A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa
阿彌陀經疏鈔演義
Phần 18
Chủ giảng:
Lăo pháp sư Tịnh Không năm 1984
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh: Huệ
Trang và Đức Phong
Tập
35
Xin xem A
Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang bốn
mươi bốn:
(Sớ) Vấn: Hà cố bất
cữu độn nhân, phản ức lợi giả?
(疏) 問:何故不咎鈍人,反抑利者。
(Sớ: Hỏi: Sao
không bắt lỗi kẻ độn căn, mà ngược
lại chèn ép bậc lợi căn?)
Sau khi đại sư giải
thích xong, chắc cũng có người ôm ḷng hoài nghi: V́ sao
chẳng quở trách kẻ căn tánh trung hạ, lại
đặc biệt quở trách bậc thượng căn
lợi trí? “Cữu” (咎) có nghĩa là chê trách. Trong phần trước nói
đến “cuồng huệ, ngoan
hư”, những loại người ấy đều
là những kẻ được coi là thông minh, trí huệ
trong hiện tại. Nói thông minh th́ được, chứ
bảo là trí huệ th́ chưa chắc, v́ sao vậy? Quư vị
phải hiểu: Trong nhà Phật thường nói tới “bát
nạn”, tức là tám thứ nạn mà con người gặp
phải. Không chỉ gây chướng ngại cho mặt Hành
và Chứng, mà c̣n chướng ngại đối với mặt
lư giải, nên gọi là “tao nạn”
(gặp nạn). Trong tám nạn ấy, có một thứ
gọi là Thế Trí Biện Thông, trong đoạn này nói về
hạng người ấy, cậy vào sự thông minh và biện
tài của bản thân, chẳng chịu sốt sắng tu học,
chẳng chịu thật thà tu học.
(Sớ) Đáp: Lợi giả thị
tài cao cử, thường vị viễn thắng độn
nhân.
(疏) 答:利者恃才高舉,常謂遠勝鈍人。
(Sớ: Đáp: Kẻ
lợi căn thường cậy tài, ngạo nghễ, ngă
mạn, thường nói: “Ta vượt xa những kẻ
độn căn”).
Đây là nguyên nhân và lư do khiến
họ mắc nạn: Thường tự cho là ḿnh thông
minh, trí huệ cao cả, kết quả xôi hỏng bỏng
không! Thật sự có thành tựu là những người
thật thà, luôn tự cảm thấy ḿnh chẳng bằng
ai. Kẻ thường cảm thấy ḿnh chẳng bằng
ai sẽ thành tựu dễ dàng! V́ sao? Họ khiêm hư. Kẻ
ngạo nghễ, ngă mạn chẳng những học Phật
không thể thành tựu, mà đối với học vấn
thật sự trong thế gian cũng chẳng thể thành
tựu được! Trong Luận Ngữ, Khổng lăo phu
tử nói: “Như hữu Châu
Công chi tài chi mỹ”, [nghĩa là] giả sử có người
tài hoa, đức năng giống như Châu Công[1],
Châu Công là thánh nhân, nhưng người ấy có khuyết
điểm, “sử kiêu thả
lận” (mà nếu ngạo mạn lại c̣n keo kiệt),
ngạo mạn, coi thường người khác, keo kiệt,
“kỳ dư tắc bất túc
quán hỹ” (th́ những điểm [tài đức] khác
chẳng đáng để xét tới nữa), chẳng cần
nói tới người ấy nữa! Tài hoa của kẻ
đó là giả, chẳng thật. Đủ thấy ngạo
mạn th́ học vấn thế gian cũng chẳng thể
thành tựu, huống ǵ Phật pháp? Tổ sư đại
đức thường quở trách hạng người thông
minh lợi căn ấy!
(Diễn) Bất
cữu độn nhân, phản ức lợi giả, vị
trước Sự độn căn, bất tri Lư tánh,
ưng đương ha trách, khai kỳ huệ tánh, phá kỳ
ngu mông, sử do Sự nhập Lư, khả dă. Hà năi xả bỉ
ngu phu, phản ức lợi giả?
(演) 不咎鈍人,反抑利者,謂著事鈍根,不知理性,應當呵責,開其慧性,破其愚蒙,使由事入理可也。何乃捨彼愚夫,反抑利者?
(Diễn: “Chẳng
bắt tội kẻ độn căn, ngược lại
chèn ép người lợi căn”, ư nói: Đối với kẻ
độn căn chấp trước Sự, chẳng biết
Lư tánh, lẽ ra nên quở trách, để mở mang huệ
tánh, phá trừ sự ngu si, mê muội cho họ, khiến
cho họ sẽ từ Sự mà nhập Lư th́ mới là điều
nên làm. Sao lại bỏ kẻ ngu phu ấy, ngược ngạo
chèn ép người lợi căn vậy?)
Đây là ư nghĩ của người
hỏi, mấy câu này nói rất rơ ràng. Người
độn căn thua kẻ thông minh trí huệ, nhưng hạng
người này có ưu điểm: Thật thà! “Chấp Sự”: Chấp
trước Sự, [bảo họ] niệm Phật mỗi
ngày niệm một vạn tiếng, họ thật thà niệm
một vạn tiếng, [bảo họ] niệm hai vạn
tiếng, họ thật thà niệm hai vạn tiếng, chấp
Sự, chấp tướng tu hành. Lư luận của pháp môn
Niệm Phật hết sức sâu, cổ đại đức
nói: “Duy Phật dữ Phật
phương năng cứu cánh” (chỉ có Phật và Phật
mới có thể thấu hiểu rốt ráo), Đẳng
Giác Bồ Tát c̣n chưa hiểu rốt ráo lư ấy. Đủ
thấy đạo lư này rất sâu! Một cuốn kinh Di
Đà mỏng tanh, chúng ta đọc cũng chẳng thấy
có cảm giác ǵ. Thế mà bộ chú giải này của Liên
Tŕ đại sư là hai cuốn dày cộp; nếu chúng tôi
giảng mỗi ngày, cũng phải mất một năm mới
có thể giảng viên măn. Ở đây, chúng tôi có thâu âm, ba
trăm ba mươi lăm cuốn, một bộ kinh Di
Đà đấy nhé! Có giảng hết ư nghĩa được
chăng? Thưa quư vị, chỉ là nói một phần trong
vạn phần của ư nghĩa kinh Di Đà mà thôi! Do
đây biết: Đạo lư này sâu xa, lư luận vi diệu.
Người chẳng hiểu Lư
có thể văng sanh hay chăng? Đây là chuyện chúng ta hết
sức quan tâm. Giả sử không hiểu Lư chẳng thể
văng sanh, chúng ta sẽ gặp khó khăn trước mắt
liền, chẳng biết làm cách nào mới tốt đẹp!
Nói thật ra, chẳng hiểu rơ Lư cũng có thể văng
sanh, chúng ta hăy an ḷng. Hiểu rơ đạo lư này, chúng ta văng
sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới rồi sẽ
lại học, học trực tiếp với A Di Đà Phật,
phải như vậy th́ mới có thể rốt ráo. Chẳng
hiểu Lư, phẩm vị văng sanh thấp một chút, đừng
sợ! Ngược lại, chính ḿnh đă đến thế
giới Tây Phương rồi! Giống như đi học,
bắt đầu từ lớp Một, không sao hết, tôi
đă được vào học, có thể học hết lớp
Một sẽ có thể tốt nghiệp. Người hiểu
Lư phẩm vị cao một chút, có thể học nhảy lớp,
có ư nghĩa như vậy. Hiểu rơ đạo lư này, một
mặt phải Sự Tŕ, chú trọng nơi Sự Tŕ, một
mặt nghiên cứu lư luận, lư luận có thể giúp cho
chúng ta nâng cao phẩm vị, điều này hết sức
trọng yếu! Nếu chỉ bàn lư luận, chẳng chú
trọng Sự Tŕ, đâm ra sẽ mắc họa chẳng
đạt kết quả ǵ, chẳng có phần nơi Tây
Phương Cực Lạc thế giới.
Học Phật th́ quư vị phải
biết: Phật pháp từ đầu đến cuối lấy
trí huệ làm mục tiêu, như câu nói: “Do Giới sanh Định, do Định khai Huệ”.
Trí huệ mở mang sẽ có thể phá mê, khai ngộ, ĺa
khổ, được vui. Do vậy, học Phật phải
mở mang trí huệ. Pháp môn Niệm Phật tợ hồ chú
trọng cầu nguyện văng sanh, chẳng chú trọng mở
mang trí huệ. Do vậy, có những kẻ coi thường
pháp môn này, cho rằng Thiền và Giáo cao minh hơn rất
nhiều. Thật ra là hiểu lầm! Trí huệ do đâu
mà khai? Từ tâm thanh tịnh mà khai, tâm đă thanh tịnh
bèn khởi tác dụng là trí huệ. Những người có
học vấn trong thế gian và xuất thế gian thường
ví tâm ta như nước, tức tâm thủy. Khi nước
bất động, chẳng có sóng ṃi, b́nh tịnh, nó có tác
dụng giống như tấm gương soi rơ ràng cảnh
giới bên ngoài, đó gọi là trí huệ. Tâm thủy trong
tâm dấy lên sóng ṃi, vẫn có tác dụng, cũng soi
được cảnh giới bên ngoài, nhưng soi thành méo
mó, vặn vẹo, chẳng hoàn chỉnh. Hiện thời,
tâm thủy của chúng ta dấy lên sóng ṃi, phiền năo nặng
là gió to, sóng cả; phiền năo nhẹ là gió nhỏ, sóng bé,
nói chung là chẳng b́nh tịnh. Do vậy, đối với
hết thảy sự lư thế gian và xuất thế gian,
ta cũng biết được phần nào, chẳng hoàn
chỉnh. Do biết phiến diện, nên dễ phát sanh hiểu
lầm. Chẳng hạn như biết mặt này, chẳng
biết mặt kia, chấp trước mặt này, phủ
định mặt khác, đó là lầm lỗi. Chẳng thể
thấy mọi mặt được, đó chính là v́ tâm thủy
của chúng ta dấy lên sóng ṃi.
Thưa quư vị, pháp môn Niệm
Phật chú trọng tu Định, khởi sự từ chỗ
này. Nhất tâm bất loạn là Định, nhưng phương
pháp này lại hết sức thuận tiện. Thưa quư vị,
công phu chân chánh chẳng phải ở nơi công khóa sáng tối.
Quư vị ấn định công khóa sáng tối: Buổi sáng
niệm một quyển kinh Di Đà, niệm mấy ngàn câu
Phật hiệu, điều này cố nhiên rất quan trọng,
dưỡng thành thói quen niệm Phật. Thế nhưng công
phu ấy phải được vận dụng trong cuộc
sống thường nhật. Nếu quư vị không vận
dụng được, sẽ giống như đi học
tốt nghiệp xong, ra ngoài đời không sử dụng được,
sở học vô dụng! Đấy chẳng phải là uổng
công học hành ư? Nếu quư vị vận dụng công khóa
sáng tối vào cuộc sống, suốt ngày từ sáng đến
tối đăi người, tiếp vật, khởi tâm,
động niệm, chớ để công phu ấy gián đoạn,
giữ cho một câu Phật hiệu miên mật giống như
kinh Lăng Nghiêm dạy: “Ức
Phật, niệm Phật, hiện tiền đương
lai, tất định kiến Phật” (Nhớ Phật,
niệm Phật, hiện tiền, tương lai, nhất định
thấy Phật). Ức (憶) là ǵ? Trong tâm có, trong tâm thường
nghĩ đến Phật, nơi miệng thường niệm
Phật. Đặc biệt là khi phiền năo dấy lên, khi
ư niệm vừa dấy lên, chẳng cần biết thiện
niệm hay ác niệm, chỉ cần ư niệm dấy lên,
ngay lập tức đổi nó thành A Di Đà Phật. Đó
gọi là công phu. Đấy là quư vị vận dụng công
khóa sáng tối vào cuộc sống, công phu đắc lực.
Nói cách khác, quư vị chẳng thể có ư niệm nào khác, chỉ
có một ư niệm. Hễ nó dấy lên, ư niệm thứ
hai bèn là A Di Đà Phật, chẳng để cho vọng niệm
tiếp nối. Một thời gian lâu sau, tâm quư vị sẽ
dần dần định.
Do
vậy, pháp môn này chú trọng tu Định, đặc biệt
là trong giai đoạn hiện tại, nói thật ra, đây
là công phu ổn thỏa, thích đáng, thực tiễn. Quư vị
đừng ham cao chuộng xa, chỉ cầu nội tâm b́nh
lặng. Tâm tĩnh đến cùng cực, trí huệ sẽ
mở mang. Kinh Lăng Nghiêm nói rất hay: “Tịnh cực, quang thông đạt” (Tịnh
đến cùng cực th́ quang minh (trí huệ) sẽ thông
đạt). Quang ấy chính là trí huệ, sẽ thông đạt.
Do vậy, công phu niệm Phật gồm ba giai đoạn.
Tầng thứ nhất là công phu thành phiến, công phu gom
thành một khối, ép thành một khối giống như
chúng tôi vừa mới nói: Trong tâm quư vị vừa dấy
lên một ư niệm, lập tức đổi nó thành A Di
Đà Phật. Đó là sức mạnh của Phật hiệu,
chế phục vọng niệm, chẳng cho nó dấy lên,
ép thành một khối. Đạt đến cảnh giới
ấy sẽ có thể văng sanh, sẽ có phần trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới.
Có những đồng tu thường
đến hỏi: “Con phiền năo, nghiệp chướng
quá nặng, tạo tội nghiệp quá sâu, có thể văng
sanh hay chăng?” Người ấy rất hoài nghi, tội
nghiệp trong đời này, tội nghiệp trong đời
trước, tội nghiệp trong nhiều đời, nhiều
kiếp, làm thế nào đây? Có được văng sanh hay
chăng? Nếu quư vị thường hoài nghi như thế,
quả thật là đại chướng ngại.
Chương Hạ Phẩm Hạ Sanh trong Quán Vô Lượng
Thọ Phật Kinh, tức là chương nói về phép Quán
thứ mười sáu, đức Phật đă giảng:
Ngũ Nghịch, Thập Ác, lâm chung mười niệm hay
một niệm, đều có thể văng sanh. Tôi nghĩ, các
đồng tu tuy tạo tội nghiệp, vẫn chưa tội
nặng đến mức đó! Vấn đề là một
niệm khi lâm chung của quư vị có đúng là Phật hiệu
hay không? Vấn đề ở chỗ này! Nếu một
niệm lúc lâm chung đích xác là Phật hiệu, tin tưởng
pháp môn Tịnh Độ, đă phát nguyện, lại chịu
niệm, chắc chắn văng sanh. Liên Tŕ đại sư và
Ngẫu Ích đại sư đă nói rất rơ ràng, bản
thân chúng ta phải tin tưởng!
Do vậy, lúc b́nh thường
niệm Phật công phu thành phiến, đấy thật sự
là sám trừ nghiệp chướng, gọi là “chân sám hối”. Quư vị hiểu
nghiệp chướng là ǵ? Trong tâm có ư niệm là nghiệp
chướng. “Chân tâm vô niệm”:
Trong chân tâm không có ư niệm, không có vọng niệm. Hễ
khởi tâm động niệm th́ đều là vọng tâm,
vọng tâm là nghiệp chướng, là sanh diệt tâm. Do
đây, có thể biết rằng: Niệm một câu Phật
hiệu nhằm chế phục vọng niệm, tiêu nghiệp
chướng, sám trừ nghiệp chướng. Niệm niệm
sám trừ nghiệp chướng, niệm niệm Định
- Huệ viên măn, c̣n có pháp môn nào thù thắng hơn pháp môn này?
Tôi học Phật ba mươi mấy năm, chưa t́m ra
bất cứ pháp môn nào thù thắng hơn pháp môn này. Điều
này là chân thật, chẳng hư dối; nhưng phải hiểu
Lư. Không hiểu rơ Lư, tuy vẫn có thể văng sanh, nhưng nó
gây chướng ngại khiến phẩm vị của quư
vị sẽ cao hay thấp. Do vậy, càng hiểu rơ Lư càng
tốt. Chẳng thể hiểu Lư th́ Hạ Phẩm Hạ
Sanh cũng được, đến Tây Phương Cực
Lạc thế giới sẽ lo chuyện ấy cũng
được. Tốt nhất là Lư và Sự quân b́nh, đó
là lư tưởng nhất, Định và Huệ dễ dàng
thành tựu. Có thể thấy là đại sư hoàn toàn chẳng
bỏ những kẻ độn căn, Ngài nói rất có
lư.
(Diễn) Cái dĩ độn nhân
tự tri bất như, cân cân tự thủ, vô kiêu, vô thị,
vô quá, vô phi.
(演) 蓋以鈍人自知不如,斤斤自守,無驕無恃,無過無非。
(Diễn: Ấy là
v́ người độn căn tự biết chẳng bằng
ai, tự giữ ǵn cẩn thận từng chút một, chẳng
kiêu ngạo, chẳng ỷ y, không lỗi, không sai).
Nhất định
văng sanh. Do vậy, thường là người thông minh chẳng
bằng kẻ ngu! Quả thật, ít có kẻ thông minh hay có
tri thức văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới,
do họ có nhiều chướng ngại. Những bà cụ
không biết chữ, chẳng hiểu biết ǵ, rất dễ
văng sanh!. Họ chính là những người được
nói tới ở đây. Những kẻ có học vấn,
đúng như cổ nhân đă nói: “Thông minh phản bị thông minh ngộ” (Thông minh
đâm ra bị thông minh gây lầm lạc), chẳng bằng
bà cụ già, “vô kiêu, vô thị,
vô quá, vô phi” (không kiêu, không ỷ ḿnh, không lầm lỗi,
không sai trái), thật thà niệm Phật, bà ta thật sự
văng sanh.
(Diễn) Lợi giả
bất nhiên, cố ức chi dă.
(演) 利者不然,故抑之也。
(Diễn: Kẻ lợi căn
không như vậy, cho nên phải chèn ép họ).
Người lợi
căn chẳng thật thà; do vậy, họ học này nọ
hết sức khó khăn. Tuy thông minh một chút, nhưng
thông minh không được sử dụng đúng đắn,
đấy là khuyết điểm của họ. Sự quở
trách ở đây mang ư nghĩa ấy. Chúng ta quay lại xem
lời Sớ, lời đáp là “lợi
giả ỷ tài cao cử” (kẻ lợi căn thường
ỷ tài, cao ngạo), “cao cử”
là ngạo nghễ, ngă mạn, “thường
vị viễn thắng độn nhân” (thường nói
ḿnh vượt xa kẻ độn căn), tự cho ḿnh là
đúng, nghĩ mọi người chẳng sánh bằng
ḿnh.
(Sớ) Kim vị thử
thuyết, sử chi họa hổ phất tựu, phản
lạc nhất trù.
(疏) 今為此說,使之畫虎弗就,反落一籌。
(Sớ: Nay v́ hạng người
này mà nói, khiến cho họ là những kẻ vẽ cọp
chẳng thành, đâm ra thua mất một thẻ[2]).
Tôi vừa mới nói ư
nghĩa này!
(Sớ) Kư bỉ tri phi, hồi
tâm niệm Phật, phi viết ức chi, thật tích chi
nhĩ.
(疏) 冀彼知非,回心念佛,非曰抑之,實惜之耳。
(Sớ: Mong họ biết sai,
hồi tâm niệm Phật, chứ không phải là chèn ép họ,
thật ra là tiếc nuối cho họ).
Hai câu này nói quá hay, chẳng
phải là chê trách, hạ thấp họ, mà thật ra là tiếc
nuối giùm họ: Người thông minh trí huệ chịu
niệm Phật, phẩm vị chắc chắn chẳng
thuộc Trung Hạ phẩm. Lần này, tại
Trước mắt,
Điền phu nhân cũng là một tấm gương tốt,
cũng có rất nhiều người quư vị biết bà
ta, tức cư sĩ Diệp Mạn[3]! Tôi biết bà ta chưa lâu, tuy nghe nói bà ta rất nổi
tiếng, nhưng trước kia tôi không biết người
này. Tôi từng nghe người khác kể, trước kia,
khi bà ta giảng giải Phật Học bèn hủy báng Tịnh
Độ, bảo Tịnh Độ chẳng đáng một
đồng, bà ta học Thiền. Năm ngoái, tôi sang giảng
kinh ở
Tịnh Độ
thành tựu là đới nghiệp văng sanh, là công phu thành phiến,
thứ công phu này mỗi cá nhân chúng ta đều có thể
làm được, thật sự có thể thành tựu. Thiền
và Mật, theo tôi thấy đều chẳng thể thành tựu.
Chắc cũng có vị muốn nói: “Thầy chưa hề
tham Thiền!” Tuy tôi chưa hề tham Thiền, nhưng khẩu
đầu Thiền rất cao minh! Trong nhà Thiền, trọng
yếu nhất là kinh Kim Cang, Lục Tổ Đàn Kinh, Chứng
Đạo Ca của Vĩnh Gia đại sư, Thiền
Tông Tập, Đại Châu Ḥa Thượng Ngữ Lục,
tôi đều giảng nhiều lần. Do vậy, nói tới
Khẩu Đầu Thiền, không ai sánh bằng tôi, tôi biết
giảng, nhưng quư vị hỏi tôi: “Làm được
hay không?” Thưa quư vị, tôi không làm được! Tôi nói
được, nhưng không làm được. Tôi nói thật
với quư vị, đừng nói tới những thứ
Thượng Thượng Thiền xuất thế gian, Thiền
Định thấp nhất trong thế gian tôi làm chưa
được, đều chẳng dễ ǵ tu tập
được. Trong Thiền, thấp nhất là Sơ Thiền
Thiên của Sắc Giới, tách khỏi Dục Giới. Dục
Giới là ǵ? Tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ
nghỉ, tiếng tăm, lợi dưỡng. Những thứ
tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ bày
ra trước mắt, quư vị có c̣n động tâm hay
chăng? Nếu vẫn c̣n động tâm, Thiền của
quư vị là Khẩu Đầu Thiền, là Dă Hồ Thiền,
tôi cũng nói được mà! Quư vị động tâm th́
nói cách khác, quư vị chẳng rời khỏi Dục Giới,
chẳng thể vượt thoát Dục Giới trong tam giới!
Pháp sư Quảng Khâm suốt đời tham Thiền, nay dạy
người khác niệm Phật. Lăo ḥa thượng Hư
Vân trong cuốn Khai Thị Lục cuối cùng của Ngài,
hơn chín mươi phần trăm là khuyên người
khác niệm Phật.
Mật lại càng chẳng
cần phải nói nữa. Những thói tệ của Mật
rất nhiều, không cách nào kể xiết[4]. Thầy của tôi là Thượng Sư Mật Tông,
Phật pháp của tôi được Chương Gia đại
sư đặt vững nền tảng, tôi theo học với
Ngài ba năm. Do vậy, những lề lối trong Mật
Tông tôi hoàn toàn biết rơ. Không phải là tôi không hiểu, tôi
cũng hiểu, tôi cũng là kẻ rất am hiểu! [Mật
Tông] chắc chắn chẳng phải là kẻ sơ học
mà ḥng tu được! Mật và Thiền có tốt hay
không? Tốt chứ! Quá tốt! Có phải học hay không?
Phải học! Khi nào học? Đến Tây Phương Cực
Lạc thế giới mới học. A Di Đà Phật là
vị Kim Cang Thượng Sư cao minh nhất, học với
Ngài, tuyệt đối chẳng bị đi vào ngơ rẽ,
con đường này ổn thỏa, thích đáng hơn nhiều!
Hiện thời, trong thế gian này, t́m một vị thầy,
trong kinh Lăng Nghiêm, Thích Ca Mâu Ni nói rất hay, trong thời
đại hiện tại, “tà
sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng”, yêu ma
quỷ quái đều xuất gia, đều mặc ca-sa,
đều dùng thân phận đại pháp sư xuất hiện
trong thế gian, đều là yêu ma, quỷ quái, quư vị học
với họ, lẽ nào chẳng lạc đường?
Do vậy, ngày nay t́m thầy
khó lắm! Có người hỏi: Ông chẳng phải là yêu
ma quỷ quái ư? Lẽ nào ông là thiện tri thức thật
sự ư? Tôi thưa với quư vị, tôi chẳng phải
là thiện tri thức, cũng chẳng phải là yêu ma, quỷ
quái. Tôi giảng kinh ở các nơi, tôi chẳng dám tự
nhận lấy thân phận làm thầy, chúng ta là đồng
học. Chúng ta có thầy, thầy là ai? Là Liên Tŕ đại
sư. Bản chú giải này là của Liên Tŕ đại
sư, chúng ta tôn Liên Tŕ đại sư làm thầy. Nay tôi ở
đây cùng với quư vị nghiên cứu lời giáo huấn
của thầy, vị thầy này khá lắm! Năm trăm
năm trước mọi người đều công nhận
Ngài là thiện tri thức. Ngoài vị thầy này ra, c̣n có một
vị thầy nữa: Ấn Quang đại sư. Nay chúng
ta học với hai vị: Học theo ngài Liên Tŕ và ngài Ấn
Quang. Do vậy, chúng ta đọc tụng, nghiên cứu, thảo
luận, phạm vi giới hạn trong Liên Tŕ Đại
Sư Toàn Tập và Ấn Quang Đại Sư Văn Sao. Chúng
ta có hai thứ ấy, quyết định có thể văng
sanh, quyết định chẳng bị hỏng chuyện.
Do vậy, tôi với mọi người có thân phận
đồng học, tôi học sớm hơn quư vị vài
năm, chỉ như thế mà thôi! Phải nhận biết
đường lối rơ ràng, thầy đă chọn chắc
rồi! Người hiện thời th́ sao? Tôi là phàm phu mắt
thịt, tôi nh́n không ra, chẳng dám, vạn nhất gặp
phải yêu ma quỷ quái, làm thế nào bây giờ? Chẳng
phải là hỏng mất đại sự ư? V́ thế,
đối với người hiện thời, chúng ta không
có huệ nhăn để chọn lựa, chúng ta t́m cổ
nhân. Cổ nhân được mọi người công nhận,
t́m cổ nhân tôn làm thầy, làm tư thục đệ tử
của cổ nhân sẽ không mắc khuyết điểm
quá lớn, chúng ta có thể an tâm. Do vậy, nếu quư vị
hỏi “thầy của ông là ai?” Thầy của tôi là Liên
Tŕ đại sư, mọi người chẳng nói ǵ
được nữa!
Tam, kết thán.
(Tự) Toại sử
thùy thủ đồ cần, ỷ môn không vọng, thượng
cô Phật hóa, hạ phụ kỷ linh, kim sanh dĩ cập
đa sanh, nhất ngộ nhi thành bách ngộ, cam tâm khổ
thú, thúc thủ tử môn, vô cứu, vô quy, khả bi, khả
thống.
三、結歎。
(序) 遂使垂手徒勤,倚門空望,上孤佛化,下負己靈。今生以及多生,一誤而成百誤,甘心苦趣,束手死門,無救無歸,可悲可痛。
(Ba,
kết lại lời than thở.
Tựa: Khiến cho [đấng Từ Phụ] uổng công
siêng khổ duỗi tay [tiếp dẫn], tựa cửa ngóng
nh́n suông, trên cô phụ sự giáo hóa của Phật,
dưới phụ bạc linh tánh của chính ḿnh, đời
này cùng nhiều đời, lầm lẫn một điều
thành trăm điều lầm lẫn, cam ḷng ở trong nẻo
khổ, bó tay nơi cửa tử, không được cứu,
không chỗ quay về, đáng buồn, đáng đau thay!)
Đây là tổng kết
ư nghĩa của đoạn văn trước đó: Những
kẻ tự cậy ḿnh thông minh, chẳng thuộc loại
cuồng huệ th́ cũng là tu mù, thật đáng tiếc!
Mấy câu này của đại sư cảm thán vô hạn.
(Diễn) Toại sử
thùy thủ đồ cần giả.
(演) 遂使垂手徒勤者。
(Diễn: Khiến cho [đấng
Từ Phụ] uổng công siêng khổ duỗi tay [tiếp
dẫn]).
Câu này nói về A Di
Đà Phật.
(Diễn) Di Đà từ
phụ, chung nhật thùy kim sắc tư, tiếp dẫn niệm
Phật chúng sanh, chúng sanh bất khẳng niệm Phật, thị
thùy thủ đồ cần.
(演) 彌陀慈父,終日垂金色臂,接引念佛眾生,眾生不肯念佛,是垂手徒勤。
(Diễn: Di Đà từ phụ,
suốt ngày duỗi cánh tay sắc vàng, nhằm tiếp dẫn
chúng sanh niệm Phật, nhưng chúng sanh chẳng chịu
niệm Phật, đó là “uổng công siêng năng duỗi
cánh tay”).
Quư vị thấy tượng
A Di Đà Phật duỗi tay. Thời thời khắc khắc
mong quư vị đến, quư vị chẳng chịu đến,
có cách nào bây giờ? Quư vị phải chịu đến, phải
niệm Phật. Pháp môn này chỉ cần đầy đủ
ba điều kiện: Tín, Nguyện, Hạnh. Đầy
đủ ba điều kiện này, chắc chắn văng
sanh. Ba điều kiện này là nội dung của bộ
kinh này. Do vậy, chúng ta tốn thời gian mấy năm
để nỗ lực nghiên cứu, thảo luận bộ
kinh này rất đáng công! Hiểu rơ lư luận, sẽ hiểu
phương pháp, tin sâu, phát nguyện, y giáo phụng hành, một
đời này của chúng ta là thân cuối cùng luân hồi trong
sáu nẻo của thế giới Sa Bà, đời sau chẳng
luân hồi nữa, đời sau vượt thoát lục
đạo. Chuyện này rất có ư nghĩa, chúng ta mới thật
sự chẳng bỏ uổng đời này. Con người
sống trong thế gian này, những “được, mất”
trong thế gian này là giả, chẳng thật, được
sanh về thế giới Tây Phương là thật, chẳng
giả! Do vậy, nhất định phải hiểu rơ
chân - giả, thị - phi.
(Diễn) Di Đà chung nhật vọng
chúng sanh cầu sanh Tịnh Độ, như từ mẫu
ỷ môn vọng tử, chúng sanh bất khẳng niệm Phật,
thị ỷ môn không vọng.
(演) 彌陀終日望眾生求生淨土,如慈母倚門望子,眾生不肯念佛,是倚門空望。
(Diễn: Phật Di Đà suốt
ngày mong chúng sanh cầu sanh về Tịnh Độ như
mẹ hiền tựa cửa ngóng chờ con, chúng sanh chẳng
chịu niệm Phật là “tựa cửa ngóng nh́n suông”).
Đây là nói tỷ dụ. Mấy câu dưới
đây là nói theo phương diện biểu thị pháp. Biểu
thị pháp rất trọng yếu; hiểu những pháp
được biểu thị th́ mới thật sự hiểu
được nghĩa thú trong bộ kinh này.
(Diễn)
Nhược ước Lư quán giả.
(演) 若約理觀者。
(Diễn: Nếu nh́n theo mặt
Lư th́...)
Nh́n từ mặt Lư.
(Diễn) Thủ biểu đề huề
chi bi.
(演) 手表提攜之悲。
(Diễn:
Bi tâm, [Phật duỗi tay] biểu thị
đại từ đại bi.
(Diễn) Mục biểu chiếu liễu
chi Trí.
(演) 目表照了之智。
(Diễn: Mắt biểu thị
Trí chiếu soi thấu suốt).
Con mắt biểu thị
trí huệ.
(Diễn) Đồng thể chi
bi, bất ly chúng sanh, vi thùy thủ thâm uyên. Tự nhiên chi
trí, biến tại lục thú, vi ỷ môn vọng tử.
(演) 同體之悲,不離眾生,為垂手深淵。自然之智,遍在六趣,為倚門望子。
(Diễn: Ḷng Bi đồng thể,
chẳng ĺa chúng sanh, là duỗi tay xuống tận vực
sâu. Trí tự nhiên trọn khắp sáu đường là tựa
cửa ngóng chờ con).
Mấy câu này thật
sự rất quan trọng, nói rơ mối quan hệ giữa
A Di Đà Phật và chúng ta. Nếu mối quan hệ này chẳng
mật thiết, chúng ta sẽ hoài nghi Ngài: Ngài muốn tôi
đến nơi đó là v́ ư ǵ? Tôi c̣n suy xét, so đo, để
khỏi bị Ngài lừa! Trước hết, phải hiểu
rơ mối quan hệ, nếu đó là người thân của
chúng ta như cha mẹ, quư vị sẽ an tâm, chẳng c̣n
phải đắn đo nữa. Vậy th́ A Di Đà Phật
rốt cuộc là người như thế nào đối
với chúng ta? Ngài và chúng ta có cùng một Thể. Nói ra
điều này chắc mọi người rất khó tin
tưởng! Quả thật chẳng dễ ǵ tin tưởng
được! Nhưng câu nào trong kinh điển cũng
là lời chân thật, tuyệt đối chẳng phải
là vọng ngữ. Nếu muốn hiểu rơ chuyện này,
phải đổ công sức kha khá nơi bộ Di Đà Sớ
Sao này. Một bộ Di Đà Sớ Sao là đủ rồi!
Nói thật ra, những lư luận ấy nằm trong Hoa
Nghiêm, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Viên Giác, nhưng kinh văn của
các bộ đại kinh, đại luận hoàn toàn
được trích dẫn trong bản chú giải Di Đà
Kinh Sớ Sao này. Do vậy, quư vị đọc bộ này
là đủ rồi, chẳng cần phải đọc những
bộ đại kinh, đại luận nữa, có bộ sách
này là được rồi!
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Ưng quán pháp giới tánh, nhất
thiết duy tâm tạo” (nên quán tánh pháp giới, hết thảy
chỉ do tâm tạo). Mười pháp giới, trên từ Phật,
Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, dưới là lục đạo
chúng sanh, được gọi là mười pháp giới.
Mười pháp giới do đâu mà có? Từ tự tánh của
chúng ta biến hiện ra. A Di Đà Phật và Tây
Phương Tịnh Độ chẳng ra ngoài lệ ấy,
từ tự tánh giác của chúng ta biến hiện ra. Hiện
tại, thế giới Sa Bà của chúng ta cũng do tự
tánh biến hiện ra, do tự tánh mê biến hiện ra.
Trong tự tánh của chúng ta có mê và ngộ, giác th́ biến
hiện thành cảnh giới của Phật, Bồ Tát; mê
th́ biến hiện thành cảnh giới của lục
đạo luân hồi. Trong khóa tụng chúng ta cũng đọc
thấy: “Tam thế nhất thiết
Phật, cộng đồng nhất Pháp Thân, nhất tâm, nhất
trí huệ” (Ba đời hết thảy Phật, cùng
chung một Pháp Thân, một tâm, một trí huệ), hoàn toàn
nói về tự tánh. Do vậy, nói theo tự tánh th́ gọi
là ḷng Bi đồng thể.
Chúng ta và A Di Đà Phật
có cùng một bản thể, Triết Học hiện đại
gọi [bản thể ấy] là bản thể của nhân
sinh vũ trụ. Chúng ta có cùng một bản thể, cùng một
căn bản. Do vậy, gọi là “đồng thể
đại bi, vô duyên đại từ”, “duyên” là điều
kiện, “từ” là yêu thương. “Vô duyên” là không có điều
kiện, là từ bi thật sự. Nếu quư vị chẳng
hiểu rơ đồng thể cho lắm, chúng tôi nêu lên một
tỷ dụ. Ví như tay trái của chúng ta bị muỗi
chích, tay phải liền xua đuổi nó.
(Diễn) Đồ cần
không vọng, thị Chân Như nội huân vô minh, nhi vô minh
toàn bất cố Chân Như dă.
(演) 徒勤空望,是真如內熏無明,而無明全不顧真如也。
(Diễn: “Uổng công siêng
năng, ngóng chờ suông” là Chân Như hun đúc vô minh bên
trong, nhưng vô minh hoàn toàn chẳng đoái hoài Chân Như).
“Chân Như nội huân vô minh” là A Di Đà Phật tiếp
dẫn; “vô minh toàn bất cố
Chân Như” là chúng ta chẳng muốn niệm Phật, chẳng
cầu văng sanh. Đây là nói theo Lư, nhưng cần hiểu rằng:
Lư là Lư trong Sự, Sự là Sự trong Lư, Lư và Sự là một,
chẳng phải hai. Hiểu rơ Lư, quư vị mới tin
tưởng Sự này; có tin tưởng Sự này th́ mới
có thể thông đạt Lư. Như vậy th́ mới có thể
thật sự đạt đến Lư Sự vô ngại.
Chúng sanh mê hoặc,
điên đảo, cô phụ sự giáo hóa của đức
Phật, “thượng cô Phật hóa” (trên phụ bạc
sự giáo hóa của Phật), chữ Phật ở đây
chỉ hai vị Phật: Thứ nhất là phụ bạc
Thích Ca Mâu Ni Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật dạy chúng ta,
chúng ta chẳng nghe, tự cho ḿnh là đúng, đó là cô phụ
sự giáo hóa của Phật. Đối với chúng sanh, đức
Phật giáo hóa mỗi người mỗi khác. Ví như cha
mẹ dạy con cái, cá tánh và tính t́nh của mỗi đứa
con khác nhau. Có đứa rất vâng lời, có đứa rất
ĺ lợm. Do vậy, chẳng thể dùng một
phương pháp để dạy bảo chúng nó. Đối
với chúng sanh rất vâng lời, dạy kẻ ấy niệm
A Di Đà Phật, cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ,
chẳng cần phải nhọc ḷng, nhất định
thành tựu. Đối với chúng sanh rất ĺ lợm,
dùng đủ mọi phương pháp để điều
phục kẻ ấy, rất cực ḷng! Phải tốn một
thời gian dài mới có thể thành tựu. Trong kinh, đức
Phật đă nói rất rơ ràng: “Thời
kỳ Chánh Pháp, Giới Luật thành tựu; thời kỳ
Tượng Pháp, Thiền Định thành tựu, thời
kỳ Mạt Pháp, Tịnh Độ thành tựu”. Nay chúng
ta đang sống trong thời kỳ Mạt Pháp, nếu quư
vị tu Tịnh Độ là rất vâng lời. Nếu quư
vị học Thiền, học Giới, tức là không chịu
nghe lời, cô phụ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Đồng thời lại cô phụ A Di Đà Phật. A Di
Đà Phật hằng ngày trông ngóng chúng ta sanh về Tây
Phương, chúng ta chẳng chịu về. Nhất định
phải hiểu rơ nỗi khổ tâm của Phật, Bồ
Tát. Do vậy, trên chẳng xứng với Phật, dưới
chẳng xứng với chính ḿnh. Nếu chính ḿnh không có
cơ duyên này th́ chẳng nói làm chi, cơ duyên khó có
được! Thật sự đúng như trong bài Khai
Kinh Kệ đă nói, “trăm
ngàn vạn kiếp khó gặp gỡ”. Đời này,
chúng ta thật sự nhiều thiện căn, nhiều
phước đức, nên mới gặp được
duyên phận này, quả thật chẳng dễ ǵ gặp
được! “Hạ phụ
kỷ linh” (dưới là phụ bạc linh tánh của
chính ḿnh), chúng ta gặp được, nếu chẳng chịu
học đàng hoàng, tức là cô phụ chính ḿnh. Nếu quư
vị suy nghĩ nhiều phen, [sẽ thấy] cửa Phật
rộng lớn, tám vạn bốn ngàn pháp môn, cớ sao quư vị
gặp đúng một môn này? Đúng là chẳng dễ dàng.
Do vậy, gặp được th́ phải thật sự
tu. Quư vị chẳng chịu nỗ lực, [tức là] cô
phụ chính ḿnh đấy!
(Diễn) Kim sanh, đa sanh, nhất
ngộ bách ngộ giả, kim sanh ngộ thử thù thắng
pháp môn.
(演) 今生多生,一誤百誤者,今生遇此殊勝法門。
(Diễn: “Đời này, nhiều
đời, lầm một, lầm cả trăm”: Đời
này gặp được pháp môn thù thắng này).
Thật đúng là thù
thắng.
(Diễn) Như cửu
khách tha hương, sạ văn gia tín, ưng
đương dũng mănh tinh tấn, cầu nguyện văng
sanh.
(演) 如久客他鄉,乍聞家信,應當勇猛精進,求願往生。
(Diễn: Như khách xa quê lâu
ngày, vừa mới nghe tin nhà, hăy nên dũng mănh, tinh tấn
cầu nguyện văng sanh).
Chúng ta từ vô thỉ
kiếp đến nay sanh tử luân hồi trong lục
đạo, đây là nỗi sỉ nhục không chi lớn bằng!
Những người cùng ở với chúng ta trong thuở ấy,
ai sẽ thành Phật th́ đă thành Phật, ai nguyện làm
Bồ Tát th́ đă là Bồ Tát, chúng ta vẫn ở trong sanh
tử luân hồi, chúng ta phải nên cảnh giác điều
này. Đừng nói đời quá khứ, hăy nói về đời
hiện tại này, trong số các đồng tu, tôi vừa
mới nhắc tới cư sĩ Sử Hoằng Hy, cụ
đă văng sanh, đă giải thoát rồi, đúng là ĺa khỏi
tam giới lục đạo. Nay chúng ta vẫn chưa xuất
ly! Sử cư sĩ cả đời thất ư trên con đường
công danh: Sau khi đất nước độc lập, cụ
làm tư lệnh quân đồn trú ở Cơ Long; tiên sinh
Bành Mạnh Tập làm tư lệnh quân đội đồn
trú ở Cao Hùng, đường công danh rất đắc
ư, c̣n đường công danh của cụ Sử chẳng
thuận lợi! Sau khi làm tư lệnh quân đồn trú,
cụ làm sĩ quan tham mưu cao cấp tại Bộ Quốc
Pḥng măi cho đến khi nghỉ hưu. Suốt đời
chẳng toại chí. Do vậy, cụ thật thà niệm Phật,
nay cụ đă thành Phật, chúng ta đâu thể sánh bằng!
V́ thế, được hay mất không nhất định,
mất cái này, được cái khác. Cái mà cụ thật sự
đạt được lần này không một ai có thể
sánh bằng. Đây là một vị đồng tu ở ngay
trước mắt chúng ta, chúng ta phải nỗ lực
theo gót cụ, chớ nên tụt hậu. Nếu chúng ta văng
sanh, vẫn phải bị bệnh một trận rồi mới
văng sanh th́ chúng ta vẫn chẳng bằng cụ, cụ
không bị bệnh! Đấy mới là chẳng cô phụ
chính ḿnh, mới là chẳng cô phụ những vị lăo
đồng tham. Tu những pháp môn khác, chẳng trông cậy
được, thật đấy! Chúng ta thấy rất
nhiều trường hợp nhăn tiền rồi! Do vậy,
hăy nên dũng mănh, tinh tấn
cầu nguyện văng sanh.
(Diễn) Nhi năi du du
dương dương, mạc nhiên bất cố, khởi
phi đại ngộ?
(演) 而乃悠悠揚揚,漠然不顧,豈非大誤。
(Diễn: Mà cứ rề rà, mặc
kệ chẳng đoái hoài, há chẳng phải là lầm lẫn
to lớn ư?)
Như vậy th́ sẽ
làm hỏng đại sự liễu sanh tử đấy
nhé! Đời này trong thế gian, chúng ta phải coi đại
sự sanh tử là chuyện lớn bậc nhất, chuyện
ǵ lầm lẫn cũng chẳng sao, chuyện này chẳng
thể lỡ làng được! Nếu lỡ làng đời
này, phiền phức lớn lắm!
(Diễn) Hựu bất
duy kim sanh chi ngộ, kim sanh dĩ cập đa sanh, nhất
ngộ nhi thành bách ngộ dă.
(演) 又不唯今生之誤,今生以及多生,一誤而成百誤也。
(Diễn: Lại nữa, chẳng
phải chỉ lầm lạc đời này, mà đời
này cùng với nhiều đời, lầm lạc một
điều, trở thành trăm điều lầm lạc).
Nếu chúng ta bỏ uổng
đời này, đời sau có được làm thân
người hay chăng? Chẳng dám quả quyết! Nếu
muốn đời sau được làm thân người,
đời này quư vị phải thực hiện Ngũ Giới
Thập Thiện th́ mới đạt tới tiêu chuẩn.
Tuy đă thọ Ngũ Giới, thậm chí thọ Bồ
Tát Giới, nhưng quư vị chưa làm đúng cách th́ vô
ích! Khó! Quá ư là khó! Trong kinh điển, đức Phật
đă nói rất nhiều: Sau khi đă mất thân người,
lại được làm thân người là chuyện hết
sức khó khăn! Dẫu được làm thân người,
có cơ hội nghe nói tới Phật pháp hay không? Quư vị
thấy toàn thế giới ngày nay có bốn mươi ức
người, bao nhiêu người được nghe Phật
pháp? Tỷ lệ không cân xứng! Quư vị có được
may mắn như thế hay chăng? Có được nghe
Phật pháp hay chăng? Dẫu được nghe Phật
pháp, có được nghe Tịnh Độ nữa hay
chăng? Người nghe Phật pháp cũng chẳng ít, có
mấy ai được nghe Tịnh Độ? Cứ loại
bỏ từng tầng một, loại trừ đến
cuối cùng, chẳng c̣n sót lại mấy ai! Do vậy,
đời này chúng ta gặp được cơ duyên này,
quyết định chẳng để luống uổng.
Đời quá khứ, có lẽ là chúng ta cũng bỏ lỡ
nhiều lượt rồi, đời này chớ nên bỏ
lỡ lần nữa! Dưới đây, sách Diễn
Nghĩa dẫn một câu nói của cổ nhân để kết
luận.
(Diễn) Cổ
vân: “Hiệp lộ tương phùng như bất tiến,
giá hồi yếu kiến định hoàn nan”, thị dă.
(演) 古云:狹路相逢如不薦,這回要見定還難,是也。
(Diễn: Cổ nhân nói: “Đường
hẹp gặp nhau không đón lấy, lần sau muốn gặp
khó khôn cùng!” là nói về chuyện này vậy)
Đây là tỷ dụ
những ư nghĩa vừa được nói trên đây, nhất
định phải thành tựu, chẳng thể lỡ làng
lần nữa! Nếu chẳng sốt sắng tu học,
chính là quư vị “cam tâm khổ
thú, thúc thủ tử môn, vô cứu, vô quy, khả bi, khả
thống” (đành ḷng ở trong nẻo khổ, bó tay
nơi cửa tử, không ai cứu, không nơi quay về,
đáng buồn, đáng đau). “Khổ
thú” là lục đạo luân hồi trong thế giới
Sa Bà. Quư vị cam tâm luân hồi trong lục đạo, c̣n
có cách nào nữa đây? Đời người có ư nghĩa
ǵ? Đời người có ǵ đáng giá? Ngày nay, nhiều
người cao đàm khoát luận (bàn luận những chuyện
viễn vông, thiếu thực tế), bàn luận ư nghĩa
và giá trị của đời người. Thật ra, nói
xuyên suốt th́ đời người từ lúc lọt
ḷng cho đến khi bước vào mộ, mỗi ngày càng gần
[cái chết] hơn, chẳng chịu bỏ lỡ mỗi
phút, mỗi giây nào, đời người có ư nghĩa
như vậy đó, có giá trị như vậy đó, đợi
đến khi Diêm Vương bắt, quư vị mang theo
được thứ ǵ ra đi? Thứ ǵ cũng chẳng
mang theo được. Nói cách khác, chẳng có ai không
đang chờ chết! Phải giác ngộ, đấy chính
là “bó tay nơi cửa tử, không
ai cứu, không chỗ quay về”! Có thể trốn thoát
hay chăng? Được chứ! Người chịu niệm
Phật, thật sự có thể thoát khỏi sự khống
chế của vua Diêm La, quư vị phải chịu tu!
Năm nay, tôi ở ngoại
quốc hơi lâu một chút, ở Hương Cảng hai
tháng, ở nước Mỹ bảy tháng. Sau khi trở về,
nghe có người nói: Tôi muốn bỏ lửng, không trông
nom đạo tràng này, bỏ chạy, có rất nhiều
nơi trách móc. Thật ra, nếu mọi người chịu
lắng ḷng suy nghĩ, quư vị sẽ hiểu đấy
là chuyện tôi nên làm. Đặc biệt là ở Mỹ, tại
Mỹ không có Tịnh Độ. Tại Mỹ cũng không
có ai dám nói Tịnh Độ, v́ sao? Quư vị nói Tịnh
Độ, mọi người sẽ chê cười. V́ sợ
người ta chê cười, dẫu chính ḿnh niệm Phật,
nhưng người ta hỏi tới, vẫn chẳng dám
thừa nhận ḿnh là người niệm Phật, vẫn
phải nói tôi tham Thiền, vẫn phải nói giả dối,
khởi vọng ngữ, giữ thể diện, quư vị
nói xem c̣n có cách nào nữa chăng? Tôi sang Mỹ hoằng
dương Tịnh Độ, lót đường từ ba
năm trước. Do vậy, năm đầu tiên tôi không
giảng Tịnh Độ, mà giảng Mật, giảng Thiền,
tôi biết giảng! Tôi ở Mỹ quốc giảng kinh
Kim Cang, Lục Tổ Đàn Kinh, giảng Mật cũng chẳng
ít, lót đường mà! Rồi tôi bảo họ: Thiền
và Mật tôi đều hiểu, tôi chẳng phải là kẻ
không thông hiểu [những pháp môn ấy]. Giáo tôi cũng hiểu,
năm ngoái, tôi sang đó giảng kinh Hoa Nghiêm. Năm nay, tôi
sang đó giảng Tịnh Độ, mọi người
chẳng dị nghị. Những ǵ quư vị hiểu tôi đều
hiểu, tức là tôi hiểu những pháp đó, chứ quư
vị vẫn chưa hiểu! Cho nên rất nhiều người
học Thiền, học Mật đều quay đầu.
Có người quay đầu hoàn toàn, có người quay
đầu nửa chừng, quay đầu nửa chừng
là sao? Khi họ nghe giảng th́ tin tưởng, cũng niệm
Phật. Quư vị hỏi họ: “Ông c̣n cần đến
Thiền và Mật hay không?” “Tôi tạm thời vẫn
chưa buông xuống được!” Vẫn là muốn thử
xem có linh hay không! C̣n thử xem linh hay không là quay đầu
nửa chừng, chưa quay đầu hoàn toàn! Đủ
thấy là tôi sang ngoại quốc chẳng uổng công, quả
thật đă khiến cho không ít người quay đầu.
Quay đầu là bờ!
(Sớ) Thùy thủ giả, cổ
vân: “Tẩu nịch viện chi dĩ thủ”. Ỷ môn giả,
Vương Tôn Cổ mẫu vân: “Nhữ triêu xuất nhi bất
hoàn, tắc ngô ỷ môn nhi vọng”.
(疏) 垂手者,古云:嫂溺援之以手。倚門者,王孫賈母云:汝朝出而不還,則吾倚門而望。
(Sớ: “Duỗi tay” là như
cổ nhân nói: “Chị dâu chết đuối, [em chồng]
đưa tay cứu giúp”. “Tựa cửa” là như mẹ ông
Vương Tôn Cổ nói: “Buổi sáng ngươi ra khỏi
nhà [mà tối] chưa về, ta tựa cửa trông ngóng”).
Những điều này
không cần phải nói nhiều. “Duỗi tay” và “tựa
cửa” đều có điển cố, đều là những
từ ngữ có xuất xứ.
(Sớ) Kim vị chúng
sanh một ư khổ thú.
(疏) 今謂眾生沒於苦趣。
(Sớ: Ở đây có ư nói:
Chúng sanh ch́m đắm trong nẻo khổ).
“Một” (沒) có nghĩa là thoạt xuất
hiện, thoạt biến mất. “Khổ thú”: Nói thật ra, sáu nẻo đều khổ,
chứ chẳng phải chỉ có tam đồ. Tam đồ
quá khổ! Nay chúng ta sanh trong nhân gian, hăy suy nghĩ cặn kẽ,
trong thế gian này có vui sướng hay chăng? Nếu nói
thế gian có vui sướng, quư vị đă mê hoặc,
điên đảo. Nếu quư vị hiểu đời
người là khổ, quư vị đă giác ngộ. Thế
gian không có vui, chỉ có khổ, chẳng vui!
Vui là ǵ? Vui là khổ tạm
thời ngưng nghỉ. Quư vị cảm thấy vui, thật
ra là [khổ] tạm ngừng mà thôi! Ví như quư vị một
bữa không ăn, đói bụng rất khổ, đến
khi cho quư vị ăn một bữa, vui sướng, chữa
trị cái bệnh khổ ấy. Thế nhưng mấy tiếng
đồng hồ sau lại không được rồi, bệnh
khổ lại đổ ra, lại phải trị liệu
lần nữa. Đấy là rất khổ! Thân thể này
là cái thân bệnh, bị bệnh đói, mỗi ngày phải
“uống thuốc” ba lần, mỗi lần không uống thuốc
sẽ chẳng cảm thấy tự tại. Quư vị thật
sự nghĩ thông suốt chuyện này, sẽ hiểu con
người thật sự khổ sở, chẳng vui
sướng. Trời lạnh phải mặc y phục, trời
nóng phải toát mồ hôi, khổ quá! Sao không khổ cho
được? Đến Tây Phương Cực Lạc
thế giới, không có những nỗi khổ ấy, hằng
ngày chẳng cần ăn, không ăn cơm bao năm cũng
chẳng đói, tự tại lắm! Chúng ta thường
nói “vị y thực bôn ba” (bươn chải v́ cơm áo),
Tây Phương Cực Lạc thế giới không nghe nói những
lời này! Có chỗ tốt lành này, chúng ta nhất định
muốn sang đó mới là người thông minh. “Một ư khổ thú” (ch́m đắm
trong nẻo khổ), tam giới đều là khổ!
(Sớ) Phật viện
chi như thùy thủ thâm uyên.
(疏) 佛援之如垂手深淵。
(Sớ: Phật giúp đỡ
như duỗi tay [cứu người sa chân nơi] vực
thẳm).
Đức Phật
đến giúp đỡ chúng ta, làm Tăng Thượng
Duyên cho chúng ta, giống như chúng ta rơi trong biển cả
rất sâu, đức Phật duỗi tay giúp đỡ, cứu
độ chúng ta.
(Sớ) Chúng sanh bối
giác hiệp trần, Phật niệm chi như ỷ môn vọng
tử.
(疏) 眾生背覺合塵,佛念之如倚門望子。
(Sớ: Chúng sanh trái nghịch
tánh giác, xuôi theo trần lao, đức Phật nghĩ nhớ như mẹ tựa
cửa ngóng con).
“Giác” (覺) là giác ngộ,
“trần” (塵) là trần lao, mê hoặc. Chúng
sanh trái nghịch tánh giác của chính ḿnh, tâm bị cảnh
giới xoay chuyển, “trần”
là lục trần. Tâm chuyển theo cảnh, khổ lắm!
Hôm nay có đồng tu đến hỏi tôi: Trong nhà ông ta thờ
một bức tượng Thích Ca Mâu Ni Phật, có người
bảo ông ta: “Không được! Thờ tượng Phật
th́ hết thảy duyên phận đều chẳng dám đến
nhà nữa”. Tôi nói: “Duyên phận ǵ?” [Ông ta trả lời]:
“Thăng quan, phát tài, sanh con đẻ cái, những duyên phận
ấy đều chẳng dám tới”. Tôi bảo ông ta: “Ai bảo
ông thế?” Ông ta nói: “Có người bảo với con”. “Tôi
cho ông biết: Kẻ ấy là yêu ma quỷ quái! Từ
xưa đến nay, hoặc ngay trong hiện tại, bao
nhiêu người thờ h́nh tượng Phật, Bồ Tát,
trong nhà chuyện ǵ cũng cát tường như ư”. Quư vị
hăy đọc A Nan Vấn Sự Phật Cát Hung Kinh, cúng
dường Phật, Bồ Tát, chỉ có kẻ nào chẳng
dám tới? Yêu ma quỷ quái chẳng dám đến cửa.
Kẻ nói lời ấy đúng là yêu ma quỷ quái, mong quư vị
sẽ vứt tượng Phật, Bồ Tát đi để
chúng nó vào cửa cho tiện. Hiện thời, quá nhiều lời
lẽ bịa đặt, yêu ngôn mê hoặc ḷng người,
trong tâm chúng ta luôn phải hiểu rơ! Nói cách khác, người
học Phật đừng nên đoán mạng, xem tướng,
xem Phong Thủy, đừng dùng tới chúng! Người học
Phật không ǵ chẳng tự tại, không ǵ chẳng cát
tường. Phong Thủy tốt là ǵ? Quư vị thấy
đó, trong tâm rất hoan hỷ, rất thỏa ư, đó là
Phong Thủy tốt. Đừng nghe những lời bịa
đặt đồn thổi của kẻ khác, thật
đáng thương! Bị người ta lợi dụng,
nói những câu khó nghe, bị người khác xoay ṃng ṃng,
đó mới là ngu si! Do vậy, đừng tin tưởng
những thứ đó, phải tin vào chính ḿnh. Niệm niệm
thân tâm thanh tịnh, hăy nên trái trần, hiệp giác, đó mới
là đúng. Đừng bị cảnh giới chuyển, phải
chuyển cảnh giới!
(Sớ) Viện chi tuy ân,
niệm chi tuy thiết, thâm trầm bất khởi, viễn
thệ vô hoàn, thị cô Phật hóa dă.
(疏) 援之雖殷,念之雖切,深沉不起,遠逝無還,是孤佛化也。
(Sớ: Tuy giúp đỡ ân cần,
dẫu nghĩ nhớ thiết tha, nhưng [ḷng phát nguyện
cầu sanh Tịnh Độ] ch́m sâu, chẳng dấy lên,
trốn đi xa chẳng trở về, đó là cô phụ sự
giáo hóa của Phật vậy).
Những điều
này đều nhằm tỷ dụ [chúng sanh] cô phụ sự
giáo hóa của Phật, chẳng chịu quay đầu.
(Sớ) Hạ phụ giả.
(疏) 下負者。
(Sớ: Dưới là phụ
bạc...)
“Hạ phụ” là cô phụ chính ḿnh.
(Sớ) Phàm quyết hữu
tâm, định đương tác Phật.
(疏) 凡厥有心,定當作佛。
(Sớ: Phàm những ai có tâm,
nhất định sẽ thành Phật).
Câu này có nghĩa là phàm
những ai có tâm, đều có thể thành Phật, nhất
định thành Phật. Vậy th́ phải hỏi: Quư vị
có tâm hay không? Quư vị có tâm! Mắt có thể thấy, tai
có thể nghe, đó là tâm. Đă có thấy, nghe, hay, biết,
lẽ đâu chẳng thể thành Phật? Ở đây, tôi
muốn bảo quư vị Phật là ǵ, phải nhận thức
rơ ràng. “Trí giác viên măn” th́ gọi
là Phật. Nói cách khác, quư vị có trí huệ viên măn, có giác
tánh viên măn, sự viên măn này vốn sẵn viên măn. Trong kinh
Hoa Nghiêm và Viên Giác, đức Phật đă nói rất rơ
ràng, những kinh điển khác không nói, v́ đây chẳng
phải là những điều đức Phật thường
nói. Trong những bộ kinh ấy (tức kinh Hoa Nghiêm và
Viên Giác), đức Phật nói lời chân thật, “nhất thiết chúng sanh bổn
lai thành Phật” (hết thảy chúng sanh vốn sẵn
thành Phật), vốn sẵn là Phật! Vốn sẵn là Phật,
mà nay quư vị biến thành phàm phu là v́ quư vị đă trái
nghịch giác tánh của chính ḿnh, mê mất rồi! Tuy là mê,
trí huệ viên măn và giác tánh viên măn của quư vị có bị
tổn thất hay chăng? Chắc chắn chẳng bị
tổn thất, vẫn là viên măn, nhưng chính quư vị
không thừa nhận, tự ḿnh quên mất. Khi nào quư vị
giác ngộ, nó sẽ viên măn y như cũ. Giác tánh đă vốn
có th́ chúng ta có thể khôi phục hay chăng?
Đương nhiên là có thể khôi phục! Mê là hư vọng,
là giả, nhất định có thể đoạn
được! Giác là chân, chắc chắn có thể chứng
đắc. Chính ḿnh phải có tín tâm. Do vậy, nhất
định sẽ thành Phật.
(Sớ) Cố Phật
giáo tŕ danh.
(疏) 故佛教持名。
(Sớ: Do vậy, Phật dạy
tŕ danh).
Đây là một
phương pháp thiện xảo nhất để quư vị
phá mê, khôi phục sự viên giác của chính ḿnh: Niệm Phật.
Niệm A Di Đà Phật, hoặc là niệm sáu chữ
“Nam-mô A Di Đà Phật”, sáu chữ này đều là tiếng
Phạn, thật sự chẳng khác ǵ thần chú. Mật
Tông tŕ chú, Nam-mô A Di Đà Phật là vô thượng chú. Cuối
Tâm kinh có nói: “Thị đại
thần chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng
đẳng chú” (là đại thần chú, là chú vô thượng,
là chú không ǵ sánh bằng), chú ấy là ǵ? A Di Đà Phật
là đại minh chú, là chú vô thượng, là chú không có ǵ
sánh bằng. Tôi giảng Tâm Kinh là giảng theo cách này. Nam-mô
có nghĩa là quy y, A dịch là Vô, Di Đà dịch là Lượng,
Phật dịch là Giác, dịch hoàn toàn sang nghĩa tiếng
Hán là “quy y Vô Lượng Giác”. Giác là chẳng mê! Quy là trở
lại, từ đâu mà trở lại? Từ mê quay trở
lại, nương theo Giác. Vô lượng là thứ ǵ ta
cũng phải giác. Do vậy, niệm một câu Phật hiệu
này, thứ ǵ cũng phải giác! Câu Phật hiệu này nhắc
nhở quư vị thời thời khắc khắc phải
giác ngộ, giác chứ không mê. Giác chẳng mê là Phật, mê
chẳng giác là phàm phu. Do vậy, nhất định sẽ
thành Phật. Đức Phật dạy chúng ta phương
pháp thiện xảo như vậy đó!
(Sớ) Dục nhân niệm
ngă tự tâm, thành ngă tự Phật.
(疏) 欲人念我自心,成我自佛。
(Sớ: Muốn cho con người
niệm tự tâm của chính ḿnh, thành vị Phật của
chính ḿnh).
Hiểu ư nghĩa này rồi,
Phật hiệu là tự tâm của chính ḿnh. Quy y Vô Lượng
Giác là quy y giác tánh của chính ḿnh. Do vậy, niệm Phật
là niệm giác tánh của chính ḿnh, thành “tự Phật”, chứ
không phải vị Phật của ai khác. Thật sự có
một vị A Di Đà Phật, Ngài đă thành tựu
như vậy, Ngài đem phương pháp này dạy chúng ta.
Dạy chúng ta để ai nấy đều có thể thành
tựu, nhưng sợ chúng ta c̣n có chướng ngại, gặp
khó khăn, nên kiến lập một đạo tràng ở
Tây Phương để giúp đỡ chúng ta, giúp cho chúng
ta thành tựu. Cơ duyên này quả thật quá thù thắng.
(Sớ) Nhi mạc nhiên bất
tín, ninh bất phụ kỷ linh hồ.
(疏) 而漠然不信,寧不負己靈乎。
(Sớ:
Mà vẫn lơ là chẳng tin, há chẳng phải là phụ
bạc linh tánh của chính ḿnh ư?)
Đối với Lư Sự
chân thật trong chương này, nếu chúng ta chẳng tin
tưởng, chẳng chịu phát nguyện, chẳng chịu
tu học, đấy thật sự là cô phụ chính ḿnh.
Hôm nay đă hết giờ rồi!
Tập 36
Xin xem
A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang
bốn mươi sáu:
(Sớ) Kim sanh đa sanh
giả, sanh sanh đọa lạc, vô hữu cùng dĩ dă. Nhất ngộ, bách ngộ giả,
thử sanh tha quá, đa kiếp nan phùng dă. Nhập khổ
thú, tự dăng thư ốc ư xí trung. Phó tử môn, loại
ngưu dương tựu hồ đồ tứ, mạc
vị cứu bạt, vô khả quy bằng, khởi bất
ai tai?
(疏) 今生多生者,生生墮落,無有窮已也。一誤百誤者,此生磋過,多劫難逢也。入苦趣,似蠅蛆飫於廁中。赴死門,類牛羊就乎屠肆。莫為救拔,無可歸憑,豈不哀哉。
(Sớ: “Đời
này, nhiều đời”: Đời đời đọa
lạc chẳng có cùng tận. “Một lầm, trăm lầm”
là đời này bỏ lỡ, nhiều kiếp khó gặp.
Vào nẻo khổ, dường như gịi tửa no ứ
trong nhà xí; vào cửa tử giống như trâu, dê bước
vào ḷ mổ, chẳng được cứu vớt, không chỗ
nương về, há chẳng đau buồn ư?)
Đoạn này dễ
hiểu, nói rơ đời này và nhiều đời đă lầm
lạc mà vẫn lầm lạc.
Tứ, thuật ư.
四、述意。
(Bốn,
nêu bày dụng ư [viết Sớ Sao]).
Đoạn này là Liên
Tŕ đại sư tự tŕnh bày dụng ư v́ sao Ngài chú giải
kinh Di Đà.
(Tự) Châu Hoằng.
(序) 袾宏。
(Tựa:
Châu Hoằng).
Hai chữ Châu Hoằng
là pháp danh của đại sư. Phàm tự xưng, bất
luận trong khi nói hoặc trong khi viết, đều nên
dùng lối khiêm hư. Khiêm hư nhất là xưng danh, tự
khiêm; người khác gọi Ngài sẽ chẳng thể gọi
thẳng tên, gọi thẳng tên là thiếu cung kính nhất.
Đó là lễ nghi thời cổ. Con người hiện
thời gặp mặt bèn gọi tên, c̣n gọi đủ cả
tên lẫn họ. Trong thời cổ, điều này nhất
định không thể được! Kẻ phạm tội
mới gọi cả tên lẫn họ. B́nh thường kêu
tên chỉ có hai hạng người có thể kêu, thứ nhất
là cha mẹ, thứ hai là thầy. Người khác gọi
chúng ta th́ sao? Gọi tên tự. Khách sáo hơn th́ gọi tên
hiệu, chúng ta gọi Ngài là Liên Tŕ đại sư. Liên
Tŕ là hiệu của Ngài, tôn kính Ngài [th́ gọi bằng tên
hiệu]. Chắc chắn Ngài chẳng thể tự
xưng là Liên Tŕ, do trong quá khứ khiêm hư. Trước
kia, ngay cả đế vương đối với bầy
tôi cũng phải gọi tên tự của họ, cũng
chẳng thể gọi tên thật! Nếu [bị vua chúa] gọi
thẳng tên, tức là [kẻ bầy tôi ấy] đă phạm
tội.
(Tự) Mạt pháp hạ
phàm.
(序) 末法下凡。
(Tựa: Là phàm phu hạ
căn đời Mạt Pháp).
Ngài sanh trong thời
đại Mạt Pháp. Pháp vận của Phật gồm ba
thời kỳ: Chánh Pháp, Tượng Pháp, và Mạt Pháp. [Pháp
vận của] mỗi vị Phật đều có ba thời
kỳ, nhưng ba thời kỳ ấy dài ngắn không nhất
định. Một mặt là do nguyện lực của từng
vị Phật, mặt khác là do quả báo của chúng sanh. Chúng
sanh có phước, pháp vận của Phật sẽ dài.
Chúng sanh chẳng có phước báo, pháp vận của Phật
bèn ngắn ngủi. Đấy là cách nói thông thường.
Chánh Pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật – nói “Chánh Pháp” là kể từ sau khi đức Phật
diệt độ – khoảng cách c̣n chưa xa, di giáo và giáo
pháp thời đức Phật tại thế chẳng khác
nhau, hết sức thuần chánh. Chúng ta gọi thời kỳ
ấy là Chánh Pháp. Đến thời Tượng Pháp, thời
gian ấy cách lúc Phật diệt độ đă xa, có kinh
nói là một ngàn, có kinh nói là do phụ nữ xuất gia,
Chánh Pháp bị giảm thiểu năm trăm năm, Chánh
Pháp chỉ c̣n năm trăm năm. Chúng tôi cũng không bàn
luận điều này, bất luận là năm trăm
năm cũng được, mà một ngàn năm cũng
xong, nói chung, chúng ta nay đang sống trong thời kỳ Mạt
Pháp. Tượng Pháp là một ngàn năm, tức là một
ngàn năm thứ hai sau khi đức Phật diệt độ,
cách Phật đă xa. Pháp càng lưu truyền càng sai ngoa, truyền
lâu ngày đă bị biến chất, đấy là đạo
lư nhất định. V́ truyền lâu ngày, có nhiều ư kiến
của người khác xen vào, chẳng thuần nữa. Tuy
chẳng thuần, vẫn tương tự, vẫn giống.
Đến thời kỳ Mạt Pháp, sau khi Phật diệt
độ đă hai ngàn năm, tức là một ngàn năm
thứ ba. Thời kỳ ấy gọi là Mạt Pháp. Mạt
Pháp dài một vạn năm. Do vậy, pháp vận của
Thích Ca Mâu Ni Phật tổng cộng là một vạn hai
ngàn năm. Thời kỳ Mạt Pháp cách Phật càng xa. Nói
cách khác, so với Tượng Pháp càng sai
khác hơn nhiều. Chiếu theo sách vở Trung Quốc ghi
chép từ xưa đến nay, kể từ Thích Ca Mâu Ni Phật
diệt độ đến nay là ba ngàn lẻ mười
hai năm. Trong Hư vân Lăo Ḥa Thượng Niên Phổ
có khảo chứng, dựa theo những ghi chép xa xưa của
Trung Quốc, Thích Ca Mâu Ni Phật xuất sanh nhằm
năm Giáp Dần (1027 trước Công Nguyên) đời Châu
Chiêu Vương, tính từ niên đại ấy,
Thích Ca Mâu Ni diệt độ cách hiện
tại ba ngàn lẻ mười hai năm[5].
(Diễn) Mạt Pháp
đối Chánh Tượng ngôn.
(演) 末法對正像言。
(Diễn: Mạt Pháp là đối
với Chánh Pháp và Tượng Pháp mà nói).
Đối ứng với
Chánh Pháp và Tượng Pháp để nói.
(Diễn) Chánh giả, chứng
dă. Dĩ Hiện Lượng Trí, chứng Thật Tướng
Lư, sơ nhất thiên niên, hữu giáo hành lư quả, cố
viết Chánh dă.
(演) 正者,證也,以現量智,證實相理。初一千年,有教行理果,故曰正也。
(Diễn: Chánh là chứng. Dùng
Hiện Lượng Trí để chứng Thật Tướng
Lư, trong một ngàn năm thứ nhất có giáo, hành, lư, quả,
nên nói là Chánh).
Phật pháp hết sức
viên măn, hết sức đầy đủ, có giáo pháp, hành
pháp, lư pháp và quả pháp. Trong thời đại Chánh Pháp, người
chiếu theo Phật pháp tu hành chứng quả hết sức
nhiều. Hiện Lượng Trí là ǵ? Hiện Lượng
là đối với Tỷ Lượng mà nói. Hiện
Lượng là hiện tiền, tức là trí huệ do ta
đích thân chứng được. Trí huệ chân thật
chứng đắc lư Như Như[6] của vũ trụ và nhân sinh, hiện thời gọi
là “chân lư”; trong Phật pháp gọi [chân lư ấy] là Thật
Tướng. Thật Tướng là tướng chân thật.
Nay chúng ta thấy hết thảy tướng chẳng phải
là tướng chân thật, mà là tướng hư vọng.
Tướng chân thật rốt ráo là như thế nào? Nói
xuyên suốt th́ tướng chân thật và tướng
hư vọng không khác nhau, là một. Đă là một, v́ sao
có chân và vọng? Nếu chúng ta dùng chân tâm, sẽ thấy cảnh
giới hiện tại là tướng chân thật. Nếu
dùng vọng tâm, sẽ thấy cảnh giới bên ngoài là
tướng hư vọng. Tướng chuyển theo tâm, đạo
lư là như vậy đó. Chân tâm là tâm chẳng sanh chẳng
diệt. Tâm có sanh và diệt là vọng tâm. Trong vọng tâm có
sanh diệt. Chân tâm và vọng tâm chúng ta đều có đủ;
không có chân, làm sao có vọng? Vọng do chân mà khởi. Chân tâm
là cái tâm thanh tịnh của chúng ta. Nay chúng ta dùng pháp môn Niệm
Phật cầu nhất tâm bất loạn; nhất tâm bất
loạn là chân tâm của chính ḿnh. Chân tâm của chúng ta chẳng
thể hiện tiền, v́ sao? Vọng niệm quá nhiều!
Vọng niệm quá nhiều th́ gọi là vọng tâm. Do vậy,
pháp môn Niệm Phật nhằm khôi phục chân tâm của
chúng ta. Nếu chúng ta khôi phục chân tâm, quư vị sẽ thấy
cảnh giới trước mắt là Thật Tướng.
Thật Tướng rốt
ráo là như thế nào? Thật Tướng: Tướng
bên ngoài cũng bất sanh, bất diệt, mầu nhiệm
đến cùng cực! Quư vị nói: Tôi không tin tưởng!
Rành rành là có sanh diệt, sao lại nói bất sanh, bất diệt?
Thưa quư vị, bất sanh bất diệt là thật, sanh
diệt là giả! Do tâm quư vị sanh diệt, quư vị thấy
tướng bên ngoài là tướng sanh diệt. Nếu tâm
quư vị chẳng sanh diệt, sẽ thấy tướng
bên ngoài là tướng chẳng sanh diệt. Đây rốt
ráo chẳng phải là cảnh giới hiện tiền của
chúng ta, chúng ta không có cách nào lư giải được!
Nhưng chúng ta có thể dùng tỷ dụ để giảng
rơ. Không thể tỷ dụ khít khao được, chỉ
có thể dựa theo tỷ dụ để suy tưởng.
Ví như chúng ta dùng một tấm gương để soi
cảnh giới bên ngoài, tấm gương bất sanh bất
diệt, những tướng hiện bóng trong gương cũng
bất sanh bất diệt. Điều này dễ hiểu. Nếu
chúng ta dùng máy chiếu phim [để tỷ dụ] th́ ống
kính đóng mở, đóng mở là nó có sanh diệt, chiếu
tướng cảnh giới bên ngoài, tướng ấy
cũng là tướng sanh diệt. Quư vị thấy cuộn
phim gồm nhiều tấm. Nay chúng ta dùng cái tâm vọng
tưởng, cái tâm suốt ngày từ sáng đến tối
tưởng Đông nghĩ Tây giống như ống kính của
máy chụp h́nh đóng mở không ngừng. Do vậy, thấy
tướng cảnh giới bên ngoài là tướng sanh diệt.
Tâm chúng ta không thể giống như tấm gương,
khi nào chúng ta đắc nhất tâm bất loạn, trong Duy
Thức gọi nhất tâm bất loạn là Đại Viên
Kính Trí. “Viên” (圓) là viên măn, “đại”
(大) là rộng lớn,
[Đại Viên Kính là] giống như một tấm
gương [rộng lớn]. Gương chẳng có sanh diệt,
soi tỏ y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới,
hết thảy muôn tướng cũng là bất sanh bất
diệt. Đạt đến cảnh giới ấy, trong
kinh Phật thường bảo là quư vị đă chứng
đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. “Pháp” (法) là hết thảy vạn pháp, “Vô Sanh” (無生) là hết thảy vạn pháp bất
sanh, bất diệt, “Nhẫn” (忍) là đồng ư, thừa nhận. Tôi tự ḿnh thấy,
đức Phật nói bất sanh, bất diệt, tôi đồng
ư, tôi thừa nhận. Vậy là cảnh giới của quư
vị và cảnh giới của Phật chẳng khác! Đă
chẳng khác th́ quư vị cũng thành Phật, cảnh giới
Phật đấy nhé! Quư vị đạt đến cảnh
giới ấy sẽ gọi là “thành Phật”. Nay chúng ta tu
pháp môn này tức là tu pháp môn thành Phật. Đấy là nói “Hiện Lượng Trí chứng
Thật Tướng Lư”, Lư (理) là chân lư.
(Diễn) Tượng giả,
tự dă.
(演) 像者,似也。
(Diễn: Tượng là tương
tự).
Đây chẳng phải
là chân thật, chỉ tương tự.
(Diễn)
Dĩ Tỷ Lượng Trí, y hy kiến đạo, phảng
phất, bất chân. Đệ nhị thiên niên, hữu giáo,
hành, lư, nhi vô quả chứng, cố viết Tượng
dă.
(演) 以比量智,依稀見道,彷彿不真。第二千年,有教行理,而無果證,故曰像也。
(Diễn:
Dùng Tỷ Lượng Trí [để lănh hội Phật
pháp], thấy đạo ít ỏi, [Phật pháp trong thời
này] hơi giống [với thời Chánh Pháp], chứ không thật.
Trong một ngàn năm thứ hai, có giáo, hành, lư, nhưng
không có chứng quả, cho nên gọi là Tượng).
Thời đại
Tượng Pháp là một ngàn năm thứ hai [sau khi đức
Phật diệt độ]. Người chứng quả ít
ỏi, có tu hành, nhưng không có cách nào chứng quả. Quả
được nói ở đây thông thường là nói tới
Tứ Quả La Hán. Sơ Quả, Nhị Quả, Tam Quả
c̣n có thể chứng đắc, nhưng không có ai chứng
được Tứ Quả La Hán. Đấy là trong thời
Tượng Pháp. Thời Chánh Pháp, người chứng A La
Hán rất nhiều. Thời Tượng Pháp, người
chứng A La Hán rất ít. Do vậy, trong thời Tượng
Pháp, chúng ta thấy có Tam Quả thánh nhân, rất ít thấy
Tứ Quả La Hán. Trừ những bậc tái lai ra, người
thật sự tu hành mong chứng quả A La Hán chẳng dễ
dàng đâu nhé!
(Diễn) Mạt Pháp tắc
không đằng tự lượng[7], duy thượng đấu tranh, đồ hữu
giáo lư, nhi vô hành quả, cố viết Mạt dă.
(演) 末法則空騰似量,唯尚鬥爭,徒有教理而無行果,故曰末也。
(Diễn: Mạt Pháp th́ tưng
bừng so đo bằng tri kiến lệch lạc của
chính ḿnh, chỉ chuộng tranh chấp, chỉ có giáo lư,
nhưng không có người hành và chứng quả, nên gọi
là Mạt).
Mạt Pháp là thời đại
hiện tại. Chiếu theo cách nói của Trung Quốc, hiện
thời là một ngàn năm thứ hai của thời Mạt
Pháp. Thích Ca Mâu Ni Phật đă diệt độ ba ngàn lẻ
mười hai năm, Chánh Pháp một ngàn năm, Tượng Pháp một ngàn năm, Mạt Pháp đă hơn một ngàn năm, chúng ta thuộc một ngàn
năm thứ hai của thời Mạt Pháp. Liên Tŕ đại
sư cách chúng ta năm trăm năm. Năm trăm trước
đây, Ngài là người sống vào cuối
đời Minh. Khi ấy đă là thời Mạt Pháp, nói
cách khác, đă từng là thời “đấu tranh kiên cố”. Tuy là đấu tranh
kiên cố, nhưng so với hiện tại, vẫn tốt
hơn rất nhiều. Trong thời ấy, tự viện,
tùng lâm c̣n có mấy trăm người cùng tu. Trong tự viện
hiện thời, hai người ở với nhau đă
tranh chấp, đấu tranh kiên cố. Do vậy, chẳng
những cảnh giới Hiện Lượng không có, mà ngay
cả Tỷ Lượng cũng chẳng thể bàn tới.
Khoa
học kỹ thuật phát đạt, thuật ấn loát
tiến bộ, lưu thông kinh Phật tiện lợi
hơn xưa kia rất nhiều. Thuở ấy, Liên Tŕ
đại sư muốn đọc một bộ kinh, phải
chép tay, chẳng có bản ấn loát. Hiện thời chúng
ta chẳng cần phải tốn sức, chẳng cần
phải chép kinh. Thuật ấn loát phát đạt có chỗ
nào tốt đẹp hay chăng? Có chỗ tốt đẹp,
nhưng thói tệ càng lớn! Trước kia chúng ta không biết,
chứ hiện thời biết rồi, có kinh điển
ngụy tạo, chú giải lệch lạc ư nghĩa kinh! Hiện
thời có rất nhiều ngoại đạo dựa
hơi Phật giáo, treo chiêu bài Phật giáo, nhưng bên trong
là ngoại đạo, bảo thuyết của ngoại
đạo là Phật giáo, thật ra, bên trong hoàn toàn chẳng
phải là Phật giáo. Họ cũng đọc kinh Phật,
tụng Kim Cang, Tâm Kinh, nhưng những lời chú giải
toàn là nói nhăng, nói cuội, những thứ “kinh điển”
ấy hiện thời được lưu thông rộng
răi. V́ sao chúng được lưu thông với số
lượng lớn ngần ấy? Tín đồ của họ
đông dường ấy? Thật ra, những thứ
đó toàn là yêu ma, quỷ quái. Yêu ma quỷ quái thông hiểu
Tâm Lư Học, nắm được những nhược
điểm trong tánh t́nh con người; bởi lẽ, con
người luôn thích tiện nghi, khoái nhất là không phải
tu mà vẫn chứng quả. Lũ yêu ma quỷ quái ấy
nói: “Được rồi! Tôi dạy quư vị niệm một
bài chú, dạy quư vị pháp thuật, quư vị vừa học
sẽ thành tựu; cách ấy nhanh chóng, chẳng cần phải
đoạn Hoặc, quá thuận tiện!” Do vậy, đạo
của chúng được lưu truyền rộng răi.
Chánh pháp dạy quư vị
theo quy củ, mà không có ai chịu tiếp nhận. Ở
Trung Quốc là như vậy mà ở ngoại quốc lại
càng là như vậy. Do vậy, chúng ta thấy trong thế
gian này, mười phần hết bảy tám phần là ngoại
đạo dựa hơi Phật giáo. Hiện tượng
chẳng tốt đẹp này, nếu chiếu theo cổ
thư Trung Quốc ghi chép, chính là điềm báo trước
đại kiếp nạn. Sách Tả Truyện ghi: Nước
nhà sắp mất, nhất định có yêu ma quỷ quái làm
loạn. Những thứ ngoại đạo dựa dẫm
Phật giáo đều là yêu ma quỷ quái, nhận định
về yêu ma quỷ quái như thế nào? Sách Tả Truyện
viết: “Nhân khí thường,
tắc yêu hưng” (Con người vứt bỏ lẽ
thường th́ yêu quái nổi lên), “thường” là b́nh thường, đúng mực.
Không đi theo đường lối đúng đắn, yêu
ma quỷ quái bèn hiện tiền. Do vậy, yêu quái chẳng
phải là mặt xanh, nanh chĩa! Thấy những thứ ấy
quư vị hoảng hồn, làm sao thân cận chúng nó cho
được? Chúng chẳng đi theo “thường đạo”,
chẳng tu chánh pháp, đi theo ngă dị đoan, chúng ta phải
hiểu rơ đạo lư này!
“Thường đạo” là ǵ? Dị đoan là ǵ?
Phân biệt như thế nào? Chúng tôi nghĩ mọi người
rất quan tâm chuyện này. Quư vị có thể phân biệt,
yêu ma quỷ quái dẫu nhiều, quư vị cũng đừng
sợ chúng, v́ sao? Quư vị nhận biết th́ chúng chẳng
thể gạt gẫm quư vị; sợ là quư vị không nhận
biết chúng! Cách phân biệt đơn giản nhất là: Hễ
là chánh pháp, điều thứ nhất là phải dạy quư
vị tin vào chính ḿnh, chẳng tin tưởng nơi những
sức mạnh quái đản, lạ lùng. Điều thứ
nhất là phải tin tưởng chính ḿnh, điều thứ
hai là tin Phật; đấy là lời Phật dạy. Nếu
điều thứ nhất là phải tin thần, tin tưởng
Phật rồi kế đó mới tin vào chính ḿnh, đó chính
là ma thuyết, là điên đảo. Phật và thần
được đưa ra như là oai quyền bậc nhất
th́ là ngoại đạo. Chúng ta nhất định phải
phân biệt điều này.
Tiếp đó, chánh
pháp dạy quư vị là “y pháp, bất
y nhân”. Pháp là ǵ? Kinh điển. Nhân là ǵ? Là người
giảng, là người chú giải, ta chẳng nương
theo. Chúng ta lấy kinh làm chủ, chúng ta nghiên cứu chú giải,
dựa theo chú giải của cổ nhân. Chúng ta chẳng
nương theo chú giải của người đời
nay. V́ sao? Chẳng đáng tin cậy, chưa trải qua sự
thử thách của lịch sử. Chẳng hạn như bộ
Sớ Sao của Liên Tŕ đại sư đă được
lưu truyền năm trăm năm; trong năm trăm
năm ấy, bao nhiêu bậc cao minh đă xem qua, công nhận
tác phẩm này chẳng có vấn đề, chúng ta có thể
tin tưởng. Nếu trong ấy có khuyết điểm,
nó đă sớm bị đào thải rồi! V́ thời ấy,
thuật ấn loát chưa thuận tiện, cần phải
chép tay. Bản khắc gỗ là phải khắc từng chữ
một, rất tốn công sức. Nếu chẳng phải
là thứ chân chánh, ai chịu bỏ tiền [khắc in]? Ai
bằng ḷng lưu thông thứ ấy? Do vậy, lịch sử
làm chứng cho chúng ta, chứng minh những ǵ Ngài nói là chân
thật, chẳng phải là hư vọng. Phàm những thứ
ǵ càng lâu xa, càng đáng tin cậy; văn chương
cũng giống như thế. Phàm những thứ
được lưu truyền là những thứ tốt
đẹp. Ví như Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên là những
đại văn học gia đời Đường, một
đời họ đă viết không biết bao nhiêu văn
chương, những thứ hay nhất được
lưu truyền, những thứ dở hơn đều bị
bỏ đi. V́ sao? Không có ai muốn lưu thông. Do vậy, những
thứ ấy càng cổ xưa càng chân thật, càng có giá trị.
V́ thế, tôi khuyên các vị hăy bớt xem những thứ
văn chương của người hiện thời.
Thật ra, văn
chương Văn Ngôn không khó! Bí quyết để học
văn Văn Ngôn là đọc tụng, phải đọc
thường xuyên. Trước kia, trẻ nhỏ học
thuộc ḷng, có thể học thuộc năm mươi
hay một trăm bài cổ văn, chướng ngại
văn tự sẽ chẳng c̣n nữa. Hiện tại,
chúng ta có cần phải đọc Cổ Văn Quán Chỉ
hay chăng? Thưa quư vị, không cần! Quư vị niệm
kinh này là được rồi. Thiên văn chương này
của Liên Tŕ đại sư là một bài văn
chương Văn Ngôn rất đơn giản, mà cũng
là văn chương hay nhất. Quư vị đọc bộ
sách này, đọc hằng ngày, đọc suốt ba
năm, sẽ thông thạo văn chương Văn Ngôn. Mỗi
ngày đọc mấy đoạn, chẳng cần phải
đọc những thứ khác. Không chỉ thông đạt
văn chương Văn Ngôn, mà c̣n thông đạt kinh
văn; một hành động không chỉ đạt
được hai thứ, mà c̣n đạt nhiều thứ.
V́ sao? Giáo, lư, hành, quả cũng đều có thể đạt
được, có thể đắc nhất tâm là chứng
quả. Đó là chánh pháp.
Tiếp đó, tà - chánh
được phân biệt bởi cái tâm thanh tịnh. Phàm
là chánh pháp, sẽ dạy quư vị bất luận trong cảnh
giới nào, thuận cảnh cũng thế, mà nghịch cảnh
cũng vậy, thường giữ cho cái tâm của chính
ḿnh thanh tịnh. Đó là chánh pháp. Nếu nó khiến cho cái
tâm của quư loạn cào cào, đó là tà pháp, chẳng phải
là chánh pháp. Chánh pháp nhất định lấy Thiền
Định làm cương lănh. Nói “tám vạn bốn ngàn
pháp môn” th́ “pháp” (法) là phương pháp, “môn” (門) là “môn kính” (門徑: đường
lối). Phương pháp, mánh khóe nhiều ngần ấy
đều nhằm tu Định. Nói cách khác, đều là
tu tâm thanh tịnh. Phương pháp Niệm Phật này là một
trong tám vạn bốn ngàn phương pháp, chúng ta dùng
phương pháp này để tu tâm thanh tịnh. Nhất tâm
bất loạn là Thiền Định, không chỉ là Thiền
Định, mà c̣n là Thiền Định cao cấp, Thiền
Định thượng thượng. Trong phần trước,
tôi đă có nói: Thiền Định khó tu, khó thành!
Phương pháp Niệm Phật th́ được! Quả
thật là có thể tu thành tựu. Công phu niệm Phật
có ba đẳng cấp, công phu bước đầu là
công phu thành phiến, giai đoạn này chưa đắc
Thiền Định, mà là Tương Tự Định. Niệm
đến Sự nhất tâm bất loạn là Thiền
Định, gọi là Niệm Phật tam-muội. Niệm
đến Lư nhất tâm bất loạn là thượng
thượng Thiền Định. Cùng một phương
pháp, cảnh giới dần dần nâng cao lên, đó là chánh
pháp. Nếu cách hành tŕ nào khiến cho tâm hoảng loạn,
hoặc dấy lên hoài nghi, chẳng cần biết nó tốt
đẹp như thế nào, đều là ma đến nhiễu
loạn, quyết định chẳng thể nghe theo!
Mấy hôm rồi có
đồng học đến hỏi tôi: Trong nhà thờ
tượng Phật, tượng Bồ Tát, đặt ở
vị trí ấy, có người đến nói với ông ta,
như thế này cũng chẳng đúng, như thế kia
cũng chẳng đúng. Rốt cuộc phải làm thế
nào? Đó là ma đến nhiễu loạn. Thờ phụng
tượng Phật, tượng Bồ Tát, bất luận
là ai cũng chắc chắn là cát tường. Thế
nhưng cách cúng dường như thế nào th́ nhất
định phải hiểu. Thờ Phật có hai ư nghĩa
trọng yếu:
1) Thứ nhất là thời thời khắc
khắc nhắc nhở chính ḿnh phải có tâm cung kính, điều
này rất trọng yếu. Tâm cung kính là biểu hiện của
Tánh Đức. Trong khóa tụng, quư vị thường
đọc “nhất thiết
cung kính” (hết thảy cung kính), chúng ta đối với
người, đối với sự, đối với vật
có phải là chí thành, cung kính hay chăng? Nếu chí thành, cung
kính, người ấy là Phật, là Bồ Tát. Phật, Bồ
Tát đối với người, đối với vật,
đối với sự đều chí thành, cung kính. Phàm phu
khác với Phật, Bồ Tát; phàm phu đối với
người, sự, vật chẳng cung kính. Chư Phật,
Bồ Tát đối với người, sự, vật
cung kính, quyết định là b́nh đẳng, thanh tịnh,
chẳng có cao, thấp, chẳng có ta thích người này,
ta cung kính họ một chút, hoặc người kia là bề
trên, là thân thích của ta, ta cung kính họ một chút. Kẻ
nọ là oan gia đối đầu của ta, ta căm hận
hắn, ta c̣n cung kính hắn hay sao? Đấy là phàm phu! Phật,
Bồ Tát không như vậy, Phật, Bồ Tát cung kính hết
thảy, chẳng có phân biệt. Do vậy, chúng ta thờ tượng
Phật là v́ chúng ta cung kính Phật. Do cung kính Phật, bèn lập
tức nghĩ: “Ta phải cung kính hết thảy chúng sanh,
phải cung kính hết thảy vạn vật”. Chẳng
riêng ǵ Phật pháp nói như thế, mà ngay cả pháp thế
gian cũng nói như thế.
Căn bản pháp luân
của Phật pháp là kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm đến phần
tổng kết cuối cùng là mười đại cương
lănh tu hành, tức mười đại nguyện
vương của Phổ Hiền Bồ Tát. Nguyện thứ
nhất là “lễ kính chư Phật”.
Đương nhiên chúng ta trông thấy chư Phật phải
cung kính, nhưng thấy người khác chẳng phải
là Phật th́ quư vị đă sai rồi! Kinh dạy: “Nhất thiết chúng sanh bổn
lai thành Phật” (Hết thảy chúng sanh vốn sẵn
thành Phật). Do vậy, đối với mỗi một
chúng sanh, quư vị đều phải cung kính giống
như Phật. Đó là ư nghĩa thứ nhất trong việc
thờ Phật, đó gọi là chân cúng dường. Lẽ
đâu thờ một bức tượng Phật chẳng
đại cát, đại lợi?
2) Ư nghĩa thứ hai
là báo ân. Phật là vị thầy bậc nhất của
chúng ta. Chúng ta ngày nay có thể đạt lợi ích thù thắng
nơi pháp, chúng ta đừng quên vị thầy căn bản.
Do vậy, chúng ta thờ Phật, đừng nên coi Ngài
như một vị thần, hăy coi Ngài như một vị
thầy, giống như chúng ta thường thờ tổ
tiên. Đấy là truy ngược lại nguồn gốc
để báo đáp. V́ vậy, thờ Phật có hai ư
nghĩa hết sức trọng yếu.
Kế đó, trông thấy
tượng Phật bèn hiểu chính ḿnh cũng là Phật.
Chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối suy nghĩ
loạn xạ, đó là cô phụ linh tánh của chính ḿnh, chẳng
xứng đáng với chính ḿnh. Chúng ta chẳng suy nghĩ
loạn xạ, sẽ là Phật. Chúng ta suy nghĩ tán loạn,
bèn là phàm phu. Do vậy thành Phật hay thành phàm phu là do trong một
niệm của chính ḿnh. Chính ḿnh chẳng khởi vọng
tưởng th́ là Phật, Bồ Tát. Thế nhưng chúng ta
cũng rất muốn không khởi vọng tưởng, mà
vọng tưởng cứ dấy lên măi, không làm sao
được! Đấy là do chính ḿnh có nghiệp chướng,
tiêu trừ nghiệp chướng như thế nào? Đấy
cũng là một câu hỏi lớn. Có người muốn
mau chóng tiêu trừ nghiệp chướng, quư vị có cái
tâm ấy, có nguyện vọng ấy, có kẻ thừa cơ
nói: “Ông hăy bỏ tiền cất cái miếu ấy, hoặc
làm ǵ đó, nghiệp chướng sẽ tiêu trừ”. Quư vị
hăy nghĩ xem, bỏ hết tiền ra, nghiệp chướng
có tiêu trừ hay không? Trong hết thảy cảnh giới, ta
thật sự một niệm chẳng sanh th́ nghiệp
chướng tiêu trừ. Quư vị suốt ngày từ sáng
đến tối vẫn khởi vọng tưởng, nghiệp
chướng chẳng tiêu trừ! Chẳng những không
tiêu trừ, mà quư vị c̣n thấy nó tăng thêm chẳng
ít, v́ sao? Muốn làm thêm chuyện tốt, làm công đức,
làm công đức bèn lại có chướng ngại, lại
có phiền bực! Chẳng phải là quư vị lại tăng
thêm cả đống vọng niệm ư? Do vậy, chẳng
những nghiệp chướng không tiêu trừ, mà ngược
lại c̣n tăng trưởng chẳng ít nghiệp chướng;
đấy cũng là ma đến nhiễu loạn.
Phật pháp dạy quư vị bố
thí, bố thí là ǵ? Là vứt bỏ vọng niệm của
chính ḿnh. Quư vị có tiền, tiền là chướng ngại,
v́ sao? Có tiền bỏ vào ngân hàng lại sợ lợi tức
ít, bỏ vào chỗ có tiền lời cao th́ sợ chỗ đó
sập tiệm, tâm quư vị bất an, vọng niệm nhiều
quá, đấy là chướng ngại! Quư vị bỏ sạch
hết tiền, chẳng cần đến nữa, thứ
ǵ cũng đều bỏ, trong tâm chẳng có vướng
mắc ǵ, đạo lư là như vậy đó. Bảo quư vị
làm chuyện tốt, vẫn nghĩ ngợi: “Ta làm bao nhiêu
công đức, ta làm bao nhiêu chuyện tốt”, đấy
là trên chướng ngại chồng thêm chướng ngại,
nghiệp chướng không tiêu được! Tâm mỗi
ngày một thanh tịnh hơn chính là hiện tượng
nghiệp chướng tiêu trừ. Tâm mỗi ngày một phiền
năo hơn, tức là nghiệp chướng tăng thêm. Hiểu
nguyên lư và nguyên tắc, sẽ dễ dàng phân biệt Phật
và ma. Có tiền quả thật sẽ khởi vọng
tưởng th́ bố thí vẫn là tốt đẹp
hơn. Đấy là sự thật, chẳng giả tí nào!
(Diễn) Tứ giáo các hữu
nội ngoại phàm.
(演) 四教各有內外凡。
(Diễn: Trong bốn giáo, mỗi
giáo đều có nội phàm và ngoại phàm).
“Tứ giáo” là Tạng, Thông, Biệt, Viên, Thiên Thai
đại sư nói như vậy. Nói đến phàm phu th́
có nội phàm và ngoại phàm. Ngoại phàm giống như
chúng ta hiện thời là ngoại phàm. Chữ “nội phàm” chỉ những
ai? Phàm những ai chưa kiến tánh, nhưng đă đắc
Thiền Định th́ gọi là “nội phàm”, như A La Hán, Quyền Giáo Bồ Tát
đều được coi là nội phàm. Đă kiến
tánh th́ mới là Bồ Tát thật sự. Lấy công phu Niệm
Phật để nói, công phu thành phiến là nội phàm,
công phu chưa thành phiến là ngoại phàm. Lư nhất tâm bất
loạn mới gọi là thánh nhân, chẳng phải là phàm
phu. Như vậy là công phu có nhiều tầng lớp.
(Diễn) Nhược năi
vị thông tứ giáo, bác địa phàm ngu, danh hạ phàm
dă.
(演) 若乃未通四教,博地凡愚,名下凡也。
(Diễn: Nếu chưa thông
hiểu tứ giáo, là hạng phàm ngu sát đất th́ gọi
là “hạ phàm”).
Đây là Liên Tŕ đại
sư khiêm hư! Giống như tŕnh độ của chúng
ta trong hiện thời quả thật là phàm phu, là “hạ
phàm” danh đúng với thật. [Liên Tŕ đại sư tự
nhận là] hạ phàm mà có thể viết ra một bộ
chú giải như thế này, quá khiêm hư, quá khách sáo, Ngài
tuyệt đối chẳng phải là hạ phàm. Dưới
đây, Ngài khách sáo mấy câu như “cùng tưu văn học” (kiến giải hết sức
lệch lạc, học muộn), xin xem chú giải.
(Sớ) Cùng tưu văn học.
(Diễn) Tưu giả,
thiên ngung giả, cùng, cực dă.
(疏) 窮陬晚學
(演) 陬者,偏隅也。窮,極也。
(Sớ: Kiến giải lệch
lạc tột cùng, học Phật muộn màng.
Diễn: “Tưu” là lệch về một góc,
“cùng” là tột bậc).
Có ư nghĩa như thế
này: Kiến giải của chính ḿnh chẳng viên măn, kiến
thức rất nông cạn, sai sót, thiếu học vấn,
thiếu tu tŕ, thiếu đức hạnh. [Những điều
này] đều là [Liên Tŕ đại sư] nói khách sáo.
(Diễn) Thử
phương tại Diêm Phù Đề chi cực Đông, cố
danh Chấn Đán quốc.
(演) 此方在閻浮提之極東,故名震旦國。
(Diễn: Phương này ở
phía cực Đông của châu Diêm Phù Đề, nên gọi
là nước Chấn Đán).
Thời đại của Liên Tŕ đại
sư, [người ta] c̣n chưa biết trái đất
h́nh tṛn, nhưng người chân chánh học Phật đều
biết, nhưng không nói. Nói ra sẽ chuốc lấy phiền
phức, v́ sao? Mọi người không tin! V́ sao người
học Phật biết? V́ trong Phật pháp nói tới mười
phương thế giới, nói Đông,
(Diễn) Đại sư nhất sanh
tự cư học địa, bất cảm dĩ tiên bối
tự xử, cố xưng văn học.
(演) 大師一生自居學地,不敢以先輩自處,故稱晚學。
(Diễn: Đại sư cả
đời tự coi ḿnh thuộc địa vị học
tṛ, chẳng dám tự xưng là người thuộc lớp
trước [so với người khác], v́ thế xưng
là kẻ học sau).
Xưng “văn học” là nói khiêm hư, “học địa” là học
sinh. Suốt đời, Ngài tự coi ḿnh là đứa học
tṛ mới học, trọn chẳng dám dùng thân phận thầy
giáo đối với người khác. Do vậy, xưng là
“văn học”. “Đại sư”:
Trong nhà Phật gọi đức Phật là đại
sư, Bồ Tát cũng chẳng thể gọi [là đại
sư]. Bồ Tát được gọi là “đại sĩ” như Quán Âm đại sĩ. Hiện
thời, các pháp sư xưng là đại sư, hết sức
thiếu khiêm hư. Liên Tŕ đại sư tự xưng
là “hạ phàm”, hoặc
xưng là “văn học”. Cổ
đại đức thật sự tu hành chứng quả,
xưng là “đại sĩ”;
tại gia cư sĩ cũng có thể xưng như vậy,
như Phó đại sĩ. Đối với người
thế gian, có học vấn thế gian, giống như họa
sĩ, nhạc sĩ, người ta gọi họ là “đại
sư” th́ được. Đó là cách xưng hô trong thế
gian, chẳng phải trong cửa Phật. Phàm là đối
với pháp sư trong Phật môn, đối với cư
sĩ đă chính thức quy y Tam Bảo, chẳng thể
xưng là “đại sư”. “Khai sĩ” là người
đă khai ngộ, đây là tiếng xưng hô bậc Bồ
Tát. “Đại sĩ” dịch
từ chữ Ma Ha Tát, Đại Bồ Tát được
gọi là “đại sĩ”,
là bậc Bồ Tát đă đăng địa (chứng từ
Sơ Địa trở lên). Các vị pháp sư dịch
kinh trải các đời ở Trung Quốc được
gọi là Tam Tạng Pháp Sư, chẳng gọi là đại
sư. Do vậy, người xuất gia chẳng thể
xưng là đại sư, đó là tiếm việt (lấn
lướt, quá phận).
Trong Thiền Tông
xưng là “thiền sư”.
Thầy của các vị đế vương thời cổ
gọi là “quốc sư”,
đều chẳng thể xưng là “đại sư”, chỉ có tổ sư Tịnh
Độ Tông có thể xưng là “đại sư”, điều này rất đặc
biệt. V́ sao? Quư vị phải hiểu: “Đại sư” là Phật, nếu quư vị gặp
được “đại
sư”, đời này nhất định chứng quả,
nhất định thành tựu. Nói cách khác, nếu quư vị
gặp được tổ sư Tịnh Độ Tông,
mà có thể tin nhận, phụng hành, đời này nhất
định văng sanh thế giới Tây Phương. Văng sanh
thế giới Tây Phương là thành Phật, vị ấy
có thể xưng là “đại
sư”, chẳng khác ǵ Phật. Do vậy, tổ sư Tịnh
Độ Tông được gọi là “đại sư”.
Tổ sư Tịnh
Độ Tông do đâu mà có? Chẳng phải là đời
này truyền cho đời kia như Thiền Tông Trung Quốc,
Đạt Ma tổ sư là đời thứ nhất, Huệ
Khả là đời thứ hai. Họ có sư thừa (thầy
truyền cho tṛ), từ đời này truyền xuống cho
đời kia. Tịnh Độ Tông không có, tổ sư Tịnh
Độ Tông là do “dân tuyển”, chẳng phải là thế
tập. Cả đời vị ấy tu hành hoằng hóa,
có công lao thù thắng đối với Tịnh Độ
được mọi người công nhận. Do vậy,
Ngài chẳng phải là kế thừa một cá nhân nào! Nếu
đời nào không có người như vậy, đời
ấy không có [tổ sư Tịnh Độ Tông]. Ví như
vị tổ sư thứ nhất của Tịnh Độ
Tông và vị tổ sư thứ hai cách nhau mấy trăm
năm, trong mấy trăm năm không có ai. Vị tổ
sư đời thứ nhất là ngài Huệ Viễn triều
Tấn, Ngài là người đề xướng pháp môn Niệm
Phật đầu tiên, kiến lập liên xă tại Lô
Sơn, tỉnh Giang Tây. Thuở ấy, những người
cùng niệm Phật với Ngài gồm một trăm hai mươi
ba người, ai nấy đều văng sanh, là một trang
thù thắng nhất trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc.
Vị tổ sư đời thứ hai là Thiện Đạo
đại sư đời Đường, trong mấy
trăm năm không có người thứ hai giống như
vậy xuất hiện. Cận đại có Ấn Quang
đại sư, mọi người công nhận Ngài là tổ
sư đời thứ mười ba của Tịnh Độ
Tông, do vậy, Ngài được tôn xưng là đại
sư. Ở đây nói: “Đại
sư suốt đời coi ḿnh thuộc địa vị
học tṛ”, đối với vị tổ sư một
đời của Tịnh Độ Tông có thể gọi
là “đại sư”, chứ
đối với những người khác chẳng thích hợp
cho lắm. Đây cũng là điều mọi người
chúng ta nên biết.
(Tự) Vơng thông huyền
lư, tố bỉ không đàm, họa bính hà ích cơ trường,
Yên thạch nan vu cổ mục.
(序) 罔通玄理,素鄙空談,畫餅何益饑腸,燕石難誣賈目。
(Tựa: Chẳng thông lư diệu
huyền, trọn thẹn bàn suông, bánh vẽ ích ǵ cho bụng
đói, đá non Yên khó lừa mắt lái buôn [sành sơi]).
Những điều
này đều có điển cố.
(Diễn) Vơng thông huyền
lư, vị vị năng thật khế diệu tâm.
(演) 罔通玄理,謂未能實契妙心。
(Diễn:
“Chẳng thông lư huyền diệu”, ư nói: Chưa thể thật
sự khế hợp diệu tâm).
“Vơng thông” là chưa thông. “Huyền lư” là những lư huyền diệu sâu xa nhất
trong Phật pháp. “Diệu tâm”
là chân tâm, mà cũng là nhất tâm bất loạn như kinh
này chủ trương, [Liên Tŕ đại sư] đặc
biệt nói: Chưa thể chứng đắc Lư nhất
tâm bất loạn, chưa chứng đắc! Ngài có phải
là chứng đắc hay không,
hay chỉ khiêm hư nói chưa chứng đắc? Điều
này rất khó nói! Nói nghiêm ngặt, chưa thể chứng
đắc Lư nhất tâm bất loạn, sẽ không thể
viết ra bộ chú giải này. Do vậy, những lời
nói này vẫn là lời lẽ khiêm hư, khách sáo.
(Diễn) Không đàm, tức
y thông Thiền khách, văn tự học nhân, thính kỳ ngôn dă, siêu hiền thánh chi tiền. Kê
kỳ hành dă, lạc phàm dung chi hậu. Tố bỉ, vị
b́nh tố tự bỉ.
(演) 空談,即依通禪客,文字學人。聽其言也,超賢聖之前;稽其行也,落凡庸之後。素鄙,謂平素自鄙。
(Diễn: “Nói suông”: Tức là
giống như những kẻ thông hiểu Thiền, những
người học thông hiểu văn tự, nghe lời họ nói [cảm thấy] vượt
trỗi bậc hiền thánh. Xét đến những ǵ họ làm,
thua cả hạng phàm phu tầm thường! “Tố bỉ”
nghĩa là tự khinh ḿnh tầm thường).
Ngài tự ḿnh chẳng
chịu bàn suông, đó là tự khinh
ḿnh, chứ không phải là khinh thường người
khác. [Những điều được nói ở đây]
cũng là hiện tượng thường thấy trong thời
kỳ Mạt Pháp, tức là: Phật pháp ngoài cửa miệng;
nói được, nhưng không làm được! Họ rất
biết nói, đương nhiên những ǵ họ nói là cái học
do hỏi han, ghi nhớ mà ra. Họ
đọc nhiều, nghe nhiều, cũng thường hỏi
người khác, [nên gọi] là “kư
vấn chi học” (học thức có được do
ghi nhớ và thưa hỏi), chằng phải là cảnh giới
do chính ḿnh đích thân chứng được. Đấy gọi
là “không đàm” (bàn suông). Phật
pháp quư nhất là thực chứng, nghĩa là tự ḿnh thật
sự chứng đắc. Nói “chứng
đắc” th́ “đắc”
là ǵ? Tâm Kinh nói: “Vô trí, diệc
vô đắc” (không trí mà cũng chẳng đắc),
đấy gọi là “chứng
đắc”. Chứng đắc ǵ? Chứng đắc
“vô trí, diệc vô đắc”.
Nếu quư vị có trí, có đắc, sẽ là chướng
ngại. Lục Tổ nói rất hay: “Vốn chẳng có một vật, nào sợ nhuốm
bụi trần”, đấy là nói về chân tâm. Chân tâm là
nhất tâm, trong nhất tâm thứ ǵ cũng không có. Nếu
có trí, có một vật, lại có đắc, tức là lại
có thêm một vật nữa, tâm quư vị chẳng thanh tịnh.
Khi nào, bản thân quư vị đạt đến “vốn chẳng có một vật”,
sẽ thật sự chứng đắc. Ở đây gọi
[cảnh giới ấy] là “thật
khế diệu tâm”, “thật” (實) là chân thật, “khế”
(契) là khế hợp.
“Diệu tâm” là chân tâm, quả
thật “vốn chẳng có một
vật”.
Khi Lục Tổ chứng
đạo, nói ra cảnh giới của chính ḿnh: “Nào ngờ tự tánh vốn sẵn
thanh tịnh”. Tự tánh là tự tâm, bổn tâm của
chính ḿnh là thanh tịnh. Hiện tại nó chẳng thanh tịnh
là do chính ḿnh gây ra, chẳng phải là người khác gây
nên. Quư vị vốn chẳng có vọng niệm, hằng ngày
tự ḿnh khởi vọng tưởng, vậy th́ c̣n có cách
nào nữa đây? Chuyện ấy Phật, Bồ Tát chẳng
thể giúp quư vị được, v́ quư vị tự ḿnh
sanh vọng tưởng. Phật, Bồ Tát giúp đỡ
chúng ta bằng cách nói cho chúng ta biết rơ ràng những nguyên
tắc và nguyên lư, khiến cho chúng ta tự ḿnh giác ngộ.
Tâm ta vốn sẵn thanh tịnh, hóa thành suốt ngày tưởng
Đông nghĩ Tây; cái suy tưởng ấy quả thật
là vọng tưởng, v́ quư vị nghĩ xem: Chẳng có thứ
ǵ là chân thật, đều là giả. V́ sao biết chúng là
giả? V́ cái tâm có thể suy tưởng ấy là giả,
là pháp sanh diệt; niệm này sanh, niệm kia diệt. Kinh
Kim Cang giảng về vọng tâm, bảo “tam tâm bất khả đắc”, quá khứ tâm bất
khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc,
vị lai tâm bất khả đắc. Quư vị c̣n có suy
tưởng ǵ nữa? Nếu “tưởng” là thật th́
có thể tưởng, Phật cũng sẽ chủ
trương, cũng bảo quư vị tưởng. Tưởng
là giả, chẳng thật!
Chân tâm ly niệm, chân
tâm không có niệm. Niệm mà không có niệm được
gọi là “chánh niệm”. Niệm
mà có niệm th́ gọi là “vọng
niệm”, hoặc “vọng
tưởng”. Ngàn kinh vạn luận nói tới đạo
lư này, tám vạn bốn ngàn pháp môn đều nhằm khôi phục
cái tâm thanh tịnh của chính ḿnh. Phật pháp là như thế
mà thôi! Do vậy, Phật pháp chẳng gạt người,
Phật pháp câu nào cũng đều là chân thật. Lại
thưa cùng quư vị, hết thảy tai nạn của chúng
ta đều do vọng tưởng sanh ra. Nếu tâm địa
thanh tịnh, tai nạn ǵ cũng đều chẳng có. Tâm
thanh tịnh là tâm cát tường nhất. Trong tâm thanh tịnh
có thể sanh ra trí huệ, tâm thanh tịnh có thể sanh ra vạn
pháp. Do vậy, đức Phật dạy chúng ta khôi phục
tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh là Phật pháp. Tâm thanh tịnh
là Vô Thượng Bồ Đề, Phật pháp thường
gọi nó là “huyền lư”. Phàm
những kẻ có cái học thức “kư vấn” th́ chẳng phải là học thức thật
sự, v́ nó chẳng lưu lộ từ tâm thanh tịnh !
Do điều này, học
Phật nhất định phải có thiện xảo. Chẳng
biết thiện xảo th́ sao? Quư vị mỗi ngày đọc
kinh, mỗi ngày nghe kinh, chẳng thể khai trí huệ! Quư vị
đạt được một chút trí huệ cũng là
cái học “kư vấn”, chẳng phải là trí huệ thật
sự. Chẳng những không thể khai trí huệ, mà ngược
lại c̣n hằng ngày tăng trưởng Sở Tri Chướng,
phiền phức to! Người biết nghe phải nghe
như thế nào? Nghe mà không nghe, không nghe mà nghe, quư vị sẽ
khai trí huệ, ở đây gọi là “thật khế diệu tâm”. Đấy chính là
như kinh Kim Cang đă nói: “Chẳng
giữ lấy tướng, như như bất động”.
“Chẳng giữ lấy tướng” chẳng phải là không
cần tướng. Chẳng hạn như nay chúng ta đối
trước kinh bổn, đó là tướng, tôi nói ở
đây, quư vị nghe tại nơi ấy, đó là tướng.
Đó là tướng tiếp xúc, tiếp xúc như thế
nào? Chẳng chấp trước. Tôi đọc kinh, chẳng
chấp tướng văn tự; tôi nghe giảng, chẳng
chấp tướng ngôn thuyết. Trong tâm chẳng khởi
vọng tưởng, ư niệm ǵ cũng chẳng có. [Nếu
khởi lên ư nghĩ]: “Đoạn này giảng khá quá, đoạn
kia giảng rất hay”, như vậy là hỏng bét, quư vị
chấp vào tướng mất rồi!
Chẳng chấp
trước, quư vị có công phu ấy, bất luận
người nào giảng kinh đều có thể nghe
được, v́ sao? Giảng rất hay, chẳng chấp
tướng hay. Giảng thật tệ, chẳng chấp
tướng tệ. Nói chung, chẳng chấp tướng sẽ
là khéo nghe, là thật sự nghe. Trong cảnh giới này, quư
vị rèn luyện điều ǵ? Rèn luyện nhất tâm bất
loạn, đó là công phu thật sự. Do vậy, quư vị
nghe xong, có khi hoát nhiên khai ngộ, ắt phải nghe như
vậy th́ mới có thể hoát nhiên khai ngộ. Nếu quư vị
nghe xong, gật đầu: “Khá lắm! Hay quá!” Quư vị
vĩnh viễn chẳng thể khai ngộ, quư vị là phàm
phu, chẳng biết nghe. Người thật sự biết
nghe cao minh lắm! Trong Đại Thừa Khởi Tín Luận,
Mă Minh Bồ Tát dạy chúng ta ba nguyên tắc: Chẳng chấp
tướng ngôn thuyết, chẳng chấp tướng
văn tự, chẳng chấp tướng tâm duyên. “Tâm
duyên” là trong tâm suy tưởng, trong tâm khởi ư niệm. Chẳng
khởi ư niệm là như kinh Kim Cang đă nói: “Chẳng chấp lấy tướng,
như như bất động”. Đó gọi là tu hành
chân chánh, là dụng công chân chánh.
Nếu quư vị học
được phương pháp này, chẳng những trong
giảng đường nghe kinh là như vậy, mà quư vị
đăi người, tiếp vật, trong hết thảy
công việc đều như vậy. Chuyện ǵ cũng
làm viên măn, trong tâm thanh tịnh. Đó là sự nghiệp của
Bồ Tát, chứ chẳng phải là bảo quư vị chuyện
ǵ cũng đều chẳng làm, mà là chuyện ǵ cũng
đều làm, nhưng thứ ǵ cũng thanh tịnh, thứ
ǵ cũng chẳng chấp trước. Do vậy, Phật
pháp chẳng ĺa pháp thế gian. Pháp thế gian chính là Phật
pháp. Trong Phật pháp và pháp thế gian, không có giới hạn.
Hễ mê th́ hết thảy gọi là pháp thế gian, v́ sao?
Đọa trong thế gian. Thế gian là mười pháp giới,
có quá khứ, hiện tại, vị lai. Đó là Thế. Có
hết thảy giới hạn, đó là Giới. V́ sao? Khởi
tâm động niệm th́ hết thảy pháp đều là
pháp thế gian. Nếu thật sự có thể “chẳng chấp lấy tướng,
như như bất động”, hết thảy pháp
đều gọi là pháp xuất thế gian, không có một
pháp nào là pháp thế gian. Do đây có thể biết: Thế
gian và xuất thế gian cũng là do một niệm của
chúng ta mê hay ngộ mà thôi! Hễ mê th́ xuất thế gian biến
thành thế gian, ngộ rồi, thế gian biến thành xuất
thế gian.
Lại thưa với
quư vị, hễ ngộ th́ xuất thế gian cũng chẳng
có. Pháp thế gian không có, xuất thế gian c̣n do đâu mà
có nữa đây? Thế gian và xuất thế gian là hai pháp;
hai pháp chẳng phải là Phật pháp. Trong Đàn Kinh, sư
Ấn Tông hỏi Lục Tổ: “Ngũ Tổ có giảng
Thiền Định, giải thoát hay chăng?” Lục Tổ
trả lời: “Thiền Định,
giải thoát là hai pháp; hai pháp chẳng phải là Phật
pháp. Phật pháp là pháp Bất Nhị”. Quư vị hăy khéo suy
nghĩ đạo lư này rồi mới đọc bản kinh
này, sẽ thấy thú vị. Đọc rồi sẽ khai
ngộ. Quư vị đọc hiểu th́ rất tốt!
Đọc không hiểu, cũng chẳng sao! Không hiểu,
chẳng cần phải mong hiểu! V́ quư vị suy tưởng,
sẽ rớt vào vọng niệm, khởi vọng tưởng,
đấy là v́ quư vị có chướng ngại. Nếu
không có chướng ngại, vừa đọc sẽ tự
nhiên hiểu rơ, chẳng cần phải suy tưởng mới
hiểu rơ. Đó là Ngộ. Do vậy, hễ ngộ th́ hằng
ngày đều có ngộ xứ; quư vị không suy tưởng
mà vẫn hiểu rơ chuyện này, đó là ngộ xứ.
Làm thế nào để khai ngộ? Tâm
càng thanh tịnh th́ càng có thể khai ngộ. Tâm càng thanh tịnh
th́ phạm vi ngộ càng rộng lớn. Hễ chưa thể
khai ngộ, đều là do vọng niệm quá nhiều, phiền
năo quá nặng. Phiền năo và vọng tưởng đều
là giả, trong chân tâm không có những thứ này. Chuyện
này đă được giảng hết sức thấu triệt
trong kinh Lăng Nghiêm, đặc biệt là trong đoạn
kinh văn “thập phiên hiển
Kiến” (mười phen chỉ rơ cái Thấy). Tánh Thấy
là chân tâm, tánh Thấy là bất sanh bất diệt. Tánh Thấy
vốn sẵn thanh tịnh, quyết định chẳng
dính dáng tới vọng tưởng, phiền năo! Điều
này chứng minh trong chân tâm không có phiền năo, chẳng có vọng
niệm. Vọng niệm và phiền năo đều từ vô
minh sanh khởi, vô minh là mê hoặc, [vọng niệm và phiền
năo] từ mê hoặc biến hiện ra. Bản thân của mê
là không thật, là hư vọng.
Chúng ta tự ḿnh tu hành, công phu phải
thực tiễn. Tôi lại thưa cùng quư vị, chân chánh vận
dụng công phu th́ công phu chẳng ở nơi h́nh thức.
Tôi mỗi ngày đối trước tượng Phật,
niệm mấy quyển kinh, lần bao nhiêu chuỗi, lạy
bao nhiêu lạy, đó gọi là “công khóa”, vẫn là h́nh thức.
Tương ứng với cái tâm thanh tịnh của chính
ḿnh, đó là công phu. Nếu chẳng tương ứng với
cái tâm thanh tịnh của chính ḿnh, chẳng phải là công
phu. Dẫu cho quư vị mới nửa đêm, ba giờ sáng
đă dậy tụng khóa sáng, mà suốt ngày từ sáng đến
tối vẫn khởi vọng tưởng, vẫn lo tạo
tiếng tăm, lợi dưỡng, vẫn ở trong
ngũ dục, lục trần, th́ là kẻ “hạ phàm” danh
phù hợp thật, ngay cả danh xưng “văn học” cũng chẳng xứng! Bởi vậy,
công phu chẳng ở nơi h́nh thức, mà là niệm niệm
giác chứ không mê, niệm niệm chánh chứ không tà, niệm
niệm tịnh chứ chẳng nhiễm. Từ xưa
đến nay, không ít bậc đại đức thực
hiện công phu ǵ vậy? Quư vị thấy trong Thiền
Tông Tập, thiền sư Vĩnh Gia đă nói: Phương
pháp tu hành của Ngài là “cơ
lai ngật phạn, khốn lai miên” (đói th́ ăn, buồn
ngủ th́ ngủ). Bụng đói bèn ăn cơm, buồn
ngủ th́ đi ngủ, tuyệt vời! Công phu của Ngài
chẳng chấp vào h́nh tích, đó là công phu chân chánh, là công
phu chân thật, chẳng ở nơi h́nh thức.
Công phu h́nh thức được đại
chúng trong tự viện cùng nhau thực hiện. Quư vị ở
nhà, cả nhà đều học Phật, hoặc người
nhà chẳng phản đối học Phật, quư vị có
thể áp dụng nghi thức. Nếu trong nhà có người
chẳng tin Phật, có người tin Cơ Đốc
Giáo, nếu quư vị làm chuyện ấy, trong tâm họ khó
chịu. Nếu họ hủy báng, gây khó dễ cho quư vị,
khiến quư vị sanh phiền năo, đó là sự tu hành của
chính ḿnh có chướng ngại. Do vậy, chúng ta nhất
định phải hiểu nguyên tắc và nguyên lư của
Phật pháp, hiểu trong t́nh h́nh nào nên dùng cách tu như thế
nào? Có thể tự lợi, lợi tha, đấy là
phương pháp tu hành tốt nhất. Tự lợi là nhất
định chẳng trở ngại cái tâm thanh tịnh của
chính ḿnh. Tâm ta ngày một thanh tịnh hơn, đó là tự
lợi. Đồng thời lại có thể ảnh hưởng
người khác, đó là lợi tha. Đối với nghi
thức tụng niệm sáng tối của người tại
gia, càng đơn giản càng hay, hăy chiếu theo cách tu trong
cuốn Tây Phương Xác Chỉ: Tụng một biến
kinh Di Đà, bảy biến Văng Sanh Chú, niệm một ngàn
câu Phật hiệu, sau khi niệm xong bèn lễ Phật,
cách ấy tốt lắm. Cách ấy cũng phải có
phước báo, không bị chướng ngại th́ mới
làm được! Nếu có chướng ngại th́ mức
thấp nhất là cách Thập Niệm sáng tối. Đó là
gọi là “định khóa”
(công khóa cố định). Trừ định khóa ra, tán
khóa cũng rất quan trọng. “Tán khóa” chính là bất luận
lúc nào, bất kể ở đâu, trong tâm Phật hiệu
chẳng gián đoạn.
Phật hiệu nhằm đánh thức
giác tâm của chúng ta. Một câu Nam-mô A Di Đà Phật có
nghĩa như sau: Nam-mô là quy y, A là vô, Di Đà là lượng,
Phật là giác. Dịch toàn bộ [Phật hiệu] sang
nghĩa tiếng Hán là Quy y Vô Lượng Giác. Quy (皈) là quay đầu lại, chúng
ta từ mê hoặc, điên đảo quay đầu lại,
nương vào Giác. Khởi vọng tưởng là mê hoặc,
điên đảo; quay đầu trở lại, ta không khởi
vọng tưởng nữa, niệm Nam-mô A Di Đà Phật,
từ tà tri kiến mà quay đầu lại. Phàm là tri kiến
th́ đều là tà tri kiến, v́ sao? Trong chân tâm không có tri kiến,
cho nên nói: “Vô trí, diệc vô
đắc”. Bát Nhă vô tri mà! Quư vị đọc kinh Đại
Bát Nhă, Bát Nhă là ǵ? Bát Nhă vô tri, trong tâm thanh tịnh một niệm
chẳng sanh, vô tri mà! Khi khởi tác dụng th́ không ǵ chẳng
biết. Ví như cái chuông, chuông chẳng vang ra tiếng, quư
vị vừa gơ nó liền ngân vang, gơ mạnh bèn kêu to, gơ nhẹ
sẽ kêu nhỏ. Khi quư vị gơ, nó chẳng động tâm:
“Ông gơ tôi, tôi nên ngay lập tức ngân vang”, nó không có ư niệm
ấy. Chân tâm của chúng ta cũng giống như thế!
Do vậy, chân tâm không có niệm, chân tâm không có “tri”, nhưng
khi khởi tác dụng th́ không ǵ chẳng biết. Trong tâm
quư vị “có tri” là hỏng rồi, như vậy là quư vị
có cái chẳng biết. Do vậy, quư vị muốn cầu
trí huệ, th́ phải cầu ǵ? Cầu vô tri. Quư vị tính
học cái này, tính học cái kia, càng học nhiều, càng rối
ren, v́ sao? Giống như cái chuông nhét chặt cứng th́ gơ cách
nào nó cũng chẳng ngân!
Do vậy, tâm phải thanh tịnh, phải
rỗng rang, rỗng rang th́ mới linh, linh giác đấy!
Hễ thấy liền biết, hễ nghe liền biết.
Đó là “không ǵ chẳng biết”, trí huệ thật sự.
Đó là tác dụng của tự tánh thanh tịnh tâm. Trí huệ
của Phật, Bồ Tát và cổ thánh tiên hiền đều
là như vậy. Nói đến chỗ này, Liên Tŕ đại
sư tự ḿnh quả thật đă đạt đến
chân tu thực tiễn, v́ những điều
[được nêu ra] trong bản chú giải này đều
là cảnh giới Hiện Lượng lưu lộ từ
tự tánh thanh tịnh tâm của chính Ngài, tuyệt đối
chẳng phải là bàn suông! Ngài nói câu nào cũng đều
là chân thật. Hôm nay đă hết giờ rồi!
A Di
Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa
Phần 18 hết
[1] Châu Công tên thật là Cơ Đán, là con
trai thứ tư của Châu Văn Vương (Cơ
Xương), em trai của Châu Vũ Vương (Cơ
Phát), do được phong thái ấp ở Châu Thành (nay thuộc
huyện Phụng Tường, tỉnh Thiểm Tây) nên gọi
là Châu Công. Con cháu của Châu Công là người nước
Lỗ, nên Châu Công c̣n được gọi là Lỗ Châu
Công. Khi Châu Vũ Vương mất, con trai là Châu Thành
Vương (Cơ Tụng) c̣n nhỏ, Châu Công phù tá, giữ
quyền nhiếp chánh, suốt ba năm dẹp nội loạn,
chế định lễ nhạc, pháp luật, chú giải
kinh Dịch, đặt vững nền tảng cho Nho Giáo
cũng như vương triều nhà Châu. Ông nổi tiếng
là người hiền lương, trung chánh, chí công vô
tư. Do vậy, ông được hậu thế xưng tụng
là thánh nhân. Tống Chân Tông từng truy tặng ông tước
hiệu Văn Hiến Vương, và kinh điển Nho gia
thường gọi ông bằng mỹ hiệu Nguyên Thánh.
[2] “Thua một thẻ” có nghĩa là thua kém.
Trù (籌) là
cái thẻ dùng để đếm, hay tính toán thời cổ.
Trong sách A Di Đà Kinh Sớ Sao Sự Nghĩa, Liên Tŕ đại
sư giải thích như sau: “Trù
là tính toán. Trương Lương nói: “Thỉnh tá tiền
trợ, trù chi” (Xin mượn đôi đũa để
tính toán) là dùng theo ư này. Lại nữa, cổ nhân chơi bài
phạt kẻ thua uống rượu, dùng thẻ để
ghi nhớ h́nh phạt. Dương Toản chẳng đồng
ư với h́nh phạt của Doăn Quân, muốn sửa đổi,
bèn cầm bút, trầm ngâm, hồi lâu sau nói: “Toản thua một
thẻ”.
[3] Bà Diệp Mạn (tên thật là Lưu
Thế Luân), người Hồ Nam, sanh năm 1914, vợ
ông Điền Bảo Đại, được coi là một
chuyên gia văn hóa quán thông Nho - Đạo - Phật của
Đài Loan. Ông Điền, chồng bà ta, từng làm đại
sư tại Mỹ, Nhật, Phi Luật Tân, Úc v.v... Bà ta
sáng lập Văn Hiền Học Hội nhằm truyền
bá Tam Giáo, thành lập Văn Hiền Thư Viện tại
Los Angeles, mỗi năm mở nhiều khóa giảng Tứ
Thư, Đạo Đức Kinh và kinh Phật. Bà ta cũng
dạy học tại đại học Phụ Nhân tại
Đài Loan, kiêm chủ biên tờ Phụ Nữ Tạp Chí.
[4] Xin lưu ư ở đây Ḥa Thượng
không hề chê bai Mật Tông, Ngài chỉ chê thói tệ của
những người mạo danh tu Mật Tông. Nhất là hiện
thời có những người học được một
hai pháp, được “quán đảnh danh nghĩa” (tức
là tham dự các buổi empowerment nhằm kết duyên) của
các lạt-ma Tây Tạng, bèn ngộ nhận đă được
quán đảnh đúng pháp, lập tức lập tông, lập
phái, lập đạo tràng, tự xưng là Thượng
Sư hay Pháp Vương để quán đảnh, truyền
pháp cho người khác, lập ra rất nhiều dị
thuyết, không giữ giới luật, thậm chí mạo
nhận ḿnh là hóa thân của vị này vị nọ, gây tổn
hại rất lớn cho Mật Tông nói riêng và Phật pháp
nói chung.
[5] Ḥa Thượng giảng bộ Sớ
Sao này vào năm 1984-1985.
[6] Như Như có nghĩa là các pháp đều
b́nh đẳng, không hai. Như là tên gọi khác của Lư, tức
bản thể bất biến, b́nh đẳng, hoàn toàn
vượt khỏi đối đăi, so lường, nên gọi
là Như. Do pháp nào cũng đều là Như, nên gọi là
Như Như (thường được diễn tả bằng
câu: “Do cái này Như nên cái kia
Như”), nhằm nhấn mạnh ư nghĩa vạn pháp
b́nh đẳng, vô sai biệt.
[7] Tự Lượng là cách so sánh để
nhận hiểu sự vật dựa trên kiến giải
chủ quan của chính ḿnh. Do nó không thuộc ba thứ
Lượng (Hiện Lượng, Tỷ Lượng, và
Thánh Ngôn Lượng) nên gọi là Tự Lượng (Tự
là tương tự). Do Hiện Lượng, Tỷ Lượng
và Thánh Ngôn Lượng dựa trên chánh tri chánh kiến hoặc
dựa trên trí huệ của thánh nhân (Phật, Bồ Tát, La
Hán, Thanh Văn, Duyên Giác), nên chúng c̣n gọi là Chánh Lượng.
“Không đằng” là bay vọt
lên không. Do vậy, “không đằng
tự lượng” có nghĩa là so sánh, lănh hội mọi
pháp bằng tà tri tà kiến, thiên kiến của chính ḿnh, rồi
lập ra đủ mọi thứ ư kiến, tranh chấp
tưng bừng.