được
đụng chạm thân chồng (điều này dành cho
những người đă từng kết hôn trước
khi xuất gia), chẳng được ngủ chung một
nơi với đàn ông, chẳng được làm mai
mối, chẳng được giấu diếm những
trọng tội của tỳ-kheo-ni khác) và sáu tùy pháp
(chẳng được cầm giữ tiền bạc,
chẳng được cạo lông ở chỗ kín,
chẳng được khai khẩn vỡ đất
để trồng cấy, chẳng được cố
ư giết chết cây cối đang sống, chẳng
được ăn những thứ không được
mời, chẳng được ăn những thứ
đă từng bị đụng chạm làm dơ). Nói chung,
những giới ấy đều nhằm ngăn ngừa
phạm giới, tránh tai tiếng, thị phi, cũng như
để bảo vệ các nữ tu không bị ác nhân xâm phạm.