A
Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa
阿彌陀經疏鈔演義
Phần 127
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Minh Tiến, Huệ Trang và
Đức Phong
Tập
253
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn
Nghĩa Hội Bản, trang năm trăm:
(Sao)
Bát tùng liên sanh giả.
(鈔)八從蓮生者。
(Sao: “Tám phẩm sanh từ
hoa sen”).
Tiếp
đó, giải thích: Có những kẻ chấp trước văn
tự trong kinh điển, thấy trong chương thượng
phẩm thượng sanh của Quán Kinh chẳng nói đến
hoa sen, từ thượng trung phẩm cho đến hạ
hạ phẩm đều nói có hoa sen. Do vậy bèn chấp
trước: Trong chín phẩm chỉ có tám phẩm là hóa sanh
trong hoa sen, thượng thượng phẩm chẳng có
hoa sen. Ở đây, Liên Tŕ đại sư trích dẫn khá
nhiều kinh văn để chứng tỏ thượng
phẩm thượng sanh cũng có hoa sen.
(Sao)
Cứ Quán Kinh thượng phẩm thượng sanh văn
vân: “Tự kiến kỳ thân, thừa kim cang đài”, độc
vô “liên hoa” nhị tự, cố ngôn “hạ chi bát phẩm,
năi tùng liên sanh”.
(鈔)據觀經上品上生文云:自見其身,乘金剛臺。獨無蓮華二字,故言下之八品,乃從蓮生。
(Sao: Căn cứ theo
kinh văn trong phần thượng phẩm thượng
sanh của Quán Kinh có nói: “Tự thấy thân ḿnh ngồi
đài kim cang”, chỉ riêng phẩm
này chẳng có hai chữ “hoa sen”; v́ thế nói: Tám phẩm dưới
đó mới là sanh từ trong hoa sen).
Nghi
vấn phát xuất từ chỗ này. Thật ra, đây chính
là đă trái nghịch giáo huấn Tứ Y của đức
Phật. Trong Tứ Y Pháp đă nói rất rơ ràng, dạy chúng
ta hăy “y nghĩa, đừng y ngữ”.
(Sao)
Nhiên kinh luận sở minh, lịch lịch giai thuyết
sanh Tây Phương giả, câu tùng liên sanh.
(鈔)然經論所明,歷歷皆說生西方者,俱從蓮生。
(Sao: Nhưng kinh luận
đă nói rơ, đều bảo rành rành: Người sanh về
Tây Phương đều sanh từ hoa sen).
“Câu” (俱) có nghĩa là nói: Hễ sanh về Tây Phương Cực
Lạc thế giới, bất luận phẩm vị cao hay
thấp, cho đến văng sanh trong Biên Địa, đều
là hóa sanh trong hoa sen.
(Sao)
Đại Bổn Pháp Tạng nguyện vân.
(鈔)大本法藏願云。
(Sao:
Trong kinh Đại Bổn, ngài Pháp Tạng nguyện rằng).
Trích
dẫn phần bốn mươi tám nguyện trong kinh Vô
Lượng Thọ.
(Sao)
Vô ương số thế giới, chư thiên nhân dân, dĩ
chí quyên nhuyễn.
(鈔)無央數世界,諸天人民,以至蜎蝡。
(Sao:
Vô ương số thế giới, chư thiên, nhân dân, cho
đến loài côn trùng ngọ nguậy).
“Quyên nhuyễn” (蜎蝡) chỉ tiểu
động vật, chúng ta hay nói chúng là nhuyễn thể tiểu
động vật (軟體小動物: động vật
nhỏ thân mềm), là một loại côn trùng.
(Sao)
Sanh ngă sát giả, giai ư thất bảo tŕ nội, liên
hoa trung hóa sanh, ngôn “giai”, tắc khái cử cửu phẩm.
(鈔)生我剎者,皆於七寶池內,蓮華中化生,言皆,則概舉九品。
(Sao: Sanh về cơi ta,
đều ở trong ao bảy báu, hóa sanh trong hoa sen. Nói là
“đều” tức là nói chung cả chín phẩm).
Nếu
trong đó có một loại chẳng phải là hóa sanh trong
hoa sen, sẽ chẳng thể dùng chữ Giai (皆: đều).
Đă dùng chữ Giai th́ toàn bộ đều được
bao gồm, trong ấy chẳng có sai biệt. Từ trong bổn
nguyện của Phật Di Đà, chẳng nói loại văng
sanh nào không có hoa sen!
(Sao)
Hựu vân: “Tha phương chư đại Bồ Tát, dục
kiến A Di Đà Phật giả, kính ư bỉ quốc
thất bảo tŕ nội, liên hoa hóa sanh”. Ngôn “đại Bồ
Tát”, tắc tất phi trung hạ hỹ.
(鈔)又云。他方諸大菩薩,欲見阿彌陀佛者,徑於彼國七寶池內,蓮華化生。言大菩薩,則必非中下矣。
(Sao: Lại nói: “Các vị
đại Bồ Tát từ phương khác muốn thấy
A Di Đà Phật, bèn nhanh chóng hóa sanh trong hoa sen nơi ao bảy
báu của cơi đó”. Nói là “đại Bồ Tát”, ắt chẳng
phải là trung hạ căn).
Đoạn
văn này nêu thêm một chứng cứ phụ. “Tha phương chư đại
Bồ Tát” (các vị đại Bồ Tát ở
phương khác). Trong kinh luận có thói quen là nếu thêm chữ
Đại vào trước Bồ Tát, chắc chắn vị
ấy là Địa Thượng Bồ Tát th́ mới gọi
là Đại. Đó là một thông lệ trong Phật môn.
Chúng ta thường gọi Ngài là Bồ Tát Ma Ha Tát. Ma Ha (Mahā) là Đại,
đại Bồ Tát được nói ở đây chính là
Ma Ha Tát (Mahāsattva). Nói Bồ Tát tức là nói tới
[các Bồ Tát thuộc những địa vị] Thập
Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng,
đó là các Bồ Tát thuộc địa vị Tam Hiền.
Lên cao hơn, từ Sơ Địa trở lên, chúng ta
đều gọi [các Ngài] là Đại Bồ Tát.
Đăng Địa Bồ Tát (Bồ Tát kể từ
Sơ Địa trở lên) văng sanh, tuyệt đối chẳng
phải là bậc trung hay bậc hạ, quyết định
là thượng thượng phẩm văng sanh. V́ thế, phần
kinh văn này nói “cũng là hóa
sanh trong hoa sen nơi ao bảy báu”, có thể cung cấp
cho chúng ta thêm một bằng chứng: Thượng phẩm
thượng sanh cũng là hóa sanh trong hoa sen.
(Sao)
Hựu vân: “Kỳ thượng bối giả, mạng dục
chung thời, Phật dữ thánh chúng, tất lai nghênh trí, tức
ư thất bảo tŕ nội, liên hoa hóa sanh”. Ngôn “thượng
bối”, tức chánh đối thượng phẩm hỹ,
tịnh vô tối thượng bất liên chi ư.
(鈔)又云:其上輩者,命欲終時,佛與聖眾,悉來迎致,即於七寶池內,蓮華化生。言上輩,即正對上品矣,並無最上不蓮之意。
(Sao: Lại nói: “Bậc
thượng là khi mạng sắp chấm dứt, Phật
và thánh chúng đều đến đón, liền ở trong
ao bảy báu, hóa sanh trong hoa sen”. Đă nói là “bậc thượng”,
tức là tương ứng khít khao với thượng phẩm
[trong Quán Kinh], trọn chẳng có ư nghĩa “phẩm bậc
văng sanh tối thượng chẳng có hoa sen”).
Nh́n
từ kinh văn, chúng ta chẳng thấy “thượng
thượng phẩm văng sanh không có hoa sen”, chẳng thấy
ư nghĩa ấy! Những điều đă dẫn trên
đây đều trích từ kinh Vô Lượng Thọ. Ba
đoạn dưới đây trích dẫn từ các kinh
điển khác để chứng minh.
(Sao)
Hựu Pháp Hoa vân: “Văn thử kinh điển, như thuyết
tu hành, mạng chung tức văng Cực Lạc thế giới.
A Di Đà Phật, đại Bồ Tát vi nhiễu trụ xứ,
sanh liên hoa trung, đắc Bồ Tát thần thông, Vô Sanh Pháp
Nhẫn”. Phù đắc Vô Sanh Nhẫn, phi thượng thượng
phẩm hồ?
(鈔)又法華云:聞此經典,如說修行,命終即往極樂世界,阿彌陀佛大菩薩圍繞住處,生蓮華中,得菩薩神通,無生法忍。夫得無生忍,非上上品乎?
(Sao: Lại nữa,
kinh Pháp Hoa nói: “Nghe kinh điển này, tu hành đúng như lời
dạy, mạng chung liền về thế giới Cực
Lạc. A Di Đà Phật và các vị đại Bồ Tát
vây quanh chỗ ở, sanh trong hoa sen, đắc thần
thông của Bồ Tát và Vô Sanh Pháp Nhẫn”. Phàm là người
đă đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, há chẳng phải là
thượng thượng phẩm ư?)
Kinh
Pháp Hoa nói như vậy. Chúng ta đọc kinh điển,
từng câu, từng chữ phải đọc cho kỹ, muôn
vàn chớ nên sơ sót! Thường là sai lầm một chữ,
hay một câu, chúng ta sẽ hiểu sai be bét ư nghĩa, tạo
thành sai lầm rất lớn. Có những kẻ thấy
kinh văn nói như thế đó, v́ đọc kinh [thấy
nói] kinh Pháp Hoa có công đức rất lớn, bèn niệm
kinh Pháp Hoa. C̣n có cái thói được truyền từ ngoại
quốc sang, chẳng niệm toàn bộ bản kinh, chỉ
niệm tựa đề kinh “Nam-mô
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh”[1],
có được hay không? Đối với chỗ này,
chư vị nhất định phải biết, quư vị
thấy kinh nói rơ ràng: “Như
thuyết tu hành” (Tu hành đúng như lời dạy).
Nghe kinh điển này mà nếu chẳng có thể tu hành
đúng theo lời dạy, vô dụng! Cho dù hằng ngày nghiêm
túc đọc tụng, giống như các vị đại
đức thời cổ có rất nhiều vị mỗi
ngày niệm một bộ kinh Pháp Hoa. Kinh Pháp Hoa niệm rất
nhuần nhuyễn, có thể niệm thuộc ḷng, đại
khái là niệm một bộ cũng phải mất ba, bốn
tiếng đồng hồ, kinh văn của kinh này có phân
lượng nhiều. Điều khẩn yếu là tu hành!
Không chiếu theo giáo huấn trong kinh điển ấy
để tu hành, [chỉ niệm suông] chẳng có tác dụng!
[Niệm tụng suông th́ chỉ] tốt lành nơi cái miệng
mà thôi! Chúng ta ắt cần phải thấy rơ ràng chuyện
này. Tôi khuyên mọi người “kẻ sơ học phải
đọc kinh, phải niệm kinh cho nhuần nhuyễn”,
đó là giai đoạn thứ nhất. V́ nếu chẳng thông
thuộc kinh, chẳng ghi nhớ, nói đến chuyện tu
hành sao được! Ắt cần phải nhớ rất
thuần thục giáo huấn trong kinh điển, [để
rồi] trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta gặp sự,
gặp người, gặp vật, khởi tâm động
niệm, ngay lập tức có thể nghĩ xem trong kinh
đức Phật đă dạy chúng ta làm như thế
nào. Nương theo giáo huấn trong kinh điển để
làm tiêu chuẩn ḥng tu chỉnh cách nghĩ, cách nh́n, cách nói,
cách làm sai lầm của chính ḿnh, đó là “như thuyết tu hành” (tu hành đúng theo lời dạy).
Trong mười đại nguyện vương của Phổ
Hiền Bồ Tát có nói tới cúng dường; trong ấy
cũng nói: “
(Sao)
Hựu Hạnh Nguyện phẩm, Phổ Hiền Bồ Tát
dĩ thập đại nguyện vương đạo
quy Cực Lạc, nhi viết: “Bỉ Phật chúng hội
hàm thanh tịnh, ngă thời ư thắng liên hoa sanh”.
(鈔)又行願品,普賢菩薩以十大願王導歸極樂,而曰:彼佛眾會咸清淨,我時於勝蓮華生。
(Sao: Lại trong phẩm
Hạnh Nguyện, Phổ Hiền Bồ Tát dùng mười
đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc,
đă nói: “Chúng hội Phật ấy đều thanh tịnh,
lúc ấy, ta sanh trong hoa sen thù thắng”).
“Bỉ Phật” là A Di Đà Phật,
“chúng hội” là Liên Tŕ hải
hội, Phật và Bồ Tát đều thanh tịnh. “Ngă thời ư thắng liên hoa sanh”
(Khi ấy, ta sanh trong hoa sen thù thắng): Phổ Hiền Bồ
Tát văng sanh bèn hóa sanh trong hoa sen. Phổ Hiền là Hậu Bổ
Phật của Tỳ Lô Giá Na Phật trong hội Hoa Tạng,
là Đẳng Giác Bồ Tát trong Viên Giáo. Xin hỏi Ngài sanh về
Tây Phương Cực Lạc thế giới th́ là phẩm
vị ǵ? Đương nhiên là thượng thượng
phẩm, c̣n có ǵ tranh căi nữa chăng? Đấy là do Phổ
Hiền Bồ Tát đích thân nói ra: Ngài sanh về thế giới
Cực Lạc, hóa sanh trong hoa sen. Đó là trực tiếp
chứng minh: Tuy Quán Kinh chẳng nói thượng thượng
phẩm hóa sanh trong hoa sen, nhưng Phổ Hiền Bồ Tát
đă bảo: Thượng phẩm thượng sanh là hóa
sanh trong hoa sen.
(Sao)
Phù Phổ Hiền văng sanh, phi thượng thượng phẩm
hồ?
(鈔)夫普賢往生,非上上品乎?
(Sao:
Ngài Phổ Hiền văng sanh, há chẳng phải là thượng
thượng phẩm ư?)
Đấy
là đạo lư nhất định.
(Sao)
Hựu Bảo Tích minh thập tâm hồi hướng, hậu
đắc liên hoa hóa sanh. Phù thập tâm Bồ Tát, phi thượng
thượng phẩm hồ? Dĩ thị tham khảo, xác hữu
minh chứng.
(鈔)又寶積明十心回向,後得蓮華化生。夫十心菩薩,非上上品乎?以是參考,確有明證。
(Sao: Lại nữa,
kinh Bảo Tích nói mười tâm hồi hướng; sau
đấy, sẽ được hóa sanh trong hoa sen. Hàng Bồ
Tát viên măn mười tâm ấy há chẳng phải là thượng
thượng phẩm ư? Dùng những điều ấy
để tham khảo, đích xác là có chứng cứ rơ rệt).
V́
thế, những vị Bồ Tát ấy xác thực là đă
sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới,
đều là thượng thượng phẩm.
(Sao)
Vấn: Quả nhĩ, tắc thượng thượng
văn trung, hà dĩ viết kim cang đài, bất viết
liên hoa?
(鈔)問:果爾,則上上文中,何以曰金剛臺,不曰蓮華。
(Sao: Hỏi: Nếu
đúng là như vậy, cớ sao kinh văn giảng về
thượng thượng phẩm lại nói là đài kim
cang, chẳng nói là hoa sen?)
“Quả nhĩ” (果爾) [nghĩa là] quả
nhiên là như thế. V́ sao kinh văn của phần thượng
thượng phẩm trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật
chẳng nói hoa sen, mà nói là đài kim cang? Đại sư giả
lập một đoạn vấn đáp nhằm giúp chúng ta
đoạn nghi sanh tín.
(Sao)
Đáp: Văn hỗ hữu vô, bất túc nệ cố.
(鈔)答:文互有無,不足泥故。
(Sao:
Đáp: Văn lần lượt có nói hoặc không, chẳng
đáng để câu nệ).
Hai
câu này chính là “y nghĩa, bất
y ngữ” trong Tứ Y Pháp; chớ nên chấp trước
văn tự! Trong văn tự có tỉnh lược,
nhưng ư nghĩa viên măn, phải hiểu đạo lư này.
(Sao)
Hà dĩ tri chi? Thượng phẩm trung sanh, diệc viết
thừa tử kim đài.
(鈔)何以知之?上品中生,亦曰乘紫金臺。
(Sao: V́ đâu mà biết?
Trong [phần kinh văn nói về] thượng phẩm
trung sanh cũng nói là “ngồi đài tử kim”).
Có
thể thấy: Hễ sanh về Tây Phương Cực Lạc
thế giới đều là hóa sanh trong hoa sen. Trong hoa sen, nhất
định có đài sen. V́ thế, [kinh nói hành nhân thượng
phẩm trung sanh] ngồi trên đài tử kim.
(Sao)
Hựu tương viết thất tùng liên sanh hồ? Huống
trung phẩm chi hạ, diệc đản vân “thử nhân mạng
chung, thí như tráng sĩ khuất thân tư khoảnh, tức
sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới”, văn
trung tịnh vô “liên hoa” nhị tự, hựu tương viết
lục tùng liên sanh hồ?
(鈔)又將曰七從蓮生乎?況中品之下,亦但云此人命終,譬如壯士屈伸臂頃,即生西方極樂世界,文中並無蓮華二字,又將曰六從蓮生乎?
(Sao: [Cứ câu nệ
theo văn tự như vậy] sẽ lại nói [chỉ có]
“bảy phẩm sanh từ liên hoa” ư? Huống chi trong phần
trung phẩm hạ sanh cũng chỉ nói: “Người ấy
mạng chung, ví như trong khoảnh khắc tráng sĩ co duỗi
cánh tay, liền sanh về
Cứ
[câu nệ] theo văn tự để nói, vấn đề
trong ấy sẽ khá nhiều! V́ thế, có chỗ nói rơ, có
chỗ tỉnh lược, nhất định phải hiểu
ư nghĩa này.
(Sao) Phù kư dĩ bất
liên vi thắng, tắc trung hạ liệt phẩm, hà dĩ
bất liên?
(鈔)夫既以不蓮為勝,則中下劣品,何以不蓮?
(Sao: Nếu đă coi “chẳng
nói đến hoa sen là thù thắng”, cớ sao trung phẩm hạ
sanh[2] là phẩm vị
kém cỏi chẳng nói đến hoa sen?)
“Bất liên” (不蓮) là chẳng có hoa
sen. Nếu coi chẳng có hoa sen là tối thắng, [do viện
cớ] thượng thượng phẩm chỉ có kim cang
đài, chẳng có hoa sen; [cứ cho rằng] “chẳng có hoa
sen là tối thắng”, nếu quư vị nghĩ kiểu
đó, ở đây, đại sư liền chất vấn:
Cớ sao trung phẩm hạ sanh là phẩm vị kém cỏi
lại chẳng có hoa sen?
(Sao)
Hựu trung phẩm chi thượng, độc viết “liên
hoa đài”, kỳ kim cang đài, tử kim đài chi loại
hồ? Kỳ liên hoa chi loại hồ? Thác tạp bất
luân, tấn thoái vô cứ.
(鈔)又中品之上,獨曰蓮華臺,其金剛臺紫金臺之類乎?其蓮華之類乎?錯雜不倫,進退無據。
(Sao: Lại nữa,
đối với trung phẩm thượng sanh, chỉ nói
là “liên hoa đài”, vậy là cùng loại với kim cang
đài và tử kim đài, hay là thuộc loại liên hoa? [Nếu
cứ khăng khăng câu nệ văn tự để rồi
tranh căi “chín phẩm có đều sanh trong hoa sen hay không”, lập
luận] sẽ trở thành lộn xộn, không có lớp
lang, biện định tới lui đều chẳng có
căn cứ).
Nói
hoa sen, chẳng nói đến đài; nói đài kim cang, chẳng
nói đến hoa sen, đều là tỉnh lược từ
ngữ. Ở đây, đại sư dạy chúng ta “bất túc nệ cố” (chẳng
đáng để câu nệ). Nay ta nói “nệ” (泥) là chấp trước tướng
văn tự. Chớ nên chấp trước tướng
văn tự, biết lời Phật thuyết pháp về
sau được kết tập thành kinh bổn, trong chín
câu ấy có sự tỉnh lược lẫn nhau. Trong phẩm
này, chuyện này đă nói rất tường tận, phẩm
kia bèn tỉnh lược đôi chút. Trong phẩm kia, chuyện
kia đă được nói tường tận, th́ trong phẩm
này bèn tỉnh lược đôi chút; thật ra đều
là như nhau, phải hiểu rơ sự thật này!
(Sao)
Chước tri văn hỗ khuyết nhi nghĩa tất
châu dă.
(鈔)灼知文互缺而義必周也。
(Sao: Biết rành rành là lời văn do tỉnh lược
lẫn nhau mà có chỗ chẳng nói, nhưng ư nghĩa ắt
trọn đủ).
Trong
văn tự có chỗ khiếm khuyết, nhưng ư nghĩa
nhất định là viên măn, phải hiểu đạo lư
này. Đó cũng là chân tướng sự thật.
(Sao)
Ngu ư các hữu liên hoa, hoa các hữu đài, đài các bất
đồng, nhi kim cang vi đài chi tối thắng nhĩ.
(鈔)愚意各有蓮華,華各有臺,臺各不同,而金剛為臺之最勝耳。
(Sao: Theo ngu ư, mỗi phẩm văng sanh đều có hoa sen, mỗi
hoa đều có đài, đài hoa trong mỗi phẩm khác
nhau, nhưng kim cang làm đài là tối thắng).
Liên
Tŕ đại sư nói kiểu này, ư nghĩa rất viên măn.
Tôi vừa mới nói, bất luận là phẩm vị ǵ,
đều là hóa sanh trong hoa sen, cho tới trong Biên Địa
cũng chẳng phải là ngoại lệ. Trong hoa sen nhất
định có đài, hoa sen và đài sen xác thực là khác
nhau, v́ sao khác nhau? Thế giới Tây Phương là một
thế giới b́nh đẳng, chỉ riêng có chuyện này
là bất b́nh đẳng. Thế giới b́nh đẳng là
do hưởng phước báo của A Di Đà Phật, A Di
Đà Phật ban cho chúng ta b́nh đẳng, nhưng hoa sen và
đài sen do Tịnh nghiệp của chính ḿnh biến hiện,
sẽ chẳng giống nhau. Mỗi cá nhân chúng ta có công phu tu
hành sâu hay cạn khác nhau. Sâu hay cạn là nói như thế
nào? Là mức độ tinh thuần trong cái tâm thanh tịnh,
là tầng cấp đoạn phiền năo. Công phu sâu, phá mấy
phẩm vô minh, đắc Lư nhất tâm bất loạn. Công
phu nông cạn, giống như bọn chúng ta trong
tương lai có thể văng sanh, tuyệt đại đa
số là chưa đoạn phiền năo, chỉ chế phục,
khống chế mà thôi. Đó là công phu nông cạn nhất! Người
có công phu sâu, hoa sen to, quang minh và màu sắc [của hoa sen] cũng
thù thắng, đài sen đương nhiên sẽ khác hẳn.
Công phu kém hơn một bậc, hoa sen sẽ nhỏ, quang
minh và màu sắc thua kém người công phu sâu, đài hoa
trong ấy đương nhiên cũng chẳng bằng
người ta. Chúng ta biết sự thật này, quư vị hăy
nên biết hiện tại phải nên làm như thế nào?
Pháp thế gian là giả, chẳng có ǵ là thật! “Phàm những ǵ có h́nh tướng
đều là hư vọng”. Tục ngữ thường
nói: “Sanh chẳng mang ǵ đến,
chết không mang theo đi”. Huống hồ trong thế
gian hiện tiền, tai nạn dồn dập, chúng ta lắng
ḷng quan sát xă hội này sẽ biết: Hiện tượng
trong xă hội là quả, quả ắt có nhân. Nh́n vào quả
sẽ biết nhân, nh́n vào nhân bèn biết quả báo trong tương
lai. Nay chúng ta đă hiểu: Chân thật nhất, thù thắng
nhất trong hết thảy các pháp, không ǵ hơn Tây
Phương Cực Lạc thế giới. Nay chúng ta tranh
thủ điều ǵ? Xác thực là người thông minh nhất
sẽ nhất tâm nhất ư giữ lấy Tây Phương Cực
Lạc thế giới, những thứ khác đều chẳng
màng! Đó là người thật sự triệt để
giác ngộ. Chúng ta hăy xem thí dụ dưới đây.
(Sao)
Như Hoài Ngọc ngân đài sơ lai, kim đài kế chí,
khả nghiệm dă.
(鈔)如懷玉銀臺初來,金臺繼至,可驗也。
(Sao: Như ngài Hoài Ngọc
thoạt đầu thấy đài bạc, kế đó thấy
đài vàng hiện đến. [Chuyện này] có thể chứng
nghiệm [đài hoa trong mỗi phẩm vị khác nhau]).
Trong
chuyện văng sanh của Hoài Ngọc đại sư, Tịnh
Độ Thánh Hiền Lục có [ghi chép chuyện này], Văng
Sanh Truyện cũng có. Có thể coi vị này là người
rất có chí khí, suốt đời niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ. Khi lâm chung A Di Đà Phật hiện
đến, cầm hoa sen đến tiếp dẫn Sư.
Sư vừa thấy hoa sen ấy là đài bạc, tự
nghĩ chính ḿnh suốt đời tinh tấn nỗ lực
niệm Phật như vậy mà chẳng thể đạt
tới phẩm vị lư tưởng. Do vậy, đối
trước đức Phật phát phẫn: “Con tiếp tục
nỗ lực, hy vọng Phật có thể cầm đài
vàng đến tiếp dẫn con”. Đức Phật hết
sức từ bi, cho Sư măn nguyện. Phật ra đi,
Sư lại tiếp tục tinh tấn nỗ lực chẳng
ngừng, lại niệm thêm một tuần, đức Phật
lại tới. Sư thấy hoa sen quả nhiên là đài
vàng, bèn theo Phật ra đi. Có phải là A Di Đà Phật niệm
t́nh đổi đài vàng cho Sư hay không? Chẳng phải
vậy! Hoa sen và đài hoa là do công phu của chính ḿnh biến
hiện, chẳng liên quan ǵ đến A Di Đà Phật.
Đến khi quư vị lâm chung, kinh đă giảng rất
rơ ràng: Chúng sanh trong mười phương thế giới
vừa phát nguyện, tâm tưởng cầu sanh thế giới
Tây Phương, trong ao bảy báu của A Di Đà Phật
liền trổ một đóa sen. Trên hoa sen c̣n có tên họ của
chính ḿnh, làm sao có thể lầm lẫn cho được?
Công phu niệm Phật của quư vị càng sâu, hoa sen ấy
càng ngày càng to. Từ kinh văn, chúng ta thấy: Hoa sen trong
ao bảy báu có hoa to một do-tuần, có hoa to mười do-tuần,
trăm do-tuần, ngàn do-tuần. Có thể thấy là lớn
nhỏ không giống nhau, quang minh và màu sắc cũng khác. Nếu
chúng ta muốn hoa sen rất lớn, rất thù thắng, nếu
muốn kim đài hay kim cang đài, phải thật sự
tu th́ mới được! Chẳng phải do A Di Đà Phật
tặng cho quư vị, mà là do tịnh nghiệp của chính
quư vị tự nhiên biến hiện. A Di Đà Phật giúp
đỡ chúng ta, khi chúng ta lâm chung, A Di Đà Phật cầm
hoa sen ấy đến tiếp dẫn. Hoa sen chẳng phải
do A Di Đà Phật tự trồng, mà do tịnh nghiệp
của chính chúng ta biến hiện, nhưng A Di Đà Phật
đă ban cho chúng ta một hoàn cảnh rất tốt: Ao sen
bảy báu, nước tám công đức là do A Di Đà Phật
trao cho, nhất định phải biết điều này.
V́ thế, người thật sự thông minh, thật sự
triệt để giác ngộ, hăy nên buông xuống hết
thảy, nghiêm túc niệm Phật.
Kinh
giáo, nói thật thà, không trọng yếu! Chẳng cần phải
lăng phí thời gian nơi kinh giáo. Ấn Quang đại
sư là tấm gương tốt nhất cho chúng ta trong thời
cận đại. Đạo tràng của lăo nhân gia là Linh
Nham Sơn Tự ở Tô Châu, hiện thời chúng ta du lịch
văn cảnh hết sức thuận tiện, các đồng
tu học Phật gần như đều có thể đến
viếng núi Linh Nham. Niệm Phật Đường của
Ngài hiện thời vẫn niệm Phật y hệt, mỗi
ngày [niệm Phật] sáu cây hương, giống hệt
như đả Phật Thất thông thường, nhưng
buổi tối có nghỉ ngơi. Đạo tràng chẳng
giảng kinh, mà cũng chẳng có pháp hội, chẳng có Phật
sự, chuyên nhất niệm Phật, rất có lư. Đặc
biệt là trong thời đại này, thưa cùng chư vị,
pháp môn này khế hợp căn cơ của hết thảy
chúng sanh nhất. Kiến lập một đạo tràng
như vậy, chư Phật hộ niệm, long thiên thiện
thần gia hộ, quư vị niệm một câu Phật hiệu
đến cùng, quyết định chẳng sai! Nếu muốn
học kinh giáo để trong tương lai phát nguyện
hoằng pháp lợi sanh, cũng ắt phải niệm Phật
cho vững vàng rồi sau đấy mới học. Niệm
Phật vững vàng, chính ḿnh nắm chắc văng sanh, bèn dành
thời gian nơi kinh giáo, đấy là không màng đến
chính ḿnh, ta nguyện thà hy sinh phẩm vị của chính
ḿnh, học làm Bồ Tát phổ độ chúng sanh. Nếu nói
độ chúng sanh mà chính ḿnh trong tương lai chẳng thể
văng sanh, hỏng bét! Độ chúng sanh kiểu đó chỉ
sợ vẫn là tạo tội nghiệp. V́ sao nói là tạo
tội nghiệp? Cổ nhân nói: Đối với kinh
điển, “nói sai một chữ
chuyển ngữ, đọa thân chồn hoang năm trăm
đời”, giảng sai một chữ đấy nhé! Quư
vị có thể giảng sai kinh điển hay chăng? Nhất
định là giảng sai! V́ sao nói nhất định sẽ
bị giảng sai? V́ quư vị chưa đoạn phiền
năo, tâm chưa thanh tịnh, c̣n có thị phi, nhân ngă, c̣n có tham,
sân, si, mạn, dùng cái tâm như vậy để nhập
Đại Thừa của Như Lai, Thanh Lương đại
sư nói là “hữu giải vô hạnh”,
Giải (解) là nghiên cứu kinh luận, Hạnh
(行) là tu tŕ. Chẳng có tu tŕ, chẳng đoạn phiền
năo, kết quả là “tăng
trưởng tà kiến”. Quư vị dùng tà tri tà kiến để
giáo hóa chúng sanh, có phải đọa trong tam đồ hay
không? Quư vị có phải gánh trách nhiệm hay không? Ấn
Quang đại sư từ bi, chẳng để cho quư vị
làm chuyện sai quấy, không để cho quư vị đọa
lạc. V́ thế, lăo nhân gia thẳng thừng chẳng giảng
kinh, mà cũng chẳng cổ vũ, khích lệ kẻ khác giảng
kinh, chỉ khuyên quư vị niệm A Di Đà Phật, quyết
định chẳng có lầm lỗi!
Do vậy,
tại Trung Hoa từ xưa tới nay, trong đạo tràng,
tổ sư đại đức bồi dưỡng nhân
tài hoằng pháp chẳng giống như mở Phật Học
Viện chiêu sinh trong hiện thời, mà là từ trong tứ
chúng đệ tử, trải qua quan sát kỹ lưỡng
một thời gian dài, [thấy kẻ nào] xác thực là có
căn tánh, có năng lực, bèn chọn ra để đặc
biệt bồi dưỡng. Vào thời cổ, bồi
dưỡng người hoằng pháp gọi là “giảng tiểu ṭa” (講小座), nghĩa là: Trong
buổi giảng kinh của pháp sư, quư vị ở
đó nghe. Sau khi nghe xong, quư vị lên đài giảng một
lượt, nhắc lại lời giảng của pháp
sư trước đó một lượt. Có thể giảng
được bảy mươi, tám mươi phần trăm
th́ người ấy có thể bồi dưỡng. Nếu
chẳng có năng lực ấy, sẽ chẳng khuyên quư vị
[học giảng kinh, hoằng pháp], khuyên quư vị vô dụng!
V́ thế, nhân tài hoằng pháp rất ít, xác thực là phải
có khả năng thiên phú ấy. Lại c̣n thật sự chịu
tiếp nhận sự chỉ dạy th́ mới có thể ra
[hoằng pháp]. Không tiếp nhận sự chỉ dạy,
chẳng có cách nào hết! Rất dễ lọt vào phường
cuồng huệ, tự cho là đúng! Nhất định là
phải tiếp nhận sự chỉ dạy, phải được
rèn giũa, th́ mới có thể trở thành đại khí.
V́ thế, chuyện này chẳng phải là ai cũng có thể
làm được. Bản thân chúng ta có nguyện vọng ấy,
nhưng có năng lực ấy hay chăng? Chẳng có năng
lực ấy th́ có thể bồi dưỡng, bồi
dưỡng như thế nào? Đoạn phiền năo. Phiền
năo đă đoạn hết, trí huệ bèn mở mang, hễ
quư vị có nguyện vọng ấy bèn đạt
được. Nhất định là phải đoạn
phiền năo, mở mang trí huệ th́ mới được.
Nói cách khác, tâm địa đă thanh tịnh. Tâm thanh tịnh
đối với cảnh giới bên ngoài là Chiếu Kiến,
lục căn tự nhiên thông minh, vừa nghe, vừa thấy
bèn khai ngộ, bèn hiểu rơ. Khi đó, phát nguyện hoằng
pháp lợi sanh chẳng khó! Do vậy có thể biết, công
tác cơ sở là đoạn phiền năo, cũng là phải
tu Định. Trước hết là định cái tâm, do Giới
sanh Định, do Định khai Huệ. V́ thế, Giới
là cội gốc của Vô Thượng Bồ Đề. Giới
luật là tuân thủ quy củ. Quư vị chẳng tuân thủ
quy củ, sẽ không thể đắc Định. Trong Niệm
Phật Đường, dạy quư vị trong mười
hai thời hăy thật thà niệm Phật, đấy là giới
luật, quư vị phải tuân thủ. Niệm mấy
năm, phiền năo nhẹ nhàng, tâm thanh tịnh, quư vị
đắc Định, đắc Niệm Phật tam-muội,
cũng gọi là nhất tâm bất loạn. Sau khi đă
đắc nhất tâm, có năng lực, có hứng thú, có
chí nguyện, có thể học Giáo để hoằng pháp lợi
sanh, lại làm chuyện ấy. Đi theo con đường
ấy là đúng, tŕnh tự ấy chẳng sai, mới có thể
thành công. “Phật thị môn trung,
hữu cầu tất ứng” (Trong cửa nhà Phật,
có cầu, ắt ứng), sư Hoài Ngọc cầu đài
vàng, đến cuối cùng, quả nhiên đài vàng hiện
tiền, măn nguyện văng sanh. Đài vàng hiện tiền là thượng
phẩm thượng sanh.
(Sao)
Thả đài chi nghĩa nhị.
(鈔)且臺之義二。
(Sao: Đài lại có
hai nghĩa).
Đài
có hai ư nghĩa.
(Sao)
Nhất giả cơ đài chi đài, tắc đài tại
hoa hạ, như thế khắc tượng, hạ tác bảo
đài, đài thượng an hoa, hoa thượng an Phật,
thị dă.
(鈔)一者基臺之臺,則臺在華下,如世刻像,下作寶臺,臺上安華,華上安佛,是也。
(Sao: Một là cái
đài làm bệ nâng đỡ, tức là cái đài ở
dưới hoa, như trong cơi đời khắc tượng:
Phía dưới tạo đài báu, trên đài đặt hoa,
trên hoa đặt tượng Phật, là như thế
đó).
Mọi
người thấy rất nhiều tượng Phật,
bất luận là tượng đắp nặn hay tranh vẽ,
phía dưới đều có một cái đài, hoa sen ở
trên đài.
(Sao)
Nhị giả, pḥng đài chi đài, tắc đài tại
hoa nội.
(鈔)二者房臺之臺,則臺在華內。
(Sao:
Hai là đài ở trong búp hoa, tức là đài ở trong
hoa).
Đó
là đài ở trong hoa sen. Chúng ta gọi thông tục là “gương sen”, đấy
chính là đài sen, nó ở trong hoa, Phật ngồi nơi đâu?
Phật ngồi trên đài sen.
(Sao)
Như Pháp Hoa Huyền Nghĩa, dĩ liên biểu Thập
Như. Chí Như Thị Báo văn vân: “Thí như liên thật
vi nhiễu pḥng đài”.
(鈔)如法華玄義,以蓮表十如;至如是報文云:譬如蓮實圍繞房臺。
(Sao: Như sách Pháp Hoa
Huyền Nghĩa dùng hoa sen để biểu thị mười
món Như Thị, đến phần giảng về Như
Thị Báo bèn nói: “Ví như hạt sen vây quanh cái gương
sen”).
“Liên thật” (蓮實) là hạt sen, “pḥng đài” (房臺) là gương
sen. Hạt sen vây quanh gương sen, đó là đài hiểu
theo nghĩa “pḥng đài”. “Liên
biểu Thập Như” (Hoa sen biểu thị mười
món Như Thị). Đối với tông Thiên Thai, Thập
Như cũng là tinh nghĩa (精義) của kinh Pháp
Hoa, [tinh nghĩa] chính là nghĩa lư tinh hoa. V́ sao nói nó là tinh
hoa? Chỉ dùng mười câu để nói đơn giản
mà rành mạch, rơ rệt về chân tướng của vũ
trụ và nhân sinh, đúng là chẳng dễ dàng! V́ thế,
chúng ta phải nhớ kỹ Thập Như Thị.
(Diễn)
Thập Như, tức như thị tướng, như thị
tánh, như thị thể, như thị lực, như thị
tác, như thị nhân, như thị duyên, như thị quả,
như thị báo, như thị bổn mạt cứu cánh.
(演)十如,即如是相,如是性,如是體,如是力,如是作,如是因,如是緣,如是果,如是報,如是本末究竟。
(Diễn: Thập
Như là tướng như thế, tánh như thế, thể
như thế, lực như thế, tác như thế, nhân
như thế, duyên như thế, quả như thế, báo
như thế, gốc ngọn rốt ráo như thế).
Quư
vị thấy đó, đơn giản lắm! Chân tướng
của vũ trụ và nhân sinh đă được giăi bày
trọn hết. Hết thảy các kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật
đă nói trong bốn mươi chín năm nhằm nói chuyện
này. V́ thế, kinh điển mở đầu bằng “như thị ngă văn”.
Điều ǵ “như thị”?
Chính là những điều này!
(Diễn)
Nhất thiết chư pháp, bất ly ư thử.
(演)一切諸法,不離於此。
(Diễn:
Hết thảy các pháp chẳng ĺa những điều ấy).
“Nhất thiết chư pháp” là
hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian.
Không chỉ là Phật pháp, mà pháp thế gian cũng
được bao gồm trong ấy, lớn như hư không,
thế giới, nhỏ như vi trần, lỗ chân lông, mỗi
một pháp đều trọn đủ mười chuyện
này. V́ thế, từ mười chuyện ấy mà quan sát hết
thảy các pháp, quư vị mới thấy chân tướng.
Chúng ta thường chẳng nói cặn kẽ như thế,
thông thường để giới thiệu hết thảy
các pháp bèn dùng Thể, Tướng, Dụng. Thông thường
nói là Thể, Tướng, Dụng, tức là Thể và Tánh
được gộp trong Thể, những thứ khác
đều bao gồm trong Dụng hoặc Tướng. Nói
cách khác, Thể, Tướng và Dụng triển khai thành Thập
Như Thị, Thập Như Thị quy nạp thành Thể,
Tướng, Dụng. Thể, Tướng, Dụng là nói
đại lược, Thập Như Thị là nói chi tiết.
(Diễn)
Như thị giả, chỉ pháp chi từ, vị chư
pháp hữu như thị chi tướng, như thị chi
tánh, năi chí như thị nhi cùng tận, vô phi Thật Tướng
dă.
(演)如是者,指法之辭。謂諸法有如是之相,如是之性,乃至如是而窮盡,無非實相也。
(Diễn: “Như thị”
là từ ngữ biểu thị pháp, ư nói: Các pháp có tướng
như thế, có tánh như thế, cho đến cùng tận
như thế, không ǵ chẳng phải là Thật Tướng).
“Như thị tướng” là
ǵ? Tướng là hiện tượng, Tướng là h́nh
tướng. H́nh tướng th́ mắt chúng ta có thể thấy,
tay chúng ta có thể sờ. Nó có màu sắc, có h́nh trạng, có
tướng trạng. Động vật, thực vật,
và khoáng vật có h́nh trạng và sắc tướng riêng của
chúng. Hiện tượng th́ có tướng, nhưng chẳng
có h́nh thể, giống như chúng ta thấy mây trong không
trung, bóng trăng trong nước. Chúng có h́nh tướng, nhưng
chẳng có thật thể. Quư vị có thể trông thấy,
nhưng chẳng thể sờ mó được, đó là hiện
tượng. [Chữ Tướng] bao gồm hết thảy
các tướng (h́nh tướng và hiện tượng) ở trong ấy. V́ sao nói là Như
Thị? Trong ấy có ư nghĩa sâu xa, tướng do đâu
mà có? Tướng là cái được hiện (sở
hiện), nhất định là phải có một cái có thể
hiện (năng hiện). Chẳng có một cái có thể hiện,
làm sao có tướng được hiện cho được?
Cái có thể hiện là Tánh, là Thể. Tánh Thể là ǵ? Là chân
tâm của chúng ta, c̣n gọi là Chân Như. Những tướng
được biến hiện bởi chân tâm có phải là
thật hay không? Đương nhiên là thật; một thứ
là thật th́ hết thảy đều thật! Cổ nhân
dùng một tỷ dụ để nói, ví như “dùng vàng làm đồ vật, món
nào cũng là vàng”. Vàng là cái có thể hiện, Tướng
là cái được hiện. Chúng ta thích tượng Phật,
đem vàng đúc thành một tượng Phật, tượng
ấy có phải là vàng hay không? Tượng là vàng, vàng là
tượng. Đối với người khai ngộ,
người minh tâm kiến tánh, thầy của kẻ ấy
hỏi: “Tánh ở chỗ nào?” Người ấy bèn nhặt
một mẩu lá cỏ ở bên ngoài để sánh ví,
người đă hiểu rơ bèn gật gù: “Chẳng sai!” Chẳng
có một pháp nào không phải, pháp nào cũng đều là [Tánh].
Phải rất chú tâm lănh hội điều này, chẳng có
một pháp nào không phải là Tánh; đó gọi là Như Thị.
Tướng giống như Tánh, Tánh giống như Tướng.
Ĺa Tánh chẳng có Tướng, ĺa Tướng chẳng có Tánh,
giống hệt như vàng. Ĺa vàng chẳng có tượng
này, ĺa tượng cũng chẳng có vàng. Vàng và tượng
là một, chẳng hai!
Nếu
thật sự hiểu rơ, Tánh ở chỗ nào? Núi, sông,
đại địa, chẳng có một pháp nào không phải
là Tánh, đều là Chân Như bản tánh của chính ḿnh. Nếu
quư vị hiểu tận hư không khắp pháp giới là một
chân tánh, tâm quư vị bèn b́nh đẳng, v́ sao? Tận hư
không khắp pháp giới và chính ḿnh vốn là một. Chính
ḿnh và chính ḿnh mà c̣n có phân biệt ư? Chính ḿnh và chính ḿnh
c̣n có kèn cựa nữa ư? Chẳng có! Đạo lư này quá
ư là rất sâu, nhưng nó xác thực là chân tướng
sự thật. Đă mê th́ mới có phân biệt, do mê mới
có chấp trước, mới có thị phi, nhân ngă. Chuyện
này đích xác là hết sức khó hiểu; v́ thế, trong kinh
luận thường sử dụng tỷ dụ. Tỷ dụ
thường sử dụng nhất là “mộng, huyễn, bọt, bóng”. Chúng ta ai nấy
đều có kinh nghiệm nằm mộng. Trong mộng có
núi, sông, đại địa, trong mộng có chính ḿnh, mà
cũng có người khác, trong mộng có hết thảy
các pháp. Ngay trong lúc chúng ta tỉnh mộng, hăy lắng ḷng
suy nghĩ, tất cả hết thảy cảnh giới
trong mộng, có ǵ chẳng phải do tự tánh biến hiện?
Chẳng sai! Chẳng phải là bên ngoài tiến vào giấc
mộng của ta, đều do tự tánh của chính ḿnh
biến hiện. Lại hỏi thêm nữa, cảnh giới
nào trong mộng chẳng phải là chính quư vị? Bản
thân ta trong mộng là chính ḿnh, người khác trong mộng
vẫn là chính ḿnh! Trừ chính ḿnh ra, chẳng có ai khác. Núi,
sông, đại địa trong mộng cũng là chính ḿnh! Chẳng
có ǵ không phải là chính ḿnh, toàn thể cái tâm biến thành mộng,
toàn thể mộng là tâm. Mộng là tướng, do tự tánh
biến hiện. Hỏi quư vị, tâm quư vị có h́nh dạng
như thế nào ư? Khi nằm mộng, mộng cảnh
chính là h́nh dạng ấy (h́nh dạng của cái tâm). Nó biến
thành một tướng, quư vị liễu giải rất
dễ dàng! V́ sao nói tướng là hư vọng? V́ tướng
thường biến đổi, nó chẳng cố định;
do vậy, tướng được gọi là vọng tướng
(妄相: tướng hư vọng). Tánh là thật, v́ tánh bất
biến. Ví như chúng ta dùng vàng, vàng bất biến, [dùng vàng]
tạo thành thứ ǵ đó, [thứ ǵ đó] thường
biến đổi [chứ vàng bất biến]. Thích tượng
Phật, bèn dùng vàng làm thành tượng Phật. Chẳng
thích tượng Phật nữa, nung chảy, lại tạo
thành một h́nh tượng khác! Thích ǵ có thể tạo nấy,
vàng chẳng biến đổi, tướng thời thời
khắc khắc biến đổi. Cái có thể biến
th́ chúng ta gọi nó là hư vọng. Cái bất biến, ta gọi
nó là chân thường. Nói là chân hay vọng là như thế
đó, là nói tương đối. Nếu ĺa khỏi tương
đối, chân và vọng là một, không hai. Chân là vọng,
vọng là chân. Ví như tượng Phật, tượng
là vọng, vàng là thật. Tượng chính là vàng, vàng chính
là tượng, chân và vọng chẳng hai, chân và vọng
như một. Như vậy th́ quư vị mới thật sự
thấy chân tướng của vạn hữu trong vũ trụ.
“Như thị tướng”:
Tướng là như thế đó.
Thứ hai, “như thị tánh”. “Tánh” là nói
tới bản tánh. “Như thị
Thể”, “Thể” là nói tới
bản thể. Nếu chẳng nói theo kiểu Thập
Như, có lúc Thể và Tánh có thể hợp thành một. Thể
là Tánh, Tánh là Thể, thường ghép Thể Tánh hoặc
Tánh Thể cùng một chỗ, có cùng một ư nghĩa. Ở
đây, tách rời chúng ra, đương nhiên sẽ chẳng
phải là cùng một ư nghĩa. [Nếu là cùng] một ư
nghĩa, sẽ chẳng thể nói thành hai chuyện. Tánh là
bản tánh. Tánh là cội nguồn của hết thảy vạn
pháp, là chân tâm, là bản tánh. Thể là đă biến, Tánh biến
thành Thể. Thể có hai loại: Một loại là bản
thể tinh thần, loại kia là bản thể vật chất.
Chúng tôi dùng Pháp Tướng Duy Thức để giải
thích, mọi người sẽ dễ hiểu hơn. Thể
là Kiến Phần và Tướng Phần của A Lại
Da Thức. Kiến Phần (見分) của A Lại
Da là bản thể tinh thần, người Hoa gọi nó là
“linh hồn”. Mỗi người
chúng ta, sau khi đă chết bèn đi đầu thai, cái ǵ
đi đầu thai? Linh hồn đi đầu thai, chẳng
phải là cái thân xác thịt đi đầu thai. Cái thân xác
thịt là vật chất. Kiến Phần là bản thể
của tinh thần. Trong Phật pháp, chẳng gọi nó là “linh hồn”, mà gọi là “thần thức”. Đối
với bản thể vật chất, các khoa học hiện
thời đă quan sát đến mức có thể nói là khá
tinh vi; có phải là đă quan sát được nó [chân xác] hay
không? Chúng tôi vẫn chẳng dám nói lời này! Bất quá
chúng tôi có thể nói là “khá tiếp cận”, đó là khả
năng của khoa học. Nhưng khoa học chẳng có một
tí biện pháp nào đối với bản thể của tinh
thần, bó tay, chẳng có cách nào thăm ḍ. Nói cách khác, măi
cho đến nay, chẳng hề có mảy may tiến bộ
nào đáng nói! Nhưng đối với việc khảo
sát bản thể của vật chất, trong những
năm qua, xác thực là [khoa học] đột nhiên tiến
bộ nhanh chóng, chứng minh điều kinh Kim Cang đă dạy:
Hết thảy các sắc tướng và vật chất là Nhất
Hợp Tướng. Điều này đă được
khoa học chứng minh. Kinh Kim Cang nói thế giới này là Nhất
Hợp Tướng. “Nhất”
(一) là một loại vật chất, Hợp (合) là kết hợp
lại. Các nhà khoa học hiện thời hiểu rơ: Vật
chất cơ bản, xác thực là cùng một thứ, chỉ
là công thức cấu tạo khác nhau, phương thức kết
cấu khác nhau. Do như vậy mà kết hợp thành điện
tử, kết hợp thành nguyên tử, kết hợp thành
phân tử. Từ phân tử, kết hợp thành động
vật, thực vật, hoặc khoáng vật. Đem những
thứ ấy phân tích, xác thực đúng là Nhất Hợp
Tướng. Đích xác là khoa học đă chứng thực
Nhất Hợp Tướng của kinh Kim Cang. Ba ngàn năm
trước, Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói rơ chân tướng
của vật chất, cho tới nay mới được
các nhà khoa học chứng minh, chẳng sai tí nào! Xác thực
là do một loại [vật chất cơ bản] kết hợp.
“Nhất” chính là bản thể
của vật chất, mà cũng chính là Tướng Phần
(相分) được nói trong Pháp Tướng Tông.
“Như thị lực”: Lực
(力) là năng lực, nay chúng ta nói là “động lực”,
hoặc hiện thời nói là “vận động”. Lực ấy
là vận động. Ai thúc đẩy nó?
“Như thị nhân, như thị
duyên, như thị quả, như thị báo”, quả và
báo đôi khi được gộp thành một. Chia làm hai
th́ quả là quả, báo là báo. Đời trước chúng
ta đă tu thiện nghiệp, đời này được
làm thân người; đó là Quả. Được làm thân
người th́ hết thảy các thứ hưởng thụ
trong một đời này gọi là Báo. Có người
được làm thân người, đời này sống rất
hạnh phúc; có người tuy được làm thân người,
đời này sống rất vất vả, báo bất
đồng mà! Quả đồng, quả là đều được
làm thân người, nhưng báo bất đồng. Các nhà
Duy Thức gọi chúng là Dẫn Nghiệp và Măn Nghiệp. Dẫn
(引) là dẫn dắt,
hướng dẫn quư vị đi đầu thai, đó là
Quả. Măn Nghiệp (滿業) là sau khi đầu
thai, những ǵ quư vị được hưởng thụ
chính là Báo, khác nhau! Nếu chúng ta thật sự hiểu rơ, hiểu
minh bạch chân tướng sự thật này, trong đại
vũ trụ, bản thân chúng ta không chỉ có thể làm chủ
trong một đời này, mà đời đời kiếp
kiếp chính ḿnh đều có thể làm chủ tể! Chính
ḿnh có thể làm chủ tể, quư vị chẳng c̣n gọi
là chúng sanh nữa, mà gọi là Phật, hoặc Bồ Tát. Kinh
Lăng Nghiêm nói rất hay: “Nếu
có thể chuyển cảnh, ắt giống như Như
Lai”. Ai có thể chuyển cảnh? Hiểu rơ ràng, hiểu
minh bạch, bèn có thể chuyển cảnh. Chuyển cảnh
chẳng khó! Khó ở chỗ nhận thức, khó ở chỗ
hiểu rơ. Nhận thức và hiểu rơ được kinh
Phật gọi là ngộ, tức giác ngộ, khó ở chỗ
giác ngộ. Sau khi đă ngộ, sẽ dễ thực hiện
chuyện ấy. V́ sao? Quư vị hiểu rành mạch nhân
duyên quả báo: Nhân duyên như thế nào sẽ có quả
báo như thế nấy. Quư vị có thể khống chế,
nắm giữ, sáng tạo nhân duyên, quả báo sẽ
đúng như chính ḿnh mong mỏi, chẳng có điều ǵ
không đạt được!
“Nhân” là chủng tử được chứa đựng
trong A Lại Da Thức; đó là Nhân, đời đời
kiếp kiếp tích lũy. Nhân của mười pháp giới,
chúng ta đều trọn đủ. Chúng ta có cái nhân làm Phật,
có cái nhân làm Bồ Tát, cũng có cái nhân đọa địa
ngục A Tỳ, thứ ǵ cũng đều có, chẳng
thiếu một thứ nào! Chúng ta muốn hưởng quả
báo như thế nào, mấu chốt là Duyên. V́ thế, Phật
pháp hết sức coi trọng Duyên. V́ sao Phật chẳng
nói “nhân sanh”, mà phải nói là “duyên sanh”? Duyên th́ chính ḿnh có thể
khống chế, chứ tự ḿnh chẳng thể khống
chế nhân. Nhân là cái đă có, chẳng có cách nào, chẳng thể
nào thay đổi được. Duyên th́ chính ḿnh có thể
khống chế. Ví như trong quá khứ, chúng ta tạo tác
cái nhân ác, nhân đă có; từ nay trở đi, ta đoạn
hết các ác duyên, nhân mà chẳng có duyên sẽ chẳng thể
kết quả, sẽ chẳng thọ báo, cắt đứt
cái duyên! Trong đời quá khứ ta có thiện nhân, nay ta
thêm thiện duyên vào. Quả báo sau đấy sẽ là thiện
quả lư tưởng. Kinh luận thường chỉ dạy
chúng ta: “Duy tâm Tịnh Độ,
tự tánh Di Đà”, hai câu ấy nói lên điều ǵ?
Nhân! Nhân như thế đó! Tây Phương Cực Lạc
thế giới và A Di Đà Phật đều do cái nhân của
chính chúng ta biến hiện. Chúng ta có cái nhân ấy, nay chỉ
cần thêm duyên vào. Chúng ta đến thế giới Tây
Phương để làm Phật. V́ thế, kinh Di Đà dạy:
“Chẳng thể do chút thiện
căn, phước đức, nhân duyên mà được sanh
về cơi ấy”. Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ
là nhân; nay chúng ta nhất tâm nhất ư nương tựa A Di
Đà Phật, tín nguyện tŕ danh, đó là duyên. Hễ nhân
và duyên kết hợp, quả báo sau đó là thế giới
Tây Phương, sẽ thấy A Di Đà Phật, quả
báo là như thế đó. Nếu chúng ta quên bẵng chuyện
này, chúng ta có rất nhiều “nhân”: Tham tài, tham danh, tham sắc,
tham ngũ dục, lục trần. Trong A Lại Da Thức có
chứa đựng chủng tử của ba ác đạo,
địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Duyên của
địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh là ǵ? Chính là tham,
sân, si. Nay chúng ta tiếp tục gây tham, sân, si chẳng ngừng,
về sau quả báo hiện tiền, quả báo ǵ vậy? Ba
ác đạo. Do tham làm duyên, đi vào ngạ quỷ đạo.
Do cái duyên nóng giận, đi vào địa ngục đạo.
Do cái duyên ngu si, đi vào súc sanh đạo. Ngu si là “chân, vọng,
tà, chánh, đúng, sai, thiện, ác” đều điên đảo,
chẳng có năng lực phân biệt. Phật pháp ở Đài
Loan dường như rất hưng thịnh. Trong Phật
pháp có chánh pháp, có tà pháp, có chân Phật, có giả Phật, ai
có thể phân biệt? Kinh Lăng Nghiêm nói rất hay: “Thời kỳ Mạt Pháp”, tức
là nói đến thời đại hiện tại này, “tà sư thuyết pháp, như cát
sông Hằng”. Quư vị có năng lực phân biệt tà chánh
hay không? Chẳng thể phân biệt th́ học Phật cuối
cùng quả báo là ở trong súc sanh đạo. Thiện tâm học
Phật, hưởng phước trong súc sanh đạo! Giống
như hiện thời có khá nhiều kẻ nuôi các con vật
cưng (pet), chúng có phước báo rất lớn. Chúng tôi ở
ngoại quốc trông thấy: Con vật cưng ấy
đúng là chủ nhân trong một nhà! Cả nhà đều phải
hầu hạ nó, quư vị thấy nó có phước báo lớn
lắm! Chẳng phải con người là chủ nhân, mà
con vật cưng là chủ nhân. V́ con vật cưng đâu
có hầu hạ chủ nhân, chủ nhân phải tận tụy
hầu hạ, chăm sóc nó, đó là điên đảo! Trong
kinh, đức Phật nói là “mê hoặc, điên đảo”.
Tại Đài Loan và Trung Quốc hiện thời cũng dần
dần lưu hành [thói quen cưng chiều thú vật nuôi].
Tôi thấy cũng có kẻ nuôi con vật cưng, chăm
sóc cẩn thận, không điều nhỏ nhặt nào chẳng
quan tâm, c̣n chu đáo hơn hiếu thuận cha mẹ!
Đó là ǵ? Do thiện tâm mà ngu si, cho nên hứng chịu quả
báo ấy. V́ thế, chân, vọng, tà, chánh, đúng, sai, nhất
định phải hiểu rành mạch, rơ ràng, th́ trong một
đời này, chúng ta mới có thể vượt thoát tam
giới, mới không đến nỗi luống uổng! Do
vậy, nhất định phải biết khống chế
duyên, duyên thật sự do bản thân chúng ta nắm quyền
thao túng. Xa ĺa hết thảy các ác duyên, phải thân cận
hết thảy thiện duyên. Trong hết thảy các duyên, duyên
chí thiện viên măn là A Di Đà Phật. Nói thật ra, người
biết điều này chẳng nhiều lắm! Quư vị thật
sự đă biết, sẽ khăng khăng một mực,
không chỉ là buông pháp thế gian xuống, mà tất cả
hết thảy Phật pháp cũng buông xuống, nhất
tâm nhất ư chuyên niệm A Di Đà Phật, đó là hoàn
toàn đúng.
Câu
cuối cùng là “như thị bổn
mạt cứu cánh” (gốc ngọn rốt ráo như thế). Câu này nhằm tổng kết
chín câu trước, có gốc, có ngọn, có đầu, có
cuối th́ mới là rốt ráo. Mỗi một pháp đều
chẳng ra ngoài Thập Như. Thiên Thai đại sư giải
thích tựa đề kinh Pháp Hoa, v́ trong tựa đề kinh
có một chữ Hoa (華), Hoa là hoa sen, để
giải thích hoa sen, Ngài đă dùng Thập Như để
giải thích. Nói cách khác, dùng Liên làm đại biểu ḥng
giảng rơ Thập Như. Sau đấy lại bảo quư
vị: Hết thảy vạn pháp, pháp nào cũng đều
có đủ Thập Như, chẳng có pháp nào là ngoại lệ.
Giảng
đến câu “như thị
báo”, đại sư có một tỷ dụ: “Thí như liên thật vi nhiễu
pḥng đài” (Ví như hạt sen vây quanh gương sen). “Liên thật” (蓮實) là hạt sen, hạt
sen vây kín trong gương sen. Gương sen chính là đài
sen. Gương sen sanh trưởng trong hoa. Chúng ta đắp
tạc tượng Phật, bất luận là tượng
Phật ngồi hay đứng, chân đứng trên
gương sen, mà ngồi cũng là ngồi trên gương
sen. Gương sen chính là “pḥng
đài” (房臺). Do vậy,
đài có hai loại sai khác như vậy.
(Sao)
Hựu vân: Thật y ư đài.
(鈔)又云:實依於臺。
(Sao: Lại nói: “Hạt
nương vào đài”).
“Thật” (實) là hạt sen. Hạt sen
nương náu gương sen.
(Sao)
Thật tắc liên tử, tử tàng đài trung, tắc thế
sở vị liên pḥng thị dă.
(鈔)實則蓮子,子藏臺中,則世所謂蓮房是也。
(Sao:
“Hạt” chính là hạt sen, hạt ẩn trong đài, đài
chính là cái được cơi đời gọi là
gương sen vậy).
Nói
văn nhă đôi chút về “liên
pḥng” (蓮房), chúng ta gọi nó
thông tục là “gương sen”,
chính là ư nghĩa này. Hôm nay đă hết thời gian rồi,
chúng tôi giảng tới chỗ này.
Tập
254
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn
Nghĩa Hội Bản, trang năm trăm lẻ hai:
(Sao)
Hựu Hoa Nghiêm Thập Địa liên hoa văn vân: “Lưu
ly vi hành, chiên đàn vi đài, mă năo vi tu, Diêm Phù Đàn kim vi
diệp”, tịnh xưng hành, đài, tu, diệp. Nhi Niết
Bàn diệc vân: “Thí như hành, diệp, tu, đài, hợp vi liên
hoa”. Thử sở vị đài, giai pḥng đài dă.
(鈔)又華嚴十地蓮華文云:琉璃為莖,栴檀為臺,瑪瑙為鬚,閻浮檀金為葉。並稱莖臺鬚葉。而涅槃亦云:譬如莖葉鬚臺,合為蓮華。此所謂臺,皆房臺也。
(Sao:Lại nữa, phần
nói về hoa sen trong phẩm Thập Địa của kinh
Hoa Nghiêm có nói: “Lưu ly làm cuống, chiên đàn làm đài,
mă năo làm tua (nhị sen), vàng Diêm Phù Đàn làm cánh hoa”, cùng nói
đến cuống, gương, tua, cánh. Mà kinh Niết Bàn
cũng nói: “Ví như cuống, cánh, tua, đài hợp thành
hoa sen”. Đài được nói [trong các đoạn kinh
văn ấy] đều là gương sen vậy).
Đại
sư trích dẫn kinh văn từ kinh Hoa Nghiêm và Niết Bàn
để chứng minh. Đức Phật nói tới “liên đài” rất nhiều,
trong các kinh đều có nói. Đối với “đài” được nói ở
đây, ta gọi là “gương
sen” hoặc “đài sen”; chữ“pḥng đài” [trong Sớ Sao] có
ư nghĩa ấy.
(Sao)
Tức Pháp Hoa “Chân Thúc Ca bảo dĩ vi kỳ đài” chi ư
dă.
(鈔)即法華甄叔迦寶以為其臺之意也。
(Sao:
Chính là ư nghĩa của [chữ Đài] trong câu “dùng báu Chân
Thúc Ca để làm đài” trong kinh Pháp Hoa).
Trích
từ kinh Pháp Hoa. “Chân Thúc Ca (Kiṃśuka) bảo” là tiếng Phạn,
dịch sang nghĩa tiếng Hán là “hồng bảo thạch”.
(Sao)
Quán thị, tắc tri Quán Kinh hoa ṭa quán trung, tiên ngôn tác liên
hoa tưởng, thứ vân Thích Ca Tỳ Lăng Già bảo
dĩ vi kỳ đài, tắc hoa nội chi đài dă.
(鈔)觀是,則知觀經華座觀中,先言作蓮華想,次云釋迦毗楞伽寶以為其臺,則華內之臺也。
(Sao: Xem đó bèn biết
trong phần Hoa Ṭa Quán của Quán Kinh, trước hết
nói quán tưởng hoa sen, kế đó nói “báu Thích Ca Tỳ
Lăng Già để làm đài” chính là cái đài ở bên
trong hoa vậy).
Những
điều được nói trong các kinh đủ để
chứng minh kim cang đài hay tử kim
đài đều nhằm chỉ gương sen trong hoa sen.
“Thích Ca Tỳ Lăng Già bảo”
(Śakrābhilagna-maṇi-ratna)
là
danh xưng
của một loại bảo châu, cũng là tiếng Phạn,
có nghĩa là Năng Thắng. Loại bảo châu này vô cùng trân
quư, hết sức hiếm có, thù thắng.
(Sao)
Hựu vân: “Nhất nhất kim sắc, xứ xứ biến
hóa, hoặc tác kim cang đài, hoặc tác trân châu vơng đẳng”,
tắc hoa hạ chi đài dă.
(鈔)又云:一一金色,處處變化,或作金剛臺,或作珍珠網等,則華下之臺也。
(Sao: Lại nói: “Mỗi
một sắc vàng, biến hóa khắp nơi, hoặc biến
ra đài kim cang, hoặc là lưới trân châu v.v…” chính là
[nói tới] cái đài ở dưới hoa vậy).
Hoa ở
trên đài, trong hoa cũng có đài.
(Sao)
Cố thượng phẩm trung sanh, tiên ngôn tử kim
đài, thứ vân túc hạ diệc hữu thất bảo liên
hoa, tắc tử kim đài tại hoa hạ, minh hỹ.
(鈔)故上品中生,先言紫金臺,次云足下亦有七寶蓮華,則紫金臺在華下明矣。
(Sao:
V́ thế, trong phần thượng phẩm trung sanh [của
Quán Kinh], trước hết nói đến đài tử
kim, sau đó nói “dưới chân cũng có hoa sen bảy báu”,
rơ ràng là nói tới đài vàng ở dưới hoa).
Nói theo
kiểu này là nói tới cái đài [nâng đỡ] ở phía
dưới hoa.
(Sao)
Hoa tất hữu đài, đài tất hữu hoa, ngôn kim
cang đài, bất ngôn hoa, dữ ngôn hoa bất ngôn đài,
văn tiền hậu hỗ hiển nhĩ.
(鈔)華必有臺,臺必有華,言金剛臺,不言華,與言華不言臺,文前後互顯耳。
(Sao: Hoa ắt có
đài, có đài ắt phải có hoa. Nói “đài kim cang, chẳng
nói hoa”, và “nói hoa, chẳng nói đài”, kinh văn trước
sau soi tỏ lẫn nhau vậy).
Chúng
ta đọc kinh Phật hăy nên biết điều này.
Đức Phật thuyết pháp, rồi người đời
sau kết tập, ghi chép thành văn tự. Trong văn tự,
chẳng tránh khỏi có chuyện tu từ[3], tức
là tại Trung Hoa, vào thuở phiên dịch, sau khi hoàn thành một
bộ kinh, vẫn phải t́m những đại văn học
gia làm công tác tu từ, [tức là] giữ cho ư nghĩa chẳng
thay đổi, nhưng [điểm xuyết] từ ngữ,
câu văn cho đẹp. Người Hoa làm công tác này. Chúng
tôi nghĩ: Khi tôn giả A
(Sao)
Đản thượng thượng phẩm nhất sanh
liên trung, tức thời hoa khai, tức thời kiến Phật,
tức thời chứng đạo. Kỳ dư tắc hoa
khai tiệm văn, kiến Phật tiệm tŕ, chứng đạo
tiệm viễn. Dĩ thị phân biệt, tri thượng
thượng độc thắng, phi vị vô liên dă!
(鈔)但上上品一生蓮中,即時華開,即時見佛,即時證道;其餘則華開漸晚,見佛漸遲,證道漸遠。以是分別,知上上獨勝,非為無蓮也。
(Sao: Chỉ cần
sanh vào hoa sen thuộc thượng thượng phẩm, ngay
lập tức hoa nở, ngay lập tức thấy Phật,
ngay lập tức chứng đạo. Trong những phẩm
khác th́ hoa nở chậm dần, thấy Phật trễ dần,
chứng đạo xa dần, dùng những điều ấy
để phân biệt bèn biết thượng phẩm
thượng sanh thù thắng độc đáo, chứ không
phải là do chẳng có hoa sen vậy).
Đây
là đại sư nói rơ sự sai biệt hơn kém trong
chín phẩm. Trong chín phẩm, chỉ có thượng thượng
phẩm văng sanh về nơi ấy, hoa liền nở, thấy
Phật. Trong bài kệ Hồi Hướng chúng ta thường
niệm [có câu]: “Hoa khai kiến
Phật ngộ Vô Sanh”. “Ngộ
Vô Sanh” là chứng đạo. Quả vị Vô Sanh Pháp Nhẫn
cũng có cạn hay sâu khác biệt. Theo như kinh Nhân
Vương đă nói, sở chứng của Thất Địa
Bồ Tát là hạ phẩm Vô Sanh Pháp Nhẫn, Bát Địa
là trung phẩm, Cửu Địa là thượng phẩm.
Nếu chúng ta nới lỏng tiêu chuẩn một chút,
Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo cũng có thể nói là “hoa khai kiến Phật ngộ Vô
Sanh”. Sử dụng cách nói theo Lục Tức của tông
Thiên Thai th́ Vô Sanh thuộc về Phần Chứng, tức
là chứng đắc vài phần, chẳng chứng đắc
viên măn. Tông Thiên Thai nói Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo là
Phần Chứng Phật. Đó là nói về sự chứng
đạo. Chúng ta phải hiểu: Cùng là thượng
thượng phẩm văng sanh như nhau, nhưng địa
vị trong ấy vẫn có bất đồng, vẫn là có
phân chia cao thấp. Bốn mươi mốt địa vị
Pháp Thân đại sĩ, chia nhỏ sẽ thành bốn mươi
mốt giai cấp, đều là thật sự chứng quả.
Bồ Tát thuộc các địa vị ấy, dẫu chẳng
cần bổn nguyện và oai thần A Di Đà Phật gia
tŕ, vị ấy cũng có năng lực và cũng có thần
thông đến mười phương thế giới hóa
độ chúng sanh, đáng nên dùng thân Phật để
đắc độ, Ngài bèn có thể hiện thân Phật
để thuyết pháp. Trong khá nhiều kinh Đại Thừa,
đức Phật đă nói chuyện này. Đấy là Pháp
Thân đại sĩ, thượng thượng phẩm văng
sanh. Nếu là phàm phu văng sanh, sanh về Tây Phương Cực
Lạc thế giới, phàm phu có phần trong thượng
thượng phẩm hay không? Cũng có! Thiện Đạo
đại sư nói chúng ta gặp duyên bất đồng.
Nếu gặp duyên thù thắng, xác thực là cũng có thể
đạt đến thượng thượng phẩm văng
sanh. Dẫu phẩm vị văng sanh của chúng ta chẳng
cao như vậy, nghiệp chướng tập khí của
chúng ta rất nặng, đới nghiệp văng sanh, sanh về
Tây Phương thế giới, văng sanh trong ba phẩm hạ.
Sau khi đă tới thế giới Cực Lạc, chúng ta có
năng lực gần giống như thượng thượng
phẩm, tức là: Hạ hạ phẩm văng sanh hễ đă
tới thế giới Tây Phương, cũng có thể tùy
loại hóa thân đến phổ độ chúng sanh trong các
thế giới phương khác. Do đâu mà có năng lực
ấy? Năng lực ấy chẳng phải là của
chính ḿnh! Chính ḿnh chưa kiến tánh, chẳng phá vô minh, chẳng
thấy Pháp Thân. Năng lực ấy do A Di Đà Phật gia
tŕ. Chư vị phải ghi nhớ: Trong các thế giới
phương khác chẳng có [chuyện kỳ đặc này],
chỉ riêng Tây Phương Cực Lạc thế giới là
có, tức là người trong thế giới Cực Lạc
chẳng phá vô minh, chẳng chứng đắc Pháp Thân,
cũng giống như Pháp Thân đại sĩ ứng hóa trong
mười phương các cơi Phật. Tây Phương
được gọi là thù thắng bậc nhất là do chỗ
này.
“Kỳ dư” là nói những phẩm
vị khác kể từ thượng trung phẩm trở xuống,
thời gian hoa nở chậm hơn. “Kiến Phật”: Thấy Phật ở đây là
thấy Báo Thân Phật. Nếu nói tới Ứng Hóa Phật
th́ gặp mặt mỗi ngày.
“Dĩ thị phân biệt, tri
thượng thượng độc thắng, phi vị vô
liên dă” (Dùng những điều ấy để phân biệt
bèn biết thượng phẩm thượng sanh thù thắng
độc đáo, chứ không phải là do chẳng có hoa
sen vậy). Phần thượng phẩm thượng sanh
trong Quán Kinh chỉ nói kim cang đài, chẳng nhắc tới
hoa sen. Từ kinh văn nhiều ngần ấy, chúng ta có thể
suy đoán: Thượng phẩm thượng sanh nhất
định là cũng có hoa sen, kinh văn nói tỉnh lược
đó thôi!
(Sao)
Nhược dĩ vô liên vi thắng, hữu liên vi liệt,
thị bạc liên dă, hà thủ ư liên bang?
(鈔)若以無蓮為勝,有蓮為劣,是薄蓮也,何取於蓮邦。
(Sao: Nếu nghĩ
“chẳng có hoa sen là thù thắng, có hoa sen là kém cỏi”, tức
là khinh thường hoa sen, sao c̣n cầu sanh Liên Bang?)
Nếu
nói “chẳng có hoa sen là thù thắng nhất, có hoa sen đâm ra
thua kém một bậc”, “thị
bạc liên dă” [nghĩa là] chúng ta khinh thường hoa
sen!
(Sao) Nhi hoa ṭa quán,
minh Phật tọa liên hoa, tắc Phật diệc liệt
hỹ, lư vân hà thông?
(鈔)而華座觀,明佛坐蓮華,則佛亦劣矣,理云何通?
(Sao: Nhưng trong phần
Hoa Ṭa Quán, kinh nói Phật ngồi trên hoa sen, vậy th́ Phật
cũng kém cỏi, lư ấy nói sao cho suông?)
Trong
mười sáu phép Quán, phép Quán thứ bảy là Hoa Ṭa Quán,
quán ṭa hoa sen của Phật, quán hoa sen, Phật ngự trên
hoa sen. [Nếu hiểu] là trong phần thượng phẩm
thượng sanh chẳng có hoa sen, chỉ ngồi trên
đài kim cang, chẳng có hoa sen là thù thắng, vậy th́ Phật cũng chẳng sánh
bằng người [văng sanh] ấy, há có lẽ đó? Nói
theo Lư chẳng suông! Những lời này không ǵ chẳng nhằm
phá trừ nỗi nghi hoặc của chúng ta, chỉ rơ chín
phẩm đều có hoa sen, chín phẩm đều có gương
sen, đều có đài [nâng đỡ ṭa sen].
(Diễn)
Đản thượng thượng phẩm hạ.
(演)但上上品下。
(Diễn:
Từ câu “chỉ là thượng thượng phẩm” trở
đi).
Chỉ
đoạn văn [trong phần Sao] trên đây.
(Diễn)
Thị minh thượng phẩm thù thắng chi nghĩa.
(演)是明上品殊勝之義。
(Diễn:
Nói rơ ư nghĩa thù thắng của thượng phẩm).
“Minh” là nói rơ, chỉ rơ thượng
phẩm thượng sanh thù thắng khôn sánh.
(Diễn)
Hoa khai tiệm văn nhị cú.
(演)華開漸晚二句。
(Diễn: Hai câu từ
“hoa nở chậm dần” [trở đi]).
Chỉ
phần kế tiếp. Chúng ta xem phần kế tiếp.
(Diễn)
Thượng phẩm trung sanh, kinh túc hoa khai, tức đắc
kiến Phật.
(演)上品中生,經宿花開,即得見佛。
(Diễn: Thượng
phẩm trung sanh, qua một đêm hoa nở, liền
được thấy Phật).
Thượng
phẩm thượng sanh, tới nơi đó hoa liền nở.
Thượng phẩm trung sanh, qua một đêm hoa nở,
cách một đêm hoa sẽ nở. Hoa nở bèn thấy Phật.
Một đêm ấy chính là một đêm trong thế giới
này của chúng ta. Thế giới Tây Phương chẳng
có ngày, đêm, chẳng có năm, tháng, ngày, giờ. Nói cách
khác, chậm hơn thượng phẩm thượng sanh mười
hai tiếng đồng hồ mà thôi!
(Diễn)
Thượng phẩm hạ sanh, kinh nhất nhật nhất
dạ, liên hoa năi khai.
(演)上品下生,經一日一夜,蓮華乃開。
(Diễn:
Thượng phẩm hạ sanh, trải qua một ngày một
đêm, hoa sen bèn nở).
Thượng phẩm
hạ sanh mới là hai mươi bốn tiếng đồng
hồ, hoa mới nở. Hoa nở vẫn chưa thấy
Phật, khi nào sẽ thấy Phật?
(Diễn)
Thất nhật chi trung, năi đắc kiến Phật.
(演)七日之中,乃得見佛。
(Diễn: Trong bảy
ngày bèn được thấy Phật).
Một
ngày một đêm hoa nở, hoa nở [trong ṿng] bảy ngày sẽ
thấy Phật, thấy Báo Thân của Phật.
(Diễn)
Năi chí hạ phẩm thượng sanh, kinh thất thất
nhật, hoa khai kiến Phật.
(演)乃至下品上生,經七七日,花開見佛。
(Diễn: Cho đến
hạ phẩm thượng sanh, trải qua bốn
mươi chín ngày, hoa nở thấy Phật).
Hạ
phẩm thượng sanh là chúng sanh tạo tác ác nghiệp,
bất quá tạo ác chẳng quá nặng nề. Qua bảy lần
bảy bốn mươi chín ngày, hoa nở thấy Phật.
(Diễn)
Hạ phẩm trung sanh, kinh ư lục kiếp, hoa khai kiến
Phật.
(演)下品中生,經於六劫,花開見佛。
(Diễn: Hạ phẩm
trung sanh, qua sáu kiếp, hoa nở, thấy Phật).
Thời
gian thật dài.
(Diễn)
Hạ phẩm hạ sanh, kinh thập nhị đại kiếp,
hoa khai kiến Phật.
(演)下品下生,經十二大劫,花開見佛。
(Diễn: Hạ phẩm
hạ sanh, trải mười hai đại kiếp, hoa nở,
thấy Phật).
Hoa
nở chậm dần.
(Diễn)
Chứng đạo tiệm viễn giả, thượng
trung, kinh nhất tiểu kiếp.
(演)證道漸遠者,上中,經一小劫。
(Diễn:
“Chứng đạo chậm dần”: Thượng phẩm
trung sanh trải qua một tiểu kiếp).
“Chứng đạo” ở đây là đắc Vô Sanh
Pháp Nhẫn. “Hoa khai kiến Phật
ngộ Vô Sanh” là ba giai đoạn, chẳng phải là
cùng lúc. Hoàn thành cùng lúc chỉ có thượng phẩm
thượng sanh. Hoa nở và thấy Phật đồng
thời, chứng quả chẳng đồng thời, thời
gian có sai biệt; thượng phẩm trung sanh trải qua
một tiểu kiếp.
(Diễn)
Thượng hạ, kinh tam tiểu kiếp, đắc Vô
Sanh Nhẫn, trụ Hoan Hỷ Địa. Năi chí hạ
thượng, kinh thập tiểu kiếp, đắc nhập
Sơ Địa.
(演)上下,經三小劫,得無生忍,住歡喜地。乃至下上,經十小劫,得入初地。
(Diễn: Thượng
phẩm hạ sanh trải qua ba tiểu kiếp, đắc
Vô Sanh Nhẫn, trụ Hoan Hỷ Địa. Cho đến
hạ phẩm thượng sanh, qua mười tiểu kiếp,
được nhập Sơ Địa).
Đắc
Vô Sanh Nhẫn, trụ Hoan Hỷ Địa, chỉ rơ tiêu
chuẩn Vô Sanh Nhẫn chính là Sơ Địa Bồ Tát
trong Viên Giáo. Quả thật địa vị này rất
cao, chứng Vô Sanh Nhẫn.
(Diễn)
Hạ trung, kinh ư lục kiếp, phát vô thượng
đạo tâm.
(演)下中,經於六劫,發無上道心。
(Diễn: Hạ phẩm
trung sanh, trải qua sáu kiếp, phát vô thượng đạo
tâm).
Sáu
kiếp hoa nở, thấy Phật, phát vô thượng đạo
tâm.
(Diễn)
Hạ hạ, thập nhị đại kiếp, phát Bồ
Đề chi tâm.
(演)下下,十二大劫,發菩提之心。
(Diễn: Hạ phẩm
hạ sanh, qua mười hai đại kiếp, phát Bồ
Đề tâm).
Vô Thượng
Đạo Tâm có cùng một ư nghĩa với Bồ Đề
tâm, đều là nói tới địa vị Sơ Trụ
trong Viên Giáo, trong Biệt Giáo là Sơ Địa. Cũng có
nghĩa là phá một phẩm vô minh, chứng một phần
Pháp Thân, chính là địa vị ấy. Nói theo Biệt Giáo
[trong các thế giới khác], địa vị ấy đă
tu trọn một A-tăng-kỳ kiếp, đến A-tăng-kỳ
kiếp thứ hai mới chứng đắc quả vị
này. Người hạ hạ phẩm văng sanh trong thế giới
Tây Phương chỉ cần mười hai đại kiếp,
trong các thế giới phương khác phải tu một A-tăng-kỳ
kiếp, chẳng thể sánh bằng! Đây cũng là nói
rơ: V́ sao hết thảy chư Phật, Bồ Tát khuyên chúng
ta cầu sanh Tịnh Độ? Đạo lư ở chỗ
này.
Nhưng
nếu chư vị đọc cẩn thận kinh văn
này, sẽ có một nghi vấn: V́ sao hạ phẩm thượng
sanh trong bảy lần bảy bốn mươi chín ngày bèn
hoa nở thấy Phật, thành tựu vượt trỗi trung
bối văng sanh? “Trung bối”
ở đây là trung phẩm thượng sanh, chứ trung phẩm
trung sanh và trung phẩm hạ sanh [kinh văn] chẳng nói tới.
Nhưng chúng ta hiểu rất rơ: Trong trung bối văng sanh,
hai loại trước (trung phẩm thượng sanh và
trung phẩm trung sanh) là người Tiểu Thừa tŕ giới,
hồi Tiểu hướng Đại cầu sanh Tịnh
Độ. Trung phẩm hạ sanh là thiện nhân trong thế
gian, hạ phẩm thượng sanh là kẻ làm ác. V́ sao họ
văng sanh thời gian c̣n ngắn hơn, thành tựu c̣n rất
nhanh chóng? Ở đây, nhất định phải hiểu:
Làm ác là một chuyện, căn tánh lại là một chuyện
khác! Kẻ tạo ác bụng dạ rộng răi, rất có
nghĩa khí, bằng ḷng giúp đỡ kẻ khác; nói theo
phương diện này, kẻ Tiểu Thừa chẳng bằng
họ. Kẻ Tiểu Thừa bảo vệ chính ḿnh. Giang hồ
hào kiệt có thể bỏ ḿnh v́ người, thấy
người khác gặp nguy nan bèn chịu rút đao tương
trợ, họ có khí phách hào sảng ấy. V́ thế, hễ
họ quay đầu sanh về Tịnh Độ, sẽ
thường có thành tựu nhanh chóng hơn kẻ khác, đạo
lư là như thế đó. Hạ phẩm trung sanh th́ không
được. Kinh đă nói rất rơ ràng: Quá nửa đều
là người xuất gia chẳng tuân thủ giới luật.
Đó cũng là do thiện căn trong đời trước,
họ c̣n có thể niệm Phật, tu tập, tích lũy
công đức, cho nên được văng sanh. Hạ phẩm
hạ sanh là kẻ tạo Ngũ Nghịch, Thập Ác, có thể
nói là kẻ tội to cực ác, cũng cậy vào thiện
căn trong đời quá khứ, văng sanh giống như vậy.
Do vậy có thể biết: Chín phẩm chẳng phải do
Phật, Bồ Tát kiến lập, mà hoàn toàn là do chúng ta tự
ḿnh sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới,
do công phu tu hành của chúng ta cạn hay sâu bèn cảm vời,
hiển hiện những quả vị ấy. Trong phần
trước, tôi đă từng thưa tŕnh: Chúng ta thấy
các quả vị ấy rất rơ ràng, nhưng người
trong thế giới Tây Phương chưa hề khởi
tâm động niệm đối với chuyện này. Chúng
ta nhất định phải hiểu rơ chân tướng sự
thật, v́ các tướng trạng được trông thấy
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới hoàn toàn
b́nh đẳng. Ở đây, chúng ta mới liễu giải
“hoa khai kiến Phật ngộ
Vô Sanh” là do Tánh Đức của chính ḿnh lưu lộ. Chẳng
thấy Phật, chẳng ngộ Vô Sanh, những ǵ người
ấy được hưởng thụ là do bổn nguyện
và oai thần của A Di Đà Phật gia tŕ. Do vậy, nh́n
từ bên ngoài, quư vị chẳng thấy có cao hay thấp, hoàn
toàn b́nh đẳng. V́ lẽ đó, thế giới Tây
Phương là một thế giới b́nh đẳng. Thế
giới b́nh đẳng ấy cũng khiến cho chúng ta
hoài nghi, cũng khiến cho chúng ta khó thể lư giải. Chúng
sanh tạo tác nghiệp lực bất b́nh đẳng, công
phu tu hành bất b́nh đẳng, v́ sao hết thảy thần
thông, đạo lực, và thọ dụng đều b́nh
đẳng? Phần nào quư vị bất b́nh đẳng, A
Di Đà Phật bèn giúp đỡ, ban thêm cho quư vị. Do vậy,
quư vị thảy đều là b́nh đẳng, có ư nghĩa
như vậy đó! Thế giới Tây Phương thật
sự b́nh đẳng!
Dưới
đây, Liên Tŕ đại sư lại giả lập một
đoạn vấn đáp, đúng là sợ quư vị có nghi
hoặc, nghi có thể chướng đạo! Nếu chẳng
trừ nghi hoặc, dẫu niệm Phật văng sanh, cũng
sanh về Nghi Thành, Biên Địa. Đây là ḷng từ bi
chân thật của đại sư, giúp chúng ta đoạn
nghi sanh tín.
(Sao)
Vấn: Cực Lạc cửu phẩm, bát tùng liên sanh, Tứ
Minh hà vi hữu thị ngôn hồ?
(鈔)問:極樂九品,八從蓮生,四明何為有是言乎。
(Sao: Hỏi: “Cực
Lạc có chín phẩm, tám phẩm sanh từ trong hoa sen”. Cớ
sao ngài Tứ Minh nói lời ấy?)
Tứ
Minh tôn giả[6] có tác phẩm chú giải
là Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ Diệu Tông
Sao. Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ do Trí Giả
đại sư soạn. Trong lời Sao, Tứ Minh tôn giả
đă viết: “Cực Lạc
cửu phẩm, bát tùng liên sanh” (Chín phẩm của Cực
Lạc, tám phẩm sanh từ hoa sen). Câu ấy do Ngài nói.
Ngài là một vị tổ sư của tông Thiên Thai, chẳng
lẽ c̣n phạm sai lầm ư? Do vậy, nay chúng tôi chọn
lựa chú giải cho bộ Quán Vô Lượng Thọ Phật
Kinh, bèn chọn tác phẩm của ngài Thiện Đạo,
chẳng chọn từ tông Thiên
(Sao)
Đáp: Tứ Minh chỉ thuyết bát tùng liên sanh, vị
thuyết bất liên vi thị hà phẩm. Dĩ trung hạ
phẩm diệc vô liên hoa cố, nhược quả thượng
thượng bất liên, đương tất hữu thuyết,
nhi năi đồ khai kỳ đoan, bất cánh kỳ thuyết
giả, hà dă?
(鈔)答:四明只說八從蓮生,未說不蓮為是何品。以中下品亦無蓮華故,若果上上不蓮,當必有說,而乃徒開其端,不竟其說者,何也。
(Sao: Đáp: Ngài Tứ
Minh chỉ nói tám phẩm sanh từ hoa sen, chẳng nói phẩm
nào chẳng sanh từ hoa sen. Bởi lẽ, trung phẩm hạ
sanh cũng chẳng nhắc tới hoa sen. Nếu thượng
phẩm thượng sanh thật sự chẳng có hoa sen, ắt
Ngài phải nói, nhưng Ngài chỉ khơi ra đầu mối
ấy, rốt cuộc chẳng nói rơ v́ sao?)
“Bát tùng liên sanh” (tám phẩm
sanh từ hoa sen), rốt cuộc là phẩm nào chẳng có
hoa sen? Chẳng nói minh bạch! Trong chín phẩm ấy, có phẩm
nói đến đài sen, có phẩm nói đến hoa sen, có
phẩm cùng nói đài sen và hoa sen, mà chẳng nói tới hoa
sen th́ cũng hoàn toàn chẳng phải chỉ riêng thượng
phẩm thượng sanh, rốt cuộc là nói đến
loại nào? Ngài Tứ Minh
“đồ khai kỳ đoan, bất cánh kỳ thuyết”
(chỉ khơi ra đầu mối ấy, rốt cuộc
chẳng nói), chẳng nói rơ ràng!
(Sao) Hoặc thử
bát tự truyền tả chi ngộ, an tri bất thị Cực
Lạc cửu phẩm, tất tùng liên sanh, sĩ cao minh cánh
biện chi!
(鈔)或此八字傳寫之誤,安知不是極樂九品,必從蓮生,俟高明更辨之。
(Sao: Chữ “bát” ấy
có thể là do sao chép sai lầm, không chừng nó chính là chín
phẩm trong cơi Cực Lạc đều sanh từ hoa sen,
xin chờ bậc cao minh biện định).
Liên
Tŕ đại sư nói lời này rất viên măn. Có lẽ là
do người đời sau biên chép sai lệch. “Bát” (八) cũng có thể là chữ “tất” (必: đều cùng) không
chừng!
(Diễn)
Vấn Cực Lạc cửu phẩm hạ, thị thích
minh Diệu Tông Sao hoặc hữu sai ngộ.
(演)問極樂九品下,是釋明妙宗鈔或有差誤。
(Diễn:
Từ câu “Hỏi: Chín phẩm trong Cực Lạc” trở
đi nhằm giải thích rơ bộ Diệu Tông Sao có thể
là sai lầm).
Do vậy
mới khiến cho người đời sau sanh khởi lắm
nỗi nghi hoặc ngần ấy.
(Sớ)
Vấn: Hạ phẩm dĩ ngoại, phục hữu thai
sanh, vị thật hữu phủ?
(疏)問:下品之外,復有胎生,為實有否。
(Sớ: Ngoài hạ phẩm
lại có thai sanh, có thật như vậy hay chăng?)
Kinh Vô Lượng
Thọ nói như vậy. Câu hỏi này rất hay, ngoài hạ
hạ phẩm văng sanh ra, có phải là đúng như kinh nói,
thật sự có thai sanh?
(Sớ)
Đáp: Biểu Tín Lực bất kiên cố, thật vô thai
sanh.
(疏)答:表信力不堅故,實無胎生。
(Sớ:
Đáp: Biểu thị Tín Lực chẳng kiên cố, thật
sự chẳng có thai sanh).
Liên
Tŕ đại sư nói câu này hết sức khẳng định,
Tây Phương Cực Lạc thế giới xác thực là
chẳng có thai sanh! Có Biên Địa, nhưng vẫn là hóa
sanh trong hoa sen, bất quá trong năm trăm năm họ không
thấy Phật, không nghe pháp, khổ là khổ ở chỗ
ấy. Chẳng thấy Phật, chẳng nghe pháp,
đương nhiên là [chẳng thấy] Ứng Hóa Thân Phật,
chẳng phải là Báo Thân Phật. Trong năm trăm
năm chẳng thấy Ứng Hóa Thân Phật. Năm
trăm năm ấy cũng dùng đơn vị thời
gian trong nhân gian chúng ta để tính toán.
(Sao)
Phi thai sanh giả, Đại Bổn vân: “Phật cáo Di Lặc:
Nhược hữu chúng sanh, tu chư công đức, nguyện
sanh bỉ sát, bất liễu Phật trí, chí ư do dự, lâm
mạng chung thời, phương hối kỷ quá. Dĩ
thị sanh bỉ, tài nhập Biên Địa, kiến thất
bảo thành, tức tiện chỉ trụ, ư liên hoa sanh,
diệc hữu tự nhiên khoái lạc, như Đao Lợi
Thiên. Duy ư thành trung, kinh ngũ bách tuế, bất đắc
kiến Phật, bất văn kinh pháp, dĩ thử vi khổ”.
Cố danh Thai Sanh, phi thật thai dục như nhân gian dă.
(鈔)非胎生者,大本云:佛告彌勒,若有眾生,修諸功德,願生彼剎,不了佛智,志意猶豫,臨命終時,方悔己過,以是生彼,纔入邊地,見七寶城,即便止住,於蓮華生,亦有自然快樂,如忉利天,惟於城中經五百歲,不得見佛,不聞經法,以此為苦,故名胎生。非實胎育如人間也。
(Sao: “Chẳng phải
là thai sanh”: Kinh Đại Bổn nói: “Phật bảo Di Lặc:
Nếu có chúng sanh tu các công đức, nguyện sanh về
cơi kia, chẳng hiểu rơ Phật trí, chí ư do dự, khi mạng
sắp chấm dứt, mới hối lỗi ḿnh. Do vậy
sanh về cơi kia, mới đến Biên Địa, thấy
thành bảy báu, liền ngưng nghỉ ở đó, sanh
trong hoa sen, cũng có sự sung sướng tự nhiên
như trong cơi trời Đao Lợi. Chỉ là trong năm
trăm năm, ở trong thành ấy, chẳng được
thấy Phật, chẳng nghe kinh pháp, coi đó là khổ”.
Cho nên gọi là Thai Sanh, chẳng phải là thật sự
có sanh nở bằng bào thai như trong nhân gian).
V́
sao bị đọa nơi Biên Địa Nghi Thành? Kinh Vô
Lượng Thọ đă nói rất minh bạch. Nói chung,
quy nạp lại th́ có hai nhân tố: Một là hoài nghi trí huệ
viên măn rốt ráo của Phật; hai là dấy ḷng hoài nghi
thiện căn của chính ḿnh. Nhưng người ấy
vẫn tín nguyện tŕ danh. Nếu chẳng có tín nguyện
tŕ danh, căn bản là chẳng thể sanh về đó. Có
tín nguyện tŕ danh, nhưng trong tâm có niềm nghi hoặc, sanh
về Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng
thể “nhập phẩm” (入品: dự vào phẩm
vị văng sanh), đọa trong Biên Địa, có ư nghĩa
như thế.
(Sao)
Hựu vân: Như Sát-đế-lợi, kỳ tử phạm
pháp, u chi nội cung.
(鈔)又云:如剎帝利,其子犯法,幽之內宮。
(Sao: Lại nói:
Như Sát-đế-lợi[7], đứa con
ông ta phạm pháp, bị giam cầm trong nội cung).
“U” (幽) có nghĩa là giam cầm. [Vương tử] phạm
pháp, bị giam, ngồi tù.
(Sao)
Xử dĩ hoa quán.
(鈔)處以華觀。
(Sao:
Ở trong cung điện tráng lệ).
“Hoa quán” (華觀) là cung điện
hoa mỹ, tráng lệ. Bị giam cầm ở trong ấy,
chẳng được phép tự do ra vào!
(Sao)
Tằng lâu, ỷ điện, hảo sức kỳ trân, bảo
trướng, kim sàng, phục ngự sở tư, tất
giai phong bị.
(鈔)層樓綺殿,好飾奇珍,寶帳金床,服御所資,悉皆豐備。
(Sao: Lầu nhiều
tầng, điện sơn vẽ rực rỡ, trang hoàng đẹp
đẽ bằng nhiều chất báu quư lạ, trướng
báu, giường vàng, quần áo, xe cộ, đồ vật
cần dùng thảy đều dư dật, đầy đủ).
Ư
nói cuộc sống hết sức hào nhoáng, hết thảy
hưởng thụ vật chất đều chẳng thiếu
khuyết, thứ ǵ cũng đầy đủ. Anh ta là
vương tử, vương tử phạm pháp bị
giam cầm chẳng giống kẻ b́nh phàm, giam cầm trong
thâm cung.
(Sao)
Nhi dĩ Diêm Phù kim tỏa hệ kỳ lưỡng túc, bất
đắc tự tại, tức Thai Sanh dụ dă.
(鈔)而以閻浮金鎖繫其兩足,不得自在,即胎生喻也。
(Sao: Nhưng dùng xích bằng
vàng Diêm Phù trói chặt hai chân, chẳng được tự
tại, nên dùng Thai Sanh để sánh ví).
Đây
là ư nghĩa của tỷ dụ Thai Sanh. Người ấy
chẳng thể tự tại, chẳng thể thấy Phật,
chẳng thể nghe pháp. Dẫu là hạ hạ phẩm văng
sanh, kẻ ấy đắc tự tại, hằng ngày có
thể đến mười phương thế giới cúng
dường chư Phật, nghe Phật thuyết pháp. Có khi
gặp gỡ chúng sanh hữu duyên, kẻ ấy tiện dịp
cũng có thể dùng các thứ thân để hóa độ chúng
sanh, kẻ ấy tự do tự tại. Sanh trong Biên Địa
Nghi Thành trong suốt năm trăm năm chẳng
được tự tại. Đó là tỷ dụ Thai
Sanh, Thai (胎) có nghĩa là “chẳng được tự tại”.
(Sao)
Hựu vân: “Nhược thức kỳ bổn tội, thâm
tự hối trách, cầu ly bổn xứ, tức đắc
văng nghệ Vô Lượng Thọ Phật sở.
(鈔)又云:若識其本罪,深自悔責,求離本處,即得往詣無量壽佛所。
(Sao: Lại nói: “Nếu
biết tội của ḿnh, tự hối hận, tự
trách sâu xa, cầu ĺa khỏi chỗ ấy, liền
được đến chỗ Vô Lượng Thọ Phật).
Nói
cách khác, phàm là người văng sanh thuộc loại này,
năm trăm năm là cực hạn của người ấy.
Cũng có nghĩa là: Tối đa là sau năm trăm
năm, người ấy sẽ hối hận, biết
sám hối, có thể đoạn trừ nỗi nghi hoặc
ấy. Đương nhiên c̣n có người rất nhanh
chóng, đến chỗ ấy một năm hoặc hai
năm bèn sám hối. Hễ sám hối, liền ĺa khỏi, Phật
liền hiện tiền, có thể thấy Phật, nghe
pháp. Đây cũng là nói rơ: Thời gian đọa trong Biên
Địa chẳng phải là rất dài. Dài nhất bất
quá là năm trăm năm mà thôi, dùng [đơn vị thời
gian trong] thế gian này để tính toán.
(Sao)
Hựu Bồ Tát Xử Thai kinh vân: “Tây Phương khứ
thử Diêm Phù Đề thập nhị ức na-do-tha, hữu
Giải Mạn Giới, quốc độ thất bảo,
kỳ lạc vô tỷ. Phát ư dục sanh Di Đà Phật quốc,
nhi nhiễm trước ư thử, bất năng tiền
tấn, diệc Nghi Thành Biên Địa loại dă”. Như
thị giai diêu tín bất thiết cố.
(鈔)又菩薩處胎經云:西方去此閻浮提十二億那由他,有懈慢界,國土七寶,其樂無比,發意欲生彌陀佛國,而染著於此,不能前進,亦疑城邊地類也。如是皆繇信不切故。
(Sao: Kinh Bồ Tát Xử
Thai lại nói: “Về phương Tây, cách Diêm Phù Đề
mười hai ức na-do-tha [thế giới], có cơi Giải
Mạn là cơi nước bằng bảy báu, vui sướng
khôn sánh. Kẻ phát khởi tâm ư muốn sanh về cơi nước
của Phật Di Đà, nhưng nhiễm đắm cơi ấy,
chẳng thể tiến lên, đó cũng là chỗ thuộc
loại Nghi Thành Biên Địa”. Như thế đều
là do ḷng tin chẳng thiết tha vậy).
Trong
kinh Bồ Tát Xử Thai[8],
đức Thế Tôn có nói như vậy. Theo như đoạn
kinh ấy nói, người niệm Phật có kẻ đọa
trong nước Giải Mạn. Giải
(懈) là giải
đăi (懈怠), Mạn
(慢) là ngă mạn.
Người niệm Phật chẳng sửa đổi
khuyết điểm, tập khí, trong tương lai cầu
sanh Tịnh Độ sẽ t́m sai chỗ! Ngỡ nước
Giải Mạn là thế giới Cực Lạc, sai mất
rồi! Cơi Giải Mạn khá gần thế giới Sa Bà, ở
giữa Sa Bà và Cực Lạc. C̣n chưa đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới, thấy nơi ấy
khá quá, cứ ngỡ chắc là Tây Phương Cực Lạc
thế giới, bèn trụ trong đó, chẳng đi nữa,
sai mất rồi! Người thật sự niệm Phật,
nói thật ra, chẳng dễ ǵ đến chỗ đó, v́
sao? A Di Đà Phật đến tiếp
dẫn quư vị, cứ khăng khít theo A Di Đà Phật,
lấy đâu ra sai lầm? Kẻ [chẳng thật ḷng niệm
Phật, nửa tin, nửa ngờ] theo A Di Đà Phật nửa
chừng bèn chẳng theo nữa, sẽ có thể đến
nơi ấy (cơi Giải Mạn), phiền phức to lớn!
V́ thế, hăy theo chắc A Di Đà Phật. Huống chi thật
sự văng sanh th́ thời gian từ thế giới này
đến Tây Phương Cực Lạc thế giới hết
sức ngắn ngủi, trong khoảng khảy ngón tay đă
đến nơi, làm sao có thể đọa lạc vào
nơi đó cho được! Chẳng thể nào! Điều
này khiến cho chúng ta an tâm rất lớn, chỉ là biết
có một nơi chốn như vậy!
(Sớ)
Vấn: Kư vân thất nhật, bỉ lâm chung thập niệm,
đặc nga khoảnh nhĩ, hà đắc văng sanh?
(疏)問:既云七日,彼臨終十念,特俄頃耳,何得往生?
(Sớ: Hỏi:
Đă nói là bảy ngày, kẻ ấy lâm chung mười niệm
chỉ là trong khoảnh khắc, v́ sao được văng
sanh?)
“Kư vân thất nhật” (Đă
nói là bảy ngày), chính là kinh Di Đà nói: “Hoặc một ngày, hoặc hai ngày, cho đến hoặc
bảy ngày”. Đă nói là “bảy ngày” th́ kẻ lâm chung
mười niệm chẳng có công phu bảy ngày! Xác thực
là có người như vậy, giống như
Trương Thiện Ḥa đời Đường suốt
một đời chẳng tiếp xúc Phật pháp, mà
cũng chưa hề niệm Phật; khi lâm chung, thật sự
là mười niệm văng sanh. Lâm chung mười niệm
th́ chỉ là trong một sát-na, thời gian hết sức ngắn
ngủi, tạm bợ, v́ sao cũng có thể văng sanh? Những
câu hỏi này đều hết sức hay.
(Sớ)
Đáp: Chánh dĩ nhất tâm cố, như Trí Luận trung
thuyết, hựu tự lực, tha lực, như Na Tiên
trung thuyết.
(疏)答:正以一心故,如智論中說。又自力他力,如那先中說。
(Sớ: Đáp: Chính
là v́ nhất tâm như trong Trí Độ Luận nói, lại
do tự lực và tha lực như trong kinh Na Tiên đă
nói).
Kinh
nói “hoặc một ngày, cho
đến hoặc bảy ngày”, mục đích là khiến
cho chúng ta niệm đến nhất tâm bất loạn, “nhất tâm” bèn có thể văng
sanh. Đối với cương lănh trọng yếu trong
việc niệm Phật, Đại Thế Chí Bồ Tát
đă nói rất hay: “Nhiếp
trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”, đó
thật sự là “một niệm
tương ứng một niệm Phật, niệm niệm
tương ứng niệm niệm Phật”. Nếu chẳng
phải là tịnh niệm th́ là tạp niệm, xen tạp
vọng tưởng! Vừa niệm Phật vừa dấy
vọng tưởng, mỗi ngày niệm mười vạn
tiếng cũng vô dụng. Tuy niệm nhiều, công phu nông
cạn. Trong mười niệm của người ta chẳng
có vọng tưởng; tuy niệm Phật hiệu ít, công
phu sâu. Liên Tŕ đại sư nói: “Niệm Phật chú trọng công phu sâu hay cạn”,
chẳng nói “niệm Phật hiệu
nhiều hay ít”, chẳng nói chuyện ấy. Về sau,
các vị đại đức muốn chúng ta ấn định
công khóa, mỗi ngày niệm một vạn, ba vạn,
năm vạn [câu Phật hiệu]. V́ sao buộc chúng ta phải
niệm như vậy? Đó là để nói với lũ
chúng ta là những kẻ chẳng khéo dụng tâm. Chúng ta chẳng
niệm Phật bèn dấy vọng tưởng; nói chung, niệm
Phật tốt hơn dấy vọng tưởng, tức
là loạn tâm niệm Phật tốt hơn chẳng niệm,
có ư nghĩa như thế đó. Nhưng thật sự mong
cầu nâng cao phẩm vị văng sanh của chính ḿnh, quư vị
nhất định phải hiểu công phu cạn hay sâu là
ǵ, phải hiểu đạo lư này. V́ thế, phải nhất
tâm xưng niệm. Phải hiểu ư nghĩa thật sự
được bao hàm trong chữ “Niệm”. Niệm là trong tâm thật sự có,
đó là Niệm, chẳng nhất định là trong miệng
có. Tuy trong miệng chẳng niệm, trong tâm thật sự
là nhớ nghĩ. Người Hoa thường nói là “điếm kư” (惦記: ghi nhớ, ghi tâm
tạc dạ), trong tâm thật sự nghĩ nhớ, thời
thời khắc khắc chẳng quên. Trong Đại Thế
Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương có một
tỷ dụ rất hay, “như
mẹ nhớ con”, ghi ḷng tạc dạ, trong tâm mẹ nhớ
tới con, thời thời khắc khắc không quên. Mẹ
trọn chẳng phải là miệng niệm, trong tâm mẹ
thật sự có [ư niệm nghĩ nhớ con]. Bất luận
khi nào, bất luận nơi chốn nào, hễ khởi tâm
động niệm th́ ư niệm thứ nhất bèn nghĩ
tới, đó là “chân niệm”,
đấy là công phu sâu. Do vậy, chẳng do miệng niệm
Phật hiệu nhiều hay ít, mà là trong tâm quư vị thật
sự có Phật hay không? Có thật sự mong đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới, thật sự
mong thấy Phật hay không? Có cái tâm ấy th́ gọi là niệm
Phật. Tâm càng tinh, càng thuần, những ư niệm khác đều
chẳng có, đều buông xuống, chỉ có một niệm
này, công phu bèn sâu. Đại kinh dạy chúng ta “nhất hướng chuyên niệm”
(một mực chuyên niệm) chính là ư nghĩa này.
(Sao)
Trí Luận vân: “Lâm tử thiểu hứa thời tâm, hà
năng thắng chung thân hạnh lực”.
(鈔)智論云:臨死少許時心,何能勝終身行力。
(Sao: Trí Độ Luận nói:
“[Hỏi]: Lúc sắp chết, cái tâm [niệm Phật] trong một
thời gian rất ít, làm sao có thể vượt trỗi hạnh
lực suốt đời”)
Đây
là nêu ra câu hỏi giả thiết: Khi lâm chung thời gian rất
ngắn, dụng tâm khi ấy làm sao có thể so với
người đă niệm Phật suốt một đời?
Làm sao có thể sánh bằng?
(Sao)
Đáp viết: Tuy thời khoảnh thiểu, tâm lực
mănh lợi.
(鈔)答曰:雖時頃少,心力猛利。
(Sao: Đáp: Tuy thời
gian ít ỏi, nhưng tâm lực mạnh mẽ, nhạy bén).
Tuy
thời gian ngắn ngủi, nhưng người ấy dụng
tâm hết sức mạnh mẽ, nhạy bén. Nói cách khác, có
thể vượt trỗi người b́nh thường niệm
Phật suốt một đời. Trong một khoảng thời
gian rất ngắn, công lực của người [lâm chung
niệm Phật] ấy có thể vượt trỗi
người kia (người suốt đời niệm Phật),
(Sao)
Thị tối hậu tâm, danh vi đại tâm.
(鈔)是最後心,名為大心。
(Sao:
Cái tâm vào lúc cuối cùng ấy được gọi là
đại tâm).
Quư
vị hỏi v́ sao ư? Nói thật ra, chúng ta thấy khá
nhiều người niệm Phật, niệm suốt mấy
chục năm, niệm suốt một đời, chưa
chắc đă văng sanh. Người niệm Phật đông
đảo, kẻ văng sanh ít ỏi. Tôi ở Tân Gia Ba, thấy
ông Lư Mộc Nguyên đến hóa độ tử tù. Ở Tân
Gia Ba, hễ bắt được kẻ buôn bán ma túy th́
[án phạt] duy nhất là tử h́nh. Tử h́nh bằng h́nh
thức chết treo, [tức là] xử tử bằng cách
treo cổ. Sau khi những phạm nhân tội tử h́nh ấy
bị bắt, tự ḿnh biết ngày nào sẽ chết, ai nấy
đều biết trước lúc chết! Cư sĩ Lư Mộc
Nguyên phát tâm rất tuyệt diệu, đến nơi
đó khuyên họ niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ,
họ tiếp nhận. Tử tù tiếp nhận pháp niệm
Phật, gần như ai nấy đều văng sanh! Khi hỏa
thiêu, xá-lợi vừa đẹp vừa xinh. Chúng ta rất
ít thấy! Họ [niệm Phật] thời gian chẳng
dài, v́ sao ai nấy có thể văng sanh? Người ta là “tối hậu tâm”, đúng là
thứ ǵ cũng đều buông xuống! Chúng ta niệm Phật
suốt đời, chuyện vướng mắc trong dạ
quá nhiều, thứ ǵ cũng đều không buông xuống
được! V́ thế, chẳng có được công
phu như người ta! Họ ngồi ở trong tù, hết
thảy hưởng thụ đều chẳng đạt
được; v́ thế, khăng khăng một mực
niệm Phật, họ thật sự văng sanh! Do vậy,
ông Lư Mộc Nguyên có công đức rất lớn, đă đưa
chẳng ít người về Tây Phương Cực Lạc
thế giới. V́ thế, tôi cảm thấy nhà giam tử
tù của Tân Gia Ba là một Niệm Phật Đường
thật sự, rất tuyệt diệu! Tân Gia Ba có nhiều
người làm Phật như vậy, nơi ấy có công
đức rất lớn, rất chẳng thể nghĩ
bàn! V́ thế, người ta khi lâm chung, buông xuống muôn
duyên, biết hết thảy đều chẳng mang theo
được; khi ấy, bỗng dưng giác ngộ, hết
thảy đă chẳng thể mang theo được th́
buông xuống hết thảy, nhất tâm niệm Phật, sức
mạnh ấy liền dũng mănh. V́ thế, họ có thể
văng sanh, có thể giành được phẩm vị rất
cao! Đạo lư ở ngay chỗ này. Do đó, [cái tâm tối
hậu] được gọi là “đại tâm”.
(Sao)
Đương tri tức thị nhất tâm bất loạn
cố.
(鈔)當知即是一心不亂故。
(Sao:
Hăy nên biết đấy chính là nhất tâm bất loạn).
Người
ấy nhất tâm niệm Phật, chẳng có tạp niệm.
Chúng ta xem lời chú giải dưới đây, giải
thích về tâm tối hậu và đại tâm.
(Diễn)
Tối hậu tâm giả, thử tâm chi hậu, cánh vô dư
tâm cố.
(演)最後心者,此心之後,更無餘心故。
(Diễn: “Tâm tối
hậu” là sau cái tâm ấy, chẳng c̣n tâm nào khác).
Đó
gọi là “tâm tối hậu”.
Người ấy sắp chết, [đă đến lúc] cuối
cùng, thời gian [chỉ c̣n lại] hoặc là mấy tiếng
đồng hồ, hoặc là mấy phút, chẳng c̣n thời
gian nữa. Đó là tâm tối hậu.
(Diễn)
Danh vi đại tâm giả, dĩ thùy tử chi nhân, tất
tri bất miễn, đế tâm quyết đoán, thắng
bách niên nguyện lực, thị tâm danh vi đại tâm.
(演)名為大心者,以垂死之人,必知不免,諦心決斷,勝百年願力,是心名為大心。
(Diễn: Gọi là
“đại tâm” là do người sắp chết, ắt biết
là chẳng thể tránh khỏi, tâm quyết đoán chắc
chắn, trỗi vượt nguyện lực cả trăm
năm, tâm ấy được gọi là “đại tâm”).
Người
sắp chết biết chính ḿnh nhất định phải
chết. “Đế tâm quyết
đoán”: “Đế” (諦) là chân tâm, tức cái tâm chân thật.
Tâm thật sự hạ quyết tâm, bỏ sạch và
đoạn trừ hết thảy vọng niệm, nhất
tâm niệm Phật, [tâm nguyện ấy sẽ] trỗi vượt nguyện lực [của
người niệm Phật suốt] một trăm năm
[mà tâm không tha thiết, dũng mănh phát nguyện cầu
văng sanh]. Người b́nh thường niệm suốt một
trăm năm, tâm người ấy hoàn toàn chẳng kiện
toàn, cái này cũng chẳng buông xuống được, cái
kia cũng chẳng buông xuống được, thời
gian [niệm Phật] tuy dài, Ngẫu Ích đại sư bảo
là “công phu nông cạn”. C̣n người ấy (người sắp
chết tinh tấn niệm Phật), tuy thời gian ngắn
ngủi, nhưng công phu sâu đậm, tâm người ấy
thật sự chuyên nhất, vọng niệm ǵ cũng
đều chẳng có. Tâm ấy gọi là đại tâm.
(Diễn)
Dĩ xả thân sự cấp cố, như nhân nhập trận,
bất tích thân mạng, danh vi “kiện nhân” dă.
(演)以捨身事急故,如人入陣,不惜身命,名為健人也。
(Diễn: Do xả
thân là chuyện cấp bách, như người vào trận,
chẳng tiếc thân mạng, nên gọi là “kẻ mạnh mẽ”).
Xả
thân là chuyện cấp bách, đă tới lúc khẩn yếu,
lúc bức thiết một mất một c̣n, người ấy
điều ǵ cũng chẳng so đo. “Như nhân nhập trận, bất tích thân mạng,
danh vi kiện nhân” (Như người vào trận, chẳng
tiếc thân mạng, gọi là “kẻ mạnh mẽ”). Giống
như đánh giặc, ở trên chiến trường, quên
bẵng sanh tử th́ mới có thể xung phong hăm trận.
Nếu có lo ngại, sợ hăi, chân sẽ mềm nhũn, chẳng
thể xung phong, đă bị hạ gục từ lâu!
Đây là nói tỷ dụ.
(Diễn)
Hựu phục đại tâm, diệc khả tức thị
Bồ Đề tâm.
(演)又復大心,亦可即是菩提心。
(Diễn:
Đại tâm lại cũng có thể chính là Bồ Đề
tâm).
Người
đă phát đại tâm ấy, Bồ Đề là giác ngộ
thật sự, giác ngộ triệt để, [nhận rơ]
trừ A Di Đà Phật ra, chẳng có ai cứu được.
V́ thế, phải nắm thật chặt danh hiệu A Di
Đà Phật, chẳng bỏ lỡ phút giây nào! Đó là đại
tâm.
(Diễn)
Dĩ thử tâm chi hậu, cánh vô dư tâm, tắc thị
đốn nhập Vô Tâm tam-muội, tức thị đốn
ly niệm tướng, khởi bất vi đại, khởi
bất tức thị Bồ Đề tâm?
(演)以此心之後,更無餘心,則是頓入無心三昧,即是頓離念相,豈不為大,豈不即是菩提心。
(Diễn: Do sau khi
đă có cái tâm ấy, chẳng c̣n tâm nào khác, chính là nhanh chóng
nhập Vô Tâm tam-muội, chính là nhanh chóng ĺa niệm tướng,
há chẳng phải là đại, há chẳng phải chính là
Bồ Đề tâm ư?)
Nói kiểu
này hết sức hay!
(Diễn)
Cái dĩ cửu phẩm hạnh nhân, hạnh hạnh thông hồ
cửu phẩm.
(演)蓋以九品行因,行行通乎九品。
(Diễn: Ấy là v́
hạnh nhân [của mỗi phẩm] trong chín phẩm, hạnh
nào cũng thông khắp chín phẩm).
Đây
là lư luận, mà cũng là sự thật.
(Diễn)
Như Ngũ Nghịch tội, lâm chung thập niệm vi
năng tiêu công, thuộc hạ hạ phẩm.
(演)如五逆罪,臨終十念為能消功,屬下下品。
(Diễn:
Như đối với kẻ phạm tội Ngũ Nghịch,
mười niệm lúc lâm chung có công năng tiêu tội, thuộc
về hạ hạ phẩm).
“Công” (功) là công phu. Mười niệm lúc lâm chung có thể
tiêu sạch tội Ngũ Nghịch, người ấy có
thể văng sanh. Văng sanh loại này thuộc về hạ hạ
phẩm.
(Diễn)
Nhược năng phục Hoặc, tức trung phẩm.
(演)若能伏惑,即中品。
(Diễn:
Nếu có thể chế ngự phiền năo th́ là trung phẩm).
Lâm
chung mười niệm mà có thể chế ngự phiền
năo, người ấy sẽ văng sanh trong trung phẩm.
(Diễn)
Nhược căn khí đại lợi, đốn năng
đoạn Hoặc.
(演)若根器大利,頓能斷惑。
(Diễn:
Nếu căn khí hết sức nhạy
bén, sẽ có thể nhanh chóng đoạn Hoặc).
Người
ấy là thượng phẩm. Cùng là mười niệm
như nhau mà có mười niệm tiêu nghiệp chướng,
có mười niệm chế phục Hoặc, có mười
niệm đoạn Hoặc, đều là mười niệm,
phẩm vị của người ấy là hạ bối
văng sanh, trung bối văng sanh, hoặc thượng bối
văng sanh, khác nhau! Ở đây nêu ra một thí dụ:
(Diễn)
Như Xà vương trọng hối, đắc vô căn
tín, tức thị thượng tam sở nhiếp.
(演)如闍王重悔,得無根信,即是上三所攝。
(Diễn: Như vua A
Xà Thế tha thiết sám hối, đắc Vô Căn Tín,
văng sanh thuộc vào ba phẩm thượng).
Theo
Quán Kinh, vua A Xà Thế giết cha, giam mẹ. Giết hại
cha mẹ, phá ḥa hợp tăng, đúng là không điều ác
nào chẳng làm, tạo tội địa ngục! Khi lâm
chung, vua mới hối lỗi, mới thật sự sám hối.
Vua do sám hối bèn đoạn Hoặc, vị này căn tánh
rất nhạy bén; do vậy, nhà vua văng sanh thuộc vào thượng
phẩm trung sanh. Cả một đời tạo tội
nghiệp to tát dường ấy, phẩm vị văng sanh cao
dường ấy, đấy cũng là nhằm bảo
chúng ta: Phật môn thật sự rộng lớn, thật sự
chẳng thể nghĩ bàn! Văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới có hai loại người:
1) Một loại
người là tích công lũy đức, văng sanh như vậy
đó.
2) Một loại
khác là tạo tác hết thảy tội nghiệp, sám hối
văng sanh.
Chúng ta hiểu rơ đạo
lư này, biết chân tướng sự thật này, cũng chẳng
dám khinh dễ kẻ làm ác. V́ sao? Nói không chừng, người
lâm chung sám hối niệm Phật văng sanh có phẩm vị cao
hơn ta, ta c̣n chẳng bằng kẻ đó. Đúng là có thể
như vậy. Đă hiểu rơ chân tướng sự thật,
mới biết Phổ Hiền Bồ Tát dạy chúng ta “lễ kính chư Phật” rất
có lư. Chớ nên phân chia kẻ khác là người tốt, kẻ
xấu, thiện nhân, ác nhân, chẳng cần phải phân biệt!
Phải dùng cái tâm chân thành cung kính để đối
đăi hết thảy mọi người. Đối với
Phật, Bồ Tát, ta cung kính như thế nào, th́ đối
với người tốt cũng cung kính giống hệt
như thế đó, mà đối với người ác, vẫn
là cái tâm cung kính ấy. Ta chí thành cung kính, tuyệt đối
chẳng khác, chẳng có sai biệt; đó là đúng. Quư vị
làm như vậy sẽ là hoàn toàn chánh xác.
(Diễn)
Khởi phi Ngũ Nghịch tùy ư sám công, tự phân cửu
phẩm dă.
(演)豈非五逆隨於懺功,自分九品也。
(Diễn: Đấy
chẳng phải là tội Ngũ Nghịch do tùy thuộc
công phu sám hối mà tự chia thành chín phẩm đó ư?)
Lời
này chẳng sai tí nào! Đó là kẻ lâm chung sám hối văng
sanh, cũng có chín phẩm, tuyệt đối chẳng phải
là người ấy chỉ thuộc về hạ hạ
phẩm văng sanh, chẳng phải vậy! Tùy thuộc cái tâm
hối lỗi của người ấy, tâm ấy thật
sự dũng mănh, chân thành, khẩn thiết, phẩm vị
sẽ ngay lập tức nâng cao!
(Diễn)
Thả thập niệm đắc sanh, giai thị túc hữu
linh căn giả.
(演)且十念得生,皆是夙有靈根者。
(Diễn: Hơn nữa,
người do mười niệm mà được văng
sanh đều là có linh căn từ trước).
Nhất
định phải biết điều này. Do vậy, chẳng
thể là may mắn được! [Cứ tưởng bở]
“lâm chung sám hối vẫn có thể văng sanh, nay tạo tội
nghiệp nhiều một chút chẳng sao, khi mạng chung vẫn
c̣n kịp mà!” Nếu quư vị nghĩ kiểu đó, sẽ
là lầm lẫn quá đỗi! V́ sao? Khi lâm chung phải có
đủ ba điều kiện. Quư vị ngẫm xem, trong
tương lai, khi quư vị lâm chung, có thể hội đủ
cả ba điều kiện ấy hay không?
1) Điều kiện
thứ nhất là tâm phải sáng suốt, tỉnh táo, chẳng
mê hoặc, chẳng điên đảo. Quư vị ngẫm xem,
điều này có dễ làm được hay chăng? Rất
khó! Chúng ta thấy rất nhiều người khi sắp mất
đều ngă bệnh, bệnh đến nỗi bất tỉnh
nhân sự, ngay cả người nhà quyến thuộc
cũng chẳng nhận ra. Thôi rồi, chẳng cứu
được! Lâm chung tỉnh táo, sáng suốt, chư vị
phải hiểu: Một người tạo tội nghiệp
đầy thân, lâm chung vẫn c̣n sáng suốt, c̣n tỉnh
táo, quư vị biết người ấy đời trước
phước báo to nhiều. Khi ấy, thiện căn và phước
đức trong đời quá khứ hiện tiền, thần
trí tỉnh táo, trọn chẳng mê hoặc.
2) Điều kiện
thứ hai là gặp thiện hữu nhắc nhở, khuyên
người ấy niệm Phật cầu sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới.
3) Điều kiện
thứ ba là khi ấy, vừa nghe bèn lập tức tiếp
nhận, ngay lập tức sám hối, niệm ngay! Mười
niệm hoặc một niệm bèn có thể văng sanh.
Quư vị ngẫm
xem, ba điều kiện ấy khó lắm, suốt một
đời người khác khuyên kẻ đó niệm Phật,
kẻ đó chẳng tin tưởng, lâm chung vừa khuyên,
ngay lập tức tin tưởng, ngay lập tức tiếp
nhận, khá là khó khăn! V́ vậy, chuyện này vàn muôn phần
chẳng thể nào cầu may! Chúng ta vẫn cứ thật
thà niệm Phật, tích lũy công đức, đi theo con
đường này sẽ ổn thỏa, thích đáng
hơn, ngàn muôn phần chớ nên cầu may!
(Diễn)
Thập Nghi Luận vân: “Lâm chung ngộ thiện tri thức,
thập niệm thành tựu giả, tịnh thị túc thiện
nghiệp cường, thỉ ngộ tri thức đẳng”.
(演)十疑論云:臨終遇善知識,十念成就者,並是宿善業強,始遇知識等。
(Diễn: Thập Nghi
Luận nói: “Lâm chung gặp thiện tri thức, mười
niệm thành tựu, toàn là do thiện nghiệp quá khứ mạnh
mẽ, cho nên mới gặp thiện tri thức” v.v…)
Thập Nghi Luận do Trí Giả
đại sư soạn, đă giải thích hết sức
rơ ràng, dạy chúng ta chớ nên cầu may, chỉ biết
đó là sự thật: Người ấy trong đời quá
khứ đă có đại thiện căn, đại
phước đức, đời này chẳng gặp duyên
tốt đẹp, hoàn toàn tương ứng với lời
dạy của Thiện Đạo đại sư (tức
là “chín phẩm văng sanh sai biệt
là do gặp duyên khác nhau”). Trong đời này, gặp ác
duyên, chẳng gặp thiện duyên, lúc lâm chung mới gặp
thiện duyên. V́ thế, hạng người như vậy
được gọi là Bất Định Tánh. Tục ngữ
có câu: “Gần son th́ đỏ,
gần mực th́ đen”. Người ấy bị hoàn
cảnh bên ngoài vây bủa, gặp thiện tri thức, người
ấy hành thiện; gặp phải ác tri thức, người
ấy tạo ác. Người ấy thuộc tánh chất
như thế đó.
(Diễn)
Diệu Tông Sao vân: Thử tuy tạo ác, dĩ tằng tu
Quán.
(演)妙宗鈔云:此雖造惡,已曾修觀。
(Diễn:
Sách Diệu Tông Sao nói: “Người ấy tuy làm ác, nhưng
đă từng tu Quán”).
Đă
từng tu Quán là trong đời quá khứ, chẳng phải
đời này. Trong đời quá khứ, người ấy
đă tu tập tích lũy rất dầy; đời này rất
bất hạnh, do gặp phải ác duyên cho nên mê muội, chuyện
là như vậy đó.
(Diễn)
Cố sử lâm chung, thiện hữu khuyến xưng thập
niệm, định tâm tắc thành.
(演)故使臨終,善友勸稱十念,定心則成。
(Diễn:
Nên khiến cho khi lâm chung, bạn lành khuyên xưng danh mười
niệm, do Định tâm bèn thành tựu).
Người
ấy lâm chung mới gặp thiện tri thức thật sự.
Khi ấy, vừa được khuyên dạy, người
ấy lập tức tin tưởng, lập tức phát
nguyện. Đó là thiện căn trong đời quá khứ
thành tựu, chẳng phải là phàm nhân.
(Diễn)
Diệc thị pháp hành.
(演)亦是法行。
(Diễn:
Cũng là một hạnh môn).
“Pháp” là pháp môn, “hành” là tu hành. Đấy cũng là một hạnh
môn trong vô lượng hạnh môn.
(Diễn)
Thừa cấp giới hoăn nhân dă.
(演)乘急戒緩人也。
(Diễn:
Thuộc hạng người thích nghiên cứu giáo pháp,
nhưng không nghiêm túc tu tập).
Thuộc loại
người nào? “Thừa cấp”:
“Thừa” (乘) là Phật pháp, người ấy
thích nghiên cứu, suy xét Phật pháp, thích làm chuyện này. “Hành” (行) là thật sự tu hành, Hành là Giới, Định,
Huệ. Coi nhẹ Giới, Định, Huệ, chẳng chịu
nghiêm túc tu hành, thích nghiên cứu kinh luận. Đó gọi
là kẻ “thừa cấp giới
hoăn”. Nay chúng ta gọi “thừa”
là học thuật, “giới”
là thật sự tu tập. Đối với việc thật
sự tu tập, kẻ ấy sai sót; đối với Phật
học bèn thật sự đổ công dốc sức nghiên
cứu, suy luận; là hạng người như vậy
đó!
(Diễn)
Do thừa cấp cố, đắc trị thiện hữu.
(演)由乘急故,得值善友。
(Diễn:
Do sốt sắng nghiên cứu giáo pháp, nên được gặp
bạn lành).
Thông
đạt giáo lư, thích nghiên cứu kinh giáo, cũng thích giảng
kinh, thuyết pháp, kết duyên cùng đại chúng khá nhiều,
và cũng kết thiện duyên chẳng ít, lâm chung gặp gỡ
thiện hữu.
(Diễn)
Túng hiện thế bất tu tam-muội, diệc thị túc
chủng kim thục, cố đắc văng sanh.
(演)縱現世不修三昧,亦是宿種今熟,故得往生。
(Diễn:
Dẫu đời hiện tại chẳng tu tam-muội,
th́ cũng là do [nhân duyên] đă gieo từ đời trước,
nay đă chín muồi, cho nên được văng sanh).
Đời
này chẳng tu hành, nhưng phải hiểu người ta
đời trước thật sự tu, đời này chẳng
tu! V́ thế, khi lâm chung, hễ người ấy sám hối,
buông xuống th́ chính là tu. Có thể thấy là có mối quan
hệ hết sức mật thiết với sự tu tŕ
trong đời quá khứ.
(Diễn) Cố
kim đại tâm, thuyết tức thị Bồ Đề
đại tâm, diệc vô bất khả.
(演)故今大心,說即是菩提大心,亦無不可。
(Diễn: V́ thế,
nay nói đại tâm chính là Bồ Đề đại tâm
cũng chẳng phải là không được).
Gộp
chung thiện căn, phước đức và nhân duyên trong
đời quá khứ để nói, người ấy một
niệm hồi tâm th́ có thể nói là đại Bồ Đề
tâm.
(Diễn)
Huống bổn Sao văn, đương tri tức thị
nhất tâm bất loạn, nhược Sự nhất tâm,
do vị vi đại.
(演)況本鈔文,當知即是一心不亂,若事一心,猶未為大。
(Diễn: Huống chi
đối với những điều được nói trong
lời Sao, hăy nên biết đó chính là nhất tâm bất loạn.
Nếu là Sự nhất tâm, vẫn chưa phải là “Đại”).
Vẫn
chưa được coi là lớn.
(Diễn)
Nhược Lư nhất tâm, khởi bất tức thị Bồ
Đề tâm. Thị cố danh vi đại tâm.
(演)若理一心,豈不即是菩提心。是故名為大心。
(Diễn:
Nếu là Lư nhất tâm, há chẳng phải chính là Bồ
Đề tâm ư? V́ thế, gọi là đại tâm).
V́ vậy,
nhất tâm là có thể “đốn
chứng”, [tức là] vừa nghe bèn lập tức chứng
đắc Lư nhất tâm, đấy là người căn
tánh nhạy bén nhất. Nói cách khác, cũng là do công phu tu tŕ vô
lượng kiếp của người ấy đến
lúc đó đă chín muồi viên măn; cho nên trong một đời
bèn chứng đắc Lư nhất tâm bất loạn. Trong
đời này có tiệm chứng và đốn chứng. Ở
đây, thuộc loại đốn chứng, cho nên thật
sự là đại Bồ Đề tâm. Dẫu là Sự nhất
tâm, nói thật ra, vẫn thuộc về Bồ Đề
tâm, Bồ Đề là giác ngộ, người ấy đă
thật sự giác ngộ, thật sự hiểu rơ. Hôm nay,
chúng tôi nói đến chỗ này.
A Di Đà Kinh Sớ Sao
Diễn Nghĩa
Phần 127
hết
[1] Đây là chủ trương của
Nhật Liên, sáng tổ Nhật Liên Tông
(Tân Pháp Hoa Tông) của Nhật Bản. Nhật Liên Tông
chủ trương niệm tựa đề kinh (Namu-Myoho-Renge-Kyo), không niệm
Phật (trong Lập Chánh Hộ Quốc Luận, Nhật
Liên cực lực đả kích Thiền, Chân Ngôn, Tịnh
Độ và Thiên Thai, kết án các pháp môn ấy là những
cách tu hành vô ích, khiến cho hành nhân đọa lạc,
dẫn đến t́nh trạng suy vong của Nhật
Bản vào thời ấy), không thờ tượng Phật,
chỉ niệm đề mục kinh là đủ. Họ
thờ Gohonzon Daimoku (Ngự Bổn Tôn Đề Mục),
tức là một bản viết tay của chính Nhật
Liên, viết bằng chữ Hán, chính giữa đề
Nam-mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, chung quanh đề danh hiệu
của chư Phật, như Đa Bảo Như Lai, Thích
Ca Mâu Ni Phật, Thập Phương Chư Phật,
Thượng Hạnh Bồ Tát, Tịnh Hạnh Bồ Tát,
Vô Biên Hạnh Bồ Tát, An Lạc Hạnh Bồ Tát, Di
Lặc Bồ Tát, Văn Thù Bồ Tát… các vị hộ pháp
như A Tu La Vương, Nhật Thiên, Đại Phạm
Thiên, tứ long vương, các vị Thanh Văn như Xá Lợi
Phất, Ca Diếp… các vị tổ sư như Thiên Thai
Trí Giả đại sư, Long Thọ Bồ Tát.., các
vị minh vương như Ái Nhiễm Minh Vương,
Bất Động Minh Vương… Cách hành tŕ trong Nhật
Liên Tông (cũng như trong các chi phái về sau như
Nhật Liên Chân Tông, Sáng Giá Học Hội v.v…) chủ
yếu là tŕ niệm đề mục kinh, hiếm khi tŕ
nguyên vẹn bộ kinh Pháp Hoa như Thiên Thai Tông của
Nhật Bản. Thông thường, trong thời khóa, họ
chỉ đọc hai phẩm là phẩm Phương
Tiện và Như Lai Thọ Lượng.
[2] Ở đây, chữ “trung hạ” chỉ trung phẩm hạ sanh v́ theo
Quán Kinh, cả chín phẩm chỉ riêng hạ phẩm trung
sanh là không nói đến hoa sen, nguyên văn chỉ chép: “Văn thử sự dĩ,
tầm tức mạng chung, thí như tráng sĩ khuất
thân tư khoảnh, tức sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới, kinh thất nhật dĩ, ngộ Quán
Thế Âm, cập Đại Thế Chí văn pháp hoan
hỷ, đắc Tu Đà Hoàn, quá nhất tiểu kiếp,
thành A La Hán” (Nghe chuyện ấy rồi, ngay đó
mạng chung, ví như trong khoảnh khắc tráng sĩ co
duỗi cánh tay, liền sanh về Tây Phương Cực
Lạc thế giới, qua bảy ngày, gặp Quán Thế Âm
và Đại Thế Chí, nghe pháp hoan hỷ, đắc Tu
Đà Hoàn, sau một tiểu kiếp, thành A La Hán).
[3] Tu từ (修辭) hoặc nói đầy đủ là “tu sức văn từ” (修飾文辭: sửa chữa, gọt giũa sao cho
văn chương bóng bẩy, đẹp đẽ),
tức là các biện pháp mỹ hóa văn chương
nhằm tăng cường tác dụng truyền
đạt, nhấn mạnh những điều muốn
biểu đạt, tăng cường mỹ cảm ḥng
tạo ấn tượng sâu đậm cho người
đọc, gây ấn tượng lôi cuốn, thu hút
người đọc. Các biện pháp tu từ
thường sử dụng nhất là tỷ dụ, ẩn
dụ, chuyển hóa (tức là nhân cách hóa sự vật
hoặc h́nh tượng hóa một vấn đề), khoa
sức (nói khoa trương), phúng thích (châm biếm),
chiết tự, đối ngẫu. Thể loại
đối ngẫu tạo ấn tượng rất
mạnh, như trong B́nh Ngô Đại
Cáo có những cặp đối ngẫu thật hùng
hồn như: “Dẫu
cường nhược có lúc khác nhau, song hào kiệt
đời nào cũng có… Nướng dân đen trên lửa
hung tàn, vùi con đỏ dưới hầm tai vạ.
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy
chí nhân mà thay cường bạo”, “voi uống nước,
nước sông phải cạn; gươm mài đá, đá
núi cũng ṃn… ngẫm thù lớn, há đội trời
chung; căm giặc nước, thề không cùng sống…”
[4] Tên gọi này ghép từ hai chữ Hima
(tuyết) và Ālaya (chỗ trú ẩn), có nghĩa là “vùng tuyết
đọng”. Đỉnh cao nhất trong rặng núi là
đỉnh Everest (tên gọi vinh danh nhà quan trắc
địa chất George Everest của Anh, nhưng công tŕnh
đo đạc thật sự được tiến hành
dưới sự hướng dẫn của Andrew Waugh).
Andrew Waugh đă đề nghị chọn tên này v́ có quá
nhiều tên gọi địa phương đối
với đỉnh núi này như Chomolungma (thánh mẫu) trong
tiếng Tây Tạng, người
[5] Bạch Hào gọi đầy đủ
là Mi Gian Bạch Hào Tướng (Ūrna-lakṣana) là sợi lông
trắng, cuộn tṛn, trong suốt, tỏa sáng như viên
ngọc nằm giữa hai chân mày đức Phật, ngay
phía trên sống mũi. Khi kéo thẳng ra, Bạch Hào dài
đến tám thước (có thuyết nói lúc sơ sanh,
Bạch Hào dài năm thước, đến khi thành
đạo, dài một trượng năm thước). Do
vậy, để biểu thị tướng này,
người ta thường cẩn một viên ngọc tṛn
hoặc thủy tinh lóng lánh vào giữa hai chân mày các
tượng Phật. Kinh Ưu Bà Tắc Giới cho
biết: “Lúc c̣n là Bồ Tát,
Ngài đă từng trong vô lượng đời tuyên
thuyết chánh pháp, thuyết pháp chân thật bất hư,
nên có được tướng bạch hào”. Mỗi khi
thuyết đại pháp, đức Phật thường
phóng quang từ tướng Bạch Hào, kinh chép là “phóng bạch hào quang”, nên chúng
ta thường lẫn lộn “hào
quang” với “viên quang”
(vầng quang minh bao quanh đầu đức Phật).
[6] Tứ Minh tôn giả (960-1028), tức là
ngài Tri Lễ. Vị này quê quán ở huyện Tứ Minh (nay
là huyện Cẩn, tỉnh Chiết Giang), là một vị
tổ sư trong tông Thiên
[7] Sát Đế Lợi (Kṣatriya)
là một trong bốn chủng tánh (
[8] Bồ Tát Xử Thai Kinh, có tên gọi
đầy đủ là Bồ Tát Tùng Đâu Suất Thiên
Giáng Thần Mẫu Thai Thuyết Quảng Phổ Kinh,
gồm ba mươi tám phẩm, do ngài Trúc Phật Niệm
dịch trong niên hiệu Hoằng Thỉ nhà Diêu Tần. Kinh
dạy về cảnh giới của Nhất Sanh Bổ
Xứ Đẳng Giác Bồ Tát khi từ cung trời
Đâu Suất giáng sanh vào thai mẹ, đồng thời
bao gồm rất nhiều giáo nghĩa và phương pháp tu
chứng của Bồ Tát.