A Di Đà Kinh Sớ
Sao Diễn Nghĩa
阿彌陀經疏鈔演義
Phần 118
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Minh Tiến, Huệ Trang và
Đức Phong
Tập
235
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn
Nghĩa Hội Bản, trang bốn trăm năm mươi
bảy:
(Sao)
Hoa Nghiêm Nhất Hạnh giả, Đức Vân tỳ-kheo thị
Niệm Phật pháp môn. Sớ vân: “Nhất Hạnh tam-muội,
quán kỳ Pháp Thân, dĩ Như vi cảnh, vô cảnh phi Phật”.
(Diễn) Đức
Vân tỳ-kheo thị Niệm Phật pháp môn giả. Sơ
vân: “Ngă duy đắc thử ức niệm nhất thiết
chư Phật cảnh giới, trí huệ, quang minh phổ
kiến pháp môn”. Kế phục thị Trí Quang Phổ Chiếu
Niệm Phật môn, năi chí đệ nhị thập nhất
Trụ Hư Không Niệm Phật môn”.
(鈔)華嚴一行者,德雲比丘示念佛法門,疏云:一行三昧,觀其法身。以如為境,無境非佛。
(演)德雲比丘示念佛法門者,初云我唯得此憶念一切諸佛境界,智慧光明普見法門,繼復示智光普照念佛門,乃至第二十一住虛空念佛門。
(Sao:
“Hoa Nghiêm Nhất Hạnh”: Tỳ-kheo Đức Vân dạy
pháp môn Niệm Phật. [Thanh Lương] Sớ ghi: “Nhất
Hạnh tam-muội quán Pháp Thân, lấy Như làm cảnh, chẳng
có cảnh nào không phải là Phật”.
Diễn:
“Tỳ-kheo Đức Vân dạy pháp môn Niệm Phật”. Trước hết, Ngài nói: “Ta chỉ
đắc pháp môn ức niệm cảnh giới của hết
thảy chư Phật, trí huệ quang minh thấy trọn
khắp này”. Sau đó, lại dạy pháp môn Trí Quang Phổ
Chiếu Niệm Phật, cho đến môn thứ hai
mươi mốt là Trụ Hư Không Niệm Phật).
Trong
hết thảy các kinh do đức Như Lai đă nói trong bốn
mươi chín năm, Đại Phương Quảng Phật
Hoa Nghiêm Kinh xứng đáng nhất để đại diện
cho sự giáo hóa trong suốt một đời Thích Ca Mâu Ni
Phật. Nói theo cách hiện thời, kinh Hoa Nghiêm là khái luận
của toàn thể Phật pháp. Cổ nhân nói Hoa Nghiêm là căn
bản pháp luân, hết thảy các kinh đều là quyến
thuộc của Hoa Nghiêm, cũng có thể nói “hết thảy
các kinh là cành lá của Hoa Nghiêm”. Hoa Nghiêm là căn bản, giảng
giải viên măn đến mức độ rốt ráo tột
bậc, mà cũng là khuôn mẫu quan trọng nhất để
học Phật, nhất là phẩm Nhập Pháp Giới,
năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài
đồng tử đă nêu gương tu học cho chúng ta.
Hành giả Đại Thừa xem Thiện Tài đồng tử
tham phỏng năm mươi ba vị thiện tri thức,
sẽ biết phải nên học tập Phật pháp như
thế nào. Vị thầy đầu tiên của Thiện
Tài đồng tử là Văn Thù Bồ Tát. Một hội
kinh trong phẩm Nhập Pháp Giới gồm có bổn hội
và mạt hội. Bổn hội (本會: hội gốc,
hội căn bản) chiếm đến ba quyển rưỡi
trong phần kinh văn, [trong ấy thuật chuyện] Thiện
Tài đồng tử tôn Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
làm thầy. Thiện Tài thành tựu Căn Bản Trí trong hội
của ngài Văn Thù. Căn Bản Trí là ǵ? Trong kinh Bát Nhă
thường nói: “Bát Nhă vô tri,
không ǵ chẳng biết”. Vô tri là Căn Bản Trí. Vô tri
là khi chân tâm chẳng khởi tác dụng, nó bèn thanh tịnh,
tịch diệt. Trong Đàn Kinh, Lục Tổ đại
sư đă nói: “Vốn chẳng
có một vật, chỗ nào nhuốm bụi trần”,
đó chính là Căn Bản Trí. Căn Bản Trí hết sức
trọng yếu, giống như một cái cây, chẳng có cội
rễ, lấy đâu ra cành, lá? Rễ sanh trưởng
dưới đất, phần chánh yếu phát xuất từ
rễ được gọi là cội (thân chánh của
cây), từ cội lại chia thành cành, lại tách thành nhánh,
lại có lá, hoa, quả, có thể thấy cội rễ vô
cùng quan trọng.
Chẳng
thể nói là người hiện thời tu học chẳng
siêng năng, tích cực, chẳng thể nói họ không dụng
công, nhưng xét theo hoàn cảnh tu học để nói, chẳng
thể nói là không thuận lợi. Người thuở
trước t́m kinh bổn chẳng ra! Nếu muốn có một
bộ kinh, chỉ có cách chép tay, đâu có thuận tiện
như hiện thời! Thuở tôi mới học Phật, theo
pháp sư Sám Vân ở trong lều tranh[1] tại
Bộ Lư, buổi tối xem kinh, khi ấy đèn sáng nhất
là một cái bóng đèn điện nhỏ có độ sáng
là hai nến (Candela)[2].
Do thuở ấy, trên núi chẳng có điện, pháp sư
Sám Vân mua một b́nh ắc-quy (accumulateur, accu) của xe
hơi, nạp đầy điện mang lên núi. [Trong chùa]
có tất cả là sáu căn pḥng, mỗi pḥng thắp một
ngọn đèn nhỏ, [có độ sáng] là hai nến. Chúng
tôi đọc sách dưới ánh sáng [tù mù] như vậy,
đâu có sáng ngời như hiện thời! Người học
Phật hiện nay phước báo quá lớn,
[đèn đuốc] sáng ngời như thế! Hoàn cảnh
của cổ nhân c̣n khốn khổ, gian nan hơn chúng tôi.
Trong
tu học, khẩn yếu nhất là sư thừa. Thời
cổ, không chỉ là Phật pháp, mà pháp thế gian cũng
hết sức coi trọng sư thừa: Quư vị theo học
với vị thầy nào, thầy chỉ có một người.
Hôm nay theo học với người này, mai theo học với
người khác, chẳng thể gọi là “sư thừa” được! Thầy dạy quư
vị điều ǵ? Thầy dùng đủ mọi phương
tiện để thành tựu Căn Bản Trí cho quư vị,
gột sạch sành sanh vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước, ưu lự, vướng mắc trong tâm quư vị,
tâm thanh tịnh hiện tiền, Giới Định Huệ
hiện tiền. Đạt được Căn Bản
Trí chính là thành tựu lớn nhất do thầy giúp đỡ
quư vị. Đạt tới tŕnh độ này, thầy chẳng
c̣n buộc quư vị phải ở cùng một chỗ với
thầy nữa, sẽ mời quư vị đi tham học.
Sau khi đă đạt được Căn Bản Trí th́ mới
có tư cách tham học. Tham học là học rộng, nghe
nhiều, nhằm thành tựu Hậu Đắc Trí.
Trên
thực tế, đúng là kinh Hoa Nghiêm đă triển khai Tứ
Hoằng Thệ Nguyện cho chúng ta thấy hết sức
rơ rệt. Điều đạt được trong hội
của vị thầy thứ nhất là “đoạn phiền năo”. Trong Tứ Hoằng Thệ
Nguyện, đương nhiên chẳng cần nói tới
nguyện thứ nhất. Nguyện thứ nhất là “chúng sanh vô biên thệ nguyện
độ”, quư vị chẳng có nguyện này, sẽ chẳng
thể tiến nhập Phật môn. Tiến nhập Phật
môn là do phát đại nguyện này. Tu học Phật pháp nhằm
thực hiện đại nguyện độ chúng sanh, bắt
đầu học từ chỗ nào? Từ đoạn phiền
năo. Chẳng đoạn phiền năo, chắc chắn là chẳng
có thành tựu trong Phật pháp, chư vị phải nhớ
kỹ điều này. Phật pháp thường dùng Đề
Hồ làm tỷ dụ. Trong Đề Hồ chẳng
được xen lẫn mảy may độc dược
nào. Hễ xen lẫn một tí độc dược, cả
một bát to Đề Hồ đều biến thành độc
dược. Độc dược là ǵ? Phiền năo. Tham,
sân, si, mạn, ngũ dục, lục trần phải bỏ
sạch sành sanh th́ mới trở thành pháp khí, có thể tiếp
nhận Phật pháp. Do vậy, hội của thầy nhằm
giúp chúng ta đạt tới mục tiêu này. Đoạn Kiến
Tư phiền năo, Trần Sa phiền năo cũng phá, khi ấy
mới có tư cách tham học. Tham học là phá vô minh, chứng
Pháp Thân. Ở nơi Văn Thù Bồ Tát, Thiện Tài đồng
tử hoàn thành giai đoạn tu học thứ nhất,
thành tựu “vô tri”, ĺa thầy đi tham học, thành tựu
Hậu Đắc Trí. Hậu Đắc Trí là “không ǵ chẳng
biết”.
Năm
mươi ba lần tham học, vị thiện tri thức
đầu tiên là tỳ-kheo Đức Vân. Tỳ-kheo Đức
Vân đại diện cho Sơ Trụ Bồ Tát. Hoa Nghiêm là
Đại Thừa Viên Giáo, [tỳ-kheo Đức Vân là] Đại
Thừa Viên Giáo Sơ Trụ Bồ Tát. Thiện Tài tham phỏng
Đức Vân, tŕnh độ ngang bằng với ngài Đức
Vân. Nói cách khác, Thiện Tài chứng đắc Sơ Trụ
trong Viên Giáo. Ngài đến tham phỏng Phổ Hiền Bồ
Tát, Phổ Hiền Bồ Tát đă viên măn Vô Thượng Bồ
Đề, Thiện Tài đồng tử cũng thành tựu
Phật quả trong Viên Giáo. Trong giáo pháp suốt một
đời đức Thế Tôn, nói về sự thành tựu
ngay trong một đời, từ [địa vị] phàm
phu chứng đắc Phật quả trong Viên Giáo, chỉ
có phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm giảng
về [sự tu học thành tựu] trong một đời
của một người từ địa vị phàm phu
cho đến viên măn Phật quả, quá tŕnh và thứ tự
tu hành được giảng giải hết sức rơ
ràng, minh bạch. Tỳ-kheo Đức Vân là vị thầy
đầu tiên, là vị thiện tri thức đầu
tiên, vô cùng quan trọng. Người đời thường
nói: “Tiên nhập vi chủ”,
[có nghĩa là], pháp môn do vị thầy đầu tiên dạy
cho quư vị sẽ là pháp môn tu tập chủ yếu trong suốt
một đời! Ngài Đức Vân dạy ǵ? Dạy niệm
Phật. Vị cuối cùng là Phổ Hiền Bồ Tát,
đó là vị [thiện tri thức] thứ năm
mươi ba. Phổ Hiền Bồ Tát “mười đại nguyện vương dẫn
về Cực Lạc”. Một đầu, một cuối,
quư vị bèn biết Thiện Tài do tu pháp môn ǵ mà thành tựu?
Hết sức rơ rệt, bày ra ngay trước mắt chúng
ta: Thiện Tài do niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới mà đạt được
thành tựu. Từ chỗ này, ta thấy rất rơ rệt,
rất minh bạch! Lại xem xét cẩn thận thầy của
Ngài là Văn Thù Bồ Tát. Trong hội Hoa Nghiêm, Văn Thù và Phổ
Hiền đều phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ.
Thiện Tài là học tṛ đắc ư nhất và là truyền
nhân của Văn Thù Bồ Tát, đương nhiên Ngài chẳng
thể tu pháp môn khác thầy, nhất định là tu cùng một
pháp môn giống như thầy! Từ những dấu tích
này, chúng ta quan sát Văn Thù, Phổ Hiền, Thiện Tài, sau
đó, thấy bốn mươi mốt địa vị
Pháp Thân đại sĩ trong hội Hoa Nghiêm đều nghe
theo lời Phổ Hiền Bồ Tát khuyên dạy, đều
niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Điều này thật sự chẳng thể
nghĩ bàn, hiển thị sự vĩ đại của pháp
môn Niệm Phật, tỏ rơ pháp môn này là pháp tu hành của
các vị đại Bồ Tát.
Chúng
ta lại xem kinh Vô Lượng Thọ. Vừa mở đầu,
kinh bèn nói rơ đại chúng văng sanh thế
giới Tây Phương “giai
tuân Phổ Hiền đại sĩ chi đức”
(đều tuân theo phẩm đức của Phổ Hiền
đại sĩ), nêu rơ: Hễ là người văng sanh
thế giới Tây Phương, từ hạ hạ phẩm
cho đến thượng thượng phẩm, thảy
đều tu pháp môn Phổ Hiền. Pháp môn Phổ Hiền
là pháp môn Hoa Nghiêm. Đầu đời Thanh, trong niên hiệu
Càn Long, cư sĩ Bành Tế Thanh nói kinh Vô Lượng Thọ
là Trung Bổn Hoa Nghiêm, kinh A Di Đà là Tiểu Bổn Hoa
Nghiêm, nói rất có lư! Về sau, cư sĩ Ngụy Nguyên lại
ghép thêm Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm vào sau ba
kinh, trở thành Tịnh Độ Tứ Kinh, đúng là rất
có căn cứ, chẳng phải là tùy tiện ghép bừa!
Tỏ rơ kinh Vô Lượng Thọ và kinh Hoa Nghiêm hoàn toàn giống
nhau, một kinh nói chi tiết, một kinh nói giản lược.
Kinh tinh giản nhất là kinh A Di Đà, đó là Tiểu Bổn
Hoa Nghiêm. Kinh văn Đại Bổn và Tiểu Bổn dài
ngắn khác nhau, nhưng xét theo nghĩa lư và cảnh giới
trong ấy th́ chẳng khác nhau. Chẳng thể nói Tiểu
Bổn có cảnh giới nhỏ hơn, kinh nghĩa (nghĩa
lư của kinh) nông cạn hơn. [Nếu nghĩ như vậy]
tức là quư vị đă thấy sai lầm, [hai kinh] sâu hay cạn
hoàn toàn giống nhau, một đằng là nói cặn kẽ,
một đằng nói đơn giản. Đối với
chuyện này, nếu đọc kinh Hoa Nghiêm chẳng cẩn
thận, sẽ chẳng thấy được, đúng là
đă uổng công đọc kinh Hoa Nghiêm! Thấy rơ ràng chuyện
này, sau đấy, chúng ta mới thật sự hiểu rơ
kinh Di Đà là tinh hoa của kinh Hoa Nghiêm. Hoa Nghiêm là tinh hoa của
Đại Tạng giáo (toàn thể giáo pháp của đức
Phật), kinh Di Đà là tinh hoa của kinh Hoa Nghiêm, tức
là tinh hoa của tinh hoa. Liên Tŕ đại sư hết sức
lỗi lạc, rất nhiều chỗ trong Sớ Sao, Ngài đă
trích dẫn Hoa Nghiêm để giải thích. Kinh Di Đà và
kinh Hoa Nghiêm xác thực là một Thể, chỗ nào Ngài
cũng trích dẫn kinh Hoa Nghiêm để nêu tỏ ư
nghĩa của kinh [Di Đà].
Thiện
Tài tham phỏng vị thiện tri thức đầu tiên,
Ngài dạy Thiện Tài pháp môn Niệm Phật, lại c̣n
nói hết sức khẩn thiết: “Ngă duy đắc thử” (Ta chỉ đắc
pháp này). “Duy” (唯) là duy nhất; trong
vô lượng vô biên pháp môn, ta tu học được duy
nhất pháp Ức Niệm Nhất Thiết Chư Phật
Cảnh Giới (nghĩ nhớ cảnh giới của hết
thảy chư Phật). Nếu chúng ta hỏi, cảnh giới
của hết thảy chư Phật là ǵ? Nói rộng sẽ
là Hoa Nghiêm, đặc biệt là phần kinh văn thuộc
mười một quyển rưỡi ở đầu
kinh Hoa Nghiêm giảng về cảnh giới nơi quả
địa Như Lai. Nói đại lược sẽ là những
điều được nêu lên trong kinh Vô Lượng Thọ
và kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật. Nói giản lược
hơn nữa là những điều được nói
trong kinh Di Đà. Chúng ta chớ nên nh́n theo nghĩa hẹp,
đấy chính là cảnh giới của A Di Đà Phật.
Trong kinh Vô Lượng Thọ, đức Thế Tôn đă
giới thiệu A Di Đà Phật, nói A Di Đà Phật là “quang trung cực tôn, Phật trung
chi vương” ([quang minh] tôn quư nhất trong các quang minh,
là vua của các vị Phật), hai câu này đă nói trọn vẹn:
A Di Đà Phật là hết thảy chư Phật, cảnh
giới Di Đà là cảnh giới của hết thảy
chư Phật. Thành tựu của tỳ-kheo Đức Vân
là nghĩ nhớ cảnh giới của hết thảy
chư Phật, trên thực tế là cảnh giới của
Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật.
Câu này là tổng thuyết (nói tổng quát), hai mươi
câu sau đó[3] là biệt thuyết
(nói từng pháp riêng biệt), một đằng là Tổng,
một đằng là Biệt, bèn thấy ư nghĩa hết
sức rơ rệt.
Đối
với Nhất Hạnh tam-muội, phần tiếp theo nhằm
giải thích Nhất Hạnh tam-muội. Ở đây chỉ
có hai câu, hai câu này do Liên Tŕ đại sư viết. “Dĩ Như vi cảnh, vô cảnh
phi Phật” (Dùng Như làm cảnh, không cảnh nào chẳng
phải là Phật). Đối với Như, mở kinh
văn ra, chữ đầu tiên là “như thị ngă văn”, chính là chữ Như đang nói ở đây. “Như” đại biểu
điều ǵ? Trong Phật pháp có nói Chân Như, bản tánh,
hoặc chân tâm. Kinh Đại Thừa thường nói tận
hư không khắp pháp giới, không chỉ là thế giới
này của chúng ta, mà vô lượng vô biên các cơi Phật
đều do tự tánh của chúng ta biến hiện,
đó là Như và Cảnh. Đă là do tự tánh biến hiện,
có pháp nào chẳng phải là tự tánh? Pháp nào cũng đều
là, đó gọi là “pháp pháp giai
Như” (pháp nào cũng đều Như), chẳng có pháp
nào không Như! Thiền Tông nói “minh
tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”. Tánh ở chỗ
nào? Chẳng có pháp nào chẳng phải [là tánh].
Cổ
đức nêu tỏ đôi chút ư nghĩa này, lại sợ
đại chúng khó thể lănh hội, bất đắc
dĩ lại dùng tỷ dụ: “Dùng
vàng làm đồ vật, món nào cũng đều là vàng”.
Tỷ dụ này rất bất đắc dĩ, thật sự
là chẳng thể sánh ví được! V́ vàng xác thực
là có vật chất tồn tại, c̣n tâm tánh th́ chẳng có
h́nh tướng, chẳng có thứ ǵ có thể sánh ví
được. [Tỷ dụ được nói ở
đây chỉ là] giả thiết. Ví như chúng ta dùng vàng
làm thành nhiều món đồ, tạo một bức tượng
Phật [th́ chúng ta coi tượng ấy] như một
đức Phật; tạo tượng Bồ Tát th́ là một
vị Bồ Tát. Tạo tượng người th́ tượng
ấy là người. Tạo h́nh tượng súc sanh th́
tượng ấy là súc sanh. Bản chất của chúng
đều là vàng, giá trị hoàn toàn như nhau. Có nghĩa
là: Tất cả hết thảy vạn pháp thế gian và xuất
thế gian đều là tướng, đều do vàng chế
ra. Nh́n từ Thể, chúng đều là vàng. Dùng Thể ấy
để sánh ví tâm tánh, sánh ví với Chân Như bản tánh,
có thứ ǵ chẳng phải là Chân Như bản tánh? Thảy
đều là; do đó, mọi pháp b́nh đẳng! Thật
sự thấy chân tướng sự thật này bèn gọi
là minh tâm kiến tánh, kiến tánh bèn thành Phật.
Phật
pháp chẳng có ǵ khác, [hoàn toàn] là nói đến mê và ngộ.
Mê là mê chân tướng sự thật này, ngộ vẫn là ngộ
chân tướng sự thật này. Chân tướng sự
thật chẳng có mê hay ngộ, mê hay ngộ ở nơi
tâm chúng ta. Đă mê bèn tạo nghiệp, do tạo nghiệp bèn
có quả báo luân hồi trong lục đạo. Đă giác ngộ,
[nhưng] chưa triệt để giác ngộ th́ cũng
có quả báo, tức là quả báo trong tứ thánh pháp giới:
Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, và Phật. Khi mê là quả
báo lục phàm, đă ngộ th́ là quả báo tứ thánh. Nếu
triệt ngộ, triệt để giác ngộ, giác ngộ
đến mức viên măn, lục phàm lẫn tứ thánh
đều chẳng có, làm như thế nào? Phật pháp bất
đắc dĩ nói một danh từ là Nhất Chân pháp giới,
Nhất Chân pháp giới là triệt ngộ rốt ráo. Chưa
đạt đến giác ngộ viên măn rốt ráo, bèn có
mười pháp giới. V́ vậy, Phật trong mười
pháp giới chẳng phải là bậc giác ngộ viên măn. Tạng
Giáo có Phật, Thông Giáo có Phật, Biệt Giáo có Phật, những
vị Phật ấy đều chưa giác ngộ triệt
để. Nói theo Biệt Giáo, Sơ Địa Bồ Tát
trong Biệt Giáo mới phá một phẩm vô minh, chứng một
phần Pháp Thân. Từ Sơ Địa đến Thập
Địa phá mười phẩm, Đẳng Giác lại
phá một phẩm, [tổng cộng là] mười một
phẩm, [như vậy là] thành Phật [trong Biệt Giáo] mới
phá mười hai phẩm vô minh. Sơ Trụ Bồ Tát
trong Viên Giáo phá một phẩm [vô minh], Thập Trụ phá
mười phẩm, Sơ Hạnh phá mười một phẩm,
Nhị Hạnh phá mười hai phẩm. Do vậy, Biệt
Giáo Phật chỉ bằng với Bồ Tát thuộc địa
vị Đệ Nhị Hạnh trong Viên Giáo. Quư vị muốn
thành Phật, thành vị Phật nào phải hiểu rơ ràng!
Nếu thành Tạng Giáo Phật, quư vị c̣n chưa đạt
đến địa vị Sơ Trụ trong Viên Giáo, chỉ
mạnh hơn A La Hán đôi chút, vẫn chưa kiến tánh,
vẫn chưa phá vô minh, c̣n chưa chứng đắc Pháp
Thân. Chúng ta chớ nên không biết những điều
thường thức này!
Pháp
môn Niệm Phật chẳng thể nghĩ bàn. V́ sao? “Dĩ Như vi cảnh” (Lấy
Như làm cảnh). Nói cách khác, một câu A Di Đà Phật
là cảnh giới sở chứng của chư Phật, chẳng
giống những pháp môn khác. Chúng ta trực tiếp duyên
theo cảnh giới Phật, dùng Phật quả làm cái nhân để
tu hành. Pháp môn này thù thắng khôn sánh! Tôi thường nói:
Người niệm Phật rất đông, nhưng niệm
Phật rốt cuộc có ưu điểm ǵ, họ chẳng
biết! Nếu thật sự biết ưu điểm của
pháp Niệm Phật, sẽ nhất định khăng
khăng một mực niệm!
(Diễn)
Dĩ Như vi cảnh, vô cảnh phi Phật giả, thích
thượng quán kỳ Pháp Thân dă.
(演)以如為境,無境非佛者,釋上觀其法身也。
(Diễn: “Dùng Như
làm cảnh, không cảnh nào chẳng phải là Phật”: [Nêu
ra điều này để] giải thích chuyện quán Pháp
Thân được nói trong phần trước).
Pháp
Thân là Chân Như. Pháp Thân là bản tánh.
(Diễn)
Pháp Thân tức Như Như chi lư.
(演)法身即如如之理。
(Diễn:
Pháp Thân là lư Như Như).
Lư
là nói đối ứng với Sự. Có Sự bèn nhất
định có Lư. Hễ có Lư bèn nhất định có Sự.
Lư cũng là chân tánh. Tánh là nói đối ứng với
tướng. Có tánh, đương nhiên là có tướng; có
tướng, đương nhiên là có tánh. Trong Phật pháp nói
tới tánh và tướng, Lư Sự vô ngại, Lư và tánh có
cùng một ư nghĩa, Sự và tướng cũng là một
ư nghĩa. Trong kinh Phật, thường là cùng một ư
nghĩa mà nói khá nhiều danh từ. V́ sao phải nói như
vậy? Một phen khổ tâm dạy học của đức
Phật, chúng ta phải hiểu rơ: Dụng ư thật sự
của Ngài là khiến cho chúng ta hiểu rơ chân tướng
sự thật ấy, chớ nên chấp trước ngôn
thuyết. Ngôn thuyết nói kiểu nào cũng đều được,
chỉ cần nói chuyện ấy là được rồi!
Ư nghĩa thật sự được bao hàm trong ấy là
khiến cho chúng ta ĺa tướng danh tự, chớ nên chấp
trước danh tướng. Ĺa tướng ngôn thuyết,
ĺa tướng tâm duyên, quư vị sẽ có thể hiểu
rơ ư nghĩa chân thật do đức Phật đă nói: “Nguyện giải Như Lai chân
thật nghĩa”. Nay chúng ta nghe kinh, nói thật ra, chẳng
hiểu nghĩa chân thật của Như Lai. Không chỉ
là chẳng hiểu, mà sau khi đă nghe, đúng là có rất
nhiều kẻ hiểu lệch lạc ư nghĩa chân thật
của Như Lai, nẩy sanh hiểu lầm. Vốn là dụng
ư rất tốt đẹp, kết quả là bị chúng ta
sử dụng sai be bét!
(Diễn)
Nhược dĩ Như Như chi lư, vi sở quán cảnh,
tắc Chân Như biến nhất thiết xứ, biến
nhất thiết xứ giai Phật cảnh dă.
(演)若以如如之理,為所觀境,則真如遍一切處,遍一切處皆佛境也。
(Diễn: Nếu dùng
lư Như Như làm cảnh để quán, do Chân Như trọn
khắp hết thảy mọi nơi, nên trọn khắp hết
thảy mọi nơi đều là cảnh Phật).
Nếu
chúng ta có thể khế nhập cảnh giới này, nhất
định sẽ sanh đại hoan hỷ. V́ sao? Nhập cảnh
giới này chính là quả vị Sơ Địa trong Biệt
Giáo. Sơ Địa là Hoan Hỷ Địa, tâm đúng là
chẳng nhiễm mảy trần, vạn pháp đều Như,
vạn pháp b́nh đẳng. Hết thảy phân biệt, vọng
tưởng, chấp trước thảy đều chẳng
có, trí huệ hiện tiền. Đó là trí huệ chân thật.
(Diễn)
Thử tắc dĩ Bát Nhă trí chiếu pháp giới cảnh,
cố vân Nhất Hạnh Niệm Phật.
(演)此則以般若智照法界境,故云一行念佛。
(Diễn: Đây là dùng
trí Bát Nhă để chiếu pháp giới cảnh, v́ thế
gọi là Nhất Hạnh Niệm Phật).
Trí Bát
Nhă là vô tri, là Thật Trí. “Chiếu”
(照) là khởi tác dụng. Cảnh giới của việc
chiếu pháp giới là vạn hữu trong vũ trụ, chẳng
có ǵ không biết. Bát Nhă vô tri, không ǵ chẳng biết,
đó là Nhất Hạnh Niệm Phật. Trong Thiền Tông
có nói tới Nhất Hạnh tam-muội, Niệm Phật
tam-muội chính là thượng thượng thừa trong
các thứ Nhất Hạnh tam-muội. Nhất Hạnh
tam-muội thượng thượng thừa là niệm Phật.
Do vậy, chúng ta hiểu rơ: Nhất định phải thật
thà niệm. Thật thà niệm th́ mới có hiệu quả.
Người niệm Phật đông đảo, niệm rất
lâu mà chẳng có hiệu quả. V́ sao? Chẳng thật thà!
V́ sao chẳng thật thà? Chẳng buông xuống. Chẳng
buông xuống những ǵ? Chẳng buông vọng tưởng
xuống, chẳng buông phiền năo xuống.
Bản
thân chúng ta tu học, cảnh giới cũng là mỗi
năm mỗi khác, cũng là thời thời khắc khắc
càng ngày càng có đôi chút tiến bộ. Trong quá khứ, tại
đạo tràng này, quy y th́ phải điền đơn
quy y, giữ lại, nay chẳng cần nữa! Quư vị tới
quy y, trao điệp quy y cho quư vị, quư vị đi theo
đường lối của chính ḿnh, tôi niệm Phật
của tôi, đến thế giới Cực Lạc, tôi
cũng chẳng cần phải biết quư vị, quư vị
cũng chẳng cần phải biết tôi. Chẳng giữ
lại danh sách [quy y], địa chỉ và điện thoại
đều chẳng cần. V́ sao? Tâm thanh tịnh là bậc
nhất. Quy y, tôi chứng minh cho quư vị là được
rồi. Quư vị quy y Tam Bảo, chẳng phải là quy y
tôi. Gần một năm qua, chúng tôi càng thực hiện
trong cuộc sống: Quy y Phật [là quy y] A Di Đà Phật;
quy y Pháp [là quy y] kinh Vô Lượng Thọ; quy y Tăng [là
quy y] Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ
Tát, Phổ Hiền Bồ Tát; đó là [những vị] Bồ
Tát Tăng. Học hạnh đại từ đại bi của
Quán Âm Bồ Tát, học một môn thâm nhập từ Đại
Thế Chí Bồ Tát. Đại Thế Chí Bồ Tát chuyên
tinh niệm Phật, “nhiếp trọn
sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”, chúng ta học
theo Ngài. Học theo Phổ Hiền Bồ Tát mở rộng
tâm lượng, mỗi một hạnh môn, chẳng có hạnh
nào không phải là tận hư không khắp pháp giới, Phổ
Hiền hạnh mà! Chúng ta tu học nghiêm túc như vậy,
trong tương lai văng sanh thế giới Tây Phương,
chẳng đạt được thượng thượng
phẩm, [cũng] chắc chắn đạt được
thượng trung phẩm. Đấy chính là thứ chúng ta
có thể mang theo được!
“Nhất Hạnh tam-muội”:
Nhất Hạnh là ǵ? Nhất tâm tu là Nhất Hạnh, nhị
tâm th́ chẳng phải là Nhất Hạnh. Đại Thế
Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương có nói: “Nhiếp trọn sáu căn, tịnh
niệm tiếp nối”, đấy chính là Nhất Hạnh
tam-muội.
(Sao)
Hựu tu Niệm Phật tam-muội, đa ước tiệm
tu, vị tiên Hóa Thân, thứ Báo Thân, thứ Pháp Thân. Kim tắc
nhất thời nhi tu, bất lịch thứ đệ, nhất
hạnh, bất nhị hạnh; nhất thời, bất nhị
thời. Cố viết tức Lư nhất tâm dă.
(Diễn)
Tiên Hóa, thứ Báo, thứ Pháp giả, vị đạt duy
tâm.
(鈔)又修念佛三昧,多約漸修,謂先化身,次報身,次法身。今則一時而修,不歷次第,一行不二行,一時不二時,故曰即理一心也。
(演)先化次報次法者,未達唯心。
(Sao: “Lại nữa, tu
Niệm Phật tam-muội, phần nhiều thuộc về
tiệm tu”. Nghĩa là: Trước hết là Hóa Thân, kế
đó là Báo Thân, rồi đến Pháp Thân. Nay th́ tu trong cùng
một lúc, chẳng theo thứ tự, là một hạnh, chẳng
phải là hai hạnh, là một thời, chẳng phải
là hai thời. V́ thế, nói là Lư nhất tâm.
Diễn: Trước là Hóa Thân, kế
đến là Báo Thân, rồi đến Pháp Thân, [là v́]
chưa thông đạt duy tâm).
“Đạt” (達) là thông đạt
(通達). Chưa thể thật sự
thông đạt, chưa thật sự thấy rơ tận
hư không khắp pháp giới là do chân tâm của chúng ta biến
hiện. Ắt phải là chính ḿnh chứng đắc th́ mới
là “thông đạt”. Nghe nói th́ chưa được, “nghe
nói” là nghe lỏm nói ṃ, vô dụng, chẳng phải là cảnh
giới của chính ḿnh, tự ḿnh chẳng thể thọ
dụng. Đó gọi là “vị
đạt duy tâm” (chưa thông đạt duy tâm). Chưa thông đạt duy tâm
mà tu những pháp môn khác, sẽ chẳng thể vượt
thoát tam giới, chẳng coi là thành tựu được!
Mới biết những pháp môn khác khó khăn, pháp môn Niệm
Phật dễ dàng!
(Diễn)
Y sự thức quán Phật Hóa Thân.
(演)依事識觀佛化身。
(Diễn:
Nương vào sự thức để quán Hóa Thân của
Phật).
Quán Hóa Thân dễ
dàng, chẳng dễ quán Báo Thân và Pháp Thân! Báo Thân quá lớn, Pháp
Thân chẳng có h́nh tướng. Bài kệ Tán Phật có câu: “Bạch hào uyển chuyển
ngũ Tu Di; cám mục trừng thanh tứ đại hải”
(Tướng lông trắng cuộn tṛn giữa hai mày to
như năm quả núi Tu Di; mắt biếc trong veo như
bốn biển lớn), đó là Báo Thân Phật. Đầu
của Báo Thân Phật c̣n to hơn quả địa cầu,
quư vị quán bằng cách nào? Cổ nhân lên chơi Lư
Sơn, ở ngay trong Lư Sơn mà chẳng nh́n thấy diện
mục thật sự của Lư Sơn. Hiện thời,
ngồi máy bay bèn thấy rơ ràng, chứ ở trong núi, xác thực
là chẳng nh́n thấy. Giống như con kiến ḅ trên
thân chúng ta, chẳng thấy toàn thể thân người,
t́nh h́nh mường tượng như vậy đó. Ứng
Hóa Thân: Phật hóa thân tùy theo từng loài, nên quán dễ dàng.
Thuở ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện trong thế
gian bằng Ứng Hóa Thân, thị hiện thân cao trượng
sáu. Một trượng sáu tính theo thước đời
Châu sẽ bằng khoảng chừng một trăm chín
mươi xăng-ti-mét (cm). Tượng Phật như vậy, chúng ta quán tưởng dễ dàng. Trong kinh
Quán Vô Lượng Thọ Phật, đức Phật dạy
chúng ta quán thân trượng sáu. Hiện thời, tượng
Phật được thờ trong tự viện cao
bốn thước, chúng ta quán dễ dàng!
Quán Tượng
Niệm Phật là ghi khắc tượng Phật trong óc,
Phật pháp nói là “in vào trong tám
thức điền”, khiến cho chúng ta mỗi ngày từ
sáng đến tối khởi tâm động niệm, trong
tâm luôn tưởng Phật th́ mới hữu dụng! Chẳng
tưởng Phật bèn dấy vọng tưởng, chư
vị phải biết: Vọng tưởng là tạo nghiệp
luân hồi. Quư vị biết sự thật này, mới biết
là đáng sợ. Chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối
luôn tạo nghiệp luân hồi trong lục đạo.
Đă luân hồi trong lục đạo, lại c̣n chẳng
tạo nghiệp của ba thiện đạo, mà chuyên tạo
nghiệp của ba ác đạo, tức tham, sân, si. Tham,
sân, si phiền năo nặng nề, hằng ngày khởi tâm
động niệm, ngôn ngữ, tạo tác đều làm
chuyện này. Chớp mắt bèn sang đời sau, đời
sau bèn đọa trong tam đồ, quư vị nói xem có
đáng sợ lắm hay chăng?
Đức Phật
dạy chúng ta trong mười hai thời, niệm nào cũng
đều tưởng Phật, nhớ Phật, niệm Phật,
dùng Phật làm cảnh giới, chẳng nghĩ ǵ khác! Trong
mười pháp giới, chúng ta tạo nghiệp ǵ? Chúng ta tạo
nghiệp thuộc Phật pháp giới! Không chỉ là tạo
nghiệp thuộc Phật pháp giới, ta chuyên tạo nghiệp
của Tây Phương Cực Lạc thế giới, đời
sau sẽ đến chỗ nào? Nhất định là đến
Tây Phương Cực Lạc thế giới, là chuyện
như thế đó! Kinh đă nói về Tây Phương Cực
Lạc thế giới rất rơ ràng: “
Ba kinh chính là đức
Phật nói theo ba giai đoạn. Thoạt đầu, nói
kinh Vô Lượng Thọ nhằm giới thiệu Tây
Phương Cực Lạc thế giới. Thứ hai, lại
giảng kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật nhằm dạy
chúng ta phương pháp văng sanh. Cuối cùng nói kinh A Di Đà,
khuyên chúng ta phải tin, phải nguyện, phải niệm
Phật cầu sanh Tịnh Độ. Do vậy, kinh A Di
Đà nhằm khuyên tu, phương pháp ở trong Quán Kinh.
Trong Quán Kinh, tiêu chuẩn quan trọng nhất chính là Tam
Phước. Chúng ta tu Tam Phước sẽ là thiện nhân,
có thể đắc Niệm Phật tam-muội, đó là thượng
thiện! Chớ nên sơ sót chuyện này. Trong Tam Phước,
điều thứ nhất là “hiếu
dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng,
từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện nghiệp”.
Đấy là căn cơ tu học Phật pháp, giống
như xây nhà, đây là nền tảng. Chẳng có nền tảng
ấy, toàn bộ đều thất bại. Nay chúng ta học
Phật, mọi người đều đă quy y, quy y thuộc
vào điều thứ hai: “Thọ
tŕ Tam Quy, trọn đủ các giới, chẳng phạm
oai nghi”. [Điều này] được kiến lập
trên cơ sở của điều trước. Bốn câu
trong điều trước giống như nền móng của
tầng thứ nhất. Chẳng có tầng thấp nhất,
làm sao có thể có tầng thứ hai? Điều thứ ba
là “phát Bồ Đề tâm, tin
sâu nhân quả, đọc tụng Đại Thừa, khuyến
tấn hành giả”, đấy là tầng thứ ba. Phải
giống như dựng lầu ba tầng, nhất định
là trước hết xây tầng thứ nhất, rồi
xây tầng thứ hai, sau đó xây tầng thứ ba. Chẳng
có tầng dưới, lấy đâu ra tầng trên? Chúng ta đă
sơ sểnh chuyện này!
Người
niệm Phật đông đảo, người văng sanh hiếm
hoi, do nguyên nhân nào? Chẳng xây đắp nền tảng vững
chắc! Dẫu niệm Phật tốt đẹp,
nhưng chẳng phải là thiện nhân; v́ thế, chẳng
thể tương ứng với Tây Phương Cực Lạc
thế giới, chẳng thể văng sanh, đáng tiếc lắm!
Trong Quán Kinh, phu nhân Vi Đề Hy hướng về đức
Phật thỉnh giáo phương pháp tu hành ḥng được
văng sanh. Trước khi dạy phương pháp, trước
hết, đức Phật dạy bà ta Tam Phước, bảo
bà ta: Ba điều ấy chính là “tam
thế chư Phật tịnh nghiệp chánh nhân”. Câu nói
này rất quan trọng! “Tam thế
chư Phật” là quá khứ, hiện tại, vị lai hết
thảy chư Phật, các Ngài thành Phật đều dựa
trên cơ sở Tam Phước. Bất luận quư vị
tu pháp môn nào, bất luận tu theo tông phái nào, thành Phật thảy
đều là do từ cơ sở ấy mà tu thành, cơ sở
ấy quan trọng lắm! Chẳng dựa trên cơ sở
ấy để tu hành, làm sao có thể thành tựu cho được?
Chẳng thể nào! Hiếu thảo với cha mẹ, tôn trọng
thầy, từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện nghiệp,
trọng yếu lắm!
Chúng
ta lại hồi tưởng thời đầu Dân Quốc,
Tịnh Tông tổ sư Ấn Quang đại sư lăo nhân
gia suốt đời đặc biệt đề xướng
ba tác phẩm Liễu Phàm Tứ Huấn, Cảm Ứng
Thiên Vựng Biên và An Sĩ Toàn Thư. Rất nhiều kẻ
lấy làm lạ: Ba thứ ấy đều chẳng phải
là kinh Phật! Cảm Ứng Thiên của Đạo giáo, phần
đầu của An Sĩ Toàn Thư là Văn Xương Đế
Quân Âm Chất Văn cũng thuộc Đạo giáo. Cớ
sao tổ sư đề xướng? Chúng ta đối
chiếu với Tam Phước đôi chút, bèn hoảng nhiên
đại ngộ: [Nội dung của] ba quyển sách ấy
chính là bốn điều trước trong Tam Phước,
khuyên chúng ta “hiếu thuận
cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng
giết, tu Thập Thiện nghiệp”. Tuy chẳng có Tam
Quy, nhưng có tŕ giới. Tổ sư dùng ba tác phẩm ấy
để đặt vững vàng cơ sở chân thật
cho chúng ta. Từ trên cơ sở ấy, thật thà niệm
Phật, chẳng có một ai không văng sanh. Ba loại sách ấy
tính gộp chung số lượng đă được in lên
đến hơn ba trăm vạn bộ, có thể thấy
Tổ coi trọng ba loại sách ấy, đúng là rát miệng
buốt ḷng!
“Vị đạt duy tâm” (Chưa
thông đạt duy tâm): Chưa minh tâm kiến tánh. Nói theo Tịnh
Độ Tông, sẽ là chưa đắc Lư nhất tâm, quư
vị tu theo mặt Sự.
(Diễn)
Dĩ đạt duy tâm, y nghiệp thức quán Phật Báo
Thân, năng đoạn vô minh.
(演)已達唯心,依業識觀佛報身,能斷無明。
(Diễn: Đă đạt
duy tâm, nương vào nghiệp thức để quán Báo
Thân của đức Phật, có thể đoạn trừ
vô minh).
Người
đă kiến tánh quán Báo Thân chẳng khó! Thấy bản tánh,
trí huệ Bát Nhă trong bản tánh lưu lộ, đương
nhiên khác hẳn: Phá một phẩm vô minh, chứng một
phần Pháp Thân. Do vậy, có thể đoạn vô minh.
(Diễn)
Thứ y Bát Nhă quán Phật Pháp Thân.
(演)次依般若觀佛法身。
(Diễn:
Kế đó, nương vào Bát Nhă để quán Pháp Thân của
Phật).
Phá một phẩm
vô minh bèn chứng một phần Pháp Thân. Trong Tịnh Độ
Tông, điều này được gọi là cảnh giới
Lư nhất tâm bất loạn, chính là cảnh giới minh tâm
kiến tánh trong Thiền Tông.
(Diễn)
Kim tắc nhất thời nhi tu, bất lịch thứ đệ.
(演)今則一時而修,不歷次第。
(Diễn:
Nay th́ tu đồng thời, chẳng theo thứ tự).
Nay
chúng ta chọn lựa pháp môn Niệm Phật, chẳng cần
quan tâm người ấy quán Sự Phật hay quán Lư Phật,
trong tâm chẳng cần chấp trước điều ấy,
cứ một câu A Di Đà Phật niệm tới cùng. Hóa
Thân cũng vậy, Báo Thân cũng vậy, Pháp Thân cũng thế,
thảy đều chẳng quan tâm, một câu Phật hiệu
đă bao gồm toàn bộ! Phương pháp này tuyệt diệu!
“Bất lịch thứ đệ”
(Chẳng theo thứ tự): Tông Thiên Thai nói là Nhất
Tâm Tam Quán, chẳng cần dính dáng đến thứ tự,
nhưng chư vị phải biết: Trừ Tịnh Tông
và Thiền Tông ra, [tu tập trong các tông khác] đều là có
thứ tự. Tịnh Độ Tông chẳng có thứ tự,
Thiền Tông cũng chẳng có thứ tự, không tuân theo
thứ tự.
(Diễn)
Hà giả? Hóa Thân thị Dụng, Báo Thân thị Trí, Pháp Thân
thị Lư.
(演)何者,化身是用,報身是智,法身是理。
(Diễn: Cớ sao?
Hóa Thân là Dụng, Báo Thân là Trí, Pháp Thân là Lư).
Là một
Thể. Một Thể, ba thân. Đức Phật hiện
thân là khởi tác dụng, Tự Thọ Dụng của Phật
là Báo Thân. Báo Thân là thân trí huệ, cho nên là Trí. Ứng Thân là
Tha Thọ Dụng, là biến hóa, nhằm giúp đỡ hết
thảy chúng sanh. Giảng kinh, thuyết pháp đều bằng
Ứng Hóa Thân, ở trong lục đạo hóa độ
chúng sanh. Thân tướng do chư Phật, Bồ Tát đă
hiện toàn là Ứng Hóa Thân, có tác dụng nhằm hóa độ
chúng sanh mà hiện, chẳng phải để tự hưởng
thụ (Tự Thọ Dụng). Tự Thọ Dụng là
thân trí huệ, là Báo Thân.
Lần
này, tôi xuống miền
(Diễn)
Trí ngoại vô Như, cố Báo tức Pháp. Như ngoại
vô Trí, cố Pháp tức Báo.
(演)智外無如,故報即法;如外無智,故法即報。
(Diễn: Ngoài Trí chẳng
có Như, nên Báo Thân chính là Pháp Thân. Ngoài Như không có Trí, nên
Pháp Thân chính là Báo Thân).
“Trí” là trí huệ Bát Nhă; ngoài trí
huệ Bát Nhă chẳng có bản tánh. Trí huệ Bát Nhă sanh từ
bản tánh, là một. V́ thế, Báo Thân là Pháp Thân. “Như ngoại vô Trí” (Ngoài
Như chẳng có Trí), cho nên Pháp Thân là Báo Thân.
(Diễn)
Thể ngoại vô Dụng, cố Pháp Báo tức Ứng.
(演)體外無用,故法報即應。
(Diễn:
Ngoài Thể chẳng có Dụng, nên Pháp
Thân và Báo Thân chính là Ứng Thân).
Dụng
là Ứng Hóa Thân; v́ thế, Pháp Thân [và Báo Thân] là Ứng Thân.
(Diễn)
Dụng ngoại vô Thể, cố Ứng tức Pháp Báo.
(演)用外無體,故應即法報。
(Diễn:
Ngoài Dụng chẳng có Thể, nên Ứng Thân chính là Pháp
Thân và Báo Thân).
Ứng
Thân là Pháp Thân, là Báo Thân.
(Diễn)
Cử nhất tức tam, ngôn tam tức nhất cố.
(演)舉一即三,言三即一故。
(Diễn: Nêu lên một
chính là ba, tuy nói là ba mà chính là một).
Thể,
Tướng, Dụng, ba điều là một. Đối với
kinh Hoa Nghiêm, ba chữ Đại Phương Quảng biểu
thị Thể, Tướng, Dụng, “Đại” là tán thán Thể: Chân Như bản tánh
chẳng có ǵ để có thể h́nh dung nổi, bất
đắc dĩ dùng chữ Đại [để biểu
thị]. “Phương” là Tướng.
“Quảng” là tác dụng. V́
thế, Đại là Pháp Thân, Phương là Báo Thân, Quảng
là Ứng Hóa Thân, một tức là ba, ba tức là một. Đây
là lời giải thích về cách tu Niệm Phật tam-muội.
(Diễn)
Hựu nhất thời nhi tu giả.
(演)又一時而修者。
(Diễn: Lại nữa,
“tu đồng thời”…).
Đây
lại là một ư nghĩa, đều nhằm giải thích
từ ngữ “nhất thời
nhi tu”.
(Diễn)
Viên nhân bất độc tùy quán nhất thân tức thị
tam thân, đản thú cử nhất trần tam thân cụ
túc.
(演)圓人不獨隨觀一身即是三身,但趣舉一塵三身具足。
(Diễn: Người
thuộc căn tánh Viên Giáo chẳng chỉ quán một thân
chính là ba thân, mà tùy tiện lấy một vi trần th́ trong
ấy sẽ có trọn đủ ba thân).
“Viên” là người thuộc
căn tánh Viên Giáo, cũng có thể nói là người có trí
huệ viên măn. Tối thiểu chúng ta cũng nên gọi
người ấy là người có trí huệ viên dung, không
chỉ là “tùy quán nhất thân tức
thị tam thân” (quán một thân chính là ba thân), [nghĩa là]
quán Pháp Thân là Báo Thân và Ứng Thân, quán Ứng Thân là Pháp Thân
và Báo Thân. “Đản thú cử
nhất trần tam thân cụ túc” (Tùy tiện lấy một
vi trần th́ trong ấy có trọn đủ ba thân), “trần” (塵) là vi trần. Nói
cách khác, tùy ư lấy bất cứ pháp nào, không ǵ chẳng phải
là Phật pháp. Cảnh giới này cao lắm, xác thực là
cảnh giới của Như Lai và đại Bồ Tát,
phàm phu chúng ta chẳng có cách nào! V́ sao? Phàm phu chấp trước
nơi sự tướng, tâm lượng hết sức nhỏ
hẹp, chẳng biết mỗi pháp đều là tự tánh.
Hễ biết mỗi pháp đều là tự tánh th́ ba thân trọn
đủ. Tướng của mỗi vi trần là Hóa Thân, Thể
của mỗi vi trần là Pháp Thân và Báo Thân. V́ thế, hết
thảy các pháp chẳng có pháp nào không phải là Thị, chẳng
có pháp nào không Như, pháp nào cũng đều là Như, pháp
nào cũng đều là Thị.
Mở
đầu kinh này là “như thị
ngă văn”; dùng hai chữ Như Thị, Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trọn vẹn hết thảy
các pháp do Ngài đă giảng trong bốn mươi chín
năm. Phật pháp nhiều ngần ấy, [thế mà bằng]
một hai chữ, thảy đều giảng xong! Bốn
mươi chín năm giảng giải, giảng những
ǵ? Nhằm giảng về Như và giảng về Thị.
“Như” là nói về Thể,
“Thị” là nói về Tướng
và Dụng. Ngôn ngữ của đức Phật đơn
giản, một câu, một chữ bèn nói trọn hết, chúng
ta nghe chẳng hiểu, nên Ngài mới phải mất công giải
thích suốt bốn mươi chín năm. Trong bốn
mươi chín năm, Ngài đă giảng hết thảy các
kinh để giải thích: “Như là ǵ? Thị là ǵ?” Giải
thích suốt bốn mươi chín năm! Đại Tạng
Kinh, nói thật ra [chỉ] là một phần của những
điều Thích Ca Mâu Ni Phật đă giảng trong bốn
mươi chín năm. Có nhiều phần chưa được
truyền sang Trung Hoa, có những kinh được truyền
sang Trung Hoa, nhưng chẳng được phiên dịch.
Quư vị mới biết: Hai chữ Như Thị sâu không
đáy, rộng vô biên, sâu rộng vô hạn, v́ nó là danh từ
xứng tánh.
(Diễn)
Nhất quán, nhất thiết quán; nhất thiết quán, nhất
quán, phi nhất, phi nhất thiết, như thử chi quán
nhiếp nhất thiết quán dă.
(演)一觀一切觀,一切觀一觀,非一非一切,如此之觀攝一切觀也。
(Diễn: Quán một
là quán hết thảy, quán hết thảy là quán một, chẳng
phải một, chẳng phải hết thảy. Quán
như vậy gồm trọn quán hết thảy).
Quán
và Tưởng rất gần gũi. Kinh Phật, tổ
sư đại đức chẳng dùng những danh từ
“tưởng, tư khảo,
nghiên cứu” (想、思考、研究: suy tưởng,
suy xét, nghiên cứu), mà dùng Quán và Tham. Nói thật ra, tác dụng
[của Quán, Tham] và [tác dụng của] nghiên cứu, tư
duy, tưởng tượng chẳng sai khác cho mấy. Chỗ
khác biệt là đâu? Phàm phu chúng ta dùng ư thức. Dùng ư thức
th́ gọi là nghiên cứu, tư duy, hoặc tưởng
tượng, chẳng gọi là Quán. V́ Quán chẳng thể dùng
ư thức. Giáo Hạ nói Quán (觀), Tông Môn nói Tham, tiêu
chuẩn là ĺa tâm ư thức, đó gọi là Tham (參). Chữ thứ
nhất trong Tâm Kinh là Quán, tức Quán Tự Tại Bồ
Tát, dùng chữ này. Nếu quư vị biết
dùng Quán, sẽ tự tại, sẽ là Bồ Tát. Chúng ta chẳng
biết dùng! Biết dùng là như thế nào? Ĺa tâm ư thức
bèn là Quán. Ĺa tâm ư thức bằng cách nào? Trước hết,
chúng ta phải hiểu tác dụng của tâm ư thức là ǵ,
sẽ dễ dàng lănh hội. “Tâm”
là A Lại Da, “Ư” là Mạt
Na, “Thức” là thức thứ
sáu, tức Ư Thức. Xét theo tác dụng của chúng, thức
thứ sáu tức Ư Thức là phân biệt, thức thứ bảy
chấp trước, thức thứ tám tức A Lại Da
Thức ghi giữ ấn tượng, biến thành chủng
tử. Ĺa tâm ư thức, nh́n vào tác dụng, quư vị sẽ thấy
rất đơn giản: Chẳng phân biệt bèn ĺa thức
thứ sáu. Chẳng chấp trước bèn ĺa thức thứ
bảy. Chẳng giữ lại ấn tượng bèn ĺa thức
thứ tám. Tùy thuộc chúng ta có bản lănh hay không, thấy
sắc, nghe tiếng, sáu căn tiếp xúc cảnh giới
sáu trần, chẳng có phân biệt, chẳng có chấp
trước, chẳng giữ lại ấn tượng, đó
là Quán. Nhận biết rành mạch, rơ ràng cảnh giới
bên ngoài th́ dùng công phu này mới được! Vận dụng
cách Quán này vào hết thảy cảnh giới, sẽ ḥa
thành một với cảnh giới, quán một cảnh giới
là quán hết thảy cảnh giới. “Một chính là hết thảy, hết thảy chính là
một”, đấy là công phu thật sự. Nói cách khác, quư
vị chẳng ĺa khỏi tâm ư thức, dẫu đắc nhất
tâm bất loạn, th́ đó là Sự nhất tâm. Thật sự
ĺa tâm ư thức, nhất tâm bất loạn bèn là Lư nhất
tâm. Lư nhất tâm và Sự nhất tâm sai biệt ở chỗ
này. Lư nhất tâm sanh về Tây Phương Cực Lạc
thế giới, bèn sanh trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm, chẳng
phải là cơi Phàm Thánh Đồng Cư.
Trong
đoạn văn này và đoạn kế tiếp, sau
đoạn này hăy c̣n một đoạn rất dài, đều
giảng về Lư nhất tâm, cảnh giới đều rất
cao. Nghe hiểu th́ rất tốt, chẳng nghe hiểu th́
cũng xong, chớ nên suy nghĩ loạn xạ, hăy thật
thà niệm Phật, chúng ta có thể sanh trong cơi Phàm Thánh
Đồng Cư cũng rất tốt. Chẳng hiểu
rơ chuyện này, sau khi đă đến Tây Phương Cực
Lạc thế giới, thỉnh giáo A Di Đà Phật, A Di
Đà Phật nói vắn tắt mấy chữ, đôi ba câu
quư vị liền khai ngộ. Chẳng đến Tây
Phương thế giới, đương nhiên quư vị
cũng chẳng thấy A Di Đà Phật, cũng chẳng
có cách nào đối trước A Di Đà Phật thỉnh
giáo. V́ thế, chúng ta nghe đoạn văn này, chớ nên chấp
trước, chớ nên suy nghĩ. V́ sao? Quư vị chẳng
suy nghĩ th́ c̣n khá, càng suy nghĩ càng trật! V́ sao? Quư vị
rớt vào tâm ư thức. [Sử dụng] tâm ư thức chẳng
thể khai ngộ, [sử dụng] tâm ư thức sẽ chẳng
thể liễu giải ư nghĩa chân thật. “Nguyện giải Như Lai chân
thật nghĩa” mà dùng tâm ư thức sẽ vĩnh viễn
chẳng thể thực hiện được; ĺa tâm ư thức
th́ mới có thể liễu giải nghĩa chân thật của
Như Lai. V́ đức Như Lai thuyết pháp chẳng dùng
tâm ư thức, chúng ta dùng tâm ư thức để mong liễu
giải cái chẳng dùng tới tâm ư thức th́ hiểu rơ bằng
cách nào? Đạo lư ở chỗ này.
V́
thế, kẻ b́nh phàm trong thế gian vận dụng suy
xét, nghiên cứu, so sánh vào Phật pháp, đă biến Phật
pháp thành pháp thế gian, biến Phật pháp thành triết học,
học thuật, tôn giáo. Phật pháp chẳng phải là triết
học, chẳng phải là học thuật, cũng chẳng
phải là tôn giáo. Phật pháp xác thực là đă nói rơ chân
tướng của vũ trụ và nhân sinh. Thể của
vũ trụ là Chân Như bản tánh. Hết thảy muôn tướng
là do Chân Như bản tánh khởi tác dụng biến hiện.
Nói rơ sự thật này, quyết chẳng thể dùng tâm ư thức.
Thiền Tông ĺa tâm ư thức mới gọi là tham Thiền;
hễ dùng tâm ư thức bèn gọi là suy nghĩ loạn xạ.
Giáo Hạ ĺa tâm ư thức th́ mới có thể đại
khai viên giải. Dùng tâm ư thức, quư vị bèn đọa lạc
trong “giáo vơng” (教網). Giáo pháp giống như cái lưới, rất phức
tạp, nói quá nhiều, dày đặc, chồng chéo như mạng
lưới, quư vị vướng trong đó, chẳng thể
thoát ra được! Đây là một yếu quyết (要訣: bí quyết trọng
yếu) rất quan trọng: Quyết định chớ
nên dùng tâm ư thức.
V́
thế, niệm Phật cao minh, cao minh ở chỗ nào? Một
câu A Di Đà Phật niệm đến cùng, chẳng dùng tâm
ư thức. Niệm lâu ngày, sẽ đắc Định, có
Định bèn khai Huệ. “Chẳng
cậy vào phương tiện, tự được tâm
khai”, “tâm khai” là đại
triệt đại ngộ của Thiền Tông, là đại
khai viên giải của Giáo Hạ, thành tựu Hậu Đắc
Trí, không ǵ chẳng biết. Một câu Phật hiệu là Căn
Bản Trí và Hậu Đắc Trí tu học đồng thời,
Tam Học Giới, Định, Huệ, Tam Huệ Văn,
Tư, Tu của Bồ Tát, ba tư lương Tín, Nguyện,
Hạnh của Tịnh Tông được hoàn thành đồng
thời trong một câu Phật hiệu. Pháp môn này thù thắng,
thiện xảo, khó có! Chúng ta phải nhận biết rơ
ràng, phải nghiêm túc tu học. Hôm nay đă hết thời
gian rồi!
Tập
236
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn
Nghĩa Hội Bản, trang bốn trăm năm
mươi tám:
(Sao)
Khởi Tín Chân Như giả, luận vân: “Nhược quán
bỉ Phật Chân Như Pháp Thân, thường cần tu tập,
tất cánh đắc sanh, trụ Chánh Định cố”.
(鈔)起信真如者,論云:若觀彼佛真如法身,常勤修習,畢竟得生,住正定故。
(Sao: Trong Khởi Tín
Luận, Chân Như được luận ấy giảng
như sau: “Nếu quán Chân Như Pháp Thân của đức Phật
ấy, thường siêng năng tu tập, rốt ráo
được văng sanh, trụ trong Chánh Định”).
Lại
nêu ra lời khai thị của Mă Minh Bồ Tát trong Đại
Thừa Khởi Tín Luận. Khởi Tín Luận cũng
khuyên dạy chúng ta niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ. Đây là một bộ luận điển rất
quan trọng trong pháp Đại Thừa.
(Diễn) Nhược
quán bỉ Phật Chân Như Pháp Thân giả, năng quán tức
thị Nhất Tâm Tam Quán, sở quán tức thị Tam Đế
Nhất Cảnh, vị chi “quán bỉ Phật” giả. Thị
thác bỉ quả Phật viên minh chi Thể, hiển ngă
chúng sanh Tánh Đức chi Phật dă.
(演)若觀彼佛真如法身者,能觀即是一心三觀,所觀即是三諦一境,謂之觀彼佛者,是託彼果佛圓明之體,顯我眾生性德之佛也。
(Diễn: “Nếu quán
Chân Như Pháp Thân của đức Phật ấy”: Chủ
thể để quán là Nhất Tâm Tam Quán, đối tượng
được quán là Tam Đế Nhất Cảnh. Nói “quán
đức Phật ấy” chính là cậy vào cái Thể viên
minh của đức Phật nơi quả địa
để hiển lộ đức Phật nơi Tánh
Đức của bọn chúng sanh chúng ta).
Hai câu này rất
trọng yếu, nói rơ v́ sao phải quán A Di Đà Phật. “Bỉ Phật” chính là Tây
Phương thế giới A Di Đà Phật, phải quán
Pháp Thân của Ngài. Từ kinh Vô Lượng Thọ và kinh Quán
Vô Lượng Thọ Phật, chúng ta biết rơ ba thân của
Tây Phương thế giới A Di Đà Phật là một Thể.
Nêu ra một chính là ba, bất luận Hóa Thân hay Báo Thân, thảy
đều là Pháp Thân, ba thân là một thân.
Đối với
Quán, [nêu ra các khái niệm] năng quán và sở quán là dựa
theo cách nói của Thiên Thai đại sư, c̣n trong [Khởi
Tín] Luận chỉ nói Quán. Pháp sư Cổ Đức dùng phương
pháp Chỉ Quán của tông Thiên Thai để giải thích.
Nói Nhất Tâm Tam Quán nhằm vạch rơ chẳng phải là
Thứ Đệ Tam Quán, mà là viên dung. Chân - Giả - Trung là Tam
Quán, một tức là ba, ba tức là một, đó gọi
là Nhất Tâm Tam Quán, chẳng có thứ tự. Cảnh giới
được quán cũng là Nhất Tâm Tam Đế, “Tam Đế nhất cảnh”.
Do vậy có thể biết, Giáo Hạ tu Quán, “tùy văn nhập quán” là
phương pháp dụng công của Giáo Hạ. Tùy văn nhập
quán rất gần với Thiền, Chỉ Quán cũng là Thiền.
Ngàn muôn phần đừng hiểu lầm [tùy văn nhập
quán] là dựa theo kinh văn để rồi dấy vọng
tưởng [suy đoán lung tung kinh văn có ư nghĩa như
thế này, hàm ư như thế nọ], sai mất rồi!
Đấy chẳng phải là phương pháp tu tŕ của
Giáo Hạ. Phương pháp tu tŕ của Giáo Hạ, đặc
biệt là Nhất Tâm Tam Quán, đúng là rất dễ khai ngộ.
Giáo Hạ nói [sự khai ngộ ấy là] “đại khai viên giải”, có thể thấy:
Đều phải là thật sự dụng công, chẳng
đổ công dốc sức sẽ không được!
Trọng
tâm của công phu là ở chỗ nào? Thiên Thai đại
sư đă nói rất minh bạch: Mấu chốt ở
ngay nơi Nhất Tâm. Cách tu Nhất Tâm Tam Quán là như thế
nào? Nhất tâm tự nhiên có đủ Tam Quán, Tam Quán là tác dụng
của nhất tâm. Nếu quư vị chẳng đạt tới
nhất tâm, sẽ chẳng có Tam Quán! Chẳng đạt tới
nhất tâm, tu bằng cách nào? Tông Thiên Thai có một phương
tiện gọi là Thứ Đệ Tam Quán. [Trong cách tu này], Tam
Quán chưa thể [vận dụng] đồng thời, chưa
thể viên dung; hễ đồng thời viên dung, sẽ nhất
định đạt tới nhất tâm. Do vậy có thể
biết: Chúng ta niệm Phật đạt đến nhất
tâm bất loạn, khi ấy, tâm chúng ta khởi tác dụng,
Thiên Thai đại sư gọi nó là Nhất Tâm Tam Quán. Đúng
là nhất tâm hết sức khó khăn, chúng ta khởi tâm
động niệm bèn rớt vào hai, ba. “Hai” là nhị ư, Mạt
Na Thức là Ư Căn, thức thứ sáu là Ư Thức. “Ba” là
tam tâm, tức là A Lại Da Thức, Mạt Na Thức, và thức
thứ sáu, tức Ư Thức. Chúng ta thường nói “tam tâm nhị ư”, danh từ này
phát xuất từ kinh Phật. Tam tâm nhị ư chẳng phải
là nhất tâm. Mấu chốt là nhất tâm, chúng ta tu nhất
tâm như thế nào? Chúng ta có thể tạm thời không hỏi
tới Tam Quán, chỉ nói tới nhất tâm. V́ quư vị
đă đắc nhất tâm, tự nhiên Tam Quán hiện tiền,
cảnh giới được quán bởi quư vị sẽ
tự nhiên là Tam Đế Nhất Cảnh, nhất cảnh
là ǵ? Là Nhất Chân pháp giới như kinh Hoa Nghiêm đă nói.
Chúng
ta dùng tam tâm nhị ư, sẽ biến Nhất Chân pháp giới
thành mười pháp giới. Trong mười pháp giới có
Phật pháp giới, vị Phật ấy có trụ trong Nhất
Chân pháp giới hay không? Chẳng phải. Vị Phật ấy
là Tạng Giáo Phật hoặc Thông Giáo Phật, chưa kiến
tánh, chẳng thuộc vào Nhất Chân pháp giới, Ngài là Phật
trong mười pháp giới. Phật loại nào mới thuộc
về Nhất Chân pháp giới? Biệt Giáo Phật và Viên
Giáo Phật thuộc vào Nhất Chân pháp giới. Tạng Giáo
Phật và Thông Giáo Phật đều là Phật trong mười
pháp giới, chẳng rốt ráo, chẳng viên măn, v́ các Ngài vẫn
dùng tam tâm nhị ư. Người ta dùng [tam tâm nhị ư,
nhưng dùng] tinh thuần, dùng chánh đáng, c̣n chúng ta cũng
dùng tam tâm nhị ư, nhưng dùng sai be bét! Tứ thánh là Thanh
Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật, các Ngài dùng [tam tâm nhị
ư] chánh đáng, chẳng dùng sai, chúng ta dùng sai cái tâm, tâm ấy
là A Lại Da Thức. Tuân theo giáo huấn của đức
Phật, sửa đổi các sai lầm trong tư tưởng
và kiến giải, chính là pháp tu của tứ thánh pháp giới
trong mười pháp giới. Nay pháp môn này thù thắng, vượt
trỗi tứ thánh, nhập Nhất Chân pháp giới, quư vị
mới biết nhất tâm đáng quư!
Kinh này dạy
chúng ta một phương pháp thật sự kỳ diệu
tột bậc, sử dụng phương pháp ǵ vậy? Tín,
nguyện, tŕ danh. “Thác bỉ quả
Phật viên minh chi Thể” (Nương cậy vào cái Thể
viên minh của đức Phật nơi quả địa):
A Di Đà Phật là Viên Giáo Phật, là vị Phật viên
măn rốt ráo, chẳng phải là Tạng Giáo, Thông Giáo, hoặc
Biệt Giáo Phật. Câu danh hiệu này trọn đủ
công đức viên măn do đức Như Lai đă chứng
nơi quả địa. Quả đức viên măn,
đương nhiên Tu Đức được tu tập
nơi nhân địa tự nhiên cũng được hàm
nhiếp trong ấy. Công đức của danh hiệu chẳng
thể nghĩ bàn, chớ nên xem nhẹ! Đứa trẻ
ba tuổi cũng biết niệm câu A Di Đà Phật,
điểm then chốt là dùng cái tâm ǵ để niệm?
Chúng ta dùng tâm ǵ để niệm? Chúng ta niệm, đúng là
có lúc chẳng bằng đứa trẻ ba tuổi. V́ sao? Đứa
trẻ lên ba niệm A Di Đà Phật, nó có thể thấy
A Di Đà Phật, có thể thấy Quán Âm Bồ Tát. Chúng ta
niệm đă lâu năm ngần ấy, A Di Đà Phật lẫn
Quán Âm Bồ Tát đều chẳng thấy, dụng tâm bất
đồng! Tâm trẻ nhỏ đơn thuần, vọng
tưởng và tạp niệm ít, nên có cảm ứng rơ rệt.
Chúng ta tâm tư quá phức tạp, vọng tưởng, tạp
niệm quá nhiều! Chúng ta niệm A Di Đà Phật có cảm
ứng hay không? Có chứ! Sự cảm ứng ấy
được gọi là “minh
gia” (冥加: gia hộ âm thầm), chẳng phải
là “hiển gia” (顯加: gia hộ rơ rệt).
“Hiển” (顯) là khiến cho
quư vị trông thấy, nghe thấy. “Minh” (冥) là âm thầm gia tŕ, quư vị
chẳng thấy mà cũng chẳng nghe, chẳng cảm nhận
được, nhưng xác thực là A Di Đà Phật gia tŕ
quư vị. Chỉ cần thành tâm niệm là được rồi,
sẽ dần dần có thể niệm đến nhất
tâm. Phải dùng tâm chân thành, tâm cung kính để niệm th́
mới có thể niệm đến nhất tâm.
Kinh
Di Đà dạy chúng ta nguyên tắc này, “tín, nguyện, tŕ danh”. Chúng ta đọc Sớ
Sao, Yếu Giải, mới biết Tín và Nguyện là mấu
chốt trong tu học. Chúng ta có tin hay không? Chẳng thể
nói là không tin. Không tin th́ v́ sao quư vị niệm? Cũng chẳng
thể nói là có ḷng tin. V́ sao? Thật sự có ḷng tin, quư vị
niệm ắt phải nên có cảm ứng, “một niệm tương ứng một niệm Phật”
mà! Quư vị niệm cho đến nay vẫn chẳng có thành
tựu, tâm vẫn tán loạn. Tín tâm của chúng ta
được gọi là “lộ
thủy đạo tâm” (露水道心: đạo tâm
mong manh như sương buổi sớm), lúc có, lúc không, niệm
Phật với cái tâm như vậy, khó lắm! Đấy
cũng là như Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát đă nói
trong Tây Phương Xác Chỉ: “Niệm
Phật kỵ nhất là xen tạp”. Nay chúng ta không chỉ
xen tạp, mà c̣n hoài nghi, có lúc tin tưởng, có lúc lại
ngờ vực! Nghi căn chẳng đoạn. C̣n mong đọc
kinh Đại Thừa, c̣n mong học chú Mật Tông, đó
là có nghi. Nếu tín tâm kiên định, thật sự tin
tưởng lời Đại Thế Chí Bồ Tát dạy
bảo, từ sơ phát tâm măi cho đến khi viên thành Phật
quả, sẽ chứng đắc Phật quả viên măn rốt
ráo giống như A Di Đà Phật, chỉ là một câu Phật
hiệu. Đấy là [pháp tu chủ yếu] của Đại
Thế Chí Bồ Tát và năm mươi hai vị Bồ Tát
đồng luân, chúng ta phải có tín tâm giống như Ngài
vậy. Năm mươi hai vị Bồ Tát đồng luân
là ai? Chính là Thập Tín Vị Bồ Tát, Thập Trụ Bồ
Tát, Thập Hạnh Bồ Tát, Thập Hồi Hướng
Bồ Tát, Thập Địa Bồ Tát, Đẳng Giác Bồ
Tát, Diệu Giác Bồ Tát, năm mươi hai địa vị,
Diệu Giác là Phật. Chúng ta có thuộc về một
địa vị trong năm mươi hai địa vị
ấy hay chăng? Thưa cùng chư vị, nếu quư vị
thật sự khẳng định, không chỉ là buông duyên
thế gian xuống, mà hết thảy Phật pháp cũng buông
xuống, suốt một đời này, ta thật thà khăng
khăng một mực niệm một câu A Di Đà Phật,
chúc mừng quư vị. V́ sao? Quư vị là Bồ Tát thuộc địa
vị Sơ Tín trong Viên Giáo, là một phần tử thuộc
năm mươi hai địa vị Bồ Tát đồng
luân với Đại Thế Chí Bồ Tát. Nếu quư vị
c̣n hoài nghi, c̣n muốn học điều này, học điều
kia, tức là quư vị chẳng thuộc trong năm
mươi hai địa vị ấy. Hễ thuộc trong
năm mươi hai địa vị ấy, sẽ quyết
định văng sanh! Ngẫu Ích đại sư nói rất
hay, có thể văng sanh hay không “được
quyết định bởi tín nguyện có hay không”.
Văng
sanh cần điều kiện ǵ? Có người bảo
tôi: “Kẻ ăn thịt, chẳng ăn chay sẽ không thể
văng sanh!” Tôi chưa hề nghe nói, trong kinh chẳng có điều
ấy! Có người nói: “Kẻ chẳng thể ngồi
khoanh chân xếp bằng (ngồi kiết già) sẽ chẳng
thể văng sanh”. Tôi cũng chẳng nghe nói có điều
này! Quư vị tra duyệt năm kinh một luận của
Tịnh Tông, có nói người không ăn chay chẳng thể
văng sanh, hoặc kẻ chẳng thể ngồi kiết già
không thể văng sanh hay chăng? Chẳng có! Trong Quán Vô Lượng
Thọ Phật Kinh Sớ, Thiện Đạo đại
sư đă giảng rất rơ ràng: Văng sanh phải trọn
đủ những điều kiện văng sanh nào? Ăn chay
là hạnh Bồ Tát, là tập quán phổ biến tại
Trung Hoa. Người thọ Bồ Tát giới nhất định
ăn chay. V́ sao? Bồ Tát phải trưởng dưỡng
tâm đại từ bi. Thọ Tam Quy Ngũ Giới chẳng
bắt buộc quư vị ăn chay. Bắt buộc ăn
chay th́ mọi người chẳng đến nữa! Trước
kia, cả một đời thầy Lư sống tại
Đài Trung suốt ba mươi tám năm, Ngài chỉ dạy
chúng tôi cũng là như vậy. Ngài nói: “Chúng ta hăy khuyên kẻ
khác học Phật, đừng khuyên người ta ăn
chay, chẳng khuyên người ta thọ giới. V́ sao? Khuyên
người ta ăn chay, hễ họ nghe học Phật
đều phải ăn chay, họ chẳng học. Quư vị
đă đoạn cái nhân học Phật của người
ta, không được rồi! Chẳng khuyên kẻ khác thọ
giới! Có rất nhiều kẻ sợ thọ giới, [do
nghĩ] giới luật ràng buộc chính ḿnh, điều
này sẽ chướng ngại họ phát tâm, chướng
ngại họ nhập Phật môn. Họ nhập Phật
môn tu hành một thời gian, tự nhiên sẽ có thể
ăn chay, tự nhiên phát tâm thọ giới. Đó là chuyện
của cá nhân người ấy. Người chẳng thọ
giới mà văng sanh, có chứ! Người chẳng ăn
chay niệm Phật văng sanh cũng có! Chúng ta đọc Văng
Sanh Truyện và truyện văng sanh của người hiện
thời, có thể thấy lời Phật và tổ sư
nói chánh xác!
Ăn
chay nhằm vun bồi tâm đại từ bi. Nhất là
trong hiện thời, kinh nói tới [đời hiện tại
là] đời ác năm trược (ngũ trược ác
thế), thế gian này hiện thời trược ác đến
tột cùng, tai nạn trùng trùng! Quư vị thấy trên cả
thế giới, đúng là vô duyên vô cớ chết cả
đống người như thế ! Trong quá khứ, ít
có chuyện này; hiện thời, tai nạn dồn dập,
đó là trược ác cùng cực. Ấn Quang đại
sư dạy chúng ta làm thế nào để cứu văn và hóa
giải kiếp nạn này? Nhất định phải do
tâm đại từ bi th́ mới có thể tiêu trừ ác
nghiệp. Lăo nhân gia nêu ra sáu chữ “ăn chay, kiêng giết, niệm Phật”. Ai nấy
đều có thể làm như vậy, ăn chay, kiêng giết,
có thể tiêu trừ hiện nghiệp, tức là có thể
tiêu trừ ác nghiệp trong hiện tiền. Niệm Phật
cầu sanh Tịnh Độ, vĩnh viễn thoát khỏi sanh
tử luân hồi, đó là đúng. Do vậy, ăn chay tốt
lắm. Có rất nhiều người suốt đời
chẳng nghe nói tới Phật pháp, cả một đời
đều ăn thịt, khi lâm chung mới nghe biết Phật
pháp, họ tín, nguyện, tŕ danh vẫn có thể văng sanh. Chẳng
thể nói: Suốt đời này, quư vị chẳng hề
ăn chay, chẳng thể văng sanh! Khi lâm chung mới nghe Phật
pháp, gặp gỡ thiện tri thức, khuyên họ niệm
Phật văng sanh, thực sự có [trường hợp văng
sanh như vậy]! Thời cổ đă có [những trường
hợp như vậy], mà hiện thời cũng có. Nhất
định phải hiểu Lư! Chẳng phải là chúng tôi
khuyên người khác chẳng cần ăn chay, mà nhằm
nói rơ: Điều kiện quan trọng nhất để
văng sanh là “tín, nguyện, tŕ danh”. Chúng ta phải có tín tâm thanh
tịnh, tín tâm kiên định, nguyện vọng khẩn
thiết, đời này quyết định cầu sanh Tịnh
Độ. Lợi ích của việc ăn chay, không phải
là chỉ có Phật pháp đề xướng, mà c̣n là dựa
trên nền tảng cái tâm từ bi để đề
xướng. Hiện thời, trong số những người
sống trên thế gian, có rất nhiều người Mỹ
ăn chay. Họ chẳng tin Phật, v́ sao ăn chay? Thân thể
khỏe mạnh. Họ biết ăn chay hữu ích to lớn,
giúp cho thân và tâm của người thuộc lứa tuổi
từ trung niên trở lên đều khỏe mạnh. V́ lẽ
này, người ngoại quốc ăn chay rất đông!
Tín,
nguyện hết sức trọng yếu! Nhưng tín, nguyện
thật sự có thể đạt đến thanh tịnh,
kiên định, nói thật ra, nếu chẳng phải là do
thiện căn nhiều đời nhiều kiếp của
chính người ấy phát hiện, th́ nhất định
là do đă liễu giải lư luận Tịnh Tông kha khá, có
tŕnh độ nhận thức Tây Phương Cực Lạc
thế giới A Di Đà Phật kha khá th́ tín tâm mới có
thể đặt vững. Đấy là điều tất
yếu đă được giảng giải cặn kẽ
trong các sách vở của Tịnh Tông, thật sự giúp
chúng ta kiến lập tín tâm, khiến cho chúng ta có thể nhận
thức chánh xác Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Nương
vào câu Phật hiệu này, “chẳng
cậy vào phương tiện, tâm được tự
khai” chính là “hiển ngă chúng
sanh Tánh Đức chi Phật” (hiển lộ vị Phật
nơi Tánh Đức của bọn chúng sanh chúng ta). Đại
Thế Chí Bồ Tát gọi chuyện này là “tự đắc tâm khai”, “tự” (自) là tự nhiên. Chẳng cần dựa
vào pháp môn nào khác để giúp đỡ, cứ một câu Phật
hiệu niệm tới cùng. Vấn đề ở chỗ
quư vị có tin hay không? Quư vị thật sự tin, sẽ thật
sự có hiệu quả. V́ sao có hiệu quả? [Do] nhất
tâm, đạo lư ở chỗ này! Nếu quư vị học
[đồng thời] mấy loại pháp môn, nhất định
sẽ rớt vào tam tâm nhị ư, thành tựu khó khăn! V́
thế, quyết định phải là nhất tâm. Thiện
Đạo đại sư khuyên chúng ta: “Nhất thiết chân thật tâm trung tác” (Hết
thảy đều làm từ cái tâm chân thật). Lăo nhân gia nói
“chân thật tâm trung tác” chính
là nói tới nhất tâm.
“Thường cần tu tập, tất cánh đắc
sanh”
(Thường siêng năng tu tập, rốt ráo được
văng sanh). “Tất cánh” (畢竟) là quyết định,
[“tất cánh đắc sanh”
là] quyết định được văng sanh. “Thường cần tu tập”
(Thường siêng tu tập) là “tiếp nối”, Đại
Thế Chí Bồ Tát bảo là “tịnh
niệm tiếp nối”. “Thường
cần”: “Cần” (勤: siêng năng) là tinh tấn.
Chúng ta sống trong xă hội hiện đại, tu như
thế nào th́ mới có hiệu quả thật sự? Tổng
hợp kinh luận và giáo huấn của tổ sư đại
đức, chúng ta đạt đến một kết luận,
đó chính là “ức Phật, niệm
Phật” (nhớ Phật, niệm Phật) chớ nên
gián đoạn, chúng ta mới có thể thành tựu. Phải
đạt tới mục đích này. Quả thật là khá
khó khăn! Trong quá khứ, pháp sư Từ Vân Quán Đảnh
dạy chúng ta pháp Thập Niệm; có khá nhiều vị tổ
sư đại đức cũng khẳng định [pháp
tu ấy hữu hiệu]. Pháp Thập Niệm là công khóa sáng
tối, suốt một đời luôn thọ tŕ, chẳng
thiếu sót lần nào, phù hợp lời dạy “một mực chuyên niệm” trong
kinh Vô Lượng Thọ. Trong tác phẩm chú giải kinh Vô
Lượng Thọ, lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ cho
biết [pháp Thập Niệm] được các vị tổ
sư đại đức trong quá khứ thừa nhận
là “có thể văng sanh”. Gần đây nhất, tôi dạy các
đồng tu Thập Niệm, gồm mười câu, mỗi
ngày tu chín lần, mỗi lần chỉ tốn một phút,
hiệu quả c̣n hữu hiệu hơn so với pháp Thập
Niệm của pháp sư Từ Vân Quán Đảnh. V́ sao? Thời
gian rất ngắn, cứ cách một khoảng thời
gian, quư vị bèn nghĩ đến A Di Đà Phật. Thời
gian tu rất ngắn, nhưng tâm rất chân thành, xác thực
là “tịnh niệm tiếp nối”!
Một ngày [niệm] nhiều lần, thời gian ngắn
ngủi mà rất hữu hiệu, chư vị chẳng ngại
hành thử xem! Dùng phương pháp này để tu, “hiển ngă chúng sanh Tánh Đức
chi Phật” (hiển lộ vị Phật nơi Tánh
Đức của chúng ta), đại khái là từ ba tháng cho
đến sáu tháng bèn có tin tức, quư vị sẽ có cảm
nhận rơ rệt.
(Diễn) Tất
cánh đắc sanh, trụ Chánh Định giả, văng sanh
chi nhân, ước hữu tam vị.
(演)畢竟得生住正定者,往生之人,約有三位。
(Diễn: “Rốt ráo
được văng sanh, trụ trong Chánh Định”:
Người văng sanh nói đại lược th́ có ba địa
vị).
“Tam vị” (三位) chính là tam bối
văng sanh (三輩往生: ba bậc văng
sanh) được nói trong kinh Vô Lượng Thọ, tức
là ba bậc thượng, trung, hạ. Thứ nhất là hạ
bối văng sanh.
(Diễn)
Nhất như liên hoa vị khai thời, tín hạnh vị
măn, vị danh Bất Thoái, đản dĩ xử vô thoái
duyên, cố xưng Bất Thoái.
(演)一如蓮花未開時,信行未滿,未名不退,但以處無退緣,故稱不退。
(Diễn: Một là
như lúc hoa sen chưa nở, tín hạnh chưa viên măn,
chưa gọi là Bất Thoái, chỉ v́ ở trong hoàn cảnh
chẳng có duyên thoái chuyển, nên gọi là Bất Thoái).
Sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới, nói thật ra, không
chỉ là chứng ba thứ Bất Thoái, mà c̣n chứng trọn
vẹn ba thứ Bất Thoái. Từ kinh luận và ngữ lục
của tổ sư, chúng ta đă thấy rất nhiều, xác
thực là viên chứng ba thứ Bất Thoái. Huống hồ
kinh c̣n dạy chúng ta: Sanh về Tây Phương Cực Lạc
thế giới “giai thị A Bệ
Bạt Trí” (đều là A Bệ Bạt Trí Bồ Tát), chính
đức Phật nói điều ấy, há c̣n có thể sai
lầm ư? Đều là A Bệ Bạt Trí. Hoàn toàn chẳng
nói “hạ hạ phẩm văng sanh chẳng phải là A Bệ
Bạt Trí”, chẳng hề nói kiểu đó. “Giai thị” (đều là) tức
là bao gồm từ thượng thượng phẩm cho
đến hạ hạ phẩm. A Bệ Bạt Trí có
nghĩa là ǵ? Cổ đức chú giải: A Bệ Bạt
Trí Bồ Tát là từ Thất Địa trở lên, địa
vị ấy cao lắm! Theo kinh Nhân Vương, từ Thất
Địa trở lên là Vô Sanh Nhẫn vị Bồ Tát (Bồ
Tát thuộc địa vị Vô Sanh Pháp Nhẫn). Thất
Địa là hạ phẩm Vô Sanh Nhẫn, Bát Địa là
trung phẩm Vô Sanh Nhẫn, Cửu Địa là thượng
phẩm Vô Sanh Nhẫn. Lên cao hơn là Tịch Diệt Nhẫn,
đó là mức cao nhất. Thập Địa là hạ phẩm
Tịch Diệt Nhẫn, Đẳng Giác là trung phẩm, Phật
là thượng phẩm. Cớ sao hạ hạ phẩm văng
sanh có địa vị cao dường ấy? Trên thực
tế, hoàn toàn chẳng phải là người ấy vừa
đến Tây Phương Cực Lạc thế giới liền
chứng đắc, mà là do bổn nguyện và oai thần của
A Di Đà Phật gia tŕ, [khiến cho] người ấy xác
thực là giống như Thất Địa hoặc Bát
Địa Bồ Tát, nhưng đó là do A Di Đà Phật
gia hộ, chẳng phải do chính người ấy chứng
đắc. Đương nhiên, người ấy nỗ
lực tu hành trong thế giới Tây Phương, tu một
khoảng thời gian, tự ḿnh thật sự chứng
đắc địa vị này, đức Phật có gia
tŕ hay không, chẳng sao cả! Khi quư vị chưa chứng
đắc, toàn là do Phật lực gia tŕ. V́ lẽ ấy, thế
giới đó là một thế giới b́nh đẳng. Chúng
ta giải thích “A Bệ Bạt Trí là đă đạt đến
Thất Địa hoặc Bát Địa”; nói thật ra,
cũng chẳng phải là chân tướng. Chân tướng
sự thật phải dựa trên bốn mươi tám nguyện
để làm chuẩn. Bốn mươi tám nguyện trong
kinh Tịnh Độ là tiêu chuẩn nhất. Bốn mươi
tám nguyện hoàn toàn nói b́nh đẳng: Người sanh về
Tây Phương Cực Lạc thế giới, ai nấy
đều là “tử ma chân kim sắc
thân” (thân có màu giống như vàng ṛng được trau
giồi sáng bóng). Trong bốn mươi tám nguyện, hoàn
toàn chẳng nói “loại trừ hạ bối văng sanh”. Nói
cách khác, hạ hạ phẩm văng sanh cũng là thân tử ma
chân kim sắc. Hạ hạ phẩm văng sanh về bên
đó, diện mạo y hệt A Di Đà Phật, kinh điển
đă nói chuyện này rất minh bạch. V́ sao A Di Đà Phật
mong cầu tất cả hết thảy nhân dân trong thế
giới ấy giống hệt như Phật? Đó là bổn
nguyện của Ngài. Ngài thấy chúng sanh trong mười
phương thế giới có diện mạo khác nhau. Diện
mạo xinh đẹp bèn kiêu ngạo, diện mạo xấu
xí bèn có mặc cảm tự ty, đó là bất b́nh đẳng,
tạo tác phiền năo! Trong thế giới của lăo nhân
gia, mọi người có diện mạo giống hệt như
nhau, chẳng có kẻ nào kiêu ngạo, mà cũng chẳng có
ai tự ty! Đó là sự thành tựu do bổn nguyện
công đức của Ngài! “Hoa vị
khai thời” (Lúc hoa chưa nở), chính là hạ bối văng
sanh. Tới cơi đó, hoa sen chưa nở. Hoa nở thấy
Phật, ngộ Vô Sanh, chính ḿnh đă chứng đắc Vô
Sanh Pháp Nhẫn. Khi hoa chưa nở, vẫn là đắc Vô
Sanh Pháp Nhẫn, do được Phật gia tŕ. Thế giới
Tây Phương chẳng có duyên gây thoái chuyển, nên tiến
bộ mau lẹ. Trong thế gian này, v́ sao để thành Phật
phải mất ba đại A-tăng-kỳ kiếp? Tiến
ít, lùi nhiều, đây là một chướng ngại rất
lớn!
(Diễn)
Nhị, Tín vị măn túc dĩ khứ, hoa khai kiến Phật,
nhập Thập Trụ vị, đắc thiểu phần
kiến Pháp Thân, trụ Chánh Định vị dă.
(演)二、信位滿足以去,花開見佛,入十住位,得少分見法身,住正定位也。
(Diễn: Hai là đă
viên măn từ địa vị Thập Tín trở lên, hoa nở,
thấy Phật, dự vào địa vị Thập Trụ,
đă thấy chút phần Pháp Thân, trụ trong địa vị
Chánh Định).
Địa
vị này là trung bối văng sanh, chúng ta có
thể gắng sức đạt được, lại
c̣n giành được chẳng khó! Đối với tam bối,
Thiện Đạo đại sư đă nói rơ ràng, chúng ta
nhất định phải nương theo [lời dạy
của] Thiện Đạo đại sư. Theo lịch sử
Trung Hoa ghi chép, Thiện Đạo đại sư là Hóa
Thân của A Di Đà Phật. Lời dạy của Thiện
Đạo đại sư chính là lời dạy do A Di
Đà Phật đích thân thốt ra, chúng ta phải tin
tưởng. Đại sư dạy:
1) Trong chín phẩm
văng sanh, ba phẩm thượng là “đại tâm phàm phu”, [tức là] đă phát tâm
Đại Thừa, nhưng c̣n là phàm phu, chưa phải là
thánh nhân. Ư nghĩa này nhằm nói rơ: Chúng ta [ai nấy] đều
có phần, quư vị có thể phát đại tâm hay không? Đại
tâm là ǵ? Phát tâm độ hết thảy chúng sanh, phát tâm
văng sanh thế giới Cực Lạc để làm Phật.
Đó là đại tâm. Phát đại tâm là văng sanh trong ba phẩm
thượng.
2) Trung bối văng
sanh là chúng sanh thiện lương tŕ giới. Văng sanh trong
ba phẩm hạ là chúng sanh tạo tác ác nghiệp.
3) Từ chín phẩm
trong Quán Kinh, chúng ta thấy rất rơ ràng: Hạ hạ phẩm
là chúng sanh tạo Ngũ Nghịch, Thập Ác. Nếu chẳng
thể văng sanh, họ quyết định đọa trong
địa ngục A Tỳ. Kẻ tạo tội nghiệp
cực nặng, khi lâm chung, gặp thiện tri thức dạy
kẻ ấy niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ,
một niệm hay mười niệm đều có thể
văng sanh, hạ hạ phẩm văng sanh thế giới Tây
Phương. Hạ hạ phẩm cũng là A Bệ Bạt
Trí, chẳng thể nghĩ bàn!
Do đó, chín phẩm
đều là phàm phu. Thiện Đạo đại sư dạy
chúng ta: Chín phẩm do đâu mà có? Do chúng ta “ngộ duyên bất đồng” (gặp duyên khác
nhau) mà có chín phẩm. Nói lời này rất hay, chúng ta gặp
duyên chẳng giống nhau. Nếu chúng ta gặp duyên thù thắng,
thượng bối văng sanh chẳng có vấn đề
ǵ! Duyên như thế nào? Gặp thiện tri thức giới
thiệu Tây Phương Cực Lạc thế giới rành
mạch, rơ ràng, ta chẳng có nghi hoặc, tín nguyện kiên
định, duyên ấy thù thắng! Lại c̣n gặp đồng
tham đạo hữu tốt đẹp dùi mài, rèn giũa lẫn
nhau, duyên ấy thù thắng, phẩm vị văng sanh bèn cao. Nếu
gặp duyên kém hơn, có thiện tri thức bảo quư vị
niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tây Phương,
nhưng chẳng thể giới thiệu rất minh bạch,
rất rơ ràng. Tuy niệm, trong tâm c̣n có chút hoài nghi chẳng thể
đoạn trừ. V́ duyên cớ này nên mới có chín phẩm
sai biệt.
Nếu
chúng ta thật sự có thể kiên định, chẳng nghi
ngờ, giống hệt như Đại Thế Chí Bồ
Tát, do một câu Phật hiệu bèn dự vào địa vị
Thập Tín, là một trong năm mươi hai địa vị
đồng luân. Chúng ta có thể nêu ra một trường
hợp rất rơ rệt để nói. Trong băng thâu âm lời
khai thị của lăo pháp sư Đàm Hư tại Phật
Thất ở Hương Cảng, tôi tin là có rất nhiều
đồng tu đă nghe, Ngài có nhắc tới người
đồ đệ niệm Phật của pháp sư Đế
Nhàn. Ông ta làm thợ vá nồi, chẳng biết chữ,
chưa từng đi học, đă bốn mươi mấy
tuổi, t́m đến pháp sư Đế Nhàn đ̣i Ngài
cho xuất gia. Hiện thời, chúng ta thấy bốn
mươi tuổi c̣n rất trẻ; vào thời ấy, bốn
mươi tuổi đă là người già. Pháp sư Đế
Nhàn chẳng lay chuyển ông ta được, đành phải
cho ông ta xuống tóc, dặn ḍ ông ta chẳng cần phải
thọ giới, cũng chẳng cần phải sống
trong chùa miếu. Ở trong chùa miếu sẽ không
được! Đừng nói chi khác, đă xuất gia, phải
dự khóa lễ sáng tối. Người ấy chẳng thể
học thuộc khóa tụng sáng tối, tánh quá chậm lụt,
rất ngu si! V́ thế, đưa ông ta đến một
ngôi chùa dột nát ở vùng quê, chẳng có ai ở, cho ông ta
sống một ḿnh nơi đó, dạy ông ta một câu A Di
Đà Phật, dặn ông ta: “Ông
cứ niệm, hễ niệm mệt bèn nghỉ ngơi. Nghỉ
khỏe khoắn xong lại niệm tiếp”. Dạy ông
ta cách thức ấy. Ông ta tin tưởng thầy, tiếp
nhận pháp môn này, bèn nhập Tín vị. Nói cách khác, ông ta có
phần trong năm mươi hai vị đồng luân của
Đại Thế Chí Bồ Tát, ông ta đă gia nhập. Niệm
một câu Nam-mô A Di Đà Phật suốt ba năm, biết
trước lúc mất, chẳng ngă bệnh, đứng
văng sanh. Sau khi văng sanh, c̣n đứng sững suốt ba
ngày, chờ sư phụ là pháp sư Đế Nhàn đến
lo liệu hậu sự. Thuở đó, giao thông bất tiện,
ông ta sống ở vùng quê, [sau khi] ông ta đă văng sanh, hộ
pháp ở vùng phụ cận đến chùa Quán Tông báo tin. Thời
ấy, chẳng có xe, theo đường bộ đi về
mất ba ngày. Ông ta đứng đó suốt ba ngày, cụ
Đế Nhàn rất tán thán! Người ta có thể nhập
Tín vị, chúng ta không được, [v́] chúng ta hoài nghi! Thành
tựu của người ấy, thưa cùng chư vị,
quyết định thuộc ba phẩm thượng, thượng
bối văng sanh, quyết định chẳng phải là trung
hạ.
Đến
Tây Phương Cực Lạc thế giới, “hoa khai kiến Phật, nhập Thập
Trụ vị” (hoa nở thấy Phật, dự vào địa
vị Thập Trụ), hoa nở thấy Phật là minh tâm
kiến tánh, thảy đều nói về Viên Giáo. Sơ Trụ
Bồ Tát trong Viên Giáo phá một phẩm vô minh, chứng một
phần Pháp Thân, chính là hàng “Pháp Thân đại sĩ”
được nói trong kinh Hoa Nghiêm. Thành tựu nhanh chóng
dường ấy! Ngài phá vô minh, thấy Pháp Thân. Đại
Kinh gọi “trụ Chánh Định
vị” là Chánh Định Tụ. Tâm vị ấy đă
định, là Chánh Định. Chánh Định ở
đây là nhất tâm nhất ư đặt nơi A Di Đà Phật.
Bởi lẽ, danh hiệu có công đức chẳng thể
nghĩ bàn. Người niệm danh hiệu này rất nhiều,
kẻ biết công đức của danh hiệu chẳng mấy.
Hễ thật sự biết, chắc chắn là sẽ khăng
khăng một mực niệm câu Phật hiệu này đến
cùng!
(Diễn)
Tam, Tam Hiền vị măn, nhập Sơ Địa dĩ khứ.
(演)三、三賢位滿入初地以去。
(Diễn:
Ba là đă viên măn địa vị Tam Hiền, nhập từ
Sơ Địa trở lên).
Đều là Viên
Giáo, đều nói sự chứng đắc của chính
ḿnh, chẳng phải là do được Phật lực
gia bị. Tam Hiền là Thập Trụ, Thập Hạnh, và
Thập Hồi Hướng. Tu viên măn ba mươi địa
vị ấy! Trong thế giới Tây Phương, tu học
ba mươi địa vị ấy hết sức nhanh
chóng. V́ sao? Chẳng bị thoái chuyển. Hoàn thành rất
nhanh chóng ba mươi tầng cấp địa vị ấy,
dự lên ngôi Sơ Địa trong Viên Giáo. Sơ Địa
Bồ Tát trong Viên Giáo đă phá ba mươi mốt phẩm
vô minh. Trong bốn mươi mốt phẩm vô minh, đă
phá sạch ba mươi mốt phẩm.
(Diễn)
Chứng biến măn Pháp Thân, sanh vô biên Phật độ.
(演)證遍滿法身,生無邊佛土。
(Diễn:
Chứng Pháp Thân trọn khắp, sanh trong vô biên cơi Phật).
Đến
đi tự do trong hết thảy các cơi Phật tận
hư không khắp pháp giới, có thể phân thân vô lượng
vô biên, đồng thời nhập cảnh giới của hết
thảy chư Phật. Sơ Trụ Bồ Tát của Viên
Giáo có năng lực này, nhưng chư vị phải biết:
Chúng ta sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới
cũng đều có năng lực ấy, đó là do Phật
lực gia tŕ. Nếu bản thân chúng ta chứng đắc
Viên Giáo Sơ Trụ trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới, chính ḿnh sẽ có năng lực ấy. Trước
khi chính ḿnh khôi phục năng lực ấy, đức Thế
Tôn giúp chúng ta, tức là A Di Đà Phật giúp đỡ chúng
ta, sanh vào Tây Phương Cực Lạc thế giới bèn “chứng biến măn Pháp Thân, sanh
vô biên Phật độ” (chứng Pháp Thân trọn khắp,
sanh trong vô biên cơi Phật). Đấy là lợi ích chân thật
trong thế giới Tây Phương, trong hết thảy các
cơi Phật khác chẳng có [lợi ích ấy]. Trong các cơi Phật
khác, ắt phải là chính ḿnh đă chứng đắc Sơ
Địa trong Viên Giáo th́ quư vị mới có năng lực
ấy. Chẳng chứng đắc, quyết định là
chẳng có năng lực ấy. Ưu điểm của
thế giới Tây Phương là sanh về nơi đó, do
A Di Đà Phật gia tŕ chúng ta, chúng ta bèn có năng lực ấy,
cho nên có thể đi trọn khắp pháp giới cúng Phật.
Cúng Phật đương nhiên là nghe Phật thuyết
pháp. Đấy là đạo lư nhất định.
(Diễn)
Như Phật kư Long Thọ Bồ Tát đẳng, trụ Sơ
Địa sanh Tịnh Độ đẳng dă.
(演)如佛記龍樹菩薩等,住初地生淨土等也。
(Diễn: “Giống
như Phật thọ kư cho Bồ Tát Long Thọ” v.v… : Trụ
vào Sơ Địa, sanh về Tịnh Độ…)
Long
Thọ Bồ Tát (Nāgārjuna) xuất
hiện
tại Ấn Độ, sau khi đức Phật đă diệt
độ sáu trăm năm. Vị Bồ Tát này hoằng
dương Đại Thừa. Tám tông Đại Thừa
đều do Ngài truyền; Ngài là tổ chung của cả
tám tông. Không chỉ là Thiền Tông, Mật Tông cũng do Ngài
truyền. Long Thọ Bồ Tát mở tháp sắt ở Nam
Thiên, thấy Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva), [Kim Cang Tát
Đỏa] bèn truyền Mật pháp cho Long Thọ[4]. Kim
Cang Tát Đỏa là Sơ Tổ của Mật Tông, Long Thọ
là Nhị Tổ. Kim Cang Tát Đỏa là hóa thân của Phổ
Hiền Bồ Tát. Trong kinh, đức Phật đă thọ
kư (tiên đoán), sáu trăm năm sau, Long Thọ sẽ phục
hưng Phật giáo. Long Thọ là Sơ Địa Bồ
Tát, văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới.
V́ thế, trong Văng Sanh Truyện có chép truyện Long Thọ
Bồ Tát.
(Diễn)
Thử trung tất cánh đẳng, thị hậu nhị vị.
(演)此中畢竟等,是後二位。
(Diễn:
Câu “rốt ráo…” trong ấy là nói tới hai địa vị
sau).
Khởi Tín Luận nói “tất cánh đắc sanh” (rốt
ráo được văng sanh) là nói tới hai địa vị
sau, tức là “đă nhập Tín vị” và “nhập Chánh Định
Tụ”. Kinh Vô Lượng Thọ nói “nhập Chánh Định
Tụ” bao gồm hạ hạ phẩm văng sanh. Rốt cuộc
lấy điều ǵ làm chuẩn? Đương nhiên là lấy
kinh Vô Lượng Thọ làm chuẩn. Ở chỗ này, tuy
nói về hai địa vị sau, nhưng trong địa vị
đầu, “đản dĩ xử
vô thoái duyên, cố xưng Bất Thoái” (chỉ v́ ở
trong hoàn cảnh chẳng có duyên thoái chuyển, nên gọi là
Bất Thoái). Bất Thoái là Chánh Định Tụ. Hoàn cảnh
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới quá tốt
đẹp! Quyết định chẳng có cơ duyên thoái
đọa! Do A Di Đà Phật chỉ dạy đúng pháp,
người sanh về đó ai nấy đều tinh tấn
bất thoái. Nói theo nghĩa rộng, sẽ đều là
Chánh Định Tụ, chẳng có Tà Định Tụ, mà
cũng chẳng có Bất Định Tụ.
(Sao)
Hựu Ma Ha Bát Nhă kinh vân: “Bồ Tát niệm Phật, bất
dĩ sắc niệm, năi chí bất dĩ tứ trí, thập
bát bất cộng pháp niệm. Hà dĩ cố? Thị
chư pháp tự tánh không cố”. Tự tánh không, tắc vô
sở niệm. Vô sở niệm, thị vi niệm Phật.
(鈔)又摩訶般若經云:菩薩念佛,不以色念,乃至不以四智、十八不共法念,何以故?是諸法自性空故。自性空,則無所念;無所念,是為念佛。
(Sao: Lại nữa,
kinh Ma Ha Bát Nhă nói: “Bồ Tát niệm Phật, chẳng dùng sắc
để niệm, cho đến chẳng dùng bốn trí,
mười tám bất cộng để niệm, V́ cớ
sao? Do tự tánh của các pháp là Không”. Do tự tánh là Không,
nên chẳng có cái được niệm. Không có cái để
niệm th́ chính là niệm Phật”).
Liên
Tŕ đại sư nêu ra những điều được
nói trong các kinh luận ấy, tất cả hết thảy
đều thuộc loại Lư nhất tâm, cảnh giới
có độ cao như thế, thảy đều giảng
về Lư nhất tâm bất loạn. Chú giải của kinh Ma
Ha Bát Nhă là Đại Trí Độ Luận. Bộ kinh này
(kinh Ma Ha Bát Nhă) gồm ba mươi quyển, Đại Trí
Độ Luận gồm một trăm quyển[5].
Trong kinh có nói: “Bồ Tát niệm
Phật, chẳng dùng sắc để niệm”. Kinh Kim
Cang và Tâm Kinh là tinh hoa của kinh Bát Nhă, có thể hiểu rơ
nghĩa lư của hai kinh này, sẽ ít nhiều có khái niệm
về Bát Nhă.
(Diễn)
Bất dĩ sắc niệm, thị bất niệm tướng
hảo chi sắc.
(演)不以色念,是不念相好之色。
(Diễn:
“Chẳng dùng sắc để niệm” là chẳng nghĩ
tới sắc tướng nơi tướng hảo).
V́
sao? Không chỉ Phật, mà Bồ Tát đều chẳng có tướng.
Chẳng có tướng th́ mới có thể tùy loại hiện
tướng. V́ sao chúng ta chẳng thể tùy loại hiện
tướng? Chúng ta chấp tướng, chúng ta có tướng,
[lầm tưởng] tướng ấy là ta. Trừ tướng
ấy ra th́ chẳng phải là ta. Đấy chính là chấp
trước kiên cố. V́ thế, chẳng thể tùy loại
biến hiện tướng. Kinh Lăng Nghiêm có nói: “Tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri
lượng” (Thuận theo tâm của chúng sanh, ứng hợp
với khả năng nhận biết của họ), Phật
và Bồ Tát đều là như vậy. Chúng sanh thích Phật
có h́nh dáng như thế nào, Phật bèn hiện h́nh dáng ấy.
Vẻ đẹp chẳng có tiêu chuẩn! Gương mặt
được người Hoa ưa thích, người ngoại
quốc trông thấy chưa chắc đă ưa thích!
Gương mặt được người ngoại quốc
ưa chuộng, người Hoa sẽ thấy chẳng thuận
mắt. Phật hiện tướng là hiện theo sự cảm
nhận của chúng sanh về tướng trạng hoàn mỹ
nhất. Cổ nhân Ấn Độ nói ba mươi hai tướng,
tám mươi thứ hảo là tướng hoàn mỹ, chẳng
khuyết hăm tí nào, đức Phật bèn hiện tướng
ấy. Do vậy, chư Phật, Bồ Tát chẳng có tướng
nhất định. Có kẻ hỏi: “Quán Thế Âm Bồ
Tát là nam hay nữ?” Quư vị thích Ngài là nam, Ngài bèn hiện
tướng người nam. Quư vị thích Ngài là nữ,
Ngài bèn hiện tướng người nữ. Ngài chẳng
có tướng! Ngài có thể hiện tướng thuận
theo tâm của chúng sanh. Do vậy, chớ nên niệm tướng
hảo, hễ niệm tướng hảo bèn là chấp
tướng. Chấp tướng niệm Phật th́ có thể
thành tựu hay không? Vẫn có thể văng sanh, nhưng phẩm
vị thấp hơn. Phẩm vị tùy thuận tâm lượng
và công phu tu hành của quư vị.
(Diễn) Bất
dĩ tứ trí thập bát pháp niệm, thị bất niệm
công đức chi tâm.
(演)不以四智十八法念,是不念功德之心。
(Diễn: Chẳng
dùng bốn trí và mười tám pháp [bất cộng] để
niệm, là chẳng niệm cái tâm công đức).
Không
chỉ là chẳng niệm sắc tướng, mà công đức
của Phật cũng chẳng niệm; đấy là cảnh
giới Lư nhất tâm bất loạn. Nay bọn sơ học
chúng ta, nói thật thà, nhất định là phải chấp
tướng. Chấp tướng mà chúng ta c̣n niệm chẳng
thành. Nếu chẳng chấp tướng, càng hỏng bét
hơn, tâm chúng ta chẳng có ǵ để nương cậy!
Khi nào mới đạt đến cảnh giới Lư nhất
tâm? Chờ tới khi quư vị niệm đến mức Lư
nhất tâm, sẽ tự nhiên nhập cảnh giới ấy.
Đừng nên lo lắng, chớ nên cưỡng cầu,
đừng nên ham cao chuộng xa: “Ta phải học như
vậy”. Như thế sẽ hỏng bét, chẳng thể học!
Chúng ta biết có chuyện này là được rồi.
Đă biết có chuyện này, trong tương lai, công phu niệm
Phật của chính ḿnh đạt đến Sự nhất
tâm, niệm đến Lư nhất tâm, cảnh giới này bỗng
dưng hiện tiền, chẳng sai! Trong kinh, đức Phật
đă có nói, Ngài ấn chứng chúng ta đi theo con
đường này sẽ chẳng đi sai đường!
Điều này quan trọng lắm!
Nay
chúng ta niệm Phật phải niệm sắc tướng.
Chúng ta phải thường tưởng Phật, đó là
niệm sắc tướng và công đức của Phật.
Chúng ta đọc kinh Vô Lượng Thọ, đọc kinh
Quán Vô Lượng Thọ Phật, [sẽ thấy quá tŕnh
tu chứng] A Di Đà Phật từ sơ phát tâm cho đến
chứng quả, cho đến tiếp dẫn chúng sanh trong
mười phương thế giới, đối với
trí huệ và đức năng của Ngài, chúng ta đều
có thể ức tŕ chẳng quên. Đối với các thứ
trang nghiêm trong thế giới Tây Phương do Ngài đă
thành tựu, chúng ta phải thường ức niệm, v́
sao? Niệm những điều ấy sẽ trừ sạch
vọng tưởng. Chúng ta chẳng niệm những
điều ấy, sẽ dấy vọng tưởng, sẽ
tự nhiên nghĩ tới thị phi, nhân ngă, nghĩ tới
ngũ dục, lục trần, quả báo trong tương
lai là lục đạo luân hồi. Do thường nghĩ
tới tham, sân, si, bèn đọa trong ba ác đạo. Chẳng
thà niệm sắc tướng hoặc công đức của
Phật, tuy chẳng thể đạt tới Lư nhất
tâm, Sự nhất tâm cũng là rất khó có! Huống hồ
bất luận là Lư niệm hay Sự niệm, chúng ta hiểu
rơ giáo huấn của Thiện Đạo đại sư,
chấp tướng mà niệm vẫn có thể thượng
thượng phẩm văng sanh. Đấy gọi là “gặp duyên khác nhau”.
Ở
đây nói đến Lư, chẳng chấp sắc tướng,
chẳng chấp vào công đức, v́ sao? “
(Diễn)
Chư pháp tự tánh Không giả, dĩ Phật vô biệt sắc
tâm công đức, duy hữu như như lư cập như
như trí độc tồn cố.
(演)諸法自性空者,以佛無別色心功德,唯有如如理及如如智獨存故。
(Diễn:
“Tự tánh của các pháp là Không”: Do Phật chẳng có sắc,
tâm, công đức chi khác, chỉ có lư Như Như và trí
Như Như là tồn tại).
Lư Như
Như và trí Như Như hoàn toàn là tác dụng của Tánh
Đức, đấy chính là Chân Như bản tánh. Thể
là Lư, tác dụng là Trí, tác dụng là “không ǵ chẳng biết”.
Lư là Pháp Thân, Trí là Báo Thân; Ứng Hóa Thân từ trong Lư và Trí
lưu xuất, là Tha Thọ Dụng, nhằm hóa độ
chúng sanh. Ứng Hóa Thân vô lượng vô biên, kinh Lăng
Nghiêm nói là “tùy tâm ứng lượng”.
Đối với vô lượng vô biên chúng sanh trong mười
pháp giới, tùy tâm ứng lượng, biến hóa vô cùng. Đó
là tác dụng dành cho người khác, chẳng phải là Tự
Thọ Dụng, mà là Tha Thọ Dụng. Tuy biến hóa vô cùng,
làm các Phật sự, giảng hết thảy kinh pháp, có khởi
tâm động niệm hay không? Chẳng có! Nói mà chẳng
nói, chẳng nói mà nói, làm mà chẳng làm, không làm mà làm, cảnh
giới như thế đó, cảnh giới ấy chẳng
thể nghĩ bàn! Chúng ta [cảm thấy] “chẳng thể
nghĩ bàn” rất khó hiểu, chẳng dễ lănh hội
cho lắm, v́ chúng ta luôn có nghĩ và bàn. Trong ấy, thật
sự là có đạo lư. Đạo lư thật sự chính
là “nhất tâm xưng niệm”,
chớ nên suy tưởng lung tung. Chúng ta nhất tâm xưng
niệm bèn tương ứng với Lư và Trí, nhị tâm sẽ
chẳng tương ứng. Nhất tâm bèn tương ứng,
“một niệm tương ứng
một niệm Phật”, thật sự là nói tới chuyện
này. Chúng ta nói “câu Phật hiệu
tương ứng với tín và nguyện”, chính là nói
phương tiện. Nói chân thật, sẽ là “tương ứng với Lư và Trí,
tương ứng với tự tánh”. V́ thế, pháp môn
này xác thực là có thể minh tâm kiến tánh, có thể kiến
tánh thành Phật. “Tự tánh
không, tắc vô sở niệm” (do tự tánh là Không, nên chẳng
có cái được niệm). “Vô
sở niệm” là chân niệm.
(Diễn)
Vô sở niệm thị vi niệm Phật giả. Hoa Nghiêm
vân: “Tánh không tức thị Phật”. Kim Cang vân: “Nhược
kiến chư tướng phi tướng, tức kiến
Như Lai”.
(演)無所念是為念佛者。華嚴云:性空即是佛。金剛云:若見諸相非相,即見如來。
(Diễn: “Chẳng có
đối tượng được niệm” chính là niệm
Phật: Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tánh Không chính là Phật”, kinh Kim
Cang nói: “Nếu thấy các tướng chẳng phải là
tướng, chính là đă thấy Như Lai”).
Kinh
Hoa Nghiêm nói “Phật”, kinh Kim
Cang nói “Như Lai” có cùng một
ư nghĩa. Kinh Kim Cang nói Phật và Như Lai, là có hai ư
nghĩa. Nói Phật hay nói Như Lai, đôi khi là một chuyện,
có lúc là hai chuyện. Trong mười đại nguyện
vương, “lễ kính chư
Phật” và “xưng tán
Như Lai”, Phật và Như Lai là hai chuyện, chẳng
phải là một. “Tánh không tức
thị Phật” (Tánh Không chính là Phật), [câu này] có cùng ư
nghĩa với kinh Kim Cang khi dùng chữ Như Lai. Phật
là ǵ? Phật là giác. Như Lai là bản tánh, là tên gọi
khác của chân tâm. Trong mười đại nguyện
vương, “lễ kính chư
Phật” là nói theo sắc tướng; “xưng tán Như Lai” th́ Như Lai là nói theo Tánh
Đức. Một đằng nói theo tướng, một
đằng nói theo tánh, khác nhau! “Tánh
Không tức thị Phật”, Phật ở đây là Tánh,
chẳng phải là nói tới sắc tướng, mà là nói về
trí Như Như. Giác là Trí, tánh Không là trí Như Như.
“Nhược kiến chư tướng
phi tướng” (Nếu thấy các tướng chẳng phải là tướng), chẳng
chấp tướng bèn thấy tánh. V́ sao chúng ta chẳng thấy
tánh? Chấp tướng! Cổ nhân có tỷ dụ: “Dùng vàng làm đồ vật, món
nào cũng đều là
vàng”. Chúng ta dùng vàng làm tượng Phật, làm thành chén
trà, làm thành chân đèn cắm nến, những món ấy
đều là vàng. Kẻ chấp tướng muốn có
vàng, [bèn nói]: “Chẳng có vàng! Đó là tượng Phật,
là chân đèn cắm nến, là cái chén”. Quên bẵng vàng, chấp
tướng mà! Ĺa tướng, quư vị muốn có vàng th́
có món ǵ chẳng phải là vàng? Thảy đều là vàng! Chẳng
chấp tướng th́ tánh ở chỗ nào? Trong Thiền
Tông, hỏi người minh tâm kiến tánh: “Chân Như bản
tánh ở chỗ nào?” Họ sẽ tùy tiện nhặt một
nhánh cây hay ngọn cỏ dưới đất, hoặc nhắc
một viên đá, [bảo người hỏi] “chính là
đây”. Chẳng sai tí nào! Ĺa tướng, có pháp nào chẳng
phải là tự tánh? Tất cả hết thảy các pháp
đều do tự tánh biến hiện. Pháp nào cũng
đều Thị, pháp nào cũng đều Như. Có pháp
nào chẳng phải là chân tánh của chính ḿnh? Đấy là
thật sự kiến tánh. Đạo ở nơi đâu? Pháp
nào cũng là đạo! Chẳng kiến tánh, t́m cách nào
cũng chẳng t́m thấy! Nhất định phải là chính
ḿnh đích thân chứng đắc, nhập cảnh giới
này, sẽ đắc đại tự tại. Lúc vừa mới
khế nhập, bèn sanh đại hoan hỷ. Sơ Địa
Bồ Tát là Hoan Hỷ Địa, đúng là pháp hỷ sung
măn, từ vô lượng kiếp tới nay mới thật
sự hiểu rơ chân tướng sự thật.
(Diễn)
Phật dĩ vô cảnh vi cảnh, tắc niệm dĩ vô
niệm vi niệm dă.
(演)佛以無境為境,則念以無念為念也。
(Diễn: Phật coi
vô cảnh là cảnh, nên đối với niệm, bèn coi
vô niệm là niệm).
Đấy
là chân niệm. Thảy đều là cảnh giới Lư nhất
tâm bất loạn. Công phu niệm Phật của chúng ta là
tiệm tiến (tiến dần dần), giai đoạn thứ
nhất là cầu công phu thành phiến. Trong kinh chẳng có
câu “công phu thành phiến”. Công
phu thành phiến là giai đoạn thứ nhất của Sự
nhất tâm. Sự nhất tâm cũng có chín phẩm, công phu
thành phiến là ba phẩm hạ. Chúng ta gọi ba phẩm hạ
của Sự nhất tâm là công phu thành phiến, quyết
định được văng sanh. Công phu thành phiến có
tướng trạng ra sao? Trong tâm suốt ngày từ sáng đến
tối chỉ vương vấn A Di Đà Phật. Trừ
A Di Đà Phật ra, chuyện ǵ cũng đều chẳng
ghim nơi ḷng. Trong tâm thuần là một khối A Di Đà
Phật, đó gọi là “thành
phiến”, là giai đoạn thứ nhất của Sự
nhất tâm. Chẳng đoạn Kiến Tư phiền năo;
tuy chẳng đoạn, mà [phiền năo] chẳng khởi tác
dụng, v́ sao? Người ấy khởi tác dụng sẽ
là một khối A Di Đà Phật, tịnh niệm tiếp
nối, chế phục phiền năo, xác thực là chưa
đoạn phiền năo. Nếu đă đoạn phiền
năo, sẽ là công phu Sự nhất tâm thượng phẩm.
Công phu thành phiến là chế phục phiền năo, thật
sự đắc pháp hỷ, nắm chắc văng sanh. Biết
trước lúc mất vẫn kém hơn một bậc, chẳng
cao minh. Cao minh là tự tại văng sanh, muốn đi lúc nào
bèn đi lúc đó, muốn ở thêm mấy năm, chẳng
trở ngại. Chúng ta thường nói là “sanh tử tự
tại”. Sanh tử tự tại th́ cần phải có công
phu như thế nào? Chúng ta chia công phu thành phiến thành ba bậc
là thượng, trung, hạ. Công phu bậc thượng bèn
sanh tử tự tại; điều này cho thấy: Có thể
đạt được công phu chế phục phiền
năo ở mức độ cao liền có thể làm được
(sanh tử tự tại), chẳng cần đoạn phiền
năo. Đă đoạn phiền năo th́ lại càng chẳng cần
phải nói nữa, c̣n bàn luận chi nữa! Công phu chế
phục phiền năo thượng thừa bèn có thể sanh tử
tự tại, đến đi tự nhiên! Đấy chẳng
phải là [chỉ] biết trước lúc mất, [mà c̣n] muốn
đi lúc nào bèn đi lúc đó, quư vị mới biết pháp
môn này thù thắng. Trong các pháp môn khác, để đạt
tới công phu này hết sức khó khăn! Trong Thiền
Tông, nhất định phải là đă minh tâm kiến tánh
th́ mới có thể đạt tới [công phu này]. Ở đây,
chúng ta gọi minh tâm kiến tánh là cảnh giới Lư nhất
tâm, chẳng phải là Sự nhất tâm. Trong pháp này (pháp
môn Tịnh Độ), do công phu thuộc giai đoạn
đầu của Sự nhất tâm mà đạt tới cảnh
giới này. V́ vậy, chúng ta phải nên
coi trọng pháp môn này, hăy nên nghiêm túc tu học th́ mới chẳng
đến nỗi luống uổng đời này. Hôm nay,
chúng tôi giảng tới đây!
A Di Đà Kinh Sớ Sao
Diễn Nghĩa
Phần 118
hết
[1] “Lều
tranh” ở đây thật ra là một ngôi chùa của pháp
sư Sám Vân. Pháp sư Sám Vân lập chùa Ấn Hoằng Mao
Bồng (lều tranh Ấn Hoằng) tại núi Quán Âm ở
làng Bộ Lư thuộc huyện
[2] Candela là đơn vị đo
lường độ sáng. Định nghĩa của Candela
khá phức tạp, nói chung là cường độ sáng tính
theo một hướng nhất định. Hiểu theo
cách đơn giản nhất, một Candela tương
ứng với độ sáng của một ngọn
nến. Tại Trung Hoa vào thời đầu, họ đă
đồng nhất một Watt với một Candela. Do
vậy, ḥa thượng nói bóng đèn hai nến ở
đây có thể là bóng đèn 2 Watt.
[3] Tức là hai mươi câu trong phẩm
Nhập Pháp Giới của kinh Bát Thập Hoa Nghiêm (hoặc
chương Cát Tường Vân của kinh Tứ Thập
Hoa Nghiêm) nói về hai mươi môn Niệm Phật do
tỳ-kheo Đức Vân dạy cho Thiện Tài.
[4] Theo Mật Tông tương truyền,
Mật Pháp do Đại Nhật Như
Lai (Tỳ Lô Giá Na Như Lai) truyền cho Kim Cang Tát
Đỏa, các kinh điển Mật Tông được
Kim Cang Tát Đỏa cất giữ trong một cái tháp
bằng sắt ở Nam Ấn Độ, nhưng không ai
mở được. Về sau, khi Long Thọ Bồ
Tát xuất hiện, Ngài được Tỳ Lô Giá Na
Phật hiện thân trao truyền chú Đại Tỳ Lô Giá
Na chân ngôn, bèn nghiêm túc hành tŕ. Sau đó, tuân theo lời truyền
dạy của Đại Nhật Như Lai, Ngài t́m
đến cái tháp sắt ở Nam Ấn Độ,
nhiễu quanh tháp sắt suốt bảy ngày, tụng chú
Đại Tỳ Lô Giá Na vào bảy hạt cải
trắng, ném vào cửa tháp. Tháp liền mở ra, Kim Cang Tát
Đỏa Bồ Tát xuất hiện, truyền dạy
mật pháp và trao truyền toàn bộ mật điển.
[5] Đại Trí Độ
Luận (Mahāprajñāpāramitāśāstra),
thường được gọi tắt là Trí Luận,
Trí Độ Luận, Đại Luận là chú giải của
kinh Ma Ha Bát Nhă (bản dịch của ngài Cưu Ma La Thập,
gồm ba mươi quyển, không phải là kinh Đại
Bát Nhă sáu trăm quyển do ngài Huyền Trang dịch sau này).
Bộ luận này do Long Thọ Bồ Tát biên soạn, gồm
một trăm quyển. Ngài Cưu Ma La Thập dịch sang
Hán văn, nhưng chỉ dịch phẩm đầu cặn
kẽ, c̣n những phần sau chỉ trích yếu.