A Di Đà Kinh Sớ
Sao Diễn Nghĩa
阿彌陀經疏鈔演義
Phần 129
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Minh Tiến, Huệ Trang và
Đức Phong
Tập
257
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn
Nghĩa Hội Bản, trang năm trăm mười ba:
(Sớ)
Xứng Lư, tắc tự tánh cụ túc, thị lợi
nghĩa.
(Sao) Thí quán tự tánh,
khiếm thiểu hà sự, linh tri thể thượng, Di
Đà thánh chúng chung nhật hiện tiền, Thường Tịch
Quang trung, Cực Lạc tịnh bang vô thời bất văng.
Nại hà Phật kiến thị lợi, chúng sanh nhược
manh, Phật thuyết thị lợi, chúng sanh nhược
lung. Tuy thị lao tha kim khẩu tuyên dương, tu thị
nhất hồi thân kiến thỉ đắc.
(疏)稱理,則自性具足,是利義。
(鈔)試觀自性,欠少何事,靈知體上,彌陀聖眾終日現前,常寂光中,極樂淨邦無時不往。奈何佛見是利,眾生若盲,佛說是利,眾生若聾,雖是勞他金口宣揚,須是一回親見始得。
(Sớ: Xứng Lư, tự
tánh trọn đủ là ư nghĩa “điều lợi này”.
Sao: Thử quán tự tánh, có thiếu
khuyết chuyện ǵ? Nơi cái thể linh tri, Phật Di
Đà và thánh chúng suốt ngày hiện tiền. Trong Thường
Tịch Quang, cơi tịnh Cực Lạc không lúc nào chẳng
đến. Hiềm rằng Phật thấy điều lợi
này, chúng sanh như mù; đức Phật nói điều lợi
này, chúng sanh như điếc. Tuy Ngài nhọc nhằn miệng
vàng tuyên dương, vẫn phải là [chính chúng ta] một
phen đích thân trông thấy th́ mới đạt được).
Trong
đoạn này, Liên Tŕ đại sư đă nói xứng
tánh. Do vậy có thể biết: Mê và ngộ sai biệt quá
lớn. Chư Phật Như Lai thấy điều lợi
ấy, chúng ta chỉ có thể nói theo Sự. Nói theo Lư, hoàn
toàn chẳng phải là cảnh giới của bọn phàm
phu chúng ta. Lư là chân tâm, là bản tánh. “Tự tánh” được nói ở đây chính là chân
tâm bản tánh, tự tánh vốn trọn đủ, chẳng
thiếu khuyết mảy may nào! Lục Tổ Huệ
Năng đại sư lúc khai ngộ đă nói: “Nào ngờ tự tánh, vốn tự
trọn đủ”, câu nói ấy hoàn toàn tương
đồng với lời Liên Tŕ đại sư đang nói
ở đây. Ắt cần phải là sau khi đă triệt
ngộ th́ mới thấy tự tánh vốn sẵn trọn
đủ. Nếu c̣n thuộc địa vị mê hoặc,
cũng có nghĩa là chúng ta mê mất tự tánh, có thể
nói: Trước mắt chúng ta, thứ ǵ cũng đều
khiếm khuyết, thứ ǵ cũng đều chẳng trọn
đủ. Lợi và hại sai biệt há chỉ là một
trời, một vực. Điều này nói rơ chuyện triệt
ngộ và kiến tánh hết sức trọng yếu. Phật
pháp chỉ dạy hết thảy chúng sanh chẳng có ǵ
khác, chỉ là dạy chúng ta giác ngộ, chỉ nhằm dạy
chúng ta khôi phục tự tánh mà thôi. Kinh Đại Thừa
thường nói: “Viên măn Bồ
Đề, quy vô sở đắc” (Viên măn Bồ Đề,
trở về chỗ không có ǵ để đạt
được). Viên măn Bồ Đề là chứng đắc
viên măn Phật quả rốt ráo; khi ấy, hỏi quư vị
rốt cuộc đạt được những ǵ? Mới
hoảng nhiên đại ngộ, thứ ǵ cũng đều
chẳng đạt được. V́ sao thứ ǵ cũng
đều chẳng đạt được? Những ǵ
đạt được thảy đều là vốn có sẵn
trong tự tánh! Khi kẻ thuộc địa vị phàm phu
như chúng ta quan sát, [sẽ thấy] người ấy
đạt được quá nhiều, vô lượng trí huệ,
trí huệ rốt ráo viên măn, vô lượng đức
năng, vô lượng tài nghệ, vô lượng thọ mạng,
hết thảy các thứ vô lượng đều đạt
được. V́ sao nói quư vị thứ ǵ cũng chẳng
đạt được? V́ hết thảy vô lượng
đều vốn sẵn trọn đủ trong tự
tánh; ngoài tự tánh ra, thứ ǵ cũng đều chẳng
có. Đó là ư nghĩa thật sự của “quy vô sở đắc”. Tánh trọn đủ tuy
viên măn như vậy, nhưng [phàm phu] chẳng thể kiến
tánh, chẳng thể thọ dụng mảy may công đức
vốn sẵn trọn đủ trong tự tánh. Đương
nhiên là lục đạo phàm phu chẳng cần phải nói
nữa, càng ngày càng trầm luân, càng khổ sở hơn. Nếu
quư vị hỏi: V́ sao khổ ư? Càng mê càng sâu, cuộc sống
ngày càng khổ sở hơn. Đạo lư ở chỗ này.
Những
điều được nói trong đoạn này hoàn toàn là
lời lẽ kiến tánh, hoàn toàn là cảnh giới đă
khôi phục bản tánh, quư vị mới thấy “Di Đà thánh chúng” (Phật Di
Đà và thánh chúng), Di Đà thánh chúng do đâu mà có? Tự tánh
Di Đà, tự tánh Quán Âm, tự tánh Đại Thế Chí,
tự tánh Liên Tŕ Hải Hội, có thứ ǵ thuộc về
bên ngoài hay chăng? Thật đấy! Chẳng giả tí
nào! Thường Tịch Quang là toàn thể của tự
tánh chúng ta. “Thường” (常) là chẳng gián
đoạn, vĩnh hằng, vĩnh viễn là t́nh trạng
như vậy, chưa hề biến đổi, thường
hằng. “Tịch” (寂) là tịch
tĩnh. Chúng ta nói đến Định, Định đến
mức tột cùng bèn gọi là “tịch
diệt”. Tịch Diệt Nhẫn trong Ngũ Nhẫn
chính là tự tánh vốn định, chẳng phải do tu
được. “Quang” (光) là quang minh,
cũng là trí huệ viên măn. Kinh Đại Thừa nói ba chữ ấy chính là “Tam Đức bí tạng”, tức là Pháp Thân, Bát Nhă,
Giải Thoát,“Thường” là
Pháp Thân, “Tịch” là Giải
Thoát, “Quang” là Bát Nhă. Thường
Tịch Quang là tướng Tam Đức viên măn. “Cực Lạc tịnh bang vô thời
bất văng” (Không lúc nào chẳng đến cơi tịnh Cực
Lạc). Thường Tịch Quang là thế giới Cực
Lạc, thế giới Cực Lạc là Thường Tịch
Quang. Cố nhiên ba chữ ấy là Quả Đức, nay
chúng ta phải tu. Nếu nhân và quả chẳng tương
ứng, dẫu tu tập vất vả thế nào đi nữa,
vẫn chẳng thể nhập cảnh giới ấy!
Chúng ta khởi đầu tu từ đâu? Tu khởi đầu
từ Định. Định là then chốt, chỉ cần
đạt được một chữ trong ba chữ “Thường Tịch Quang”, hai
chữ kia sẽ đều đạt được. Trong
ba chữ ấy, hăy nên thực hiện từ đâu? Thực
hiện từ Tịch. Tịch chính là “nhất tâm bất loạn” được nói
trong kinh này, mà cũng là Niệm Phật tam-muội được
nói trong Tịnh Tông, đấy là mục tiêu tu học của
người tu Tịnh Độ chúng ta. Nếu tâm chúng ta
thật sự ngày càng thanh tịnh hơn, mỗi năm một
thanh tịnh hơn, công phu sẽ đắc lực, tu học
đúng vào nề nếp. V́ thế, nhân và quả nhất
định phải tương ứng.
Không
chỉ là tương ứng với mục tiêu cuối cùng
này, mà những lợi ích đạt được trước
mắt cũng thật sự chẳng thể nghĩ bàn!
Trong kinh Đại Thừa, đức Phật thường
nói: Hết thảy các hiện tượng, y báo và chánh báo trang
nghiêm trong mười pháp giới, “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Duy
tâm, Tâm và Thức đều là tự tánh khởi tác dụng.
Đại dụng (tác dụng to lớn) của tự tánh
là hiện tướng. [Nói tới] tác dụng của tự
tánh th́ trong ấy là hữu tác (có tạo tác). Nếu là vô tác
th́ [chỉ là] hiện tướng, hễ hữu tác th́ tướng
ấy bèn dấy lên sự biến hóa. Kinh thường nói:
“Hết thảy các pháp sanh từ
tâm tưởng”, “tưởng”
(想) là đă làm. Chẳng làm, há có tưởng? Chẳng
cần phải đợi đến lúc thân thể cử
động, hễ trong tâm vừa tưởng th́ là “đă làm”.
Ví như chúng ta ngủ bèn nằm mộng. Nằm mộng
th́ thân chúng ta chẳng động, miệng cũng chẳng
động, nhưng trong tâm có tưởng, mộng cảnh
bèn hiện tiền. Quư vị mới hiểu Tưởng
có mối quan hệ quá lớn! V́ thế, tu hành trong nhà Phật
hết sức coi trọng Quán Tưởng. Bất luận
Hiển Giáo hay Mật Giáo, Tông Môn hay Giáo Hạ, Quán Tưởng
là một khoa mục tu học hết sức quan trọng trong
Phật môn. Chúng ta tu Tịnh Độ, Thập Lục Quán
Kinh dạy chúng ta mười sáu phương pháp quán tưởng.
V́ sao? “Tưởng” có thể
biến, đó là “duy thức sở
biến”. Nếu chúng ta thật sự hiểu đạo
lư này, hiểu rơ sự thật này, cuộc sống của chúng
ta có thể tùy tâm như ư. Chúng ta mong thân thể khỏe mạnh,
mong chẳng bị bệnh tật, thậm chí mong bệnh
tật nơi thân có thể khôi phục hoàn toàn b́nh thường,
dùng phương pháp ǵ? Quán tưởng. “Tưởng” có thể biến. Điều
được ưa chuộng nhất trong hiện thời
là biến đổi thể chất, biến hóa thể chất.
Thể chất biến hóa như thế nào? Tưởng!
Thể chất khỏe mạnh là do tâm địa thanh tịnh.
Chỉ cần quư vị tịnh hóa tâm linh, thân thể sẽ
có thể khôi phục khỏe mạnh. Người nhiễm
bệnh, điều trị cách nào cũng trị chẳng
lành, do nguyên nhân ǵ? Trong tâm người ấy dấy vọng
tưởng, nghĩ đến bệnh tật. Khi người
ta chẳng có bệnh, chỉ cần quư vị nghĩ đến
bệnh tật, sớm muộn ǵ cũng mắc chứng bệnh
ấy. Bệnh do đâu mà có? Do tưởng mà có, sanh từ
tâm tưởng, lẽ nào quư vị chẳng mắc bệnh
cho được? V́ vậy, quán tưởng hết sức
quan trọng. Chúng ta tưởng, tưởng y báo và chánh
báo trang nghiêm của A Di Đà Phật, tưởng A Di
Đà Phật thân kim sắc, tưởng thân tượng (身像: h́nh dạng thân
thể) của A Di Đà Phật luôn trong suốt, chẳng
có mảy may ô nhiễm nào. Có thể thường xuyên tưởng
như thế, sẽ bất tri bất giác biến thân thể
của chính ḿnh trở thành giống hệt như thân thể
của A Di Đà Phật. Chuyện là như vậy đó.
Đó là sự thật. V́ thế, tâm chẳng thể không thanh tịnh, chớ nên có mảy may nhiễm
trước. Từ lư luận này, chúng ta thật sự thấu
hiểu trạng huống của thế giới Cực
Lạc trong cảnh giới của Phật và các vị đại
Bồ Tát, đích xác là chân thật, chẳng dối.
“Phật kiến thị lợi”
(Đức Phật thấy điều lợi ấy), chư
Phật, Bồ Tát đă thấy, “chúng sanh nhược manh” (chúng sanh như mù), “manh” (盲) là đui mắt, chẳng thấy. “Phật thuyết thị lợi, chúng sanh nhược
lung” (Đức Phật nói điều lợi ấy,
chúng sanh như điếc), “lung” (聾) là chẳng nghe rơ,
chẳng nghe thấy. Đức Phật nói [điều
đại lợi ích ấy] mà chúng sanh đều như điếc,
như mù; thế th́ có thể suy ra sẽ biết trạng
huống [lănh hội] của chúng sanh khi [nghe] những hàng đệ
tử kém cỏi hơn Phật giảng nói! Có mấy ai
nghe pháp mà có thể thật sự giác ngộ? “Tuy thị lao tha kim khẩu tuyên
dương” (Tuy Ngài nhọc nhằn miệng vàng tuyên
dương), chữ “tha” (他) chỉ Thích Ca
Mâu Ni Phật. Chúng ta khiến cho Thích Ca Mâu Ni Phật nhọc
nhằn giảng kinh, thuyết pháp suốt bốn
mươi chín năm! Trong cái nh́n của lũ phàm phu chúng
ta, Thích Ca Mâu Ni Phật rất vất vả, rát miệng buốt
ḷng khuyên dạy chúng ta; nhưng chúng ta cần phải đích
thân thấy cảnh giới ấy, “thân kiến” (親見: đích thân
trông thấy) [có nghĩa] là chứng đắc. Chứng đắc
như thế nào? Phải vâng theo lời dạy mà tu hành, chiếu
theo phương pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật đă chỉ dạy
để hành, chúng ta sẽ có thể chứng minh, chứng
thực cảnh giới ấy. Quư vị có thể chứng
minh tức là chính ḿnh sẽ nhập cảnh giới ấy,
chính ḿnh đạt được thọ dụng thật
sự.
(Kinh)
Xá Lợi Phất! Như ngă kim giả, tán thán A Di Đà Phật
bất khả tư nghị công đức chi lợi.
(經)舍利弗。如我今者。讚歎阿彌陀佛不可思議功德之利。
(Kinh: Này Xá Lợi Phất! Như ta nay tán thán lợi ích công
đức chẳng thể nghĩ bàn của A Di Đà Phật).
Qua
đoạn kinh văn lớn dưới đây, chúng ta có
thể thấy: Thích Ca Mâu Ni Phật tán thán A Di Đà Phật,
A Di Đà Phật cũng tán thán Thích Ca Mâu Ni Phật. Không chỉ
là Phật Di Đà và đức Thế Tôn tán thán lẫn nhau,
mà mười phương hết thảy chư Phật thấy
sự thật này, chẳng có vị Phật nào không tán thán.
Mục đích là khiến cho chúng ta thấy t́nh h́nh tốt
đẹp, t́nh h́nh tốt đẹp chưa từng có như
thế ấy, sẽ giúp cho chúng ta đoạn nghi sanh tín.
(Sớ)
Thừa thượng bất độc ngă kiến thị
lợi nhi thuyết thử ngôn.
(疏)承上不獨我見是利而說此言。
(Sớ: Thừa tiếp
ư “không chỉ riêng ta thấy điều lợi ấy mà nói
lời này” trên đây).
“Ta” là Thích Ca Mâu Ni Phật tự
xưng. “Như ngă kim giả”
(Như ta nay), Thích Ca Mâu Ni Phật tự xưng.
(Sớ)
Diệc thập phương chư Phật đồng kiến
thị lợi nhi thuyết thử ngôn dă.
(疏)亦十方諸佛同見是利而說此言也。
(Sớ: Mười
phương chư Phật cũng do cùng thấy lợi ích
ấy nên nói lời này).
Mười
phương hết thảy chư Phật đều thấy
lợi ích này, lợi ích này là nói theo Sự: “Tín nguyện tŕ danh, văng sanh bất
thoái thành Phật”. Đức Phật
thấy lợi ích này. “Lư” hết
sức sâu, chỉ có chư Phật Như Lai mới
có thể thấy thấu triệt. Đẳng Giác Bồ
Tát mà nếu chẳng được Phật lực gia tŕ,
cũng chẳng thể thấy rơ ràng và minh bạch dường
ấy. Chư Phật thấy điều lợi ích to lớn
này, “tín nguyện tŕ danh, văng
sanh bất thoái thành Phật”, đă nói rơ ràng, minh bạch
chuyện hóa độ chúng sanh của hết thảy
chư Phật Như Lai. Phật pháp đúng là rất
đơn giản. Không chỉ là đối với chuyện
giáo hóa chúng sanh trong suốt một đời Thích Ca Mâu Ni,
mà đối với sự giáo hóa chúng sanh của hết thảy
chư Phật, quư vị thấy câu nói ấy (“tín nguyện tŕ danh, văng sanh bất
thoái thành Phật”) đă nói trọn hết. Người
chuộng đơn giản bèn đơn giản như thế
đó. Đối với kẻ ưa rườm rà, cả
một bộ Đại Tạng Kinh vẫn chưa nói trọn
hết! Đức Phật thuyết pháp là ứng cơ
thuyết pháp, [nghĩa là] quư vị thích tiếp nhận
như thế nào, đức Phật bèn giảng cho quư vị
như thế đó. Kẻ chuộng đơn giản bèn
dễ dàng như thế, lại c̣n thành tựu hết sức
thù thắng.
(Sớ)
Tán giả, xưng tán. Thán giả, cảm thán. Bất khả
tư nghị giả, thượng ngôn “ngă kiến thị
lợi”, kim cực ngôn kỳ lợi phi tầm thường
chi lợi dă.
(疏)讚者,稱讚;歎者,感歎。不可思議者,上言我見是利,今極言其利非尋常之利也。
(Sớ: “Tán” là khen ngợi.
“Thán” là cảm thán. “Chẳng thể nghĩ bàn”: Trong phần
trên đă nói “ta thấy điều lợi ấy”, nay cực
lực nói “điều lợi ấy chẳng phải là lợi
ích tầm thường”).
Chẳng
phải là lợi ích b́nh phàm. Lợi ích b́nh phàm là lợi ích
nhỏ nhặt, chẳng phải là lợi ích chân thật.
[Lợi ích b́nh phàm] là đạt được lợi ích
trước mắt, trong tương lai chẳng có lợi
ích, là lợi ích đạt được trong một
đời này, đời sau chẳng có lợi ích, [những
thứ lợi ích như vậy] toàn là giả, đều
chẳng chân thật. Đời này siêng khổ tu hành, đời
sau có thể chứng quả A La Hán, thoát tam giới, liễu
sanh tử, đó là tiểu lợi. Có thể đoạn Hoặc
chứng Chân, chứng đắc quả vị Bồ Tát th́
cũng là tiểu lợi, chẳng thể coi là đại
lợi. Phàm phu thành Phật, đấy mới là đại
lợi ích, đấy mới gọi là lợi ích chẳng
thể nghĩ bàn, chẳng phải là lợi ích b́nh phàm.
(Sớ)
Văn hữu tam chuyển.
(疏)文有三轉。
(Sớ:
Kinh văn có ba lượt chuyển biến).
Chúng ta rất khó
thấy được [điều này]. Ở đây, Liên
Tŕ đại sư nhắc nhở chúng ta, chúng ta suy
nghĩ, thấy không sai, quả nhiên là như vậy.
(Sao) Đệ nhất,
phi vô ích, cố vân lợi.
(鈔)第一、非無益,故云利。
(Sao:
Thứ nhất, chẳng phải là vô ích nên nói là Lợi).
Chúng
ta học Phật, làm học tṛ của Phật để
theo Phật học tập. Nếu chẳng đạt
được một chút lợi ích nào, chúng ta học Phật
để làm ǵ? V́ thế, tuyệt đối chẳng phải
là không có lợi ích, cho nên gọi là Lợi.
(Sớ)
Nhị, phi đản sự phước chi lợi, cố
vân công đức chi lợi.
(疏)二、非但事福之利,故云功德之利。
(Sớ: Thứ hai, không
chỉ là lợi ích thuộc về phước báo nơi Sự,
cho nên nói là lợi ích thuộc về công đức).
Những
sự, những phước báo trong thế gian chẳng phải
là rốt ráo, chẳng hoàn mỹ. Nói cách khác, chúng có khuyết
hăm, mà cũng chẳng lâu dài, chẳng phải là điều
lợi thật sự. Lợi ích thuộc công đức
khác hẳn, lợi ích thuộc công đức có thể giúp
chúng ta tu hành chứng quả. V́ vậy, điều lợi
ích này khác với lợi ích theo quan niệm thông thường
của người thế gian.
(Sớ)
Tam, phi đản công đức chi lợi, cố vân bất
khả tư nghị công đức chi lợi dă.
(疏)三、非但功德之利,故云不可思議功德之利也。
(Sớ: Ba là không chỉ
lợi ích thuộc về công đức, cho nên nói là lợi
ích chẳng thể nghĩ bàn về mặt công đức).
Giúp
chúng ta thoát tam giới, liễu sanh tử, chứng quả
Nhị Thừa là tiểu lợi ích. Giúp chúng ta chứng quả
vị Đại Thừa Bồ Tát vẫn là tiểu lợi
ích. Nay nói với quư vị lợi ích do niệm Phật văng
sanh, [lợi ích ấy] sẽ khác hẳn, đó là lợi
ích viên măn rốt ráo. V́ thế, gọi là “bất khả tư nghị công đức chi lợi”.
(Sớ)
Dĩ thị tán thán, phi ngẫu nhiên cố.
(疏)以是讚歎,非偶然故。
(Sớ: Do v́ tán thán như
vậy chẳng phải là chuyện ngẫu nhiên).
Chúng
ta lại xem chú giải trong phần Sao.
(Sao) Xưng tán giả,
xưng dương tán mỹ bỉ Phật quảng đại
công đức.
(鈔)稱讚者,稱揚讚美彼佛廣大功德。
(Sao: “Xưng tán”: Ca ngợi,
tôn vinh công đức rộng lớn của đức Phật
ấy).
“Bỉ Phật” là A Di Đà Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật tán
thán công đức rộng lớn của A Di Đà Phật,
[những công đức ấy được] nói cặn kẽ
trong kinh Vô Lượng Thọ. V́ thế, qua kinh Vô Lượng
Thọ, đức Thế Tôn đă tán thán “quảng đại công đức” (công đức
rộng lớn) của A Di Đà Phật. Mười phương
chư Phật cũng tán thán A Di Đà Phật giống hệt
như Thích Ca Mâu Ni Phật.
(Sao)
Linh nhân quy tín dă.
(鈔)令人歸信也。
(Sao: Khiến cho kẻ
khác quay về tin tưởng).
“Quy” (歸) là quay về, “tín” (信) là tin tưởng,
ngưỡng mộ. Không chỉ là từ lục đạo
quay về, không chỉ là từ Nhị Thừa quay về, hoặc
từ Đại Thừa quay về, mà là từ hết thảy
các pháp môn quay về, chuyên nhất nơi pháp môn này. “Quy tín” có ư nghĩa này. Nếu
quư vị chẳng chịu quay về, chẳng chịu từ
trong lục đạo quay về, sẽ rất nhọc nhằn,
quư vị phải luân hồi trong lục đạo. Luân hồi
trong lục đạo sẽ chẳng tránh khỏi đọa
trong ba ác đạo. Nói thật ra, ba ác đạo hết sức
đáng sợ, hết sức kinh hăi! Sau khi đă chứng
đắc quả Tu Đà Hoàn, hàng Nhị Thừa c̣n phải
qua lại bảy lần trong cơi trời và nhân gian rồi mới
có thể chứng quả A La Hán. Thọ mạng trong nhân
gian ngắn ngủi, thọ mạng trong cơi trời dài lâu.
Qua lại bảy lần, thời gian ấy tính bằng con
số thiên văn, phải chịu đựng bao nhiêu nỗi
nhọc nhằn! Đại Thừa Bồ Tát phải trải
nghiệm ba đại A-tăng-kỳ kiếp. V́ sao chẳng
quay về? Hễ quay đầu, sẽ thành tựu ngay
trong một đời! Người b́nh phàm phải tu tŕ suốt
hai A-tăng-kỳ kiếp mới có thể đạt tới
địa vị ấy, chúng ta trong một đời
đă có thể làm được. Đó là công đức rộng
lớn của A Di Đà Phật, chư Phật Như Lai gọi
điều ấy là “chẳng thể nghĩ bàn”. V́ thế,
chúng ta nhất định phải hiểu câu “chẳng thể
nghĩ bàn” là do ai nói.
(Sao)
Cảm thán giả, cảm kích thán tức, thử pháp nhân
thiên hy hữu, lịch kiếp nan phùng.
(鈔)感歎者,感激歎息,此法人天希有,歷劫難逢。
(Sao: Cảm thán là cảm
kích, than thở, pháp này là pháp hiếm có trong cơi trời
người, trải bao kiếp khó gặp gỡ).
Phải
ghi nhớ tám chữ này (“nhân
thiên hy hữu, lịch kiếp nan phùng”). Chớ nghĩ
đời này chúng ta có được pháp này quá dễ dàng.
Nói thông tục là quư vị quá may mắn. “May mắn” là cách
nh́n của kẻ b́nh phàm, nông cạn! Người thật
sự có học vấn, có chiều sâu sẽ biết: Những
ǵ quư vị đạt được chẳng phải là
ngẫu nhiên, giống như trong kinh Vô Lượng Thọ
đă nói, là do quư vị đă tu thiện căn và phước
đức trong vô lượng kiếp nên mới có cơ hội
gặp gỡ. Nếu chẳng phải là do thiện căn
và phước đức trong vô lượng kiếp đă
chín muồi, trong một đời này, chắc chắn là
quư vị chẳng gặp pháp môn này! Dẫu có gặp, quư vị
cũng chẳng tin tưởng, cũng chẳng thể coi
trọng, dẫu gặp mà cũng như không gặp!
Đúng là “nhân thiên hy hữu, lịch
kiếp nan phùng” (hiếm có trong cơi trời người,
trải bao kiếp khó gặp gỡ)! Cổ nhân từng nói:
“Một ngày hiếm có, khó gặp
từ vô lượng kiếp đến nay”. Chúng ta gặp
được pháp môn này, chỉ có người thật sự
biết sự thật này th́ mới biết quư tiếc, coi
pháp này như vật báu trân quư nhất.
(Sao)
Linh nhân bi hỷ, hỷ giả, hỷ kỳ đắc
văn.
(鈔)令人悲喜,喜者,喜其得聞。
(Sao: Khiến cho kẻ
khác buồn vui [lẫn lộn]. Vui là vui mừng do
được nghe).
Đây
là hoan hỷ. Thật sự đắc đại hoan hỷ,
c̣n hoan hỷ hơn hàng Bồ Tát thuộc Hoan Hỷ Địa.
Bồ Tát chứng Hoan Hỷ Địa do tu hành trọn một
A-tăng-kỳ kiếp, tu viên măn địa vị Tam Hiền,
chứng nhập Sơ Địa Bồ Tát, đắc
đại hoan hỷ. Giống như quư vị học hành trong
nhà trường mười mấy năm, tốt nghiệp
Cao Trung (cấp ba Trung Học, Trung Học đệ nhị
cấp), vừa lên Đại Học bèn rất hoan hỷ.
Phía trên năm đầu tiên của Đại Học c̣n
có khá nhiều lớp nữa, vẫn phải “ḅ” lên cao
hơn rất vất vả. Đó là tu trọn một A-tăng-kỳ
kiếp. Chúng ta gặp pháp môn này, chẳng cần phải
tu, ngay lập tức vượt trỗi Sơ Địa,
thật sự vượt trỗi! Kinh Di Đà nói như vậy,
mà kinh Vô Lượng Thọ cũng nói giống y hệt. Sanh
về Tây Phương Cực Lạc thế giới đều
là A Bệ Bạt Trí Bồ Tát. A Bệ Bạt Trí là hạng
người nào? Từ Thất Địa trở lên. Nói
cách khác, Bồ Tát b́nh phàm tu hành đến Thất Địa
phải tu trọn hai A-tăng-kỳ kiếp. Trong A-tăng-kỳ
kiếp thứ nhất, tu măn địa vị Tam Hiền;
trong A-tăng-kỳ kiếp thứ hai [tu tập] từ Sơ
Địa cho đến Thất Địa. Chúng ta sanh về
Tây Phương Cực Lạc thế giới, dẫu hạ
hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, hễ
đến Tây Phương Cực Lạc thế giới th́
cũng giống hệt như Thất Địa Bồ Tát,
lẽ nào chẳng hoan hỷ? Trong chốc lát, vượt
thoát hai A-tăng-kỳ kiếp. Trước kia, trong lời
mi chú cho kinh Vô Lượng Thọ, thầy Lư đă nói: Kẻ
gặp pháp môn này mà chẳng chịu phát nguyện văng sanh, kẻ
ấy “phi ngu tức cuồng”, [nghĩa là] chẳng phải
đại ngu si th́ là cuồng vọng. “Hỷ” (喜) là mừng vui do được
nghe [pháp môn] này.
(Sao)
Bi giả, bi kỳ văn chi văn dă.
(鈔)悲者,悲其聞之晚也。
(Sao:
Buồn là buồn v́ nghe pháp này muộn màng).
“Bi” (悲) là cảm thán
chúng ta măi cho tới nay mới được nghe. Tuy đă
trễ tràng, vẫn không coi là chậm. Sớm nghe thấy,
đă sớm tin tưởng, sớm thành tựu. V́ thế,
chúng ta sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới,
người cùng theo A Di Đà Phật đến đón tiếp
chúng ta rất đông. Những người ấy đều
là người nhà, quyến thuộc, bằng hữu, đồng
học, đồng tham của chúng ta trong quá khứ, đều
là những người mà ta quen biết. Trong quá khứ, những
người ấy nghe pháp này bèn tin tưởng, nghiêm túc tu
hành, đă văng sanh. Chúng ta có duyên với họ, cho nên họ
theo A Di Đà Phật đến tiếp dẫn chúng ta. Vừa
thấy mặt, chẳng cần giới thiệu liền
nhận biết. V́ sao? Đến thế giới Tây
Phương bèn có Tha Tâm Thông, chẳng cần phải giới
thiệu, người này trong đời quá khứ nào đă
có quan hệ ǵ với ta, ta đều hiểu rơ hoàn toàn. V́
thế, tới Tây Phương Cực Lạc thế giới
sẽ chẳng tịch mịch.
(Sao) Bất khả
tư nghị, thị thử kinh nguyên danh.
(鈔)不可思議,是此經原名。
(Sao: “Chẳng thể
nghĩ bàn” là tên gốc của kinh này).
Kinh
này là kinh Bất Khả Tư Nghị.
(Sao)
Nghĩa kiến tiền tự.
(鈔)義見前序。
(Sao:
Xem ư nghĩa trong phần Tựa ở trước).
Trong
phẩm Tự thuộc phần trước đă có giảng
[ư nghĩa của chữ Bất Khả Tư Nghị]; khi
giới thiệu tựa đề kinh đă giảng qua.
(Sao)
Kinh danh Bất Khả Tư Nghị giả, chánh dĩ A Di
Đà Phật hữu thử bất khả tư nghị
đại công đức dă.
(鈔)經名不可思議者,正以阿彌陀佛有此不可思議大功德也。
(Sao: Kinh có tên là Bất
Khả Tư Nghị chính là v́ A Di Đà Phật có công đức
to lớn chẳng thể nghĩ bàn ấy).
Lời chú giải trong sách Diễn
Nghĩa đă nêu rơ ư nghĩa này.
(Sao) Văn hữu
tam chuyển giả, lợi trung đa hàm, triển chuyển
thâm quảng.
(鈔)文有三轉者,利中多含,展轉深廣。
(Sao: “Kinh văn có ba
lượt chuyển biến”: Trong các điều lợi
ích có nhiều ư nghĩa, [mỗi ư nghĩa] lần lượt
càng sâu rộng hơn).
Công
đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn, đích xác
là lợi ích rất nhiều. Đoạn này nhằm giải
thích ba câu trong phần Sớ.
(Sao)
Sơ, sự phước chi lợi giả, tu sự tướng
phước, thế gian nhân cố, thị danh tiểu lợi.
(鈔)初,事福之利者,修事相福,世間因故,是名小利。
(Sao:
Đầu tiên, “điều lợi về phước theo
mặt Sự”: Tu phước nơi sự tướng, sẽ
là cái nhân của thế gian, nên gọi là “tiểu lợi”).
Nay
chúng ta ở trong thế gian này làm những sự nghiệp
từ thiện có công đức lợi ích đại chúng
trong xă hội, những việc ấy thuộc về “sự tướng phước”,
đạt được phước báo trong lục đạo.
Quư vị tu phước, nhất định sẽ hưởng
phước. Trong kinh luận, đức Phật thường
nói rơ các sự thật về nhân duyên quả báo. Tu Tài Bố
Thí, dùng tiền tài để giúp đỡ xă hội, giúp
đỡ đại chúng, đạt được quả
báo là của cải. Tài Bố Thí là nhân, được của
cải là quả báo. Nay phát tài to lớn, quan cao chức cả,
là do cái nhân đă tu trong đời trước, đời
này được quả báo. Nhân như thế, nhất
định là có quả như thế, báo như thế, quả
báo chẳng sai lầm chút nào! Do Pháp Bố Thí bèn được
thông minh, trí huệ. Do Vô Úy Bố Thí được khỏe
mạnh, sống lâu. Những điều này đều thuộc
loại phước báo nhân thiên. Nếu chẳng được
làm thân trời, người th́ sao? Trừ địa ngục
ra, cũng hưởng phước trong loài súc sanh hay ngạ
quỷ. Đă có phước báo th́ làm súc sanh cũng rất
có phước báo, là súc sanh hưởng phước lớn.
Hễ đọa vào ngạ quỷ đạo, cũng chẳng
phải là một con quỷ đói khát, mà là một con quỷ
rất có phước, [tức là] sẽ làm Quỷ
Vương trong loài quỷ, được người ta
cúng quải. Như Thành Hoàng, Thổ Địa Công (ông Địa)
đều là bậc có đại phước báo trong loài
quỷ, bao nhiêu người đến cúng bái họ, nhất
định là chẳng bị đói. Đấy là tu phước
trong đời quá khứ, người ấy nhất định
sẽ hưởng thụ. Thường là phàm phu trong lục
đạo khi hưởng phước bèn mê hoặc, chúng ta
thường nói là “lợi dục
huân tâm” (lợi dục hun đúc cái tâm); hễ bị hun
đúc liền mê, liền mờ mịt! Tâm đă mê, chẳng
biết tiếp tục tu thiện. Sau khi đă mê bèn tạo
tội nghiệp. Chờ cho đến khi hưởng hết
phước báo, tội nghiệp hiện tiền. Đó gọi
là “đọa lạc”, phải vào tam đồ chịu khổ.
Đó gọi là “tam thế oán”,
[nghĩa là] đời thứ nhất tu phước, đời
thứ hai hưởng phước, đời thứ ba
đọa lạc! Do vậy, điều lợi này là lợi
ích nhỏ nhặt!
(Sao)
Nhị, công đức chi lợi giả, xuất thế
gian nhân cố, thị danh đại lợi.
(鈔)二、功德之利者,出世間因故,是名大利。
(Sao: Hai là điều
lợi thuộc công đức chính là cái nhân xuất thế
gian, nên gọi là đại lợi).
Công
đức và phước đức sai biệt rất lớn;
nhưng hiện thời có khá nhiều người nghĩ phước
đức là công đức, đó là hiểu lầm rất
lớn! Ví như họ nghĩ quyên cúng một chút tiền
bạc cho chùa miếu là làm công đức rất lớn,
sai mất rồi. Đó là phước đức, là tu
phước nơi sự tướng, chẳng có mảy
may liên quan ǵ đến công đức. Mọi người
học Phật đều có thể kể về công án Lương
Vũ Đế và Đạt Ma Tổ Sư. Lương
Vũ Đế là đại hộ pháp trong Phật môn,
dùng sự tôn quư và thế lực của đế
vương để kiến tạo hơn bốn trăm
tám mươi ngôi chùa, quy mô đều rất lớn. Vua độ
người xuất gia, chăm sóc cuộc sống của người
xuất gia. Chỉ cần ai phát tâm xuất gia, vua đều
hoan hỷ, đều cúng dường, độ bao nhiêu
người! Đạt Ma Tổ Sư đến Trung Quốc,
gặp mặt Lương Vũ Đế. Sư là một
vị cao tăng Ấn Độ, Lương Vũ Đế
là một Phật tử kiền thành, đương nhiên
phải tiếp đăi Sư. Nhà vua cũng rất đắc
ư, khoe với Đạt Ma Tổ Sư: “Trong Phật giáo,
trẫm làm công đức nhiều ngần ấy, công đức
của trẫm có lớn hay không?” Đạt Ma Tổ
Sư rất thật thà, chẳng nói dối, thẳng thừng
bảo vua: “Trọn chẳng có công đức ǵ!” Những
ǵ nhà vua đă làm chẳng có công đức chi hết. Lương
Vũ Đế một bầu sôi nổi, đang phởn
chí, bị Sư tạt cho một chậu nước lạnh
tắt ngấm, trong ḷng khó chịu lắm; cho nên
Lương Vũ Đế đối đăi Đạt Ma
Tổ Sư hết sức lănh đạm, chẳng hộ
pháp cho Ngài. Tổ chẳng có cách nào, đi đến chùa
Thiếu Lâm nh́n vách suốt chín năm. Nếu khi ấy Lương
Vũ Đế sửa một chữ: “Phước đức
của ta lớn hay không?” Nhất định là Đạt
Ma Tổ Sư gật đầu: “Rất ư là lớn!” Nhà
vua tu phước đức, chẳng phải là công đức!
Phải biết điều này! V́ thế, phải phân biệt
rơ ràng công đức và phước đức. Phước
đức dẫu to cách mấy, chẳng thể liễu sanh
tử, chẳng thể thoát tam giới, đời sau
hưởng phước báo nhân thiên mà thôi! Chỉ riêng công
đức là khác. “Công” (功) tức là phải
do chính ḿnh tu tập.
Hôm
trước, có người gọi điện thoại cho
tôi, [than thở] chính ḿnh nghiệp chướng rất nặng,
một thân bệnh khổ, sự nghiệp gặp rất
nhiều trắc trở, điều ǵ cũng chẳng
như ư, hỏi tôi: “Bỏ ra mười vạn đồng
làm công đức có thể tiêu tai hay không?” Có thể chuyển
đổi vận số của người ấy hay
không? Tôi nói: “Chẳng được. Đừng nói là mười
vạn. Ông có dùng một trăm vạn hay một ngàn vạn
đều vô dụng, chẳng chuyển được tai
nạn”. Nếu tạo tội nghiệp, bỏ ra chút tiền
bèn có thể tiêu tai, quá đơn giản! Trong xă hội hiện
thời kẻ có tiền tạo nghiệp quá nhiều, tốn
chút tiền bèn tiêu diệt tai ương, há có lẽ ấy
hay chăng? Chẳng có lẽ ấy! Tiêu tai phải có công
đức, phải biết điều này! Tu một chút
phước, quả báo vẫn thuộc vào đời sau,
chưa chắc quư vị đă có thể hưởng trong
đời này, đời sau quư vị chắc chắn
được hưởng, nhưng không nhất định
là khi nào! Công đức khác hẳn. “Công” là nói đến công phu. Lấy Giới, Định,
Huệ Tam Học để nói, tŕ giới là Công, Định
là Đức; tu Định là Công, khai trí huệ là Đức.
Đó là công đức. Chúng ta niệm Phật, “tín nguyện niệm Phật”
là Công, hằng ngày dụng công dốc sức tu niệm, nhất
tâm bất loạn là Đức. Niệm Phật tam-muội
là Đức, tâm địa thanh tịnh, phiền năo ít, vọng
tưởng ít; đó là Đức. Công đức ấy chẳng
thể bỏ tiền ra mua được! Công đức
của tôi cũng chẳng có cách nào cho quư vị, đó gọi
là “ông tu, ông đắc; bà tu, bà
đắc. Chẳng tu, chẳng đắc”. “Công đức chi lợi, xuất
thế gian nhân” (Lợi ích thuộc về công đức
là cái nhân xuất thế). Quư vị tu học pháp môn khác, tu cái
nhân xuất thế gian, vẫn chẳng đạt
được cái quả xuất thế gian, nhưng cái
nhân ấy tồn tại, khi nào lại gặp duyên, nhân và
duyên ấy kết hợp th́ mới có kết quả, đó
là “đại lợi”. [Dẫu
là] trong một đời này chẳng thể thành tựu, vẫn
là đại lợi ích; trong tương lai, nói chung sẽ
gặp duyên, bèn xuất ly.
(Sao)
Tam, bất tư nghị công đức giả, xuất thế
gian thượng thượng nhân cố, thị danh đại
lợi trung đại lợi.
(鈔)三、不思議功德者,出世間上上因故,是名大利中大利。
(Sao: Ba là công đức
chẳng thể nghĩ bàn, là cái nhân xuất thế gian
thượng thượng, được gọi là đại
lợi trong các đại lợi).
Công
đức chẳng thể nghĩ bàn là ǵ? “Tín nguyện niệm Phật, văng sanh bất thoái
thành Phật”. V́ sao nói điều này là đại lợi
trong các điều đại lợi? Người ấy
đắc quả ngay trong đời này! Tu các pháp môn khác, tu
suốt một đời, chưa chắc đă có thể
đắc quả ngay trong đời này, không nhất định
có thể chứng quả! Pháp môn này quyết định văng
sanh ngay trong đời này; hễ văng sanh bèn chứng quả.
Dẫu là hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng
Cư, hễ tới Tây Phương Cực Lạc thế
giới, đều là A Bệ Bạt Trí Bồ Tát, bỏ
qua hai A-tăng-kỳ kiếp, đó là công đức chẳng
thể nghĩ bàn! Do vậy, có khá nhiều vị Bồ Tát
chẳng tin tưởng pháp môn này. Bồ Tát nhọc nhằn
vất vả tu hai A-tăng-kỳ kiếp mới tu tới
Thất Địa, quư vị chẳng tốn công phí sức
bèn đạt đến Thất Địa, họ làm sao
có thể tin tưởng cho được? Chẳng tin! Ví
như quư vị học hành trong nhà trường, học từ
lớp Một Tiểu Học cho đến khi tốt nghiệp
Trung Học, tốn cả mười hai năm mới vào học
năm thứ nhất Đại Học. Đột nhiên ḷi
ra một kẻ trước nay chưa hề đi học,
cũng vào học năm thứ nhất Đại Học,
chẳng thể nghĩ bàn! Đúng là chẳng thể
nghĩ bàn. Có người như vậy hay chăng? Có chứ!
Đó gọi là đứa trẻ thiên tài, quá ít ỏi! Quư vị
phải hiểu rơ: Quư vị gặp gỡ pháp môn này, dùng pháp
môn này để tới Tây Phương Cực Lạc thế
giới, đều là những đứa trẻ thiên tài! Các
vị Bồ Tát đó trông thấy quư vị đều sững
sờ. Các Ngài nhọc nhằn, vất vả tốn hai A-tăng-kỳ
kiếp [tu tập], quư vị chẳng cần tốn chút công
sức nhỏ nhặt nào mà giống hệt như các Ngài;
do đó, chẳng thể nghĩ bàn! Bồ Tát chẳng có
cách nào, các Ngài chẳng thể ngờ được. Nhưng
Bồ Tát có mong là có chuyện như thế hay không? Các Ngài
cũng rất muốn, tốt nhất là chẳng cần vất
vả, ngay lập tức thành Phật. Tuy muốn [gặp
gỡ] pháp môn này, nhưng chẳng có duyên phận, chẳng
gặp gỡ pháp môn này. Chẳng có duyên phận không phải
là v́ Phật chẳng giúp đỡ họ. Đức Phật
thường xuyên giảng pháp môn này, thường xuyên dạy
pháp môn này, nhưng họ nghe xong chẳng tin tưởng. Đấy
là chẳng có duyên! Họ không chịu tin tưởng, chẳng
chịu tiếp nhận! Có nghĩa là từ đầu tới
cuối họ chẳng có duyên phận gặp gỡ. Trong
tâm họ rất mong thành Phật sớm một chút, nhưng
chẳng gặp được pháp môn này. Đức Phật
bảo họ, họ không tin, [tức là] vẫn chẳng gặp
được! Chẳng gặp được là chuyện
như vậy đó, chẳng phải là đức Phật
thiếu ḷng từ bi. [Chẳng phải là] hằng ngày họ
mong mỏi mà Phật cũng chẳng dạy họ, chẳng
phải là ư nghĩa ấy! Đức Phật hằng ngày nói
với họ, họ hằng ngày chẳng tin tưởng,
hằng ngày chẳng tiếp nhận, vẫn muốn làm
theo kiểu cách của riêng ḿnh, suy nghĩ loạn xạ, vậy
là chẳng có cách nào hết! Từ kinh điển, chúng ta
đọc thấy có khá nhiều vị Bồ Tát nghĩ
đến pháp môn này, nhưng chẳng được gặp
gỡ, “chẳng gặp” là
như vậy đó. Tuyệt đối chẳng phải
là Phật không giảng cho những vị ấy, chẳng
phải vậy! Đức Phật giảng hằng ngày,
nhưng chính họ nghe xong chẳng thể tiếp nhận,
chẳng thể tin tưởng, không chịu nương
theo pháp môn này tu học. Đó là “xuất
thế gian thượng thượng nhân” (cái nhân xuất
thế gian thượng thượng), là đại lợi
trong các điều đại lợi.
(Sao)
Cái công đức tuy thắng sự phước, ư trung
phục phân thắng liệt, hữu khả tư nghị,
hữu bất khả tư nghị.
(鈔)蓋功德雖勝事福,於中復分勝劣,有可思議,有不可思議。
(Sao: V́ công đức
tuy thù thắng hơn phước thuộc sự tướng,
nhưng trong ấy lại chia thành hơn kém, có công đức
có thể nghĩ bàn và công đức chẳng thể
nghĩ bàn).
Những
pháp môn được nói trong kinh Tiểu Thừa và các kinh
Đại Thừa khác, chúng ta thường gọi là “tám vạn bốn ngàn pháp môn”,
tám vạn bốn ngàn pháp môn là “khả
tư nghị” (có thể nghĩ bàn), pháp môn niệm Phật
văng sanh là “bất khả tư
nghị” (chẳng thể nghĩ bàn).
(Sao)
Kim thị bất khả tư nghị chi công đức
dă. Cố đại lợi trung, phục xưng đại
lợi.
(鈔)今是不可思議之功德也。故大利中,復稱大利。
(Sao: Nay là công đức
chẳng thể nghĩ bàn, v́ thế lại gọi là đại
lợi trong các điều đại lợi).
Thật
sự là lợi ích khôn sánh, lợi ích vô thượng. Trong
sách Diễn Nghĩa, pháp sư Cổ Đức đă chú giải
rất tỉ mỉ đoạn này.
(Sớ)
Bất khả tư nghị, như Thanh Vương trung
thuyết: “Bỉ An Lạc thế giới, sở hữu
Phật pháp, bất khả tư nghị. Thần thông hiện
hóa, bất khả tư nghị. Nhược năng tín
như thị sự, đương tri thị nhân bất
khả tư nghị, sở đắc nghiệp báo, diệc
bất khả tư nghị”. Hựu y chánh nhân quả, tứ
câu bất khả tư nghị.
(疏)不可思議,如聲王中說:彼安樂世界,所有佛法,不可思議;神通現化,不可思議。若能信如是事,當知是人不可思議;所得業報,亦不可思議;又依正因果,四俱不可思議。
(Sớ: “Chẳng thể
nghĩ bàn”: Như kinh Cổ Âm Thanh Vương Đà La Ni
nói: “Trong thế giới An Lạc ấy, tất cả Phật
pháp chẳng thể nghĩ bàn; thần thông hiện hóa chẳng
thể nghĩ bàn. Nếu [người nào] có thể tin chuyện
như thế, hăy nên biết là người ấy chẳng
thể nghĩ bàn; đạt được nghiệp báo
cũng chẳng thể nghĩ bàn”. Lại nữa, y báo,
chánh báo, nhân, quả, cả bốn điều đều
chẳng thể nghĩ bàn).
Liên
Tŕ đại sư giảng giải “chẳng thể nghĩ bàn” ở một mức
độ cao hơn. Xác thực là “chẳng thể nghĩ
bàn” có sâu, có cạn, có ư nghĩa rộng hẹp khác nhau! Thứ
nhất, cho chúng ta biết: Thế giới Cực Lạc “tất cả Phật pháp chẳng
thể nghĩ bàn”. Câu này là nói chung, mấy câu kế
đó là nói chi tiết riêng biệt. Trong câu này, chúng ta phải
chú trọng hai chữ “Phật
pháp”. “Pháp” là hết thảy vạn pháp, tức là hết
thảy các pháp thế gian và xuất thế gian trong vũ
trụ. “Phật” có nghĩa
là giác ngộ, là hiểu rơ. Thế giới Cực Lạc “tất cả Phật pháp chẳng
thể nghĩ bàn”: Mỗi người trong thế giới
Cực Lạc ai nấy đều có thể triệt để
hiểu rơ rốt ráo vạn hữu trong vũ trụ,
điều này chẳng thể nghĩ bàn! Hiểu rơ rốt
ráo viên măn triệt để hết thảy vạn sự
vạn vật trong vũ trụ, chỉ có chư Phật
Như Lai mới có thể làm được, hàng Bồ Tát
b́nh phàm chẳng thể làm được. Điều này chẳng
thể nghĩ bàn. V́ sao ai nấy trong thế giới Cực
Lạc đều làm được? Đó là do bổn nguyện
của A Di Đà Phật gia tŕ. Chúng ta niệm bốn mươi
tám nguyện, [sẽ thấy]: Phàm là người sanh về
Tây Phương Cực Lạc thế giới, hễ tới
Tây Phương Cực Lạc thế giới đều trọn
đủ sáu thứ thần thông. Sáu thứ thần thông ấy,
nói đại khái th́ bậc chứng đắc A La Hán bèn trọn
đủ, thảy đều đạt
được, tức là Thiên Nhăn Thông (Dibba-cakkhu), Thiên Nhĩ
Thông (Dibba-sota), Túc Mạng
Thông (Pubbe-nivāsanussati), Tha Tâm
Thông (Cetopariya-ñāṇa), Thần
Túc Thông (Iddhividhā), và Lậu
Tận Thông (Āsavakkhaya), nhưng năng lực của A La Hán trọn chẳng
viên măn cho lắm. Ví như kinh có dạy: Thiên Nhăn của A
La Hán có thể thấy một đại thiên thế giới.
Ngoài đại thiên thế giới, Ngài chẳng nh́n thấy.
Đó là chẳng rốt ráo, chẳng viên măn, thần thông của
Ngài là có thể nghĩ bàn! Người trong Tây Phương
Cực Lạc thế giới, tận hư không khắp pháp
giới, quá khứ, hiện tại, vị lai, chẳng có
ǵ không thông đạt, chẳng có ǵ không hiểu rơ, năng
lực hoàn toàn giống như chư Phật Như Lai. Điều
này chẳng thể nghĩ bàn, xác thực là do bốn
mươi tám nguyện của A Di Đà Phật gia tŕ.
Đó là tán thán công đức của Phật Di Đà chẳng
thể nghĩ bàn, [những năng lực ấy] là do A Di
Đà Phật gia tŕ. Phật chẳng gia tŕ, quư vị chẳng
có năng lực ấy.
“Thần thông hiện hóa, chẳng
thể nghĩ bàn”: Trong phần trước là nói về
giác pháp. Pháp thế gian và xuất thế gian, quá khứ, hiện
tại, vị lai, không ǵ chẳng biết, không ǵ chẳng
thể. “Tất cả Phật
pháp” có ư nghĩa này. Đặc biệt là nói tới “thần thông” (Abhijñā). Thông (通) là thông đạt,
chẳng bị chướng ngại. Mắt có thể thấy,
mắt chúng ta cũng có thể thấy, nhưng cách một
bức vách sẽ chẳng thấy, đó là chẳng thông, có
chướng ngại! Mắt họ có năng lực mạnh
hơn chúng ta, cách một vách tường cũng chả
sao, họ có thể nh́n xuyên qua. Hiện thời, tại
Đại Lục có những người có Thiên Nhăn, cách
tường người ấy vẫn có thể thấy rơ
ràng. Tại Đại Lục chẳng gọi là Thiên Nhăn,
mà gọi là “mắt X-quang”.
Họ ngồi đối diện với quư vị, có thể
thấy sự hoạt động của nội tạng
trong thân thể quư vị. Do vậy, đối với việc
chữa bệnh, họ đích xác là một trợ thủ
rất tốt. Họ có thể xem xét t́m ra bộ phận nào
trong nội tạng có bệnh. Có một năm, tôi giảng
kinh tại Lạc Sam Cơ (
“Nhược năng tín như thị
sự, đương tri thị nhân bất khả tư nghị”
(Nếu ai có thể tin chuyện như vậy, hăy nên biết
người ấy chẳng thể nghĩ bàn). Đức
Phật giảng kinh Vô Lượng Thọ, giảng Quán
Kinh, giảng kinh Di Đà, vừa giảng quư vị liền
tin tưởng, quư vị là người chẳng thể
nghĩ bàn. Chúng tôi giảng giải pháp môn này, rất nhiều
người nghe xong chẳng tin, hoặc tin nhưng chẳng
chịu phát nguyện, chẳng chịu nghiêm túc tu học.
Chúng ta chẳng cần phải lấy làm lạ, v́ người
như vậy có thể nghĩ, có thể bàn, không phải
là chẳng thể nghĩ bàn. Nói thật ra, nói theo kinh Vô
Lượng Thọ, thiện căn và phước đức
của người ấy chẳng chín muồi, cho nên người
ấy chẳng thể tin tưởng. Thật sự tin
tưởng pháp môn này, nhất định là ba điều
kiện thiện căn, phước đức, và nhân duyên
đă trọn đủ trong một đời này. V́ thế
nói: “Chẳng thể do chút thiện
căn, phước đức, nhân duyên mà được
sanh về cơi ấy”. Người có ba điều kiện
ấy đồng thời chín muồi trong một đời
xác thực là chẳng nhiều. Người có thiện
căn, nhưng chẳng có phước là những ai?
Người ấy có thể tin, có thể hiểu, [thế
mà] chẳng mong văng sanh, chẳng chịu niệm Phật, đó
là có thiện căn mà chẳng có phước đức. Người
có phước đức, chẳng có thiện căn, ví
như người ấy tu học các pháp môn khác, hết sức
tinh tấn, hết sức dụng công, nhưng chẳng tin
tưởng pháp môn Niệm Phật, không thể tiếp nhận
pháp môn chẳng thể nghĩ bàn bậc nhất này. Do vậy
có thể biết: Ba điều kiện đồng thời
trọn đủ đúng là chẳng dễ dàng. Phàm [những
người] ba điều kiện đều trọn
đủ, trong một đời này, chẳng có ai không văng
sanh, chẳng có ai không thành Phật. Thiếu một điều
kiện sẽ chẳng thể được!
“Sở đắc nghiệp báo,
diệc bất khả tư nghị” (Đạt
được nghiệp báo, cũng chẳng thể
nghĩ bàn). Nghiệp báo: Nghiệp ấy được gọi
là “tịnh nghiệp”, chẳng
phải là nghiệp b́nh phàm. Thông thường, chúng ta khởi
tâm động niệm có thiện nghiệp, ác nghiệp, vô
kư nghiệp (chẳng thiện, chẳng ác), ba loại lớn
ấy. Thiện nghiệp đắc thiện quả, ác
nghiệp có ác báo, nhân duyên quả báo chẳng sai sót mảy may!
Người học Phật đầu óc phải tỉnh
táo, phải sáng suốt hơn người b́nh phàm, khởi
tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác tự nhiên sẽ
chú tâm, cẩn thận. V́ sao? Người ấy biết
trong ấy có nhân quả báo ứng. Khởi một ác niệm,
tạo một ác sự, đối người khác mà nói, ảnh
hưởng chẳng lớn, nhưng đối với chính
ḿnh mà nói, sẽ gặp phải khổ báo rất lớn. Kẻ
chẳng học Phật không biết, người học
Phật hiểu rành rẽ, hiểu rơ ràng sự thật này.
“Bồ Tát sợ nhân”, Bồ
Tát là bậc giác ngộ, rất cẩn trọng đối
với chuyện tạo nhân, nhất định là tạo
thiện nhân, quyết định chẳng tạo ác nhân; [do
vậy] người ấy được gọi là Bồ
Tát. Người niệm Phật đạt được
quả báo là văng sanh bất thoái thành Phật. V́ sao nghiệp
báo của người ấy chẳng thể nghĩ bàn? V́
trong một đời, đến Tây Phương Cực Lạc
thế giới bèn viên chứng ba món Bất Thoái, chẳng
thể bàn luận! Từ kinh điển, chúng ta thường
đọc thấy: Chứng đắc Tiểu Thừa Sơ
Quả, phải đoạn tám mươi tám phẩm Kiến
Hoặc trong tam giới th́ mới có thể chứng đắc
Vị Bất Thoái, chẳng dễ dàng! Lại lên cao hơn
nữa, ắt phải đoạn hết tám mươi mốt
phẩm Tư Hoặc trong tam giới, chứng quả vị
Bồ Tát, Trần Sa Hoặc cũng phá hết th́ mới có
thể chứng đắc Hạnh Bất Thoái, chẳng
c̣n lui sụt thành Tiểu Thừa. Lại lên cao hơn nữa,
phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân
th́ mới chứng đắc Niệm Bất Thoái, là Sơ
Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo. V́ thế, ba món Bất Thoái thảy
đều chứng đắc, đương nhiên là đă
chứng đắc điều cao nhất th́ những
điều thấp hơn đều chứng đắc. Nói
cách khác, muốn chứng đắc ba món Bất Thoái th́ tối
thiểu phải là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, là
Pháp Thân đại sĩ trong hội Hoa Nghiêm, hết sức
hiếm có! Tuy chứng ba món Bất Thoái, chẳng viên măn.
Viên chứng ba món Bất Thoái chính là Thập Địa Bồ
Tát, tức Pháp Vân Địa Bồ Tát, đấy mới
là viên chứng ba món Bất Thoái, những địa vị
thấp hơn Pháp Vân Địa sẽ chẳng viên măn!
Chúng ta lại hạ thấp tiêu chuẩn này một chút, sẽ
là Cửu Địa, Bát Địa, Thất Địa. V́
thế, có rất nhiều vị cổ đại đức
chú giải kinh [cho rằng viên chứng ba món Bất Thoái] là
từ Thất Địa trở lên, có vị nói là từ Bát
Địa trở lên, nói như vậy là chánh xác. V́ thế,
hễ sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới,
năng lực của quư vị bằng với Thất
Địa Bồ Tát, hoặc bằng Bát Địa Bồ
Tát. Viên chứng ba món Bất Thoái chính là quả, nghiệp
báo chẳng thể nghĩ bàn!
“Y, chánh, nhân, quả”: Y báo là
hoàn cảnh sống của chúng ta. Trong kinh, Thích Ca Mâu Ni Phật
đă giới thiệu, hoàn cảnh sống của mọi
người trong thế giới Tây Phương tốt
đẹp chẳng thể nghĩ bàn. Cuộc sống vật
chất thuận theo ḷng mong, chúng ta muốn ǵ, thứ ấy
ở ngay trước mặt. Nay chúng ta muốn một bộ
quần áo, thứ ấy ở ngay trước mặt. Nay
[trong thế giới Sa Bà này], chúng ta muốn có một bộ
quần áo, quư vị c̣n phải đi t́m bên ngoài. Tuy hiện
thời đă có quần áo may sẵn, nhưng quư vị vẫn
phải cân nhắc, so sánh giá cả, cũng phải chịu
rất nhiều nỗi vất vả! Tây Phương Cực
Lạc thế giới th́ ta muốn quần áo như thế
nào, nó liền ở ngay trên người; chẳng muốn nữa,
nó bèn chẳng có, tự tại lắm! Muốn ăn thứ
ǵ, ngay lập tức thứ ấy bày ra trước mặt.
Chẳng muốn ăn, sẽ chẳng có, mất sạch
sành sanh, chẳng cần thu dọn chén đũa, chẳng phải
rửa chén. Hết thảy cuộc sống vật chất
tùy tâm biến hóa. Người trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới sống trong cung điện, quư vị muốn
kiểu dáng ǵ, nó biến thành kiểu dáng đó, mong to hơn
nó biến thành to hơn một chút, mong nó nhỏ hơn,
xinh xắn hơn, nó ngay lập tức thu nhỏ. Cuộc
sống vật chất tùy theo ḷng mong, chẳng thể
nghĩ bàn! Cuộc sống tinh thần càng phong phú. A Di
Đà Phật giảng kinh, thuyết pháp, mười
phương hết thảy chư Phật đều giảng
kinh, thuyết pháp cho quư vị. Thích nghe pháp môn nào bèn nghe pháp
môn ấy. Thích thấy vị Phật nào, vị Phật ấy
hiện ngay trước mặt, chẳng cần đến
thế giới phương khác để được
[vị Phật ấy] dạy bảo. Trong tâm vừa động
niệm, Phật ở ngay trước mặt. Phật chẳng
đến, chúng ta cũng chẳng đi, nghiễm nhiên gặp
mặt, đúng là chẳng thể nghĩ bàn. “Y, chánh, nhân, quả, tứ câu bất
khả tư nghị” (Y báo, chánh báo, nhân, quả, bốn
điều ấy đều chẳng thể nghĩ bàn),
cái nhân của y báo, cái quả của y báo, cái nhân của
chánh báo, cái quả của chánh báo thảy đều chẳng
thể nghĩ bàn. Hôm nay, chúng tôi giảng tới chỗ
này!
Tập
258
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn
Nghĩa Hội Bản, trang năm trăm mười
lăm:
Sao) Thử phân vi
tứ: Nhất thị thí pháp quảng đại công đức,
vị vô lượng thọ, vô lượng quang, Tam Bảo
đạo phẩm chủng chủng đẳng.
(鈔)此分為四:一是施法廣大功德,謂無量壽,無量光,三寶道品種種等。
(Sao: Phần này chia
làm bốn. Thứ nhất là công đức thí pháp rộng
lớn, nghĩa là các thứ
như vô lượng thọ, vô lượng quang, Tam Bảo,
đạo phẩm v.v…)
Nói rơ “bất
khả tư nghị công đức chi lợi” rốt cuộc
là công đức nào? Là lợi ích nào? Ở đây, đại
sư lại giảng rơ cặn kẽ, chia thành bốn
điểm. Thứ nhất là “thí
pháp quảng đại công đức” (công đức
thí pháp rộng lớn). Vô Lượng Quang và Vô Lượng
Thọ chính là đức hiệu của Di Đà Thế Tôn,
mà cũng là sự gia tŕ của Di Đà Thế Tôn đối
với hết thảy đại chúng. Đúng như Thích
Ca Thế Tôn xuất hiện trong thế gian này, lăo nhân gia nói
về “nhân từ, thanh tịnh”, [dùng những điều ấy
để] chỉ dạy và gia tŕ chúng ta, có ư nghĩa giống
như [những phẩm đức được bao hàm
trong danh hiệu của A Di Đà Phật]. Phàm là người
sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, tâm
địa đều hết sức thanh tịnh; tâm tịnh,
ắt cơi nước tịnh. Nếu tâm chẳng thanh tịnh,
chẳng từ bi, người ấy chẳng thể văng
sanh! Thanh tịnh và từ bi th́ ai nấy trong thế giới
Tây Phương đều trọn đủ, ai nấy
đều là như vậy, đều là thanh tịnh, từ
bi. V́ thế, chẳng cần phải đề xướng
thanh tịnh, từ bi nữa. Ở bên ấy, đề
xướng điều ǵ? Đề xướng Quang và Thọ.
Quang biểu thị trí huệ, Thọ biểu thị sự
thù thắng nhất trong hết thảy các thứ thọ dụng.
Người thế gian nói đến phước báo, phước
báo có phạm vi bao hàm hết sức rộng răi. Trong phước
báo, quan trọng nhất là trường thọ. Nếu chẳng
có thọ mạng, dẫu phước báo lớn đến
mấy, chính ḿnh chẳng có cách nào hưởng thụ. Điều
thứ nhất là phải có thọ mạng để
hưởng thụ phước báo của chính quư vị.
V́ thế, thọ mạng là đức bậc nhất.
Đấy cũng là lư do v́ sao trong vô lượng [đức
năng, phước báo], chỉ dùng Thọ và Quang để
đại diện, chính là v́ ư nghĩa này.
(Diễn)
Vô lượng thọ, vô lượng quang, Tam Bảo đạo
phẩm chủng chủng đẳng: Thử chỉ sở
thí chi pháp dă.
(演)無量壽、無量光、三寶道品種種等,此指所施之法也。
(Diễn: “Các thứ
như vô lượng thọ, vô lượng quang, Tam Bảo
đạo phẩm v.v…” là nói về những pháp được
ban xuống).
A Di
Đà Phật dùng điều ǵ để giáo hóa chúng sanh? Dùng
những pháp ấy.
(Diễn)
Thử pháp hoặc xuất âm phu diễn, hoặc hiện
tướng chỉ trần.
(演)此法或出音敷演,或現相指陳。
(Diễn: Những
pháp ấy hoặc là phát ra âm thanh để phô diễn, hoặc
là hiện tướng để chỉ bày).
“Xuất âm phu diễn” là ngôn
giáo (dạy bằng lời nói), tức là giảng kinh, thuyết
pháp. “Hiện tướng chỉ
trần” là dùng thân giáo (nêu gương bằng thân nghiệp).
Nói cách khác, chúng ta gọi là “giáo dục bằng chính cuộc
sống”. Trong giáo dục cuộc sống, đầy ắp
trí huệ, ngập tràn phước đức.
(Diễn)
Dĩ bỉ độ chúng sanh, lục căn thanh tịnh,
đắc đại tổng tŕ.
(演)以彼土眾生,六根清淨,得大總持。
(Diễn: Do chúng sanh
trong cơi ấy, sáu căn thanh tịnh, đắc đại
tổng tŕ).
Đúng
như đức Thế Tôn đă nói trong kinh, chúng sanh trong
thế giới ấy “sáu
căn thanh tịnh”. Toàn bộ những lời lẽ
trong phần kế tiếp đều là những điều
được nói trong kinh, hết sức quan trọng. Nếu
quư vị thật sự hiểu rơ, mới
hiểu là “chẳng thể không đến Tây Phương
Cực Lạc thế giới”! Sanh về nơi ấy, sáu
căn thanh tịnh; chúng ta ở nơi đây mà mong sáu căn
thanh tịnh há dễ dàng sao? “Đắc
đại tổng tŕ” cũng là điều chúng ta niệm
niệm mong cầu, nhưng cầu chẳng được!
Đại tổng tŕ là ǵ? Là tổng cương lănh của
hết thảy vạn pháp thế gian và xuất thế gian,
quư vị đă nắm được. Chỉ cần quư vị
nắm được tổng cương lănh, nói cách khác,
tự nhiên thông đạt hết thảy các pháp, chẳng
có một pháp nào không thông đạt. Từ Phật giáo sử,
chúng ta biết Long Thọ Bồ Tát học xong Đại Tạng
Kinh trong ba tháng, lại c̣n thông đạt toàn bộ. V́ sao Ngài
có năng lực ấy? Tuy Lục Tổ đại sư chẳng
duyệt Kinh Tạng, lăo nhân gia chưa hề đi học,
chẳng biết chữ, nhưng nếu chúng ta hỏi: “Tam
Tạng mười hai phần giáo chính là một bộ Đại
Tạng Kinh, Lục Tổ có năng lực thông đạt
trong ṿng ba tháng hay chăng?” Quan sát từ những ghi chép
trong Đàn Kinh, chắc chắn là Ngài có năng lực ấy!
V́ sao biết? Tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng suốt đời
thọ tŕ kinh Đại Niết Bàn; kinh Đại Niết
Bàn phân lượng rất đáng nể, bốn
mươi quyển, đọc làu làu, nhưng chẳng hiểu
ư nghĩa. Bà ta đọc cho Huệ Năng đại
sư nghe. Sau khi nghe xong, Huệ Năng đại sư bèn
giảng giải cho bà. Tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng nghe Lục
Tổ giảng giải, bèn khai ngộ. Lục Tổ cần
người khác đọc cho Ngài nghe v́ Ngài chẳng biết
chữ. Cho thấy Ngài đă thông đạt, tuy Ngài chưa
hề học. Ngũ Tổ chẳng giảng kinh Đại
Niết Bàn cho Ngài, thế mà Ngài thông đạt. Thiền
sư Pháp Đạt học Pháp Hoa, thưa cùng Lục Tổ:
Sư đă niệm kinh Pháp Hoa ba ngàn lượt. Niệm kinh
Pháp Hoa một lần phải mất thời gian bao lâu? Mỗi
ngày chỉ có thể niệm một lần, niệm một
bộ. Ba ngàn bộ là mười năm! Dành thời gian mười
năm để đọc kinh Pháp Hoa, vẫn chẳng hiểu
ư nghĩa. Sư gặp Lục Tổ bèn đảnh lễ,
đầu chẳng sát đất, ngạo mạn mà! Bị
Lục Tổ nh́n ra, Lục Tổ hỏi Sư: “Ông ngạo
mạn như vậy, nhất định là có điều
ǵ đáng để kiêu ngạo”. Sư liền thưa
Sư đă niệm ba ngàn bộ Pháp Hoa, đáng để
kiêu ngạo! Kinh Pháp Hoa có ư nghĩa ǵ? Sư chẳng biết,
bị Lục Tổ hỏi ngược lại [bèn ú ớ],
Sư bèn hỏi quay ngược lại thỉnh giáo Lục
Tổ đại sư. Lục Tổ đại sư bảo:
“Ta chưa từng đọc qua, đương nhiên là cũng
chưa hề nghe qua, ông hăy niệm cho nghe thử”. Kinh Pháp
Hoa có hai mươi tám phẩm, Sư niệm đến phẩm
thứ hai là phẩm Phương Tiện, Lục Tổ
nghe tới đó, bảo: “Chẳng cần niệm nữa,
kinh này ta đều biết cả rồi”. V́ thế, đối
với cả một bộ Đại Tạng Kinh, Ngài có cần
đến ba tháng hay chăng? Hoàn toàn thông đạt. Tổ
giảng kinh Pháp Hoa cho Pháp Đạt, thiền sư Pháp
Đạt khai ngộ. Khi ấy, lại đảnh lễ,
đầu ép sát đất. Nếu quư vị hỏi v́ sao
những người ấy đối với pháp thế
gian và xuất thế gian hễ tiếp xúc đều thông
đạt ư? Do đắc đại tổng tŕ, chư
vị phải biết điều này. Nếu chúng ta hỏi:
“Chúng ta dùng phương pháp ǵ để có thể đắc
đại tổng tŕ?” Chư Phật Như Lai truyền dạy
chúng ta một phương pháp tuyệt diệu, “tín nguyện tŕ danh, cầu sanh Tịnh
Độ”. V́ quư vị sanh về Tịnh Độ, bèn
đắc đại tổng tŕ, tâm địa thanh tịnh,
hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian
đều thông đạt toàn bộ. Huống hồ c̣n
nghe Phật Di Đà thuyết pháp, c̣n nghe hết thảy
chư Phật thuyết pháp. Dẫu không nghe, cũng thông
đạt. Đến nghe để làm Ảnh Hưởng
Chúng mà thôi! V́ thế, tôi nói lời chân thật, thật thà
cùng mọi người. Sống trong Tây Phương Cực
Lạc thế giới là cuộc sống như thế nào?
Mỗi ngày đến chơi khắp các cơi Phật trong tận
hư không khắp pháp giới, hằng ngày đi du lịch,
hằng ngày vui chơi, sống cuộc đời ấy,
chẳng có ǵ không thông đạt. Trí huệ và phước
báo thảy đều viên măn, huống hồ hoàn cảnh…
(Diễn)
Lục trần giai thuyết, lục căn giai văn, pháp
pháp đầu đầu, vô phi diệu pháp cố.
(演)六塵皆說,六根皆聞,法法頭頭,無非妙法故。
(Diễn: Sáu trần
đều nói, sáu căn đều nghe, pháp nào, sự nào,
không ǵ chẳng phải là diệu pháp).
Mấy
câu này nhằm giải thích câu “Tam
Bảo, đạo phẩm chủng chủng đẳng”
(các thứ như Tam Bảo, đạo phẩm v.v…) Có những
kẻ chẳng mong văng sanh, tức là chẳng có cơ duyên
gặp gỡ pháp môn này, chẳng biết ưu điểm
của Tây Phương Tịnh Độ. Kinh Đại Thừa
thường nói: Khá nhiều vị Bồ Tát mong cầu, nhưng
chẳng có cơ hội nghe pháp môn này. Có cơ hội nghe pháp
môn này, mà tín nguyện cầu sanh chẳng dấy lên nổi;
đó là nghiệp chướng quá nặng. Nếu không, gặp
pháp môn này, hiểu rơ lợi ích chân thật này, có ai chẳng
cầu văng sanh? Đó là điều thứ nhất, “thí pháp quảng đại công
đức” (công đức thí pháp rộng lớn). Lại
xem điều thứ hai:
(Sao) Nhị thị
thần hóa châu biến công đức.
(鈔)二是神化周遍功德。
(Sao:
Hai là công đức thần thông biến hóa trọn khắp).
“Thần” (神) là thần thông, “hóa” (化) là biến hóa. Công
đức ấy chẳng thể nghĩ bàn.
(Sao)
Vị thủy, điểu, thụ lâm, hàm tuyên diệu pháp,
y thực phục dụng, thọ dụng tự nhiên, chúng
sanh giai cụ tướng hảo, thần biến đẳng.
(鈔)謂水鳥樹林,咸宣妙法,衣食服用,受用自然,眾生皆具相好神變等。
(Sao: Nghĩa là: Nước,
chim, rừng cây đều tuyên thuyết diệu pháp; áo,
cơm, đồ dùng, thọ dụng tự nhiên; chúng sanh
đều có đủ tướng hảo, thần thông biến
hóa v.v…)
Thế giới Tây Phương xác
thực là chúng sanh và Phật b́nh đẳng. Đối với
trí huệ và đức năng viên măn của Phật, trí huệ
và đức năng của đại chúng cũng gần
như chẳng sai khác A Di Đà Phật cho mấy.
(Diễn) Thủy,
điểu, thụ lâm hạ tứ cú, thử Di Đà thần
biến dă.
(演)水鳥樹林下四句,此彌陀神變也。
(Diễn: Bốn câu từ
“nước, chim, rừng cây” trở xuống là thần
thông, biến hóa của Phật Di Đà).
Bốn
câu từ “thủy, điểu,
thụ lâm” cho đến “thọ
dụng tự nhiên” chính là thần thông biến hóa của
A Di Đà Phật dành cho đại chúng hưởng thụ.
V́ thế, chắc chắn là hết thảy các thứ thọ
dụng ở nơi ấy chẳng thiếu khuyết. Đă
thế, quư vị thọ dụng giàu có, dư dật chẳng
khác chư Phật Như Lai. Đó là do Tánh Đức của
Phật Di Đà lưu lộ.
(Diễn) Chúng sanh
giai cụ tướng hảo, thần biến đẳng,
thử chúng sanh thần biến dă.
(演)眾生皆具相好神變等,此眾生神變也。
(Diễn: Chúng sanh
đều có đủ tướng hảo, thần biến
v.v… chính là thần thông biến hóa của chúng sanh).
Oai
thần của A Di Đà Phật vừa gia tŕ, bản thân
ai nấy đều cũng có thể biến hóa. Chính ḿnh chẳng
thể biến hóa, vẫn khác chư Phật. Chính ḿnh có thể
biến hóa, năng lực ấy do Phật gia tŕ, v́ sao? Chính
ḿnh chẳng đoạn hết phiền năo, tự tánh chẳng
hoàn toàn hiển lộ. Tuy chính ḿnh vốn cũng trọn
đủ, nhưng bị chướng ngại, chẳng thấu
lộ, chẳng thể thọ dụng, nhất định
phải được Phật lực gia tŕ, khiến cho trí
huệ và đức năng trong tự tánh của chúng ta
cũng khởi tác dụng. Điều này chẳng thể
nghĩ bàn.
(Diễn)
Dĩ bỉ quốc chủng chủng diệu dụng, tuy
Di Đà thần biến sở thành, nhược chúng sanh bất
đắc thần biến, bất năng thọ dụng.
(演)以彼國種種妙用,雖彌陀神變所成,若眾生不得神變,不能受用。
(Diễn: Do các thứ
diệu dụng trong cơi ấy, tuy do thần thông biến
hóa của Phật Di Đà tạo thành, nhưng nếu chúng
sanh chẳng có thần biến, sẽ không thể thọ dụng).
Đây
là Sự Lư chân thật, chúng ta đă hiểu rơ th́ mới có
thể tin tưởng, tín tâm mới kiên định, tín tâm
mới thanh tịnh, mới chẳng hoài nghi.
(Diễn)
Kinh vân: Phương tiện thị Bồ Tát Tịnh Độ,
Bồ Tát thành Phật thời, ư nhất thiết pháp
phương tiện vô ngại chúng sanh lai sanh kỳ quốc,
thị dă.
(演)經云:方便是菩薩淨土,菩薩成佛時,於一切法方便無礙眾生來生其國。是也。
(Diễn: Kinh nói:
“Phương tiện là Tịnh Độ của Bồ
Tát. Khi Bồ Tát thành Phật, trong hết thảy các pháp, dùng
phương tiện vô ngại khiến cho chúng sanh sanh về
cơi ấy” chính là nói về ư này).
Áp dụng
mấy câu này vào Tây Phương Cực Lạc thế giới
rất thích hợp. Thế giới Tây Phương xác thực
là như vậy. Nếu muốn nghiên cứu sâu hơn về
chuyện này, Pháp Tướng Duy Thức đă nói rất rơ
ràng, minh bạch; ở đây chúng tôi tỉnh lược,
chẳng cần phải nói chi tiết.
(Sao)
Tam thị tín thọ túc căn công đức, vị nan tín
chi pháp, năng tín thọ giả, túc tu vô lượng thiện
căn đẳng.
(鈔)三是信受宿根功德,謂難信之法,能信受者,宿修無量善根等。
(Sao: Ba là công đức
tin nhận do túc căn, nghĩa là người có thể tin
nhận pháp khó tin chính là do đời quá khứ đă tu vô
lượng thiện căn v.v…)
Đối
với ư nghĩa này, đă từng đọc kinh Vô Lượng
Thọ th́ mới dễ hiểu. Người chưa đọc
kinh Vô Lượng Thọ sẽ chẳng hiểu rơ lắm.
Đây cũng là điều chúng tôi thường nói, hết
thảy chư Phật đều nói pháp môn này là “pháp khó tin”. Người nào có
thể tin? Trong đời quá khứ đă vun bồi thiện
căn sâu dầy, người như vậy mới có thể
tin tưởng, mới có thể tiếp nhận. Nếu chẳng
có thiện căn rất dầy mà tin tưởng, tiếp
nhận pháp môn này, khó lắm! Trong kinh Vô Lượng Thọ,
Thích Ca Mâu Ni Phật đă bảo chúng ta: Thuở ấy, Ngài
giảng kinh, vương tử A Xà Thế và năm trăm
vị trưởng giả hiện diện nghe kinh trong pháp
hội. Trong đời quá khứ, họ đă từng cúng
dường bốn trăm ức Phật, nghe pháp môn này, vẫn
chẳng dấy lên ư niệm phát nguyện cầu sanh Tịnh
Độ. Nếu nay nghe pháp môn này, thật sự phát tâm mong
sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, quư
vị ngẫm xem: Đó là căn tánh ǵ? Nay chúng ta nghe pháp
môn này, trong tâm sanh khởi đại hoan hỷ, hận chẳng
thể ngay lập tức mong thấy A Di Đà Phật,
đến thế giới Cực Lạc, thiện căn của
quư vị vượt trỗi bọn họ quá nhiều. Trong
đời quá khứ, chắc chắn là không chỉ thân cận
bốn trăm ức chư Phật Như Lai. Quư vị bèn
hiểu rơ, đấy chính là thiện căn trong đời
quá khứ sâu dầy ngần ấy. Chúng ta giới thiệu
pháp môn này với người khác, người khác chẳng
tin tưởng, chẳng thể tiếp nhận, không chịu
học, có đạo lư đấy nhé! Trong đời quá khứ,
người ấy chẳng có thiện căn sâu dầy như
thế, cứ thong thả, dần dần từng đời
một, đợi đến vô lượng kiếp, vô
lượng kiếp sau nữa, nói với họ, họ sẽ
tin tưởng. V́ sao? Thiện căn của người ấy
đă dầy ngần ấy. Nay chúng ta thiện căn chín
muồi, người ấy c̣n phải tới vô lượng
kiếp sau mới có thể chín muồi. Hiện thời,
khuyên họ là đúng, để họ gieo nhiều thiện
căn hơn một tí, đời đời kiếp kiếp
gieo thiện căn, lại gieo tới vô lượng kiếp,
họ sẽ chín muồi. Chuyện là như vậy đó!
V́ thế, trong một đời này, thiện căn của
chính ḿnh chín muồi, nhất định phải trân quư tiếc,
phải y giáo tu hành, tức là tín nguyện, nhất tâm tŕ
danh, cầu sanh Tịnh Độ, đó là đúng! Trong một
đời này, quyết định thành tựu.
(Diễn)
Nan tín chi pháp tam cú, kinh vân: “Nhược bất văng tích tu
phước huệ, ư thử chánh pháp bất năng
văn, dĩ tằng khâm phụng chư Như Lai, cố hữu
nhân duyên văn thử nghĩa”.
(演)難信之法三句,經云:若不往昔修福慧,於此正法不能聞,已曾欽奉諸如來,故有因緣聞此義。
(Diễn: Đối
với ba câu “pháp khó tin…”, kinh dạy: “Nếu xưa kia chẳng
tu phước huệ, chẳng thể được nghe
chánh pháp này, đă từng phụng sự chư Như Lai,
nên có nhân duyên nghe nghĩa này”).
Đây
là một bài kệ trong kinh Vô Lượng Thọ. “Nhược bất văng tích tu phước
huệ” (Nếu xưa kia chẳng tu phước huệ):
Quư vị chẳng có thiện căn từ đời quá khứ
hết sức sâu dầy như vậy, sẽ chẳng
được! Nghe pháp môn Niệm Phật sẽ lắc
đầu, không chịu tiếp nhận. Dạy các pháp môn
khác bèn hoan hỷ tiếp nhận, đó là v́ chẳng đủ
thiện căn. Phải có thiện căn sâu dầy nhất
th́ mới được. Thiện căn kém hơn một
bậc, người ấy sẽ chẳng thể tiếp
nhận pháp môn này.
(Diễn)
Bát Nhă vân: “Nhược nhân nhất niệm sanh tịnh tín
giả, đương tri thử nhân, bất ư nhất
Phật, nhị Phật nhi chủng thiện căn đẳng”.
(演)般若云:若人一念生淨信者,當知此人,不於一佛二佛而種善根等。
(Diễn: Kinh Bát Nhă dạy:
Nếu người nào một niệm sanh tịnh tín, hăy
nên biết người ấy chẳng phải là đă gieo
thiện căn nơi một đức Phật, hoặc
hai đức Phật v.v…)
Kinh
Kim Cang dạy: Có thể sanh khởi tín tâm thanh tịnh
đối với Đại Thừa Phật pháp th́ kẻ
ấy thuộc loại [có thiện căn, phước
đức] đáng nể, chẳng phải là một nhân vật
lèng èng. Điều này nói rơ thiện căn trong đời
quá khứ hết sức trọng yếu.
(Sao)
Tứ thị quả báo nan thắng công đức.
(鈔)四是果報難勝功德。
(Sao:
Bốn là công đức do quả báo khó thể vượt
trỗi).
Chúng
ta càng phải hiểu rơ, thật sự minh bạch điều
này: Dẫu trong đời quá khứ, thiện căn của
chúng ta c̣n sai kém một chút, tiếp nhận sự chỉ dạy
ấy, xác thực là hiện tại có thể bù đắp
chỗ thiếu khuyết trong thiện căn, có thể
thành công. V́ thế, vốn chẳng tin, đă học mấy
năm bèn tin tưởng. V́ sao? Người ấy đă
được bù đắp. Do đó, trong hiện thời
có thể nỗ lực bù đắp thiện căn. Từ
[hành trạng của] những vị tổ sư đại
đức văng sanh trải khắp các đời, chúng ta có
thể thấy được t́nh h́nh này. Dẫu là thị
hiện, cũng xác thực là sự thật, [các vị tổ
sư đại đức đă thị hiện nhằm] chỉ
rơ [thiện căn thiếu khuyết bèn] có thể bổ
túc, như Ấn Quang đại sư là thị hiện.
Thuở đầu học Phật, Ấn Quang đại
sư không tin Tịnh Độ. Thuở trẻ, Ngài đọc
sách Nho, chẳng tin tưởng Phật pháp, lại c̣n soạn
văn chương phê phán, hủy báng Phật pháp, trong quá
khứ đă làm những chuyện ấy. Trong lịch sử,
chuyện giống như vậy không chỉ là một ḿnh
Ngài, khá nhiều vị tổ sư đại đức
thoạt đầu đều có thái độ ấy. Về
sau, do tiếp xúc bèn dần dần hiểu rơ, tu tập,
tích lũy thiện căn, dần dần bù đắp những
thiện căn và phước đức thiếu sót, sanh
khởi tín tâm sâu xa đối với pháp môn này, đạt
được mục tiêu “văng sanh bất thoái thành Phật
trong một đời”. Do vậy, [thiện căn và phước
đức khuyết thiếu] có thể bù đắp!
Cũng có nghĩa là: Chúng ta chẳng có tín tâm đối với
pháp môn này, có thể kiến lập tín tâm. Kiến lập tín
tâm chính là mười phần liễu giải pháp môn này, có nhận
thức chân chánh đối với lư luận và sự thật.
Người ấy đă hiểu rơ, tín tâm bèn sanh khởi.
Thế nhưng chúng ta thấy có nhiều bà cụ chẳng
biết chữ, chưa hề học hành, họ chẳng cần
liễu giải lư luận và sự thật của pháp môn
này. Căn bản là các cụ chẳng hỏi tới, vừa
nghe nói bèn cứ một câu A Di Đà Phật niệm tới
cùng, khi mất có thụy tướng c̣n thù thắng hơn
các vị đại pháp sư. Đại pháp sư khi mất
c̣n ngă bệnh, nằm mất; người ta chẳng sanh bệnh,
đứng ra đi, do nguyên nhân ǵ? Hoàn toàn là do thiện
căn sâu dầy. V́ sao các vị đại pháp sư không bằng
những bà cụ ấy? Đại pháp sư học vấn
cao hơn các cụ, [xét theo phương diện học vấn],
các cụ chẳng thể bằng các vị pháp sư ấy;
nhưng nếu nói tới thiện căn, các pháp sư chẳng
bằng các cụ, chuyện là như vậy đó. Hiểu
rơ sự thật này, khá nhiều nỗi nghi vấn tự
nhiên được giải trừ. Tôi cũng đă gặp
rất nhiều người hỏi về vấn đề
này. Có nhiều vị pháp sư đại đức nổi
tiếng trong nước, thông Tông, thông Giáo, suốt đời
tu hành hết sức tốt đẹp, v́ sao lúc mất thụy
tướng vẫn chẳng bằng một người
b́nh phàm? Do thiện căn và phước đức trong quá
khứ của người b́nh phàm ấy sâu dầy! Xét theo
phương diện này, vị pháp sư chẳng sánh bằng
người ấy, đạo lư ở chỗ này. Chúng ta
hăy xem sự thù thắng nơi quả báo.
(Sao)
Vị tức đắc văng sanh, tức đắc nhập
thượng thiện hội.
(鈔)謂即得往生,即得入上善會。
(Sao:
Nghĩa là hễ được văng sanh, bèn được
dự ngay vào hội của các vị thượng thiện
nhân).
“Tức đắc” (即得) là ngay lập tức
đạt được. Chúng ta hăy đặc biệt chú
trọng hai chữ ấy. “Văng
sanh” chẳng thể nghĩ bàn, văng sanh là thoát ly lục
đạo luân hồi. Thoát ly lục đạo luân hồi
là chuyện khó khăn dường ấy, kẻ b́nh phàm muốn
vượt thoát luân hồi, phải tu thành công Cửu Thứ
Đệ Định th́ mới có thể vượt thoát.
Do Tứ Thiền Bát Định chỉ có thể sanh về
Sắc Giới Thiên hoặc Vô Sắc Giới Thiên, chẳng
thoát khỏi tam giới! Nhất định phải tu
đến Cửu Thứ Đệ Định th́ mới có
thể thoát tam giới, mấy ai có thể làm được?
Cửu Thứ Đệ Định là Kiến Tư phiền
năo đều đoạn hết, há dễ dàng ư? Hễ
văng sanh, nói cách khác, công phu của quư vị thua kém người
thành tựu Cửu Thứ Đệ Định. Cửu Thứ
Đệ Định là A La Hán, Bích Chi Phật, công phu của
chúng ta chẳng bằng họ, nhưng nói theo sự thành tựu
th́ vượt trỗi họ, họ chẳng bằng chúng
ta. Tuy họ có thể thoát khỏi tam giới, điểm
này giống như chúng ta; nhưng sau khi đă thoát tam giới,
những điều họ đạt được chẳng
sánh bằng chúng ta, thua kém quá xa. “Tức
đắc nhập thượng thiện hội” (Liền
được dự vào hội của các vị thượng
thiện nhân): Thế giới Tây Phương là “chư thượng thiện nhân
câu hội nhất xứ” (các vị thượng thiện
nhân nhóm họp cùng một chỗ), “thượng thiện” là Đẳng Giác Bồ
Tác. Đẳng Giác là những vị giống như Quán Âm,
Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, Di Lặc… Người
sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, hạ
hạ phẩm văng sanh, có thể cùng đứng, cùng ngồi
với các vị Đẳng Giác Bồ Tát, xưng huynh gọi
đệ, v́ các Ngài trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới là học tṛ của A Di Đà Phật, chúng ta tới
đó cũng là học tṛ của A Di Đà Phật, quan hệ
đôi bên là sư huynh, sư đệ.
(Sao)
Tức đắc Bất Thoái Chuyển địa.
(鈔)即得不退轉地。
(Sao:
Liền đắc địa vị Bất Thoái Chuyển).
Bất
Thoái Chuyển là viên chứng ba món Bất Thoái, sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới, quư vị lập
tức đạt được.
(Sao)
Tất cánh thành Phật đẳng.
(鈔)畢竟成佛等。
(Sao: Rốt ráo thành Phật…)
Bốn
câu này nói lên lợi ích bao gồm bốn thứ công đức
chẳng thể nghĩ bàn.
(Sao) Giai siêu việt
thường t́nh, cố vân bất khả tư nghị.
(鈔)皆超越常情,故云不可思議。
(Sao: Đều vượt
trỗi thường t́nh, nên nói là “chẳng thể nghĩ
bàn”).
“Thường” (常) là thường
thức, “t́nh” (情) là kiến giải.
Vượt thoát sự tư duy, tưởng tượng,
kiến giải thông thường của chúng ta, đơn
giản là chúng ta chẳng có cách nào tưởng tượng
được sự thù thắng của Tịnh Độ.
Chư vị phải biết: Mở Đại Tạng
Kinh ra, công đức lợi ích được giảng
trong bất cứ bộ kinh nào cũng đều thua kém những
điều đang được nói ở đây rất
xa! Thế mà phương pháp tu hành đơn giản, dễ
dàng, quả báo thù thắng chẳng thể sánh bằng. Quư
vị ngẫm xem, có thể nghe đến [pháp môn này] là do nhân
duyên ǵ vậy? Là do phước đức như thế
nào?
(Sao)
Như Kim Cang Bát Nhă vân: “Thị kinh nghĩa bất khả
tư nghị, quả báo diệc bất khả tư nghị”,
thị dă.
(鈔)如金剛般若云:是經義不可思議,果報亦不可思議。是也。
(Sao: Như kinh Kim Cang
Bát Nhă nói: “Kinh này nghĩa lư chẳng thể nghĩ bàn, quả
báo cũng chẳng thể nghĩ bàn”, chính là nói lên ư
nghĩa này).
Kinh Kim Cang nghĩa lư chẳng thể
nghĩ bàn, quả báo chẳng thể nghĩ bàn. So giữa
kinh Kim Cang và kinh Di Đà, kinh Kim Cang là có thể nghĩ, có
thể bàn. Kinh Di Đà thật sự chẳng thể
nghĩ bàn. Mười phương ba đời hết thảy
chư Phật tán thán kinh Di Đà, chẳng tán thán kinh Kim
Cang. Hết thảy chư Phật Như Lai đề cao
pháp môn Niệm Phật, chẳng đề cao pháp môn Bát Nhă.
Từ chỗ này, hăy rất lắng ḷng quan sát, quư vị mới
thật sự thấu hiểu vài phần lợi ích công
đức chẳng thể nghĩ bàn được nói
trong kinh.
(Sao)
Y, chánh, nhân quả giả, y vị Đồng Cư tức
Tịch Quang, chánh vị Ứng Thân tức Pháp Thân.
(鈔)依正因果者,依謂同居即寂光,正謂應身即法身。
(Sao:
“Y báo, chánh báo, nhân, quả”: Y báo th́ cơi Đồng Cư tức
là cơi Tịch Quang, chánh báo th́ Ứng Thân tức là Pháp Thân).
Thật
sự chẳng thể nghĩ bàn. V́ trong mười
phương thế giới, cơi Phàm Thánh Đồng Cư là
cơi Phàm Thánh Đồng Cư, cơi Phàm Thánh Đồng Cư
quyết định chẳng phải là cơi Phương Tiện
Hữu Dư, cũng quyết định chẳng phải
là cơi Thật Báo Trang Nghiêm, đương nhiên lại càng
không phải là Thường Tịch Quang Tịnh Độ.
Đức Thế Tôn nói điều này trong hết thảy
các kinh Đại Thừa, bốn cơi có sai biệt, chẳng
thể nói lẫn lộn được. Nhưng Tây
Phương Cực Lạc thế giới chẳng vậy, “một chính là bốn, bốn
chính là một”, điều này chẳng thể nghĩ
bàn. Nói “Đồng Cư là Tịch
Quang”, đương nhiên là những cơi ở giữa sẽ
được bao gồm trong ấy, trong ấy có cơi Thật
Báo, có cơi Phương Tiện. Phàm phu sanh về cơi Phàm Thánh
Đồng Cư của Tây Phương Cực Lạc thế
giới; chư thượng thiện nhân, Đẳng Giác Bồ
Tát trụ trong Tịnh Độ là cơi Thật Báo Trang Nghiêm,
làm sao chúng ta có thể ở chung với nhau? Giống
như trong hiện thời, thế gian này chính là cơi Phàm
Thánh Đồng Cư của Thích Ca Mâu Ni Phật. Thích Ca
Mâu Ni Phật cũng có cơi Phương Tiện Hữu
Dư, cũng có cơi Thật Báo Trang Nghiêm, cũng có Thường
Tịch Quang Tịnh Độ, nhưng những vị La
Hán và Bồ Tát ở trong các nơi ấy, chúng ta chẳng
thấy, chẳng ở cùng một chỗ với các Ngài! Thế
nhưng, đến Tây Phương Cực Lạc thế
giới sẽ chẳng phải là như vậy, ở cùng
một chỗ. Đẳng Giác, Quyền Thật Bồ Tát,
Thanh Văn, Duyên Giác, thảy đều trông thấy, hằng
ngày ở cùng nhau, đó là y báo chẳng thể nghĩ bàn.
Chánh báo th́ Ứng
Thân là Pháp Thân, Báo Thân chẳng cần phải nói nữa, tự
nhiên được bao gồm trong ấy. Pháp Thân, Báo Thân, Ứng
Thân, một thân là ba thân, ba thân là một thân. Thấy Ứng
Thân của A Di Đà Phật chính là thấy Báo Thân và Pháp
Thân của Phật, chẳng hai, chẳng khác. Trong thế
giới Cực Lạc, Ứng Thân của A Di Đà Phật
là khắp hết thảy mọi nơi. Chúng ta thường
nói theo Lư, Pháp Thân khắp hết thảy mọi nơi.
Trong thế giới Tây Phương, Ứng Thân của A Di
Đà Phật khắp hết thảy mọi nơi. Từ
mười sáu phép Quán trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật,
chư vị thấy chỗ ở, vườn rừng
trong thế giới Tây Phương thù thắng bậc nhất,
cây cối, hoa cỏ nhiều, đúng là chốn di dưỡng
tánh t́nh, dưới gốc cây to hết sức mát mẻ, nghỉ
ngơi ở nơi ấy rất tự tại.
Đương nhiên là có thể nghe Phật thuyết pháp
càng tốt hơn. Đức Phật luôn ngồi dưới
cội cây thuyết pháp, dưới mỗi cội cây đều
có A Di Đà Phật, tức là Ứng Hóa Thân của A Di
Đà Phật. Nếu không, thế giới to lớn dường
ấy, người đông ngần ấy, chỉ có ḿnh A
Di Đà Phật, làm sao quư vị có thể thấy Ngài? Quư vị
chẳng có cơ duyên thấy Ngài! Tây Phương Cực Lạc
thế giới A Di Đà Phật dùng Ứng Hóa Thân, vô
lượng Ứng Hóa Thân; cho nên mỗi cá nhân đều
cùng A Di Đà Phật gặp mặt mỗi ngày. Đúng là dường
như A Di Đà Phật cũng chẳng đến, mà chúng
ta cũng chẳng tới chỗ Ngài, [thế mà] hằng
ngày ở cùng một chỗ. Trong mười phương hết
thảy thế giới của chư Phật đều chẳng
có quả báo ấy, đúng là quả báo chẳng thể
nghĩ bàn!
(Sao)
Nhân vị thất nhật công thành, quả vị nhất sanh
bất thoái.
(鈔)因謂七日功成,果謂一生不退。
(Sao: Nhân là bảy ngày
thành công, quả là Bất Thoái trong một đời).
Thời
gian tu hành chẳng cần rất dài. Kinh dạy: “Hoặc một ngày cho đến
bảy ngày”. Chỉ cần tu hành đúng lư, đúng pháp, quyết
định thành công. Quả báo là “nhất sanh bất thoái”, [nghĩa là] hễ quư vị
sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới,
bèn viên chứng ba món Bất Thoái. Viên chứng ba món Bất
Thoái, xét theo quả th́ sự thọ dụng bằng với
Thất Địa hoặc Bát Địa Bồ Tát trong Viên
Giáo. Chúng ta cậy vào sự tu hành của chính ḿnh chứng
đến Thất Địa hoặc Bát Địa cần
phải mất thời gian hai A-tăng-kỳ kiếp th́ mới
có thể chứng được. Dùng pháp môn này, vài ngày
đă đạt được. V́ thế, pháp môn này
đúng là pháp khó tin. Bồ Tát chẳng có cách nào tiếp nhận,
chẳng có cách nào tin tưởng.
(Sao)
Diệc phục siêu việt thường t́nh, cố câu bất
khả tư nghị dă.
(鈔)亦復超越常情,故俱不可思議也。
(Sao: Cũng lại
vượt trỗi thường t́nh, nên đều là chẳng
thể nghĩ bàn).
Kế
đó, Liên Tŕ đại sư trích dẫn một sự thật
để chứng minh.
(Sao)
Tích, Anh pháp sư ư Đông Đô giảng Hoa Nghiêm kinh tứ
thập biến, nhân nhập Xước thiền sư Tịnh
nghiệp đạo tràng, thâm nhập tam-muội, thán viết:
“Tự hận đa niên không tầm văn sớ, lao thân
tâm nhĩ, hà kỳ niệm Phật bất khả tư nghị”
(鈔)昔,英法師於東都講華嚴經四十遍,因入綽禪師淨業道場,深入三昧,歎曰:自恨多年空尋文疏,勞身心耳,何期念佛不可思議。
(Sao: Xưa kia, Anh pháp
sư giảng kinh Hoa Nghiêm bốn mươi lần tại
Đông Đô[1],
do dự vào Tịnh nghiệp đạo tràng của Đạo
Xước thiền sư, thâm nhập tam-muội, than rằng:
“Tự hận đă nhiều năm uổng công truy t́m trong
sớ giải và kinh văn, thân tâm mệt nhọc, nào ngờ
niệm Phật chẳng thể nghĩ bàn”).
Quá
khứ, Anh pháp sư tham gia đạo tràng Niệm Phật
của thiền sư Đạo Xước, trong Niệm
Phật Đường đắc tam-muội. Ngài có thể
đắc Niệm Phật tam-muội trong Niệm Phật
Đường; nói thật ra, cũng chẳng thể nói
là bốn mươi lượt giảng Hoa Nghiêm không có ảnh
hưởng. Ngài hết sức cảm thán: Trong quá khứ,
hơn nửa đời dốc sức nghiên cứu kinh luận
và chú giải, đi khắp nơi giảng giải, chẳng
đạt được lợi ích chân thật, đạt
được hư danh trong thế gian mà thôi! Vất vả,
nhọc nhằn thân tâm của chính ḿnh. “Nào ngờ Niệm Phật chẳng thể nghĩ
bàn”. Chẳng ngờ đạt được thọ dụng
trong pháp môn Niệm Phật, thành tựu tam-muội. Điều
này chỉ rơ pháp môn Niệm Phật thật sự vượt
trỗi các pháp môn khác. Pháp môn Niệm Phật chỉ cần
chuyên, chỉ cần tinh, đừng hoài nghi, đừng
xen tạp, đừng gián đoạn. Niệm Phật tam-muội
là nhất tâm bất loạn, chẳng khó chứng đắc.
Đă chứng đắc tam-muội này, đúng là đắc
đại tự tại, được thọ dụng
chân thật.
(Diễn)
Không tầm văn sớ lao thân tâm giả, Tứ Thập
Nhị Chương Kinh vân: “Bác văn ái đạo, đạo
tất nan hội, thủ chí phụng đạo, kỳ
đạo thậm đại”.
(演)空尋文疏勞身心者,四十二章經云:博聞愛道,道必難會,守志奉道,其道甚大。
(Diễn: “Uổng
công truy t́m trong sớ giải và kinh văn, thân tâm mệt nhọc”,
kinh Tứ Thập Nhị Chương có nói: “Do học rộng
nghe nhiều, tuy yêu thích đạo, mà ắt khó hiểu
đạo. Giữ chí, vâng giữ đạo, đạo ấy
rất lớn”).
Bốn
câu này hết sức đơn giản, gồm mười
sáu chữ, đúng là một khai thị mạnh mẽ nhất
đối với những người tu hành mà mong mỏi
chính ḿnh có thành tựu, chỉ dạy chúng ta hăy nên dùng thái
độ như thế nào để tu học. Mười
sáu chữ ấy là nguyên tắc và cương lănh tu hành, hễ
có thể tuân thủ th́ đúng là “công ít, hiệu quả nhiều”,
có thể thu được hiệu quả rất tốt đẹp.
“Bác văn” (博聞) là quư vị thực
hiện bằng cách học rộng nghe nhiều. “Ái đạo” (愛道) là quư vị hết
sức ưa chuộng Đại Thừa Phật pháp. “Đạo tất nan hội” (Ắt
khó hiểu đạo), “hội”
(會) là hiểu rơ, khế nhập, cũng là “chứng đạo” như
chúng ta thường nói. Quư vị muốn hiểu rơ, mong khế
nhập, mong chứng đắc, quá khó khăn! Điều
này chứng tỏ: Anh pháp sư suốt một đời dốc
sức nơi kinh Hoa Nghiêm, tuy giảng kinh bốn
mươi lượt, những điều Ngài đă giảng
đều là bề ngoài, đều là tri kiến dựa
trên văn tự, chẳng có một tí tác dụng nào. Nói
cách khác, chẳng thể hội quy tự tánh sẽ vô dụng,
cũng như Thanh Lương đại sư đă nói: Đều
là tăng trưởng tà kiến! Phải như thế nào
th́ mới có thể kiến tánh? “Thủ
chí phụng đạo” (Giữ chí, phụng hành đạo)
tức là thâm nhập một môn th́ được, đạo
ấy rất to lớn. “Chí”
(志) là dốc chí chuyên nhất, quư vị có thể đạt
được. “Phụng” (奉) là phụng hành.
Y giáo phụng hành, thâm nhập một môn, sẽ là đúng.
Phật pháp nói theo Lư là b́nh đẳng, “pháp môn b́nh đẳng, chẳng có cao thấp”. Chỉ
cần thâm nhập một môn, thảy đều có thể
minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật, đều có
thể thành tựu. Bất luận quư vị tŕ giới
cũng vậy, tham Thiền cũng vậy, học Giáo
cũng vậy, tŕ chú cũng vậy, niệm Phật
cũng vậy. Một môn! Quyết định chẳng thể
học hai môn. Hai môn trở lên sẽ khó lắm! Ví như hiện
thời Phật Đường này có ba cái cửa, quư vị
ở ngoài cửa suy xét mong tiến vào, theo cửa nào để
tiến vào? Có cách nào đồng thời tiến vào cả
ba cửa hay chăng? Quư vị ở bên ngoài dấy vọng
tưởng, dấy vọng tưởng cả đời
cũng chẳng tiến vào được! Nếu theo một
cửa mà tiến vào, theo bất cứ cửa nào cũng tiến
vào được, đạo lư là như vậy đó. Sau
khi đă tiến vào, quư vị đạt được
pháp môn Đại Tổng Tŕ, chẳng có ǵ quư vị không
đạt được. Quư vị chẳng tiến vào, ở
bên ngoài bèn có sai biệt, [sẽ thấy] có vô lượng pháp
môn. Sau khi đă tiến vào, [vô lượng pháp môn] bèn biến
thành một. Vô lượng pháp môn đều quy về cùng
một chỗ; một chính là vô lượng, vô lượng
chính là một.
Kinh
Tứ Thập Nhị Chương và kinh Bát Đại Nhân
Giác là những kinh được phiên dịch trước
nhất khi Phật pháp vừa mới được truyền
vào Trung Hoa. Trên thực tế, thuở Thích Ca Mâu Ni Phật
tại thế, Ngài chưa từng giảng kinh Bát Đại
Nhân Giác hoặc kinh Tứ Thập Nhị Chương. Kinh
Bát Đại Nhân Giác và kinh Tứ Thập Nhị
Chương đều thuộc loại trích yếu của
các kinh, đó là phương pháp được sử dụng
trong thời kỳ đầu khi Phật pháp truyền
đến Trung Hoa. Cùng một đạo lư như vậy, chúng
ta truyền bá Phật pháp sang ngoại quốc, dùng
phương pháp ấy là tốt nhất. Trích yếu các
kinh, trích lục các kinh, vừa dễ dịch, vừa dễ
giảng, lại rất khế cơ, xác thực là thuận
tiện cho kẻ sơ học. Những câu [được
trích lục] trong các bản ấy, câu nào cũng đều
vô cùng tinh túy, chẳng hề nói thừa.
(Diễn)
Vĩnh Gia vân: “Ngô tảo niên lai tích học vấn, diệc
tằng thảo sớ tầm kinh luận, phân biệt danh
tướng bất tri hưu, nhập hải toán sa, đồ
tự khốn”, thị dă.
(演)永嘉云:吾早年來積學問,亦曾討疏尋經論,分別名相不知休,入海算沙徒自困。是也。
(Diễn: Ngài Vĩnh
Gia nói: “Tôi thuở đầu chuyên tích lũy học vấn,
cũng từng t́m kiếm sớ giải, t́m ṭi kinh luận,
phân biệt danh tướng chẳng biết ngơi nghỉ,
vào biển đếm cát, tự nhọc nhằn uổng
công” là nói về ư này).
Bài
kệ này của Vĩnh Gia đại sư trích từ Chứng
Đạo Ca. Vĩnh Gia đại sư là học tṛ của
Lục Tổ, Ngài chỉ học với Lục Tổ một
ngày, vấn đáp mấy câu trong hội của Lục Tổ,
được Tổ ấn chứng đă khai ngộ. Ngài
lại muốn ra đi, Lục Tổ nói: “Sao ông đi mau
như thế? Hăy ở lại một đêm, ngày mai sẽ
đi”. Lục Tổ giữ Sư ở lại một
đêm, đó là [công án] Nhất Túc Giác (一宿覺: một đêm giác
ngộ) nổi danh. Bài kệ này do Ngài làm sau khi đă khai ngộ,
thuật chuyện trước kia, trong khi Ngài ṃ mẫm, đă
gặp những chướng nạn. Nhưng các bậc từng
trải đă nói toạc chân tướng sự thật, người
đời sau trông thấy những gương ấy mà vẫn
mong dẫm theo vết, vẫn chẳng giác ngộ, vẫn
chẳng chịu quay đầu, đúng là kẻ ngu! Thoạt
đầu ngài Vĩnh Gia cũng nghiên cứu giáo lư. “Thảo sớ” (討疏), Sớ (疏) là chú giải, [“thảo sớ” nghĩa là] sưu
tập những bản chú giải xưa nay của các vị
đại đức để tham khảo, nghiên cứu
kinh luận, đổ công dốc sức nơi đó. Phân
biệt tư duy những danh tướng ấy chẳng
biết ngưng nghỉ, rất tinh tấn, rất siêng
năng, suốt ngày đêm đều bận bịu học
hành. Khi chúng ta mê muội, trông thấy như vậy [bèn hâm
mộ, cho là] lỗi lạc quá, thật sự dụng công,
cứ ngỡ đó là học vấn. Người giác ngộ
nói đó là dấy vọng tưởng, làm chuyện thuộc
tà tri tà kiến. Đổ công nơi danh tướng và lư
luận, các nhà Duy Thức bảo là “nhập hải toán sa” (vào biển đếm cát),
bao giờ xong? Sau khi đă ngộ, mới biết làm chuyện
ấy chính là “tự khốn”,
[tức là] tự ḿnh gây khó khăn cho chính ḿnh.
Những
lời ấy đều là nói sau khi đă khai ngộ, đều
là lời lẽ của bậc từng trải. Nhưng chư
vị nhất định phải ghi nhớ, đi theo con
đường ấy, người thực hiện thành
công có được mấy ai? Quá ư là ít. Người
chẳng đi trọn hết, chết gục trong ấy,
thường nói là “chết
trong Giáo Hạ, bị vây khốn trong mê cung”. Giáo vơng[2] được
gọi là mê cung; sau khi đă bước vào, vĩnh viễn
chẳng thoát ra được. Kẻ thoát ra là kẻ may mắn!
Như Anh pháp sư đă nói trong phần trước, nếu
Ngài chẳng dự vào Niệm Phật Đường của
thiền sư Đạo Xước, sẽ chẳng thoát
ra được. Chẳng thoát ra được tức là
chết ngắc trong Giáo Hạ. Vĩnh Gia đại sư
có cơ hội gặp gỡ Lục Tổ Huệ Năng đại
sư, đây cũng là một người lăn lộn
trong giáo vơng hết sức may mắn. Cuối cùng là kết
luận, nào ngờ “niệm Phật
chẳng thể nghĩ bàn”.
Xét
theo toàn thể Đại Thừa Phật pháp để nói,
bộ Sớ Sao của Liên Tŕ đại sư là một cống
hiến vô cùng tuyệt diệu. Ngài có thể nói minh bạch
chân tướng của Đại Thừa Phật pháp và biển
cả Phật pháp, chỉ bày chánh xác phương hướng,
mục tiêu cho chúng ta. Đó là cống hiến lớn nhất
của Ngài. Chúng ta đọc kỹ càng [Sớ Sao], chú tâm lănh
hội, có thể nói là tất cả nghi hoặc đều
tiêu trừ, tín nguyện chân thật được kiến
lập từ chỗ này. Chúng ta thiếu khuyết thiện
căn và phước đức, đều cậy vào nhân
duyên này để bổ túc. Chúng ta in Sớ Sao rất nhiều,
có mấy người đọc? Dẫu đọc, có thể
đọc hiểu hay không? Do vậy có thể biết, nhân
duyên khó có lắm! Giảng Sớ Sao một lượt chẳng
dễ dàng, cần phải có thời gian rất dài, giảng
rất khó, mà nghe cũng chẳng dễ dàng.
(Sớ)
Xứng Lư, tắc tự tánh ly tâm ngôn tướng, thị
bất khả tư nghị công đức nghĩa.
(疏)稱理,則自性離心言相,是不可思議功德義。
(Sớ: Xứng Lư th́ tự
tánh ĺa tướng tâm ngôn là ư nghĩa “công đức chẳng
thể nghĩ bàn”).
“Tự tánh” là Chân Như bản
tánh. Trong Chân Như bản tánh, chẳng có ngôn ngữ, chẳng
có tướng trạng. Trong Khởi Tín Luận, Mă Minh Bồ
Tát đă dạy chúng ta: “Ĺa
tướng ngôn thuyết, ĺa tướng danh tự, ĺa
tướng tâm duyên”. Chẳng có cách nào tưởng
tượng, mà cũng không có cách nào bày tỏ, đó là “công đức chẳng thể
nghĩ bàn”, nhà Thiền thường
nói chuyện ấy. Vào thời đại của Liên Tŕ
đại sư, kẻ b́nh phàm thường nghĩ Thiền
là cao nhất trong Phật pháp, cho nên đại sư giới
thiệu kinh A Di Đà, sau mỗi đoạn đều dùng
cảnh giới Thiền để đại chúng
được hiểu ư nghĩa kinh văn [nói theo Lư] ḥng
chứng minh kinh A Di Đà xác thực là “vô thượng thậm thâm Thiền”. Trong bản
chú giải của lăo nhân gia, tuyệt đại đa số
là trích dẫn kinh Hoa Nghiêm. Nói theo Giáo Hạ, mọi người
đều thừa nhận kinh Hoa Nghiêm là căn bản pháp
luân, là vua của các kinh, lăo nhân gia chỗ nào cũng dùng kinh
Hoa Nghiêm để giải thích kinh A Di Đà, nhằm nâng
cao kinh A Di Đà lên ngang bằng kinh Hoa Nghiêm, dụng ư ở
chỗ này. Ngài nêu rơ trong Đại Thừa Phật pháp,
kinh này mới xác thực là kinh bậc nhất, đó là dụng
tâm khổ sở của lăo nhân gia. Sự thật xác thực
là như thế! Đáng tiếc là người đời
chẳng nhận thức, thật đáng tiếc! V́ thế,
đây là xứng tánh, tự tánh có công đức chẳng
thể nghĩ bàn. Đấy là điều Thiền, Giáo, Mật,
chẳng có một ai không thừa nhận. Các thứ sự
tướng được nói trong kinh Di Đà, toàn là công
đức chẳng thể nghĩ bàn lưu lộ từ tự
tánh, từ trong tự tánh của A Di Đà Phật lưu lộ.
A Di Đà Phật gia tŕ hết thảy đại chúng, khiến
cho hết thảy đại chúng tuy chẳng đoạn
phiền năo, là hạ phẩm văng sanh, Kiến Tư, Trần
Sa, Vô Minh thảy đều chẳng đoạn, nhưng do
được oai thần của Phật Di Đà gia tŕ, cũng
có thể dẫn khởi công đức từ trong tự
tánh, thật sự chẳng thể nghĩ bàn! Chuyện là
như thế đó. Chúng ta đă biết Lư, sẽ chẳng
hoài nghi nơi sự thật. Đoạn nghi th́ mới có
thể sanh ra tín tâm quyết định. Từ tín tâm mới
sanh khởi nguyện vọng khẩn thiết, chúng ta mới
có thể niệm câu Phật hiệu rất hoan hỷ, niệm
chẳng mỏi mệt, chẳng chán nản, có thể sanh
ra pháp hỷ, mới có thể đạt được thọ
dụng chân thật. Hôm nay chúng tôi giảng đến chỗ
này!
A Di Đà Kinh Sớ Sao
Diễn Nghĩa
Phần 129
hết
[1] Đông Đô chính là thành phố Lạc
Dương thời Đường. Danh xưng này bắt
nguồn từ thời Tây Châu. Châu Thành Vương đóng
đô tại Cảo Kinh (tức là Trường An sau này,
nay là thành phố Tây An). Vua lại lấy Lạc Ấp làm
kinh đô, đặt tên là Đông Đô v́ Lạc Ấp
ở phía Đông của Cảo Kinh.
[2] Gọi là “giáo
vơng” v́ giáo nghĩa có quá nhiều danh tướng, thuật
ngữ phức tạp, người học sẽ dễ
dàng sa đà trong danh tướng như mắc vào trong
lưới chẳng thoát ra được nên gọi là “giáo vơng” (lưới giáo).