A Di Đà Kinh Sớ
Sao Diễn Nghĩa
阿彌陀經疏鈔演義
Phần 121
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Minh Tiến, Huệ Trang và
Đức Phong
Tập
241
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn
Nghĩa Hội Bản, trang bốn trăm sáu mươi bảy:
(Sớ)
Hựu thử nhất tâm, tức Đạt Ma trực chỉ
chi Thiền cố.
(Sao)
Tầm thường thuyết Thiền giả húy Tịnh
Độ, kim vị Đạt Ma thuyết Thiền, trực
chỉ linh tri chi tự tánh dă. Thử Lư nhất tâm, chánh
linh tri tự tánh cố. Môn đ́nh thi thiết bất đồng,
nhi sở chứng vô lưỡng tâm dă. Thiện tai Trung Phong
chi ngôn viết: “Thiền giả, Tịnh Độ chi Thiền.
Tịnh Độ giả, Thiền chi Tịnh Độ dă”,
hữu vị hồ ngôn chi dă.
(疏)又此一心,即達摩直指之禪故。
(鈔)尋常說禪者諱淨土,今謂達摩說禪,直指靈知之自性也。此理一心,正靈知自性故。門庭施設不同,而所證無兩心也。善哉中峰之言曰:禪者,淨土之禪;淨土者,禪之淨土也。有味乎言之也。
(Sớ: Nhất tâm lại
chính là Thiền trực chỉ của tổ Đạt Ma.
Sao: Nói thông thường, kẻ hành
Thiền kiêng kỵ Tịnh Độ, nay tôi bảo: Tổ
Đạt Ma nói pháp Thiền nhằm chỉ thẳng tự
tánh linh tri. Lư nhất tâm chính là linh tri tự tánh. Cách lập
bày, thực hiện trong mỗi môn đ́nh khác nhau, nhưng
cái tâm đă chứng th́ chẳng hai. Lành thay! Ngài Trung Phong
nói: “Thiền là Thiền của Tịnh, Tịnh là Tịnh
của Thiền”. Lời ấy thú vị thay!)
Khi Phật
pháp truyền đến Trung Hoa nhằm đúng thời
đại Tượng Pháp của đức Thế Tôn.
Đức Phật đă từng tiên đoán: “Vào thời kỳ Chánh Pháp, Giới
Luật thành tựu. Vào thời kỳ Tượng Pháp, Thiền
Định thành tựu. Vào thời kỳ Mạt Pháp, Tịnh
Độ thành tựu”. Phật pháp truyền đến
Trung Hoa đúng một ngàn năm sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật
đă diệt độ; nói cách khác, [thời kỳ] Tượng
Pháp vừa mới khởi đầu. Tượng Pháp [kéo
dài] một ngàn năm, có thể nói là Phật pháp trong thời
kỳ Tượng Pháp đă chuyển sang Trung Hoa, cho nên Thiền
Tông Trung Hoa hết sức hưng thịnh. Tịnh Độ
và Thiền tiến nhập [Trung Hoa] cùng một thời
đại; nói đến sự thù thắng, thật ra, [Tịnh
Độ] hoàn toàn chẳng thua kém Thiền Tông. Đến thời
kỳ Mạt Pháp trong hiện tại, Thiền đă suy, thật
sự thành tựu th́ xác thực là chỉ có Tịnh Tông. Trong
quá khứ, người tham Thiền vẫn hành tŕ Tịnh
Độ. Ở đây, Liên Tŕ đại sư bảo
chúng ta: Tịnh và Thiền chẳng khác nhau, nhất trí, chỉ
là chọn lựa phương pháp và kỹ xảo khác nhau,
mục đích hoàn toàn như nhau. “Thử nhất tâm” trong lời Sớ chính là nói
đến Lư nhất tâm, Lư nhất tâm như Tịnh Tông đă
nói chính là Thiền do tổ sư Đạt Ma truyền
đến Trung Hoa, thuộc loại thượng thượng
Thiền trong Thiền Tông.
Kế
đó, đại sư giải thích, “tầm thường thuyết Thiền giả húy Tịnh
Độ” (nói thông thường, người hành Thiền
kỵ húy Tịnh Độ), “húy”
(諱) là bài xích, chẳng
mong muốn, kiêng kỵ nói tới Tịnh Độ. Nói thật
ra, đối với Thiền lẫn Tịnh, kẻ ấy
đều chẳng thông suốt, đều chẳng thật
sự hiểu rơ. Nếu thật sự hiểu rơ, [sẽ
biết Thiền và Tịnh] là cùng một chuyện, chẳng
phải là hai chuyện. Một đằng dùng phương
pháp “tín, nguyện, tŕ danh”
để khế nhập cảnh giới này; một đằng
sử dụng phương pháp tham thoại đầu hoặc
quán tâm cũng nhằm đạt tới cảnh giới
này. Có thể thấy là h́nh thức và phương pháp khác
nhau, nhưng thành tựu thật sự là nhất trí. “Kim vị Đạt Ma thuyết
Thiền” (Nay bảo Thiền do tổ Đạt Ma
đă nói), có thể nói là Lục Tổ đại sư đă
trực tiếp truyền thừa tông phái do tổ sư Đạt
Ma lưu truyền. Trong Đàn Kinh, Ngài đă phát huy [yếu
chỉ của tông phái ấy] tới mức cặn kẽ cùng
tột. V́ thế, nếu mọi người hỏi Thiền
của tổ Đạt Ma là ǵ ư? Quư vị đọc
kỹ Đàn Kinh sẽ biết. “Trực
chỉ linh tri” (chỉ thẳng vào linh tri), trong Thiền
Tông thường nói là “trực
chỉ nhân tâm” (chỉ thẳng vào tâm người), [tức
là] “bất lập văn tự,
trực chỉ nhân tâm” (chẳng lập văn tự, chỉ
thẳng tâm người). “Văn
tự” (文字) là nói tới Giáo,
tức là hết thảy kinh điển. Thiền chẳng
đổ công dốc sức tu tập nơi kinh điển.
“Trực chỉ nhân tâm”: Thực
hiện từ nơi tâm địa.
Thuở
ấy, đức Phật dùng hai phương pháp giáo học
khác biệt vời vợi. Đối với kẻ thượng
thượng căn, Ngài bèn “trực
chỉ nhân tâm”, chẳng cần lăng phí nhiều thời
gian ngần ấy, lăng phí quá nhiều thời gian để
nghiên cứu Giáo! Đối với căn tánh trung hạ,
chẳng dùng Giáo sẽ không được, phải dựa
theo thứ tự để từ cạn tới sâu, dạy
học theo thứ tự. Trên thực tế, giống
như cách giáo dục trong hiện thời, học tṛ trong nền
giáo dục hiện thời có hai loại: Một loại là
trẻ có thiên tài, loại kia là trẻ b́nh thường. Trẻ
b́nh thường th́ nhất định là [phải lần
lượt học] Tiểu Học, Trung Học, Đại
Học, nghiên cứu sinh, đó gọi là Giáo Hạ. Trẻ
thiên tài chẳng cần học Tiểu Học, Trung Học,
Đại Học, mà trực tiếp học nghiên cứu
sinh, đương nhiên loại người ấy rất
ít, trong Phật môn cũng chẳng nhiều. Nếu chẳng
phải là trẻ thiên tài, quư vị trực tiếp học
nghiên cứu sinh, sẽ chẳng thành được ǵ. Nói
cách khác, chẳng phải là bậc thượng thượng
căn mà muốn học Thiền, chắc chắn chẳng
thể thành tựu. Do vậy, sau khi Thiền Tông đă nẩy
nở thịnh vượng thành trào lưu tại Trung Hoa,
người theo đuổi, hâm mộ rất đông! V́ thế,
đúng là những kẻ chẳng tự lượng sức
cũng không ít, thảy đều học theo. Người
thật sự thành tựu, đừng nói ai khác, chỉ nói
tới Lục Tổ Huệ Năng đại sư; người
theo học với Huệ Năng đại sư chẳng
phải chỉ là ngàn người, vạn người, quyết
định chẳng phải chỉ có như vậy! Mấy
vạn người là phỏng tính dè dặt nhất! [Pháp Bảo]
Đàn Kinh cho chúng ta biết: Người thật sự học
Thiền [với Lục Tổ] thành công là bốn
mươi ba người! Trong Phật giáo sử Trung Hoa,
đối với người học Thiền, hội ấy
thù thắng nhất, có thể nói là “không tiền khoáng hậu” (trước đó
chưa từng có, sau này chưa hề có). Trước Lục
Tổ đại sư, số người được
thành tựu bởi mỗi bậc đại đức Thiền
Tông rất ít, từ tổ Đạt Ma cho đến Ngũ
Tổ đều là “đơn
truyền”, [nghĩa là] thầy dạy học suốt
đời chỉ thành tựu một người, đến
Lục Tổ mới là thù thắng khôn sánh, thành tựu bốn
mươi ba người. Chúng ta xem lịch sử Thiền
Tông, đệ tử thật sự đại triệt đại
ngộ, minh tâm kiến tánh dưới ṭa của một vị
thiền sư, đại khái là một,
hai, ba, bốn người. Trong một đời, Lục
Tổ Huệ Năng đại sư độ nhiều
người nhất, bốn mươi ba người. Do
vậy ta hiểu, [hành Thiền mà nếu] chẳng phải
là bậc thượng thượng căn, sẽ chẳng
có phần!
Thiền Tông có phải
là chẳng cần đến kinh điển hay không? Chẳng
phải vậy! Thiền Tông là ngộ trước, [nghĩa
là] khai ngộ trước rồi mới đọc kinh
điển sau. Giáo Hạ là đọc kinh điển trước
rồi sau đó mới khai ngộ, khai ngộ từ kinh
giáo; v́ thế, phương pháp khác nhau. Đương nhiên
là sau khi đă khai ngộ, đọc kinh sẽ nhanh chóng, vừa
xem liền hiểu rơ, chẳng cần phải học, mà
cũng chẳng cần người khác giảng giải.
Cái gọi là “dùng kinh điển
để ấn tâm” tức là “ấn chứng” (印證), nghĩa là đem tri kiến về vũ trụ
và nhân sinh của chính ḿnh đối chiếu với [những
lời dạy của] đức Phật, xem có phải là
giống nhau hay không? Dùng kinh luận để chứng minh
cách nghĩ và cách nh́n của chính ḿnh có sai lầm hay không,
cho nên đó là “ấn tâm” (印心). Chẳng như chúng ta hiện thời dùng kinh
điển để học tập hoặc lên lớp.
Chúng ta là kẻ căn tánh trung hạ, chẳng thể ĺa khỏi
sách giáo khoa, người thượng thượng căn chẳng
cần sách giáo khoa.
Trực
chỉ linh tri: “Linh tri” (靈知) là nhất tâm, là
chân tâm, là bản tánh. Ở đây nói là “tự tánh”, [chữ linh tri] chỉ điều
này.
(Diễn)
Trực chỉ linh tri giả, Ba La Đề vân: “Tại nhăn
viết kiến, tại nhĩ viết văn, tại thủ
chấp tróc, tại túc vận bôn, ngộ chi tắc vi Phật
tánh, mê chi tắc vi tinh hồn” thị dă.
(演)直指靈知者,波羅提云:在眼曰見,在耳曰聞,在手執捉,在足運奔,悟之則為佛性,迷之則為精魂是也。
(Diễn: “Trực chỉ
linh tri”: Ngài Ba La Đề nói: “Nơi mắt gọi là thấy,
nơi tai gọi là nghe, nơi tay là nắm bắt, nơi
chân là di chuyển, rảo chạy. Ngộ th́ là Phật
Tánh, mê th́ là tinh hồn”, là như thế đó).
Đây
là một vị đại đức thuở đức Thế
Tôn tại thế. Thật ra, kinh Lăng Nghiêm cũng nói rất
rơ ràng, có ư nghĩa gần giống như chỗ này. “Linh tri” (靈知) là nói tới căn
tánh của sáu căn, tức là Phật tánh. Căn tánh của
sáu căn, “ngộ chi tắc vi
Phật Tánh” (ngộ th́ là Phật Tánh), Phật Tánh là
linh tri, là tự tánh. “Mê chi tắc
vi tinh hồn” (Mê th́ gọi là “tinh hồn”), mê th́ người
Hoa gọi [tự tánh] là linh hồn (sách Diễn Nghĩa ghi
là “tinh hồn”, 精魂), Phật pháp gọi
nó là thần thức (神識), là A Lại
Da (Ālāya-vijñāna), là thức
thứ tám. Đă mê bèn gọi là thức thứ tám. Đă ngộ
th́ là Phật Tánh (Buddha-dhātu), c̣n gọi
là Tứ Trí Bồ Đề (Catvari-jñāni-bodhi), nó khởi
tác dụng là bốn thứ trí huệ: Đại Viên Kính
Trí (Ādarśa-jñāna), B́nh
Đẳng Tánh Trí (Samatā-jñāna), Diệu
Quán Sát Trí (Pratyavekṣaṇa-jñāna), và Thành
Sở Tác Trí (Kṛty-anuṣṭhāna-jñāna). Đă
ngộ bèn khởi bốn loại tác dụng ấy, đă
mê bèn biến thành tám thức, tám thức tạo tác lục
đạo luân hồi. Quan hệ lợi hại xác thực
là rất nghiêm trọng, chớ nên không biết! Đức
Phật dạy chúng ta, bất luận là Tông Môn hay Giáo Hạ,
chủ ư to lớn của Đại Thừa Phật pháp là
chuyển Thức thành Trí, [tức là] chuyển tám thức
thành tứ trí, [hễ chuyển được th́] thành tựu
trong sự tu học bèn viên măn, ở ngay chỗ này! V́ sao Tiểu
Thừa chẳng nhắc tới? Tiểu Thừa dùng A Lại
Da Thức, chẳng ĺa khỏi A Lại Da Thức. Do vậy,
thành tựu
trong Tiểu Thừa tối đa là Cửu Thứ Đệ Định (Navānupūrva-samāpattayah), có thể
vượt
thoát tam giới, nhưng chưa thể kiến tánh. Chưa
thể kiến tánh, sẽ chẳng có cách nào chuyển Thức
thành Trí. Ắt cần phải hồi Tiểu hướng Đại,
lại từ trong Đại Thừa Phật pháp th́ mới
có thể chứng đắc tự tánh, mới có thể
đạt tới cảnh giới Lư nhất tâm bất loạn
như tông này đă nói.
(Diễn)
Hựu Hà Trạch vân: “Tri chi nhất tự, chúng diệu
chi môn”.
(演)又荷澤云:知之一字,眾妙之門。
(Diễn: Lại nữa,
ngài Hà Trạch nói: “Một chữ Biết chính là cửa
để tiến nhập các điều nhiệm mầu”).
Hà
Trạch là tổ sư đời thứ bảy của Thiền
Tông, tức là ngài Thần Hội (神會)[1], học
tṛ của Lục Tổ, cũng có thành tựu kha khá. “Tri chi nhất tự, chúng diệu
chi môn” (Một chữ Biết là cửa ngơ để
bước vào các điều mầu nhiệm). “Tri” (知: biết) là giác, tức
giác ngộ, là “linh tri”
được nói trong phần trước, chẳng phải
là cái biết thông thường. Nói thật ra, sự nhận
biết b́nh thường chẳng mầu nhiệm cho mấy,
chẳng phải là “chúng diệu”
(các điều mầu nhiệm). Cái biết thông thường
ấy tạo thành Sở Tri Chướng, biến thành thành
kiến, biến thành chướng ngại. Ở đây là
linh tri, linh tri chính là “không ǵ chẳng biết” được
nói trong Bát Nhă: “Bát Nhă vô tri, không
ǵ chẳng biết”. Nó là biết, nhưng chẳng phải
là cái biết thông thường.
(Diễn)
Vĩnh Gia vân: “Bất tu tri tri, đản tri nhi dĩ”
đẳng.
(演)永嘉云:不須知知,但知而已等。
(Diễn: Ngài Vĩnh
Gia nói: “Chẳng cần biết tới chủ thể biết
và đối tượng được biết, chỉ
biết mà thôi” v.v…)
“Bất tu tri tri”: Chữ Tri (知) thứ nhất
là Căn Bản Trí, chữ Tri thứ hai là Hậu Đắc
Trí. Nói cách khác, chữ Tri thứ nhất là bản thể của
Tri, chữ thứ hai là tác dụng của Tri, tức là
đối tượng của Tri. “Bất tu tri tri”: Chẳng cần biết tới
những thứ lộn xộn ấy. “Đản tri nhi dĩ” (Chỉ biết mà thôi), quư
vị có linh tri là được rồi, chỉ cần giữ
được cái Thể ấy, cái Thể ấy chính là
chân tri. Ư nghĩa của Ngài (Vĩnh Gia đại sư) là
ở chỗ này, rất hay, rất khéo! Xác thực là quư vị
có linh tri, nhưng cái Tri ấy [nếu] chẳng khởi tác
dụng th́ đó là [linh tri của] chư Phật, Bồ
Tát. Chúng ta hỏng ở chỗ nào? Hỏng ở chỗ cứ
khư khư khởi tác dụng, tác dụng là ǵ? Phân biệt,
chấp trước, dấy lên những thứ ấy.
Chư Phật, Bồ Tát mắt thấy sắc, tai nghe tiếng
rành mạch, rơ ràng, các Ngài chẳng phân biệt, không chấp
trước. V́ thế, cái Biết sau đó (sau khi đă khởi
phân biệt, chấp trước) chính là phân biệt, chấp
trước [chẳng phải là cái Biết chân thật], c̣n
cái Biết trên đây (cái Biết của linh tri) là hết
thảy đều hiểu rơ. Hết thảy đều hiểu
rơ mà chẳng cần phân biệt, chấp trước. Quư vị
chỉ cần ǵn giữ cái “hết thảy đều hiểu
rơ” th́ gọi là Phật Tánh. Hễ rớt vào phân biệt,
chấp trước, bèn rớt vào tám thức, bèn mê. Do
đó, cái Biết thứ nhất là giác, là linh tri; cái Biết
thứ hai bèn mê, biến thành t́nh thức. Làm thế nào
để có thể ǵn giữ cái Biết thứ nhất,
đó là công phu, trong Thiền Tông chuyên môn dùng công phu này. Tịnh
Độ Tông chỉ dùng một câu Phật hiệu, niệm
cho hết sạch tất cả vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước; niệm nào cũng đều
chuyên ṛng nơi một câu Phật hiệu. Niệm đến
mức thuần thục, hết thảy vọng tưởng
và chấp trước chẳng có, câu Phật hiệu liền
biến thành linh tri. Do vậy, phương pháp và kỹ xảo
khác với Thiền. Chúng ta chẳng phải là thượng
thượng căn, chẳng thể thành công bằng
phương pháp kia (phương pháp sử dụng bởi
nhà Thiền), bèn đổi sang phương pháp này (phương
pháp “tín, nguyện, tŕ danh” của Tịnh Tông) bèn có thể
thành công, phải biết điều này! [Sử dụng] phương
pháp này chẳng đạt được Lư nhất tâm
trong một đời này. [Chứng nhập] Lư nhất tâm là
thành Phật, minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật.
Chẳng đạt được công phu ấy, không sao cả!
Các bậc đại đức từ xưa đă nói rất
hay: “Đản đắc kiến
Di Đà, hà sầu bất khai ngộ” (Chỉ được
thấy Di Đà, lo ǵ chẳng khai ngộ); cái ngộ ấy
chính là “trực chỉ linh tri”.
Ta thấy A Di Đà Phật sẽ chẳng cần lo, trong
hội của Phật Di Đà, quyết định thành tựu.
Có nghĩa là văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới chẳng có ai không thành Phật, thảy đều
thành tựu. Đây là nói Thiền và Tịnh chẳng khác, y
hệt như nhau!
“Môn đ́nh thi thiết bất đồng, nhi sở
chứng vô lưỡng tâm” (Cách lập bày, thực hiện
trong mỗi môn đ́nh khác nhau, nhưng cái tâm đă chứng
th́ chẳng hai). “Môn đ́nh”
(門庭) là nói tới tông
phái, “thi thiết” (施設) là phương
pháp, cách thức. Tông phái khác nhau, phương pháp và cách thức
dạy học khác nhau, nhưng sở chứng là như
nhau.
(Diễn)
Môn đ́nh thi thiết bất đồng giả, Tịnh
Độ pháp môn, hữu tịnh, hữu uế, hữu Phật,
hữu sanh, thị ước kiến lập môn. Thiền
Tông pháp môn, tắc tịnh uế song phi, sanh Phật bất
lập, thị ước tảo đăng môn.
(演)門庭施設不同者,淨土法門,有淨有穢,有佛有生,是約建立門。禪宗法門,則淨穢雙非,生佛不立,是約掃蕩門。
(Diễn: “Cách lập
bày, thực hiện trong mỗi môn đ́nh khác nhau”: Pháp môn Tịnh
Độ có tịnh, có uế, có Phật, có chúng sanh, thuộc
về môn kiến lập. Pháp môn Thiền Tông th́ tịnh lẫn
uế đều chẳng có, chúng sanh và Phật chẳng lập,
thuộc về môn quét sạch).
Nói về Hữu
môn, Tịnh Độ Tông do Hữu môn mà tiến nhập. Ở
phương Tây xác thực có thế giới Cực Lạc,
trong thế giới Cực Lạc thật sự có A Di
Đà Phật, tín tâm của chúng ta được kiến
lập từ chỗ này. Có Phật, có chúng sanh, chúng sanh niệm
Phật quyết định được sanh về Tịnh
Độ. Kinh Di Đà nói hai điều “có”: “Có thế giới tên là Cực Lạc,
cơi ấy có Phật hiệu là A Di Đà”, “A Di Đà Phật nay hiện đang
thuyết pháp”, hai điều Có, một điều “hiện
tại”, đó là từ Hữu môn mà nhập. Do vậy, Tịnh
Tông là Kiến Lập Môn, chỉ phương lập tướng,
[tức là] “chỉ bày
phương vị, kiến lập h́nh tướng”, từ
Hữu môn để tiến nhập. Thiền Tông hoàn toàn
tương phản: “Thiền
Tông pháp môn, tắc tịnh uế song phi, sanh Phật bất
lập” (Pháp môn Thiền Tông th́ tịnh lẫn uế
đều chẳng có, chúng sanh và Phật chẳng lập),
[trong Thiền Tông] chẳng có Phật, chẳng có chúng sanh,
chẳng uế, mà cũng chẳng tịnh. Do vậy, xác thực
là rất khó, [v́ đ̣i hỏi hành nhân phải có công phu] ngay
lập tức thanh tịnh tâm địa, chẳng nhiễm
mảy trần. Lục Tổ nói “vốn chẳng có một vật”. Chúng ta không
được, trong tâm chẳng biết có bao nhiêu vật,
thứ ǵ cũng đều chẳng bỏ được,
quá ư là nhiều! Do vậy, hai thứ phương pháp và
kỹ thuật dạy học chẳng giống nhau. Trong
tâm chúng ta có quá nhiều thứ lộn tùng phèo, mong học
Thiền sẽ chẳng học được. Thiền
th́ tâm ắt phải thanh sạch, chẳng nhiễm mảy
trần, như vậy th́ mới có thể. Đây là cách thức
lập bày, thực hiện trong mỗi môn đ́nh khác nhau, nhưng
sở chứng như nhau.
(Diễn)
Sở chứng vô lưỡng tâm giả, bỉ nhất thiết
tận tảo giả, đốn trừ vọng tưởng,
trực hiển linh tri. Thử nhất thiết kiến lập
giả, sử thành tam-muội, diệc ngộ linh tri.
(演)所證無兩心者,彼一切盡掃者,頓除妄想,直顯靈知;此一切建立者,使成三昧,亦悟靈知。
(Diễn: “Cái tâm
được chứng đắc chẳng hai”: Pháp môn kia
(Thiền) quét sạch hết thảy, trừ ngay vọng
tưởng, trực tiếp hiển lộ linh tri. Pháp môn
này (Tịnh Độ) kiến lập hết thảy, khiến
cho [hành nhân] thành tựu tam-muội, cũng ngộ linh tri).
Mục
đích của Thiền Tông là hết thảy vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước thảy đều bỏ
sạch, tâm thanh tịnh, khôi phục bản tánh linh tri, họ
sử dụng phương pháp này. Tông của chúng ta th́ sao?
“Thử nhất thiết kiến
lập giả, sử thành tam-muội, diệc ngộ linh
tri” (Pháp môn này kiến lập hết thảy, khiến
cho [hành nhân] thành tựu tam-muội, cũng ngộ linh tri). Họ
là đốn ngộ, chúng ta là tiệm ngộ, chúng ta cũng
thong thả đi theo con đường ấy. Công phu niệm
Phật được chia thành ba tầng cấp:
1) Tầng cấp
thứ nhất là “công phu thành
phiến”. Nói thật ra, trong một đời, ai nấy
đều nhất định đạt được
công phu này. Có thể thực hiện công phu này, quyết
định văng sanh. Do vậy, các vị tổ sư từ
xưa đă nói pháp môn này là “vạn
người tu, vạn người đến” là do đạo
lư này, chẳng có ai không thành tựu!
2) Công phu bậc trung
là Sự nhất tâm bất loạn, là số ít; người
có công phu như vậy chẳng nhiều như loại thứ
nhất.
3) Tầng cấp
cao nhất là Lư nhất tâm bất loạn, ở đây nói
là công phu thượng thượng thừa,
đương nhiên số người [đạt đến
công phu như vậy] càng ít hơn.
Nói thật ra, trong thời đại
hiện tại (thời kỳ Mạt Pháp), chúng ta muốn
đạt tới Sự nhất tâm bất loạn th́ gần
như chẳng thể được. V́ sao? Đoạn Kiến
Tư phiền năo th́ trong hiện thời, người niệm
Phật nào có thể đạt đến công phu như vậy?
Nhưng chư vị phải hiểu: Nếu Thiền mà chẳng
đạt đến đại triệt đại ngộ,
minh tâm kiến tánh, sẽ chẳng thể thoát tam giới, vẫn
phải luân hồi sanh tử trong lục đạo. Đă
luân chuyển trong lục đạo, nhất định sẽ
đọa lạc trong ba ác đạo. V́ thế, Thiền
th́ phải là công phu thượng thừa mới được
coi là thành tựu, chứ trung hạ căn sẽ chẳng
có kết quả ǵ; nhưng đối với Tịnh, công
phu hạ hạ là đă có thể văng sanh. Sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới, được
bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia
tŕ, chúng ta sẽ vĩnh viễn chẳng thoái chuyển.
Không chỉ là chẳng thoái chuyển, kinh đă nói rất
rơ ràng: Hạ hạ phẩm văng sanh chứng trọn vẹn
ba thứ Bất Thoái. Nói cách khác, sanh về thế giới
Tây Phương, đạt được lợi ích giống
như bậc thượng thượng thừa trong Thiền
Tông, thậm chí c̣n thù thắng hơn họ! Điều này
chẳng thể nghĩ bàn! So sánh giữa hai pháp, Thiền
là “nan hành đạo” (đạo
khó hành), niệm Phật là “dị
hành đạo” (đạo dễ hành). So cặn kẽ
giữa hai đằng, Tịnh Tông mau chóng, c̣n nhanh chóng, dễ
dàng, đơn giản, ổn thỏa, thích đáng hơn
Thiền, thứ ǵ cũng đều vượt trỗi Thiền
Tông, chớ nên không biết điều này! Cuối cùng, Ngài
dẫn lời cổ nhân:
(Diễn)
Cố cổ vân: “Tham Thiền bổn vị siêu sanh tử,
niệm Phật diệc nhân thoát tử sanh, đản
hướng nhất biên ai đắc nhập, lưỡng
điều môn lộ bất đa tranh”.
(演)故古云:參禪本為超生死,念佛亦因脫死生,但向一邊挨得入,兩條門路不多爭。
(Diễn: V́ thế cổ
nhân nói: “Tham Thiền vốn để siêu sanh tử, niệm
Phật cũng v́ thoát tử sanh. Bám chắc một bên bèn
ngộ nhập, hai đường tùy ư há đua tranh”).
“Tham Thiền bổn vị siêu sanh
tử” (Tham Thiền vốn là để vượt
thoát sanh tử), người học Thiền nhằm mục
đích vượt thoát luân hồi trong lục đạo,
liễu sanh tử, thoát khỏi tam giới. “Niệm Phật diệc nhân thoát tử sanh” (Niệm
Phật cũng v́ thoát tử sanh), có thể thấy là mục
đích giống hệt như nhau. “Đản hướng nhất biên ai đắc nhập,
lưỡng điều môn lộ bất đa tranh” (Chỉ
hướng theo một bên mà hành sẽ được tiến
nhập, hai con đường [tùy ư chọn lựa một
đường] chẳng phải tranh chấp nhiều), giống
như căn nhà này có hai cửa, ở ngoài cửa chẳng
cần phải tranh chấp, tùy tiện theo cửa nào để
vào cũng đều được, đều đạt
đến mục đích. Cần ǵ học Thiền phải
bài xích Tịnh, học Tịnh phải bài xích Thiền? Chẳng
cần phải tranh chấp! Phải biết là
phương pháp chẳng giống nhau, nhưng mục
đích chẳng khác nhau, hoàn toàn nhất trí!
“Thiện
tai Trung Phong chi ngôn viết” (Lành thay! Ngài Trung Phong đă
nói). Thiền sư Trung Phong là người đời Nguyên,
nghi thức Phật sự Tam Thời Hệ Niệm do Ngài
biên soạn. Tuy Ngài là bậc đại đức trong Thiền
Tông, Tam Thời Hệ Niệm hoàn toàn cầu sanh Tịnh
Độ. V́ thế, khi lâm chung, thiền sư Trung Phong niệm
Phật văng sanh Tịnh Độ. Ngài nói: “Thiền giả, Tịnh Độ chi Thiền; Tịnh
Độ giả, Thiền chi Tịnh Độ” (Thiền
là Thiền của Tịnh Độ; Tịnh Độ là
Tịnh Độ của Thiền); chỉ rơ Thiền và Tịnh
là một, không hai. “Hữu vị
hồ ngôn chi dă” (Lời ấy có ư vị thay), câu này rất
có ư vị. Chỉ xem hai chữ Thiền và Tịnh, quư vị
càng xem, càng thấy thú vị. Thiền là chẳng chấp
tướng. Trong Đàn Kinh, Lục Tổ đại
sư đă giải thích Thiền Định như sau: “Ngoài chẳng chấp tướng
là Thiền”. Nói cách khác, chẳng bị cảnh giới
bên ngoài lay động, chẳng bị ngoại cảnh nhiễu
loạn th́ gọi là Thiền. Tâm chẳng hướng ra
ngoài phan duyên, đó là Định. Tâm chẳng duyên theo bên
ngoài là Định, cảnh giới bên ngoài chẳng thể
nhiễu loạn là Thiền. “Tịnh”
là tâm thanh tịnh. Nếu bị cảnh giới bên ngoài quấy
nhiễu, tâm chẳng thanh tịnh. Cái tâm nếu hướng
ra ngoài phan duyên th́ cũng chẳng thanh tịnh. V́ thế,
quư vị hăy nói xem: Tịnh và Thiền là một hay hai? Xác
thực là một chuyện. Thiền sư Trung Phong nói lời
ấy rất có ư vị. Huống hồ trong kinh Đại
Tập, Thích Ca Mâu Ni Phật đă bảo chúng ta: “Niệm Phật được
gọi là thượng thượng Thiền”, chẳng
phải là Thiền b́nh phàm! Thượng thượng Thiền
là minh tâm kiến tánh Thiền, nhằm phân biệt chẳng
phải là Tứ Thiền Bát Định, chẳng phải
là Cửu Thứ Đệ Định. Những thứ ấy
đều chẳng phải là thượng thượng Thiền,
niệm Phật là thượng thượng Thiền.
(Sao)
Hoặc vị: Trực chỉ chi Thiền, bất lập
văn tự, kim tŕ danh hiệu, nhược vi hội
đồng?
(鈔)或謂:直指之禪,不立文字,今持名號,若為會同?
(Sao: Hoặc nói: “Thiền
Trực Chỉ chẳng lập văn tự, nay làm sao có thể
hiểu tŕ danh hiệu là tương đồng [với
Thiền Trực Chỉ] cho được?)
Giả
sử có người đưa ra câu hỏi như thế,
chỉ rơ Thiền và Tịnh khác nhau. V́ sao? Thiền Tông là chỉ
thẳng tâm người, chẳng lập văn tự. Tịnh
Độ Tông là chấp tŕ danh hiệu, danh hiệu là A Di
Đà Phật, có bốn chữ tồn tại! Một đằng
chẳng lập văn tự, một đằng kiến lập
trên văn tự, làm sao có thể như nhau cho được?
Lời hỏi này cũng rất cao minh, cũng rất có căn
cứ.
(Sao)
Bất tri truyền pháp dĩ tứ cú chi kệ, ấn tâm
dĩ tứ quyển chi kinh, giảo chi tứ tự danh hiệu,
văn cánh phồn hỹ.
(鈔)不知傳法以四句之偈,印心以四卷之經,較之四字名號,文更繁矣。
(Sao: Chẳng biết
truyền pháp bèn dùng bài kệ bốn câu, ấn tâm dùng bộ
kinh bốn quyển, so với danh hiệu [chỉ gồm]
bốn chữ, văn tự càng rườm rà hơn).
Đáp
rất tuyệt!
(Diễn)
Truyền pháp tứ cú giả, Sơ Tổ vân: “Ngô bổn
lai tư thổ, truyền pháp độ mê t́nh, nhất hoa
khai ngũ diệp, kết quả tự nhiên thành”.
(演)傳法四句者,初祖云:吾本來茲土,傳法度迷情,一花開五葉,結果自然成。
(Diễn: “Truyền
pháp bằng bốn câu”, Sơ Tổ nói: “Ta vốn đến
xứ này, truyền pháp độ mê t́nh, một hoa x̣e
năm cánh[2],
kết quả tự nhiên thành”).
Đây
là [bài kệ do] tổ sư Đạt Ma truyền cho Nhị
Tổ Huệ Khả, hai mươi chữ nhiều hơn
bốn chữ A Di Đà Phật quá nhiều!
(Sao)
Cái phi dĩ đoạn diệt văn tự vi bất lập
dă. Bất tức văn tự, bất ly văn tự,
đạt trước khế chi.
(鈔)蓋非以斷滅文字為不立也。不即文字,不離文字,達著契之。
(Sao: Ấy là v́ chẳng
phải coi “đoạn diệt văn tự” là “chẳng lập”.
Chẳng phải là văn tự, chẳng ĺa văn tự,
hễ thông đạt sẽ khế nhập).
Câu
kết luận cuối cùng rất quan trọng. Thiền
Tông tự xưng là “chẳng lập
văn tự, chỉ thẳng tâm người”, [thế
mà] văn tự trong Thiền Tông nhiều hơn bất cứ
tông phái nào khác! Quư vị xem Đại Tạng Kinh sẽ biết
ngay. Ngữ lục của các vị tổ sư Thiền
Tông [quá nhiều], Lục Tổ đại sư c̣n có một
bộ Đàn Kinh, Đàn Kinh có phải là văn tự hay
không? Văn tự trong kinh ấy c̣n dài hơn kinh Di Đà của
chúng ta! Chư vị phải hiểu “chẳng lập
văn tự” là “chẳng chấp trước văn tự”,
chẳng phải là “không cần văn tự”, họ vẫn
cần tới văn tự. Trong Khởi Tín Luận, Mă Minh
Bồ Tát đă dạy chúng ta một nguyên tắc: “Ĺa tướng ngôn thuyết, ĺa
tướng danh tự, ĺa tướng tâm duyên”. Tham Thiền
phải như vậy th́ mới được. Nói thật
ra, học Giáo cũng phải tuân thủ nguyên tắc này.
Tham Thiền mà có thể ĺa tướng bèn có thể khai ngộ,
người học Giáo có thể ĺa tướng sẽ có
thể đại khai viên giải, người niệm Phật
có thể ĺa tướng bèn có thể đắc nhất
tâm bất loạn. Vấn đề là “ĺa rất khó!” Nói rất
dễ dàng, ĺa rất khó khăn! Điều này có nghĩa
là: Chẳng phải là nói “không có văn tự”, chẳng phải
là nói “không có ngôn thuyết”. Ngôn thuyết và văn tự thảy
đều có, quư vị chớ nên chấp trước, chấp
trước là bệnh! Ngôn ngữ và văn tự chẳng
có khuyết điểm, chẳng có lỗi lầm, nhưng
chấp trước là bệnh, phân biệt là bệnh. Phân
biệt là Sở Tri Chướng, chấp trước là Phiền
Năo Chướng. Quư vị chẳng phân biệt, không chấp
trước, quư vị ứng dụng nó, lấy đâu ra
chướng ngại? Trong Hoa Nghiêm Sớ Sao, Thanh
Lương đại sư đă nói: “Lư Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại”. Đó
gọi là Nhất Chân pháp giới, đắc đại tự
tại, hết thảy chướng ngại đều chẳng
có. Chướng ngại sanh từ nơi đâu? Chướng
ngại sanh từ vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước. Nếu quư vị chẳng có vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước, chúc mừng quư vị, quư
vị đă thành Phật. Phật và chúng sanh sai biệt [ở
chỗ] chúng sanh có vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước, Phật chẳng có vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước. Phẩm [Như Lai] Xuất
Hiện trong kinh Hoa Nghiêm đă nói rất rơ ràng: “Hết thảy chúng sanh đều
có trí huệ và đức tướng của Như Lai; chỉ
v́ vọng tưởng, chấp trước, mà chẳng thể
chứng đắc”. Bằng một lời, đức
Phật đă nói toạc gốc bệnh của chúng ta là vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước.
Thiền
Tông nói Tham th́ Tham (參) là như thế
nào? Ĺa tâm ư thức để tham. Thức thứ sáu phân biệt,
thức thứ bảy chấp trước, thức thứ
tám lưu ấn tượng. Ĺa tâm ư thức là quư vị đừng
nên phân biệt, chớ nên chấp trước, đừng
giữ lại ấn tượng. Chẳng giữ lại ấn
tượng là đừng ghi nhớ trong ḷng, chuyện
đă qua bèn quên sạch sành sanh, giống như ǵ? Phật
pháp thường nói: Chúng ta dụng tâm phải giống
như một tấm gương. Gương th́ [vật]
hiện tiền bèn soi rành mạch, [khi vật] dời
đi, chẳng để lại dấu vết ǵ! Chúng ta dụng
tâm phải giống như gương. Gương soi các vật
chẳng có phân biệt, chẳng có chấp trước,
không lưu lại ấn tượng. Phàm phu chúng ta dụng
tâm giống như cuốn phim trong máy chụp ảnh: Có
phân biệt, có chấp trước, giữ lại ấn
tượng. Từ vô thỉ kiếp tới nay, trong tâm một
mực hồ đồ, lưu giữ những thứ ô
nhiễm quá nhiều. Tâm Phật như một tấm
gương. Do vậy, kinh điển có ư nghĩa như một
tấm gương, chúng ta mỗi ngày sáng tối đều
phải soi gương để rửa sạch mặt
mũi. V́ sao mở kinh điển ra giống như [đối
trước] một tấm gương? Những thứ bẩn
thỉu trong tâm cũng phải tẩy gột sạch làu, hễ
ĺa tâm ư thức bèn gột sạch. Thiền Tông dùng
phương pháp “tham thoại đầu” hoặc “quán tâm”
để rửa ḷng đổi hạnh. Tông phái của
chúng ta dùng bốn chữ danh hiệu, hoặc sáu chữ hồng
danh, dùng phương pháp ấy để rửa ḷng đổi
hạnh, kinh Vô Lượng Thọ dạy như vậy. Học
Phật th́ phải hành thật sự, thật sự hành mới
là học. Hằng ngày tụng kinh, niệm Phật mà chẳng
làm, đó chẳng gọi là “học Phật”, mà là Phật
học. Phật học chẳng phải là học Phật,
Phật học vô dụng! Đối với chuyện liễu
sanh tử, xuất tam giới của chính ḿnh chẳng có liên
quan ǵ! Cầu văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới cũng chẳng thể! Nhất định phải
học Phật, Phật là tâm ǵ, ta phải học, học giống
như Ngài. Phật đăi người tiếp vật
như thế nào, ta cũng phải học giống hệt
như Ngài th́ mới được! Phật tâm và Phật
hạnh đều ở trong kinh điển. Do đó, liễu
giải ư nghĩa của kinh điển, chiếu theo lời
dạy trong kinh điển để hành th́ gọi là học
Phật, đó mới là hữu dụng.
Chẳng
phải đoạn diệt văn tự là “bất lập”. “Bất lập văn tự” chẳng
phải là không cần văn tự, chẳng phải là vứt
bỏ văn tự, mà là “bất
tức văn tự, bất ly văn tự”, [nghĩa là]
đối với ngôn ngữ và văn tự, bèn chẳng
chấp trước, mà cũng chẳng xa ĺa. Chẳng ĺa
[nghĩa là] ta phải dùng nó, ta phải sử dụng
văn tự, phải dùng ngôn ngữ. “Bất tức” là ǵ? Quyết định chẳng
chấp trước, biết nó chỉ là công cụ mà thôi.
Nó là công cụ, sau khi dùng xong bèn bỏ đi; kinh Kim Cang dạy:
“Pháp thượng ưng xả,
hà huống phi pháp” (Pháp c̣n nên bỏ, huống hồ phi
pháp); có thể dùng, dùng xong bèn bỏ, chớ nên chấp
trước, như vậy sẽ là hoàn toàn chánh xác.
(Sớ)
Hựu thử nhất tâm, đương tri Tâm Vương,
Tâm Sở, vô bất nhất cố.
(疏)又此一心,當知心王心所,無不一故。
(Sớ: Lại nữa,
đối với nhất tâm, hăy nên biết Tâm Vương
và Tâm Sở, không ǵ chẳng là một).
Trong
phần trước, [nói] “Tịnh
là Thiền, Thiền là Tịnh”, tức là hội thông với
Tông Môn. Đoạn này nhằm để hội thông cùng
Giáo Hạ. Do vậy, có thể biết: Tịnh Tông xác thực
là thông Tông, thông Giáo. [Hành nhân trong] Thiền Tông đă hiểu
rơ đạo lư này, bèn chuyên tâm niệm A Di Đà Phật,
thành tựu mục đích của Thiền Tông. Giáo Hạ hiểu
rơ đạo lư này, nhất tâm niệm A Di Đà Phật,
đạt tới mục đích thông Giáo. Pháp môn này đúng
là tuyệt diệu!
(Sao)
Vương Sở giải kiến tiền văn, thử
chi bát giả, cập ngũ thập nhất.
(鈔)王所解見前文,此之八者,及五十一。
(Sao: Xem lời giải
thích Tâm Vương và Tâm Sở trong phần trước, những
điều này bao gồm tám Tâm Vương và năm
mươi mốt Tâm Sở).
Tâm
Vương và Tâm Sở đă nói trong phần trước. “Vương” (王) có nghĩa là tự
tại. “Sở” (所) là chẳng tự
tại. Giống như một quốc gia, quốc
vương [xưa kia] và Tổng Thống trong hiện thời
khác nhau. Tổng Thống hiện thời bị Quốc Hội
kiềm chế, chẳng được tự tại, muốn
làm chuyện ǵ mà Quốc Hội không thông qua, sẽ chẳng
có cách nào! Xưa kia, làm hoàng đế rất tự tại,
người nào cũng phải nghe lệnh nhà vua. Một
ḿnh nhà vua điều khiển, ra lệnh, nhân dân cả
nước phải nghe theo sự chỉ huy của nhà vua,
chẳng thể phản kháng. Do đó, “Vương” biểu thị sự tự tại.
“Sở” chẳng tự tại,
là thần dân, phải vâng theo sự sai khiến và mạng
lệnh của Vương. Ở đây, đức Phật
sánh ví cái tâm như vua, sánh ví những tác dụng sanh khởi
bởi cái tâm giống như thần dân. Do vậy, bèn có Tâm
Vương và Tâm Sở. Tâm Vương có tám món; nói thật
ra, tám món ấy thật ra là một. Tâm chỉ có một, lấy
đâu ra tám cái tâm? Thật ra, tám cái tâm ấy đều do
A Lại Da khởi tác dụng. A Lại Da đúng là vị
vua bậc nhất, giống như quốc vương; bảy
món kia giống như đại thần dưới quyền
nhà vua, giống như viện trưởng các viện, hoặc
bộ trưởng các bộ, cũng khá tự tại. Tâm
Sở chẳng tự tại, Tâm Sở phụ thuộc Tâm
Vương, chẳng giống như Tâm Vương có thể
đơn độc nắm quyền một phương. Tám
Tâm Vương là tám thức, [bao gồm] A Lại Da Thức,
thức thứ bảy là Mạt Na, thức thứ sáu tức
Ư Thức, cộng thêm năm thức trước: Mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân. Do vậy, có tất cả tám
thức. Tâm Sở tương ứng với tám thức cũng
là nhiều hay ít khác nhau, như tương ứng với A
Lại Da Thức chỉ có năm Biến Hành Tâm Sở[3],
chỉ có năm điều, ít nhất. Tâm Sở tương
ứng với thức thứ sáu, tức Ư Thức, có tất
cả năm mươi mốt món, nhiều nhất. V́ thế,
nó rất có thể dấy lên vọng tưởng. Tất
cả phiền năo và vọng tưởng đều phát xuất
từ nó. Điều khẩn yếu thuộc trong phần
sau:
(Sao)
Phân nhiên bất tề, tạp nhiên cạnh khởi, nhi ngôn
vô bất nhất giả.
(鈔)紛然不齊,雜然競起,而言無不一者。
(Sao:
Rối ren chẳng đồng nhất, chen nhau dấy lên tạp
loạn, mà nói là “không món nào chẳng là một”).
Liên
Tŕ đại sư nói: Lư nhất tâm bất loạn chính là
Tâm Vương và Tâm Sở, không món nào chẳng là một.
Nói theo cách nào vậy? Trong Tướng Tông, t́nh huống xác
thực là [các pháp, các danh tướng] rối ren, chẳng
đồng nhất, tạp loạn tranh nhau dấy lên.
(Diễn)
Phân nhiên bất tề giả, ước thiện, ác, vô kư
tam tánh thuyết. Dĩ tam tánh tự thể huưnh dị cố.
(演)紛然不齊者,約善惡無記三性說,以三性自體迥異故。
(Diễn:
“Rối ren chẳng đồng nhất” là nói theo ba tánh thiện,
ác, vô kư (chẳng thiện, chẳng ác), bởi tự thể
của ba tánh khác biệt vời vợi).
Đó
là chẳng đồng nhất. Năm mươi mốt Tâm
Sở, gồm mười một Thiện Tâm Sở, hai
mươi sáu ác Tâm Sở (sáu Căn Bản Phiền Năo và
hai mươi Tùy Phiền Năo), những thứ khác thuộc
loại Vô Kư. Vô Kư (無記, Avyākṛta) có nghĩa là chẳng
thiện, chẳng ác, nhưng nó có tác dụng, có sự việc.
Tánh chất của chúng (Tâm Vương và Tâm Sở) hoàn toàn
chẳng tương đồng. Đó là chẳng đồng
nhất, rối ren chẳng đồng nhất!
(Diễn)
Tạp nhiên cạnh khởi giả, ước bát thức
duyên cảnh bất đồng thuyết, dĩ nhăn thức
duyên sắc, nhĩ thức duyên thanh, Lại Da duyên căn,
thân, khí giới.
(演)雜然競起者,約八識緣境不同說,以眼識緣色,耳識緣聲,賴耶緣根身器界。
(Diễn:
“Chen nhau dấy lên tạp loạn”: Ước theo tám thức
duyên theo từng cảnh sai khác mà nói; bởi lẽ, nhăn thức
duyên sắc, nhĩ thức duyên theo tiếng, A Lại Da
duyên theo căn, thân, khí thế gian thế giới).
Đối
với mỗi Tâm và Tâm Sở trong tám thức và năm
mươi mốt Tâm Sở, cảnh giới sở duyên của
mỗi thứ đều khác nhau. Đó là “tạp nhiên cạnh khởi”. V́ sao có thể nói
chúng là một? Câu hỏi này rất hay! Dưới đây
là phần giải thích:
(Sao)
Lương diêu vương sở tuy đa, tố lưu
cùng nguyên, bất xuất nhất tâm.
(鈔)良繇王所雖多,溯流窮源,不出一心。
(Sao: Ấy là v́ Tâm
Vương và Tâm Sở tuy nhiều, truy ngược tới
tận cùng nguồn cội, chúng đều chẳng ra ngoài
nhất tâm).
Nếu
truy cứu cội nguồn của Tâm Vương và Tâm Sở,
[sẽ thấy] Tâm Sở chẳng ĺa Tâm Vương. Tâm
Vương do đâu mà có? Từ nhất tâm mà có. Truy t́m đến
cội nguồn cuối cùng th́ chúng sẽ là nhất tâm,
đều do nhất tâm khởi tác dụng, chẳng phải
là ǵ khác.
(Diễn)
Thỉ tùng thanh tịnh tâm trung, vô minh vọng động,
chuyển thành Lại Da. Thứ tùng Lại Da, chuyển xuất
tiền thất. Tâm Vương kư khởi, Tâm Sở tùy
hành, thứ đệ dẫn sanh ngũ thập nhất chủng,
như tùng nguyên xuất lưu dă.
(演)始從清淨心中,無明妄動,轉成賴耶。次從賴耶,轉出前七。心王既起,心所隨行,次第引生五十一種,如從源出流也。
(Diễn: Khởi
đầu từ trong tâm thanh tịnh, vô minh vọng động,
chuyển thành A Lại Da. Kế đó, từ A Lại Da
chuyển thành bảy thức trước. Tâm Vương
đă dấy lên, Tâm Sở liền xuất hiện theo, lần
lượt theo nhau sanh khởi, tạo thành năm
mươi mốt loại, như từ một nguồn mà
chia ra các ḍng vậy).
“Thỉ tùng thanh tịnh tâm trung”
(Khởi đầu từ trong tâm thanh tịnh), diễn tả
Tâm Vương và Tâm Sở phát xuất như thế nào. Tâm
thanh tịnh là Chân Như bản tánh, là chân tâm bản tánh của
chính ḿnh. “Vô minh vọng động,
chuyển thành Lại Da” (Vô minh vọng động, chuyển
thành A Lại Da). Kinh luận Tướng Tông nói: “Vô minh bất giác sanh tam tế”
(Vô minh bất giác sanh ra ba tế tướng), “tam tế” (三細) là ba tế
tướng[4] của A Lại Da. “Cảnh giới vi duyên trưởng
lục thô” (Cảnh giới làm duyên tăng trưởng
sáu thô tướng). Nếu nói theo cách hiện thời, hết
thảy vạn vật trong vũ trụ sanh thành như thế
nào? Truy cứu cội nguồn của nó, vũ trụ do
đâu mà có? Vạn vật do đâu mà có? Các nhà khoa học thăm
ḍ, nghiên cứu, chẳng t́m thấy cội nguồn! Họ
nêu ra thuyết Tiến Hóa Luận, theo thuyết ấy, do sự
tiến hóa diễn biến dần dần trong đại
vũ trụ mà sanh ra các hiện tượng, nhưng lư luận
ấy chẳng được đại đa số mọi
người chấp nhận. Nếu nói nhân loại do khỉ
vượn tiến hóa thành, v́ sao khỉ vượn trên cơi
đời này chẳng tiến hóa thành người? V́ sao một
nửa loài khỉ tiến hóa thành người, một nửa
vẫn giữ nguyên diện mạo sẵn có? Nói kiểu
nào cũng nói chẳng suông! Đối với chân tướng
của vũ trụ và nhân sinh, dựa vào khoa học kỹ
thuật, rất khó t́m ra cội nguồn. Những điều
cành nhánh có thể t́m được, chứ chẳng thể
t́m ra căn bản, căn bản quá sâu. Những điều
nông cạn, rơ rệt th́ khoa học có thể ấn chứng,
chứng thực; chứ những điều tột cùng
sâu thẳm, khoa học kỹ thuật chẳng đạt
được. Nói theo phương pháp luận khoa học,
sẽ hết sức rơ rệt là những cái được
thế gian gọi là Lư Tắc Học (Luận Lư Học), La
Tập (Logic), Biện Chứng Pháp (Dialectical Logic), trong Phật pháp gọi là Nhân Minh
(Hetuvidyā), những thứ
ấy đều có thể coi như các phương pháp
khoa học. Dùng những phương
pháp ấy để thăm ḍ vũ trụ và nhân sinh, xác thực
là đă đem lại rất nhiều thuận tiện
cho chúng ta. Khá nhiều phát minh đều nhờ những phương
pháp ấy mà t́m ra, nhưng nếu để thăm ḍ tâm
tánh th́ những thứ ấy hoàn toàn chẳng có tác dụng!
Trong Phật pháp, đối với Phật pháp bậc trung
và bậc thấp, có thể sử dụng Nhân Minh, nhưng
đối với Phật pháp cao cấp sẽ chẳng
dùng được, những thứ ấy chẳng có một
tí tác dụng nào! Nhân Minh vô dụng đối với Thiền,
mà đối với Tịnh cũng vô dụng. Áp dụng
vào Giáo bậc cao cũng chẳng được, nhưng [đối
với Giáo Hạ] sơ cấp và trung cấp th́ có thể
sử dụng. Kinh Lăng Nghiêm đối với chuyện
này đă nêu tỏ hết sức thấu triệt. Trong cái
tâm thanh tịnh, vô minh vọng động, “vô minh bất giác sanh tam tế” (vô minh bất giác,
bèn sanh ra ba tế tướng), biến chân tâm bản tánh thành
A Lại Da. “Thứ tùng Lại
Da, chuyển xuất tiền thất”, [có nghĩa là] từ
A Lại Da, lại chuyển thành bảy thức trước
(nhăn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ư và Mạt Na). [Bảy thức
ấy] cùng với A Lại Da được gọi là tám Tâm
Vương, Tâm Vương bèn tồn tại. Tâm
Vương khởi tác dụng, được gọi là
Tâm Sở (những thuộc tánh của cái tâm). “Tâm Sở tùy hành, thứ đệ
dẫn sanh ngũ thập nhất chủng” (Tâm Sở liền
xuất hiện theo, lần lượt theo nhau sanh khởi
tạo thành năm mươi mốt loại), “ngũ thập nhất chủng”
là chủng loại. Tác dụng của tâm được
quy nạp thành năm mươi mốt loại lớn, nếu
chia nhỏ sẽ rất rắc rối. Di Lặc Bồ
Tát soạn Du Già Sư Địa Luận đă quy nạp hết
thảy các pháp thành sáu trăm sáu mươi pháp. Sáu trăm
sáu mươi pháp đối với kẻ sơ học
như chúng ta cũng rất khó khăn, quá nhiều! Thiên Thân
Bồ Tát lại quy nạp sáu trăm sáu mươi pháp ấy,
quy thành một trăm pháp. Nói cách khác, Bách Pháp Minh Môn là đại
cương của Du Già Sư Địa Luận. Do đó,
bất cứ pháp nào, hễ khai triển cũng đều
là vô lượng vô biên, đúng là hết sức phức tạp,
chẳng phải là đơn giản như kinh giáo đă
nói. [Kinh giáo] đơn giản là v́ đă quy nạp lần
nữa những điều đă được quy nạp,
[khiến cho chúng trở thành] có lớp lang hợp lư, khiến
cho chúng ta có chỗ để nhập môn.
(Diễn)
Kim tố lưu cập nguyên giả.
(演)今溯流及源者。
(Diễn: Nay truy
ngược tận nguồn cội).
Chúng
ta thuận theo ḍng, giống như dơi theo ḍng nước,
t́m ra cội nguồn của nó.
(Diễn)
Tắc Tâm Sở bất ly Tâm Vương, Tâm Vương bất
khởi, Tâm Sở bất sanh cố. Tâm Vương bất
ly diệu tâm, diệu tâm bất động, Tâm Vương
bất hiện cố.
(演)則心所不離心王,心王不起,心所不生故。心王不離妙心,妙心不動,心王不現故。
(Diễn: Tâm Sở chẳng
ĺa Tâm Vương, Tâm Vương chẳng khởi th́ Tâm Sở
chẳng sanh. Tâm Vương chẳng ĺa diệu tâm, do diệu
tâm bất động nên Tâm Vương chẳng hiện).
“Diệu tâm” là chân tâm, là linh
tri.
Làm
như thế nào th́ mới có thể thật sự hiểu
rơ? Chẳng dùng tâm ư thức bèn hiểu rơ. Chẳng dùng tâm ư
thức, sẽ chiếu kiến! Tâm thủy b́nh lặng,
b́nh lặng là chiếu kiến, hễ tiếp xúc bèn hiểu
rơ. Hễ nghiên cứu bèn cuộn sóng. Đă cuộn sóng, há
có thể nào chiếu kiến? Người hiểu đạo
lư này chẳng nhiều, đặc biệt là người
hiện thời. Cổ nhân đă hiểu; v́ thế, đối
với cổ nhân, không chỉ là Thiền Tông, mà Giáo Hạ
cũng chẳng phải là ngoại lệ, đều là tiến
nhập từ Định. “Nhân
Giới sanh Định, nhân Định khai Huệ”, trí
huệ đă khai rồi mới đọc kinh. Tông Môn phải
là sau khi đă đại triệt đại ngộ, minh
tâm kiến tánh rồi mới đọc kinh. Họ đọc
kinh nhằm ấn chứng. Giáo Hạ chẳng cần công
phu định lực cao như thế, nhưng phải có
công phu định lực nho nhỏ th́ mới có thể nghe
kinh. Chẳng có chút công phu định lực nào, chẳng
được phép nghe kinh! Trong Sa Di Luật Nghi có nói:
Đă xuất gia th́ phải học giới năm năm.
Trong năm năm ấy, chẳng được phép nghe
kinh. Chùa miếu xưa kia là trường học, có Thiền
đường, có giảng đường, có Niệm Phật
Đường. [Trong năm năm ấy], quư vị chẳng
có tư cách niệm Phật, chẳng có tư cách tham Thiền,
mà cũng chẳng có tư cách nghe kinh, làm chuyện ǵ? Phục
vụ thường trụ, chăm sóc đại chúng, sau năm
năm mới có tư cách đến tọa Thiền trong Thiền
đường, vào giảng đường nghe kinh; do năm
năm [học giới], cái tâm đă định. Năm
năm ấy là giáo dục sơ bộ, giống như kiểu
giáo dục học tṛ mới trong nhà trường hiện
thời, hoặc cách giáo dục dành cho binh lính mới nhập
ngũ trong quân đội. Giáo dục nhập ngũ trong Phật
môn là năm năm, dài hơn giáo dục thế gian. Năm
năm ấy nhằm huấn luyện định tâm, thâu hồi
cái tâm. Tâm đă định, sẽ khai trí huệ. Có trí huệ,
nghe giảng kinh, quư vị sẽ có ngộ xứ, có thể
lănh ngộ. Tâm chẳng định, chẳng có lănh ngộ.
Có lănh ngộ bèn có thọ dụng. Nói cách khác, không chỉ là
có thể cải thiện cuộc sống, mà chúng ta xử
sự đăi người tiếp vật càng viên dung, càng mỹ
măn! Lại c̣n có một chuyện mà mọi người chẳng
thể ngờ: [Tâm định] có thể điều ḥa, chỉnh
đốn thân tâm của chúng ta, người hiện thời
nói là “biến đổi thể
chất”, thật đấy! Dẫu thân thể bị
ung thư, bướu độc, chẳng cần phải
dùng đến thuốc men, tự nhiên điều chỉnh,
người ấy được lành bệnh.
Pháp
môn Tịnh Tông là trực tiếp tu nhất tâm bất loạn,
Thiền là tu trực tiếp, Tịnh cũng là tu trực
tiếp; nhưng Thiền th́ trong tâm của chính ḿnh phải
có công phu thanh tịnh kha khá, dùng Thiền để tăng
cao hơn một cấp, đạt đến đỉnh
điểm. Chẳng đạt tiêu chuẩn ấy, sẽ
không thể tăng cao được! Trong pháp môn Tịnh
Tông, quư vị nhiễm ô đến tột cùng vẫn chẳng
sợ, pháp này vẫn từng bước đưa quư vị
tiến cao hơn. Tịnh thuận tiện, dễ thành tựu
hơn Thiền là ở chỗ này. [Các pháp môn thuộc] Giáo chẳng
ra ngoài Pháp Tướng Duy Thức. Duy Thức Pháp Tướng
bao gồm tất cả [các pháp môn thuộc về] Giáo Hạ,
truy đến căn cội vẫn là nhất tâm. Ngàn kinh vạn
luận, vô lượng pháp môn do đâu mà có? Lưu xuất
từ nhất tâm. V́ vậy, quư vị đắc nhất
tâm, tất cả hết thảy các pháp môn đều thông
đạt. Đă t́m được nguồn cội, nắm
được cương lănh, lẽ nào chẳng thành tựu?
Người hiện thời cứ ngỡ chính ḿnh thông
minh, chẳng tiếp nhận, chẳng tin tưởng lời
cổ thánh tiên hiền, cứ muốn dùng phương pháp
khoa học hiện đại để học Phật. Kết
quả nói dễ nghe một chút chính là đă biến Phật
pháp thành khoa học hiện đại, rốt cuộc vẫn
phải luân hồi trong lục đạo, chuyện là
như thế đó. Đối với lợi ích chân thật
của Phật pháp, chẳng nói đến lợi ích liễu
sanh tử, [ngay cả những] lợi ích nhỏ nhoi
trước mắt như thân tâm khỏe mạnh, cuộc
sống hạnh phúc, sung sướng, họ đều chẳng
đạt được! Phật môn thường nói “phá mê khai ngộ, ĺa khổ
được vui”. Họ chẳng ĺa được khổ,
chẳng đạt được vui, chẳng phá mê, mà cũng
chẳng thể khai ngộ! Nguyên nhân là do họ tu học
chẳng đúng pháp. Chẳng biết cổ nhân đă dùng phương
pháp này hai, ba ngàn năm; nếu phương pháp này chẳng
tốt đẹp, quư vị nói xem: Làm sao nó có thể
được sử dụng lâu như thế? Trong ba ngàn
năm, bao nhiêu người dùng phương pháp này mà khai ngộ,
dùng phương pháp này đạt được thành tựu,
phương pháp này có giá trị lắm! Chớ nên chê
phương pháp này quá cũ, quá xưa, chẳng cần nữa,
đổi sang cách mới. Đổi sang cách mới, vô dụng!
Chẳng đạt được mục đích! V́ thế,
phải suy nghĩ cẩn thận, phương pháp này của
Phật, Bồ Tát vượt trỗi thời gian và không
gian, chẳng bị đào thải bởi không gian và thời
gian, chẳng thể nào! Đấy là “chân lư vĩnh viễn bất biến” như
người thế gian chúng ta thường nói. Quư vị hành
theo phương pháp này, quyết định đạt
được lợi ích. Trái nghịch phương pháp này
mà mong thành tựu, sẽ hết sức khó khăn!
(Sao) Kim niệm Phật
nhân, sơ dĩ Nhĩ Thức văn bỉ Phật danh, thứ
dĩ Ư Thức chuyên chú ức niệm. Dĩ chuyên niệm
cố, tổng nhiếp lục căn, nhăn, tỷ, thiệt,
thân, như thị lục thức, giai tất bất hành. Niệm
chi bất dĩ, niệm cực nhi vong. Sở vị “hằng
thẩm tư lượng” giả, kỳ tư tịch
yên, vong chi bất dĩ, vong cực nhi hóa. Sở vị
“chân vọng ḥa hợp” giả, kỳ vọng tiêu yên, tắc
thất thức, bát thức diệc tất bất hành. Chủ
kư bất tồn, tùng giả yên phụ? Kỳ ngũ thập
nhất hựu hà luận dă! Đương nhĩ chi thời,
cự lăng, vi ba, hàm thành chỉ thủy, nùng vân, bạc vụ,
tận tác trừng không, duy thị nhất tâm, cánh vô dư
pháp, cố vân “vô bất nhất” dă!
(鈔)今念佛人,初以耳識聞彼佛名,次以意識專注憶念。以專念故,總攝六根,眼鼻舌身,如是六識,皆悉不行,念之不已,念極而忘。所謂恆審思量者,其思寂焉,忘之不已,忘極而化。所謂真妄和合者,其妄消焉,則七識八識亦悉不行,主既不存,從者焉附,其五十一又何論也。當爾之時,巨浪微波,咸成止水,濃雲薄霧,盡作澄空,唯是一心,更無餘法,故云無不一也。
(Sao: Nay người
niệm Phật, thoạt đầu dùng Nhĩ Thức
để nghe danh hiệu của đức Phật ấy;
kế đó, dùng Ư Thức để chuyên chú ức niệm.
Do chuyên niệm bèn nhiếp trọn sáu căn, mắt, [tai],
mũi, lưỡi, thân, [ư]; sáu thức như thế, thảy
đều chẳng hiện hành. Cứ niệm không ngừng,
niệm đến tột bậc, [các t́nh thức] mất
đi. Cái gọi là suy tưởng “luôn cân nhắc, suy
lường” sẽ vắng lặng. Chẳng ngừng quên
mất [sự suy lường ấy], quên đến tột
cùng, nó sẽ bị biến đổi. Nói là “chân và vọng
ḥa hợp” nghĩa là vọng đă tiêu th́ thức thứ bảy
và thức thứ tám cũng đều chẳng hiện
hành. Cái chủ yếu đă chẳng c̣n, những thứ phụ
thuộc nương tựa vào đâu? Há c̣n luận định
năm mươi mốt thứ [Tâm Sở] chi nữa? Ngay
trong lúc ấy, sóng to lẫn sóng nhẹ đều thành
nước lặng. Mây dầy, sương mỏng, đều
thành bầu trời quang đăng, chỉ là nhất tâm, chẳng
c̣n có các pháp nào khác. V́ thế nói: “Không ǵ chẳng là một”).
Liên
Tŕ đại sư giải thích vấn đề này, chẳng
dùng quá nhiều lời lẽ, xác thực là đơn giản,
trọng yếu, tường tận, rơ ràng! Ngài nói rất
rơ ràng, minh bạch. Ngài kết luận, một câu Phật
hiệu bao gồm Tông Môn lẫn Giáo Hạ, hoàn toàn giống
như lời khai thị về Niệm Phật sau này của
ngài Ngẫu Ích. Ngài Ngẫu Ích là tư thục đệ tử
của Liên Tŕ đại sư, Ngài học theo Liên Tŕ đại
sư, đương nhiên Di Đà Kinh Sớ Sao là một bộ
sách giáo khoa quan trọng nhất của Ngài, nhất định
là Ngẫu Ích đại sư rất thông thuộc đoạn
này. Do vậy, lời khai thị về Niệm Phật của
Ngài có thể nói là tŕnh bày đoạn này theo cách thức gần
gũi, dễ hiểu. Đối với những người
thông đạt giáo nghĩa, đọc đoạn này sẽ
chẳng có vấn đề ǵ, vừa xem liền hiểu
rơ! Nếu đối với những ai ít đọc kinh luận
Đại Thừa hơn, xem đoạn này vẫn gặp
khó khăn. Tuy pháp sư Cổ Đức có chú giải, ắt
vẫn cần phải giải thích cặn kẽ thêm, chúng
ta mới thật sự hiểu rơ Phật hiệu có công
đức chẳng thể nghĩ bàn; sau đấy, chúng
ta mới chịu khăng khăng một mực thật
thà niệm Phật. Biết ta niệm một câu Phật hiệu
này tốt đẹp, Tông Môn lẫn Giáo Hạ ta đều
thành tựu, đây là phương pháp tu học rất thù
thắng. Các vị tham Thiền suốt một đời
chưa chắc đă khai ngộ, quư vị nghiên cứu Giáo
suốt một đời cũng chưa chắc là có thể
đại khai viên giải, ta do niệm một câu Phật
hiệu bèn thành công. Không chỉ là đại khai viên giải,
mà c̣n là đại triệt đại ngộ, mầu nhiệm
ở chỗ này! Hôm nay đă hết thời gian rồi!
Tập
242
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn
Nghĩa Hội Bản, trang bốn trăm sáu mươi
tám.
(Sao)
Kim niệm Phật nhân, sơ dĩ Nhĩ Thức văn bỉ
Phật danh, thứ dĩ Ư Thức chuyên chú ức niệm.
Dĩ chuyên niệm cố, tổng nhiếp lục căn,
nhăn, tỷ, thiệt, thân, như thị lục thức,
giai tất bất hành.
(鈔)今念佛人,初以耳識聞彼佛名,次以意識專注憶念,以專念故,總攝六根,眼鼻舌身,如是六識,皆悉不行。
(Sao: Nay người
niệm Phật, thoạt đầu dùng Nhĩ Thức
để nghe danh hiệu của đức Phật ấy;
kế đó, dùng Ư Thức để chuyên chú ức niệm.
Do chuyên niệm, bèn nhiếp trọn sáu căn, mắt, [tai],
mũi, lưỡi, thân, [ư], sáu thức như thế, thảy
đều chẳng hiện hành).
Liên
Tŕ đại sư bảo chúng ta: Hiệu quả của “tín,
nguyện, nhất tâm tŕ danh” xác thực là có thể dung nhiếp
hết thảy các pháp môn do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói
trong suốt bốn mươi chín năm. Trong phần trên
đă nói về Thiền Tông, tức Tông Môn; sau khi đă
đọc lời dạy của Liên Tŕ đại sư, ta
biết nhất tâm xưng danh xác thực là tinh hoa của Thiền
Tông. Hôm nay, đoạn khai thị này nhằm nói Giáo Hạ
cũng chẳng ĺa khỏi phương pháp tŕ danh này. Niệm
Phật là dùng Nhĩ Thức để nghe danh hiệu.
Trong phương pháp niệm Phật, các vị cổ đại
đức thường nhắc nhở chúng ta: Trước
hết, phải buông xuống vạn duyên, cũng tức là
hết thảy vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước thảy đều buông xuống. Phật hiệu
phải sanh khởi từ trong tâm, từ miệng niệm
ra, sau đấy mới nghe lọt vào tai, dùng phương
pháp này. Phương pháp này có thể nhiếp tâm, ở
đây đang nói đến phương pháp này. “Nhĩ Thức văn bỉ Phật
danh” (Nhĩ Thức nghe danh hiệu của đức Phật
ấy), chính chúng ta tự niệm rồi tự ḿnh nghe. Sau
đấy, “dĩ Ư Thức
chuyên chú ức niệm” (dùng Ư Thức chuyên chú nghĩ nhớ),
“ức niệm” (憶念) là trong tâm nghĩ
đến Phật, nghe danh hiệu Phật, trong tâm chuyên tưởng,
ư thức chuyên chú ức niệm. Do quư vị chuyên chú, “tổng nhiếp lục căn”
(nhiếp trọn sáu căn), tức là như Đại Thế
Chí Bồ Tát đă dạy trong kinh Lăng Nghiêm “nhiếp trọn sáu căn, tịnh
niệm tiếp nối”. Nhiếp lục căn theo cách
nào? Ở đây, Tổ dạy chúng ta: Chỉ cần quư vị
chuyên niệm, tức là chuyên chú ức niệm, lục
căn tự nhiên được thâu nhiếp. “Nhăn, tỷ, thiệt, thân, như
thị lục thức, giai tất bất hành” (Mắt, [tai],
mũi, lưỡi, thân, [ư], sáu thức như thế, thảy
đều chẳng hiện hành), chúng chẳng thể khởi
tác dụng riêng biệt. Chuyên môn nghĩ tưởng Phật,
sáu thức sẽ chẳng đến nỗi suy nghĩ loạn
xạ!
(Sao)
Niệm chi bất dĩ, niệm cực nhi vong.
(鈔)念之不已,念極而忘。
(Sao:
Cứ niệm không ngừng,
niệm đến tột bậc, các t́nh thức mất
đi).
“Niệm cực” (念極) là nói tới công phu. Công phu sâu,
thường gọi là “niệm
mà vô niệm, vô niệm mà niệm”, tức là nói Năng
lẫn Sở cùng mất, quên sạch chính ḿnh là chủ thể
đang niệm lẫn Phật hiệu được niệm.
“Vong” (忘) ở đây là tỷ dụ,
có nghĩa là chẳng chấp trước, chẳng phải
là thật sự quên bẵng! Thật sự quên khuấy th́
chính là “vô kư tánh” (tánh chẳng
thiện, chẳng ác), chẳng được rồi, vẫn
thuộc loại phiền năo! “Vong”
ở đây nhằm tỷ dụ chẳng chấp tướng,
Thiền Tông nói “ĺa hết thảy
tướng” chính là ư nghĩa này. Kinh Kim Cang dạy: “Vô ngă tướng, vô nhân tướng,
vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng”, có ư nghĩa chẳng chấp tướng.
“Vong” ở đây mang ư
nghĩa “chẳng chấp
tướng”. Năng niệm lẫn sở niệm đều
chẳng chấp trước. Hễ chẳng chấp
trước, Năng và Sở dung ḥa thành một khối. Do
có chấp trước, Năng và Sở mới đối
lập; tới khi chẳng chấp trước, Năng và
Sở hợp thành một. Khi hợp nhất bèn gọi là nhất
tâm; hễ có Năng và có Sở bèn là nhị tâm. Từ chỗ
này, đối với nhất tâm bất loạn, chúng ta
lănh hội chẳng khó. Nó cũng là bước đầu
của công phu thành phiến. Khi công phu sâu, bèn đạt tới
cảnh giới này.
(Sao)
Sở vị hằng thẩm tư lượng giả, kỳ
tư tịch yên. Vong chi bất dĩ, vong cực nhi hóa. Sở
vị “chân vọng ḥa hợp” giả, kỳ vọng tiêu
yên, tắc thất thức, bát thức diệc tất bất
hành.
(鈔)所謂恆審思量者,其思寂焉,忘之不已,忘極而化。所謂真妄和合者,其妄消焉,則七識八識亦悉不行。
(Sao: Cái được
gọi là suy tưởng “luôn cân nhắc, suy lường” sẽ
vắng lặng. Chẳng ngừng quên mất [sự suy
lường ấy], quên rốt ráo, nó sẽ bị biến
đổi. Nói là “chân và vọng ḥa hợp” nghĩa là vọng
đă tiêu th́ thức thứ bảy và
thức thứ tám cũng đều chẳng hiện
hành.).
Cảnh
giới này thuộc về cảnh giới Lư nhất tâm. Do
vậy có thể biết, công phu niệm Phật xác thực
là có tầng cấp, không ngừng tiến cao hơn. Đầu
tiên là “nhiếp trọn sáu căn,
tịnh niệm tiếp nối”; đấy là
phương pháp. Từ sơ phát tâm măi cho đến Lư nhất
tâm, cho đến viên thành Phật đạo, đều
dùng phương pháp này, trọn chẳng thể thay đổi!
Cảnh giới tăng cao hơn, có cần phải thay
đổi phương pháp hay không? Chẳng cần! Vẫn
là sử dụng phương pháp này đến cùng. Đạt
đến chẳng phân biệt, không chấp trước, thuộc
loại Sự nhất tâm bất loạn. Khi đạt tới
“vong cực nhi hóa”, “chân vọng ḥa hợp”, sẽ
thuộc về Lư nhất tâm bất loạn, mà cũng là
“minh tâm kiến tánh” như Thiền Tông đă nói, đă đạt
đến cảnh giới kiến tánh. “Kỳ vọng tiêu yên” (vọng đă tiêu sạch),
“vọng” ở đây chỉ
vọng tưởng. Cho đến khi ấy, vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước đều chẳng
có. “Thất thức, bát thức
diệc tất bất hành” (Thức thứ bảy và thức
thứ tám cũng đều chẳng hiện hành): “Bất hành” là chẳng khởi
tác dụng. Tác dụng của thức thứ tám là vọng
tưởng, tác dụng của thức thứ bảy là chấp
trước. Nói cách khác, tâm vọng tưởng và tâm chấp
trước đều chẳng có, đều chẳng khởi
tác dụng, đạt đến cảnh giới ấy.
(Sao)
Chủ kư bất tồn, tùng giả yên phụ? Kỳ
ngũ thập nhất hựu hà luận dă?
(鈔)主既不存,從者焉附,其五十一又何論也。
(Sao: Cái chủ yếu
đă chẳng c̣n, những thứ phụ thuộc
nương tựa vào đâu? Há c̣n luận định
năm mươi mốt thứ [Tâm Sở] chi nữa).
Tám Tâm
Vương chẳng khởi tác dụng. Do Tâm Sở phụ
thuộc Tâm Vương, đương nhiên là năm
mươi mốt món Tâm Sở càng chẳng khởi tác dụng.
(Sao)
Đương nhĩ chi thời.
(鈔)當爾之時。
(Sao: Ngay trong lúc
đó).
Ngay
trong khi ấy.
(Sao)
Cự lăng vi ba, hàm thành chỉ thủy.
(鈔)巨浪微波,咸成止水。
(Sao: Sóng to lẫn sóng nhẹ đều thành nước lặng).
“Cự lăng” (巨浪: sóng lớn) là bảy thức trước và các Tâm Sở
tương ứng khởi tác dụng, giống như sóng
lớn. “Vi ba” (微波: sóng nhẹ) là A
Lại Da Thức và năm Biến Hành Tâm Sở
tương ứng khởi tác dụng. Những thứ này
rất vi tế, nên sánh ví với sóng nhẹ. Khi công phu
đến mức này, sóng to lẫn sóng nhẹ đều
ngưng lặng. Do vậy có thể biết: Tâm địa
thật sự đạt đến thanh tịnh, tâm thanh tịnh
hiện tiền. Tâm thanh tịnh là chân tâm, là Chân Như bản
tánh của chính ḿnh. [Tâm thanh tịnh] hiện tiền là “bản lai diện mục” (diện
mạo vốn có) như nhà Thiền đă nói. Khi ấy, quư
vị trông thấy bộ mặt vốn có. Bộ mặt vốn
có chính là tự tánh. Bộ mặt vốn sẵn có c̣n gọi
là pháp giới hay Phật Tánh, đă trông thấy! Thường
gọi là “thành Phật”; hễ
thấy, bèn thành Phật, kiến tánh thành Phật. Vị Phật
này hoàn toàn chẳng phải là Phật viên măn rốt ráo, c̣n
cách biệt [Phật quả] viên măn rốt ráo khá xa. V́ sao
nói người ấy đă thành Phật? V́ khi ấy, quư vị
sử dụng cái tâm hoàn toàn giống Phật. Lũ phàm phu
chúng ta, Thanh Văn, Duyên Giác, Quyền Giáo Bồ Tát, sử dụng
cái tâm khác Phật, sai khác ở chỗ nào? Cái tâm do những
người ấy sử dụng được gọi là
tâm ư thức, là tám thức, sử dụng tám thức, năm
mươi mốt Tâm Sở, dùng cái tâm ấy. Đức Phật
sử dụng chân tâm, bản tánh, hoàn toàn khác hẳn! Dùng thức
tâm là mê, dùng chân tâm là giác. Người niệm Phật niệm
đến khi ấy, là đă kiến tánh, thấy chân tâm.
Đó là cảnh giới của bậc Sơ Trụ Bồ
Tát trong Viên Giáo trở lên. Sơ Trụ Bồ Tát phá một
phẩm vô minh, chứng một phần chân tánh, chính là cảnh
giới này. Đó là “cự lăng,
vi ba, hàm thành chỉ thủy” (sóng lớn lẫn sóng nhẹ,
đều thành nước lặng).
(Sao)
Nùng vân, bạc vụ, tận tác trừng không.
(鈔)濃雲薄霧,盡作澄空。
(Sao: Mây dầy,
sương mỏng, đều thành bầu trời quang
đăng).
Câu
này và câu trước tỷ dụ cùng một ư nghĩa. “Nùng vân” (濃雲: mây dầy) có
cùng ư nghĩa với sóng lớn. “Bạc
vụ” (薄霧: sương mù mỏng nhẹ)
có cùng ư nghĩa với sóng nhẹ, đều là nói đến
chuyện tám thức và năm mươi mốt Tâm Sở chẳng
khởi tác dụng.
(Sao) Duy thị nhất tâm,
cánh vô dư pháp, cố vân vô bất nhất dă.
(鈔)唯是一心,更無餘法,故云無不一也。
(Sao: Chỉ là nhất tâm, chẳng c̣n các pháp nào khác. V́ thế nói: “Không ǵ chẳng là một”).
Thật sự đạt
đến nhất tâm. Đây là nói đến Giáo Hạ; trừ
Thiền Tông ra, đều gọi là Giáo Hạ. Tại Trung
Hoa, tông Hiền Thủ c̣n gọi là Hoa Nghiêm Tông, tông Thiên
Thai c̣n gọi là Pháp Hoa Tông, [hai tông ấy và các tông] Pháp Tướng,
Duy Thức, Tam Luận[5] [đều
thuộc về Giáo Hạ], mục tiêu tu học của khá
nhiều tông phái đến cuối cùng đều là cảnh
giới này. Trong Thiền, [mục đích ấy] được
gọi là “minh tâm kiến tánh”, Giáo Hạ gọi là “đại
khai viên giải”. Danh xưng khác nhau, cảnh giới hoàn
toàn giống nhau. Nói cách khác, sẽ là như các nhà Duy Thức
đă nói: “Chuyển tám thức
thành tứ trí”. Đến cuối cùng, Giáo Hạ đạt
tới cảnh giới này. Chúng ta cũng đạt tới
cảnh giới này, cũng là chuyển tám thức thành tứ
trí. Chúng ta dùng phương pháp rất xảo diệu, tức
là dùng một câu Phật hiệu, tín nguyện tŕ danh, từ
công phu thành phiến đạt đến Sự nhất
tâm bất loạn, đạt đến Lư nhất tâm bất
loạn, tức là đạt tới cảnh giới này. Đây
là nêu rơ: Phương pháp và cách thức xác thực là có xảo
diệu khác nhau, nhưng đạt tới mục tiêu hoàn
toàn như nhau. “Duy thị nhất
tâm, cánh vô dư pháp, cố vân vô bất nhất dă” (Chỉ
là nhất tâm, chẳng c̣n các pháp nào khác. V́ thế nói: “Không
ǵ chẳng là một”), ư nói: Nhất tâm niệm Phật, niệm
đến khi thành thục, Tâm Vương và Tâm Sở đều
quy nhất, trở về tự tánh. Từ chỗ này, chúng
ta cũng hiểu: Tâm Vương và Tâm Sở vốn là do
cái tâm chẳng nhất nên mới biến ra. Nếu quy nhất,
những thứ ấy đều chẳng có. Tâm chẳng chuyên
nhất, kinh luận Duy Thức nói: “Vô minh bất giác sanh tam tế, cảnh giới duy
duyên trưởng lục thô” (Vô minh bất giác sanh ra ba tế
tướng, cảnh giới làm duyên tăng trưởng
sáu thô tướng). Tám thức và năm mươi mốt Tâm
Sở biến hiện như vậy đó. Kinh Lăng
Nghiêm nói: “Chân Như chẳng giữ
lấy tự tánh”, nên mới có thể biến thành tám
thức. Tám thức biến hiện y báo và chánh báo trang
nghiêm trong mười pháp giới, biến hiện những
thứ ấy. Đến cuối cùng đều quy nhất.
Do vậy
có thể biết, trong tất cả pháp môn, phương
pháp Tịnh Tông đích xác là thù thắng khôn sánh, nó
đơn giản, dễ dàng, ổn thỏa, thích đáng,
thẳng chóng. V́ thế, nó vượt trỗi bất cứ
pháp môn nào! Nhưng pháp môn này cũng xác thực là như
đức Phật đă nói, là pháp khó tin. Tu hành chẳng
khó, hành chẳng khó, tin tưởng khó, người ta chẳng
dễ dàng tiếp nhận cho lắm! Chúng ta nhất định
phải biết nguyên nhân [khiến cho chúng sanh] chẳng thể
tiếp nhận. Trong kinh văn của kinh này đă nói rất
khéo: “Chẳng thể do chút thiện
căn, phước đức, nhân duyên mà được
sanh về cơi ấy”. Cũng có nghĩa là: Nếu quư vị
chẳng đủ thiện căn, chẳng đủ
phước đức, sẽ nẩy sanh nghi hoặc rất
lớn đối với pháp môn này. Nghi vấn tầng tầng,
quư vị chẳng đạt được lợi ích. Thiện
căn phải đạt đến mức độ nào
th́ mới được coi là nhiều? Kinh Vô Lượng
Thọ có nêu ra một tiêu chuẩn đáng cho chúng ta tham khảo.
Trong kinh, đức Phật đă bảo chúng ta:
Vương tử A Xà Thế và năm trăm vị trưởng
giả, những người ấy thiện căn khá sâu dầy.
Trong đời quá khứ, họ đă từng cúng dường
bốn trăm ức Phật. Chúng ta phải suy nghĩ cẩn
thận về con số ấy. Một vị Phật xuất
thế phải mất ba đại A-tăng-kỳ kiếp,
họ có thể cúng dường bốn trăm ức Phật,
thời gian dài ngần ấy! Thiện căn như vậy
mà vẫn chẳng thể tiếp nhận pháp môn này! Họ
nghe Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh Vô Lượng Thọ bèn
sanh tâm hoan hỷ, hy vọng chính ḿnh trong tương lai
thành Phật cũng sẽ giống như A Di Đà Phật.
Đă sanh tâm như vậy, mà vẫn chẳng phát nguyện
cầu sanh Tịnh Độ, chẳng dấy lên ư niệm
ấy! Điều này cho thấy, đời đời kiếp
kiếp tu hành trong quá khứ, từng cúng dường bốn
trăm ức chư Phật Như Lai, thiện căn ấy
vẫn là ít, chẳng kể là nhiều, vẫn chẳng thể
văng sanh Tịnh Độ trong một đời này. Quả
thật là chúng ta chẳng thể ngờ được
chuyện này. V́ thế, “nhiều
thiện căn, nhiều phước đức” như
kinh đă dạy, xác thực là giống như trong kinh
Đại Thừa thường nói: Trong quá khứ, đă từng
cúng dường vô lượng vô biên chư Phật Như
Lai. Vô lượng vô biên so với bốn trăm ức, đương
nhiên là vượt trội quá nhiều! Có thiện căn và
phước đức như vậy, trong một đời
này gặp gỡ pháp môn này. Gặp pháp môn này là nhân duyên,
trong một đời này, nhất định được
sanh về Tịnh Độ, vượt thoát luân hồi.
Từ
kinh điển, chúng ta biết đạo lư này, hiểu rơ
sự thật này, lẽ nào chẳng quư trọng duyên phận
trong một đời chính ḿnh? Đời này chúng ta
được gặp gỡ, chẳng hoài nghi, có thể
tin tưởng, có thể lư giải; có thể tin và có thể
hiểu th́ chính là thiện căn. Đấy là “nhiều thiện căn”.
Chúng ta rất mong văng sanh, ư nguyện cầu sanh Tịnh
Độ rất mạnh mẽ, chịu niệm Phật, trong
mười hai thời tịnh niệm tiếp nối. Nói
cách khác, Tây Phương Cực Lạc thế giới và A Di
Đà Phật thường ngự trong tâm chúng ta, chúng ta
thường nghĩ tưởng, thường ức niệm,
thời thời khắc khắc đều chẳng hề
quên mất. Đó là “nhiều phước
đức”, chẳng có ǵ lớn hơn phước
đức này. Trong một đời này, ba điều kiện
là thiện căn, phước đức, và nhân duyên của
chúng ta thảy đều trọn đủ, há có lẽ nào
chẳng văng sanh? Quyết định được văng
sanh! Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới,
gặp A Di Đà Phật, đừng nói là Tông Môn hay Giáo Hạ,
[ngay cả] vô lượng pháp môn do mười
phương Như Lai đă nói, hễ đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới, chẳng cần
tốn thời gian lâu lắc bèn thông đạt hoàn toàn.
Đây là chỗ thù thắng khôn sánh của pháp môn này. Trong lời
kết luận, Liên Tŕ đại sư đă nói rất
hay: “Duy thị nhất tâm, cánh vô
dư pháp” (Chỉ là nhất tâm, chẳng có pháp nào khác),
ư nói: Vô lượng vô biên pháp môn của hết thảy chư
Phật đều lưu xuất từ nhất tâm. Chỉ
cần quư vị đắc nhất tâm, đối với
hết thảy các pháp môn, chẳng có pháp nào quư vị không
thông đạt. Quư vị đă nắm được tổng
cương lănh của pháp môn.
(Sớ) Cố tri
“chí tâm niệm A Di Đà Phật nhất thanh, diệt bát thập
ức kiếp sanh tử trọng tội”, lương diêu
chánh chỉ Lư nhất tâm cố, như Pháp Hoa tam-muội
trung thuyết.
(疏)故知至心念阿彌陀佛一聲,滅八十億劫生死重罪,良繇正指理一心故,如法華三昧中說。
(Sớ: V́ thế biết
“chí tâm niệm A Di Đà Phật một tiếng, diệt
trọng tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử”
chính là nói về Lư nhất tâm, như trong Pháp Hoa tam-muội
đă nói).
Chúng
ta phải hiểu rơ những điều đă nói trong kinh
luận, sau đấy mới có thể đoạn trừ
nghi lự. Niệm một tiếng Phật hiệu “diệt trọng tội trong tám
mươi kiếp sanh tử”: Nếu quư vị chẳng
liễu giải những điều đức Phật
đă nói trước và sau đó, chỉ thấy một câu
ấy, sẽ thường hiểu lầm: Ta mỗi ngày từ
sáng đến tối niệm Phật, mỗi ngày niệm
mấy vạn câu, tội của ta chẳng phải là thảy
đều tiêu diệt ư? Như thế là quư vị
đă thấy sai bét mất rồi! Đức Phật nói “niệm Phật một tiếng”
chính là niệm Phật khi đă đắc Lư nhất tâm th́
mới có hiệu quả như thế. Nay tâm chúng ta tán loạn
niệm Phật, có thể diệt tội hay không? Có thể,
nhưng sức diệt tội rất mỏng manh, yếu ớt.
Chẳng niệm Phật liền suy nghĩ loạn xạ,
cho nên niệm Phật sẽ tốt đẹp hơn nhiều,
sẽ chẳng suy nghĩ loạn xạ. Có kẻ vừa
niệm Phật, lại c̣n vừa suy nghĩ lung tung,
như vậy th́ chẳng có một tí biện pháp nào hết!
Có thể thấy là chúng ta diệt tội hết sức ít
ỏi, mỏng manh, công sức chẳng đủ sâu! Chẳng
phải là lời Phật dạy chẳng linh, mà là công phu của
chúng ta chẳng đến nơi đến chốn! Chữ
then chốt ở đây là hai chữ “chí tâm”. Chúng ta là tán loạn tâm, chí tâm là nhất
tâm. Trong tâm chẳng có một tạp niệm nào, vọng
tưởng cũng chẳng có, đó là “chí tâm”, là nhất tâm, quư vị niệm Phật hiệu
bèn có công đức chẳng thể nghĩ bàn. Do vậy, niệm
Phật quư ở chỗ tịnh niệm. Đại Thế
Chí Bồ Tát dạy “tịnh niệm
tiếp nối”, “tịnh”
là nhất tâm, “nhất” là
thanh tịnh, “nhị” chẳng
phải là thanh tịnh.
“Tịnh niệm” là chí tâm, chí
tâm là tịnh niệm. Có thể thấy đây là chữ chánh
yếu mấu chốt, chúng ta nhất định phải
biết, nhất định phải học tập. Có ai chẳng
mong học? Mong học, nhưng học chẳng được!
Vọng niệm đặc biệt nhiều, đó là hiện
tượng tự nhiên. V́ vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước chính là tập khí từ vô thỉ kiếp
đến nay, ngay cả đêm ngủ vẫn dấy vọng
tưởng. Ngủ mà nằm mộng tức là có vọng
tưởng. Chẳng có vọng tưởng, sẽ không nằm
mộng. Do vậy, khi ngủ, hễ dấy vọng tưởng
liền nằm mộng, biến thành cảnh giới trong mộng.
Có thể thấy vọng niệm xác thực là dấy lên,
ch́m xuống bất định suốt hai mươi bốn
tiếng đồng hồ, chẳng có năng lực khống
chế nó. Phật pháp dạy người ta tu Định,
Định là để khống chế vọng tưởng.
Chúng ta niệm trong một thời gian ngắn th́
tương đối dễ đạt được tịnh
niệm hơn, thời gian dài sẽ khó khăn. Cổ nhân nói: “Niệm kinh chẳng bằng niệm
chú, niệm chú chẳng bằng niệm Phật”. Kinh dài,
phải niệm trong một thời gian rất dài. Trong thời
gian lâu dài ấy, nhất định sẽ dấy vọng
tưởng. Chú ngắn hơn kinh, thời gian [niệm chú
một lượt] ngắn ngủi, trong mấy phút sẽ
chẳng dấy vọng tưởng, có lẽ cũng có thể
khống chế [vọng tưởng]. Phật hiệu càng
ngắn hơn, trong sáu chữ “nam-mô
A Di Đà Phật”, từng chữ một nối tiếp
nhau, trong ấy chẳng có một vọng tưởng nào, xác
thực là hiệu quả càng phải thù thắng hơn niệm
chú và niệm kinh. Nhưng phải giữ sao cho Phật hiệu
liên tục, chẳng gián đoạn, khó lắm! Trong khi niệm
Phật hiệu, vẫn có thể xen tạp vọng tưởng!
Có những
kẻ t́m tôi, nói: “Thưa pháp sư! Khi con không niệm Phật,
dường như chẳng có vọng tưởng, tâm rất
thanh tịnh. Khi càng niệm Phật, vọng tưởng
càng nhiều”. Thật ra, kẻ ấy chẳng phải là
người đầu tiên gặp vấn đề ấy.
Từ Ấn Quang Đại Sư Văn Sao và các ngữ lục
của tổ sư, chúng ta luôn nh́n thấy những câu hỏi
tương tự. Các vị tổ sư cũng đều
giải thích rất rơ ràng: Chẳng phải là lúc b́nh thường
không có vọng tưởng. Lúc b́nh thường luôn có vọng
tưởng, nhưng quư vị chẳng cảm thấy, chẳng
lưu ư! Đến khi quư vị niệm Phật, bỗng
dưng phát hiện có lắm vọng tưởng tồn tại
dường ấy, tuyệt đối chẳng phải là
do niệm Phật mà ra. Chẳng có lẽ ấy! Vọng
tưởng vốn nhiều ngần ấy, vốn sẵn
tồn tại, nhưng chẳng phát hiện. Khi niệm Phật
hoặc tĩnh tọa bèn phát hiện. Ngay trong lúc quư vị
thật sự muốn dụng công, phát hiện là vốn có
nhiều vọng tưởng dường ấy, nhiều tạp
niệm ngần ấy. Khi đó, mới phát hiện! Sau khi
phát hiện, quư vị chớ nên sợ hăi. Nay chúng ta dụng
công niệm Phật hoặc tham Thiền, chủ yếu là
muốn đối trị những vọng niệm ấy.
Vọng niệm dấy lên, cổ đại đức dạy
chúng ta, chẳng cần quan tâm đến nó là được
rồi! Nó khởi mặc nó, ta cứ niệm Phật của
ta, chúng ta dồn hết ư chí tinh thần nơi câu Phật
hiệu. Vọng niệm dấy lên, chẳng quan tâm, không
màng tới nó, như vậy th́ thời gian lâu sau, Phật
hiệu đắc lực. Phật hiệu đắc lực,
vọng niệm ít đi. Người thật sự dụng
công, niệm năm năm hay mười năm, đại
khái là trong một nén hương có thể c̣n có đôi ba vọng
niệm, công phu cũng khá lắm! Nén hương dài này [cháy
hết] trong một tiếng rưỡi, tức là niệm
Phật trong một tiếng rưỡi, hăy c̣n có đôi ba
vọng niệm. Nếu chẳng có vọng niệm nào, công
phu niệm Phật nói chung là mười năm trở lên,
thật sự có công phu. Nếu chúng ta niệm Phật đă
mười mấy, hai mươi năm, trong một nén
hương hăy c̣n có mấy chục vọng tưởng, mấy
trăm vọng tưởng, bèn biết là chúng ta niệm Phật
trước nay chưa hề nghiêm túc dụng công. Hễ
nghiêm túc, chẳng thể nào có lắm vọng tưởng
tồn tại ngần ấy! Nếu niệm Phật mà chẳng
thể chế phục vọng tưởng, văng sanh sẽ
có vấn đề, khá khó khăn! Nếu niệm Phật xác
thực là có thể chế phục vọng tưởng, sẽ
nắm chắc văng sanh, công phu của quư vị thành tựu,
điều này hết sức quan trọng!
Cũng
có kẻ hỏi: Phải tiêu diệt vọng tưởng như
thế nào? Nếu quư vị mong tiêu diệt vọng tưởng,
tức là lại có thêm một vọng tưởng. Không chỉ
là chẳng tiêu diệt vọng tưởng, mà c̣n tăng
thêm một vọng tưởng. Tôi vừa mới nói: Chẳng
cần quan tâm tới nó là được rồi! Nhưng
trong ấy vẫn có phương pháp, kỹ xảo;
phương pháp là phải coi nhạt duyên thế gian. Tất
cả hết thảy vọng tưởng do đâu mà có? Do
từ phân biệt, chấp trước mà có. Chấp
trước là không buông xuống được, những thứ
ấy hại ta mất mạng. Có một vị đồng
tu nói: “Những thứ khác tôi đều có thể buông, nhưng
tôi không buông con cháu được!” Vậy là thôi rồi! Chỉ
cần có một chuyện không buông xuống được,
quư vị chẳng có cách nào thoát ly luân hồi. Chuyện
không buông xuống được chính là một sợi ḷi tói,
xiềng chặt quư vị ở nơi này. Trong kinh Kim Cang,
đức Phật đă nói rất hay: “Phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư
vọng”, “hết thảy
pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”, quư vị phải thấy thấu
suốt! Sau khi đă thấy thấu suốt, tự nhiên quư
vị có thể buông xuống, niệm Phật mới có thể
đạt tới tịnh niệm. Hễ có một chuyện
không thể buông xuống, niệm của quư vị sẽ
chẳng là tịnh niệm. Chẳng phải là tịnh niệm;
nói cách khác, quư vị lại một lần nữa gieo thiện
căn nơi pháp môn này trong một đời này, chưa chín
muồi, giống như vô lượng kiếp trong quá khứ,
đời đời kiếp kiếp gieo thiện căn. Thật
sự buông xuống, triệt để buông xuống, thiện
căn của quư vị chín muồi, quyết định
được văng sanh trong một đời này.
Những
kẻ b́nh phàm chẳng hiểu rơ, kinh Phật thường
nói là “mê hoặc, điên đảo”. Không buông xuống
được, đó là tham ái. Các đối tượng của
tham ái chẳng ngoài ngũ dục, lục trần, tài, sắc,
danh vọng, ăn uống, ngủ nghê, người nhà, quyến
thuộc, tham luyến những thứ ấy. Khó bỏ nhất
là t́nh thân quyến, như tôi vừa mới nói, người
ấy chẳng thể buông con cháu xuống được,
t́nh thân quyến mà! Nếu thật sự muốn yêu
thương, che chở người nhà, quyến thuộc, quư
vị hăy quyết định cầu sanh Tịnh Độ.
Đến thế giới Tây Phương thành Phật,
thành Bồ Tát, bất luận người nhà, quyến thuộc
của quư vị ở nơi đâu, ở trong đường
nào, quư vị đều có năng lực chiếu cố họ.
Đó chính là yêu thương, che chở thật sự. Quư vị
chẳng thể làm Phật, hoặc làm Bồ Tát, chỉ là
một phàm phu, quư vị có thể chăm nom, yêu
thương che chở họ bất quá mấy chục
năm ngắn ngủi mà thôi, chết đi, chẳng có cách
nào khác, đó là yêu thương ư? Chẳng gọi là yêu
thương, che chở thật sự! Kinh luận giảng
rất nhiều: Sau khi chúng ta sanh về Tây Phương Cực
Lạc thế giới, sẽ có năng lực trở lại
thế giới này rất nhanh. Không chỉ là có thể chăm nom cha mẹ trong một
đời này nơi thế giới này, chúng ta c̣n có đời
quá khứ, c̣n có đời quá khứ của quá khứ, cha
mẹ, anh em trai, chị em gái, quyến thuộc đời
đời kiếp kiếp, vào bất cứ lúc nào, quư vị
đều có thể nhận biết, thảy đều hiểu
rơ. Quư vị có năng lực giúp đỡ bất cứ
người nào, đó gọi là thật sự yêu
thương, che chở, vĩnh viễn chẳng buông bỏ.
Chẳng phải là một đời. Người thế
gian, nói thật ra, tầm nh́n quá nông cạn, chỉ thấy
trước mắt, chẳng thấy tương lai. Trong
kinh, đức Phật thường than thở những kẻ
ấy là “kẻ đáng thương
xót”, thật sự là đáng thương, đáng xót. Thật
sự có thể thấy thấu suốt, tự nhiên có thể
buông xuống. Thấy thấu suốt và buông xuống, tâm bèn
thanh tịnh. Thấy thấu suốt là trí huệ, là học
vấn, buông xuống là công phu, dùng cơ sở ấy để
tín nguyện tŕ danh, vạn người tu, vạn người
đến, ai nấy đều thành tựu.
Đối
với chuyện “niệm Phật
một tiếng diệt được trọng tội
trong tám mươi ức kiếp sanh tử” được
nói ở đây, trong lời Sao, Liên Tŕ đại sư lại
giảng rơ cặn kẽ ư nghĩa này.
(Sao)
Nhân hữu nghi ngôn.
(鈔)人有疑言。
(Sao: Có kẻ nghi rằng).
Ngờ
vực.
(Sao)
Tội kư đa kiếp.
(鈔)罪既多劫。
(Sao:
Tội đă nhiều kiếp).
Đời
quá khứ của chúng ta là vô lượng kiếp, tội
nghiệp đă tạo trong vô lượng kiếp quá nhiều.
Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện của kinh Hoa
Nghiêm có nói: “Nếu tội ấy
có h́nh tướng, dẫu h́nh tướng ấy rất nhỏ,
nhỏ như vi trần, từ vô lượng kiếp tới
nay, những tội nghiệp do chúng ta đă tạo, cùng tận
hư không đều chẳng thể chứa đựng nổi!”
Thật vậy! Chúng ta tạo nghiệp trước nay chưa
hề ngưng nghỉ. Thân tạo, miệng tạo th́ c̣n
có lúc gián đoạn, chứ ư, tức ư niệm, ư niệm
tạo nghiệp chẳng hề ngưng, ngày đêm không gián
đoạn, đời đời kiếp kiếp chưa hề
gián đoạn. Quư vị biết nghiệp xác thực là vô
lượng vô biên.
(Sao)
Nghiệp trọng chướng thâm, cửu cần sám-ma, tiệm
tích công đức, thứ khả tiêu vong.
(鈔)業重障深,久勤懺摩,漸積功德,庶可消亡。
(Sao: Nghiệp nặng,
chướng sâu, siêng năng sám hối lâu ngày, tích lũy
công đức dần dần, ngơ hầu có thể tiêu vong).
Kinh
Đại Thừa thường nói chuyện này. “Cửu” (久) là phải mất thời
gian dài nhiều kiếp. Ví như đức Phật nói một
người từ sơ phát tâm tu hành cho đến khi thành
Phật phải mất ba đại A-tăng-kỳ kiếp,
ba đại A-tăng-kỳ kiếp chính là “cửu”. “Cần” (勤) là siêng năng, tinh cần. “Sám-ma”
(懺摩, Kṣāma) là sám hối. Phẩm [Phổ
Hiền Bồ Tát] Hạnh Nguyện đă quy nạp các
cương lănh tu hành trong hết thảy các kinh luận Đại
Thừa, quy nạp đến cuối cùng là hai pháp môn: Thứ
nhất là sám hối, thứ hai là hồi hướng. Quy nạp
vô lượng vô biên pháp môn đến cuối cùng thành hai
môn ấy, quư vị biết hai môn ấy chính là trọng
điểm tu hành, là mấu chốt trong tu hành. Cũng có thể
nói “cửu cần sám-ma”
(siêng năng sám hối lâu ngày) là trải qua ba đại A-tăng-kỳ
kiếp chẳng ngừng tu pháp sám hối, mới dần dần
tích lũy công đức tiêu trừ tội nghiệp trong vô
lượng kiếp. Phải mất thời gian dài lâu
như thế, trong các kinh thông thường, đức Phật
thường nói như vậy. Nói theo kinh Hoa Nghiêm, chẳng
phải là ba đại A-tăng-kỳ kiếp, c̣n phải
dài hơn nữa! Đức Phật dạy phải mất
vô lượng kiếp. Đức Phật nói ba đại
A-tăng-kỳ kiếp là nói đối với Quyền
Giáo Bồ Tát, nói với hàng tiểu Bồ Tát. Nói lâu quá, sợ
họ ngă ḷng, “lâu như vậy, thôi đi, ta chẳng học
nữa”, bèn nói ngắn hơn, nói là ba đại A-tăng-kỳ
kiếp. Trong kinh Hoa Nghiêm, đối với bốn
mươi mốt địa vị Pháp Thân đại
sĩ, có thể nói thật, phải là vô lượng kiếp!
Đức Phật nói ba đại A-tăng-kỳ kiếp
thành Phật, có phải là gạt người hay chăng? Đức
Phật chẳng nói dối, ba đại A-tăng-kỳ kiếp
xác thực thành Phật, thành Phật ǵ vậy? Tông Thiên Thai
phán giáo đă phán định thành bốn giáo là Tạng,
Thông, Biệt, Viên, bốn giáo đều có Phật. Ba đại
A-tăng-kỳ kiếp thành Phật là thành Tạng Giáo Phật.
Đức Phật nói thành Phật chẳng sai, chẳng gạt
người! [“Thành Phật”] là thành Tạng Giáo Phật. Tạng
Giáo Phật sai kém đẳng cấp Viên Giáo Phật quá nhiều!
Tạng Giáo Phật vẫn chưa kiến tánh, c̣n thua
Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo. Thông Giáo Phật cao
hơn Tạng Giáo Phật một chút, nhưng vẫn
chưa bằng Sơ Trụ. Do vậy, [“thành Phật” là
đạt đến địa vị giác ngộ cao nhất]
trong một giai đoạn như vậy. Biệt Giáo Phật
tương đương với Bồ Tát thuộc địa
vị Đệ Nhị Hạnh trong Viên Giáo, c̣n kém Viên Giáo
Phật ba mươi mốt địa vị. V́ thế,
đức Phật hoàn toàn chẳng nói lời hư giả.
Đức Phật nói “thành Phật”, quư vị phải hiểu
Ngài nói “thành vị Phật nào”. Sám hối siêng năng lâu
ngày th́ mới có thể tiêu trừ nghiệp chướng.
(Sao)
Nhi niệm Phật nhất thanh, diệt đa kiếp tội.
(鈔)而念佛一聲,滅多劫罪。
(Sao:
Nhưng niệm Phật một tiếng bèn diệt tội
nhiều kiếp).
Người
ta hoài nghi ở chỗ này, khó tin ở chỗ này.
(Sao)
Nhân vi quả cự, cố sở bất tín.
(鈔)因微果巨,固所不信。
(Sao:
Nhân bé quả to, cho nên chẳng tin).
Niệm
Phật một tiếng, cái “nhân” này dường như quá dễ
dàng, quá nhỏ bé, quá ít ỏi, làm sao nó có thể diệt tội
nhiều dường ấy, diệt trọng tội trong
tám mươi ức kiếp sanh tử? Dường như
cái “quả” ấy quá thù thắng. Nhân và quả chẳng
tương xứng! Điều này rất khó khiến cho
người ta tin tưởng, rất khó khiến cho
người khác tiếp nhận.
(Sao)
Kim vị chí tâm giả, tức nhất tâm dă.
(鈔)今謂至心者,即一心也。
(Sao:
Nay nói chí tâm tức là nhất tâm).
Đây
chẳng phải là xưng niệm b́nh thường, mà là nhất
tâm xưng niệm. Trong nhất tâm có Sự nhất tâm và Lư
nhất tâm, Sự nhất tâm vẫn chẳng có hiệu quả
to tát ngần ấy.
(Sao)
Nhược Sự nhất tâm, tuy năng diệt tội,
vi lực sảo sơ, tội tướng phục hiện,
đa đa chi niệm, chỉ khả diệt thiểu thiểu
chi khiên.
(鈔)若事一心,雖能滅罪,為力稍疏,罪將復現,多多之念,止可滅少少之愆。
(Sao: Nếu là Sự
nhất tâm, tuy có thể diệt tội, nhưng do sức
hơi yếu, nên tội tướng lại hiện, niệm
cho nhiều th́ chỉ có thể diệt chút ít tội khiên).
Huống
hồ chúng ta hiện thời ngay cả Sự nhất tâm
c̣n chẳng có! Nếu nay chúng ta chẳng nghiêm túc, nỗ lực
hướng về nhất tâm, tâm tán loạn niệm Phật
như vậy, sẽ như cổ nhân đă nói: “Hét toạc cổ họng vẫn
uổng công”. Câu này phê b́nh kẻ suốt ngày từ sáng
đến tối niệm A Di Đà Phật, người niệm
Phật hiệu “miệng có, tâm không”, miệng niệm Phật
hiệu, tâm tán loạn, niệm Phật kiểu đó chẳng
khởi tác dụng! Niệm Phật phải quy nhất ư niệm,
thâu thập cái tâm tán loạn, như thế sẽ có hiệu
quả. Do vậy, có kẻ biết niệm, có kẻ chẳng
biết niệm. Chẳng biết niệm sẽ không có hiệu
quả. Chẳng có hiệu quả th́ cũng là gieo thiện
căn mà thôi, chẳng thể thành tựu trong một đời
này, mà cũng chẳng thể diệt tội. Niệm đến
Sự nhất tâm, hạn độ thấp nhất của
Sự nhất tâm là công phu thành phiến. Công phu thành phiến
là suốt ngày từ sáng đến tối trong tâm xác thực
có A Di Đà Phật, có Tây Phương Tịnh Độ, trong
tâm thật sự có [những điều ấy]. Nói cách
khác, tất cả hết thảy chuyện thế gian ta
đều chẳng bận ḷng, ta đều buông xuống.
Trong tâm ta, chuyên vương vấn A Di Đà Phật, đó
gọi là Sự nhất tâm. V́ trong tâm quư vị vương
vấn A Di Đà Phật, đó là Sự. Sự đă chuyên
nhất, chỉ vương vấn A Di Đà Phật. Trừ
A Di Đà Phật ra, chuyện ǵ khác cũng đều chẳng
vướng mắc, thứ ǵ cũng đều buông xuống,
đó là Sự nhất tâm. Sự nhất tâm tuy công phu rất
nông cạn, đă có thể văng sanh. Tuy diệt tội chẳng
nhiều, có thể diệt một ít tội nghiệp. Công
phu Sự nhất tâm nông cạn, tiêu nghiệp chướng
ít ỏi, khi văng sanh c̣n bị bệnh khổ. Nếu là
người có công phu Sự nhất tâm sâu xa, tiêu trừ nhiều
nghiệp chướng, lúc lâm chung sẽ chẳng ngă bệnh.
Ngă bệnh là nghiệp chướng hiện tiền, người
ấy chẳng ngă bệnh. Đến lúc đó, biết
trước lúc mất, tự tại văng sanh, đó là Sự
nhất tâm.
Người
niệm Phật niệm đến mức sanh tử tự
tại, đó là công phu tốt nhất. Sanh tử tự tại,
muốn ra đi khi nào bèn đi khi đó, muốn ở lại
thế giới này thêm mấy năm, cũng chẳng trở
ngại. Đó là sanh tử tự tại. Phải đạt
tới công phu ǵ? Vẫn là công phu Sự nhất tâm khá tốt.
Thông thường, chúng ta nói công phu chia thành ba cấp. Công
phu sơ cấp gọi là công phu thành phiến, bậc trung
gọi là Sự nhất tâm bất loạn, bậc thượng
gọi là Lư nhất tâm bất loạn. Ở đây, chỉ
nói đến Sự nhất tâm và Lư nhất tâm, tức là
đă gộp công phu thành phiến vào Sự nhất tâm. Công
phu thành phiến là Sự nhất tâm nông cạn. Sự nhất
tâm sâu xa, đă đoạn Kiến Tư phiền năo.
Chưa đoạn Kiến Tư phiền năo th́ phải chế
ngự nó, đó gọi là công phu thành phiến, tức là đă
chế phục phiền năo. Nếu chia nó thành chín phẩm,
công phu thành phiến thượng thượng phẩm có thể
văng sanh tự tại, muốn đi lúc nào bèn có thể đi
khi đó, muốn ở lại thế giới này bao nhiêu
năm bèn ở lại bấy nhiêu năm, quyết định
chẳng bị trở ngại. Nếu chúng ta hỏi:
Lũ chúng ta có thể làm được hay không? Ai nấy
đều có thể làm được, chỉ sợ quư vị
chẳng chịu làm! Quư vị chịu làm, chẳng có ai
không làm được! Nếu nói đến Sự nhất
tâm bậc thượng, đích xác là không phải mỗi
người chúng ta đều có năng lực làm
được. V́ sao? Phải đoạn hết Kiến
Tư phiền năo, rất khó khăn, Lư nhất tâm càng khó
hơn. Do vậy, có thể biết: Niệm một tiếng
A Di Đà Phật tiêu diệt trọng tội trong tám
mươi ức kiếp sanh tử, chúng ta chỉ có thể
lắng nghe, chứ chẳng có phần! Đó là Lư nhất
tâm, chúng ta chẳng làm được! Tới khi nào sẽ làm
được? Sau khi văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới sẽ làm được. Sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới, “hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh” (hoa nở, gặp
Phật, ngộ Vô Sanh). Khi ấy, sẽ là Lư nhất tâm bất
loạn. Trong thế giới Tây Phương, hoa chưa nở
th́ là Sự nhất tâm bất loạn, hoa đă nở th́
là Lư nhất tâm bất loạn. Hoa nở thấy Phật
là thấy Báo Thân Phật. Trong bài kệ Tán Phật có câu: “Bạch hào uyển chuyển ngũ
Tu Di, cám mục trừng thanh tứ đại hải”
(bạch hào cuộn tṛn như năm quả núi Tu Di, mắt
biếc như bốn biển lớn trong ngần), đó
là Báo Thân của A Di Đà Phật. Hoa nở thấy Phật
là thấy Báo Thân. Hoa chẳng nở vẫn thấy Phật,
[tức là] thấy Hóa Thân của A Di Đà Phật; bởi
lẽ, ở trong hoa sen, Phật, Bồ Tát cũng thuyết
pháp cho quư vị, cũng có hải hội đại chúng
vây quanh, hoàn toàn là Hóa Thân, chẳng phải là Báo Thân.
Nói
đến chỗ này, chư vị phải chú tâm thấu hiểu
chỗ thù thắng của Tịnh Tông. Có người hỏi:
Văn Thù và Phổ Hiền là Đẳng Giác Bồ Tát trong
thế giới Hoa Tạng, các Ngài tu hành thành Phật trong thế
giới Hoa Tạng, chẳng phải là chuyện giống hệt
hay sao? V́ sao phải đến Tây Phương Cực Lạc
thế giới? V́ sao Đẳng Giác Bồ Tát trong Viên Giáo
phải phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ? Hỏi
những vấn đề này rất hay, chư vị nghe
những điều tôi vừa mới nói, phải nên trả
lời được. Diệt tội trong các thế giới
phương khác th́ phải siêng năng sám hối lâu ngày.
Đẳng Giác Bồ Tát c̣n có một phẩm sanh tướng
vô minh, rất khó đoạn, tốn thời gian rất
dài! Phiền năo thô dễ đoạn, phiền năo tế khó
đoạn. Đức Phật nói ba đại A-tăng-kỳ
kiếp, trong A-tăng-kỳ kiếp thứ nhất, Bồ
Tát có thể chứng đắc ba mươi địa vị,
tức Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng.
Trong A-tăng-kỳ kiếp thứ hai, chỉ có thể chứng
bảy địa vị, từ Sơ Địa cho đến
Thất Địa, càng lên cao càng khó. Trong A-tăng-kỳ kiếp
thứ ba, chứng ba địa vị là Bát Địa, Cửu
Địa, và Thập Địa. Ba đại A-tăng-kỳ
kiếp, trên thực tế là [thời gian cần thiết
để] viên măn Thập Địa, thành Đẳng Giác Bồ
Tát. Đẳng Giác Bồ Tát cuối cùng vẫn c̣n một
phẩm sanh tướng vô minh, hăy c̣n một phẩm, tôi thấy
hạn độ thấp nhất, tuy đức Phật chẳng
nói, sợ rằng cũng phải mất một A-tăng-kỳ
kiếp th́ mới có thể thành tựu. Do vậy, càng lên
cao càng khó, phải mất thời gian rất dài. V́ lẽ
này, Bồ Tát thông minh, sang thế giới Tây Phương,
trong một thời gian rất ngắn ngủi bèn thành tựu.
Đấy là nhân duyên thật sự. V́ sao Ngài phải văng
sanh thế giới Tây Phương? Ngài văng sanh thế giới
Tây Phương, tới thế giới Tây Phương bèn
chứng đắc. Đẳng Giác Bồ Tát văng sanh, sẽ
là thượng thượng phẩm văng sanh trong cơi Thật
Báo Trang Nghiêm; vừa đến đó, hoa nở, thấy Phật,
chẳng cần phải chờ đợi. Nói cách khác,
đến Tây Phương Cực Lạc thế giới thấy
A Di Đà Phật, nghiệp chướng tiêu trừ sạch,
quư vị nói xem có mau lẹ hay chăng? Trong thế giới
Hoa Tạng, Ngài vẫn phải tốn một khoảng thời
gian dài, chẳng nhanh chóng như trong thế giới Tây
Phương. Đấy là nguyên do v́ sao Ngài phải sanh về
Tây Phương Cực Lạc thế giới.
V́
sao chúng ta biết là mau chóng? Kinh Di Đà, kinh Vô Lượng
Thọ, và kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật đă giảng
rất rơ ràng. Trong hết thảy các kinh Đại Thừa,
đức Phật đă nói: Để thành Phật, từ
sơ phát tâm cho đến khi chứng Phật quả, bất
luận là Phật thuộc loại nào, phải mất ba
đại A-tăng-kỳ kiếp, đấy là con số
thiên văn. Đến thành Phật trong Tây Phương Cực
Lạc thế giới, chẳng phải là vị Phật
nào khác, mà là Viên Giáo Phật, cần phải mất bao nhiêu thời
gian? Tối đa là mười hai đại kiếp.
Mười hai đại kiếp thua xa một A-tăng-kỳ
kiếp! Một A-tăng-kỳ kiếp giống như một
năm, mười hai đại kiếp giống như
mười hai phút. Đến Tây Phương Cực Lạc
thế giới thành Viên Giáo Phật mất mười hai
phút; trong thế gian này, để tu thành Tạng Giáo Phật
cần tới một năm, làm sao có thể so sánh cho
được? Chẳng thể sánh bằng! Do đâu mà có
mười hai kiếp? Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật
có nói: Hạ hạ phẩm văng sanh, sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới, trải qua
mười hai kiếp hoa nở, thấy Phật, mười
hai kiếp do đây mà có. Do vậy có thể biết, A Di
Đà Phật kiến lập Tây Phương Cực Lạc
thế giới cho đến nay là mười kiếp, người
hạ hạ phẩm văng sanh trong kiếp thứ nhất, lại
qua hai kiếp, người ấy bèn thành Phật. Người
hạ phẩm trung sanh đă thành Phật từ lâu rồi!
V́ hạ phẩm trung sanh sáu kiếp thành Phật, Tây
Phương Cực Lạc thế giới nay đă là kiếp
thứ mười, người ấy đă thành Phật
năm kiếp, người ấy đă thành Phật trong kiếp
thứ sáu, mới hiểu: So sánh giữa thành tựu trong
thế giới Tây Phương và các thế giới
phương khác, [sẽ thấy] quá thù thắng, quư vị
hăy nh́n từ chỗ này. Trung phẩm hạ sanh, để
thành Phật trong thế giới Tây Phương phải mất
bảy ngày. Điều này cho thấy v́ sao hết thảy
Bồ Tát đều hướng về, ngưỡng mộ
Tây Phương Cực Lạc thế giới? Nguyên nhân ở
chỗ này. Đến tu hành trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới, chẳng biết đă rút ngắn bao nhiêu thời
gian, thù thắng ở chỗ này! Do vậy, hết thảy
chư Phật đều tán thán chẳng thể nghĩ bàn,
bổn nguyện của A Di Đà Phật chẳng thể
nghĩ bàn, công đức chẳng thể nghĩ bàn, pháp
môn chẳng thể nghĩ bàn, thành tựu chẳng thể
nghĩ bàn. Nếu chư vị đọc kỹ ba kinh, những
chuyện này đều bày rơ rành rành trước mặt
chúng ta, có thể nào chẳng giác ngộ?
(Sao)
Thử chi chí tâm, chánh thuộc Lư nhất.
(鈔)此之至心,正屬理一。
(Sao:
Chí tâm ở đây thuộc về Lư nhất tâm).
Chữ “chí tâm” trong câu “chí tâm niệm A Di Đà Phật một tiếng”
của phần Sớ là nói đến Lư nhất tâm, chẳng
phải là Sự nhất tâm.
(Sao)
Nhất tâm kư lăng, tích vọng đốn không.
(鈔)一心既朗,積妄頓空。
(Sao:
Nhất tâm đă rạng ngời, các vọng đă tích
lũy nhanh chóng tiêu tan).
Lư nhất tâm là
minh tâm kiến tánh, tối thiểu là phá một phẩm vô
minh, thấy một phần chân tánh, đấy mới là Lư
nhất tâm bất loạn. Đối với cảnh giới
của bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân
đại sĩ trong kinh Hoa Nghiêm, nói theo Tịnh Độ
Tông, đều thuộc về Lư nhất tâm bất loạn.
Lư nhất tâm bất loạn cũng có thứ tự cạn
hay sâu khác nhau, cạn là Sơ Trụ trong Viên Giáo, sâu là
Đẳng Giác Bồ Tát. Chúng ta tính theo địa vị Bồ
Tát th́ Lư nhất tâm lại có bốn mươi mốt tầng
cấp, tức là xét theo thứ tự cạn hay sâu bèn có bốn
mươi mốt tầng cấp, đều gọi là Lư
nhất tâm. “Nhất tâm kư lăng”
(Nhất tâm đă rạng ngời), “lăng” (朗) là sáng rỡ.
Đă đoạn Kiến Tư phiền năo và Trần Sa phiền
năo, cũng phá một phẩm vô minh, tâm tánh thấu lộ,
dụng tâm chẳng khác Phật.
Trong kinh, đức
Phật thường dùng vầng trăng để tỷ
dụ, tỷ dụ ấy hay lắm: Tâm Phật như vầng
trăng tṛn ngày Rằm, tâm Sơ Trụ Bồ Tát như
trăng non mồng Ba, mồng Bốn, quang minh thấu lộ.
Ánh sáng của trăng tṛn và trăng non giống nhau, đều
là quang minh thật sự, chẳng giả. Bất quá một
đằng sáng ngời, một đằng sáng yếu ớt
mà thôi, nhưng đều là ánh sáng thật sự. Ư nói: Dụng
tâm của Sơ Trụ Bồ Tát là chân tâm; tuy dùng chân tâm mà
chẳng viên măn, [tức là] chẳng viên măn và tự tại
như Phật, nhưng Ngài đă dùng chân tâm, giống
như Phật, chẳng giống Quyền Giáo Bồ Tát. Từ
Quyền Giáo Bồ Tát trở xuống đều dùng vọng
tâm. Tám thức, năm mươi mốt Tâm Sở là vọng
tâm, chẳng phải là chân tâm. Sơ Trụ Bồ Tát dùng
chân tâm, giống như Phật. “Tích
vọng đốn không” (Các vọng đă tích lũy
đều nhanh chóng tiêu tan), “tích”
(積) là tích lũy. Tới
khi ấy, vọng tưởng, phiền năo đă tích
lũy từ vô lượng kiếp thảy đều tiêu
mất, thảy đều chẳng c̣n!
(Sao)
Dụ như thiên niên ám thất, khởi dĩ nhất
đăng, ám bất tốc diệt?
(鈔)喻如千年闇室,豈以一燈,闇不速滅?
(Sao:
Ví như nhà tối ngàn năm, há chẳng phải là do một
ngọn đèn mà tối tăm chẳng mau chóng diệt mất
ư?)
Đây
là tỷ dụ, [nhằm giải thích] v́ sao những tội
nghiệp đă tích lũy trong vô lượng kiếp có thể
ngay lập tức tiêu mất? “Thiên
niên ám thất” (Nhà tối ngàn năm), “ngàn năm” là tỷ
dụ vô lượng kiếp, tỷ dụ thời gian lâu
dài. Nhà tối om om ví như phiền năo, vọng tưởng,
tập khí ác. “Khởi dĩ nhất
đăng, ám bất tốc diệt?” (Há chẳng phải
là do một ngọn đèn mà tối tăm chẳng mau chóng
diệt mất ư?). Nhà tối ngàn năm, quư vị thắp
một ngọn đèn trong ấy, tối tăm bèn chẳng
c̣n nữa, đă tiêu trừ. Ư nghĩa này nhằm nói rơ: Quư
vị thật sự giác ngộ, tất cả hết thảy
tập khí và tội chướng thảy đều tiêu trừ.
V́ sao? V́ chúng nó là hư vọng, chẳng phải là chân thật.
Chân thật sẽ chẳng thể tiêu diệt, chúng nó là
hư vọng. Giác ngộ bèn chẳng có; bất giác th́ chúng
thảy đều tồn tại. Kiến tánh mới
được coi là giác ngộ; chẳng kiến tánh, không
tính là giác ngộ. Chẳng ngộ, sẽ phải luân hồi
trong lục đạo, bèn có lục đạo, mười
pháp giới. Sau khi đă ngộ, không chỉ là chẳng có lục
đạo, mà mười pháp giới cũng chẳng có. Do
vậy, người giác ngộ, người đắc Lư
nhất tâm bất loạn, sẽ trụ ở nơi
đâu? Kinh Hoa Nghiêm nói người ấy trụ trong Nhất
Chân pháp giới, chẳng ở trong mười pháp giới.
Phật trong mười pháp giới là Tạng Giáo Phật,
hoặc Thông Giáo Phật. Biệt Giáo Phật chẳng trụ
trong mười pháp giới, Ngài nhập Nhất Chân pháp giới.
(Sao)
Cố nhất xưng Nam-mô Phật, giai dĩ thành Phật
đạo, bất độc Diệu Pháp Liên Hoa hữu
chi.
(鈔)故一稱南無佛,皆已成佛道,不獨妙法蓮華有之。
(Sao:
V́ thế, vừa xưng Nam-mô Phật, đều đă
thành Phật đạo, không phải là chỉ riêng kinh Diệu
Pháp Liên Hoa mới có).
Trong kinh Diệu Pháp
Liên Hoa có nói: “Nhất xưng
nam-mô Phật, giai dĩ thành Phật đạo” (Vừa
xưng nam-mô Phật, đều đă thành Phật đạo).
Quư vị phải hiểu: “Nhất
xưng nam-mô Phật” chính là chí tâm xưng niệm, thuộc
Lư nhất tâm, th́ mới có thể thành Phật. Chẳng phải
là Lư nhất tâm mà niệm th́ đừng nói là xưng niệm
một tiếng, dẫu xưng niệm một vạn lần,
mười vạn lần, hoặc trăm vạn lần cũng
chẳng có tác dụng chi hết, cũng chẳng đạt
được cảnh giới này. “Nhất xưng nam-mô Phật” như kinh Diệu Pháp
Liên Hoa đă nói có cùng một cảnh giới với “chí tâm niệm A Di Đà Phật”
mà đại sư đang nói ở đây!
(Sao)
Pháp Hoa Tam Muội Quán Kinh vân.
(鈔)法華三昧觀經云。
(Sao: Kinh Pháp Hoa Tam Muội
Quán nói).
Đây
là tên gọi của một bộ kinh.
(Sao)
Thập phương chúng sanh, nhất
xưng nam-mô Phật giả, giai đương tác Phật,
duy nhất Đại Thừa, vô hữu nhị tam.
(鈔)十方眾生,一稱南無佛者,皆當作佛,惟一大乘,無有二三。
(Sao:
Mười phương chúng sanh, nhất xưng nam-mô Phật,
sẽ đều làm Phật, chỉ có một Đại
Thừa duy nhất, chẳng có hai, ba thừa).
Đoạn
này nói rơ công đức niệm Phật là “duy nhất Đại Thừa”, ư nghĩa trong kinh
chẳng được nêu ra rất rơ rệt, kinh nói “mười
phương chúng sanh”. Mười phương chúng sanh
đương nhiên bao gồm bản thân chúng ta trong ấy.
“Nhất xưng”, mấu chốt
là “nhất”, quyết định
chớ nên sơ sót. “Nhất”
chẳng phải là con số, chẳng có nghĩa là “niệm
một tiếng nam-mô Phật”, chẳng phải vậy, mà
là nhất tâm xưng niệm. “Nhất”
có nghĩa là nhất tâm, lại c̣n là nhất tâm đạt
đến tột bậc, tức là Lư nhất tâm, chính là Lư
nhất tâm được nói trong bộ kinh này. Nói cách khác,
sử dụng cái tâm chân thành. Chân thành đến cùng cực,
ở đây chúng ta nói là Lư nhất tâm, dùng cái tâm như vậy
để niệm nam-mô Phật, sẽ thành Phật, “giai đương tác Phật”
(đều sẽ thành Phật). Điều này cũng chứng
minh [những điều được nói trong] Tam Phước
của Quán Kinh, điều cuối cùng có nói: “Phát Bồ Đề tâm, thâm tín nhân
quả” (Phát tâm Bồ Đề, tin sâu nhân quả), nhân
quả ấy chẳng giống nhân quả b́nh phàm, [mà là] “niệm Phật là nhân, thành Phật
là quả”. “Nhất xưng
nam-mô Phật” là nhân, “giai
đương tác Phật” (đều sẽ thành Phật)
là quả. V́ thế, pháp môn này là “duy
nhất Đại Thừa”. Cổ đại đức
phán định Pháp Hoa và Hoa Nghiêm đều là Nhất Thừa
Giáo, c̣n cao hơn Đại Thừa. Phật pháp được
chia thành các đẳng cấp, có Tiểu Thừa, có Đại
Thừa, có Nhất Thừa. Nhất Thừa là pháp môn dạy
thành Phật, Đại Thừa dạy thành Bồ Tát, Tiểu
Thừa dạy thành tựu Thanh Văn, Duyên Giác. Chúng ta thường
nói [Thanh Văn, Duyên Giác] là A La Hán, Bích Chi Phật. Thành tựu
những quả vị ấy th́ là pháp Tiểu Thừa. Thành
tựu quả vị Bồ Tát là pháp Đại Thừa. Dạy
quư vị trực tiếp thành Phật th́ gọi là pháp Nhất
Thừa. Hoa Nghiêm và Pháp Hoa đều thuộc loại Viên
Giáo Nhất Thừa, ở đây nói là “duy nhất Đại Thừa”. “Vô hữu nhị tam” (Chẳng có hai, ba thừa), “nhị” là hai thừa, tức
Đại Thừa và Tiểu Thừa; ba thừa là Thanh
Văn Thừa, Duyên Giác Thừa, và Bồ Tát Thừa. Pháp
môn này chẳng phải là pháp tam thừa, chẳng phải
là pháp nhị thừa, mà chỉ duy nhất là pháp Nhất Thừa.
“Duy nhất Đại Thừa”
là nói đến pháp Nhất Thừa.
(Sao)
Nhất thiết chư pháp, nhất tướng, nhất
môn.
(鈔)一切諸法,一相一門。
(Sao:
Hết thảy các pháp, một tướng, một môn).
Tiếp
đó, bèn có năm câu đều là kinh văn trích từ
Pháp Hoa Tam Muội Quán Kinh, câu này là câu thứ hai. Hai câu này
nêu rơ: V́ sao nhân quả niệm Phật thù thắng như vậy,
đạo lư ở chỗ nào? Nêu ra đạo lư.
(Diễn)
Nhất thiết chư pháp nhị cú, xuất kỳ sở
dĩ.
(演)一切諸法二句,出其所以。
(Diễn:
Hai câu “hết thảy các pháp…” nêu ra nguyên do).
Nói
rơ nguyên cớ.
(Diễn)
Vị: Hà cố nhất xưng Phật thời, giai
đương tác Phật, duy nhất Đại Thừa
da?
(演)謂:何故一稱佛時,皆當作佛,唯一大乘耶?
(Diễn: Ư nói v́ sao
khi “nhất xưng niệm Phật, sẽ đều thành
Phật” là duy nhất Đại Thừa?)
Nêu
ra câu hỏi như thế, dưới đây là lời giải
đáp:
(Diễn)
Viết: Dĩ nhất thiết chư pháp, duy nhất
tướng, bất nhị tướng, nhất hạnh,
bất nhị hạnh, cố duy Nhất Thừa.
(演)曰:以一切諸法,唯一相不二相,一行不二行,故唯一乘。
(Diễn: Đáp: Do hết
thảy các pháp, chỉ là một tướng, chẳng phải
là hai tướng; là một hạnh, chẳng phải là hai
hạnh. V́ thế chỉ là Nhất Thừa).
Giải
thích hết sức hay, đúng là giống như kinh Hoa
Nghiêm đă nói. Kinh Hoa Nghiêm bảo chúng ta: “Một tức là hết thảy, hết thảy chính
là một”, một là ǵ? Là nhất tâm. “Nhất thiết” là hết thảy các pháp, hết
thảy vạn pháp. Hết thảy vạn pháp biến hiện
từ nhất tâm, hết thảy các pháp môn cũng lưu
xuất từ nhất tâm. Tông Môn thường nói “vạn pháp quy nhất”, là nhất
tâm. Tu hành trong Thiền Tông là tu từ căn bản, căn
bản là nhất tâm. Tịnh Tông chúng ta cũng là tu trực
tiếp từ nhất tâm, niệm câu A Di Đà Phật, mục
đích là nhất tâm bất loạn, trực tiếp tu nhất
tâm. Nhất tâm thống nhiếp hết thảy các pháp môn, nhất
tâm bao dung hết thảy các pháp môn, nhất tâm bao trùm hết
thảy pháp môn. V́ thế, chỉ cần quư vị đắc
nhất tâm, sẽ đạt được hết thảy,
đó là nguyên lư. Nếu nói theo Sự, kinh Hoa Nghiêm nói: Lư Sự
vô ngại, Sự Sự vô ngại. “Nhất” chẳng phải là chuyên nhất, mà là bất
cứ một điều ǵ, bất cứ một pháp nào
cũng đều thống nhiếp hết thảy các pháp
môn. V́ sao? V́ bất cứ pháp nào cũng đều lưu
xuất từ nhất tâm. V́ thế, trong kinh Đại Thừa
mới nói: Trong một đầu lông, đầu lông là Sự.
“Đầu lông” là chót đầu
của một sợi lông, rất nhỏ, có Phật
đang chuyển đại pháp luân trong ấy. Trong một
đầu lông có Phật giảng kinh, thuyết pháp tại
nơi đó, hải hội vân tập. Đó là “lớn, nhỏ
chẳng hai”. Trong một đầu lông có thể dung nạp
cơi bảo vương. Đại thiên thế giới có thể
bỏ vào trong một đầu lông; đầu lông chẳng
ph́nh lớn, đại thiên thế giới chẳng rút nhỏ.
V́ sao có thể dung nạp? Đầu lông do nhất tâm biến
hiện, đại thiên thế giới cũng do nhất
tâm biến hiện, nhất tâm và nhất tâm chẳng có trở
ngại, chẳng có ngăn ngại. V́ thế, nhỏ có thể
dung nạp lớn, lớn có thể dung nạp nhỏ.
Chúng ta lớn nhỏ chẳng thể dung nạp nhau, là v́ quư
vị có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước,
nên “vốn là có thể dung nạp lẫn nhau” bị biến
thành “chẳng thể dung nạp”. Nếu quư vị tiêu trừ
hết thảy vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước, cảnh giới ấy sẽ hiện tiền.
Trong Phật pháp gọi đó là “cảnh
giới giải thoát chẳng thể nghĩ bàn”.
Các
nhà khoa học hiện thời cũng hiểu chuyện này,
nhưng họ chẳng thể chứng thực, chẳng
thể chứng minh, từ lư luận bèn suy đoán có sự
thật này. Họ nói các danh tướng chẳng giống
chúng ta. Chúng ta nói là pháp giới “Lư
Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại”, họ nói là “không gian nhiều chiều”;
đó chính là “Lư Sự vô ngại,
Sự Sự vô ngại” được nói trong kinh Hoa
Nghiêm. Nếu trong tương lai, khoa học tiến bộ
đến mức không gian có vô hạn chiều đồng
thời hiển hiện, đấy sẽ là cảnh giới
được nói trong kinh Hoa Nghiêm. Lúc ấy, quư vị sẽ
thật sự thấy trong một lỗ chân lông có Như
Lai giảng kinh, thuyết pháp, chuyển đại pháp luân.
Quư vị sẽ thật sự trông thấy, quyết định
chẳng có chướng ngại. Y báo và chánh báo trang nghiêm
trong mười pháp giới thảy đều ở
trước mặt, chẳng có quá khứ, mà cũng chẳng
có vị lai. V́ thế, thời gian và không gian đều là
khái niệm trừu tượng, chẳng phải là sự
thật chân chánh. Khoa học có lư luận này, nhưng chẳng
biết thực hiện bằng cách nào. Trong Phật pháp có
phương pháp để có thể thực hiện, dạy
quư vị tu nhất tâm bất loạn, đạt đến
Lư nhất tâm, cảnh giới ấy hoàn toàn hiện tiền,
đó là chân tướng của vũ trụ và nhân sinh. Hôm
nay chúng tôi giảng tới chỗ này!
A Di Đà Kinh Sớ Sao
Diễn Nghĩa
Phần 121 hết
[1] Thần Hội (681-758), thụy hiệu
là Chân Tông đại sư, là đệ tử trứ danh
của Lục Tổ Huệ Năng, quê
ở Tương Dương, tỉnh Hồ Bắc. Năm
mười bốn tuổi, Sư tham yết Lục
Tổ, hữu ngộ, dần dần nổi tiếng.
Năm Khai Nguyên 18 (730) đời Đường Huyền
Tông, Sư biện luận khiến cho môn đệ của
ngài Thần Tú thua thê thảm, bèn trở thành nổi danh
lừng lẫy, đồng thời xác lập địa
vị của Thiền Đốn Ngộ phương Nam,
khiến cho pháp Thiền của ngài Huệ Năng
được coi là chánh thống. Năm Khai Nguyên 20 (732),
trong cuộc biện luận tại Hoạt Đài, Sư
đánh bại danh tăng Sùng Viễn, chính thức xác
lập tông chỉ của Nam Tông, phê phán Bắc Tông
Thiền của Thần Tú là tiệm căn, tiệm tu.
Năm Thiên Bảo thứ tư (745), Sư viết Hiển
Tông Kư đề cao Nam Tông Thiền, danh xưng Đốn
Tông (thiền Huệ Năng) và Tiệm Tông (thiền
Thần Tú) được chính thức h́nh thành từ
đó. Do tận lực quyên góp, hô hào Phật tử đóng
góp quân phí giúp nhà Đường b́nh định loạn An
Lộc Sơn, sau khi đẹp tan loạn lạc,
Đường Túc Tông đă xuống chiếu vời
Thần Hội vào cung để cúng dường,
đồng thời lập chùa Hà Trạch trong cung
để thuận tiện cho Sư tu tập và giảng
pháp. V́ thế, người đương thời bèn
gọi Sư là Hà Trạch Thần Hội. Pháp Thiền do
Sư truyền bá được gọi là Hà Trạch Tông.
Do ḍng Thiền này lưu truyền tại kinh đô Lạc
Dương và các vùng lân cận, nên c̣n gọi là Bắc Tông
của Tào Khê Tông (thiền Huệ Năng). Do các đời
sau thiếu nhân tài nên tông này suy vi dần. Sau ngài Khuê Phong
Tông Mật th́ hầu như Tông này chẳng c̣n ai biết
đến. Nhất là khi đường lối Thiền
của các vị Thanh Nguyên Hành Tư và Nam Nhạc Hoài
Nhượng được coi là chánh thống của
thiền Đốn Ngộ phương Nam th́ Hà Trạch
Tông hoàn toàn biến mất.
[2] Thiền Tông Trung Hoa thường cho
rằng bài kệ này là lời huyền ngôn của Tổ
cho biết Thiền Tông về sau sẽ chia thành năm phái
lớn là Vân Môn, Tào Động, Pháp Nhăn, Quy Ngưỡng và
Lâm Tế.
[3] Năm thứ Biến Hành Tâm Sở là
Tác Ư, Xúc, Thọ, Tưởng, Tư. Nếu nói theo Tâm Lư
Học hiện thời, có thể hiểu thô thiển là
tương ứng với sự chú ư, cảm giác, tri giác,
t́nh cảm, và ư chí.
[4] Tam tế tướng
của A Lại Da là:
1) Vô Minh Nghiệp Tướng, c̣n gọi
tắt là Nghiệp Tướng. Do bất giác mà
động tâm. Hễ động, bèn có khổ. Do quả
chẳng ĺa nhân nên gọi là Nghiệp. Đây là
tướng đầu tiên từ chân khởi vọng.
2) Năng Kiến Tướng, c̣n gọi là Kiến
Tướng, hoặc Chuyển Tướng, tức là do tâm
đă động, bèn có cái thấy, khởi lên tâm nhận
thức đối tượng được thấy
bởi Căn một cách chủ quan.
3) Cảnh Giới Tướng: Do có cái thấy (năng kiến) của vọng
tâm mà có phân biệt cảnh giới hư vọng.
[5] Tam Luận Tông có danh
xưng như vậy v́ chuyên nghiên cứu yếu chỉ
của ba bộ Trung Luận (Mūlamadhyamakakārikā),
Thập Nhị Môn Luận (Dvādaśanikāyaśāstra) và Bách Luận
(Śatakaśāstra).
Thật ra, theo các nhà nghiên cứu, tại Trung Hoa, Tam Luận
Tông không phải là một tông phái độc lập mà là một
trường phái nghiên cứu, chứ không h́nh thành tông phái cụ
thể như những tông khác. Theo họ, những ai
đổ công dốc sức nghiên cứu ba bộ
luận trên đây đều có thể coi là thuộc
về Tam Luận Tông. Những vị được coi là
đặt nền móng cho tông này là Tăng Triệu, Liêu
Đông Tăng Lăng, Hưng Hoàng Pháp Lăng và Gia Tường Cát
Tạng. Tông này có thể coi là kế thừa tư
tưởng của Trung Quán học phái tại Ấn
Độ, đồng thời chịu ảnh hưởng
của những tông phái trước đó như
Địa Luận Tông, Nhiếp Luận Tông, Niết Bàn
Tông v.v… Khi cao tăng xứ Cao Ly là Huệ Quán (Hyegwan) truyền
học thuyết này vào Nhật Bản,
nó trở thành một tông phái riêng biệt. Danh xưng Tam
Luận Tông do pháp sư Ngưng Nhiên (Gyōnen) của Nhật Bản
đặt ra khi viết bộ Bát Tông Cương Yếu
Sao, tôn Văn Thù Bồ Tát là Sơ Tổ, Mă Minh là nhị
tổ, Long Thọ làm tam tổ. Do ngài Long Thọ có hai
đệ tử, nên lại chia thành hai chi phái: Chi phái
thứ nhất là do Long Thọ truyền cho Long Trí, rồi
lần lượt truyền thừa qua các đời
như Thanh Biện, Sư Tử Quang… Phái kia do ngài Long
Thọ truyền cho ngài Đề Bà (tác giả của
bộ Bách Luận), truyền thừa qua các đời
như La Hầu La Đa, Sa Xa Vương Tử, Cưu Ma
La Thập, sau đó truyền qua lịch đại pháp
sư tại Trung Hoa như Tăng Triệu, Pháp Dung,
Tăng Duệ, Đàm Vân, Đạo Hằng, Đàm Tế
v.v… Đàm Tế truyền cho ngài Cát Tạng. Ngài Huệ
Quán học Tam Luận với ngài Cát
Tạng. Do ngài Huệ Quán truyền Tam Luận vào Nhật,
Tam Luận Tông Nhật Bản (Sanron Shū)
tôn ngài Huệ Quán làm sơ tổ. Người
Nhật lại cho rằng tư tưởng Tam Luận
Tông trước thời ngài Gia Tường Cát Tạng là
Cổ Tam Luận, từ sau ngài Gia Tường trở
đi là Tân Tam Luận. Tuy thế, tại Nhật Bản, tông
phái này cuối cùng cũng bị ḥa nhập vào tông Thiên