A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa
阿彌陀經疏鈔演義
Phần 22
Chủ giảng:
Lăo pháp sư Tịnh Không năm 1984
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh: Huệ
Trang và Đức Phong
Tập
43
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn
Nghĩa Hội Bản, trang năm mươi ba:
(Sớ)
Lương diêu thế xuất thế gian, vô nhất pháp xuất
ư tâm ngoại. Tịnh Độ sở hữu y báo,
chánh báo, nhất nhất giai thị Bổn Giác diệu minh.
Thí chi b́nh, hoàn, thoa, xuyến, khí khí duy kim. Khê, giản, giang,
hà, lưu lưu nhập hải, vô bất tùng thử pháp giới
lưu, vô bất hoàn quy thử pháp giới dă.
(疏)良繇世出世間,無一法出於心外,淨土所有依報正報,一一皆是本覺妙明。 譬之瓶環釵釧,器器唯金。溪澗江河,流流入海。無不從此法界流,無不還歸此法界也。
(Sớ: Ấy là v́ trong thế gian lẫn xuất
thế gian, không một pháp nào ra ngoài tâm. Tất cả y báo
và chánh báo của Tịnh Độ, mỗi thứ đều
là Bổn Giác diệu minh. Ví như
b́nh, ṿng, thoa, xuyến, món nào cũng chỉ là vàng. Khe, suối,
sông, rạch, ḍng nào cũng đều đổ vào biển,
không ǵ chẳng từ pháp giới này lưu xuất, không ǵ
chẳng trở về pháp giới này).
Bắt đầu xem từ
đoạn này, đại ư của đoạn này đă nói
trong lần trước, nhưng v́ thời gian hạn chế
nên tôi không thể giảng cặn kẽ được. Lần
này, các vị đồng tu muốn tôi nói cặn kẽ
hơn một chút. Do vậy, chúng ta lại bắt đầu
xem từ chỗ này. Chỉ thú của đoạn này chẳng
khác ǵ kinh Hoa Nghiêm. Hôm nay, các đồng tu nghe giảng phần
mở đầu kinh Hoa Nghiêm, nghe giảng hai đoạn
đầu trong phần Năm Tầng Huyền Nghĩa (Ngũ
Trùng Huyền Nghĩa), ngày mai mới có thể thảo luận
các phần Hiển Thể, Minh Tông, và Luận Dụng,
nhưng đă có thể thấy được ư nghĩa rồi!
Những điều này toàn là cảnh giới đích thân chứng
nhập của Phật và đại Bồ Tát nơi quả
địa. Đấy mới gọi là pháp giới chân thật.
Thường là đối với những cảnh giới
giống như thế này, khi chúng ta mới tiếp xúc, ắt
cảm thấy nghi hoặc v́ chúng hoàn toàn khác với kiến
thức và sự thấy nghe thông thường của chúng
ta. Chúng ta đă quen với cảnh giới hư vọng, từ
nhiều kiếp lâu xa đến nay đă dưỡng thành
thói quen, nay đức Phật giảng lẽ chân thật,
đâm ra chúng ta rất khó tiếp nhận! Hy vọng các
đồng tu học Phật huân tập lâu ngày sẽ có thể
dần dần khế nhập, nhưng điều quan trọng
nhất là quư vị đích thân chứng đắc cảnh
giới này th́ mới là thụ dụng chân thật.
Trước hết, chúng ta phải
tin tưởng. Do vậy, các bộ kinh lớn thường
nói: “Tín vi đạo nguyên, công
đức mẫu” (Ḷng tin là nguồn đạo, là mẹ
của các công đức). Trước hết phải tin
tưởng, đức Phật quyết định chẳng
dối gạt chúng ta. Đức Phật chế định
căn bản đại giới là “bất vọng ngữ”
th́ làm sao đức Phật có thể dối gạt chúng ta
được? Cũng có người nói: “Cũng có khi v́
thiện ư đức Phật mà nói dối, mong chúng ta cảm
thấy được an ủi!” Nếu quư vị nghĩ
là thiện ư th́ cách nghĩ ấy cũng sai bét rồi! Dẫu
v́ thiện ư, đức Phật cũng chẳng dùng đến
vọng ngữ. V́ trong Phật pháp, nếu chúng ta phát hiện
đức Phật đă từng nói dối một lần,
tín tâm của chúng ta đối với đức Phật sẽ
bị giảm bớt. V́ sao? Đức Phật đă từng
nói dối một lần, đại khái là lần này chúng
ta cũng khó thể tin cậy được! T́nh h́nh này giống
như trong thế gian, người Trung Quốc thường
nói: “Quân tử c̣n chẳng chịu làm, huống hồ Phật,
Bồ Tát?” V́ thế, kiến lập tín tâm hết sức
trọng yếu. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, nói pháp
môn nào, chắc chắn đức Phật chẳng nói dối
một chữ, đúng như trong kinh Kim Cang, Ngài đă nói: “Như Lai thị chân ngữ giả,
thật ngữ giả, như ngữ giả, bất dị
ngữ giả, bất cuống ngữ giả” (Như
Lai là bậc nói lời thật, nói đúng như thật,
chẳng nói sai khác, chẳng nói dối). Điều này khiến cho chúng ta có tín tâm to lớn
không ǵ bằng. V́ thế, đầu tiên là phải tin
tưởng.
Ḷng tin trong Phật pháp không phải
là mê tín. Tin rồi, nhất định phải cầu giải
(thấu hiểu). Nói cách khác, chúng ta tin tưởng chuyện
này, về mặt Sự th́ hợp lư, có căn cứ lư luận.
Sau khi đă hiểu rơ Lư, vẫn chưa phải là hết,
c̣n phải chứng thực. Nếu chẳng đích thân chứng
đắc, ḷng tin ấy chẳng phải là ḷng tin chân
chánh. Phật pháp khác biệt các tôn giáo khác ở chỗ này.
Phật pháp là phải cầu chứng, phải nhất
định đích thân chứng thực những ǵ đă
tin. Thật sự có thế giới Tây Phương, nơi
ấy cũng thật sự có, mà cũng thật sự có
thể chứng đắc được. Trong quá khứ,
không phải ở Ấn Độ, mà ở Trung Quốc,
quư vị đọc những điều được
ghi chép trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục và Văng Sanh
Truyện, quả thật có người lúc văng sanh bèn chứng
đắc [cơi Cực Lạc].
Người
thứ nhất nói rơ cho chúng ta biết là Huệ Viễn
đại sư thời Đông Tấn. Ngài sống cùng thời
đại với những danh nhân trong lịch sử Trung
Quốc như Đào Uyên Minh, Tạ Linh Vận... Trong thời
ấy, Cưu Ma La Thập đại sư cũng đến
Trung Quốc vào lúc đó. Các vị này đều là những
người rất nổi tiếng. Ngài Huệ Viễn lập
Liên Xă tại Lô Sơn cùng với các đồng tu chí đồng
đạo hợp niệm Phật. Do vậy, Tịnh Độ
Tông do lăo nhân gia kiến lập đầu tiên, liên xă của
Ngài là liên xă đầu tiên của Trung Quốc, Ngài là tổ
sư đời thứ nhất của Tịnh Độ
Tông. Khi Ngài văng sanh đă nói rơ cùng đại chúng đồng
tu: Khi Ngài niệm Phật (Ngài suốt đời niệm
Phật), từng ba lượt thấy thế giới Tây
Phương hiện ra trước mặt. Ngài không nằm
mộng, mà là đang trong lúc chỉ tịnh khi niệm Phật.
Điều này cũng chẳng
giống như Thiền Tông tham Thiền, chẳng phải
vậy, mà là khi niệm Phật đạt đến tâm
thanh tịnh, Tây Phương Cực Lạc thế giới
hiện tiền, trong một đời Ngài đă thấy
ba lần. Ngài thấy cảnh giới ấy hoàn toàn giống
như trong kinh Vô Lượng Thọ và Quán Kinh đă nói. Lúc
Ngài tịch, A Di Đà Phật, Quán Âm, Thế Chí và các vị
thượng thiện nhân đến đón tiếp Ngài. Trong
số ấy c̣n có những người Ngài quen biết, tức
là những người cộng tu trong Liên Xă nhưng đă
văng sanh trước, đều cùng theo A Di Đà Phật
đến đón tiếp Ngài. Cảnh giới ấy rơ
ràng, rành mạch, chúng ta thường là do mắt thịt nên
không thể thấy, nhưng Ngài có thể thấy, đó là
thật, chẳng phải giả!
Vậy th́ người không niệm
Phật, thưa quư vị, khi họ lâm chung cũng có cảnh
giới hiện tiền, nhưng chúng ta không thấy. Nếu
quư vị muốn cầu chứng, có thể đến bệnh
viện Vinh Dân, hoặc bệnh viện Tam Quân, quư vị hăy
đến đó cầu chứng, các bác sĩ và y tá nơi
đó đều biết. Trước khi bệnh nhân sắp
mất một hai ngày, sẽ lại thấy người
này, người nọ, thấy cả đống người,
nói với mọi người: “Người này đứng
trước mặt tôi, người nọ đứng ở
chỗ nào đó”. Chúng ta không thấy, nhưng những
điều người ấy thấy hoàn toàn là chân thật,
chẳng giả chút nào. Do vậy, quá nửa là họ thấy
tướng ác, tướng hung ác.
Chúng tôi cũng có một vị
đồng tu, khi cha ông ta bệnh nặng, cũng thấy
có người rất hung ác. Họ đưa ông cụ ra
ngoài pḥng bệnh, đỡ cụ lên xe lăn để
đưa cụ đi dạo trên hành lang. Khi trở về
pḥng, cụ chẳng dám vào, nói: “Trong đó có rất nhiều
người, thái độ và diện mạo hết sức
đáng sợ”, sợ đến nỗi cụ không dám
bước vào. Người khác vào pḥng xem chẳng thấy
ǵ cả mà cụ vẫn chẳng dám vào. Ngày hôm ấy không
có cách nào khác, chỉ đành đưa cụ về nhà.
Đấy là cảnh giới ác hiện tiền! Khéo sao
trong nhà cụ con ruột, con dâu đều niệm Phật,
nghe cụ kể cảnh giới ấy, tuyệt đối
chẳng phải là giả; do vậy, họ khuyên cụ niệm
Phật.
Niệm Phật mấy hôm, cụ
bảo người nhà: “Cảnh giới ấy không c̣n nữa,
chẳng thấy nữa!” Lại niệm mấy hôm, cụ
thấy A Di Đà Phật. Chẳng những cụ trông thấy,
mà con cái cụ cũng trông thấy, nhưng hai người
trông thấy khác nhau. Con của cụ thấy một tượng
A Di Đà Phật đứng (sắc vàng), tượng Phật
ấy tợ hồ ở trên cửa sổ. Cửa sổ
được lắp kiếng trong suốt, thấy tượng
Phật ấy dường như ở trên cửa sổ. Thấy
rất lâu, gần như cả mười phút, tượng
chẳng biến mất mà luôn ở đó. Đến cuối
cùng càng nh́n thấy tượng càng nhỏ, nhỏ dần
rồi biến mất. Do vậy, đây là cảnh giới
chân thật, trọn chẳng phải là hoa mắt. V́ thế,
cảnh giới ấy thật sự có, cảnh giới
đều là duy tâm sở hiện; bởi vậy, nói “chẳng ngoài nhất tâm, chẳng
ở ngoài tâm”. Chúng ta hăy đọc lời chú giải
trong sách Diễn Nghĩa.
(Diễn) Thế xuất thế
gian, bất xuất tâm ngoại giả.
(演) 世出世間,不出心外者。
(Diễn: “Thế gian và xuất thế gian chẳng
ra ngoài tâm” là...)
Chúng ta xem đoạn này.
(Diễn) Thế gian nhiễm
pháp.
(演) 世間染法。
(Diễn: Thế gian là nhiễm pháp).
Trước tiên, chúng tôi giải
thích “pháp” là ǵ. Trong nhà Phật,
chữ này được dùng rộng răi nhất. Do vậy
gọi là Phật pháp, Phật pháp vô biên! Trong Phật môn, chữ
“pháp” được giải
thích là một đại danh từ chung, bao gồm hết
thảy lư luận, hết thảy hiện tượng, hết
thảy sự vật trong vũ trụ, có thể nói là quá
nhiều, không thể kể xiết. Lớn như hư
không, thế giới, nhỏ như một ngọn cỏ,
một cái cây, một hạt vi trần, đều có thể
nói quá phức tạp, quá ư là nhiều. Nếu chúng ta nói
từng chuyện, sẽ chẳng thể nói cùng tận. V́
vậy, Phật pháp dùng một chữ để làm đại
danh từ chung, chữ ấy chính là “pháp”. Do đó, “pháp”
là đại danh từ chung cho hết thảy vạn sự
vạn vật thuộc vũ trụ và nhân sinh.
Pháp chẳng có nhiễm hay tịnh,
làm sao pháp có thể nhiễm hay tịnh cho được?
Không thể nói nhiễm, mà cũng chẳng thể nói tịnh.
Nhiễm hay tịnh là do tâm, nhiễm hay tịnh là do cái tâm
của chính ḿnh. Nếu đối với pháp này, tâm chúng ta
chấp tướng, chấp trước nó, khởi lên ư
niệm th́ nó bèn nhiễm, bị ô nhiễm rồi! Nói thật
ra là “chẳng nhiễm mà nhiễm,
nhiễm mà chẳng nhiễm”. Nếu tâm thanh tịnh thật
sự bị ô nhiễm, há c̣n có thể trừ khử ô nhiễm
được sao? Chẳng thể trừ được!
V́ sao nói chẳng nhiễm mà nhiễm? Ví như hai ngày nay trời
u ám, chúng ta thấy trời kéo rất nhiều mây, mây che khuất
ánh sáng mặt trời, mặt trời bị mây ô nhiễm
rồi! Mây có thể ngăn che mặt trời hay chăng? Chẳng
thể nào! Một áng mây quá nhỏ. Các nhà khoa học hiện
thời đă biết: Thái dương lớn hơn địa
cầu một trăm ba mươi vạn lần, bỏ
địa cầu vào trong mặt trời, bé tí, chẳng bị
cháy tiêu hay sao? Mây làm sao có thể ngăn che mặt trời?
T́nh h́nh này chính là “chẳng nhiễm mà nhiễm”, [tức là]
giống như bị nhiễm, chứ thật ra chẳng
nhiễm. Do vậy, tâm thanh tịnh là chân thật, tâm ô nhiễm
là giả, là bất đắc dĩ mà nói, là mê một lúc,
trọn chẳng phải là cái tâm thanh tịnh của chúng
ta bị mất đi. V́ thế, đối với nhiễm
mà nói tịnh, tịnh và nhiễm là tương đối,
đều nhằm mục đích thuyết pháp thuận tiện
mà lập ra danh tướng, đó là danh từ thuật ngữ.
Nói tới “nhiễm” tức là
khởi lên ư niệm tham, sân. Trong cảnh giới chúng ta
thường tiếp xúc, đối với những cảnh
rất phù hợp ư nghĩ của chính ḿnh bèn khởi tâm
tham. Tham là nhiễm, v́ sao? Trong tâm thanh tịnh không có tham.
Tham là phiền năo, không có phiền năo ấy. Đối với
cảnh giới chẳng hợp ư nghĩ của chính ḿnh
bèn khởi tâm sân. Nóng giận do nghịch cảnh sanh ra,
tham ái do thuận cảnh sanh ra, chúng đều ô nhiễm
cái tâm thanh tịnh, ô nhiễm trí huệ quang minh sẵn có,
nên gọi là “nhiễm”. Chúng tôi nêu lên hai thí dụ này, chúng
là căn cội to lớn của nhiễm pháp; nếu nói cặn
kẽ, sẽ chẳng thể nói hết được! V́
vậy, những thứ này đều gọi là “phiền
năo”.
Phật pháp nói tới vô lượng
vô biên phiền năo. Trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện nói
“phiền năo vô tận thệ
nguyện đoạn”. Tham sân là căn bản, là đại
căn đại bản. Khi viết Bách Pháp Minh Môn Luận,
Thiên Thân Bồ Tát đă quy nạp vô lượng vô biên phiền
năo thành hai mươi sáu loại lớn, có sáu món là Căn Bản
Phiền Năo, hai mươi món [c̣n lại] là Tùy Phiền Năo.
Rất nhiều đồng tu đă từng đọc luận
này. Đấy là những điều được giảng
trong Bách Pháp Minh Môn Luận. Trong kinh luận, chúng ta thường
thấy nói tới Kiến Tư phiền năo, thật ra chúng
chính là Căn Bản Phiền Năo như trong Bách Pháp Minh Môn
Luận đă giảng[1]. Kiến Hoặc
gồm năm loại, Tư Hoặc gồm năm loại.
Kiến Hoặc là những sai lầm về mặt kiến
giải, phát sanh từ những kiến giải sai lầm.
Tư Hoặc là do tư tưởng sai lầm biến hiện.
Những điều này đều là duy thức sở biến,
biến ra, chúng thật sự không có, mà là giả có.
Nếu quư vị chẳng hiểu
chân tướng sự thật này, chúng sẽ khởi tác dụng,
quư vị bị chúng nó trói buộc, sẽ chịu khổ,
có cảm giác khổ sở. Nếu quư vị quán sát, thấy
thấu suốt nó là giả, chẳng thật, quư vị sẽ
thoát khỏi những phiền năo ấy. Có thể giải
thoát, có thể vượt thoát, thậm chí có thể chuyển
biến nó, đó gọi là “chuyển
phiền năo thành Bồ Đề”. Thật ra, trí huệ
và phiền năo là một chuyện, khi mê th́ là vô lượng
vô biên phiền năo; lúc ngộ bèn là vô lượng vô biên trí
huệ. Nó là một thứ, chẳng phải hai thứ; phiền
năo ta không cần, được rồi, trí huệ cũng
chẳng có. Bản thể của chúng là một, quư ở
chỗ biết chuyển biến. Quư vị phải tự
ḿnh biết chuyển biến, chuyển phiền năo thành Bồ
Đề, chuyển sanh tử thành Niết Bàn. Thể là một,
không hai.
Có nhiễm pháp tồn tại
th́ chúng ta gọi là thế gian; nếu không có nhiễm pháp
th́ chúng ta gọi đó là xuất thế gian. Thật ra, thế
gian cũng chẳng có xuất hay nhập! Xuất thế
và nhập thế cũng chỉ là một danh từ bị
biến hóa mà thôi. Thuật ngữ văn tự đâu có thế
gian hay xuất thế gian? Chúng ta nhất định phải
hiểu rơ điều này. V́ vậy, một mê, hết thảy
mê; một ngộ, hết thảy ngộ, quyết chẳng
phải là nói ta ngộ nơi này, ta mê nơi kia, không có lẽ
ấy! Đó là một, chẳng phải hai. Nếu nói bản
thân chúng ta khai ngộ rồi, có rất nhiều người
chẳng liễu giải chân tướng sự thật
này, tự cho ḿnh là khai ngộ, lại c̣n có những kẻ
đi chứng minh cho người khác, tức là chứng nhận
người khác khai ngộ. Tại Los Angeles, tôi đă từng
thấy hiện tượng này.
Khi tôi đang giảng kinh, trong
thính chúng có người bảo tôi: “Có năm người đă
khai ngộ. Có vị Thượng Sư X.... xoa đầu
thọ kư cho họ, nói năm người ấy đă khai
ngộ”. Trong số ấy, có hai người cũng đến
thăm hỏi tôi, tôi vừa nh́n, [biết ngay là họ]
chưa khai ngộ! V́ sao biết họ chưa ngộ? Họ
đến thưa hỏi tôi, thỉnh giáo tôi mấy vấn
đề, tôi trả lời: “Nếu quư vị đă khai ngộ,
quư vị chẳng đến gặp tôi, cũng chẳng hỏi
tôi này nọ. Nếu quư vị đến hỏi tôi, đến
chỗ tôi thỉnh giáo, đủ thấy quư vị chưa
khai ngộ. Đó là thật, chẳng giả chút nào! V́ sao?
Tôi chưa khai ngộ, quư vị đă khai ngộ mà c̣n có câu
hỏi phải đến hỏi tôi là một kẻ
chưa khai ngộ, chẳng phải là quư vị điên
đảo hay sao? Lẽ đâu có chuyện ấy? Gạt kẻ
lơ mơ mà thôi!”
Họ bèn hỏi tôi: “Người
khai ngộ là như thế nào?” Tôi nói: -
Người khai ngộ thông đạt hết thảy. Quư
vị đọc Đàn Kinh, Lục Tổ đă khai ngộ,
Lục Tổ hướng về ai thỉnh giáo? Chỉ có
người ta đến thỉnh giáo Ngài, Ngài “một ngộ,
hết thảy ngộ”. Lục Tổ chưa từng đọc
kinh, bất cứ ai đem những điều ǵ trong
kinh điển đến hỏi Ngài, Lục Tổ không biết
chữ, quư vị đọc cho Ngài nghe, Ngài vừa nghe xong
liền giảng đạo lư cho quư vị nghe, giảng thật
viên măn, chẳng sai tí nào. Đó là khai ngộ. Nay quư vị
khai ngộ, nhưng cầm kinh điển xem không hiểu,
c̣n đến hỏi tôi, chứng tỏ quư vị chưa
khai ngộ! Kẻ ấn chứng quư vị đă khai ngộ
là hạng gạt người!
Là v́ trong hiện tại, những
người trẻ tuổi ham cao chuộng xa, ưa lạ
chuộng quái, v́ thế có những kẻ cố ư giở tṛ
để lường gạt, chính quư vị bị gạt
mà không biết, thật đáng thương! Họ thọ
kư cho quư vị, nói quư vị đă khai ngộ. Quư vị đi
rồi, họ cười sau lưng quư vị: “Đồ
ngốc nghếch! Thứ đần độn! Lừa gạt
nó mà nó vẫn chẳng biết ǵ! Nó cứ tưởng nó đă
thật sự khai ngộ”. Do vậy, ngộ và chẳng ngộ,
chính ḿnh hiểu đích xác, ngộ th́ tâm thanh tịnh, mê th́
tâm khởi phiền năo, tâm chẳng b́nh tịnh, vọng niệm
rất nhiều; đó đều là hiện tượng mê
hoặc.
(Diễn) Nhiễm tịnh tuy thù, bất ly tự tâm.
(演) 染淨雖殊,不離自心。
(Diễn: Nhiễm tịnh tuy khác, chẳng ĺa tự
tâm).
“Nhiễm
- tịnh” tuy là hai thứ cảnh giới khác xa nhau,
nhưng “bất ly tự tâm”:
Một đằng là tâm ngộ, một đằng là tâm
mê. Nếu tâm ngộ th́ là tịnh, được gọi
là xuất thế gian. Nếu tâm mê th́ là nhiễm, được
gọi là thế gian. Đều là tâm, tâm giác hay mê [mà thôi]!
(Diễn) Dĩ ly tâm vô lục
đạo.
(演) 以離心無六道。
(Diễn: V́ ĺa tâm th́ không có lục đạo).
Cảnh giới được
hiện bởi mê và ngộ khác nhau. Khi mê, Nhất Chân pháp giới
biến thành cảnh giới lục đạo luân hồi.
Do vậy, lục đạo luân hồi do đâu mà có? Do
chính ḿnh biến hiện. Chính ḿnh biến hiện cho chính
ḿnh thụ dụng, cho chính ḿnh chịu đựng. Khổ
quá! Ví như chính ḿnh chế tạo xiềng chân, c̣ng tay, chế
tạo ra chúng để làm ǵ? Để tự trói buộc
ḿnh. Kẻ mê hoặc làm chuyện ấy, giống như tằm
kéo kén tự trói buộc ḿnh. Người mê hoặc làm chuyện
ấy. Sau khi đă ngộ th́ là tam thừa.
(Diễn) Ly tâm vô tam thừa cố.
(演) 離心無三乘故。
(Diễn: Ĺa tâm th́ chẳng có tam thừa).
“Tam
thừa” là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, vượt thoát
lục đạo. Do vậy nói: Ngộ th́ lục đạo
biến thành tam thừa, mê th́ tam thừa biến thành lục
đạo. Cảnh chuyển theo tâm, chẳng phải là tâm
chuyển theo cảnh. Đức Phật chỉ điểm
cho chúng ta điều này; nói thật ra, đúng là ân đức
không chi lớn bằng! Do từ khải thị này, chúng ta
đích xác có cơ duyên phá mê khai ngộ, có cơ hội ấy.
Do trước kia, chúng ta không biết chân tướng sự
thật này, Ngài bảo cho chúng ta biết. Hiện tượng
thật sự vốn là là cảnh giới chuyển theo
tâm. Hễ cảnh giới chuyển biến theo cái tâm, con người
sẽ rất tự tại! Nếu tâm chuyển theo cảnh
giới, sẽ hết sức đau khổ: Bất luận
gặp chuyện nhỏ nhặt nào, cũng đều phải
hỏi ư thần, hỏi thầy bói, hỏi thầy Phong Thủy,
khổ lắm, khổ đến cùng cực! Nhất cử
nhất động đều bị trói buộc, tâm bị
cảnh chuyển mà!
Nếu cảnh chuyển theo tâm,
quư vị sẽ tự tại. Về căn bản, quư vị
chưa biết sử dụng cách này. Bất luận quư vị
ngồi ở nơi đâu, Phong Thủy nơi đó không tốt,
chỉ cần quư vị ngồi xuống, Phong Thủy bèn
chuyển biến, chuyển thành Phong Thủy tốt đẹp,
tự tại lắm! Hoàn toàn do cái tâm thanh tịnh của
chính quư vị. Quư vị tin vào bản thân th́ cảnh giới
sẽ chuyển theo quư vị. Quư vị chẳng tin tưởng
chính ḿnh, mà tin vào Phong Thủy, tin vào vận mạng, quư vị
sẽ bị cảnh giới xoay chuyển! Do vậy, nói
đến vận mạng th́ chuyện này rất
đơn giản, vấn đề là quư vị có ḷng tin
vào chính ḿnh hay không? Quư vị có tâm thanh tịnh hay không? Quư vị
có tâm thanh tịnh, có ḷng tự tin, chắc chắn chuyển
được vận mạng. Đoạn này nhằm bảo
với chúng ta như thế. Chính ḿnh nhất định có
thể làm chủ tể, mười pháp giới đều
chẳng ra ngoài nhất tâm. Trong tam thừa, Bồ Tát đạt
đến viên măn rốt ráo th́ gọi là Phật. Do vậy,
nói tam thừa bao gồm cả Phật. Bồ Tát và Phật
cùng một loại, là Đồng Sanh Tánh[2],
là một loại. Lại xem đoạn kế tiếp:
(Diễn) Tịnh Độ y chánh,
giai thị Bổn Giác giả.
(演) 淨土依正,皆是本覺者。
(Diễn: Y báo và
chánh báo của Tịnh Độ đều là Bổn Giác).
V́ sao thế giới Tây
Phương trang nghiêm như thế? Đạo lư ở chỗ
nào? Đức Phật bảo chúng ta: Sự trang nghiêm thanh
tịnh của thế giới Tây Phương là do tâm thanh
tịnh của chúng sanh ở nơi đó hiện ra. Do
đây, có thể biết: Sự ô uế trong thế giới
này là do cái tâm ô nhiễm của chúng sanh trong thế giới
này hiện ra! V́ thế, nói thật ra, đối với đại
hoàn cảnh sống, núi, sông, cơi nước của chúng ta, bản
thân mỗi một cá nhân chúng ta đều phải có trách
nhiệm. Trong kinh nói rất rơ ràng, đó là “cộng nghiệp sở cảm”, tức là do cộng
nghiệp của chúng sanh [cảm thành thế giới này]. Nếu trong một quốc
gia, ai nấy đều tuân thủ pháp tắc, ai nấy giữ
lễ, xă hội ấy sẽ tự nhiên xuất hiện sự
an tường, ḥa thuận. Nếu mỗi cá nhân đều
chẳng giữ pháp tắc, mỗi cá nhân đều mánh
khóe, lươn lẹo, xă hội nhất định động
loạn, đó là đạo lư nhất định. V́ thế,
cổ nhân có nói, như trong sách Tả Truyện đă chép: “Quốc chi tương hưng,
thính ư dân; quốc chi tương vong, thính ư thần”
(Nước sắp hưng thịnh, nghe theo ư dân; nước
sắp mất, nghe theo lời thần). Hết thảy
đều bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển, quốc
gia ấy nhất định phải diệt vong! Nếu
nghe theo ư kiến của mọi người để lo liệu
mọi sự, quốc gia ấy nhất định
hưng vượng, nghe theo ư dân th́ quốc gia ấy phải
hưng thịnh.
Chúng ta thấy triều đ́nh
nhà Thanh là một tấm gương rơ rệt nhất! Người
trong triều đ́nh nhà Thanh chẳng phải là thiếu học
thức, nhưng họ học hành mà chẳng biết vận
dụng, xử sự hồ đồ! Chúng ta nh́n vào lịch
sử của triều đ́nh nhà Thanh, khi người Măn
Thanh vào bên trong quan ải, thuở ấy, họ thật sự
nghe theo ư dân, tôn trọng ư kiến của quần chúng, cho nên
có thể thu phục ḷng dân Trung Quốc. Dân chúng Trung Quốc
ủng hộ họ: “Họ có thể bảo vệ dân
chúng, luôn luôn nghĩ cách tạo lợi ích cho dân chúng, chúng ta
sẽ ủng hộ họ”. Nếu họ chẳng
được đại đa số dân chúng ủng hộ,
làm sao họ có thể lập quốc gần ba trăm
năm? Đây chẳng phải là chuyện dễ dàng! Khi
Thanh triều sắp diệt vong, trong quá khứ, Chương
Gia đại sư đă bảo tôi: Ngài có quan hệ mật
thiết với hoàng tộc nhà Thanh, Từ Hy thái hậu là
đệ tử quy y của Chương Gia đại
sư, [tức là đệ tử quy y] của vị
Chương Gia thuộc đời trước, chứ
không phải đời hiện tại.
Tôi đă từng hướng về
lăo nhân gia thưa hỏi chuyện cầu cơ. Vào lúc nhỏ,
khi tôi đi học Tiểu Học ở Phước Kiến
đă từng thấy chuyện này, thấy họ pḥ cơ[3]. Sau khi đến
Đài Loan cũng có thấy, nhưng thấy họ cầu
cơ hoàn toàn khác hẳn. Do vậy, tôi rất hoài nghi, tôi thỉnh
giáo lăo nhân gia. Tôi tin tưởng cách cầu cơ ở
Đại Lục, v́ chẳng phải là một người
[hầu cơ bút], lại c̣n chẳng phải là “cơ
đồng” chuyên nghiệp. Thỉnh thần giáng cơ quá
nửa là người kéo xe, gánh nước, bán củi,
đều là những người không biết chữ, tùy
tiện kiếm được, tùy tiện mời từ
ngoài đường vào. Cầu cơ xong, tặng phong bao
ĺ x́ cho họ, làm như vậy đó. Tùy tiện mời
đến, tuyệt đối thỉnh những người
lao động nặng không biết chữ. Hai người
pḥ cơ, viết chữ trên mâm cát, chữ viết rất
quy củ, viết theo lối chữ Chánh Khải, chúng tôi ở
bên cạnh nh́n đều nhận ra. Mỗi lần đại
khái là trong một giờ có thể viết ra ba bốn chục
chữ, không nhiều! Do họ là những người không
biết chữ, nương vào sức của thần để
di chuyển cơ bút. V́ thế, tôi cảm thấy chuyện
ấy là thật, chẳng phải gạt người!
Nhưng khi đến Đài
Loan xem cầu cơ, tôi cảm thấy phong cách gạt
người trong ấy rất đậm: Họ là những
người cầu cơ chuyên nghiệp, thay đổi
người khác không được! Chỉ có một
người, đă thế, cơ bút di động quá nhanh.
Tôi rất chú ư, đứng bên cạnh xem, xem hồi lâu
cũng chẳng nhận được chữ nào! Chỉ
thấy họ vạch loạn xạ, miệng th́ đọc,
lẹ vô cùng! Người bên cạnh ghi lại th́ phải
hai ba người ghi, chứ một người ghi không xuể,
chưa đầy nửa tiếng đă viết mấy
ngàn chữ, hết sức đáng nghi, tôi không tin tưởng!
Do vậy, tôi đem chuyện này hỏi Chương Gia
đại sư, Ngài bảo tôi: “Chuyện này không thật!
Phàm những kẻ giáng đàn xưng là Phật, Bồ Tát
nào đó, hay thần tiên nào đó giáng lâm đều là giả,
đều là gạt người, sự thật là quỷ
thần mượn danh nghĩa Phật, Bồ Tát, thần
tiên, họ cũng đến làm một chút chuyện tốt,
do vậy, có linh thiêng. Chuyện nhỏ th́ họ biết,
nói rất chính xác, c̣n đại sự th́ nói nhăng, nói
càn, bịa đặt, đồn thổi, họ chẳng
chịu trách nhiệm. Do vậy, nói chuyện này là nói đến
chuyện [v́ sao] Thanh triều vong quốc!
Vào những năm cuối đời
nhà Thanh, từ chính Từ Hy thái hậu cho đến vương
công, đại thần, đối với chuyện quốc
gia đại sự đều chẳng thể tự ḿnh
làm chủ, đều là thỉnh ư quỷ thần qua cơ
bút, hoàn toàn nghe lời quỷ thần, kết quả suy bại
đến nỗi nước mất nhà tan. Bởi lẽ,
những quỷ thần ấy đâu có chịu trách nhiệm!
Quư vị hỏi những chuyện cá nhân nhỏ nhặt, họ
nói rất linh, hỏi tới chuyện quốc gia đại
sự, họ bèn nói nhăng, nói càn. V́ thế, Chương
Gia đại sư bảo tôi: “Những chuyện ấy
quyết định chớ nên tin, hăy biết đó là quỷ
thần gây rối, chứ không phải là Phật, Bồ
Tát giáng đàn”, chúng ta phải nhận biết điều
này. Quả thật có chuyện [ma quỷ tác quái] như vậy,
chắc chắn chẳng phải là Phật, Bồ Tát [giáng
cơ]!
“Tịnh Độ y chánh” (y báo
và chánh báo của Tịnh Độ) cũng là cái tâm thanh tịnh
của chính ḿnh, do giác tâm biến hiện.
(Diễn) Y tức bảo tŕ, hàng
thụ đẳng.
(演) 依即寶池行樹等。
(Diễn: Y báo chính là ao báu, hàng cây v.v...)
Y báo là nói tới hoàn cảnh sống
của chúng ta, “bảo tŕ, hàng
thụ” là như kinh A Di Đà đă nói “thất bảo tŕ, bát công đức thủy, thất
trùng hàng thụ, thất trùng la vơng” (ao bằng bảy
báu, nước có tám công đức, bảy tầng cây, bảy
tầng lưới báu), những câu này trong kinh văn rất
đơn giản, nhưng thật ra, sự trang nghiêm ấy
thật sự chẳng thể nghĩ bàn. Dùng “thất” nhằm biểu thị
ư nghĩa viên măn, chứ không phải là một con số. Nếu
quư vị thấy thứ nào cũng là bảy th́ chúng đều
giống như cùng một khuôn mẫu định sẵn,
đâu có ư nghĩa ǵ? Nh́n một cái rồi thôi! Có ǵ dễ
coi đâu? “Thất” biểu
thị viên măn, như thế nào mới là viên măn? Thuận
theo ư nghĩ của chính ḿnh là viên măn; tôi thích như thế
nào, nó liền biến hiện như thế ấy, đó gọi
là viên măn. Quư vị thích như thế nào, nó liền biến
hiện như thế ấy. Đó là viên măn. Do vậy, mỗi
thứ viên măn, niệm niệm viên măn, do viên măn mà gọi là
“thất”. “Thất” tượng trưng cho bốn
phương, trên, dưới và chính giữa; đó là viên
măn! Do đó, nó biểu thị ư nghĩa này, chứ không phải
là một con số.
Trong kinh Hoa Nghiêm dùng “thập” cũng nhằm biểu
thị sự viên măn; do vậy, đều chẳng thể
coi chúng như những con số. Nếu coi chúng là những
con số, đă hiểu sai ư nghĩa mất rồi! Do vậy,
từ điểm này, quư vị hiểu rơ kinh Phật chẳng
dễ ǵ phiên dịch, khó dịch lắm! Chẳng trách ǵ
người ngoại quốc dịch chữ Lưỡng
Túc Tôn thành “chỗ tôn quư nhất giữa hai đùi”, nực
cười thay! Do vậy, khi dịch “thất trùng la vơng, thất trùng hàng thụ” như
những con số th́ lầm lẫn quá lớn! V́ vậy,
phải hiểu rằng: Đây là nhằm biểu thị
pháp, biểu thị sự viên măn.
“Thất
bảo tŕ” tức là ao báu viên măn, chẳng có tí khuyết
điểm nào, hết sức hoàn mỹ! “Bảy hàng cây” nghĩa là cây cối hết sức
viên măn, chẳng có khuyết điểm ǵ, tận thiện,
tận mỹ, biểu thị ư nghĩa đó. Do vậy, thứ
ǵ cũng đều dùng chữ “thất”.
Nói cách khác, không có khuyết điểm ǵ, thứ ǵ cũng
viên măn. V́ thế, Mật Tông có pháp tu Đại Viên Măn
(Dzogchen)[4],
Tây Phương Cực Lạc thế giới là đại
viên măn, không có một pháp nào chẳng viên măn, quư vị nhất
định phải hiểu ư nghĩa này. Đây là nói về
sự viên măn thanh tịnh nơi hoàn cảnh y báo.
(Diễn)
Chánh tức Phật cập Bồ Tát tam bối cửu phẩm
đẳng.
(演) 正即佛及菩薩三輩九品等。
(Diễn:
Chánh báo tức là Phật, Bồ Tát, và ba bậc chín phẩm
văng sanh v.v...)
“Chánh” là chánh báo. Chánh
báo là nói về hữu t́nh chúng sanh. Y báo là nói về vô t́nh,
là hoàn cảnh. Nói theo cách hiện thời, thực vật và
khoáng vật là y báo; động vật gọi là chánh báo.
Giáo chủ là A Di Đà Phật. Một thế giới chỉ
có một vị Phật, đó là “giáo hóa chủ”, giống như hiệu trưởng
của một trường học, chỉ có một
người, những người khác đều là Bồ
Tát. Chư Phật từ các thế giới ở phương
khác đến Tây Phương Cực Lạc thế giới
đều phải dùng thân phận Bồ Tát, hiện thân phận
Bồ Tát. Giống như nói: Ngôi trường này chỉ có
một hiệu trưởng, hiệu trưởng các
trường khác có thể đến trường này để
dạy thêm, lên lớp, nhưng họ đến trường
của quư vị để dạy học, chẳng thể
dùng thân phận hiệu trưởng, chẳng thể xuất
hiện hai hiệu trưởng. Họ nhất định
phải dùng thân phận “giáo thọ” (thân phận giáo sư
chỉ dạy) trong ngôi trường này. V́ thế, mười
phương chư Phật đến thế giới Tây
Phương đều hiện thân phận Đẳng Giác
Bồ Tát, chứ nói thật ra, Văn Thù, Phổ Hiền,
Quán Âm, Thế Chí đều đă sớm thành Phật,
nhưng đến Tây Phương Cực Lạc thế giới,
các Ngài hoàn toàn dùng thân phận Đẳng Giác Bồ Tát
để xuất hiện. Điều này cho thấy trong một
thế giới chỉ có một vị Phật.
“Tam bối cửu phẩm” là người
văng sanh, là những người niệm Phật trong mười
phương thế giới văng sanh Tịnh Độ, từ
ngữ này chỉ những người đó. Những vị
Bồ Tát ấy đều là thả chiếc bè Từ, chẳng
phải là người tầm thường, đă sớm
thành Phật, nhưng lui xuống địa vị Bồ
Tát đến thế giới Tây Phương giúp A Di Đà
Phật giáo hóa chúng sanh, đủ thấy sự trang nghiêm
trong thế giới ấy. Trong thế giới này, chúng ta
kiếm một vị thiện tri thức hay người
có chánh tri chánh kiến t́m không ra, luôn luôn chẳng dễ
dàng! T́m một vị A La Hán, Bồ Tát, càng khó hơn nữa;
nhưng đến thế giới Tây Phương th́ lại
quá nhiều! Do vậy, nơi đó là hoàn cảnh tu học
tốt đẹp.
“Tam bối cửu phẩm” là do văng sanh về
Tây Phương Cực Lạc thế giới phẩm vị
cao hay thấp khác nhau, giống như đi học: Có
người học lớp Một, có người học lớp
Hai, có người học lớp Ba, tŕnh độ khác nhau.
Thế giới Tây Phương có bốn cơi, có cơi Phàm Thánh
Đồng Cư, cơi Phương Tiện Hữu Dư, cơi
Thật Báo Trang Nghiêm, và cơi Thường Tịch Quang, giống
như trong học đường có Tiểu Học, Sơ
Trung, Cao Trung, Đại Học. Trong mỗi cơi đều có
ba bậc chín phẩm. “Tam bối”
là thượng, trung, hạ. “Cửu
phẩm” là trong tam bối chia ra [thành những phẩm vị],
trong thượng bối có thượng thượng phẩm,
thượng trung phẩm, thượng hạ phẩm,
trong trung phẩm có trung thượng, trung trung, trung hạ,
trong hạ phẩm có hạ thượng, hạ trung, hạ
hạ. Do vậy, có tất cả chín phẩm. Bốn cơi có
ba bậc chín phẩm, mỗi một cơi đều có ba bậc
chín phẩm.
Nói
đến chỗ này, trong một hai năm nay phát sanh một
vấn đề, có người đề xuất một
chủ trương mới: “Cầu sanh Tây Phương Tịnh
Độ chẳng thể đới nghiệp!” Truyền
thuyết ấy lan truyền khắp trong ngoài nước,
lan truyền rất phổ biến. Do vậy, có rất nhiều
đồng tu niệm Phật bị thuyết này lung lạc,
ḷng người kinh hoảng, chẳng biết phải làm
như thế nào! Niệm Phật đă lâu như vậy mà
chẳng thể văng sanh, chẳng phải là hỏng bét
ư? Chẳng phải là niệm Phật uổng công ư?
Dấy lên sóng gió rất to như vậy, có mấy năm
thôi! Năm trước, tôi đến Nữu Ước,
khi cư sĩ Trầm Gia Trinh và tôi gặp mặt, ông ta
đem ngay chuyện này hỏi tôi. Ở Los Angeles, lăo cư
sĩ Châu Tuyên Đức vừa gặp mặt tôi liền
nêu ngay câu hỏi này. Cụ không biết niệm Phật phải
theo đường hướng nào, bèn hỏi tôi câu này. Chắc
là không ít người biết cư sĩ Châu Tuyên Đức,
cụ là người sáng lập Huệ Cự[5], hiện là Đổng
Sự Trưởng (Chairman of the board) của Huệ Cự
Cơ Kim Hội.
Những
người tra cứu kinh điển nói trong kinh điển
không t́m thấy chữ “đới nghiệp văng sanh”, trong
kinh không có từ ngữ ấy, mà có chữ “tiêu nghiệp”.
V́ vậy, họ chủ trương tiêu nghiệp, chứ
không thể đới nghiệp. Ngay khi đó, tôi hỏi cụ:
“Trong kinh văn có nói thế giới Tây Phương có ba bậc
chín phẩm hay không?” Cụ nói: “Điều ấy có!” “Vậy
th́ được rồi! Nếu chẳng đới nghiệp,
lẽ nào có ba bậc chín phẩm? Chẳng thể nào có chuyện
ấy được!” Do vậy, quư vị đọc kinh
đừng chấp chết cứng nơi văn tự. Có
rất nhiều thứ đức Phật không nói rơ ra hay
chưa nói đến, nhưng xét về ư nghĩa th́ có. Nếu
chẳng phải là đới nghiệp mà là tiêu nghiệp,
sau khi nghiệp đă tiêu rồi, quư vị nghĩ xem có c̣n
cần văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới
nữa chăng? Chẳng cần!
V́
sao chẳng cần? Nghiệp đă tiêu tức là thành Phật
rồi! Chẳng đới nghiệp bèn thành Phật! Đẳng
Giác Bồ Tát vẫn c̣n kèm theo một phẩm sanh tướng
vô minh, tra trong hết thảy kinh Đại Thừa đều
thấy nói điều này, có đấy! Trong kinh có điều
này! Nói cách khác, Đẳng Giác Bồ Tát đều là đới
nghiệp. Chỉ có Phật chẳng đới nghiệp, Phật
nào vậy? Phật trong Viên Giáo; c̣n Phật trong Tạng
Giáo, Biệt Giáo, Thông Giáo đều đới nghiệp,
chỉ có Viên Giáo Phật là chẳng đới nghiệp!
Nói cách khác, [nếu bảo chỉ có tiêu nghiệp mới có
thể văng sanh, không thể đới nghiệp] th́ không ai
có thể văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới,
phải là Viên Giáo Phật mới có tư cách văng sanh. Ai
đến đó? Nói không thông! Do đới nghiệp nên mới
có ba bậc chín phẩm trong bốn cơi. Người đới
nghiệp nhiều, phẩm vị thấp; người
đới nghiệp ít, phẩm vị cao. Do vậy, quư vị
thấy Đẳng Giác Bồ Tát chỉ mang theo một phẩm,
mang theo ít nhất; c̣n như Sơ Trụ Bồ Tát th́ mang
theo bốn mươi phẩm vô minh, mang theo nhiều.
Cách
nói tiêu nghiệp ấy có sai lầm hay không? Cũng chẳng
sai lầm! Tiêu nghiệp nhiều th́ đới nghiệp
ít; tiêu nghiệp ít th́ đới nghiệp nhiều. Do vậy,
[tiêu nghiệp và đới nghiệp] là một, không phải
hai. Chấp trước tiêu nghiệp, chẳng chấp nhận
đới nghiệp, hoặc chấp trước đới
nghiệp, chẳng chấp nhận tiêu nghiệp đều
chẳng thông suốt, đều là lầm lạc! Tôi giải
thích với cụ như vậy, cụ nghe xong cũng cảm
thấy có lư, tâm liền thoải mái, thật thà niệm Phật.
Phật
pháp nói đến lư. Ở đây là ba bậc chín phẩm.
Văng sanh vào cơi Phàm Thánh Đồng Cư, chúng ta dùng “tiêu” và
“đới” để nói th́ tiêu Kiến Tư phiền năo
hiện hành, mang theo chủng tử tập khí của Kiến
Tư, người ấy có tiêu nghiệp và đới nghiệp
bèn sanh vào cơi Phàm Thánh Đồng Cư, chúng ta gọi [mức
độ như vậy] là “công phu thành phiến”. Nếu niệm
đến Sự nhất tâm bất loạn th́ có thể
nói là tiêu Kiến Tư phiền năo, mang theo Trần Sa vô
minh, sanh vào cơi Phương Tiện Hữu Dư. Lại lên
cao hơn một bậc nữa là Lư nhất tâm bất loạn,
người ấy tiêu nghiệp càng nhiều hơn. Người
ấy tiêu Kiến Tư, Trần Sa và một phần vô
minh, tuy vô minh chưa tiêu hoàn toàn, nhưng tối thiểu phải
tiêu một phẩm. Trong bốn mươi mốt phẩm
vô minh, người ấy phải đoạn được
một phẩm, sanh vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Có thể thấy:
Đúng là tiêu nghiệp nhiều, đới nghiệp ít; tiêu
nghiệp ít bèn đới nghiệp nhiều, cho nên mới
có hiện tượng ba bậc chín phẩm. Tịnh Độ
Tam Kinh và nhiều kinh điển Đại Thừa khác khi
giảng về Tây Phương Tịnh Độ đều
nói điều này rất rơ ràng. Ở đây, sách Diễn
Nghĩa chú giải như sau:
(Diễn)
Như hậu văn sở minh.
(演) 如後文所明。
(Diễn:
Như sẽ giảng trong phần kinh văn ở phía sau).
Phía
sau sẽ lại bàn tới. Hiện thời, chúng ta chủ
yếu bàn luận về “y báo
và chánh báo trong cơi Tịnh Độ đều do Bổn
Giác hiện ra”. Tiếp đó, sách viết:
(Diễn)
Bảo tŕ tức tự tánh chi uông dương xung dung.
(演) 寶池即自性之汪洋沖融。
(Diễn:
Ao báu chính là tự tánh mênh mông, bát ngát).
Ao
bảy báu do đâu mà có? Do như vậy mà có, từ trong
tâm thanh tịnh nơi tự tánh mà hiển hiện.
(Diễn)
Hàng thụ tức tự tánh chi xuất sanh chúng thiện.
(演) 行樹即自性之出生眾善。
(Diễn:
Hàng cây chính là tự tánh xuất sanh các điều lành).
“Thụ” (樹: cây) mọc vừa cao vừa thẳng,
có ư nghĩa vượt trỗi, biểu thị ư nghĩa
này. Nếu chúng ta hiểu được nghĩa thú biểu
thị pháp trong kinh điển th́ thật ra ở ngay
trước mắt, chúng ta thấy biển cả, thấy
ao chuôm, quư vị cũng có thể hồi quang phản chiếu:
H́nh tượng ấy do một phần công đức
trong tự tánh hiển lộ, mười phương thế
giới không có pháp nào chẳng phải là như thế. Do vậy,
trong Phật môn dùng biểu thị pháp
làm công cụ dạy học.
Giống như hoa, quư vị thấy hoa, ngay lập tức nghĩ
đến chúng ta phải tu nhân, phải tu nhân lành. Hoa rất
đẹp, có thể khiến cho chúng ta vui vẻ, đó là
thiện pháp. Do vậy, trông thấy [hoa], chúng ta [bèn
nghĩ]: Phải tu nhân lành. Nhân lành th́ mới có thể kết
quả tốt lành. Do vậy, hoa tượng trưng cho
nhân hạnh (hạnh trong khi c̣n tu nhân) của Bồ Tát. Chúng
ta cúng Phật phải cúng bằng trái cây, v́ quả tượng
trưng cho quả Bồ Đề Niết Bàn. Do vậy,
thấy quả, chúng ta bèn nghĩ đến mục đích
tu hành. Trong tương lai, chúng ta sẽ có kết quả.
Trông thấy hoa, chúng ta biết hoa biểu thị “phải
nhanh chóng tu nhân”. V́ thế, ta cúng Phật bằng những
thứ ấy, chẳng phải là dâng cho Phật, Bồ Tát
hưởng thụ. Phật, Bồ Tát chẳng cần những
thứ ấy. Cúng cho ai? Cúng cho chính ḿnh, tức là nhắc
nhở chính ḿnh phải cảnh giác, đó là công cụ
để dạy học. V́ thế, sự dạy học
trong cửa Phật từ mấy ngàn năm trước
đă thật sự đạt đến mức nghệ
thuật hóa, phải hiểu điều này.
Chúng
ta cúng dường đèn, đèn tượng trưng cho
quang minh nơi tự tánh. V́ vậy, bất luận tại
nơi nào, trông thấy mặt trời, trông thấy mặt
trăng, trông thấy các ngôi sao, trông thấy hết thảy
đèn đuốc, quư vị vừa tiếp xúc liền ngay
lập tức nghĩ tâm địa tự tánh của chính
ḿnh phải chánh đại quang minh, đó gọi là tu hành.
Quư vị biết hoa tượng trưng cho nhân hạnh, vậy
th́ bất luận ở nơi đâu, hễ thấy hoa th́
chúng đều tượng trưng cho nhân hạnh. Tuyệt
đối chẳng phải hoa cúng trong Phật đường
mới biểu thị pháp, ra khỏi Phật đường
th́ không c̣n như vậy nữa! Nếu nghĩ như vậy,
quư vị đă lầm rồi! Phật đường là
pḥng học, những điều được dạy
trong lớp học phải được ứng dụng
bên ngoài pḥng học. Quư vị phải quán như thế. Hết
thảy các pháp thế gian, không một pháp nào chẳng phải
là Phật pháp, không có một pháp nào chẳng ban cho quư vị
khải thị không ǵ to lớn bằng, không có một pháp
nào chẳng phải là kinh Hoa Nghiêm.
V́
thế, kinh Hoa Nghiêm ở đâu? Tận hư không trọn
pháp giới đều là kinh Hoa Nghiêm, không có một pháp nào
chẳng phải là kinh Hoa Nghiêm! Thật sự hiểu rơ
th́ quư vị mới biết sáu trần thuyết pháp, kinh
Hoa Nghiêm chưa hề bị gián đoạn giữa chừng,
v́ sao? “Thấy sắc, nghe tiếng” đều biểu thị
cảnh giới Hoa Nghiêm, đều là giảng kinh Hoa
Nghiêm. Vấn đề là quư vị có biết nh́n và biết
nghe hay không? Quư vị có hiểu sự thật này hay
chăng? Trong kinh Đại Thừa, nhất là trong bộ
[Hoa Nghiêm Kinh] Sớ Sao của Thanh Lương quốc
sư đă chú giải điều này hết sức tường
tận. Trông thấy cây cối, chúng ta cũng có thể
độc lập, vượt thoát giống như cây vậy.
Đó gọi là vượt thoát tam giới, “xuất sanh các điều lành”.
(Diễn)
Thanh Văn tức tự tánh Chân.
(演) 聲聞即自性真。
(Diễn:
Thanh Văn chính là Chân Đế trong tự tánh).
Đây
là nói tới Chân Đế trong Tam Đế. Chân Đế
là chú trọng nơi Lư Thể để nói, do v́ người
Nhị Thừa tu học chú trọng cái tâm thanh tịnh của
chính ḿnh; cho nên người Nhị Thừa chẳng phát tâm
giúp đỡ chúng sanh. V́ sao? Nếu mọi người
đọc Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện
Kinh sẽ hiểu. Đức Phật và Bồ Tát đều
nói: “Chúng sanh trong Diêm Phù Đề
(tức là thế giới của chúng ta. Chúng sanh trong Diêm
Phù Đề chính là chúng sanh trong thế giới của
chúng ta) ương ngạnh, khó
giáo hóa”. V́ vậy, A La Hán thông minh: Coi như xong! Ta chẳng
độ chúng sanh, thêm một chuyện chẳng bằng bớt
một chuyện, bớt một chuyện chẳng bằng
không có chuyện ǵ! Một ḿnh ta thanh tịnh, tự tại
hơn nhiều lắm. Làm một kẻ giải thoát cho
riêng ḿnh, họ chỉ cầu tự giải thoát, chẳng
bằng ḷng giúp đỡ người khác. Do vậy, họ
tu tâm thanh tịnh, chứng Thiên Chân Niết Bàn.
Do
vậy, thành tựu của bậc A La Hán là thành tựu
đại định, tâm thanh tịnh, tuy thành tựu
đại định, nhưng không có trí huệ. V́ sao không
có trí huệ? Tâm thanh tịnh rồi mà chẳng có trí huệ
ư? Đúng vậy, tâm thanh tịnh rồi, chiếu theo
lư mà nói th́ sẽ có Căn Bản Trí, nhưng họ không
phát tâm đại bi, nên tâm thanh tịnh chẳng sanh trí huệ,
[cho nên] ngay cả Căn Bản Trí cũng không có! Thế nhưng
ư niệm của vị ấy vừa chuyển, Căn Bản
Trí liền lập tức hiện tiền. Vị ấy có
sẵn tiền vốn, nhưng chưa chuyển nên như
vậy. Chưa chuyển, nhưng vị ấy thật sự
có tiền vốn. V́ thế, nếu vị ấy hồi Tiểu
hướng Đại, Căn Bản Trí lập tức hiện
tiền. Do vậy, gọi là Chân, là “tự tánh Chân”. Lư Thể trong tự tánh cũng là
Tướng Phần được hiện bởi tự
tánh. Duy tâm sở hiện, nhưng chưa biến hóa,
chưa khởi biến hóa. Cảnh giới được
hiện là Tự Tánh Chân.
(Diễn)
Bồ Tát tức tự tánh Tục.
(演) 菩薩即自性俗。
(Diễn:
Bồ Tát chính là Tục Đế trong tự tánh).
Bồ
Tát khởi biến hóa, Ngài muốn biến trí huệ,
phước đức, và nhân duyên của chính ḿnh thành Tha
Thọ Dụng. Do vậy, tâm từ bi của Bồ Tát
đặc biệt sâu nặng. Ngài muốn giúp đỡ hết
thảy chúng sanh, giáo hóa hết thảy chúng sanh, phục vụ
hết thảy chúng sanh. Bồ Tát chẳng sợ khổ sở,
chẳng sợ đắng cay, nhọc nhằn, bỏ ḿnh
v́ người, đó là Tục. Do vậy, Bồ Tát làm “bất thỉnh chi hữu” (bạn
chẳng thỉnh) của chúng sanh. Quư vị không thỉnh
Ngài, Ngài t́m quư vị, đó là Bồ Tát. A La Hán th́ không được!
Nếu quư vị cầu Ngài, chưa chắc Ngài đă chịu
đáp ứng, Ngài vẫn phải coi xem quư vị có duyên phận
hay không. Có duyên phận với Ngài th́ Ngài mới chịu dạy
quư vị. Không có duyên phận, Ngài chẳng chịu dạy bảo!
Chẳng như Bồ Tát, Bồ Tát đúng là đại từ
đại bi. V́ thế, Bồ Tát tượng trưng cho Tục
Đế, ḥa quang đồng trần với hết thảy
chúng sanh. Đó là Bồ Tát.
(Diễn)
Phật tức tự tánh Trung đẳng.
(演) 佛即自性中等。
(Diễn:
Phật chính là Trung Đế nơi tự tánh).
Phật
đại diện cho Trung Đạo, Chân - Tục bất
nhị, Chân - Tục như một, Chân chính là Tục, Tục
chính là Chân. Đấy là Phật. Do vậy, Trung Đạo
mới là viên măn thật sự. Do đây có thể biết
rằng: Tam Thừa cũng là tướng được
hiện trong tự tánh, cũng chẳng ĺa tự tánh. Nếu
lại mở rộng cảnh giới này ra để nói th́...
(Diễn)
Hựu phục nhất niệm cụ túc tam thiên, nhi tam
thiên trung, sanh ấm nhị thiên vi chánh, quốc độ
nhất thiên thuộc y. Quốc độ y chánh kư cư nhất
tâm, nhất tâm khởi phân Năng - Sở? Cố viết
“nhất nhất giai thị”.
(演) 又復一念具足三千,而三千中,生陰二千為正,國土一千屬依,國土依正既居一心,一心豈分能所,故曰一一皆是。
(Diễn:
Lại nữa, một niệm có đủ ba ngàn thứ,
nhưng trong ba ngàn thứ ấy, sanh ấm gồm hai ngàn
thứ thuộc về chánh báo, quốc độ có một
ngàn thứ thuộc y báo. Cơi nước, y báo và chánh báo
đă ở trong nhất tâm, há có thể chia nhất tâm thành
Năng và Sở ư? V́ thế nói “mỗi mỗi đều
là”).
Đoạn
này thuộc về giáo nghĩa Thiên Thai; trong Thiên Thai nói “nhất niệm tam thiên”, “nhất niệm” viên măn “đầy đủ tam thiên”.
Nói thật ra, “tam thiên” là nhân
duyên, quả báo của hết thảy pháp thế gian và xuất
thế gian. V́ sao nói “tam thiên”?
Con số “tam thiên” do đâu
mà có? Từ kinh điển mà có! Đức Phật nói: Mê mất
tự tánh là mê mất Nhất Chân pháp giới, biến thành
mười pháp giới. Nói theo mười pháp giới th́
Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác được gọi
là “tứ thánh pháp giới”, ở ngoài tam giới. Chúng sanh
giác ngộ, do tŕnh độ giác ngộ có sâu hay cạn khác
nhau, cho nên có bốn loại lớn. Phật là giác ngộ
viên măn. Lục phàm hoàn toàn mê chẳng giác (toàn mê bất
giác), nhưng mức độ mê cũng có sâu hay cạn khác
nhau, do vậy có thiên, Tu La, nhân, ngạ quỷ, súc sanh, địa
ngục. Lục phàm và tứ thánh nói gộp lại th́ gọi
là thập pháp giới, bèn có con số “thập” (mười) này.
Trong
mỗi một giới, lại có mười pháp giới,
chẳng hạn như loài người th́ có người là
Phật, có người là Bồ Tát, có người là Thanh
Văn, có người là Duyên Giác. Trong loài người có
“nhân trung thiên”, tức là phước báo lớn, cuộc sống
giống như chư thiên. Trong loài người có “nhân trung
nhân”, có “nhân trung Tu La”, Tu La có phước báo lớn, rất
hung ác, rất tàn nhẫn. Có “nhân trung quỷ”, tức ngạ
quỷ. Quư vị thấy tại Phi Châu, rất nhiều
người đói khát. Chỗ hết sức đáng yêu của
người Mỹ là tuy bản thân họ rất tiết
kiệm, nhưng thấy tin tức ấy, mọi người
đều quyên tiền giúp đỡ. Gởi đồ
đến nơi đó th́ sao? Gởi đồ ăn sang
đó, người ta không ăn được! Họ
đă đói trong một thời gian quá lâu, khi ăn những
thứ ấy vào, họ chẳng thể tiếp nhận
được, chẳng thể hấp thu; [đó là] ngạ
quỷ, địa ngục, súc sanh trong loài người! Do
vậy, trong mỗi pháp giới lại có mười pháp giới,
mười pháp giới [nhân với mười pháp giới
trong mỗi một pháp giới] bèn thành một trăm pháp
giới, tức “bách giới”.
Nhưng trong mỗi một pháp giới lại có mười
“như thị”, khái niệm
này xuất phát từ kinh Pháp Hoa, từ “như thị thể, như thị tánh, như thị
tướng, như thị nhân duyên quả báo” cho đến
“như thị bổn mạt cứu
cánh”. Một trăm nhân với mười thành một
ngàn, con số này do đây mà có!
“Tam thiên” là do đâu là có? “Danh tự nhất thiên”: Chúng
ta nói Phật, Bồ Tát, địa ngục, những danh tự,
danh hiệu ấy gồm một ngàn thứ giả danh, Danh
là giả danh. Cổ nhân Trung Quốc đă hiểu điều
này: “Danh khả danh, phi thường
danh”. Danh là giả danh, danh tự có đến một
ngàn thứ. Đă có danh th́ đương nhiên sẽ có sự
thật! Danh tự có một ngàn th́ cũng sẽ có một
ngàn sự thật, hễ có một danh tự sẽ có một
thực thể. “Thực thể
có một ngàn”, đấy là chuyện thuộc về thực
tại, có một ngàn sự thể. Lại nói “quốc độ hữu nhất
thiên” (cơi nước có một ngàn), quốc độ là
y báo, tức là hoàn cảnh, hoàn cảnh chuyển theo tâm. V́
thế, hoàn cảnh có một ngàn. Ở đây nói [gộp
chung giả danh, thực thể và quốc độ] thành “tam thiên” (ba ngàn).
Trong
ba ngàn này, “sanh ấm nhị
thiên vi chánh”. “Sanh ấm”
chính là giả danh và thật thể. Chẳng hạn như
nói tới Phật th́ “Phật” là danh từ, tức là có giả
danh, nhưng thật sự có Phật như Thích Ca Mâu Ni, thật
sự có vị Phật này, cho nên Ngài là thực thể. Chúng
ta nói đến người, “người” là giả danh,
nhưng quả thật có thực thể này tồn tại.
Do vậy, gọi là Sanh Ấm. Ấm chính là Ngũ Ấm,
thân thể của chúng ta là Sắc, Thọ, Tưởng,
Hành, Thức, do Ngũ Ấm tụ tập, ḥa hợp mà có
thân tướng này. Do vậy, “Sanh
Ấm nhị thiên” là do đây mà có, đấy là chánh
báo.
“Quốc độ nhất thiên”
là y báo. “Quốc độ” cũng
từ giả danh mà kiến lập, Phật pháp giới,
nhân pháp giới, thiên pháp giới, đó là y báo, cho đến
ngạ quỷ pháp giới, địa ngục pháp giới,
súc sanh pháp giới là nói về y báo.
Tam
thiên th́ như trong kinh Pháp Hoa nói “tánh
cụ tam thiên” (tánh có đủ ba ngàn) và “Sự tạo tam thiên”. Chúng ta
gọi “tánh cụ” là “duy tâm sở hiện”, hiện
ra những cảnh giới này, cũng gọi “Lư cụ”, tức là nói theo mặt
Lư th́ nó đầy đủ, có trọn vẹn những
công năng này. Đó là nhất niệm, nhất niệm là
nói “Lư cụ”. Tùy niệm
chính là “Sự tạo” (tạo
tác nơi mặt Sự). Đối với Sự tạo
này, mỗi cá nhân chúng ta trong một ngày có mười pháp giới.
Quư vị thấy một niệm của quư vị là Nam-mô A
Di Đà Phật th́ là Phật pháp giới; trong một niệm
mà niệm Quán Thế Âm Bồ Tát th́ là Bồ Tát pháp giới,
nếu chúng ta nghĩ tưởng, tham muốn thứ ǵ
đó th́ là ngạ quỷ pháp giới; hễ nổi nóng th́
là địa ngục pháp giới; không hiểu rơ Sự - Lư,
hồ đồ, mờ mịt th́ là súc sanh pháp giới. Do
vậy, quư vị khởi tâm động niệm là một
pháp giới, đó gọi là ǵ? Là “tùy niệm”.
Tùy
niệm là Sự tạo. Do chúng ta có đủ nhân và duyên trong
mười pháp giới này, nên trong hiện thời, quư vị
muốn đến một pháp giới nào, quư vị phải
khống chế cái duyên đó. [Nếu quư vị nghĩ]: “Nay
tôi muốn thành Phật” th́ quư vị phải nắm chắc
Phật pháp giới, đừng để vuột mất.
Niệm niệm tương ứng với Phật pháp giới,
tương ứng lâu ngày, tự nhiên sẽ thành Phật. Do
vậy, “niệm Phật thành Phật” là do đạo lư
như vậy đó. Nó luôn có lư luận tồn tại. Kinh
Lăng Nghiêm dạy: “Ức Phật,
niệm Phật, hiện tiền, đương lai, tất
định kiến Phật” (Nhớ Phật, niệm Phật,
hiện tiền, tương lai, nhất định thấy
Phật). Thấy Phật là thành Phật, chẳng thành Phật
sẽ chẳng thể thấy Phật! Trao đổi với
quư vị về tam thiên như vậy, v́ sao có tam thiên, v́ sao
có chuyện này? Tông Thiên Thai nói đến “tam thiên” tức là nói về toàn bộ vũ trụ
và nhân sinh.
Những
điều này đều do nhất tâm hiện ra; do vậy,
“nhất tâm khởi phân Năng
Sở” (há có thể chia nhất tâm thành Năng và Sở);
trong nhất tâm có thể chia thành Năng và Sở, nhưng
Năng và Sở là một, Năng cũng là nhất tâm, mà Sở
cũng là nhất tâm. Năng Biến là nhất tâm, Sở
Biến vẫn là nhất tâm. Do điều này, Phật pháp
chẳng phải là triết học! Quư vị có hiểu ư
nghĩa này hay chăng? Trong triết học, Năng chẳng
phải là Sở, Sở chẳng phải là Năng, Năng
và Sở đối lập! Phật pháp giảng về
Năng và Sở th́ Năng và Sở chẳng đối lập,
chúng là một, không hai. Năng Biến là tự tâm, Sở
Biến vẫn là tự tâm. Đặc biệt là Duy Thức,
trong kinh luận Duy Thức, kinh Hoa Nghiêm cũng là một
trong sáu kinh của tông Duy Thức; tức là tông Duy Thức dựa
trên sáu bộ kinh và mười một bộ luận, trong
sáu bộ kinh ấy có kinh Hoa Nghiêm. Đầu thời Dân Quốc,
đại sư Âu Dương Cánh Vô trong một bài giảng
diễn tại đại học Trung Sơn đă nói rơ Phật
pháp chẳng phải là tôn giáo hay triết học. Trong bài nói
chuyện ấy, ông ta đă nói rất rơ ràng, v́ sao Phật giáo
chẳng phải là triết học? Triết học có
Năng và Sở (chủ thể và khách thể) đối lập,
trong Phật pháp không có đối lập, từ đầu
đến cuối không có đối lập, đều là
một chỉnh thể[6]. Chính ḿnh nói tới
chính ḿnh, chính ḿnh phân tích chính ḿnh. Đó là Phật pháp. Do vậy,
“nhất nhất giai thị” (mỗi
mỗi đều là). Tiếp theo đó, sách Diễn
Nghĩa giảng:
(Diễn)
Khí khí duy kim, thị toàn vọng toàn chân nghĩa.
(演) 器器唯金,是全妄全真義。
(Diễn: Món vật nào cũng
chỉ là vàng, đấy chính là nghĩa lư “toàn chân tức
là vọng, toàn vọng tức là chân”).
Câu
này dễ hiểu.
(Diễn) Lưu lưu nhập hải,
thị hội vong quy chân nghĩa.
(演) 流流入海,是會妄歸真義。
(Diễn: “Ḍng nước
nào cũng đổ vào biển” là nghĩa lư “gom vọng về
chân”).
Bất luận là ḍng nước
lớn hay nhỏ đều đổ vào biển cả; hễ
đổ vào biển cả rồi sẽ chẳng thể
phân chia được nữa, quy về một Thể. Đó
gọi là “hội vọng quy
chân”, dùng ư nghĩa này. Tiếp đó, sách nói:
(Diễn) Vô bất tùng thử
pháp giới lưu, vô bất hoàn quy thử pháp giới giả,
pháp giới vị Nhất Chân pháp giới.
(演) 無不從此法界流,無不還歸此法界者,法界謂一真法界。
(Diễn: Không ǵ chẳng từ pháp giới này
lưu xuất, không ǵ chẳng trở về pháp giới
này. Nói “pháp giới” nghĩa là Nhất Chân pháp giới).
“Pháp
giới” này nói về Nhất Chân pháp giới, tức là
bản thể. Do vậy, kinh Di Đà và kinh Hoa Nghiêm là một,
không hai. Nhất Chân pháp giới được nói trong kinh
Hoa Nghiêm là “sở chứng”, kinh Di Đà nói tới nhất
tâm bất loạn, đó là “năng chứng”. Chúng ta tu
đến nhất tâm bất loạn, Nhất Chân pháp giới
bèn hiện tiền. Do vậy, nếu chúng ta nói đến
“nhập” th́ nhất tâm là năng nhập, Nhất Chân pháp
giới là sở nhập, Năng - Sở bất nhị. “Năng
- Sở bất nhị” nghĩa là nhất tâm và Nhất Chân
pháp giới là một, không hai. Chúng ta niệm một câu A Di
Đà Phật này, trong tương lai sẽ nhập vào
đâu? Nhập Nhất Chân pháp giới! Kinh Di Đà gọi
Nhất Chân pháp giới là cơi Thật Báo Trang Nghiêm và cơi
Thường Tịch Quang, c̣n kinh Hoa Nghiêm gọi là Nhất
Chân pháp giới. Trong phần chú giải lại nói:
(Diễn) Tức Khởi Tín Tâm
Chân Như môn.
(演) 即起信心真如門。
(Diễn: Tức là Tâm Chân Như môn trong luận Khởi
Tín).
“Khởi
Tín” tức là Đại Thừa Khởi Tín Luận do Mă
Minh Bồ Tát trước tác. Trong quá khứ, chúng tôi
cũng đă từng giảng luận ấy ở nơi
đây. Trong các bản chú giải Đại Thừa Khởi
Tín Luận, [có một] bản chú giải của người
sống thời gần đây rất hay, thâm nhập mà diễn
tả đơn giản rất tiện lợi cho người
sơ học, tức là cuốn Đại Thừa Khởi
Tín Luận Thuật Kư của pháp sư Từ Châu. Đây
chính là bản giảng kư chép lời Ngài giảng, thâm nhập
nhưng diễn tả đơn giản, chú giải hết
sức hay, tiện lợi cho người sơ học.
Trong Khởi Tín Luận, tâm được chia thành hai môn,
môn thứ nhất là Chân Như môn.
(Diễn) Lưu hữu lưu xuất
nghĩa, vị tùng b́nh đẳng pháp giới, nhất niệm
bất giác, lưu xuất tam tế lục thô chủng chủng
cảnh giới.
(演) 流有流出義,謂從平等法界,一念不覺,流出三細六粗種種境界。
(Diễn: “Lưu” có nghĩa là lưu xuất, ư nói:
Từ pháp giới b́nh đẳng, do một niệm bất
giác mà lưu xuất tam tế, lục thô, và các thứ cảnh
giới).
Y báo và chánh báo trang nghiêm trong
mười pháp giới do đâu mà có? Trong Khởi Tín Luận
có nói rơ. Thật ra, trong kinh Hoa Nghiêm cũng có, mà kinh Lăng
Nghiêm cũng có, kinh Viên Giác cũng có; có thể tham khảo
lẫn nhau th́ mới có thể hiểu rơ chuyện đang được
rất nhiều nhà triết học và khoa học thăm ḍ,
tức là căn nguyên của vũ trụ và nhân loại từ
lúc tối sơ diễn biến như thế nào, [nhưng
những giải thích và giả thiết của họ]
đều chẳng thể viên dung như trong kinh Phật đă
giảng. Rất đáng tiếc là những nhà triết học
và khoa học ngoại quốc chưa đọc kinh Phật,
nhưng hiện thời đọc kinh Phật mà không đọc
bằng tiếng Hán sẽ không thể được, v́
kinh điển bằng tiếng Phạn gần như
đă bị chôn vùi mất sạch. Dẫu có một ít phần
được truyền lại, nhưng tàn khuyết, chẳng
hoàn chỉnh, t́m chẳng được một bản hoàn
chỉnh! Do vậy, hiện thời, trên thế giới muốn
học Phật, chỉ có thể thật sự trông cậy
vào bản dịch được lưu lại bằng tiếng
Hán.
Nhưng những người
ngoại quốc không hiểu tiếng Hán, họ cũng
không có cách nào đọc được. Những người
ấy thật sự rất thông minh, nếu họ thật
sự được nghe Phật pháp, tôi tin tưởng
năng lực ngộ giải của họ phải mạnh
và cao hơn những người thông thường. Trong Phật
pháp nói họ có thiện căn và phước đức,
nhưng không có nhân duyên. Không có duyên phận này, không thấy
được Phật pháp. V́ thế, kho báu phong phú dường
ấy mà họ không có cách nào thụ dụng, hết sức
đáng tiếc! Kinh Phật giảng những chuyện này
hết sức viên măn.
“B́nh
đẳng pháp giới” là tâm thanh tịnh; từ tâm
thanh tịnh “nhất niệm bất
giác” [dấy lên], đấy là vô minh. Trong Khởi Tín Luận
nói “nhất niệm bất
giác”, nhất niệm là chánh niệm, bất giác là mê mất
một niệm ấy, câu này được giải thích
như vậy. Quư vị mê nơi một niệm, nói cách
khác, quư vị khởi ư niệm nơi cảnh giới. Khi
chẳng khởi niệm th́ là “nhất niệm”. Khi khởi
lên một niệm th́ chữ “nhất” trong cái niệm được
khởi ấy chẳng phải là con số, thật ra, v́
chẳng thể diễn tả được, nên bất đắc
dĩ phải dùng chữ “nhất” để tượng
trưng. Trên thực tế, nhất niệm là vô niệm,
khi chẳng nẩy sanh một ư niệm nào th́ gọi là “nhất
niệm”. Hễ khởi lên một ư niệm sẽ chẳng
phải là “nhất niệm”. Do vậy, nhất niệm là Bổn
Giác, mê mất Bổn Giác th́ gọi là “bất giác”. Do mê mất
nhất niệm sẽ biến thành bất giác. Do từ cái
bất giác ấy, từ trong một niệm mê, bèn có [vạn
pháp, vạn niệm]. Trong một niệm, quyết định
chẳng có mê; khi khởi tâm động niệm bèn là mê.
Cái khởi tâm động niệm
ấy, hễ một thứ mê, hết thảy đều
mê. V́ thế, biến hiện ra “tam
tế, lục thô, chủng chủng cảnh giới”. Cảnh
giới ấy nói theo lư luận th́ có tŕnh tự, tức là có
thứ tự, nhưng nói theo mặt sự tướng, nhất
định chẳng thể thấy được. Ví
như nói: Chúng ta dùng gương để soi cảnh giới
bên ngoài th́ nói theo lư luận, những vật thể ở gần
đương nhiên sẽ được soi trước rồi
mới chiếu những vật ở xa. Thế nhưng
quư vị vừa chiếu, ngay trong một sát-na, thứ ǵ
cũng đều cùng hiện ra. Cái chân tâm hiện tướng
của chúng ta cũng giống như vậy, giống
như tấm gương, “tam
tế, lục thô” hiện ra cùng một lúc trong khoảng
một sát-na. Trên lư luận là có thứ tự, nhưng trên
sự tướng, t́m chẳng ra [thứ tự ấy]! Tốc
độ của nó quá nhanh, không có cách nào có thể quan sát
nó có thứ tự trước sau. V́ vậy, khởi nguyên
của vũ trụ và nhân sinh đồng thời hoàn thành trong
một sát-na, quyết định chẳng có trước hay
sau. Đây là chân tướng, chân tướng sự thật,
đạo lư trong ấy rất sâu xa. Nếu quư vị
nghiên cứu, cũng sẽ thấy hết sức thú vị.
“Tam
tế” là ba tế tướng (tướng nhỏ nhiệm)
của A Lại Da Thức: Vô Minh Nghiệp Tướng, Chuyển
Tướng và Cảnh Giới Tướng. Chuyển Tướng
c̣n gọi là Kiến Phần, Cảnh Giới Tướng c̣n
gọi là Tướng Phần, Vô Minh Nghiệp Tướng
c̣n gọi là Tự Chứng Phần. Nếu nói theo ba phần
th́ là Kiến Phần, Tướng Phần, Tự Chứng
Phần; [c̣n nếu nói] bốn phần [th́ là ngoài ba phần
trên đây] thêm vào một thứ nữa là Chứng Tự
Chứng Phần. Chứng Tự Chứng Phần và Tự
Chứng Phần là một, không hai. Những thứ này là ba
tế tướng của A Lại Da Thức. Từ ba tế
tướng lại triển khai thành “lục thô tướng” (sáu tướng thô). Sáu
tướng thô này h́nh thành y báo và chánh báo trang nghiêm thế
gian và xuất thế gian, nay chúng ta gọi là “sâm la vạn tượng”
trong nhân sinh và vũ trụ. Đây là nói về nguyên khởi
của vũ trụ, mà cũng là nói đến cội nguồn
của mê và ngộ.
Những điều này nhằm
giải thích câu thứ nhất: “Vô
bất tùng thử pháp giới lưu” (không ǵ chẳng từ
pháp giới này lưu xuất), đều do Nhất Chân
pháp giới biến hiện ra. Nhất Chân pháp giới là nhất
tâm, đều từ nhất tâm hiện ra. “Vô bất hoàn quy thử pháp giới
giả” (không ǵ chẳng trở về pháp giới này)
nghĩa là....
(Diễn) Hoàn hữu hoàn chuyển
nghĩa, vị nhược ly tâm niệm, tắc vô nhất
thiết cảnh giới chi tướng.
(演) 還有還轉義,謂若離心念,則無一切境界之相
(Diễn: “Hoàn” có nghĩa là hoàn chuyển (xoay trở
về), ư nói: Nếu ĺa tâm niệm, sẽ không có tướng
của hết thảy các cảnh giới).
“Tâm
niệm” là ǵ? Chính là phân biệt, chấp trước. Nếu
quư vị ĺa hết thảy phân biệt, chấp trước,
trong hết thảy cảnh giới chẳng khởi tâm, chẳng
động niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp
trước, tướng cảnh giới ấy sẽ
không có. Do vậy, Vĩnh Gia đại sư nói: “Giác hậu không không vô đại
thiên” (Giác rồi ba cơi rỗng toang hoang). Vậy th́ nếu
chúng ta hỏi: Khi ta chẳng khởi tâm, chẳng động
niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước
nơi cảnh giới th́ có phải là cảnh giới bên
ngoài sẽ đều không có hay chăng? Không phải vậy!
Cảnh giới bên ngoài vẫn c̣n, vậy th́ “vô đại thiên” là không có thứ
ǵ vậy? Trong tâm quư vị không có phân biệt đại
thiên, chấp trước đại thiên, không có khởi
tâm động niệm nơi đại thiên, không có những
điều đó, chứ không phải là nói đại thiên
thế giới không c̣n nữa. Đại thiên thế giới
vẫn tồn tại! Nói cách khác, thật sự không có hết
thảy phiền năo sanh tử trong đại thiên thế
giới, không có hết thảy mê hoặc, nghiệp chướng,
không có những thứ ấy! “Giác
hậu không không vô đại thiên” (giác rồi ba cơi rỗng
toang hoang): Trong đại thiên thế giới, thân tâm quư vị
thanh tịnh. Khi ấy sẽ đại tự tại, giống
như trong Tâm Kinh đă nói “Quán
Tự Tại”, đại tự tại trong đại
thiên thế giới. Đây là nói “nhược ly tâm niệm, tắc vô nhất thiết
cảnh giới chi tướng” (nếu ĺa tâm niệm, ắt
chẳng có tướng của hết thảy các cảnh
giới).
(Diễn) Nhi nhất thiết cảnh
giới toàn thị diệu minh.
(演) 而一切境界全是妙明。
(Diễn: Nhưng hết thảy cảnh giới
hoàn toàn là diệu minh).
Toàn là những vật được
hiện bởi diệu minh chân tâm. Đă là vật
được hiện bởi diệu minh chân tâm th́ thứ
ǵ cũng đều là diệu minh chân tâm. Từ mộng cảnh, chúng ta có thể thấu hiểu
điều này. Trong khi chúng ta nằm mộng, tối nay quư
vị nằm mộng, khi tỉnh giấc, đừng chồm
dậy ngay, hăy suy nghĩ cặn kẽ: Ta vừa mới nằm
mộng, toàn bộ mộng chính là tâm, mỗi một cảnh
giới trong mộng đều là tâm ta, đều là tự
tâm. Mộng do tự tâm biến hiện. Do vậy, có điều
ǵ trong mộng chẳng phải là tự tâm? Thứ nào
cũng đều là, không có một thứ nào chẳng phải.
V́ vậy, sau khi giác ngộ, quư vị mới hiểu tận
hư không trọn pháp giới hoàn toàn là tướng của
tự tâm, ĺa ngoài tâm không có một vật, đúng như tỷ
dụ trong phần trước: “Dĩ
kim tác khí, khí khí giai kim” (dùng vàng làm đồ vật, món
nào cũng đều là vàng). Không có một vật nào chẳng
phải là vàng, đó gọi là “minh tâm kiến tánh”.
Tâm đă sáng suốt bèn thấy
bất luận thứ ǵ bên ngoài cũng đều là tự
tánh, bản thể là tự tánh. Tướng tuy hiện
thiên sai vạn biệt, nhưng Tánh là một. Do vậy,
nơi hữu t́nh chúng sanh [Tánh ấy được] gọi
là Phật Tánh, nơi vô t́nh chúng sanh gọi là Pháp Tánh. Phật
Tánh và Pháp Tánh là một Tánh. Một Tánh, chứ không hai Tánh. Đoạn
này nhằm nói lên ư nghĩa này. Hôm nay đă hết thời
gian, chúng tôi giảng đến đây. Đoạn này không
dài, lần trước đă nói đại lược, hôm
nay chúng tôi dùng thời gian một tiếng rưỡi để
nói cặn kẽ với quư vị. Đây cũng là nói rơ
căn cứ lư luận của Tịnh Độ cùng với
kinh Hoa Nghiêm là một, không hai.
Tập
44
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn
Nghĩa Hội Bản, trang năm mươi ba:
(Sớ) Hồi hướng Bồ
Đề giả, phàm sở tu vi, hàm nguyện văng sanh, thị
danh hồi hướng, nhi hướng vô tha hướng,
hồi hướng Tây Phương giả, hồi hướng
tự tánh dă.
(疏) 回向菩提者,凡所修為,咸願往生,是名回向。而向無他向,回向西方者,回向自性也。
(Sớ: Hồi hướng Bồ Đề là phàm
những ǵ tu tập, thực hiện, đều nguyện
văng sanh. Đó gọi là hồi hướng, nhưng không
hướng về nơi nào khác, hồi hướng Tây
Phương là hồi hướng tự tánh).
Mấy câu này nhằm chú giải
câu “hữu nguyện giai hồi
hướng Bồ Đề” (có nguyện nào cũng
đều hồi hướng Bồ Đề). Học Phật
v́ sao phải hồi hướng? Có những chuyện nào cần
phải hồi hướng? Hồi hướng cho ai? Chúng
ta cần phải hiểu rơ những điều này. Phàm là
người thật sự học Phật, bất luận
thiện sự nào, đại thiện, tiểu thiện,
quư vị tu pháp thế gian hoặc xuất thế gian đều
phải hồi hướng. Ở đây nói rất rơ ràng:
“Phàm sở tu vi” (phàm những
ǵ đă tu tập, tạo tác), “vi”
(為) là tạo tác, “tu” (修) là tu hành, “hàm nguyện văng sanh” (đều nguyện văng
sanh), bất luận làm chuyện ǵ, chúng ta chỉ có một
mục tiêu: Cầu sanh Tịnh Độ! Ư niệm cầu
sanh Tịnh Độ này thời thời khắc khắc
chẳng thể quên mất! Làm hết thảy điều
lành, làm thiện sự, tu phước th́ tu phước ấy
để làm ǵ? Giúp cho ta văng sanh.
Văng sanh cũng phải nhờ
vào phước báo. Trong kinh luận thường nói: “Lâm mạng chung thời, tâm bất
điên đảo” (khi lâm chung, tâm không điên đảo),
đó là đại phước báo. Đối với hết
thảy thiện pháp đă tu, tuyệt đối chẳng
cầu thiện quả trong hiện tại, chẳng cầu
phước ấy. Tu phước nhưng chẳng muốn
hưởng thụ phước báo ấy, muốn khi nào sẽ
hưởng thụ? Lúc lâm chung không bị bệnh, đó là
đại phước báo. Người thế gian nói đến
“ngũ phước”, tức là phước gồm có năm
loại lớn. Khi tuổi thọ đă hết, tỉnh
táo, sáng suốt, đó là một trong năm loại phước,
nhưng phước này trọng yếu nhất trong năm
loại phước. V́ sao? Mọi người đều
biết có lục đạo, sau khi chết sẽ luân hồi
[trong lục đạo]. Phàm là ác đạo, đều là
do mê hoặc, điên đảo mới đi vào, có ai sáng suốt,
tỉnh táo [mà khi lâm chung] đi vào ác đạo? Người
khi lâm chung ngă bệnh, chẳng nhận biết người
nhà, quyến thuộc, thậm chí bất tỉnh nhân sự,
rất nguy hiểm! Trong t́nh h́nh ấy, dẫu chúng ta trợ
niệm giúp cho người ấy, tận hết tâm lực
của chúng ta, người ấy có thể thụ dụng
hay không? Rất khó nói! Nếu người ấy lúc lâm chung
tỉnh táo, sáng suốt, chúng ta trợ niệm cho người
ấy, sẽ rất có hiệu quả. Đủ thấy
lúc lâm chung có quan hệ với phước báo trong cả một
đời và nhân quả trong đời sau. V́ vậy, hết
sức trọng yếu. Do điều này, trong đời
này khi chúng ta c̣n sống, bất luận tu điều lành lớn
hay nhỏ đều mong mỏi nó sẽ giúp cho chúng ta lúc
lâm chung chánh niệm hiện tiền, niệm Phật hiệu
rơ ràng sáng suốt văng sanh. Đó gọi là “hồi hướng”, ư nghĩa của “hồi hướng” là ở
chỗ này.
Hồi hướng c̣n có một
tầng ư nghĩa nữa là phá Ngă Chấp. Người thế
gian Ngă Chấp khá nặng, khởi tâm động niệm chắc
chắn chẳng quên cái ta. Hễ làm chuyện ǵ, ư niệm
đầu tiên là nghĩ nó có lợi cho ḿnh hay không. Ư niệm
này là bẩm sinh, chẳng cần phải học, nói chung là
mong [chuyện ấy] sẽ có lợi cho chính ḿnh. Do đây
có thể biết: Ngă Chấp tăng trưởng hằng
ngày, Ngă Chấp là căn nguyên của Phiền Năo Chướng.
Không có Ngă Chấp, Phiền Năo Chướng bị phá; không
có Pháp Chấp, Sở Tri Chướng bị phá. Do vậy,
đây là căn bản của hai thứ trọng chướng.
Bất luận làm chuyện ǵ cũng đều chịu hồi
hướng, Ngă Chấp sẽ nhạt bớt rất nhiều.
Ta làm thiện sự nào cũng chẳng
v́ chính ḿnh, mà v́ hết thảy chúng sanh, ta có phước
báo, chính ḿnh chẳng cần hưởng, để cho chúng
sanh hưởng, nhường cho mọi người hưởng,
khiến cho cái Ngă nhỏ nhoi hóa thành Đại Ngă, như vậy
mới là tốt đẹp!
“Nhi
hồi hướng vô tha hướng” (nhưng hồi hướng
không nhằm hướng đến điều nào khác),
đây là đặc biệt nói với người tu Tịnh
Độ. Nếu chúng ta nhất tâm nhất ư cầu sanh
Tây Phương Tịnh Độ, quư vị niệm niệm
đều phải hồi hướng Tây Phương, chớ
nên hồi hướng về nơi nào khác, niệm niệm
chẳng quên Tây Phương Cực Lạc thế giới,
niệm niệm đều tu Tây Phương. “Hồi hướng Tây
Phương” là “hồi
hướng tự tánh”. Kinh này dạy như vậy, mà kinh
Hoa Nghiêm cũng nói như thế. V́ có những kẻ chẳng
hiểu đạo lư này, chúng ta làm thiện sự nhiều
ngần ấy thay cho người khác, cuối cùng [chính
ḿnh] cũng chẳng đạt được ǵ, ta làm
để làm chi? Chẳng làm nữa! Do vậy, đến
cuối cùng, [tổ Liên Tŕ] bảo quư vị hồi hướng
Tây Phương là hồi hướng tự tánh viên măn, toàn
bộ vẫn là chính ḿnh đạt được, thật
sự đạt được. Nếu hiện thời
v́ cái Ngă nhỏ nhoi, v́ thân thể hiện tại này của
chính ḿnh th́ kết quả sẽ là điều ǵ cũng chẳng
đạt được! Bởi lẽ, thân thể này khi
sanh không mang theo đến, chết chẳng mang theo đi;
nếu ta v́ nó th́ quư vị đă bị lừa rồi, chịu
thiệt tḥi rồi! Nếu v́ tự tánh th́ tự tánh là Chân
Ngă, thân thể này là cái Ngă sanh diệt, c̣n tự tánh là Chân Ngă
bất sanh bất diệt. Hiểu rơ đạo lư này, quư vị
sẽ hiểu hồi hướng là điều phải
nên tu học.
(Sớ) Mạt nhị cú.
(疏) 末二句。
(Sớ: Hai câu cuối).
Hai câu cuối là hai câu “triển thử tinh thành, cầu
khất gia bị” (giăi bày tấm ḷng tinh thành này, cầu
xin [Tam Bảo] gia bị) trong lời Tựa.
(Diễn) Nhiếp tiền khởi
hậu.
(演) 躡前起後。
(Diễn: Thâu tóm phần trước, phát khởi
phần sau).
Tổng kết phần trước,
phát khởi tiểu đoạn Thỉnh Gia (thỉnh cầu
gia bị) trong phần sau.
(Sớ) Dục hưng thiện sự,
tất trượng Phật gia.
(疏) 欲興善事,必仗佛加。
(Diễn: Muốn làm chuyện tốt lành, ắt cậy
nhờ Phật gia bị).
Ư nghĩa này rất sâu, mà
cũng hết sức chân thật. Nếu không có Tam Bảo
gia tŕ, chúng ta muốn thật sự làm một chuyện tốt
lành nào sẽ rất khó, v́ sao? Ma đến nhiễu loạn,
rất khó làm một chuyện tốt. Cổ đại
đức cũng thường nói, [ví dụ như] dùng giảng
kinh để nói, nếu không được Tam Bảo gia
tŕ, chẳng thể giảng kinh này được, nhất
định phải cậy vào Tam Bảo gia tŕ. Không được
Tam Bảo gia tŕ, quư vị chỉ giảng tối đa là
văn tự mà thôi, giống như thầy giáo dạy Quốc
Văn trong nhà trường, dạy văn tự, nhưng
không có cách nào nói ra nghĩa lư được. Ư nghĩa của
kinh Phật gần như là ư nằm ngoài lời, chẳng
thể thấy nơi mặt văn tự, nhất định
phải cầu Tam Bảo gia tŕ.
Có nhiều vị đại
đức giảng kinh, quư vị hỏi họ: “Ông giảng
kinh này như thế nào?” Chính họ không biết! Khi pháp
sư Đế Nhàn c̣n giảng kinh trên cơi đời,
cư sĩ Tưởng Duy Kiều[7]
và cư sĩ Giang Vị Nông đều là thính chúng trong pháp
hội của Ngài, họ đều là những đại
cư sĩ xuất chúng vào thời đầu Dân Quốc.
Viên Giác Kinh Thân Văn Kư là bút kư của ông Tưởng Duy Kiều,
ông ta vừa nghe vừa ghi. Ghi xong, trao cho lăo ḥa thượng
xem, xin lăo ḥa thượng sửa chữa. Lăo ḥa thượng
đọc bút kư xong, hỏi ngược lại ông ta: “Bài kư
này của ông là do tôi giảng đó ư” Ông ta thưa:
“Vâng!” [Ḥa thượng nói]: “Làm sao tôi giảng khá như vậy
được?” Chính Ngài cũng không biết! Tam Bảo gia
tŕ đấy! Khi lăo ḥa thượng giảng kinh, chính ḿnh
cũng có chuẩn bị, Ngài giảng nghĩa kinh Viên Giác,
rốt cuộc là những điều Ngài giảng đều
ở ngoài những thứ Ngài tính giảng nghĩa mà chính Ngài
cũng chẳng biết! Đấy là lên đài giảng
được thần lực gia tŕ!
Thầy Lư ở Đài Trung
cũng giống như vậy. Thầy Lư giảng kinh chuẩn
bị rất cẩn thận. Thầy giảng kinh hôm thứ
Tư th́ ngày hôm ấy không tiếp khách, dành một ngày
để định tâm, chuẩn bị cho khóa giảng
kinh vào buổi tối; nhưng sau khi cụ lên giảng
đài, những điều cụ nói ra khác với những
ǵ cụ đă chuẩn bị, chẳng hề nói tới những
điều cụ đă chuẩn bị. Những điều
cụ nói trên giảng đài hoàn toàn chẳng phải là những
ǵ cụ đă chuẩn bị. Thần lực gia tŕ! Quả
thật là như thế. Tôi lên đài giảng kinh cũng vậy:
Tôi bước xuống giảng đài, quư vị hỏi
tôi giảng những ǵ, tôi không biết. Thông thường
tôi giảng ǵ đều không chuẩn bị, nhất là bộ
kinh này đă được giảng nhiều lần,
nhưng mỗi lần đều giảng khác nhau. Do vậy,
không có thần lực gia tŕ sẽ chẳng được!
Nhất định phải nhờ vào Tam Bảo gia tŕ.
Đây là nêu lên một thí dụ, thí dụ này là như vậy
đó, hết thảy thiện sự không có ngoại lệ!
Do vậy, quư vị nhất định phải phát Bồ
Đề tâm, phải tu Bồ Tát đạo th́ mới có
thể cảm ứng mười phương hết thảy
chư Phật, Bồ Tát hộ niệm, long thiên ủng hộ.
Đó là điều mọi người mong cầu, cầu
không được, nhất định phải nhờ vào
cảm ứng. Do vậy, ở đây nói “tất trượng Phật gia” (ắt nhờ vào
Phật gia bị), tức là Phật lực gia tŕ.
(Sớ)
Bồ Tát thả nhiên, huống phục phàm phẩm.
(疏) 菩薩且然,況復凡品。
(Sớ:
Bồ Tát c̣n phải như vậy, huống là hạng
phàm phu).
Bồ Tát c̣n phải cầu Phật
gia tŕ, huống hồ chúng ta là phàm phu ư? Phàm phu càng phải
cầu Phật, Bồ Tát gia tŕ. Đại sư soạn bản
chú giải này cầu Phật gia tŕ.
(Sớ) Tinh giả vô nhị, thành giả bất
hư, cổ vị: “Tinh thành chi cực, quỷ thần dữ
thông”, nhi huống Tam Bảo đại từ, mẫn niệm
chúng sanh do như xích tử.
(疏) 精者無二,誠者不虛。古謂精誠之極,鬼神與通,而況三寶大慈,憫念眾生,猶如赤子。
(Sớ: Tinh là không
hai, Thành là chẳng dối. Cổ nhân nói: “Tinh thành đến
cùng cực, sẽ cảm thông quỷ thần”, huống chi
Tam Bảo đại từ, nghĩ thương xót chúng
sanh như con đỏ).
Mấy câu này giảng về sự
cảm ứng. Cầu cảm ứng như thế nào? Phải
“tinh thành”, như thường
nói “thành tắc linh” (thành
kính sẽ linh). Trong sách Liễu Phàm Tứ Huấn có nói: Xưa
kia, khi vẽ bùa niệm chú, thầy bùa có thể giao tiếp
với quỷ thần, bùa do ông ta vẽ sẽ linh. Thật
ra, [chẳng phải chỉ riêng ông ta vẽ] bùa, bùa mới
linh, bất cứ người nào trong số quư vị vẽ
bùa đều linh, chỉ cần tuân theo một nguyên tắc:
Thành! Hễ chí thành ắt linh! Do vậy, b́nh thường
phải luyện tập, phải vẽ bùa cho thật thuần
thục. Khi vẽ, chấm bút xuống liền vẽ thành
công một lá bùa, trong tâm chẳng khởi một ư niệm,
lá bùa ấy bèn linh. Thành tâm vẽ, chẳng sanh một niệm.
Nếu có tạp niệm trong ấy, lá bùa đó chẳng
linh. Niệm chú cũng giống như vậy. Có người
niệm chú linh, có người niệm chú chẳng linh. Niệm
bài chú ấy từ đầu đến cuối, trong ấy
chẳng có một tạp niệm, đọc một
hơi xong, trong tâm chẳng khởi một niệm, bài chú ấy
sẽ linh. Chỉ cần khởi một vọng niệm,
chú sẽ chẳng linh. Do vậy, biết rằng: Chú dài chẳng
bằng chú ngắn, chú dài chẳng dễ nhiếp tâm, dễ
khởi vọng tưởng. Khi niệm A Di Đà Phật
không có vọng tưởng sẽ rất linh. Nếu niệm
A Di Đà Phật mà vẫn khởi vọng tưởng th́
câu Phật hiệu cũng chẳng linh. Đạo lư
đơn giản như vậy đó, nhưng quư vị phải
làm được. V́ thế, do tâm chí thành có thể giao tiếp
với quỷ thần. Quỷ thần mà c̣n có thể giao
tiếp được, huống là Phật, Bồ Tát ư?
Năng lực của Phật, Bồ Tát lớn hơn quỷ
thần quá nhiều. Cổ nhân nói: “Tinh thành chi cực, quỷ thần dữ thông”
(Ḷng tinh thành đến cùng cực sẽ cảm thông quỷ
thần). Câu này được chép trong bộ sách Quản Tử.
(Diễn) Quỷ thần dữ
thông giả, Quản Tử vân: “Tư chi, tư chi, hựu
trùng tư chi. Tư chi bất đắc, quỷ thần kỳ
tương thông chi”, phi quỷ thần chi dữ thông, năi
tinh thành chi cực dă.
(演) 鬼神與通者。管子云:思之思之,又重思之,思之不得,鬼神其將通之,非鬼神之與通,乃精誠之極也。
(Diễn: “Thông với
quỷ thần”: Quản Tử nói: “Hăy nghĩ đi, hăy
nghĩ đi, lại suy nghĩ nữa đi. Suy nghĩ
không ra th́ quỷ thần sẽ giúp cho thông suốt”. Chẳng
phải là quỷ thần giúp cho thông suốt, mà đấy
là do ḷng tinh thành đến tột bậc [cảm vời]
vậy).
Trong
đoạn này có mấy câu rất nổi tiếng trong sách
Quản Tử[8] luận về
chuyện cảm ứng đạo giao. Chúng ta hy vọng cảm
ứng đạo giao cùng Phật, Bồ Tát, hy vọng Phật,
Bồ Tát thường gia tŕ chúng ta, điều kiện duy
nhất là “chí thành, cung kính”.
Bất luận trong cảnh giới nào, thuận cảnh
cũng thế, mà nghịch cảnh cũng thế, giữ cho
cái tâm của chính ḿnh thanh tịnh, tâm thanh tịnh sẽ cảm
ứng. Nếu trong thuận cảnh mà tâm hoan hỷ th́ không
được rồi! Trong tâm thanh tịnh không có tâm hoan hỷ.
Trong nghịch cảnh có phiền năo th́ tâm quư vị lại
bị ô nhiễm, lại chẳng thanh tịnh. Chẳng
thanh tịnh th́ chẳng chí thành! Trong thành tâm không có mừng,
giận, buồn, vui, tâm ấy vĩnh viễn thanh tịnh.
Pháp hỷ khác hẳn, pháp hỷ không phải là hỷ
như trong hỷ nộ (mừng, giận); hỷ, nộ,
ai, lạc (mừng, giận, buồn, vui) là tương
đối. Pháp hỷ từ nội tâm sanh ra, khác hẳn.
Nó chẳng phải là phản ứng đối với cảnh
giới bên ngoài, mà từ nội tâm sanh ra. Do vậy nói “pháp
hỷ sung măn” khác hẳn. Khi pháp hỷ th́ tâm vẫn thanh tịnh,
trong tâm không dấy lên sóng gió, chẳng có dấy lên hay ch́m
xuống, tâm là thanh tịnh, từ bi, b́nh đẳng, trong ấy
có vô lượng hoan hỷ, không trở ngại mọi sự.
Tam Bảo là Phật, Bồ Tát,
đại từ, đại bi, “mẫn niệm chúng sanh, do như xích tử” (nghĩ
thương xót chúng sanh như con đỏ), câu này là tỷ
dụ, tỷ dụ Phật, Bồ Tát không vị nào chẳng
từ bi đối với chúng sanh. Từ bi và yêu
thương có cùng một ư nghĩa, v́ sao trong kinh Phật
chẳng nói thương yêu, mà nói tới ḷng Từ? Ở
đây, cũng có một chút sai biệt, Ái (yêu thương)
sanh từ “t́nh” (t́nh cảm, t́nh kiến), trong ấy có dính
líu t́nh, ô nhiễm! Từ bi sanh từ lư trí, sanh từ trí huệ,
chẳng ô nhiễm. Nói cách khác, ḷng yêu thương do tâm
thanh tịnh th́ gọi là từ bi, ḷng từ bi chẳng
thanh tịnh th́ gọi là Ái. Từ bi và Ái là một chuyện,
nhưng một đằng là tâm mê, một đằng là
tâm giác, tức là tâm giác ngộ. Tâm giác ngộ khởi tác dụng,
chúng ta gọi nó là từ bi, tâm mê th́ gọi là ái t́nh. Ái t́nh
và từ bi là một, chẳng phải hai. Điều này
nói rơ Phật, Bồ Tát hết sức yêu thương chúng
sanh.
“Đản
hữu lợi ư chúng sanh, tinh thành cầu chi, ninh bất
gia bị” (Chỉ cần có lợi cho chúng sanh, [chúng sanh
đă dùng] ḷng tinh thành để cầu mong, lẽ đâu [Phật,
Bồ Tát] chẳng gia bị?). “Bị”
(被) là chữ Phá Âm[9],
có cùng ư nghĩa với chữ Phi (披). Phật, Bồ
Tát niệm niệm muốn cứu độ hết thảy
chúng sanh, giống như trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện
đă nói: “Chúng sanh vô biên thệ
nguyện độ”. Nay quư vị phát tâm muốn độ
chúng sanh, sao các Ngài không hoan hỷ? Giống như quư vị
giúp sức cho các Ngài, quư vị giúp đỡ các Ngài th́ các
Ngài cũng giúp đỡ quư vị. Quư vị chẳng chịu
giúp đỡ các Ngài th́ các Ngài cũng chẳng có cách nào hết,
các Ngài muốn gia tŕ quư vị cũng chẳng được!
Điều này cũng nhằm khơi gợi ḷng tin nơi
chúng ta: Thật sự phát tâm lợi ích chúng sanh th́ Phật,
Bồ Tát không vị nào chẳng che chở, gia bị, không
vị nào chẳng gia tŕ quư vị. Nếu v́ chính ḿnh hoặc
v́ gia đ́nh ḿnh cầu Phật, Bồ Tát gia tŕ th́ sẽ
khó khăn hơn. Phải là có nhân duyên khác th́ mới có thể
thật sự cầu được. Nếu không có nhân
duyên nào khác, sẽ chẳng dễ dàng cho lắm! Nếu v́
lợi ích hết thảy chúng sanh th́ Phật, Bồ Tát gia
tŕ rất dễ dàng; đây là lẽ đương nhiên,
chắc chắn Phật, Bồ Tát gia tŕ. Bản thân chúng ta
nhất định phải tin tưởng điều này!
Tiếp theo đây là bài kệ
thỉnh gia bị của đại sư, thỉnh cầu
Phật, Bồ Tát gia tŕ, ban cho Ngài trí huệ và năng lực
để soạn một bản chú giải kinh Di Đà hay
đẹp nhằm lợi ích hết thảy chúng sanh. Có bốn
bài kệ, mỗi bài kệ gồm bốn câu, bốn bài là
mười sáu câu.
Ngũ, thỉnh gia.
(Tự) Quy mạng Sa Bà thuyết
pháp chủ, Tây Phương tiếp dẫn đại từ
tôn, bất khả tư nghị Phật hộ kinh, Xá Lợi,
Văn Thù chư thánh giả.
五、請加
(序) 歸命娑婆說法主,西方接引大慈尊,不可思議佛護經,舍利文殊諸聖者。
(Tựa:
Quy mạng Sa Bà thuyết pháp chủ, Tây Phương tiếp
dẫn đại từ tôn, kinh Phật hộ niệm chẳng
nghĩ bàn, Xá Lợi, Văn Thù, các đức thánh).
Bài
kệ thứ nhất là quy y, xem tiếp bài kệ thứ
hai.
(Tự) Nhị độ lục
phương biến trần sát, quá khứ, kiến tại
cập đương lai, vô tận Tam Bảo hàm chứng
tri, duy nguyện từ bi nhiếp thọ ngă.
(序) 二土六方遍塵剎,過去見在及當來,無盡三寶咸證知,惟願慈悲攝受我。
(Tựa: Hai cơi, sáu
phương khắp trần sát, quá khứ, hiện tại
và tương lai, vô tận Tam Bảo cùng chứng tri, kính
nguyện từ bi nhiếp thọ con).
[Xưa kia] chữ “kiến” (見) và chữ “hiện” (現) trong hiện tại có cùng một âm, có cùng một
ư nghĩa. Bài kệ trước nói đến Tam Bảo của
bản kinh này: Người nói bản kinh này là Thích Ca Mâu Ni Phật,
vị được nói đến là A Di Đà Phật
trong thế giới Tây Phương, đều là Bổn
Sư của chúng ta. Bài kệ thứ hai nói đến vô tận
Tam Bảo, đặc biệt là “sáu phương chư Phật khen ngợi khuyên tu”
trong kinh này, đây là nói tới mười phương hết
thảy Tam Bảo, chúng ta đều phải nên quy y. Hai bài
kệ cuối cùng chính thức thỉnh cầu Tam Bảo
gia bị.
(Tự) Ngă kim vọng dĩ uế
độ kiến, lăi trắc Như Lai thanh tịnh tâm.
(序) 我今妄以穢土見,蠡測如來清淨心。
(Tựa: Con nay lầm dùng uế độ kiến
giải, ḍ đoán Như Lai thanh tịnh tâm).
Đương nhiên là đại
sư khiêm hư, nhưng nếu so với Phật để
nói th́ [lời này] cũng là chân thật. Chúng ta sống trong
thế giới Sa Bà, thế giới Sa Bà là cơi uế ác, chẳng
phải là thế giới thanh tịnh, tâm địa bị
lục trần ô nhiễm, đối với nghĩa thú
trong kinh điển chỉ đoán ṃ mà thôi, làm sao có thể
liễu giải nghĩa chân thật của Như Lai? Do vậy,
trước hết dùng ngay cảnh giới ở ngay
trước mắt của chính ḿnh để nói, ư nghĩa
ấy hết sức miễn cưỡng!
(Tự) Ngưỡng thừa Tam
Bảo đại oai thần, gia bị phàm ngu thành thắng
trí.
(序) 仰承三寶大威神,加被凡愚成勝智。
(Tựa: Vâng nhờ
Tam Bảo đại oai thần, gia bị phàm phu thành trí
sáng).
Đây là cầu gia bị,
ngưỡng mong oai thần Tam Bảo gia tŕ, khiến cho
lũ phàm phu chúng con cũng có trí huệ thù thắng giống
như chư Phật, Bồ Tát th́ mới có thể hoằng
truyền kinh này, mới có thể soạn chú giải cho bản
kinh này.
(Tự) Sử ngă ngôn ngôn phù Phật
ư.
(序) 使我言言符佛意。
(Tựa: Khiến con từng chữ hợp ư Phật).
“Ngôn
ngôn” là từng chữ một, [“sử ngă ngôn ngôn phù Phật ư”] là từng chữ
trong bản chú giải này đều phù hợp với ư
nghĩa của Phật.
(Tự) Lưu thông hà nhĩ ích
hàm linh.
(序) 流通遐邇益含靈。
(Tựa: Lưu thông xa gần
lợi hàm linh).
Đây là bổn nguyện của
Ngài: Chú giải kinh chẳng v́ danh lợi, chẳng v́ chính
ḿnh, mà nhằm lợi ích chúng sanh, giúp đỡ người
khác, khuyên họ tu Tịnh Độ.
(Tự) Kiến văn tùy hỷ
tất văng sanh, đồng chứng Tịch Quang vô thượng
quả.
(序) 見聞隨喜悉往生,同證寂光無上果。
(Tựa: Thấy
nghe tùy hỷ ắt văng sanh, cùng chứng Tịch Quang vô
thượng quả).
Mục tiêu chỉ có như vậy
mà thôi; đủ thấy Ngài nguyện nào cũng nhằm lợi
ích chúng sanh, chẳng v́ chính ḿnh.
(Diễn) Kệ trung sơ bát cú,
thị tiên quy mạng.
(演) 偈中初八句,是先皈命。
(Diễn: Tám câu kệ đầu tiên là trước
hết quy mạng [Tam Bảo]).
Trước hết, hai bài kệ
đầu tiên trong phần trước là quy y.
(Diễn) Thứ bát cú, thị
chánh thỉnh gia.
(演) 次八句,是正請加。
(Diễn: Tám câu kế
tiếp là phần chính thức thỉnh Tam Bảo gia bị).
Tám câu tiếp theo là hai bài kệ
sau, là phần “chánh thỉnh gia”,
tức là chính thức thỉnh Phật lực gia tŕ.
(Diễn) Sơ trung hựu nhị.
(演) 初中又二。
(Diễn: Trong phần đầu lại gồm hai
phần nhỏ).
“Sơ
trung” là hai bài kệ quy y trong phần đầu, hai bài kệ
này mang hai ư nghĩa.
(Diễn) Sơ tứ cú.
(演) 初四句。
(Diễn: Bốn câu đầu).
Tức là bài kệ thứ nhất.
(Diễn) Tựu bổn kinh Tam Bảo.
(演) 就本經三寶。
(Diễn: Chính là [nêu rơ] Tam Bảo trong kinh này).
Tôi vừa mới nói với quư
vị điều này.
(Diễn) Hậu tứ cú, chỉ vô tận Tam Bảo.
(演) 後四句,指無盡三寶。
(Diễn: Bốn câu
cuối nêu ra vô tận Tam Bảo).
Mười phương Tam Bảo.
Bài kệ thứ ba là...
(Diễn) Thứ trung hữu tam,
sơ nhị cú, tiên xuất thỉnh gia sở dĩ.
(演) 次中有三,初二句,先出請加所以。
(Diễn: Phần tiếp
theo gồm ba đoạn, hai câu đầu là trước hết
nêu lên lư do thỉnh cầu gia bị).
Nêu lư do cầu Phật gia tŕ: V́
sao tôi phải cầu Phật gia tŕ?
(Diễn) Trung
tam cú, thị chánh cầu gia bị, hậu tam cú, thị hồi
hướng Bồ Đề.
(演) 中三句,是正求加被。後三句,是回向菩提。
(Diễn: Ba câu trong đó là
chính thức cầu gia bị, ba câu sau là hồi hướng
Bồ Đề).
Ba câu sau đó từ
“lưu thông hà nhĩ ích hàm linh”
cho đến “đồng chứng
Tịch Quang vô thượng quả”.
(Diễn) Sa Bà, thử vân Kham Nhẫn,
Phật cụ tam duyên từ, danh đại từ. Thử
kinh Thanh Văn chúng trung, Xá Lợi vi thủ, Bồ Tát chúng
trung, Văn Thù vi thủ, cố đặc tiêu xuất.
(演) 娑婆,此云堪忍。佛具三緣慈名大慈,此經聲聞眾中舍利為首,菩薩眾中文殊為首,故特標出。
(Diễn: Sa Bà
được cơi này dịch là Kham Nhẫn. Đức Phật
có đủ ba thứ duyên từ nên gọi là “đại từ”.
Trong kinh này, ngài Xá Lợi Phất là thượng thủ
trong chúng Thanh Văn, ngài Văn Thù là thượng thủ
trong chúng Bồ Tát, nên đặc biệt nêu tên hai vị).
Giải thích bài kệ thứ nhất.
“Sa Bà” (Sahā-lokadhātu) là tiếng Phạn dịch
âm, có nghĩa là Kham Nhẫn; [ư nói] thế giới này khổ
quá, nhưng chúng sanh trong thế giới này đều có thể
chịu đựng, lại c̣n rất quen với hoàn cảnh
xấu hèn này. Có nơi tốt đẹp muốn họ
sanh về đó, họ chẳng muốn đi; do vậy mới
có danh xưng này, cho nên gọi là thế giới Kham Nhẫn.
Thế giới này hết sức bất hảo, thua kém quá
xa các cơi thanh tịnh của chư Phật trong mười
phương, nhưng chúng sanh ở nơi này mà thật sự
muốn phát nguyện, muốn ĺa bỏ thế giới này
quả thật chẳng nhiều!
Đức Phật được
gọi là “đại từ” v́ đức Phật có đủ
ba thứ duyên từ. Thông thường, chúng ta gọi duyên
từ là Ái Duyên Từ. Đức Phật không có Ái Duyên Từ,
nhưng chúng sanh th́ có: Tôi thích ai đó, tôi rất từ bi
đối với người ấy; tôi chẳng ưa kẻ
nào, tôi chẳng từ bi đối với hắn. Đó là
Ái Duyên Từ, đức Phật không có [loại duyên từ]
này. Ngoài Ái Duyên Từ ra, đức Phật có trọn đủ
ba thứ duyên từ khác: Chúng Sanh Duyên Từ, Pháp Duyên Từ
và Vô Duyên Từ. Ái Duyên Từ hoàn toàn xuất phát từ cảm
t́nh của chính ḿnh. Chúng Sanh Duyên Từ là Lư Trí, thường
nói là “thôi kỷ cập nhân”
(suy từ ḿnh mà nghĩ đến người): Người
kia chẳng có quan hệ ǵ với ta, nhưng khi kẻ ấy
gặp khổ nạn, ta cũng nên trọn hết nghĩa
vụ giúp đỡ kẻ ấy, không cần bất cứ
báo đáp nào. Điều này thuộc về Chúng Sanh Duyên Từ.
Chúng Sanh Duyên Từ là giống như những người
có học vấn đạo đức trong thế gian; vào
thời cổ họ là bậc thánh hiền quân tử, họ
có thể làm được; nhưng không thể thực hiện
Pháp Duyên Từ v́ họ không hiểu.
Pháp Duyên Từ là ǵ? Phạm vi của
nó lớn hơn hai loại trước nhiều lắm. Bồ
Tát mới trọn đủ Pháp Duyên Từ.
Ngài dựa vào đâu để thể hiện ḷng từ bi
đối với hết thảy chúng sanh? Dựa vào
pháp. Dựa vào pháp nào vậy? Nay chúng ta nói đến pháp dễ
hiểu nhất, như mười đại nguyện
vương của Phổ Hiền Bồ Tát là pháp, Ngài tu
nhân bằng cách tu mười đại nguyện
vương, đối với hết thảy chúng sanh Ngài
nhất định từ bi. “Lễ
kính chư Phật, xưng tán Như Lai”, những cảnh
giới ấy đều vô lượng vô biên. V́ sao phải
từ ái đối với hết thảy hữu t́nh và vô
t́nh như vậy? Ta phải tu pháp này. Bồ Tát tu pháp vô
thượng Bồ Đề, nhất định đại
từ đại bi đối với hết thảy chúng
sanh. Điều này khác với [hai thứ duyên từ trong] phần
trước, cảnh giới cũng hết sức rộng
lớn, đồng thời cũng là sử dụng chân tâm
[để tu pháp này].
Đạt đến quả
địa Như Lai, chính là Vô Duyên Đại Từ Đồng
Thể Đại Bi, đây chính là Pháp Duyên Từ đạt
đến rốt ráo, đạt đến viên măn. Đến
khi ấy, ḷng từ ái đối với hết thảy
chúng sanh là vô duyên, tức là vô điều kiện, không có bất
cứ điều kiện nào, không có bất cứ lư do nào,
v́ sao? V́ hết thảy chúng sanh hữu t́nh và vô t́nh hoàn toàn có
cùng một Thể với chính ḿnh. Kính người khác là
kính chính ḿnh, kính chính ḿnh là kính người khác. Tự - Tha
bất nhị, Tự và Tha là một Thể. Đấy là
ḷng từ bi của Như Lai. Do đức Phật trọn
đủ ba thứ Chúng Sanh Duyên Từ, Pháp Duyên Từ và Vô
Duyên Từ, nên Ngài được gọi là “đại từ”.
V́ thế, chúng ta xưng tụng Phật, Bồ Tát là “đại
từ đại bi”, ở đây gọi là “đại từ tôn”. [Danh
xưng này] được dùng để gọi Thích Ca Mâu
Ni Phật và Cực Lạc thế giới đạo sư
A Di Đà Phật trong kinh này, [danh từ ấy] chuyên dùng
để gọi hai vị này.
Câu “bất
khả tư nghị Phật hộ kinh” nói về cuốn
kinh này. Cuốn kinh này chẳng thể nghĩ bàn, được
mười phương ba đời hết thảy
chư Phật hộ niệm. Kinh này vốn có tựa đề
là Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất
Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh. Ai xưng
tán? Hết thảy chư Phật. Không có một vị Phật
nào chẳng khen ngợi bộ kinh này; không có vị Phật
nào chẳng khen ngợi pháp môn này. Quư vị kiểm trọn
khắp Đại Tạng Kinh, có bộ kinh nào khác là kinh
được hết thảy chư Phật hộ niệm
hay chăng? Không có! T́m không ra! Chỉ có một bộ kinh
này là được hết thảy chư Phật hộ
niệm.
Nếu chúng ta thật sự hiểu
được ư nghĩa này th́ trong tám vạn bốn ngàn
pháp môn, quư vị sẽ biết chọn lựa. Kinh này được
hết thảy chư Phật hộ niệm, nếu quư vị
nương theo bộ kinh này để tu học th́ nói cách
khác, hết thảy chư Phật đều phải hộ
niệm quư vị. Quư vị chẳng cầu các Ngài hộ
niệm, các Ngài cũng phải hộ niệm v́ các Ngài phải
hộ niệm bộ kinh này. Quư vị hằng ngày đọc
tụng kinh này, chiếu theo kinh này tu hành, lẽ nào các Ngài
không hộ niệm? Nếu quư vị hy vọng hết thảy
chư Phật đều bảo vệ quư vị, hết
thảy chư Phật đều hộ niệm quư vị,
th́ không có ǵ khác cả: Hăy niệm A Di Đà Kinh, niệm A
Di Đà Phật là được rồi! Lợi ích thù thắng
này c̣n kiếm ở nơi nào được nữa? Kiếm
không ra! Người thật sự thông đạt Phật
pháp, nếu chẳng tu Tịnh Độ, chẳng giữ
lấy Tây Phương Cực Lạc thế giới,
người ấy là kẻ xuẩn ngốc nhất, chẳng
thể nào có hạng người như vậy được!
Trừ phi kẻ ấy chưa thông hiểu, chưa từng
thấy toàn bộ Phật pháp, chỉ thấy một bộ
phận nào đó, thấy được phần này,
chưa thấy được phần khác, nên chẳng thể
tin tưởng. Nếu đă thấy toàn bộ th́ nếu
không phải là [do chính ḿnh c̣n tham đắm nên] chẳng bỏ
được nơi này, sẽ chẳng có lư do nào mà chẳng
giữ lấy pháp môn Tịnh Độ! Bởi lẽ, pháp
này quá thù thắng, hết sức chẳng thể nghĩ
bàn! Chúng ta nhất định phải hiểu đạo
lư này!
Lại c̣n có sáu phương Phật,
đúng là mầu nhiệm đến tột bậc! Kinh nói
số lượng chư Phật trong mỗi một
phương của sáu phương là “như Hằng hà sa số”; thật ra, chẳng phải
chỉ bằng số lượng cát trong một sông Hằng.
Một giải sông Hằng rốt cuộc có bao nhiêu hạt
cát? Chư Phật quá nhiều, không có cách nào tính toán, cát sông
Hằng thấm vào đâu! Những vị Phật ấy
không vị nào chẳng tán thán. Trong mỗi một
phương, Thích Ca Mâu Ni Phật nêu vài danh hiệu tượng
trưng. Phật nhiều như thế, rốt cuộc,
Thích Ca Mâu Ni Phật nêu bao nhiêu vị? Nêu vị này sẽ
sót tên vị kia, nêu tên vị kia sẽ sót tên vị khác nữa;
nói chung là nêu lên một, sót muôn vàn, rốt cuộc phải
nêu như thế nào th́ mới nên? Tùy tiện nêu mấy vị
ư? Chẳng thể được! Phật chẳng nói
tùy tiện! Phật chẳng ăn nói tùy tiện đâu nhé!
Ngài nói năng luôn có dụng ư, luôn có ư nghĩa rất sâu! Những
danh hiệu của mấy vị Phật được
Ngài nêu lên đều hàm nghĩa rất sâu.
Mùa Xuân năm nay chúng tôi giảng
Di Đà Kinh Yếu Giải tại Hương Cảng. Trên
giảng đài, khi đọc đến đoạn kinh
văn này, chợt nhận ra, do giảng kinh quá thuần thục,
chẳng cần phải chuẩn bị sẵn, đột
nhiên nhận thấy những danh hiệu Phật ấy bao
hàm ư nghĩa chẳng thể nghĩ bàn. V́ thế, cứ một
mực nói ra, thính chúng rất hoan hỷ. Giảng xong, tôi lại
viết bút kư, tôi cảm thấy giảng [ư nghĩa của]
những danh hiệu ấy chẳng sai, đều là biểu
thị pháp. Danh hiệu chư Phật từ A Súc Bệ Phật
ở phương Đông cho đến vị cuối cùng
là Như Tu Di Sơn Phật toàn bộ nhằm biểu thị
pháp, biểu thị toàn bộ lịch tŕnh của người
tu Tịnh Độ từ sơ phát tâm cho đến khi
thành vô thượng đạo. V́ thế, Ngài chẳng phải
là tùy tiện nêu lên [danh hiệu chư Phật trong sáu phương],
ư vị [của chuyện nêu danh hiệu này] chẳng khác với
kinh Hoa Nghiêm cho lắm. Kinh Hoa Nghiêm dùng sự biểu diễn
của Thiện Tài đồng tử để biểu thị
pháp. Kinh Di Đà dùng danh hiệu của chư Phật trong
sáu phương để biểu thị pháp. Ư nghĩa này
càng đọc càng thấy có lư, tuyệt đối chẳng
phải do tôi suy đoán, nhưng trong các chú giải của
cổ nhân không có cách nói này. Sớ Sao Diễn Nghĩa và Yếu
Giải cũng chẳng có cách nói ấy. Nếu chẳng phải
được thần lực của Tam Bảo gia tŕ, tôi
cũng không hiểu! Trên giảng đài chợt phát hiện
liền nói một hơi, nói không sai. Do vậy, đây là
kinh được chư Phật hộ niệm, chúng ta phải
coi trọng. V́ thế, trong hết thảy các kinh, nếu
quư vị hỏi tôi: Đối với toàn bộ Đại
Tạng Kinh, nếu chỉ cho thầy học một bộ
th́ thầy muốn học bộ kinh nào? Thưa với quư
vị, tôi muốn học A Di Đà Kinh, những kinh khác tôi
đều chẳng cần. Nếu c̣n có thể chọn
thêm một bộ nữa th́ tôi muốn học kinh Hoa Nghiêm.
“Xá
Lợi, Văn Thù chư thánh giả”: Trong phần Tự
có mười sáu vị tôn giả và bốn vị Bồ
Tát. Trong mười sáu vị tôn giả ấy, ngài Xá Lợi
Phất đứng đầu, trong bốn đại Bồ
Tát, Văn Thù Bồ Tát được xếp đầu
tiên. Do vậy, kệ tụng [thỉnh Tam Bảo gia bị]
nêu tên hai vị này làm đại biểu.
(Diễn) Nhị độ cú, thị
hoành biến nhất thiết xứ.
(演) 二土句,是橫遍一切處。
(Diễn: Câu “hai cơi....” là theo chiều ngang, trọn
khắp hết thảy mọi nơi).
Đây là nói tới câu “nhị độ lục
phương biến trần sát”. Chữ “nhị độ” chỉ thế
giới Sa Bà và Tây Phương Cực Lạc thế giới.
“Độ” là quốc độ,
mà cũng là khu vực giáo hóa của một vị Phật.
Chúng ta biết: Trong kinh, đức Phật thường nói
“đại thiên thế giới”,
đấy chính là tam thiên đại thiên thế giới, tức
là khu vực giáo hóa của một đức Phật. Khu vực
giáo hóa của mỗi vị Phật được gọi
là “đại thiên thế giới”,
hoặc gọi là “tam thiên đại
thiên thế giới”. Tuy gọi là “đại thiên thế giới”, mỗi đại
thiên thế giới hoàn toàn chẳng to như nhau, mà lớn
- nhỏ khác nhau. V́ sao lớn - nhỏ khác nhau? Do lúc tu nhân,
chư Phật phát nguyện và các thứ nghiệp lực
nhân duyên không giống nhau. V́ vậy, Tây Phương Cực
Lạc thế giới lớn hơn thế giới Sa Bà rất
nhiều. Thế giới của Ngài là đại tam thiên đại
thiên thế giới, c̣n Sa Bà là tiểu tam thiên đại
thiên thế giới. Nếu so sánh, sẽ thấy khác nhau. Đương
nhiên trong thái hư cũng có những đại thiên thế
giới to hơn thế giới của A Di Đà Phật, chẳng
phải là không có. Những đại thiên thế giới nhỏ
hơn thế giới Sa Bà cũng có. V́ thế, lớn - nhỏ
khác nhau! Giống như ban đêm chúng ta nh́n lên trời thấy
các ngôi sao, mỗi tinh cầu cũng lớn nhỏ khác nhau.
“Hoành biến nhất thiết
xứ”: Theo chiều ngang trọn khắp mười phương.
Đây là nói về không gian.
(Diễn) Quá khứ cú, thị thụ
biến nhất thiết thời.
(演) 過去句,是豎遍一切時。
(Diễn: Câu “quá khứ”
là theo chiều dọc trọn hết thảy các thời).
Câu “quá
khứ, kiến tại cập đương lai” nói
theo chiều dọc, tức là nói theo phương diện
thời gian. Thời gian có đời quá khứ, đời
vị lai, đời hiện tại, v́ thế là “thụ biến nhất thiết
thời” (theo chiều dọc trọn khắp hết thảy
thời), trong đoạn trên là “hoành
biến nhất thiết xứ” (theo chiều ngang, trọn
khắp hết thảy mọi nơi). Đây là nói trọn
hết thảy thời gian và không gian, chẳng bỏ sót một
điều nào. Mười phương ba đời hoàn
toàn bao gồm trong ấy. Cảnh giới này to lớn chẳng
khác ǵ cảnh giới chúng ta đă đọc trong Phổ
Hiền Hạnh Nguyện Phẩm. Cảnh giới hết
sức rộng lớn, đủ thấy tấm ḷng của
đại sư.
Nay chúng ta làm một tí thiện
sự có phạm vi rất nhỏ, đâu có thể nghĩ
đến phạm vi to dường ấy, chỉ nghĩ
tới một nhà của chính ḿnh là được rồi:
Phật, Bồ Tát bảo vệ, ban ân cho cả nhà con b́nh
an, bảo vệ, che chở cho thân thích, bạn bè của con
là tuyệt lắm rồi! Nếu lớn hơn một chút
th́ bảo vệ che chở huyện thị này của con, bảo
vệ che chở Đài Loan, chứ những nơi khác chẳng
hề nghĩ đến. Có mấy ai làm một chút thiện
sự bèn mong cầu người trên cả thế giới
tốt đẹp hay chăng? Loại người như vậy
rất ít, ư niệm như vậy rất ít. So với Liên
Tŕ đại sư, vẫn c̣n thua kém xa lắm. Tâm lượng
của Liên Tŕ đại sư là tận hư không, trọn
khắp pháp giới, chẳng bỏ sót một tinh cầu
nào. V́ thế, chúng ta học Phật, thường là khi
đọc kinh, hăy suy nghĩ từ chỗ này, tâm lượng
của chúng ta quá nhỏ, có tư cách ǵ để làm Phật?
V́ vậy, thành Phật th́ điều kiện đầu
tiên là phải mở rộng tâm lượng, “tâm bao thái hư, lượng châu
sa giới”. Tâm lượng phải lớn!
“Vô
tận Tam Bảo hàm chứng tri” (vô tận Tam Bảo
đều cùng chứng biết). Thế giới vô tận,
trong mỗi thế giới đều có Tam Bảo. V́ vậy,
Tam Bảo cũng là vô tận. Vô tận Tam Bảo đều
chứng minh cho con, chứng minh con phát tâm chân thật, thật
sự v́ lợi ích hết thảy chúng sanh, cầu Phật
làm chứng cho con. “Duy nguyện
từ bi nhiếp thọ ngă”: Không chỉ chứng minh
cho con, mà c̣n mong Phật dùng thần lực giúp đỡ
con, đại từ đại bi nhiếp thọ con. V́
sao phải cầu Phật nhiếp thọ? Tiếp theo
đấy là nêu ra lời thỉnh cầu gia bị rất
rơ rệt: Chính ḿnh đă có đại nguyện như vậy,
nhưng không có năng lực! Con có ư nguyện, rất mong sao
mỗi một chúng sanh đều nhận biết kinh Di Đà,
đều nhận biết Tây Phương Cực Lạc
thế giới, phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ,
nhưng nay con không có năng lực, con chưa làm được,
con rất mong làm. Rất mong làm, nhưng vẫn chưa thể
làm, chẳng thể làm th́ không được rồi, nên
làm như thế nào đây? Cầu Phật giúp đỡ.
Con bằng ḷng làm, cầu Phật giúp con làm chuyện này
viên măn. Năng lực của chính ḿnh đúng là quá hữu hạn!
“Ngă
kim vọng dĩ uế độ kiến” (con nay lầm
lạc dùng kiến giải trong uế độ), “kiến” là kiến giải, tức
kiến giải của phàm phu. Phàm phu làm sao thấu hiểu
cảnh giới của Phật? Phàm phu làm sao có thể suy
lường tri kiến của Phật cho được? Đương
nhiên chẳng thể nào! “Lăi trắc
Như Lai thanh tịnh tâm” (suy đoán hẹp ḥi tâm thanh tịnh
của Như Lai), “lăi” (蠡) là cái ống nhỏ,
nhỏ tí tẹo. Nếu quư vị nh́n bên ngoài [qua một
cái ống] th́ cũng chỉ có thể thấy cục bộ,
chẳng thấy được toàn thể. Điều này
tỷ dụ kiến giải và kiến văn của chính
ḿnh hết sức nhỏ hẹp, không có cách nào nhập tri
kiến của Phật được!
(Diễn) Như Lai thanh tịnh
tâm giả.
(演) 如來清淨心者。
(Diễn: Tâm thanh tịnh của Như Lai là...)
Tức là tri kiến của Phật.
(Diễn) Như Lai tùng Thật
Tướng Bát Nhă lưu xuất Văn Tự Bát Nhă, cố
thử kinh tức thị Như Lai thanh tịnh tâm.
(演) 如來從實相般若流出文字般若,故此經即是如來清淨心。
(Diễn: Như Lai
từ Thật Tướng Bát Nhă lưu xuất Văn Tự
Bát Nhă, nên kinh này chính là tâm thanh tịnh của Như Lai).
Hết thảy kinh đều từ
trí huệ Bát Nhă của Như Lai lưu lộ ra văn tự.
Kinh Hoa Nghiêm nói rất hay: “Phật
pháp vô nhân thuyết, tuy trí mạc năng giải” (Phật
pháp không có ai nói th́ dù là người có trí vẫn chẳng thể
hiểu được). Kinh Phật nhất định phải
có người nói. Nếu không có ai giảng giải cho quư vị,
dẫu là người thông minh có trí huệ trong thế gian,
vẫn chẳng hiểu! V́ sao không hiểu? Phật từ
tâm thanh tịnh lưu xuất ngữ ngôn, văn tự, c̣n
người thế gian tâm phân biệt, tâm chấp trước,
tâm ô nhiễm, chẳng giống như tâm Phật, cho nên hễ
tiếp xúc Phật pháp, nhất định sẽ hiểu
lệch lạc ư nghĩa. Người ấy dựa vào tri
kiến của chính ḿnh để giải thích kinh Phật,
nên phạm sai lầm! “Y văn
giải nghĩa, tam thế Phật oan” (giải thích ư
nghĩa của kinh điển dựa theo văn tự, ba
đời chư Phật bị oan). Ba đời chư Phật
đều kêu oan uổng, hiểu trật ư nghĩa mất
rồi! Cho nên chẳng thể dựa theo văn tự
để giải thích [kinh Phật].
Vậy th́ cần phải do
người nào nói? Cần phải có người hữu tu
hữu chứng nói, v́ người hữu tu hữu chứng
tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh khởi cảm ứng với
tâm thanh tịnh, nên mới có thể thấu hiểu những
ư nghĩa chân chánh trong kinh Phật. Do vậy, dùng tâm chẳng
thanh tịnh để giảng kinh Phật th́ chẳng có
đạo lư ấy, giảng không nên thân! Quư vị muốn
cầu Phật, Bồ Tát cảm ứng, cũng phải
dùng cái tâm thanh tịnh mới ḥng cảm ứng. Tâm chẳng
thanh tịnh, có muốn cầu cũng chẳng cầu
được! Chuyện này chẳng thể miễn cưỡng!
Chẳng phải là ta đốt nhiều nén hương
thơm, hằng ngày thắp đèn, lễ bái, ve vuốt, bợ
đỡ, chắc là Phật sẽ từ bi đối với
ta. Nếu quư vị nghĩ có thể dùng cảm t́nh để
xử sự th́ lầm to rồi! Phật, Bồ Tát không xử
sự bằng cảm t́nh, thuần túy là lư trí, chẳng nói
tới chuyện t́nh cảm. Không hợp điều kiện
này, quư vị sẽ chẳng có một tí biện pháp nào hết!
Nếu tâm địa thanh tịnh, quư vị
suốt ngày từ sáng đến tối chẳng hề thắp
hương, chẳng dập đầu, chẳng lễ
bái, chẳng thắp đèn, mà vẫn có cảm ứng, v́
sao? Tịnh cảm ứng với tịnh!
V́ sao dạy quư vị những
nghi thức? Nghi thức nhằm thời thời khắc khắc
nhắc quư vị nâng cao sự cảnh giác của chính ḿnh,
nhắc quư vị về giác - chánh - tịnh, mang ư nghĩa này. Nếu
tâm địa thanh tịnh quang minh, thắp đèn hay không
cũng chẳng sao. V́ tâm địa của chúng ta quá tối
tăm nên thường nh́n vào đèn, bèn nghĩ chúng ta phải
quang minh, phải giác ngộ, mang ư nghĩa như vậy
đó. Bởi lẽ, tâm thanh tịnh th́ mới có thể cảm
ứng. Do điều này, kinh Phật là tâm thanh tịnh của
Như Lai, là vật được biến hiện bởi
tâm thanh tịnh, đặc biệt là bộ kinh này. Bộ
kinh này thanh tịnh hơn những kinh khác, v́ sao? Thuần
nhất giảng nhất tâm bất loạn, không ṿng vèo,
quanh co. Những kinh khác c̣n ṿng vèo, quanh co, dần dần mới
chuyển đến chỗ này. Kinh này thẳng thừng, thỏa
đáng, v́ thế, nói nó là đặc biệt thanh tịnh.
“Ngưỡng
thừa Tam Bảo đại oai thần, gia bị phàm ngu
thành thắng trí”: Không có trí huệ thù thắng của
Như Lai, Bồ Tát, sẽ không có cách ǵ nêu tỏ ư nghĩa
của kinh này. Nếu muốn nêu tỏ ư nghĩa của
kinh, đồng thời muốn phù hợp với trí Phật
th́ giống như trong bài kệ Khai Kinh đă nói “nguyện giải Như Lai chân thật
nghĩa”, thật sự là chuyện chẳng dễ dàng!
Không được Tam Bảo gia tŕ, chắc chắn chẳng
làm được. Tiếp theo đó, lời kệ nêu bày
nguyện vọng “sử ngă
ngôn ngôn phù Phật ư” (khiến cho từng chữ của
con đều phù hợp ư Phật). Ba câu cuối là hồi
hướng, cũng là nêu rơ mục đích ở nơi
đâu: Giúp Phật lưu thông đại pháp “lưu thông hà nhĩ” (lưu
thông xa - gần), “hà nhĩ”
(遐邇) là xa - gần.
Trong sự xa - gần này có thời gian và không gian. Thời
gian là nói hiện tại và vị lai, quá khứ chẳng cần
nói đến nữa! Không gian là từ gần đến
xa, tức là như phàm phu chúng ta nói: Không gian hoạt động
hiện thời của chúng ta tính đến cực hạn
là quả địa cầu này.
Từ ngôi chùa Vân Thê ở Hàng Châu
mà lăo nhân gia đang trụ, từ chỗ này dần dần
lưu truyền đến những khu vực khác, từ
Trung Quốc truyền sang ngoại quốc, đấy là từ
gần đến xa, từ thế giới này của chúng
ta lưu thông sang thế giới khác. Đó là nguyện vọng
của đại sư, hy vọng các chúng sanh hễ ai
trông thấy, nghe đến bộ kinh này đều có thể
sanh ḷng hoan hỷ. Nghe kinh trọn chẳng nhất định
là phải nghe từ đầu đến đuôi. Có thể
nghe hoàn chỉnh đương nhiên là tốt đẹp,
nhưng quư vị phải hiểu: Giảng bộ kinh này mà
có thể nghe từ đầu đến đuôi th́ phước
báo rất lớn. Đặc biệt là những bộ kinh
lớn th́ gần như chẳng thể nào [nghe giảng trọn
vẹn từ đầu đến cuối]. C̣n như bộ
kinh này, trong quá khứ chúng tôi đă giảng hai lần ở
Đài Bắc. Lần thứ nhất giảng tại Liên Hữu
Niệm Phật Đoàn, bốn năm mới viên măn. Lần
thứ hai giảng tại Đồ Thư Quán của chúng
ta, năm năm viên măn. Tổng cộng giảng ba trăm
ba mươi lăm lượt, có ai mỗi buổi giảng
đều có thể đến nghe? Chẳng thể nào! V́
vậy, chẳng sót một buổi nào chỉ có một ḿnh
tôi, chẳng vắng mặt buổi nào. Ngoài ra, không t́m
được một ai khác. Do vậy, nếu quư vị muốn
tương lai chẳng bị sót buổi nào, hăy lên đài
giảng kinh, quư vị sẽ chẳng bị khuyết. Nói
chung, thính chúng bị những chuyện khác quấy rầy,
một hai lần không đến được là chuyện
thường, nhất là kinh dài như vậy sẽ bị
vắng mặt. Nghe một lần cũng được,
nghe một lần bèn được lợi ích một lần.
Nghe một lần, cảm nhận một lần, có thể
sanh ḷng hoan hỷ. Nếu có thể tin nhận phụng
hành, phát nguyện văng sanh th́ một lần cũng chẳng
thể coi là ít, vô lượng vô biên công đức! Mục
tiêu cuối cùng là “đồng
chứng Tịch Quang vô thượng quả”.
(Diễn) Tịch Quang vô thượng quả giả,
tứ thập nhất vị Pháp Thân đại sĩ, giai
chứng Tịch Quang nhi phi vô thượng.
(演) 寂光無上果者,四十一位法身大士,皆證寂光而非無上。
(Diễn: “Tịch
Quang vô thượng quả”: Bốn mươi mốt
địa vị Pháp Thân đại sĩ đều chứng
Tịch Quang, nhưng chưa vô thượng).
Trong kinh Hoa Nghiêm, “bốn mươi mốt địa
vị” là các vị Bồ Tát trong Hoa Tạng hải hội
được mười đại nguyện
vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về
Cực Lạc. Bốn mươi mốt địa vị
tính từ Sơ Trụ, tức Thập Trụ, Thập Hạnh,
Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng
Giác. Trong bốn mươi mốt địa vị này, không
có cách nào tính trọn hết số người trong mỗi
một địa vị, chẳng biết có bao nhiêu Sơ
Trụ Bồ Tát, Nhị Trụ Bồ Tát, Đẳng Giác
Bồ Tát, số lượng quá nhiều! Nói chung, chẳng
ra ngoài bốn mươi mốt loại này, đều là
sanh về Tây Phương Tịnh Độ. Từ kinh Hoa
Nghiêm, ta có thể thấy được điều này: Họ
sanh vào cơi Tịch Quang, nhưng cơi Tịch Quang và cơi Thật
Báo là đồng thời chứng đắc, sanh vào cơi Thật
Báo là sanh vào cơi Tịch Quang. Tịch Quang là Lư, Thật Báo là
Sự, Lư - Sự vô ngại, Sự - Sự vô ngại.
Đấy là cảnh giới Hoa Nghiêm, nhưng chưa phải
là vô thượng.
(Diễn) Duy Diệu Giác nhất
vị, năi vi vô thượng quả dă.
(演) 唯妙覺一位,乃為無上果也。
(Diễn: Chỉ có
địa vị Diệu Giác mới là quả vô thượng).
“Diệu
Giác nhất vị” (địa vị Diệu Giác) là “vô thượng quả”. Vô
thượng quả là Phật quả. Diệu Giác là Phật,
tức [quả vị] Phật trong Viên Giáo, không có ǵ cao
hơn, đă đạt đến tột đỉnh. Đấy
là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Học Phật
đến chỗ này mới tính là thật sự viên măn.
Đẳng Giác Bồ Tát vẫn chưa phải là thật
sự viên măn, nhất định phải đạt tới
Diệu Giác mới là viên măn. Đây là giới thiệu
đơn giản đoạn văn “thỉnh gia”. Tiếp theo đó, chính đại
sư có viết một đoạn chú giải.
(Sớ) Quy mạng, như Ba La Mật
lệ, đảo ngữ pháp dă.
(疏) 歸命,如波羅密例,倒語法也。
(Sớ:
Quy mạng là theo thể lệ như chữ Ba La Mật, cú
pháp đảo ngược).
Đấy là đảo ngược
cú pháp. V́ kinh văn từ tiếng ngoại quốc dịch
sang tiếng Hán, trong những danh từ thuật ngữ được
dùng, có rất nhiều từ ngữ là những câu dịch
từ tiếng Phạn, có rất nhiều câu văn đảo
ngữ, vẫn giữ nguyên h́nh thức trong tiếng Phạn,
nhưng t́nh h́nh này không nhiều!
(Sớ) Quy nghĩa hữu nhị:
Nhất giả quy đầu nghĩa, ngôn thế nhân chí trọng
giả thân mạng.
(疏) 歸義有二:一者歸投義,言世人至重者身命。
(Sớ: “Quy” có hai
nghĩa: Nghĩa thứ nhất là quay về, gieo vào, ư nói:
Người đời coi trọng thân mạng nhất).
Người thế gian đại
đa số coi trọng thân mạng nhất, không có ǵ quan
trọng hơn! Nếu coi nhẹ thân mạng, coi trọng
những thứ khác th́ người như vậy chẳng
nhiều, mà là thiểu số! Tuyệt đại đa số
là coi trọng thân mạng của chính ḿnh nhất!
(Sớ) Cử thân mạng nhi quy
y, thành kính chi chí, vô nhị tâm dă.
(疏) 舉身命而歸依,誠敬之至,無二心也。
(Sớ: Đem trọn
thân mạng quy y, thành kính tột bậc, chẳng có hai ḷng).
Sự quy y ấy chí thành đến
tột bậc, do vậy, dùng chữ “quy mạng”, tức là dùng thân mạng để
quy y. “Quy mạng” bao hàm hai
nghĩa, đây là nghĩa thứ nhất. Nghĩa thứ
hai là....
(Sớ) Nhị giả, quy nguyên
nghĩa, cử thân mạng nhi quy y, tức thị tổng
nhiếp lục căn hoàn quy nhất tâm dă.
(疏) 二者歸元義,舉身命而歸依,即是總攝六根還歸一心也。
(Sớ: Nghĩa thứ hai là
trở về nguồn, dốc trọn thân mạng quy y
chính là nhiếp trọn sáu căn trở về nhất
tâm).
“Nguyên” là “nguyên bổn”, tức là căn bản của chúng
ta, căn bản là nhất tâm. Trong nhà Phật, chắp tay
có ư nghĩa ǵ? Chắp tay biểu thị nhất tâm: Mười
đầu ngón tay biểu thị sự tán loạn; có thể
thâu gom cái tâm tán loạn, gom thành nhất tâm. [Chắp tay] biểu
thị ư nghĩa này. Do vậy, hễ chắp tay, vừa thấy
bàn tay chắp lại th́ phải thâu tâm lại. Tâm và hạnh
bên ngoài phải tương ứng. Nếu chắp tay mà
trong tâm vẫn khởi vọng tưởng th́ sai mất rồi,
trong và ngoài chẳng như nhau! H́nh thức bên ngoài tưởng
chừng như tràn ngập cung kính, nhưng bên trong vẫn
khởi vọng tưởng, đấy chẳng phải
là cung kính thật sự! Trong và ngoài giống hệt như
một mới là cung kính thật sự. “Tổng nhiếp lục căn hoàn quy nhất tâm”
(nhiếp trọn sáu căn trở về nhất tâm). Trong
chú giải có nói...
(Diễn)
Hoàn quy nhất tâm giả, nguyên y nhất tinh minh, phân thành lục
ḥa hợp; kim phản lục ḥa hợp, hoàn quy nhất tinh
minh dă.
(演) 還歸一心者,元依一精明,分成六和合,今返六和合,還歸一精明也。
(Diễn:
“Trở về nhất tâm”: Vốn là nương vào một
cái tinh minh mà chia thành sáu thứ ḥa hợp, nay quay ngược
sáu thứ ḥa hợp trở về một cái tinh minh).
Đây
là những câu trích từ kinh Lăng Nghiêm. “Nhất tinh minh” là nhất tâm của chính ḿnh, “lục ḥa hợp” là sáu
căn. Chân tâm quư vị từ sáu căn khởi ra sáu thứ
tác dụng khác nhau, nơi mắt gọi là thấy, nơi
tai là nghe, nơi mũi là ngửi, nơi lưỡi là nếm;
thật ra, chúng đều là tác dụng của nhất tâm.
Nếu quư vị chẳng thấu hiểu ư nghĩa này th́
chúng tôi nêu lên một tỷ dụ để quư vị dễ
hiểu! Thí như điện từ nhà máy điện phát
ra là một, chẳng có ǵ khác nhau, nhưng điện ở
nơi đèn th́ tỏa sáng. Đèn là một khí cụ, nó khởi
tác dụng là ánh sáng. Nơi máy thâu âm, điện khiến cho
máy thâu lại âm thanh của chúng ta. Tại máy sưởi
điện th́ nó tỏa nhiệt. Tùy theo đồ vật
khác nhau mà điện khởi tác dụng khác nhau. Tuy khởi
tác dụng khác nhau, nhưng đều là một ḍng điện,
tuyệt đối chẳng thể nói điện tỏa
sáng và điện nơi máy thâu âm là hai thứ, chẳng phải
là một! Không có đạo lư ấy! Tác dụng nơi sáu
căn của chúng ta quả thật là một, không hai, nó là
chân tâm. Mắt của chúng ta giống như đèn, tai giống
như máy thâu âm, ḍng điện khởi tác dụng tại
những nơi đó. V́ thế nói là “nguyên y nhất tinh minh, phân thành lục ḥa hợp”,
tại sáu căn khởi sáu thứ tác dụng khác nhau; tuy
khởi sáu thứ tác dụng khác nhau, nhưng phải biết
chúng hoàn toàn là nhất tâm.
“Kim phản lục ḥa hợp, hoàn
quy nhất tinh minh”: Nay chúng ta quay đầu lại, hợp
sáu cái tâm nơi sáu căn này thành một, “thành tâm” (tâm chân
thành) bèn hiện tiền. Nhất tâm phân tán nơi sáu
căn, đó là tách rời ra; hiện thời chúng lại
được quy nhất, biểu thị chí thành, biểu
thị cung kính, đấy là ư nghĩa “hoàn quy nhất tâm”.
(Sớ)
Sa Bà ngôn Thích Ca, Tây Phương ngôn Di Đà, tiên Thích Ca giả,
giáo sở diêu hưng dă. Nhụ tử phong hầu, thượng
bất bối bổn; phàm phu nhập thánh, khởi đắc
cô ân? Cổ hữu lâm chung phần hương tiên cúng
dường Thích Ca giả, chánh thử ư dă.
(疏) 娑婆言釋迦,西方言彌陀。先釋迦者,教所繇興也,孺子封侯,尚不背本,凡夫入聖,豈得辜恩。古有臨終焚香先供養釋迦者,正此意也。
(Sớ: Ở cơi Sa Bà là nói
đến Phật Thích Ca, tại Tây Phương là nói tới
Phật Di Đà. Nói tới Phật
Thích Ca trước là v́ giáo pháp do Ngài mà hưng khởi. Trẻ thơ
được phong hầu, c̣n chẳng quên cội gốc.
Phàm phu dự vào bậc thánh, há lẽ phụ ơn? Xưa
kia có người lâm chung bèn thắp hương cúng dường Phật Thích Ca trước, chính là
v́ ư này vậy).
Đoạn
này nhằm giải thích v́ sao trong bài kệ Quy Mạng,
trước hết đại sư nói “quy mạng Sa Bà thuyết pháp chủ”, rồi lại
nói “Tây Phương tiếp dẫn
đại từ tôn”. Xếp Phật Thích Ca lên trước,
A Di Đà Phật xếp ra sau, là v́ chẳng quên nguồn cội.
Cớ sao quư vị biết đến thế giới Tây Phương?
Do Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật giới thiệu, chẳng
thể quên mất đại ân nhân! Nếu chúng ta chẳng
lễ kính Thích Ca Mâu Ni Phật, đến Tây Phương Cực
Lạc thế giới, A Di Đà Phật sẽ đuổi
quư vị đi. Người giới thiệu có ân lớn
như thế mà ngươi c̣n quên bẵng th́ có chấp nhận
được chăng? Chẳng thể được! Do
vậy, con người chớ nên quên nguồn cội. Nhà
Phật coi trọng điều này, mà Nho gia cũng coi trọng.
Đấy cũng là điểm đặc sắc của
văn hóa Trung Quốc. V́ thế, người Hoa thờ tổ
tiên, không gia đ́nh nào chẳng thờ tổ tiên. Thờ tổ
tiên nhằm quay về cội, báo đáp nguồn gốc, kỷ
niệm tổ tiên xa xưa nhất của chúng ta tuy đă
xa cách nhiều đời, mấy ngàn vạn năm. Chúng ta
cũng chẳng biết mặt mũi họ như thế
nào, nhưng trong tâm luôn tưởng nhớ vị thủy tổ
của chúng ta, mang ư nghĩa này! Đoạn này nhằm thuyết
minh đạo lư này.
“Tiên Thích Ca giả, giáo sở diêu
hưng dă” (nói tới Phật Thích Ca trước là v́ giáo pháp do Ngài mà hưng khởi). Chữ “giáo” đặc biệt chỉ
giáo pháp Tịnh Độ trong kinh Di Đà do Phật dạy
cho chúng ta. “Nhụ tử phong hầu,
thượng bất bối bổn” (trẻ thơ
được phong hầu, c̣n chẳng quên gốc). Chỗ
này có điển cố, tức là chuyện của Trần
B́nh[10] đời Hán. Khi Trần B́nh được phong hầu,
ông ta nghĩ đến Ngụy Vô Tri là người đầu
tiên đă tiến cử ông ta với Hán Cao Tổ. Nếu
chẳng được ông ta tiến dẫn, Trần B́nh sẽ
không có cách nào thân cận Hán Cao Tổ. Nay ông ta được
phong hầu, người giới thiệu ấy nhất
định phải được phong thưởng. Do vậy,
Hán Cao Tổ hết sức khen ngợi Trần B́nh, nói ông
ta không quên cội gốc. Nêu ra câu chuyện xưa như vậy.
“Phàm phu nhập
thánh, khởi đắc cô ân”: Văng sanh Tây Phương Tịnh
Độ bèn là thánh nhân. Nói thông thường, Pháp Thân đại
sĩ mới được gọi là thánh nhân, Ma Ha Tát mới
gọi là thánh nhân, c̣n Bồ Tát được gọi là hiền
nhân. Ma Ha là Đại, bậc đại Bồ Tát kiến
tánh mới được gọi là thánh nhân. Phàm phu chúng ta
dẫu Hạ Phẩm Hạ Sanh nhưng văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới đều
được gọi là thánh nhân; đây là chỗ thù thắng
trong thế giới Cực Lạc: Chỉ cần văng sanh
Tây Phương Cực Lạc thế giới th́ sẽ
thành Phật, v́ sao? Thành Phật trong một đời. Hiện
thời, Mật Tông cường điệu chuyện “tức thân thành Phật” (thành
Phật ngay trong thân này), chưa chắc đă trông cậy
được! Văng sanh Tây Phương tức thân thành Phật
là chuyện tuyệt đối trông cậy được!
Trong Thiền và Mật có rất nhiều ngơ rẽ, ma
chướng rất nhiều! Thật thà niệm Phật
chắc chắn không có chướng ngại, thành tựu ổn
thỏa, thích đáng; hai tông kia chẳng thể nào sánh bằng
được! Do vậy, chẳng thể cô phụ ân
đức giới thiệu của đức Bổn
Sư.
“Cổ hữu
lâm chung phần hương tiên cúng dường Thích Ca giả”:
Đây là khi lâm chung văng sanh, người ấy thắp
hương cúng dường Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
nhằm báo ân, ư nghĩa là ở chỗ này. Ai vậy? Ông
Lưu Di Dân. Ông này cũng thật sự văng sanh, chẳng
giả tí nào! Ông ta thuộc Đông Lâm Liên Xă, ở cùng một
nơi với Huệ Viễn đại sư. Huệ Viễn
đại sư sáng lập Liên Xă trước nhất tại
Lô Sơn. Họ gồm một trăm hai mươi ba
người cùng nhau niệm Phật, ai nấy đều
văng sanh. Đương nhiên văng sanh chẳng phải cùng
trong một ngày, có người ra đi sớm, có người
ra đi trễ, nhưng quả thật ai nấy đều
văng sanh. Những người văng sanh sau thấy người
văng sanh trước theo chân A Di Đà Phật, Quán Âm, Thế
Chí cùng đến tiếp dẫn, mỗi người đều
có tướng lành hết sức tốt đẹp. Trong lịch
sử Phật giáo Trung Quốc, đây là một trang sử
rạng rỡ nhất, v́ ai nấy đều thành tựu,
đạo tràng này có nhiều người thành tựu nhất.
Kế đó, trong Thiền Tông, thành tựu
nhiều nhất là đạo tràng của Lục Tổ. Lục
Tổ dạy học tại chùa Nam Hoa ba mươi bảy
năm, người thành tựu tổng cộng là bốn
mươi ba người. Những người đại
triệt đại ngộ minh tâm kiến tánh trong hội của
Ngài tổng cộng bốn mươi ba người. Bất
cứ vị Tổ Sư nào trong lịch sử Thiền
Tông cũng chẳng có cách nào sánh bằng Ngài, nhưng nếu
so giữa Ngài và Viễn Công đại sư th́ người
được thành tựu nơi Viễn Công đại
sư hơn những người thành tựu nơi Lục
Tổ quá nhiều. Dẫu là người đă đại
triệt đại ngộ trong Thiền Tông th́ người
ấy vẫn chưa rốt ráo, chưa phải là viên măn, c̣n
người văng sanh Tịnh Độ đă rốt ráo viên
măn, chúng ta phải nên hiểu điều này! Khi ông Lưu
Di Dân văng sanh, lúc Phật đến tiếp dẫn, ông ta thấy
Tây Phương Tam Thánh đến tiếp dẫn ḿnh, bèn vội
đốt hương, trước hết lễ bái Bổn
Sư Thích Ca Mâu Ni Phật: Nếu chẳng phải do Bổn
Sư Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh giới thiệu, làm
sao con có ngày hôm nay? Lễ Thích Ca Mâu Ni Phật xong, lại lễ
bái A Di Đà Phật, theo A Di Đà Phật ra đi. Do có
chuyện này, nhằm nói lên ư nghĩa muốn báo đáp ân
đức của đức Bổn Sư, vàn muôn phần
chớ nên quên mất người giới thiệu. Con
người chớ nên quên cội gốc! Hôm nay chúng tôi giảng
đến chỗ này.
A Di
Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa
Phần 22 hết
[1] Theo Bách Pháp Minh Môn Luận, Căn Bản
Phiền Năo gồm Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, và Bất Chánh Kiến,
c̣n Kiến Tư Phiền Năo th́ gồm mười loại;
v́ sao lại nói Kiến Tư Phiền Năo chính là Căn Bản
Phiền Năo? Nếu xét kỹ, ta thấy Tham, Sân, Si, Mạn,
Nghi chính là Tư Phiền Năo (Tư Hoặc), c̣n Bất Chánh
Kiến chính là Kiến Hoặc. Nếu phân tích tỉ mỉ
th́ Bất Chánh Kiến được chia thành năm thứ
nhỏ hơn Thân Kiến, Biên Kiến, Kiến Thủ Kiến, Giới
Thủ Kiến và Tà Kiến.
[2] Trong A Di Đà Kinh Yếu Giải Giảng
Kư, ḥa thượng Tịnh Không đă giảng như thế
này: “Dị Sanh là địa vị
Tam Hiền trong Biệt Giáo, Đồng Sanh là từ địa
vị Sơ Trụ trong Viên Giáo trở lên. Sau khi đă minh
tâm kiến tánh, quư vị sử dụng cùng một cái tâm giống
như chư Phật, dùng chân tâm, nên gọi là Đồng
Sanh Tánh. Khi chưa kiến tánh, dùng thức tâm (tám thức),
chẳng dùng chân tâm, nên gọi là Dị Sanh”.
[3] Gọi là “pḥ
cơ” (đúng ra phải đọc là “phù cơ”, “phù” (扶) là nâng
đỡ) v́ đồng tử (thanh đồng, cơ
đồng) gồm có hai người sẽ nâng cơ bút
(thường có h́nh giống như cái giỏ, phía trước
có mỏ nhọn thường khắc h́nh chim loan, nên c̣n gọi
là “loan bút”; do vậy, cầu cơ theo lối này c̣n gọi
là “pḥ loan”) để viết chữ xuống mâm đựng
cát. Một h́nh thức ít phổ biến hơn là thanh đồng
trực tiếp cầm bút gỗ viết xuống mâm cát.
[4] Theo Mật Tông Tây Tạng, Dzogchen chỉ
trạng thái viên măn, nguyên sơ, hoàn thiện của cái tâm.
Theo ngu ư, chữ này gần như tương
đương với Thỉ Giác, v́ trong các sách vở viết
về Dzogchen, họ hay dùng tỷ dụ như sau: “Tâm
đạt đến trạng thái Dzogchen sẽ giống
như quả cầu pha lê phản chiếu màu sắc của
vật đặt gần nó, nhưng quả cầu vẫn
trong suốt”. Điều này giống như cách nói “tịch
mà thường chiếu, chiếu mà thường tịch”
trong Đại Thừa Phật giáo. Phép tu này được
đề xướng bởi Cổ Mật (Nyingmapa) và
cũng được các tông phái khác coi trọng. Theo truyền
thuyết, phép tu này được sáng lập bởi
Prahevajra, truyền cho Mañjuśrīmitra, Mañjuśrīmitra truyền
cho Śrī
Simha. Vị này truyền cho Liên Hoa Sinh đại sĩ (Padmasambhava),
sáng tổ của Phật giáo Tây Tạng.
[5] Huệ Cự là một tổ chức bất
vụ lợi do cụ Châu Tuyên Đức (1899-1989) thành lập
nhằm mục đích truyền bá chánh pháp, uốn nắn
ḷng người theo khuôn mẫu đạo đức. Tổ
chức này gồm năm bộ phận chính là Huệ Cự
Tạp Chí Xă, Huệ Cự Xuất Bản Xă, Huệ Cự
Phật Học Hội, Dư Thị Cơ Kim Hội và
Chiêm Thị Cơ Kim Hội. Cụ Châu Tuyên Đức quê ở
huyện Nam Xương, tỉnh Giang Tây, tốt nghiệp
ngành hóa học công nghiệp tại đại học Bắc
Kinh, từng làm giảng sư đại học, kiêm nhiệm
chức vụ giáo vụ trưởng, hiệu trưởng
của nhiều trường học tại Trung Quốc và
Đài Loan. Dư Thị Cơ Kim Hội chính là quỹ tài
trợ nhằm tưởng niệm tiên sinh Dư Gia Cúc (một
học giả Phật Giáo và Nho Giáo thời cận đại)
với mục đích tưởng thưởng khuyến
khích các hoạt động chấn hưng phong hóa xă hội.
Chiêm Thị Cơ Kim Hội là quỹ tài trợ do tiên sinh
Chiêm Dục Trai (Chiêm Lệ Ngô) khởi xướng, quyên tặng,
nhằm trao giải thưởng cho các luận văn nghiên
cứu Phật giáo trong các trường đại học,
cũng như tài trợ các hoạt động Phật giáo
tại Canada.
[6] “Chỉnh thể” (Entirety) là một khái
niệm triết học đối lập với khái niệm
“bộ phận”. Chỉnh thể thường được
hiểu là một đối tượng có kết cấu
thống nhất, tuân theo một h́nh thức hay quy luật
cấu tạo nhất định. Hiểu theo nghĩa rộng,
“chỉnh thể” là toàn thể.
[7] Tưởng Duy Kiều (8173-1958), tự
Trúc Trang, biệt hiệu Nhân Thị Tử, người huyện
Vũ Tấn, Thường Châu, tỉnh Giang Tô. Ông thuở
nhỏ lắm bệnh, cứ phải nghỉ học
thường xuyên, đến năm mười tám tuổi,
do học Tiểu Châu Thiên Khí Công mới khôi phục sức
khỏe. Năm hai mươi tám tuổi, mắc bệnh phổi
nặng, bèn dứt tuyệt thế duyên, tịnh luyện
Tiểu Châu Thiên để chữa bệnh. Bài viết của
ông Tưởng về chuyện này đă được ḥa
thượng Viên Đức dịch thành phần phụ lục
trong bộ Mạt Pháp Nhất Tự Đà La Ni Kinh. Ông là một
nhà triết học, giáo dục kiêm Phật học nổi
tiếng đầu thời Dân Quốc, trước tác rất
nhiều. Những tác phẩm trọng yếu có Trung Quốc
Cận Tam Bách Niên Triết Học Sử, Lữ Thị Xuân
Thu Hội Giảo, Phật Học Khái Luận, Phật Học
Cương Yếu. Tác phẩm Chi Na Phật Sử
Cương của ông đă được học giả
Cảnh Dă Triết (Sakai Satoru) của Nhật dịch ra tiếng
Nhật và ghép vào bộ Trung Quốc Phật Giáo Sử của
ḿnh. Ông c̣n hợp tác với Dương Đại Ưng
để soạn bộ Trung Quốc Triết Học Sử
Cương Yếu và Tống Minh Lư Học Cương Yếu.
[8] Quản Tử là bộ sách được
coi là do Quản Trọng (một chính trị gia nổi tiếng
thời Xuân Thu, giúp Tề Hoàn Công thành tựu nghiệp bá)
viết, nhưng các nhà nghiên cứu cho rằng tác phẩm
này chỉ được gán cho Quản Trọng nhằm
tăng uy thế, v́ sách có chép những sự kiện sau khi
Quản Trọng đă mất. Sách gồm tám mươi sáu
thiên, nhằm tŕnh bày tư tưởng chính trị của
Quản Trọng: Vận dụng pháp luật để cai
trị. Sách này rất được các nhà tư tưởng
thuộc phái Pháp Gia coi trọng, nhất là Hàn Phi Tử.
[9] Phá Âm Tự là một chữ có nhiều
âm đọc, tùy theo cách đọc mà sẽ có ư nghĩa
khác nhau, tuy mặt chữ không đổi. Như chữ Bị
trong đoạn này này có ba âm đọc:
1) Bị có nghĩa là tấm chăn, mang
vác.
2) Bí có nghĩa là tóc giả
3) Phi là mang khoác.
Theo Ḥa Thượng, chữ Bị ở
đây phải đọc là Phi, theo ư nghĩa thứ ba; nhưng
ta vẫn quen đọc là Gia Bị.
[10] Trần B́nh là đại thần của
Hán Cao Tổ (Lưu Bang) người làng Hộ Dũ xứ
Dương Vũ (nay là huyện Nguyên
Dương, tỉnh Hà Nam), đa mưu túc trí, từng phục
vụ dưới trướng Hạng Vũ, rất
được Hạng Vũ coi trọng. Về sau, đắc
tội với Á Phụ Phạm Tăng nên phải trốn
sang cầu cạnh Lưu Bang. V́ Lưu Bang nghi kỵ, không
trọng dụng, nên Ngụy Vô Tri phải tiến cử. Về
sau, Trần B́nh giữ chức Thừa Tướng nhà Hán. Thuở
bần hàn, Trần B́nh tuy cao lớn, đẹp trai, học
giỏi, khéo ăn nói, nhưng v́ đă lớn mà chẳng có
nghề nghiệp vững chắc, gia cảnh bần hàn,
nên không ai gả con cho, ngoài ba mươi tuổi vẫn
chưa có vợ. Măi về sau, Trương Phụ là
người giàu có trong làng, có đứa cháu nội đă
năm lượt góa chồng, không ai dám lấy, Trần
B́nh đành phải bấm bụng xin cưới. Do vợ
chăm làm, gia đ́nh vợ giúp đỡ, Trần B́nh khá
lên, được phong làm Xă Tể (gần như xă trưởng).
Mỗi lần trong làng tế lễ, phân chia thịt đă
tế cho người trong làng, các bô lăo thường khen: “Trần B́nh nhụ tử (thằng
nhăi con Trần B́nh) chia thịt rất khéo”.