Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa
阿彌陀經疏鈔演義
Phần 39
Chủ giảng:
Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt:
Huệ Trang và Đức Phong
Tập 77
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn
Nghĩa Hội Bản, trang một trăm hai mươi
hai:
(Sớ) Hựu vân: Hệ niệm
tư duy nhân duyên lực cố, đắc đoạn phiền
năo, thị Niết Bàn nghĩa. Như Phật cáo phụ
vương: “Nhữ kim đương niệm Tây
Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật,
thường cần tinh tấn, đương đắc
Phật đạo”.
(疏) 又云:繫念思惟因緣力故,得斷煩惱,是涅槃義。如佛告父王,汝今當念西方極樂世界阿彌陀佛,常勤精進,當得佛道。
(Sớ: Lại nói: Do sức nhân duyên hệ niệm
tư duy bèn đoạn được phiền năo, đó
là nghĩa lư trong kinh Niết Bàn. Như Phật bảo phụ
vương: “Cha hăy nên niệm Tây Phương Cực Lạc
thế giới A Di Đà Phật, thường siêng năng
tinh tấn, sẽ đắc Phật đạo”).
Phần trên đă nói về Quán
Phật Tam Muội và Bồ Tát Lục Niệm, trong sự
tu hành học Phật, có thể nói những điều này
đều là pháp môn chung; bất luận học theo tông nào,
hay một pháp môn nào, cũng đều phải phát tâm tu học
[các pháp môn chung này]. Nói đơn giản, “niệm” là giữ cho tâm định tại một
chỗ, an trụ ở nơi ấy, đó là “niệm”. Trong tâm người
học Phật chỉ có sáu chuyện này, đó là Bồ Tát
Lục Niệm. Niệm Tam Bảo vô cùng
quan trọng, chỉ cần là một người học
Phật, trong khóa tụng sáng tối mỗi ngày của chúng
ta đều có Tam Quy Y, đó là niệm Giác, niệm Chánh,
niệm Tịnh. Trong Đàn Kinh, Lục Tổ đại
sư đă khai thị hết sức rơ ràng. Kế đến
là niệm Bố Thí, niệm Tŕ Giới, niệm Thiên. Thiên
là ǵ? Thập Thiện Nghiệp Đạo, Tứ Vô Lượng
Tâm, chữ Thiên bao gồm hết [những điều
ấy]. Tứ Vô Lượng Tâm là từ,
bi, hỷ, xả. Người học Phật phải
thường nghĩ đến sáu chuyện này, đó là
pháp căn bản, là khoa mục chung trong Phật pháp.
“Hệ
niệm tư duy nhân duyên lực cố” (do sức nhân
duyên tư duy, hệ niệm): Hiệu quả
ấy to lớn, có thể đoạn phiền năo. Chúng ta
niệm Phật chính là dùng công phu này. V́ thế, một câu
Phật hiệu phải niệm đến mức đắc
lực, có thể đè nén phiền năo. Có thể đè nén
phiền năo, công phu bèn đắc lực! Đè nén lâu ngày,
phiền năo sẽ tự nhiên đoạn. Ngàn vạn phần
đừng có ư niệm này: “Ta niệm đă lâu dường
ấy, sao phiền năo vẫn chẳng đoạn?” Hễ
có ư niệm đoạn phiền năo, sẽ chẳng thể
đoạn phiền năo! V́ sao? V́ ư niệm ấy chính là phiền
năo. Phiền năo chẳng thể đoạn phiền năo, ắt
phải là chẳng có phiền năo th́ mới gọi là đoạn
phiền năo! Do vậy, chỉ nên thật thà niệm, nhất
tâm là ǵ? Bất loạn là ǵ? Công phu thành phiến là ǵ? Nhất
loạt chẳng quan tâm tới, chẳng cần ghim những
điều đó trong ḷng, như vậy th́ mới
được! Giữ những thứ ấy trong ḷng
đều là chướng ngại, đều là xen tạp.
Đoạn phiền năo là “Niết
Bàn nghĩa”, Niết Bàn (Nirvāna) là tiếng Phạn,
dịch sang tiếng Hán là Diệt Độ. Tứ Đế
Khổ Tập Diệt Đạo, Diệt là Niết Bàn. Niết
Bàn có nghĩa là Diệt Phiền Năo, Diệt Sanh Tử.
Chúng ta phải đặc biệt
lưu ư câu tiếp theo, v́ sao? Thích Ca Mâu Ni Phật nói với
cha Ngài là Tịnh Phạn Vương (Śuddhodana) [là người
có] mối quan hệ mật thiết. Thích Ca Mâu Ni Phật
có pháp môn tốt nhất, nhất định trước hết
sẽ khuyên cha Ngài tu. Mẹ Ngài đă qua đời, Ngài vừa
sanh ra, mẹ liền sanh lên trời, rời khỏi nhân
gian. Trong thế gian này, người có ân đức dầy
nhất là cha Ngài. Đức Phật dạy cha Ngài pháp môn
nào? Niệm Phật cầu sanh Tây Phương Tịnh
Độ. Thích Ca Mâu Ni Phật do di mẫu (d́) chăm bẵm,
nuôi nấng nên người, cũng giống như vậy,
Ngài khuyên di mẫu niệm Phật cầu sanh Tây
Phương. Quư vị hiểu ngay: Cầu sanh Tây
Phương nhất định là thù thắng! Thích Ca Mâu Ni
Phật khuyên người nhà, quyến thuộc, Phổ Hiền
Bồ Tát khuyên bốn mươi mốt địa vị
Pháp Thân đại sĩ trong hội Hoa Tạng là nói về
pháp xuất thế gian, ở đây Thích Ca Mâu Ni Phật nói
tới pháp thế gian. Trong các pháp thế gian lẫn xuất
thế gian, pháp môn này là pháp môn bậc nhất, chúng ta phải
đặc biệt chú ư điều này. Phụ vương
của Phật là Tịnh Phạn Vương, đức
Phật khuyên cha: “Nay cha nên niệm Tây Phương Cực Lạc
thế giới A Di Đà Phật”. “Thường cần tinh tấn” (thường
siêng năng, tinh tấn), “thường”
(常) là chẳng gián
đoạn. Tinh tấn nơi pháp nào? Một câu Phật hiệu
chẳng gián đoạn! Hễ rảnh bèn niệm, lăo pháp
sư Đàm Hư nói: “Niệm
mệt bèn nghỉ, tinh thần khôi phục bèn tiếp tục
niệm”. Phải coi chuyện này là đại sự duy
nhất của chính ḿnh trong một đời; như vậy
th́ sẽ đắc Phật đạo. Văng sanh Tây
Phương bèn đắc Phật đạo, [Phật đạo]
tức là đạo thành Phật.
(Sớ)
Hựu vân: Thập tâm hướng văng, mạng chung tất
sanh bỉ Phật quốc độ, thị Bảo Tích
nghĩa.
(疏) 又云:十心向往,命終必生彼佛國土,是寶積義。
(Sớ: Lại nói: “Mười
tâm hướng về, lúc mạng chung ắt sanh về cơi
Phật ấy”, đó là nghĩa lư trong kinh Bảo Tích).
“Thập
tâm hướng văng” là ǵ? Sách Diễn Nghĩa có chú giải.
(Diễn) Nhất, ư chúng sanh
khởi đại từ vô tổn hại tâm.
(演) 一、於眾生起大慈無損害心。
(Diễn: Một,
đối với chúng sanh khởi tâm đại từ chẳng
tổn hại).
Chúng ta đối với bất
cứ một chúng sanh nào, người ấy là kẻ thiện
lương th́ không cần phải nói, dẫu kẻ ấy
là chúng sanh hung ác, chúng ta vẫn đối xử với hắn
bằng từ tâm, chớ nên có ḷng tổn thương gây hại
đối với chúng sanh. Đây là điều thứ nhất,
tức là dùng Từ nhăn để nh́n hết thảy chúng
sanh.
(Diễn) Nhị, ư chúng sanh khởi
đại bi vô bức năo tâm.
(演) 二、於眾生起大悲無逼惱心。
(Diễn: Hai, đối với
chúng sanh khởi tâm đại bi chẳng bức bách, năo hại).
“Bi
tâm” là tâm xót thương, người ta thường nói
là ḷng thông cảm, thương xót kẻ vô tri tạo nghiệp.
(Diễn) Tam, ư Phật pháp, bất
tích thân mạng, nhạo thủ hộ tâm.
(演) 三、於佛法不惜身命樂守護心。
(Diễn: Ba, đối với
Phật pháp, chẳng tiếc thân mạng, tâm vui vẻ ǵn
giữ, bảo vệ).
Phải có tâm hộ tŕ Phật
pháp, dẫu hy sinh tánh mạng cũng chẳng tiếc nuối.
Phải thủ hộ chánh pháp của Như Lai, đừng
nên áp dụng phương cách xử sự mang tính cách t́nh cảm
vào Phật pháp. Trong Phật môn, nhân quả hết sức
vi tế, quư vị chú tâm nghiên cứu giới luật sẽ
hiểu. Tu phước trong Phật môn th́ phước ấy
lớn nhất, tạo tội nghiệp trong Phật môn
cũng là nặng nhất. Chúng ta hăy nên hiểu những
điều này, phải biết hộ pháp.
(Diễn) Tứ, ư nhất
thiết pháp phát sanh thắng nhẫn vô chấp trước
tâm.
(演) 四、於一切法發生勝忍無執著心。
(Diễn: Bốn, đối với
hết thảy các pháp, phát sanh nhẫn thù thắng, tâm chẳng
chấp trước).
Phải
có tâm nhẫn nại đối với hết thảy các
pháp. Không có tâm nhẫn nại, quư vị sẽ học chẳng
thành! Bất luận học một pháp môn nào, tâm nhẫn nại
rất quan trọng! Trong thế gian có nói như thế này:
“Hữu hằng vi thành công chi bổn”
(Có tâm kiên quyết không thay đổi, đó là cái gốc
để thành công). Một người thiếu “hằng tâm” (tâm quyết chí
không thay đổi), thiếu ḷng nhẫn nại, sẽ chẳng
thể tu học Phật pháp thành tựu được! Tâm
nhẫn nại quan trọng, nhưng c̣n có một thứ nữa
rất quan trọng là tâm chẳng chấp trước. Tâm
nhẫn nại cộng thêm không chấp trước th́ [những
ǵ người ấy tu học] sẽ là Phật pháp; trong
tâm nhẫn nại có xen lẫn chấp trước th́
thưa quư vị, những ǵ quư vị tu học sẽ là
pháp thế gian, quư vị có thể thành tựu Tứ Thiền
Bát Định của thế gian, nhưng chẳng có cách
nào ra khỏi tam giới! Quư vị phải hiểu rơ điều
này: Tu Tứ Thiền Bát Định chẳng phải là công
phu đơn giản, quả báo thuộc về Tứ Thiền
Thiên, hay trong Tứ Không Thiên, thọ mạng và phước
báo chúng ta đều chẳng thể tưởng tượng
được. Thế nhưng, tuy chúng ta là phàm phu, nay chúng
ta đang tu học, có tâm nhẫn nại, chẳng chấp
trước, th́ công phu và trí huệ của
chúng ta vượt trỗi họ, v́ sao? V́ quư vị có thể
thoát khỏi tam giới, c̣n họ chẳng thể ra khỏi
tam giới.
Nếu quư vị đọc nhiều
kinh luận sẽ liễu giải, định lực của
bậc Tu Đà Hoàn chẳng sâu. Thuở đức Phật
tại thế, tôn giả A Nan là Sơ Quả Tu Đà Hoàn,
định lực của Ngài không sâu, nhưng Ngài có trí huệ.
Những kẻ ở trong Tứ Thiền Thiên và Tứ Không
Thiên tuyệt đối chẳng thể sánh bằng những
người giống như ngài A
(Diễn) Ngũ, bất tham lợi
dưỡng, kính trọng tịnh ư lạc tâm.
(演) 五、不貪利養敬重淨意樂心。
(Diễn: Năm, tâm chẳng
tham lợi dưỡng, kính trọng, ư thanh tịnh, vui vẻ).
Nhất định chớ nên
tham cầu tiếng tăm, lợi dưỡng; danh lợi
hại chết con người! Lợi là phước, mà
danh cũng là phước, danh lẫn lợi đều chớ
nên tham đắm. Phước báo hiện tiền tức là
có danh lợi đưa đến, quư vị cũng chẳng
thể không cần, gạt bỏ nó cũng chẳng
được! Chính ḿnh phải giác ngộ, nhất định
chớ nên tham đắm. Có phước báo cũng tốt,
v́ có phước báo bèn có thể lợi ích chúng sanh, có
phước báo bèn nhường cho chúng sanh cùng hưởng
thụ, đó là Bồ Tát. Phước báo ấy chỉ có
chính ḿnh hưởng, chẳng chịu chia sớt cho người
khác, hạng người ấy chẳng thể thành Phật!
Không chỉ chẳng thể thành Phật, mà ngay cả A La
Hán cũng chẳng thành! V́ cớ sao? Người ấy c̣n
có [quan niệm] Ngă Sở Hữu (cái mà ta có),
đương nhiên là có Ngă. Ngă và Ngă Sở Hữu đều
là Ngă Chấp chưa phá, chẳng thể thoát khỏi tam giới.
Bậc A La Hán không có Ngă và Ngă Sở Hữu, c̣n kẻ ấy
th́ có. V́ thế, nhất định phải thấy thấu
suốt, phải buông xuống. Công phu thấy thấu suốt
và buông xuống được thực hiện từ chỗ
nào? Phải bỏ tiếng tăm, lợi dưỡng, phải
nhường cho người khác, trong tu hành, chính ḿnh phải
giữ cho thân tâm thanh tịnh, như vậy mới là tốt
đẹp!
(Diễn) Lục, cầu Phật
Chủng Trí ư nhất thiết thời vô vong thất
tâm.
(演) 六、求佛種智於一切時無忘失心。
(Diễn: Sáu, là trong
hết thảy mọi thời, tâm cầu Phật Chủng
Trí chẳng quên mất).
Ư niệm cầu Nhất Thiết
Chủng Trí của Phật trong hết thảy thời, hết
thảy chỗ, hết thảy hoàn cảnh đều chẳng
quên mất, đấy cũng là niệm đại Bồ
Đề. Đó là đạo tâm, nhất tâm nhất ư cầu
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
(Diễn) Thất, ư chúng sanh tôn trọng, cung kính,
vô hạ liệt tâm.
(演) 七、於眾生尊重恭敬無下劣心。
(Diễn: Bảy,
đối với chúng sanh, tâm tôn trọng, cung kính, chẳng
coi rẻ).
Phổ Hiền Bồ Tát dạy
chúng ta “lễ kính chư Phật”,
đối với hết thảy chúng sanh đều phải
giữ tấm ḷng cung kính, nhất quyết đừng
khinh mạn. Quư vị phải biết: Sanh tâm khinh mạn
đối với người khác là chính ḿnh tạo nghiệp
chướng. Bản thân chúng ta thường tạo nghiệp
mà tự ḿnh chẳng hay biết. Nếu tự ḿnh biết,
làm sao tạo tội nghiệp cho được? Người
nghiệp chướng nặng nề, nói cách khác, kẻ ấy
đă trở thành quen nết, chúng ta phải có sự cảnh
giác cao độ đối với chuyện này. Niệm Phật
tuy nói là đới nghiệp văng sanh, nhưng tổ sư
đại đức đă nói rất nhiều: Chỉ có
mang theo nghiệp cũ, chẳng mang theo nghiệp mới!
Nghiệp cũ là ǵ? Nghiệp do quư vị đă tạo
trong quá khứ, có thể mang theo nghiệp ấy đi
được. Nghiệp mới là ǵ? Ta vẫn tiếp tục
tạo nghiệp không ngừng, không được rồi!
V́ thế, mọi người phải hiểu rơ: Chẳng
phải là nói mỗi người niệm Phật đều
có thể văng sanh. Nói theo lư luận, “vạn người tu, vạn người đến”,
ai niệm Phật cũng đều có thể văng sanh, nhưng
v́ sao có người niệm Phật chẳng thể văng
sanh? Người ấy không ngừng tạo nghiệp, không
có cách nào hết! Thật sự cảnh giác, trước
kia, ta tạo nghiệp, từ nay trở đi, chẳng tạo
nghiệp nữa! Ta y giáo tu hành, nhất định văng
sanh. V́ thế, trong tâm chính ḿnh phải hiểu rơ, phải
kiểm điểm, tâm có thanh tịnh hay không? Đối với
duyên trong cơi đời, đă buông xuống hay chưa? Trong
tâm suốt mười hai thời chỉ có một câu Phật
hiệu hay chăng? Đối với người khác có phải
là một ḷng từ bi hay không? Có tận tâm tận lực
giúp đỡ người khác hay không? Nếu đúng
như vậy th́ quư vị có thể vỗ ngực, ta quyết
định văng sanh, thật đấy, chẳng giả
đâu!
Người tập khí nặng
nề, phải đối trị, khắc phục tập
khí. Chẳng hạn như ngạo nghễ, ngă mạn, dùng
phương pháp nào để đối
trị? Dùng lễ kính chư Phật! Ta tiếp đăi
người và sự việc phải đặc biệt
cung kính, v́ cung kính sẽ đối trị ngạo nghễ,
ngă mạn. Sân khuể trong tâm rất nặng th́ phải
tu tâm từ bi. Tâm từ bi đối trị sân khuể, bố
thí đối trị keo kiệt, tham lam. Phải t́m cách
để đối trị, chữa trị căn bệnh
ấy. Có thể đối trị những căn bệnh
ấy, sẽ nắm chắc văng sanh. V́ thế, chỉ mang
theo nghiệp cũ, chẳng mang theo nghiệp mới.
Đương nhiên là sau khi chúng ta nghe Phật pháp, chắc
chắn chưa thể sửa đổi thói xấu và tập
khí của chính ḿnh ngay lập tức, v́ hễ sửa đổi
được, sẽ ngay lập tức trở thành thánh
nhân.
Phiền năo tập khí quá sâu, quá
nặng, chẳng thể sửa đổi trong một sớm,
một chiều, nhưng nhất định phải thay
đổi. Thay đổi là ǵ? Mỗi năm một nhẹ
hơn, mỗi tháng một nhẹ hơn, đó là hiện
tượng tốt. Nếu hoàn toàn chẳng thay đổi,
chắc chắn văng sanh bị chướng ngại. Nếu
càng học Phật, càng ngạo nghễ, ngă mạn, càng cảm
thấy chính ḿnh phi phàm, phiền phức lớn lắm, chẳng
những không thể văng sanh, mà sợ rằng trong đời
này, c̣n chuốc phải ma chướng. V́ thế, đối
với chúng sanh phải cung kính.
(Diễn) Bát, bất trước
thế luận, ư Bồ Đề phần, sanh quyết
định tâm.
(演) 八、不著世論於菩提分生決定心。
(Diễn: Tám là chẳng
đắm chấp những thứ nghị luận của
thế gian, sanh tâm quyết định đối với Bồ
Đề phần).
Đối với hết thảy
các thứ văn hóa, nghệ thuật trong thế gian phải
buông xuống, những thứ ấy là chuyện để
sướng mắt khoái ḷng trong thế gian, tăng trưởng
cái tâm tham, tăng trưởng sự si luyến của con
người. V́ thế, phải buông xuống, chớ nên chấp
trước. Có thể xem, nhưng quyết định
đừng chấp trước. Một bức danh họa,
một tác phẩm nghệ thuật, một món đồ cổ
mấy ngàn năm, trong nhà quư vị cất giữ những
món đồ quư báu. Thôi rồi! Ḷng quư vị vướng mắc
nơi đó, sẽ chẳng văng sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới được đâu! A Di Đà Phật
đến tiếp dẫn quư vị, quư vị c̣n
vương vấn đồ cổ, làm sao đi được?
Vậy là không xong rồi! V́ thế, người học Phật
đối với hết thảy các pháp trong thế gian chớ
nên yêu mến, hễ có món ǵ yêu mến sẽ đều là
chướng ngại. Do vậy, thờ tượng Phật,
đừng nên thờ tượng cổ, v́ sao? Quư vị dấy
lên tâm tham luyến, do cái tâm thường vướng mắc
ấy sẽ quên tuốt Phật.
(Diễn) Cửu, chủng chư
thiện căn, vô hữu tạp nhiễm thanh tịnh chi
tâm.
(演) 九、種諸善根無有雜染清淨之心。
(Diễn: Chín, gieo
các thiện căn mà tâm thanh tịnh, chẳng có tạp nhiễm).
Nhất
định phải gieo thiện căn! Thiện căn là
đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất
thế gian, chẳng tham, chẳng sân, chẳng si. Tâm phải
thanh tịnh, chớ nên tạp nhiễm.
(Diễn) Thập, ư chư Phật
xả ly chư tướng, khởi tùy niệm tâm.
(演) 十、於諸佛捨離諸相起隨念心。
(Diễn: Mười,
đối với chư Phật bỏ ĺa các tướng,
khởi tâm tùy niệm).
Nói đến mức rốt ráo
nhất, đối với hết thảy Như Lai
cũng chẳng chấp trước. Chúng ta niệm Phật,
kính Phật, nhưng chẳng chấp trước Phật.
Phật mà c̣n chẳng chấp trước, huống ǵ những
thứ khác? Tâm quư vị mới thật sự thanh tịnh.
Chấp trước là sanh cảm t́nh, cảm t́nh là cội
nguồn của phiền năo, là cội gốc sanh tử. Chẳng
chấp trước sẽ sanh trí huệ. Đối với
Phật mà c̣n như thế, huống là đối với Bồ
Tát, đối với hết thảy chúng sanh? Điều
này rất quan trọng.
Đoạn này chính là nghĩa lư
trong kinh Bảo Tích, chữ “Bảo
Tích” trong lời Sớ chỉ kinh Bảo Tích[1].
Kinh Bảo Tích bàn rộng diệu pháp, giống như nhiều
thứ quư báu chồng chất lại [nên gọi là Bảo
Tích]. Hai đoạn [trong kinh ấy], một là Thích Ca Mâu Ni
Phật khuyên cha niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ,
đoạn kia là mười tâm hướng về, khi mạng
chung nhất định văng sanh Tịnh Độ. Đó là
những ư nghĩa trong kinh Bảo Tích.
(Sớ) Chí như Hoa Nghiêm viên
nghĩa tương thông, dĩ kiến tiền văn. Niệm
Phật chi nghĩa bất khả thắng cử. Như
thượng thả tựu nhất kinh đại chỉ nhi ngôn. Phiếm luận kinh nghĩa,
tắc Duy Ma trượng thất dung bát vạn tứ thiên
sư tử chi ṭa. Kim thử Tịnh Độ thập
phương văng sanh, do như vũ điểm, giai sanh thất
bảo tŕ trung, tằng vô trách ải, tức Tịnh Danh
nghĩa.
(疏) 至如華嚴圓義相通,已見前文,念佛之義,不可勝舉,如上且就一經大旨而言。泛論經義,則維摩丈室,容八萬四千師子之座。今此淨土,十方往生,猶如雨點,皆生七寶池中,曾無窄隘,即淨名義。
(Sớ: C̣n như
[kinh Di Đà] có ư nghĩa thông với ư nghĩa viên măn trong
kinh Hoa Nghiêm, hăy xem phần trước. Nghĩa lư niệm
Phật chẳng thể kể xiết. Những điều
được nói trên đây chính là tông chỉ to lớn của
kinh này. Nếu bàn chung về ư nghĩa của kinh này th́ cái
thất vuông vức một trượng của ngài Duy Ma Cật
có thể chứa [ba vạn hai ngàn] ṭa sư tử [cao rộng]
tám vạn bốn ngàn [do-tuần]. Nay mười
phương văng sanh Tịnh Độ giống như
mưa rơi, đều sanh trong ao bảy báu chưa từng
chật hẹp, đấy chính là nghĩa lư trong kinh Tịnh
Danh).
“Nhất
kinh đại chỉ” (tông chỉ to lớn của một
kinh) chính là niệm Phật văng sanh. Nói về điều
ǵ? Một bộ kinh to như kinh Hoa Nghiêm nhằm dạy
chúng ta điều ǵ? Dạy chúng ta niệm Phật văng sanh
Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Đọc cẩn thận kinh Hoa Nghiêm từ đầu
đến cuối, quư vị mới hiểu thành Phật
khó khăn, chẳng dễ dàng! Chúng ta suốt cả đời
chẳng đạt đến cảnh giới ấy,
đối với lư luận và phương pháp [dạy
trong kinh Hoa Nghiêm], chúng ta đều chẳng thể làm
được trong một đời; nhưng chiêu cuối
cùng là dạy chúng ta niệm Phật cầu sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới. Ở đây,
đại sư nêu ra nhằm dạy chúng ta “thập tâm hướng văng”,
nhưng kinh Hoa Nghiêm dùng “mười
đại nguyện vương”. Đó chính là pháp tu học
của các vị Pháp Thân đại sĩ, các Ngài cũng niệm
một câu A Di Đà Phật, tín nguyện tŕ danh; v́ sao các
Ngài có địa vị cao như thế? V́ các Ngài tu mười
đại nguyện vương. Nếu chúng ta cũng tu
mười đại nguyện vương, thưa quư vị,
văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới phẩm
vị nhất định tăng cao. Do vậy, chính ḿnh nhất
định phải làm được điều này, phải
tu học sao cho tư tưởng, quan niệm và hành vi của
chính ḿnh tuân theo mười đại cương lănh ấy.
“Lễ
kính chư Phật” là tu cung kính. Kinh Vô Lượng Thọ
nói “giai tuân Phổ Hiền chi
đức” (đều tuân theo phẩm đức của
Phổ Hiền Bồ Tát), phẩm đức của Phổ
Hiền chính là mười đại nguyện vương
dẫn về Cực Lạc. Những vị Bồ Tát trong
hội Vô Lượng Thọ đều học theo Phổ
Hiền Bồ Tát, đều tu mười đại nguyện
vương. Do đây, có thể biết tánh chất trọng
yếu của mười đại nguyện vương
đối với niệm Phật. Chúng ta nghiệp chướng
sâu nặng, có những đồng tu cũng tự biết:
Làm thế nào để sám trừ nghiệp chướng?
Hăy chiếu theo mười đại nguyện
vương để sám trừ nghiệp chướng; nhất
định phải sửa đổi tập khí, sửa
đổi tâm lư, như vậy th́ mới được! Tâm
đă sửa đổi, hành vi sẽ tự nhiên đổi
theo. Tâm chẳng đổi, chỉ sửa trên phương
diện hành vi sẽ rất khó khăn; trong tâm đă sửa
đổi, hành vi sẽ tự nhiên biến hóa. Ví như
chúng ta nói tới cung kính, chúng ta cung kính một người
nào đó, mà chẳng có ḷng cung kính thật sự, dù lễ
độ kiểu nào đi nữa vẫn là giả vờ,
làm điệu làm bộ, chẳng phát xuất từ nội
tâm. Nếu phát xuất từ nội tâm, dẫu người
ấy chưa từng đi học, chưa từng học
qua lễ tiết, vẫn tự nhiên biểu hiện rất
cung kính. Trong quá khứ, tôi đă thấy [những trường
hợp giống như vậy] rất nhiều!
Năm Dân Quốc 38 (1949) tôi
đến Đài Loan, năm 39 (1950) tôi theo lăo Tổng Thống
(Tưởng Giới Thạch), văn pḥng của tôi ở
sát vách văn pḥng của ông ta, tôi thấy nhiều lắm.
Sau này, tôi học Phật mới hoảng nhiên đại ngộ!
Nếu mỗi người chúng ta đều có ḷng cung kính
giống như ḷng cung kính đối với Tổng Thống
th́ lễ kính chư Phật sẽ viên măn. Văn pḥng của
chúng tôi được thiết kế theo kiểu nội
thất Nhật Bản, mỗi người bước vào
phạm vi của văn pḥng Tổng Thống đều bước
nhẹ chân, đều chẳng dám gây tiếng động,
chú ư, cẩn thận đi qua. Gặp mặt đều khẽ
gật đầu, chẳng dám nói lớn tiếng, thái
độ cung kính tự nhiên lộ ra. Ai dạy họ? Chẳng
ai dạy cả! Như vậy là cái tâm tự nhiên ảnh
hưởng đến hành vi. Từ biểu hiện bên
ngoài có thể thấy được tấm ḷng cung kính thật
sự của một người. Chúng ta có cái tâm như thế
sẽ học Phật thành công, có thể tu viên măn điều
nguyện “lễ kính chư Phật”.
Ngày nay chúng ta quá thiếu sót điều này, cho nên chẳng
niệm một câu Phật hiệu tốt đẹp. Có
chướng ngại th́ làm sao niệm cho tốt đẹp
được?
“Xưng
tán Như Lai”: Cổ nhân Trung Quốc dạy chúng ta “ẩn ác, dương thiện”
(ẩn giấu điều ác, đề cao điều thiện),
thấy mặt tốt của chúng sanh, chúng ta phải tán
thán, cổ vũ, khích lệ; thấy mặt ác của họ,
đừng nói, để họ tự phản tỉnh, tự
ḿnh sám hối. Đấy là để nuôi dưỡng ḷng
trung hậu của chính ḿnh. V́ thế, quở trách kẻ
khác chẳng phải là chuyện đơn giản! Chẳng
có mối quan hệ sâu dầy, người ta thấy quư vị
phạm lỗi, chẳng thể nói với quư vị
được. Quư vị có lỗi lầm, ai sẽ nói? Cha
mẹ quư vị nói, thầy dạy nói, thầy có nghĩa vụ
dạy bảo quư vị. Lại c̣n có những người
bạn tốt nhất của quư vị, uốn nắn lầm
lỗi, khuyên lơn điều lành. Không có những mối
giao t́nh như thế, không có quan hệ mật thiết
như vậy, quư vị có làm càn, làm quấy, người ta
chẳng nói ǵ! Khi cụ Chương Thái Viêm c̣n sống, từng
bị Viên Thế Khải nhốt trong ngục hơn một
tháng. V́ sao cụ bị Viên Thế Khải nhốt? Cụ Chương
Thái Viêm chẳng chửi mắng Viên Thế Khải. Viên Thế
Khải mong được Chương Thái Viêm chửi hắn
mấy câu, mà cụ chẳng chịu chửi, nên mới
giam cụ lại. Quư vị phải biết: Họ cũng
là bạn bè rất thân thiết, [cụ Chương] chẳng
chửi hắn có nghĩa là “gă ấy kể như xong rồi”,
chẳng đáng cho ta chửi nữa! Không có tư cách nghe
chửi! Đáng chửi th́ nói cách khác là người ấy
vẫn c̣n cứu được! Không thèm chửi tức
là kẻ ấy hết cách cứu rồi! Chửi để
làm ǵ? Nếu c̣n coi trọng hắn
th́ c̣n nghĩ cách để giúp đỡ hắn.
Thầy đối với tṛ
cũng giống như thế. Khi chúng tôi ở Đài Trung
thân cận thầy Lư, có học sinh khi thầy thấy mặt
bèn rất dữ dằn, trong cách đối đăi, chưa
hề tươi cười với người ấy,
không chửi th́ cũng đánh. Đó là thầy rất coi
trọng người ấy. C̣n đối với những
học sinh khác, thầy gặp mặt rất khách sáo, đối
đăi giống như khách, thấy người ấy phạm
lỗi tuyệt đối chẳng nói một câu nào, đó
là bỏ mặc, chẳng c̣n có cách nào dạy nữa! Chẳng
phải là thầy thiếu từ bi, v́ sao thầy bỏ mặc?
Nói đến hắn, hắn liền đốp chát lại,
không phục, muốn căi lư với thầy, thôi đi, từ
đây về sau không dạy nữa. Kẻ ấy chẳng
biết phản tỉnh, chẳng biết kiểm điểm,
tự cho là đúng. Trong các đồng học chúng ta có
không ít người như vậy, thầy buông bỏ; hằng
ngày bị mắng mỏ, giáo huấn chính là thầy yêu
thương đấy!
“Cúng dường” có ư nghĩa hết
sức rộng, đặc biệt chú trọng pháp cúng
dường, tức là đem Phật pháp giới thiệu
với người khác, khuyến khích mọi người
cùng tu. Sau đợt Phật Thất lần này, tôi có một
ư tưởng dành cho Quán Trưởng suy xét, xem có thể thực
hiện được hay không. Chúng ta có thể lập ra mấy
ban niệm Phật nhằm thúc đẩy mạnh mẽ
phong khí niệm Phật. Khi lập ra ban niệm Phật,
đạo tràng này của chúng ta chuyên tu Tịnh Độ,
chuyên giảng kinh điển Tịnh Độ, hy vọng
mỗi vị đồng tu đều học thuộc nghi
thức niệm Phật, mỗi người đều có
thể đánh pháp khí, mỗi người đều có thể
lănh chúng, đạo tràng này nhất định hưng vượng.
Người đông, chỗ chúng ta nhỏ,
nên luân phiên niệm Phật. Trước hết, chúng ta lập
ra mười ban, sau này khi đả Phật Thất, mỗi
ban luân phiên chịu trách nhiệm tổ chức. Sau này,
người đông hơn, có sức mạnh, đạo
tràng chúng ta có thể mở rộng, có một giảng
đường, một Niệm Phật Đường,
chẳng cần phải mỗi ngày dọn bàn ghế, trong
Niệm Phật Đường niệm Phật, trong giảng
đường nghe kinh, thuận tiện lắm! V́ thế,
thứ ǵ cũng đều phải học, nhất là pháp
khí trong nghi thức niệm Phật đơn giản, chẳng
rắc rối.
Chiếu theo mười đại
nguyện vương để tu học, đó là nguyên tắc
tu hành trọng yếu của kinh Hoa Nghiêm. Chúng ta đăi
người tiếp vật niệm niệm đừng
quên mười nguyện này, mười nguyện này là
cương lănh cho cuộc sống của chúng ta. Trong một
đời này, đăi người, tiếp vật chiếu
theo mười điều giáo huấn này để làm. V́
thế, ư nghĩa của kinh Hoa Nghiêm và ư nghĩa của
kinh này tương thông. Trong tương lai, quư vị sẽ
thấy [điều này] rơ ràng, minh bạch hơn qua kinh Vô
Lượng Thọ. “Niệm
Phật chi nghĩa, bất khả thắng cử”
(nghĩa lư niệm Phật chẳng thể kể xiết),
quá ư là nhiều, đúng là ngàn kinh vạn luận chỗ
nào cũng chỉ dẫn, hướng về!
“Phiếm
luận kinh nghĩa, tắc Duy Ma trượng thất” (bàn
chung chung ư nghĩa của kinh th́ cái thất vuông vức một
trượng của ngài Duy Ma), đây là kinh Duy Ma. Trong kinh
Vô Lượng Thọ, mười sáu vị cư sĩ như
ngài Hiền Hộ là Đẳng Giác Bồ Tát, cư sĩ
Duy Ma là Phật. Thuở Phật tại thế, trong thế
gian này có hai vị Phật, một vị là đức Phật
xuất gia, một vị là Phật tại gia. Đôi bên hợp
tác như thế để giáo hóa chúng sanh, địa vị
b́nh đẳng. Tỳ-kheo xuất gia như Xá Lợi Phất,
Mục Kiền Liên đều là bậc đại tỳ-kheo
thọ Cụ Túc Giới, trông thấy ngài Duy Ma bèn đảnh
lễ ba lạy, nhiễu theo chiều bên phải ba ṿng.
Đầu thời Dân Quốc,
Âu Dương Cánh Vô lập Chi Na Nội Học Viện,
đào tạo không ít nhân tài. Thái Hư đại sư là học
sinh dự thính, Lương Khải Siêu là học sinh chính thức.
Đầu thời Dân Quốc, có nhiều vị đại
cư sĩ, đại đức trong giới Phật học
đều tốt nghiệp từ trường ấy. Những
bài giáo huấn của Nội Học Viện viết rất
rơ ràng, trích dẫn kinh điển để làm căn cứ
nói với mọi người. Trong Phật môn, “thầy là lớn nhất”, v́
Phật pháp quả thật là nền giáo dục của
đức Phật, mà trong giáo dục th́ thầy là lớn
nhất. Thầy không nhất định là người xuất
gia hay tại gia, chỉ cần người ấy là thầy
th́ là lớn bậc nhất. Ngài Duy Ma là thầy, v́ thế,
người xuất gia thấy Ngài chẳng khác ǵ thấy
Phật, quư vị phải tôn sư trọng đạo. Thuở
đức Phật tại thế đă dùng trường hợp
này hiển thị cho chúng ta thấy. Trải qua các đời
cũng giống như thế. Huyền Trang đại sư
cầu học tại Ấn Độ có hai vị thầy, một là người
tại gia, vị kia là người xuất gia. Vị xuất
gia là luận sư Giới Hiền (Śīlabhadra), trụ
tŕ chùa
Na Lan Đà (Nālandā), vị
tại
gia là cư sĩ Thắng Quân. Ngài Huyền Trang đối
đăi, lễ kính với hai vị thầy chắc chắn
chẳng khác nhau. Chẳng thể nói quư vị là người
xuất gia, người kia là cư sĩ tại gia, có thể
khinh mạn đôi chút.
Cư sĩ thăng ṭa giảng
kinh, người xuất gia khi đến nghe phải lễ
bái. Nếu không lễ bái, sẽ phạm lỗi, v́ người
ấy đă thăng ṭa thay mặt Phật nói pháp. Thăng
ṭa là thuộc địa vị thầy. Khi
quư vị chẳng thăng ṭa, chúng ta ở cùng một chỗ,
tôi là người xuất gia, quư vị là người tại
gia, có khi quư vị lễ bái, tôi chẳng khách sáo, tôi cũng
nhận lễ. Khi quư vị thăng ṭa, tôi không dám; khi
quư vị dạy học, tôi nhất định không dám. Khi
quư vị trực tiếp chỉ dạy tôi, th́ lúc b́nh
thường tôi cũng không dám [nhận lễ]. Chẳng hạn
như tôi theo học với thầy Lư ở Đài Trung,
Ngài dạy tôi Phật pháp, tôi học với Ngài mười
năm. Lúc b́nh thường tôi cũng chẳng dám tiếp nhận
Ngài đảnh lễ, chắc chắn chẳng dám! Ngài chẳng
cho chúng tôi đảnh lễ, lễ bái, đó là Ngài khách
sáo! Đúng ra, hễ chúng tôi gặp mặt Ngài đều
phải đảnh lễ, đó mới là đúng! Ngài khách
sáo, cho nên đó là chuyện khác; nhưng khi thăng ṭa giảng
kinh, nhất định phải lễ. Hiện thời, có
những người quên mất chuyện này, cứ nghĩ
người xuất gia, mặc một bộ quần áo rộng
tay là đáng nên tiếp nhận hết thảy mọi
người lễ bái, quan niệm ấy hoàn toàn sai lầm!
Kinh nói: Trưởng giả Duy
Ma từ chỗ Tu Di Đăng Vương Phật mượn
“ba vạn hai ngàn ṭa sư tử”,
v́ Ngài thuyết pháp, có nhiều vị Bồ Tát từ
mười phương đến nghe. Trong pḥng Ngài chẳng
có ghế ngồi, căn pḥng bao lớn? “Trượng thất” là căn pḥng h́nh vuông, mỗi
bề một trượng. Ngài đến chỗ Tu Di
Đăng Vương Phật mượn ba vạn hai ngàn
ṭa sư tử. Mỗi một ṭa sư tử đều
cao tám vạn bốn ngàn do-tuần, đặt trong cái thất
vuông vức một trượng ấy, mà căn pḥng chẳng
bị chật chội. Đó là thần thông. Ṭa sư tử
chẳng bị rút nhỏ, căn pḥng của Ngài chẳng
ph́nh to, đấy là cảnh giới Hoa Nghiêm, thường
nói là “giới tử nạp Tu
Di” (núi Tu Di nhét vào hạt cải), là cảnh giới chẳng
thể nghĩ bàn!
“Kim
thử Tịnh Độ, thập phương văng sanh”
(Nay cơi Tịnh Độ này, mười phương văng
sanh), rốt cuộc Tây Phương Cực Lạc thế
giới bao lớn? Người trong mười
phương vô lượng vô biên thế giới nhiều
dường ấy đều văng sanh, Tây Phương Cực
Lạc thế giới chứa được hay không? Nêu
lên chuyện cái thất vuông vức một trượng của
trưởng giả Duy Ma có thể chứa ba vạn hai
ngàn ṭa sư tử, thần lực của Ngài chẳng thể
nghĩ bàn, hàng phàm phu chúng ta chắc chắn chẳng thể
tưởng tượng được, thật sự chẳng
thể nghĩ bàn! Dung lượng của ao bảy báu trong
Tây Phương Cực Lạc thế giới là vô lượng
vô biên, có cùng một ư nghĩa với cái thất vuông vức
một trượng của trưởng giả Duy Ma, “tức Tịnh Danh nghĩa”
(chính là nghĩa lư trong kinh Tịnh Danh), chuyện là như vậy
đó.
(Sớ) Như Lai Thần Lực
Phẩm, Thích Ca dữ thập phương chư Phật,
đồng xuất quảng trường thiệt tướng,
năi chí Phạm Thiên, vị tán thán Pháp Hoa cố. Kim thử lục
phương tán thán diệc phục như thị, tức
Pháp Hoa nghĩa.
(疏) 如來神力品,釋迦與十方諸佛,同出廣長舌相,乃至梵天,為讚歎法華故,今此六方讚歎亦復如是,即法華義。
(Sớ: Trong phẩm
Như Lai Thần Lực, Phật Thích Ca và mười
phương chư Phật cùng hiện tướng lưỡi
rộng dài thấu tận cơi trời Phạm Thiên để
tán thán kinh Pháp Hoa. Nay trong kinh này, sáu phương tán thán
cũng giống như thế, đấy là nghĩa lư trong
kinh Pháp Hoa).
Đây là dẫn phẩm Như
Lai Thần Lực của kinh Pháp Hoa, [để chứng tỏ]
kinh này và kinh Pháp Hoa ư nghĩa tương thông, tương
thông ở chỗ nào? Mười phương chư Phật
tán thán. Trong kinh Pháp Hoa, mười phương chư Phật
tán thán; trong kinh này, mười phương chư Phật
cũng tán thán. Từ kinh điển, chúng ta thấy hết
sức rơ ràng.
(Sớ) Lược cử thiểu
phần, thông chư Đại Thừa, dư bất phiền
tự.
(疏) 略舉少分,通諸大乘,餘不繁敘。
(Sớ: Nêu đại
lược ít phần [nhằm chứng tỏ kinh này có ư
nghĩa] tương thông các kinh Đại Thừa, những
điều khác chẳng mất công tŕnh bày nữa).
Đây là lời tổng kết,
nêu ra mấy điều như thế; đối với
những điều khác, nếu mỗi điều đều
nêu ra th́ nhiều quá, kể chẳng hết! Phàm là kinh luận
nói đến Tịnh Độ, cổ nhân đă biên soạn
một mục lục, bộ kinh nào nói đến Tịnh
Độ, khuyên văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới, [danh sách các bộ kinh ấy] gần như gồm
mấy trăm loại. Quư vị mới biết cổ nhân
nói: “Thiên kinh vạn luận xứ
xứ chỉ quy” (ngàn kinh vạn luận, đâu đâu
cũng chỉ về) chẳng phải là nói tùy tiện, mới
biết chỗ thù thắng của pháp môn này. Chỉ có một
mục đích này, khuyên chúng ta hăy chết sạch ḷng so
đo, khăng khăng niệm Phật, dùng thời gian ngắn
nhất để đạt được thành tựu
cao nhất.
(Sớ) Hựu Khởi Tín nhân
duyên phần.
(疏) 又起信因緣分。
(Sớ: Lại nữa, trong phần nhân duyên của
luận Khởi Tín).
Khởi Tín là Đại Thừa
Khởi Tín Luận, gồm có năm phần, tức là
năm chương. Nhân Duyên là chương thứ nhất.
(Sớ) Sớ minh Tín vị
sơ tâm hữu tứ chủng cơ, dĩ lễ sám, diệt
tội bị sơ cơ, dĩ tu tập Chỉ Quán bị
trung cơ, dĩ cầu sanh Tịnh Độ bị
thượng cơ.
(疏) 疏。明信位初心有四種機:以禮懺滅罪被初機,以修習止觀被中機,以求生淨土被上機。
(Sớ: Trong lời Sớ giảng rơ: Địa vị
sơ tâm trong Thập Tín có bốn loại căn cơ, dùng
lễ sám, diệt tội để gia bị sơ cơ,
dùng tu tập Chỉ Quán để gia bị trung cơ, dùng
cầu sanh Tịnh Độ để gia bị thượng
cơ).
“Bị”
(被) có nghĩa là
gia bị. Khởi Tín Luận cũng đề xướng
Tịnh Độ, khuyên chúng ta văng sanh Tây Phương Tịnh
Độ, mấy câu này cũng rất quan trọng. “Tín vị sơ tâm”: Tín vị
là địa vị Thập Tín, [sơ tâm] là địa vị
Sơ Tín trong Thập Tín. Địa vị Sơ Tín có bốn
loại căn cơ khác nhau, đấy là nói thượng,
trung, hạ. Trong Khởi Tín Luận, điều thứ
năm là “vị thị
phương tiện, tiêu ác nghiệp chướng, thiện
hộ kỳ tâm, viễn ly si mạn, xuất tà vơng cố”
(nhằm chỉ bày phương tiện để tiêu trừ
nghiệp chướng ác, khéo giữ ǵn cái tâm, xa ĺa si mạn,
thoát khỏi lưới tà). Đây là dạy cho chúng ta một
phương pháp tu học thuận tiện, nhằm mục
đích tiêu nghiệp chướng, giữ ǵn đạo
tâm, ắt phải xa ĺa ngu si, kiêu mạn, tà kiến, điều
này rất quan trọng! Nếu chúng ta chẳng thể ĺa bỏ
ngu si, kiêu mạn, tà kiến, sẽ chẳng có cách nào. Trong
Phật môn nói loại chúng sanh này căn khí chưa chín muồi,
chẳng thể thành tựu trong một đời này. Chỉ
có thể nói là cùng tu tập giúp cho người ấy thành
tựu một chút thiện căn mà thôi, người ấy
chẳng thể thành tựu trong một đời này. Chúng
sanh căn cơ chín muồi là ǵ? Theo tiêu chuẩn của Khởi
Tín Luận, chúng sanh căn cơ chín muồi chắc chắn
thành tựu trong một đời này.
Tà - chánh, chân - vọng, đúng -
sai, lợi - hại chẳng phân biệt rơ ràng, đó là ngu
si. Ǵ là tà, ǵ là chánh, quư vị phải biết rơ ràng. Ngu si
là thiếu trí huệ. “Kiêu mạn”
là kiêu ngạo và ngạo mạn, bệnh này ai cũng có, là
tật bẩm sinh, chẳng cần phải học, tự
nhiên mà có! Trong Lễ Kư, Khổng Phu Tử đă nói: “Ngạo bất khả trưởng”
(đừng nên tăng trưởng ḷng kiêu ngạo). Hết
thảy chúng sanh có ai chẳng kiêu ngạo? Ngay cả kẻ
ăn mày, trông thấy người có tiền ngồi xe
hơi vút qua, kẻ ấy vẫn hứ một tiếng:
“Quư báu cái nỗi ǵ! Chẳng qua là có mấy đồng tiền
thối tha mà thôi!” Kẻ ấy vẫn cảm thấy chính
ḿnh ghê gớm lắm! V́ thế, ngạo mạn là tật bẩm
sinh, là đại phiền năo. Dưới tham, sân, si là mạn;
v́ thế, nhất định phải đoạn. Phật
pháp sở dĩ lấy “lễ
kính chư Phật” làm điều đầu tiên nhằm
đối trị kiêu mạn v́ đây là một phiền
năo rất to. Nếu chẳng trừ khử được,
sự tu hành của chúng ta nhất định bị
chướng ngại. Quư vị có thể ĺa khỏi ngu si,
kiêu mạn, tà kiến th́ nghiệp chướng sẽ tiêu
trừ, đạo tâm sẽ kiên cố. Đấy là nguyên
tắc tu học được dạy trong Khởi Tín Luận.
Điều thứ sáu là “vị thị tu tập Chỉ
Quán, đối trị phàm phu Nhị Thừa tâm quá cố”
(v́ dạy tu tập Chỉ Quán, nhằm đối trị
những lỗi lầm nơi tâm của phàm phu và Nhị Thừa),
đây chính là chỉ dạy chúng ta tu hành Chỉ Quán. Nay chúng
ta có cần dùng phương pháp này của luận Khởi
Tín hay không? Chẳng cần thiết! Niệm Phật là tu
Chỉ Quán. Cớ sao niệm Phật là Chỉ Quán? Khi niệm
Phật, tất cả hết thảy vọng niệm
đều “chỉ trụ”, “chỉ” (止) là ngưng dứt,
ngưng dứt th́ chính là tu Chỉ. Một câu A Di Đà Phật
từng chữ rơ ràng, phân minh, đó là Quán. V́ thế, chúng
ta chẳng cần chuốc lấy phiền phức. Quư vị
học Pháp Hoa, chẳng dùng cách tu của Ma Ha Chỉ Quán: Tiểu
Chỉ Quán lẫn Đại Chỉ Quán đều chẳng
cần phải hành. Quư vị đọc luận Khởi
Tín, cũng chẳng cần phải sử dụng Chỉ
Quán, một câu A Di Đà Phật trọn đủ Chỉ
và Quán; phương pháp dễ dàng hơn, lại đỡ
tốn công, c̣n có sức mạnh. Hiệu quả và sức
mạnh ấy chắc chắn chẳng kém Ma Ha Chỉ Quán,
dùng phương pháp này để tu học.
Điều thứ bảy, “vị thị chuyên niệm
phương tiện” (nhằm chỉ dạy
phương tiện chuyên niệm). Niệm Phật nhằm
nói với người thượng căn. Đối với
kẻ hạ căn, có thể dạy họ sám hối
để tiêu nghiệp chướng, giữ ǵn đạo
tâm, đó là “lễ sám diệt
tội”. Căn cơ bậc trung th́ tu Chỉ Quán, giúp họ
tu Định. Đối với người căn cơ
bậc thượng, liền dạy họ niệm Phật.
Trong luận Khởi Tín, dạy người căn cơ bậc
thượng niệm Phật; niệm Phật là
phương tiện chuyên niệm. “Sanh ư Phật tiền, tất định bất
thoái tín tâm” (sanh ở trước Phật, tín tâm nhất
định chẳng lui sụt), v́ đây là lời nói ngàn vạn
phần xác đáng. Pháp môn này là pháp môn bậc nhất trong tất
cả các pháp môn; trong lời tựa cho bộ kinh Vô Lượng
Thọ, cư sĩ Mai Quang Hy đă nói như thế. Nếu
chẳng phải là người thật sự đạt
tâm đắc từ pháp môn Niệm Phật, kẻ ấy sẽ
chẳng biết sự vi diệu của pháp môn này, chẳng
phải là người thông đạt biển giáo, sẽ
chẳng biết chỗ thù thắng của bộ kinh này.
Quư vị thật sự thông đạt biển giáo, hết
thảy kinh luận đều xem qua, quư vị có năng lực
so sánh, sẽ thấy rộng răi! Cổ nhân đă nói: “Chẳng sợ không biết giá
trị, chỉ sợ so đo giá trị”. Quư vị lật
Đại Tạng Kinh ra xem, so sánh tất cả, sau khi so
sánh xong xuôi hết cả rồi, mới biết kinh này hay
nhất! V́ thế, trong những khóa giảng trong quá khứ
tôi thường nói: Nếu đem hết thảy các kinh bày
ra trước mặt, chỉ được phép chọn một
bộ, tôi nhất định chọn kinh A Di Đà, đủ
rồi! Nếu c̣n có thể chọn thêm một bộ nữa,
tôi chọn kinh Hoa Nghiêm. Như vậy là kinh Hoa Nghiêm thuộc
hạng hai, kinh Di Đà là bậc nhất, hết sức khẩn
yếu!
Những vị đại đức
xưa nay, phàm những vị quay về
Tịnh Độ đều là những người đă
đi theo rất nhiều đường lối oan uổng.
Trực tiếp đi theo Tịnh Độ, tôi vẫn
chưa nghe nói có một ai, đều là đi đường
ṿng thật rộng, đến cuối cùng quay về
Tịnh Độ, ngay cả Ấn Quang đại sư
cũng vậy. Ngài Ấn Quang là tổ sư Tịnh Độ
Tông đương đại, Ngài cũng chẳng phải
là vừa học Phật bèn chọn Tịnh Độ. Ngài
cũng học rất nhiều thứ, đến cuối
cùng trở về Tịnh Độ. Ngài sống tại
Tàng Kinh Lâu của Phổ Đà Sơn ba mươi năm,
quản thủ thư viện, xem kinh suốt ba mươi
năm; v́ thế, nội dung bộ Văn Sao của Ngài bác
đại tinh thâm, pháp thế gian lẫn xuất thế
gian đều có. Sách vở trong Tàng Kinh Lâu của nhà chùa hết
sức hoàn bị, trừ kinh Phật ra, c̣n có sách vở thế
gian. Tổ Ấn Quang trụ tại đó ba mươi
năm, Ngài đọc thông suốt pháp thế gian lẫn xuất
thế gian; v́ thế, Ngài mới chết sạch ḷng so
đo, khăng khăng niệm Phật.
(Sớ) Sơ vị nghiệp chướng chúng sanh,
trung vị phàm phu Nhị Thừa, tắc tri Tịnh Độ
thị Đại Thừa Bồ Tát sở tu hỹ.
(疏) 初謂業障眾生,中謂凡夫二乘,則知淨土是大乘菩薩所修矣。
(Sớ: Trước hết,
nói đến chúng sanh nghiệp chướng, kế đó,
nói đến phàm phu và Nhị Thừa, nên biết Tịnh Độ là pháp tu của Đại Thừa
Bồ Tát vậy).
Mă Minh Bồ Tát viết Đại
Thừa Khởi Tín Luận. Mă Minh Bồ Tát vốn là
người cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới. Sau đấy, Long Thọ Bồ Tát cũng cầu
sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Qua bộ
luận, chúng ta đă thấy hết sức rơ ràng, “sơ cơ” là nói kẻ nghiệp
chướng sâu nặng, phải khởi sự từ lễ
sám diệt tội. Nếu vừa bắt đầu bèn bảo
họ niệm Phật, tuy là gieo hạt giống nơi Tịnh
Độ, nhưng kẻ ấy có chướng ngại, chẳng
thể niệm Phật hiệu tốt đẹp
được! V́ thế, nhất định phải lễ
sám diệt tội, trước hết phải trừ
chướng ngại nơi Bồ Tát đạo của
chính ḿnh, sau đó quư vị mới có thể đi thông suốt
[trên con đường ấy].
Căn cơ bậc trung là phàm
phu và Nhị Thừa, tuy nghiệp chướng nhẹ
hơn một chút, nhưng họ phải tu Định
để cái tâm định lại, sau đấy mới có
thể tu đạo. Tâm định rất quan trọng,
pháp thế gian lẫn xuất thế gian đều cần
“định công”. “Định công” thường được
gọi thông tục là sự chuyên tâm, hay chuyên nhất. Nếu
quư vị có thể chuyên nhất, bất luận chuyện
ǵ cũng đều có thể thành tựu. Đáng sợ là
tam tâm, nhị ư, sẽ rất khó khăn, nhất định
phải chuyên dốc sức nơi một môn. Người
căn cơ thượng đẳng sẽ nhất tâm niệm
Phật cầu sanh Tịnh Độ. V́ thế, Tịnh
Độ là pháp tu của Đại Thừa Bồ Tát.
(Sớ) Nghĩa lư sở cai, tổng
kết thượng văn.
(疏) 義理所該,總結上文。
(Sớ: Nghĩa lư
bao trùm trọn vẹn là lời tổng kết cho những
đoạn kinh văn trong phần trước).
Đây là lời giải thích cho
câu văn trong phần lời Tựa.
(Sớ) Khiên vưu giả, khinh hủy thử kinh, tức
khinh hủy Đại Thừa, hoạch tội vô lượng
cố.
(疏) 愆尤者,輕毀此經,即輕毀大乘,獲罪無量故。
(Sớ: “Tội khiên”:
Khinh rẻ, hủy báng kinh này chính là khinh rẻ, hủy báng
Đại Thừa, chuốc tội vô lượng).
Đoạn lời tựa trong
phần trên đă đặc biệt cảnh tỉnh,
răn nhắc chúng ta, “bất
ưng thị đồng thiển cận, tự thủ
khiên vưu” (đừng nên coi kinh là nông cạn, tự
chuốc lấy tội khiên), tự ḿnh gây tạo tội lỗi.
V́ thế, phải biết vị trí của bộ kinh này
trong toàn bộ Phật pháp, hết thảy chư Phật
dùng kinh này để giáo hóa chúng sanh, chúng ta phải hiểu
tánh trọng yếu của nó. Trong một đời này,
chúng ta may mắn gặp gỡ pháp môn này, có may mắn lư giải
pháp môn này, thật sự nhận biết pháp môn này; đấy
là thiện căn, phước đức, nhân duyên chẳng
thể nghĩ bàn, hy vọng mọi người sẽ trân
quư, chẳng đến nỗi bỏ lỡ một đời
này. Tu hành càng nhanh càng tốt, chớ nên chần chừ, điều
này rất quan trọng. Hôm nay đă hết thời gian,
chúng tôi giảng đến đoạn này.
Tập 78
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn
Nghĩa Hội Bản, trang một trăm hai mươi
lăm.
Tứ, sở bị giai phẩm.
四、所被階品。
(Bốn, phẩm vị
được hóa độ bởi kinh này).
“Giai”
(階) là giai cấp,
có ư nghĩa các tầng bậc sai khác, “phẩm” (品) là phẩm loại. Khi giới thiệu đại
ư của cả bản kinh, phần này cũng là một hạng
mục trọng yếu. [Sở bị giai phẩm] có
nghĩa là căn khí, đẳng cấp như thế nào mới
có thể học kinh này, mới có thể đạt
được lợi ích chân thật. V́ thế, cần phải
t́m hiểu. Sau khi hiểu rơ, chính ḿnh mới biết căn
tánh và tŕnh độ hiện thời của chúng ta có thích hợp
để tu học hay không? Trong phần này, chia thành hai
đoạn, đoạn thứ nhất là Liệu Giản,
đoạn thứ hai là Tổng Thâu. Đoạn thứ nhất
(Liệu Giản) là chọn lọc, phân chia, phân biệt.
(Huyền Nghĩa) Dĩ tri thử
kinh, văn lược, nghĩa phong, ngôn cận, chỉ viễn,
vị ủy bị hà căn khí, hữu hà giai đẳng?
Tiên minh liệu giản, tiền tam phi khí, vị vô tín giả,
vô nguyện giả, vô hạnh giả, phản thị giai
khí.
(玄義) 已知此經,文略義豐,言近旨遠,未委被何根器,有何階等?先明料簡,前三非器,謂無信者、無願者、無行者,反是皆器。
(Huyền Nghĩa:
Đă biết kinh này văn tự giản lược, ư
nghĩa phong phú, lời lẽ gần gũi, ư chỉ sâu
xa, chưa rơ kinh này thích hợp với căn khí nào, có những
địa vị, tầng cấp như thế nào? Trước
hết, nói về sự chọn lọc căn khí. Đầu
tiên là ba loại chẳng phải là căn khí, tức là kẻ
không có ḷng tin, kẻ chẳng nguyện, kẻ chẳng có hạnh.
Nếu không phải là những hạng người ấy
th́ đều là căn khí [thích hợp với kinh này]).
Hai câu đầu nhằm nói: Qua
những điều được nói trong phần trước,
chúng ta đọc xong, biết kinh văn của bộ kinh
này tuy giản lược, nhưng ư nghĩa bao hàm trong ấy
vô cùng phong phú. Câu văn thoạt nh́n đơn giản,
nhưng ư nghĩa hết sức sâu xa. Đại khái,
đă thấu hiểu điều này, nhưng chẳng biết
hạng người có căn khí nào, thuộc giai tầng
nào, phẩm loại nào mới thích hợp tu học pháp môn
này. Trước khi tu học pháp môn này, chúng ta cần phải
biết những điều này.
Ở đây, đại sư bảo
chúng ta: Trước hết là phân loại, chọn lọc,
phân chia, sắp xếp [căn tánh của hành nhân]. Trước
hết, nói ba loại căn khí trong phần trên là “phi khí”, tức là những kẻ
chẳng thích hợp tu học pháp môn này. Nói “căn khí” là v́ kinh Phật thường dùng chữ
“khí” để làm tỷ dụ.
Thí dụ như “khí mănh” (器皿: đồ đựng) ắt phải hoàn chỉnh
th́ mới có tác dụng, giống như chúng ta có chén trà.
Chén trà này tốt đẹp th́ gọi là “khí”; nếu nó bị nứt, chẳng thể gọi
là “khí”. Rót nước vào sẽ
bị ṛ rỉ, chẳng thể dùng được!
Ba loại nào là phi khí? Đấy
là những kẻ chẳng thích hợp tu học pháp môn này, ở
đây nói rất rơ ràng. Thứ nhất là “vô tín giả”, [tức là] kẻ ấy chẳng
tin tưởng. Đối với chuyện niệm Phật
đới nghiệp văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới kẻ ấy chẳng tin tưởng, vậy
th́ tu học pháp môn này vô ích, chẳng đạt được
điều tốt đẹp. Thứ hai là “vô nguyện giả”, thiếu nguyện, tuy tin
tưởng, mà chẳng mong văng sanh. Đối với Tây
Phương Cực Lạc thế giới chẳng hoài
nghi, nhưng trọn chẳng hâm mộ, chẳng có ư nghĩ
cầu sanh Tây Phương. Đối với kẻ này
cũng chẳng có cách nào hết, sức mạnh của
kinh này chẳng phát sanh tác dụng đối với hắn.
Thứ ba là “vô hạnh giả”,
tuy có tín nguyện, nhưng chẳng niệm Phật, chẳng
chịu niệm Phật th́ cũng chẳng có cách ǵ hết,
cũng chẳng thể thành công! Trừ ba hạng người
này ra, nói cách khác, ai nấy đều có phần, “phản thị giai khí”
(ngược lại th́ đều là căn khí thích hợp),
đủ thấy pháp môn này rộng lớn! Đó gọi
là “tam căn phổ bị, lợi
độn toàn thâu” (thích hợp khắp ba căn, gồm
thâu lợi căn lẫn độn căn); chỉ cần
quư vị tin tưởng, bằng ḷng văng sanh, quư vị chịu
niệm Phật là được. Đấy là căn khí của
pháp môn này.
(Sớ) Tiên minh căn khí, hữu
thị, hữu phi.
(疏) 先明根器,有是有非。
(Sớ: Trước hết nói về căn khí, có
căn khí thích hợp, có căn khí chẳng thích hợp).
“Thị”:
Người ấy là căn khí tu pháp môn Niệm Phật. “Phi”: Người ấy chẳng
phải là căn khí của pháp môn Niệm Phật.
(Sớ) Thứ biệt giai đẳng, hữu thắng,
hữu liệt.
(疏) 次別階等,有勝有劣。
(Sớ: Kế
đó là phân biệt phẩm cấp, có phẩm cấp thù thắng,
có phẩm cấp hèn kém).
Sự sai biệt trong tầng cấp,
phẩm vị rất lớn. Kinh sớ đều nói rất
rơ ràng.
(Sớ) Dục linh xả phi tùng
thị.
(疏) 欲令捨非從是。
(Sớ: Nhằm làm cho [người nghe] bỏ sai,
theo đúng).
Pháp môn này ai nấy đều
có phần, quư vị chẳng tin th́ không có cách nào hết. Chỉ
cần quư vị có đủ tín, nguyện, hạnh, sẽ
có phần nơi Tây Phương Cực Lạc thế giới,
cho nên nói là “xả phi tùng thị”.
(Sớ) Khí liệt thủ thắng.
(疏) 棄劣取勝。
(Sớ: Bỏ hèn kém, lấy thù thắng).
Đây là vấn đề trọng
yếu nhất trong đoạn này.
(Sớ) Tín, vị tín sanh Phật bất nhị. Chúng
sanh niệm Phật, định đắc văng sanh, cứu
cánh thành Phật cố.
(疏) 信,謂信生佛不二,眾生念佛,定得往生,究竟成佛故。
(Sớ: Tín nghĩa
là tin chúng sanh và Phật chẳng hai. Chúng sanh niệm Phật
nhất định được văng sanh, rốt ráo thành
Phật).
Đây là điều chúng ta
trước hết phải tin tưởng. Từ kinh luận,
quư vị có thể quan sát thấy, hoặc
đọc từ ngữ lục của tổ sư, quư vị
biết học Phật nhất định phải hỏi,
học hỏi! Nhất định phải hỏi. Nếu
quư vị chẳng chịu hỏi, có rất nhiều ư
nghĩa nghe xong, chưa chắc quư vị đă thật
sự hiểu được ư nghĩa đó, mà có thể
là nghe sai lệch, hiểu cong quẹo, đấy mới là
oan uổng! Chúng ta chẳng hiểu cong quẹo, cũng phải
hỏi xem có phải là ư nghĩa ấy hay không? Thuở
đức Phật tại thế, trong mỗi hội [giảng
kinh], nói chung, các đệ tử nêu lên nhiều câu hỏi.
Lư giải hoàn toàn chẳng sai lầm cũng phải thỉnh
giáo đức Phật, đức Phật bèn ấn chứng
ngay khi đó: “Như thị,
như thị” (đúng như thế, đúng như vậy),
ông lănh hội chẳng sai. Nếu sai lầm, đức Phật
lại uốn nắn vị ấy. Hiện thời, chúng
ta học Phật sở dĩ chẳng thành tựu là v́
không hỏi. Nếu chính người ấy hiểu sai lệch,
ra ngoài cũng sẽ nói sai. Đương nhiên chính người
ấy chẳng biết ḿnh sai; nếu biết là sai, sẽ
chẳng sai nữa. Chính ḿnh sai mà không biết, lại chẳng
chịu hỏi han, vậy th́ c̣n có cách nào nữa đây? Cho
nên nói là “không c̣n có cách nào cả!” Bởi vậy, ở
Đài Loan, chúng tôi giảng kinh chỉ là giảng, giảng
xong th́ thôi, tại Đài Loan quen thói như thế, chứ ở
ngoại quốc th́ không được. Ở ngoại quốc,
giảng một tiếng đồng hồ, tối thiểu
phải dành nửa tiếng để mọi người
nêu câu hỏi. Có khi thời gian thắc mắc c̣n dài hơn
thời gian giảng. Họ chịu hỏi, hỏi hết
sức nhiệt t́nh, khác hẳn phong cách của chúng ta ở
nơi đây. Phong cách của chúng ta ở nơi đây giống
như Khổng lăo phu tử tán thán Nhan Hồi, Nhan Hồi
nghe Khổng Tử giảng chưa hề nêu câu hỏi,
nhưng Ngài thật sự hiểu.
Thứ nhất là phải tin Phật
và chúng sanh là một, không hai; mê th́ gọi là chúng sanh, giác bèn
gọi là Phật. Mê là ǵ? Ngộ là ǵ? Phải hiểu rơ
ràng! Mê hay ngộ chẳng phải ở bên ngoài, mê hay ngộ
ở bên trong, ở trong tâm! Cái ǵ mê? Tâm mê! Cái ǵ ngộ? Tâm
khai ngộ! Tâm chẳng mê, gọi là Phật. Tâm chẳng ngộ,
gọi là chúng sanh. Phật là chúng sanh tâm địa giác ngộ,
chúng sanh mê mất chư Phật trong tự tánh. Cổ nhân
nói: “Chư Phật tâm nội
chúng sanh, trần trần lưu chuyển” (chúng sanh ở
trong tâm chư Phật, lưu chuyển từng vi trần),
luân hồi trong lục đạo, “chúng sanh tâm trung chư Phật, niệm niệm chứng
chân” (chư Phật ở trong tâm chúng sanh chứng chân lư
trong mỗi niệm). V́ thế, chúng sanh và Phật là một,
không hai. Mê là mê cái tâm này, ngộ là ngộ cái tâm này. Lại
nói thật cùng quư vị, tâm đâu có mê hay ngộ? Nếu
tâm có mê và ngộ, cái tâm ấy chẳng thể gọi là
chân tâm! Tâm quả thật chẳng có mê hay ngộ; v́ thế,
mê là hư vọng, chẳng chân thật. Tuy chẳng chân thật,
nhưng quả thật có chuyện ấy, có chuyện
như vậy.
Học Phật, không ǵ chẳng
nhằm trừ khử mê t́nh mà thôi. Hễ học Phật,
vừa bắt đầu bèn truyền trao Tam Quy Y, Tam Quy Y
là truyền dạy tổng cương lănh tu học Phật
pháp cho quư vị. Thứ nhất là “giác chứ không mê”,
đó là Quy Y Phật. Phật là tự tâm giác, giác chứ
không mê bèn gọi là Phật. Quy (皈) là trở về,
quy là quay lại, từ đâu trở về? Từ mê quay
trở lại, nương theo tự tánh giác th́ gọi là
Quy Y Phật. Từ tà, tức tà tri tà kiến, tức là từ
tri thức, kiến giải, ư nghĩ sai lầm của quư
vị mà quay lại, nương theo điều chánh xác,
nương theo chánh tri chánh kiến, đó là Quy Y Pháp. Quy y
Tăng, Tăng có nghĩa là thanh tịnh, tự tánh thanh tịnh,
từ nhiễm ô mà quay trở lại, nương theo sự
thanh tịnh trong tự tánh, bèn gọi là Quy Y Tăng. Ba
điều này là tổng cương lănh tu học trong Phật
pháp.
Phật pháp có thay đổi
phương thức sống của chúng ta hay không? Thưa
quư vị, chẳng thay đổi! Trong cách thức sống
hiện tại của quư vị, Phật cần thay đổi
điều ǵ? Thay đổi cái tâm của quư vị, đổi
tâm mê thành tâm giác, đổi tâm tà thành chánh, đổi tâm
nhiễm thành tịnh. Nói cách khác, nếu tâm địa quư vị
là giác - chánh - tịnh, cuộc sống hiện tại của
quư vị là Phật pháp, quư vị phải hiểu rơ đạo
lư này. Phật dạy quư vị giác - chánh - tịnh. Do điều
này, thuở Phật hiện diện tại Ấn Độ,
Ngài trọn chẳng thay đổi điều ǵ đặc
biệt đối với phương thức sống của
người Ấn Độ, chỉ thêm giác - chánh - tịnh
vào đó mà thôi! Phật pháp truyền sang Trung Quốc trọn
chẳng thay đổi thói quen, ư thức và h́nh thái sinh hoạt
của chúng ta, xử sự, đăi người, tiếp vật,
học theo giác - chánh - tịnh là được rồi. Điều
này càng được hiển thị rơ rệt qua năm
mươi ba lần tham học trong kinh Hoa Nghiêm. Năm
mươi ba vị [thiện tri thức], trẻ, già, trai,
gái, các ngành nghề, thật sự tiêu biểu cho kinh Đại
Thừa, Lư Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại! Giác - chánh
- tịnh mà thôi! Chúng ta ngày nay khác Phật là v́ Phật giác,
c̣n chúng ta bất giác, Phật chánh, chúng ta chẳng chánh, Phật
thanh tịnh, chúng ta chẳng thanh tịnh. Trừ những
điều này ra, chúng ta và Phật có khác nhau hay không? Chẳng
khác ǵ hết!
Nói đến tín th́ điều
đầu tiên phải tin Tự và Tha bất nhị. Không
chỉ Liên Tŕ đại sư nói như vậy, mà trong sách
Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư cũng giảng
sáu điều: Thứ nhất là Tín Tự, tin chúng sanh và Phật
chẳng hai là tin vào chính ḿnh. Thứ hai là tin tưởng
Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng nói dối chúng ta, [những điều
Phật nói] chẳng phải là giả, tin tưởng bốn
mươi tám điều nguyện của A Di Đà Phật
là thật, đó là Tín Tha. Chúng ta tín nguyện niệm Phật
tại nơi đây, trong tương lai khi lâm chung, A Di
Đà Phật nhất định đến tiếp dẫn.
Đó là Tín Tha. Điều đầu tiên là tin vào chính ḿnh,
tin tưởng chính ḿnh chiếu theo pháp môn này để tu
học, nhất định thành Phật trong một đời
này, phải có tín niệm kiên cường như thế,
đó gọi là “căn bản của ḷng tin”, tin vào tự
tâm.
Ḷng tin trong Phật pháp khác với
ḷng tin của các tôn giáo thông thường. Điều phải
tin thứ nhất trong các tôn giáo thông thường là tin vào
thần, hết thảy đều phải dựa dẫm thần. Phật pháp không như vậy!
Điều thứ nhất trong Phật pháp là tin vào chính
ḿnh, điều thứ hai mới là tin thần, [tức là
tin] Phật, Bồ Tát có thể giúp đỡ chúng ta. Điều
thứ nhất là phải tin vào chính ḿnh; do vậy, quả
thật Phật giáo chẳng giống với tôn giáo. Trừ
kiến lập tín tâm căn bản ra, điều yếu
khẩn là phải tin Tam Bảo: Tin Phật, tin Pháp, tin
Tăng. Trong kinh luận, đức Phật thường
nói sáu niềm tin: Tam Bảo có Tự Tánh Tam Bảo và
Trụ Tŕ Tam Bảo, nhất định phải từ Trụ
Tŕ Tam Bảo mà khải phát Tự Tánh Tam Bảo; đó mới
gọi là “tin Tam Bảo”, quyết định chẳng bị
ngoại cảnh bên ngoài dao động, điều này rất
trọng yếu.
Nói đến căn bản, tự
tâm, Tịnh Độ thường nói “duy tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà”, hai câu này có ư nghĩa thật
sự rất sâu xa, nhưng là sự thật, kiến lập
trên căn bản của ḷng tin. Tây Phương Cực Lạc
thế giới, A Di Đà Phật có quan hệ rất mật
thiết với chúng ta. Nói cách khác, chẳng phải là người
ngoài, về căn bản là người trong một nhà,
quan hệ vô cùng thân mật, lẽ nào chẳng thể văng
sanh? Lẽ nào lúc lâm chung chẳng đến tiếp dẫn?
Tín tâm cơ bản của chúng ta được kiến lập
ở chỗ này. V́ thế, nói: “Chúng
sanh niệm Phật, định đắc văng sanh” (chúng
sanh niệm Phật, nhất định được
văng sanh). Ngữ khí hết sức khẳng định! “Cứu cánh thành Phật” (rốt
ráo thành Phật) là thành vị Phật viên măn trong Viên Giáo,
thành Viên Giáo Phật. Có bốn loại Phật là Tạng,
Thông, Biệt, Viên; chỉ có Viên Giáo Phật mới là rốt
ráo viên măn.
(Sớ) Như kinh sở vân.
(疏) 如經所云。
(Sớ: Như kinh đă nói).
Tiếp theo là dẫn kinh Di
Đà để nói.
(Sớ) Nhữ đẳng giai
đương tín thọ ngă ngữ, thị dă.
(疏) 汝等皆當信受我語,是也。
(Sớ: “Các ông đều
nên tin lời ta nói” chính là ư này).
“Ngă”
là Thích Ca Mâu Ni Phật tự xưng. Tin tưởng lời
Phật, người ấy có phước.
(Sớ) Nguyện, vị tín phi
đồ tín.
(疏) 願,謂信非徒信。
(Sớ: Nguyện có nghĩa là ḷng tin chẳng phải
là tin suông).
Chữ Tín chẳng phải là
nói ta tin rồi thôi, như vậy là không được! Đă
tin th́ phải phát nguyện.
(Sớ) Như tử ức mẫu,
chiêm y hướng mộ, tất dục văng sanh cố.
(疏) 如子憶母,瞻依向慕,必欲往生故。
(Sớ: Như con nhớ
mẹ, ḷng luôn chiêm ngưỡng, nương tựa, hâm mộ,
hướng về, ắt muốn được văng sanh).
Đây là nguyện. “Như tử ức mẫu”,
câu này phát xuất từ kinh Lăng Nghiêm. Chương Đại
Thế Chí Bồ Tát Viên Thông có câu: “Thập phương chư Phật lân niệm chúng
sanh” (mười phương chư Phật nghĩ
thương xót chúng sanh), cũng là vương vấn chúng
sanh, hoài niệm chúng sanh. “Như
mẫu ức tử”, giống như mẹ hiền
nghĩ đến con; dùng điều này để sánh ví
chư Phật nghĩ tới chúng sanh. Phật nghĩ tới
chúng sanh, đáng tiếc là chúng sanh chẳng
nghĩ tới Phật, không có cách nào hết! Kinh dạy: “Tử nhược ức mẫu,
như mẫu ức thời, mẫu tử lịch sanh, bất
tương vi viễn” (nếu con nhớ mẹ như
khi mẹ nhớ đến con, th́ mẹ và con trải qua
nhiều đời chẳng hề xa cách). Đây là nói
đến cảm ứng. Con nghĩ đến mẹ, giống
như mẹ nhớ đến con, hai người bèn
có cảm ứng. Đại Thế Chí Bồ Tát dùng lư luận
này để thuyết minh mối quan hệ cảm ứng
giữa chúng sanh và A Di Đà Phật. Hiện tại, Phật
niệm chúng ta, chúng ta quên niệm Phật. Nếu chúng ta niệm
Phật giống như Phật niệm chúng ta, quư vị nhất
định văng sanh trong một đời này. V́ thế,
đọc đến kinh này, nghe pháp môn này, phải sanh cái
tâm hâm mộ, hướng về, “Chiêm y”: “Chiêm” (瞻) là chiêm ngưỡng, y (依) là nương
tựa, “hướng mộ”:
Mộ (慕) là giống trẻ
nhỏ yêu mến, ngưỡng mộ cha mẹ, nhất
định cầu văng sanh, nhất định cầu thấy
Phật. Đó gọi là phát nguyện, đó là có nguyện.
Đối với thứ ǵ
trong thế gian này cũng đều có thể buông xuống,
đều có thể bỏ, chỉ mong văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới. Lại thưa
với quư vị, chẳng có thứ ǵ trong thế giới
này quư vị có thể đạt được! Toàn là giả!
Chúng sanh chẳng đạt được mà cứ tưởng
đă đạt được, đó là mê, tâm mê mất rồi!
Người giác ngộ hiểu: Chẳng có ǵ để có
thể đạt được! Muốn thật sự
đạt được, chỉ có văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới, đến
nơi ấy th́ thứ ǵ quư vị cũng đều có thể
đạt được. Bởi vậy, trong thế gian
này, người thân ái, những người ta chẳng muốn
xa ĺa, nói thật ra, chẳng muốn ĺa xa, nhưng đến
cuối cùng vẫn phải biệt ly, chẳng thể không
biệt ly! Không có cách nào cả! Chỉ có một biện
pháp là khuyên người ấy niệm A Di Đà Phật,
khuyên người ấy cầu sanh Tịnh Độ,
tương lai quư vị đến thế giới Cực
Lạc, người ấy cũng đến, sẽ
thường ở cùng một chỗ. Trừ biện pháp
này ra, không có cách nào hết! Con người sau khi chết
luân hồi trong lục đạo, biết ai sẽ đi
vào đâu! Sau này dẫu có gặp nhau, sợ rằng
trăm ngàn vạn kiếp sau mới có thể gặp mặt
một lần, gặp mặt mà chưa chắc có kết
quả tốt đẹp ǵ! Do vậy, chỉ có một biện
pháp tốt đẹp là mọi người cùng sanh về
Tây Phương Cực Lạc thế giới.
(Sớ) Như kinh sở vân.
(疏) 如經所云。
(Sớ: Như kinh đă nói).
Đây cũng là dẫn lời
đức Phật đă nói trong kinh Di Đà.
(Sớ) Ưng đương
phát nguyện, sanh bỉ quốc độ, thị dă.
(疏) 應當發願,生彼國土,是也。
(Sớ:
“Hăy nên phát nguyện sanh về cơi nước ấy”, chính
là nói tới điều này).
Phần trên đă khuyên chúng ta
hăy tin tưởng lời Ngài, ở đây, khuyên chúng ta phát
nguyện cầu sanh Tịnh Độ. Thật sự tin
sâu, phát nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ,
đấy mới là đệ tử bậc nhất của
Thích Ca Mâu Ni Phật. Kinh Vô Lượng Thọ nói đệ
tử tốt nhất của Thích Ca Mâu Ni Phật là học
sinh biết nghe lời nhất, thật sự tin tưởng
thầy, chẳng trái nghịch lời thầy răn dạy.
Đó là đệ tử bậc nhất, là học sinh tốt
nhất.
(Sớ) Hạnh, vị nguyện
phi hư nguyện.
(疏) 行,謂願非虛願。
(Sớ: Hạnh có nghĩa là nguyện chẳng phải
là nguyện hư giả).
“Hư”
là chẳng thật. Nguyện là chân thật, chẳng phải
là giả nguyện.
(Sớ) Thường hành tinh tấn,
niệm niệm tương tục, vô hữu gián đoạn
cố.
(疏) 常行精進,念念相續,無有間斷故。
(Sớ: Thường
hành tinh tấn, niệm niệm tiếp nối, chẳng
gián đoạn).
Trong mười hai thời, một
câu Phật hiệu chẳng gián đoạn, thật sự
tinh tấn niệm Phật. Nói “trong
mười hai thời chẳng gián đoạn”, chúng ta
nghe câu này xong, đừng chấp chết cứng vào lời
nói, chết cứng nơi đó là lầm mất rồi!
Quư vị nghe câu nói này, được rồi! Từ nay trở
đi suốt ngày từ sáng đến tối niệm A Di
Đà Phật, chuyện ǵ cũng chẳng muốn làm! Có
người như vậy hay không? Có đấy! Đó là người phước báo đặc
biệt lớn. Người ấy chẳng cần làm việc,
có người cúng dường, giống như những
người bế quan niệm Phật, đó là người
có phước báo lớn. Nay quư vị hằng ngày phải làm
việc, hằng ngày phải bươn chải kiếm sống.
A! Quư vị cũng liều mạng niệm Phật, suốt
ngày từ sáng đến tối niệm Phật, lại
c̣n nghĩ phải làm việc. Rốt cuộc là Phật chẳng
niệm ra ǵ, mà công việc cũng chẳng ra làm sao! Pháp thế
gian lẫn xuất thế gian đều không xong, trật
lất rồi! Xưa nay những bậc tổ sư đại
đức trong Tịnh Độ Tông, đối trước
Phật phát nguyện, tín nguyện tŕ danh, trừ lúc ăn
ngủ, công phu chẳng gián đoạn. Các đồng tu tại
gia có rất nhiều công chuyện, trong khi quư vị làm việc
phải buông niệm Phật xuống để chuyên tâm làm
việc.
Đừng nên hiểu lầm
“nhất tâm bất loạn”. Nhất tâm bất loạn là xử
sự, đăi người, tiếp vật, bất luận
làm chuyện ǵ, đều là nhất tâm, chuyên tâm. Chúng ta niệm
Phật đến nhất tâm bất loạn, phải vận
dụng trong xă hội, vận dụng vào cuộc sống
thường ngày th́ mới hữu ích. Quư vị vừa lái
xe vừa nhất tâm bất loạn niệm Phật, xong luôn!
Xảy ra tai nạn xe cộ! Nếu niệm Phật kiểu
đó, pháp môn Niệm Phật này sẽ bị toàn thể xă
hội phê b́nh, bị toàn thể xă hội gạt bỏ, v́
sao? Chẳng hợp với t́nh cảm con người. Mọi
người đều học Phật [theo kiểu đó]
th́ toàn thể xă hội tê liệt, c̣n làm ǵ được
nữa? Quư vị học Phật, người trong nhà
cũng chẳng cần ăn cơm. Vợ con quư vị hằng
ngày đói meo, họ nhất định sẽ rêu rao bên
ngoài: “Ngàn vạn phần đừng nên học Phật! Học
Phật không được đâu, đều biến thành
bệnh thần kinh hết!” Do vậy, nhất định
phải hiểu đạo lư này. Làm chuyện ǵ đều
phải chuyên tâm làm, đó gọi là nhất tâm bất loạn.
Ăn cơm bèn nhất tâm bất loạn ăn cơm, mặc
áo bèn nhất tâm bất loạn mặc áo, tiếp đăi
khách khứa bèn nhất tâm bất loạn tiếp đăi,
pháp thế gian lẫn xuất thế gian điều ǵ
cũng viên măn, niệm Phật mới có cống hiến
đối với toàn thể xă hội, mọi người
mới cảm thấy [niệm Phật] thật sự là cần
thiết. Đừng nên hiểu lầm, nghe câu này mà hiểu
lầm là không được đâu!
Lại thưa cùng quư vị, niệm
Phật “niệm niệm tiếp
nối, chẳng gián đoạn” th́ trong mỗi niệm
sẽ là niệm ǵ? Là giác niệm, chánh niệm, thanh tịnh
niệm. Một câu A Di Đà Phật dịch sang nghĩa tiếng
Hán là Vô Lượng Giác, A là vô, Di Đà là lượng, Phật
là giác. Chúng ta thứ ǵ cũng đều giác chứ không
mê, đó chính là A Di Đà Phật; chúng ta chẳng niệm
câu Phật hiệu cũng là niệm Phật. Chúng ta giác chứ
không mê, thứ ǵ cũng đều giác chứ không mê. Xử
sự, đăi người, tiếp vật, ta đều chẳng
mê, chẳng tà, chẳng nhiễm, một câu Phật hiệu
cũng chẳng niệm mà người ấy được
gọi là người thật sự niệm Phật. Chúng
ta niệm một câu A Di Đà Phật để nhắc nhở
chính ḿnh hăy giác - chánh - tịnh, nhắc nhở chính ḿnh!
Quư vị nhất định phải
hiểu rơ, quư vị có thể buông Phật hiệu xuống,
lúc làm việc tâm địa thanh tịnh chẳng nhiễm
mảy trần th́ làm việc vẫn là niệm Phật, [đừng
nghĩ rằng]: “Ta đang làm việc, không niệm Phật!”
Quư vị nhất tâm bất loạn th́ nhất tâm bất
loạn là niệm Phật. V́ thế, trong mười hai thời
chẳng bị gián đoạn, mọi người phải
hiểu đạo lư này, chớ nên hiểu lầm! Do vậy,
hễ có nghi hoặc nhất định phải hỏi,
quyết định phải học Phật, đừng học
theo bàng môn ngoại đạo.
(Sớ) Như kinh sở vân, chấp
tŕ danh hiệu, nhất tâm bất loạn, thị dă.
(疏) 如經所云,執持名號,一心不亂,是也。
(Sớ: Như kinh
đă nói “chấp tŕ danh hiệu, nhất tâm bất loạn”
chính là nói về điều này).
Những điều chúng tôi vừa
thưa cùng quư vị đều là đại ư của nhất
tâm bất loạn. Người niệm Phật bất luận
làm chuyện ǵ cũng đều chuyên tâm, đều là nhất
tâm, chính ḿnh có thể thành tựu, mà cũng có thể cảm
động người khác. Có những kẻ rất chấp
trước, chẳng hạn như trong khi họ đang tụng
kinh, có ai đến đều chẳng đoái hoài, quyết
định chẳng chào hỏi, quyết định chẳng
tiếp đăi, thưa quư vị, những kẻ ấy là hạng
Tiểu Thừa, giới luật Tiểu Thừa quả thật
là như thế. Đại Thừa chẳng giống vậy,
Bồ Tát đang tụng kinh, có khách đến, vị ấy
lập tức xếp kinh lại để tiếp đăi
khách, đợi đến khi khách đi khỏi lại tiếp
tục niệm. Trong khóa tụng của đoàn thể th́
không nói, v́ phải chú ư giữ oai nghi cho đại chúng. C̣n
khi cá nhân tụng niệm sáng tối, hễ có chuyện ǵ
đưa đến, người ấy cũng buông khóa tụng
xuống, ra gặp khách.
Trong quá khứ, thầy Lư ở
Đài Trung giống như vậy, chưa hề nói “chẳng
tiếp khách, đợi khóa tụng xong sẽ gặp”, theo
cách suy nghĩ thông thường của chúng ta th́ đều
nên làm như vậy. Lăo nhân gia giải thích: Bồ Tát đạo
lợi ích chúng sanh là bậc nhất. Chuyện của chúng
sanh được xếp vào mức ưu tiên bậc nhất,
người ta từ xa xôi [t́m đến] nhất định
có chuyện cần gặp quư vị. Nếu quư vị để
họ đợi nửa ngày, người
ta cũng có chuyện khác, đâu có nhiều thời gian
để chờ đợi? Do vậy, hễ khách đến,
lập tức phải gặp mặt. Đừng khiến
người ta nói: “Kẻ học Phật phách lối quá”,
khiến cho người ta có cảm nghĩ xấu. Nhất
là kẻ chưa học Phật đến gặp quư vị,
thấy quư vị làm bộ làm tịch như thế: “Gă này
thật quá sức, thật là trịch thượng quá”. Kẻ
ấy khởi lên cảm nghĩ xấu, hủy báng Phật
pháp. Đang trong lúc tụng kinh, người ta đến,
lập tức buông xuống để gặp mặt,
người ta cảm giác đặc biệt thân thiết,
cảm thấy: “Người này hết sức từ
bi. Quư vị thấy đó, ông ta đang tụng kinh, tôi có
chuyện phải kiếm ông ta, ông ta ngưng tụng kinh
để tiếp đăi tôi”. Người ấy bị cảm
động. Chuyện cảm động ấy là tích cực,
người ấy đối với Phật giáo vĩnh viễn
mang tấm ḷng cảm ân, đó là “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Đấy
là độ chúng sanh, khiến cho chúng sanh đối với
Phật pháp có ấn tượng tốt, đừng gây ấn
tượng xấu cho họ. Những điều này đều
là nói về chuyên tâm, nhất tâm.
(Sớ) Thử chi tam sự, hiệu
vi tư lương.
(疏) 此之三事,號為資糧。
(Sớ: Ba chuyện
này được gọi là tư lương).
“Tư”
là tư bổn (資本), tức tiền vốn; “lương” (糧) là lương thực. “Tư
lương” là những thứ trước kia ra khỏi
cửa ắt phải mang theo. Hiện thời giao thông thuận
tiện, chỉ mang tiền bên thân là được rồi.
Trước kia, mang theo tiền chưa chắc đă mua
được thức ăn, nên cần phải mang
lương khô, mang nước theo. Văng sanh Tây Phương
Cực Lạc thế giới, tư lương là Tín - Nguyện
- Hạnh, ba chuyện này đầy đủ sẽ hội
đủ điều kiện văng sanh thế giới Cực
Lạc.
(Sớ) Tư lương bất
sung, vơng khắc tiền tấn.
(疏) 資糧不充,罔克前進。
(Sớ: Tư lương chẳng
đủ, chẳng thể tiến lên được!)
Tư lương chẳng đủ,
không có cách nào tiến lên. Ba món tư lương đầy
đủ, sẽ tinh tấn tiến bước trên con
đường văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới.
(Sớ) Hựu phục thử
tam, như đỉnh tam túc, hoặc câu vô, hoặc cụ
nhất khuyết nhị, hoặc cụ nhị khuyết
nhất, giai bất khả dă.
(疏) 又復此三,如鼎三足,或俱無,或具一缺二,或具二缺一,皆不可也。
(Sớ: Lại nữa,
ba điều này như ba chân của cái đỉnh, hoặc
thiếu cả ba, hoặc có một thiếu hai, hoặc
đủ hai thiếu một, đều chẳng thể
được!)
Dùng cái “đỉnh” làm tỷ dụ.
Đỉnh phải có ba chân mới đứng vững
được, thiếu một cũng chẳng thể
được, thiếu hai điều cũng không được,
ba điều đều thiếu cũng chẳng
được, điều này nhằm bảo chúng ta: Ba
điều kiện này chẳng thể thiếu một
điều nào!
(Sớ) Hựu dĩ dụ minh.
(疏) 又以喻明。
(Sớ: Lại dùng thí dụ để giảng
rơ).
Dưới đây lại nêu tỷ
dụ để nói rơ.
(Sớ) Thí chi ngũ cốc, kỳ
vô tín giả, bất tín tức chủng thị cốc, tài
bồi thử chủng, định đắc thành cốc
giả dă.
(疏) 譬之五穀,其無信者,不信即種是穀,栽培此種,定得成穀者也。
(Sớ: Ví như
ngũ cốc, kẻ không có ḷng tin sẽ chẳng tin nếu
gieo trồng, vun quén giống thóc lúa ấy, nhất định
sẽ thu hoạch thóc lúa).
Dùng ngũ cốc[2]
để làm tỷ dụ, nay ta nói là thực vật.
Trước tiên, quư vị phải tin tưởng những
hạt giống này là đúng! Chúng ta nói đến thóc gạo
th́ những hạt giống này là thóc gạo, quư vị phải
tin tưởng. Sau khi gieo trồng, tương lai nó sẽ
sanh ra thóc gạo, quư vị phải tin tưởng. Nếu
quư vị chẳng tin, chẳng chịu gieo trồng, chẳng
c̣n cách nào nữa, thóc gạo vĩnh viễn chẳng sanh
ra!
(Sớ) Tín nhi vô nguyện giả,
tuy tri giai chủng, vô tâm cầu cốc giả dă.
(疏) 信而無願者,雖知佳種,無心求穀者也。
(Sớ: Tín mà không có
nguyện, [giống như] tuy biết là giống tốt,
nhưng không có tâm cầu thóc gạo).
Tin tưởng, khá lắm! Hạt
giống này quả thật có thể trồng để thu
được gạo, nhưng người ấy không trồng.
Không trồng th́ cũng không được rồi! Cũng
chẳng thể có thâu hoạch. Điều này tỷ dụ
tín mà không có nguyện.
(Sớ) Nguyện nhi vô hạnh giả,
tuy vọng đắc cốc, bất sự canh nậu giả
dă.
(疏) 願而無行者,雖望得穀,不事耕耨者也。
(Sớ: Nguyện mà
thiếu hạnh, tuy mong có gạo, nhưng chẳng chú trọng
cày bừa).
Tuy người ấy tin tưởng,
cũng chịu phát nguyện, nhưng không hành, giống
như hạt giống tốt đẹp, người ấy
tin hạt giống này có thể tăng trưởng,
cũng gieo trồng. Gieo xong, chẳng đoái hoài tới!
Gieo xong, chẳng hề làm cỏ, bón phân, tưới tắm,
nó vẫn chẳng tăng trưởng được, hạt
giống ấy sẽ chết khô. Quư vị có tín nguyện,
chẳng hành, chắc chắn chẳng thể thành công.
(Sớ) Chuẩn thượng khả
tri, thử tam giả, giai luy liệt, phá lậu chi khí, bất
kham thừa thọ cam lộ pháp vị, cố danh phi khí.
(疏) 準上可知,此三者,皆羸劣破漏之器,不堪承受甘露法味,故名非器。
(Sớ: Dựa theo
những điều trên đây, biết rằng ba hạng
người ấy (không tín, không nguyện, không hạnh)
đều là những căn khí kém cỏi, hư nát, ṛ rỉ,
chẳng kham tiếp nhận pháp vị cam lộ, nên gọi
là “phi khí”).
Câu này có nghĩa là: Dùng tỷ dụ
để thuyết minh ba điều kiện ấy, nếu
thiếu mất một mà tu pháp môn này, sẽ chẳng thể
thành công. Do vậy, gọi họ là “phi khí”. V́ sao? “Luy liệt,
phá lậu chi khí” (căn khí kém cỏi, hư nát, ṛ rỉ),
chẳng thể dùng được! Chúng ta phải đặc
biệt chú ư điều này. Bởi lẽ, v́ là “phi khí”, nên tiếp theo đó,
[lời Sớ] viết: “Bất
kham thừa thọ cam lộ pháp vị” (chẳng thể
tiếp nhận cam lộ pháp vị). Cam lộ pháp vị
là tỷ dụ, xuất phát từ kinh Lăng Nghiêm. Trong
kinh, đức Phật đă giảng ư nghĩa này rất
sâu, được gọi là “thuần vô lậu” th́ chính là
“pháp khí chân chánh”. Chẳng hạn như cái chén trà này rất
sạch sẽ, đựng cam lộ trong đó, đấy
là thượng vị. Nếu trong ấy có lẫn chút
độc, toàn thể cam lộ đều biến thành
nước độc. Nói cách khác, chẳng thể xen tạp
mảy may chất độc nào! Điều này có nghĩa
là: “Đoạn ác phải đoạn sạch sành sanh, tu thiện
phải tu viên măn”, tỷ dụ ư nghĩa này! Quyết định
chẳng thể cho rằng lỗi lầm nhỏ nhặt
chẳng sao, không ăn nhằm ǵ! Lỗi lầm vặt
vănh không sao, tức là trong đồ đựng ấy
chưa rửa sạch chất độc, vẫn c̣n thừa
sót một chút. Một chút chất độc thừa sót nhất
định sẽ biến [cam lộ] thành thứ gây tổn
hại mất mạng!
Chúng ta hăy suy nghĩ: Trong cuộc
sống thường ngày, phiền năo, tập khí quá nặng,
đoạn phiền năo th́ bắt đầu đoạn từ
chỗ nào? Phiền năo tập khí nào nặng nhất th́ hăy
khởi sự từ phiền năo nặng nhất ấy.
Trước hết, phải đoạn cái nặng nhất,
rồi đoạn cái kém nặng hơn; giống như trị
bệnh: Thầy thuốc trị bệnh, người ấy
quá nhiều bệnh, trong số ấy,
căn bệnh nào nguy hiểm đến tánh mạng th́ phải
trị căn bệnh ấy trước. Trước hết,
phải giữ được cái mạng, rồi mới
trị những bệnh ít nặng hơn. Trước hết,
chữa trị căn bệnh nặng nhất, mà bệnh nặng
nhất của mỗi người mỗi khác, mỗi chúng
sanh căn tánh khác nhau, tham, sân, si, mạn, nghi, rất nhiều
thứ khác nhau, chính ḿnh biết rơ, người khác
không biết! Thuở Phật tại thế, đức Phật
ngũ nhăn viên minh, chẳng những thấy một đời
của quư vị, mà c̣n thấy quá khứ, đời quá khứ
của quá khứ, những tư tưởng hành vi từ
vô thỉ kiếp đến nay của quư vị, Ngài đều
biết rơ. V́ thế, đức Phật thuyết pháp là cắt
thuốc theo đúng căn bệnh, hễ kê thuốc, quư vị
bèn lành bệnh.
Nay là thời kỳ Mạt Pháp,
những pháp sư đại đức thiếu bản
lănh ấy, chẳng có thần thông, chẳng thấy đời
quá khứ của quư vị. Do vậy, chính ḿnh phải phản
tỉnh, chính ḿnh phải hiểu rơ ta có những bệnh
nào, bệnh nào nặng nhất trong những căn bệnh
ấy. Bệnh nào nặng nhất th́ phải sửa đổi
trước, phải suy nghĩ phương pháp thay đổi.
Sửa lỗi gọi là sám hối, sám có nghĩa là phát lộ
(phơi bày), Sám (懺) là tiếng Ấn Độ, tức Sám-ma (ksama). [Sám
hối] chính là đem những chuyện ta đă làm sai quấy
thảy đều nói ra cho mọi người biết, chẳng
ẩn giấu. Chẳng ẩn giấu tội lỗi của
chính ḿnh th́ gọi là Sám. Hối (Āpatti-pratideshana) là sau đó không làm nữa. Có những đồng tu
bảo tôi: Trong quá khứ, họ đă làm quá nhiều chuyện
sai quấy, nay rất khó chịu, thường ăn
năn. Họ coi đó là sám hối! Chẳng phải vậy!
Đó gọi là “tội chồng thêm tội”, v́ sao? Quư vị
nghĩ đến một lần là phạm thêm một lần,
quư vị sợ tội nghiệp do chính ḿnh đă tạo chẳng
đủ nhiều ư? Mỗi một lần nghĩ tới
là ấn tượng trong A Lại Da Thức lại sâu
hơn một nấc, lại tăng thêm một lần, làm
sao được nữa! Đó chẳng phải là sám hối!
Sám hối là tiêu trừ nghiệp chướng; quư vị hằng
ngày tăng thêm nghiệp chướng, chỉ sợ sức
mạnh của nó chưa đủ lớn, chỉ sợ
nó chưa dầy, làm sao được nữa! Học Phật
kiểu đó là học điên đảo vậy!
Phật pháp, quyết định
chẳng áo năo, bứt rứt v́ quá khứ, chuyện quá khứ
kể như xong, chẳng c̣n nghĩ đến nó nữa.
Pháp môn sám hối là như thế này: Ta làm chuyện sai quấy,
ta hướng về mọi người thưa rơ, từ
nay trở đi chẳng c̣n làm chuyện sai quấy ấy
nữa, đó gọi là sám hối thật sự, quyết
định chẳng nghĩ đến nữa. Quư vị có
ư nghĩ ấy, v́ sao chẳng nghĩ đến A Di Đà
Phật? V́ sao chẳng niệm A Di Đà Phật? Nghĩ
đến những tội lỗi, đúng là hỏng bét.
Quư vị nghĩ đến A Di Đà Phật, niệm A Di
Đà Phật, tương lai văng sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới. Quư vị hằng ngày nghĩ đến
tội lỗi, nghĩ tới tội lỗi ấy th́ lẽ
nào chẳng đọa trong địa ngục? Đó là tu
pháp môn địa ngục. Phải giác ngộ, phải thật
sự giác ngộ. V́ thế, ngàn vạn phần đừng
nên hiểu lầm ư nghĩa của những danh từ, thuật
ngữ trong kinh Phật, phiền phức lắm!
Trong kinh nói, ắt phải gột
rửa sạch sẽ những ô uế trong tâm địa của
chính ḿnh. Sám hối là phương pháp gột rửa, tức
là gột rửa sạch sẽ tâm địa. Như vậy
th́ mới thành pháp khí, mới có thể nhận lănh cam lộ
pháp vị. Cam lộ pháp vị cũng có tỷ dụ, khi ấy,
tâm địa đă thật sự thanh tịnh rồi,
người ấy vừa nghe pháp, vừa tiếp xúc Phật
pháp, sẽ khai ngộ, pháp hỷ sung măn. Quư vị tiếp
xúc Phật pháp mà chẳng khai ngộ là do tâm chẳng thanh tịnh.
Tâm thanh tịnh chẳng thể không khai ngộ. Do vậy,
quư vị ngàn vạn phần đừng nên bứt rứt
v́ chuyện cũ, đừng nên nghĩ tới những tội
nghiệp trước kia. V́ quư vị càng nghĩ đến,
tâm quư vị chắc chắn chẳng thanh tịnh. Chúng ta
niệm Phật nhằm mong cầu công phu thành phiến, nhất
tâm bất loạn; suốt ngày suy nghĩ loạn xạ,
làm sao thành phiến cho được? Công phu chẳng thể
thành phiến, cũng chẳng đạt được nhất
tâm.
(Sớ) Hựu phục thế
nhân tuy hành chúng thiện, ư bỉ Phật độ, vô
tín hạnh nguyện, diệc danh phi khí.
(疏) 又復世人雖行眾善,於彼佛土,無信行願,亦名非器。
(Sớ: Lại nữa,
người đời tuy hành các điều thiện, nhưng
không có tín hạnh nguyện đối với cơi Phật ấy
th́ cũng gọi là “phi khí”).
Đây là nói người lành
trong thế gian tuy làm lành, cho đến nói người học
Phật tuy thâm nhập kinh tạng, y giáo phụng hành, tu rất
tốt đẹp, rất có công phu, nhưng chẳng tin
tưởng Tịnh Độ, chẳng bằng ḷng văng
sanh, hạng người ấy vẫn gọi là “phi khí”. Câu chuyện “tam sanh thạch”
(ḥn đá ba đời) các đồng tu học Phật
đều nghe rồi. Thiền sư Viên Trạch là người
đời Đường, vị này tu Thiền, công phu thật
sự cao minh. Sư có một vị hộ pháp là cư
sĩ Lư Nguyên; khi ấy, Lư Nguyên làm quan rất lớn, hộ
tŕ Sư. Giao t́nh giữa thiền sư Viên Trạch và Lư
Nguyên hết sức sâu dầy. Có một hôm Lư Nguyên đề
nghị triều bái núi Nga Mi, hai người chí đồng
đạo hợp. A! Cùng đi triều bái núi Nga Mi,
nhưng chọn lựa lộ tŕnh, hai người ư kiến
khác biệt, thiền sư muốn đi đường bộ,
Lư Nguyên nói: “Chúng ta ngồi thuyền, thoải mái hơn nhiều,
hăy đi theo đường thủy”. Đến cuối
cùng, thiền sư Viên Trạch không thể thuyết phục
cư sĩ Lư Nguyên, bèn cùng cư sĩ Lư Nguyên ngồi thuyền
ra đi. Thuyền bơi theo ven sông, thấy một phụ
nữ mang thai giặt quần áo nơi đó. Thuyền
đi ngang qua bà ấy, thiền sư Viên Trạch vừa
trông thấy bèn ứa nước mắt. Cư sĩ Lư Nguyên
nói: “Trên đường đi thấy phụ nữ mang
thai giặt áo rất nhiều, thầy chẳng rơi lệ.
V́ sao thấy người này, thầy lại khóc?” Ngài nói:
“Tôi sở dĩ không muốn đi theo đường này
là v́ sợ gặp bà ta. Bà ta mang thai đă ba năm v́ đợi
tôi đầu thai. Nếu chẳng thấy th́ c̣n có thể
tránh né, nay đă gặp, trốn không được, nhất
định phải đầu thai!”
Thật ra, Sư thật sự
có thần thông, hôm rời khỏi chùa, đă viết sẵn
di chúc. Trong chùa có những chuyện cần phải giao phó
đều dặn ḍ rơ ràng. Sau đó, Lư Nguyên trở về
chùa, mới biết Sư đă sớm biết trước.
Sư nói: “Tôi đến nơi đó đầu thai, ông hăy
lo liệu hậu sự cho tôi. Sau đó, ông đến nhà nọ
trong thôn ấy để kiếm tôi. Chúng ta gặp mặt,
tôi cười với ông một tiếng để làm chứng”.
Đứa bé mới vừa sanh ba ngày, quư vị nghĩ xem:
Vừa gơ cửa, nó trông thấy bạn cũ liền
cười để làm chứng. Lại c̣n bảo ông Lư:
“Mười hai năm sau, đêm Rằm tháng Tám trăng
tṛn, ước định gặp nhau tại một ngôi
chùa ở Hàng Châu”. Quư vị nghĩ xem: So với Hoạt Phật
chuyển thế hiện đời cao minh hơn nhiều
lắm! [Hoạt Phật] chuyển thế, chẳng biết
ǵ hết, hồ đồ, c̣n vị này hiểu rơ ràng,
ước hẹn với bạn cũ cả mười
hai năm sau: “Chúng ta lại gặp mặt ở nơi
đó”. Đúng là chẳng đơn giản! V́ thế, chuyển
thế là thật, chẳng giả, chẳng hiếm hoi, lạ
lùng. Quư vị nghĩ xem: Có ai chẳng phải là chuyển
thế hay chăng? Không có một ai chẳng phải là chuyển
thế, nhưng một đằng là chuyển thế mà hiểu
biết rơ ràng, một đằng là chuyển thế
nhưng không biết rơ ràng!
Thiền sư Viên Trạch có
năng lực như thế, mà chẳng thể vượt
thoát lục đạo luân hồi, chẳng tránh khỏi phải
chịu khổ trong tam giới. Dẫu công phu cao minh hơn,
bất quá cũng sanh vào trời Tứ Thiền hưởng
phước mà thôi! Muốn thoát tam giới liễu sanh tử,
chẳng dễ dàng! Câu chuyện ḥn đá ba đời là thật,
trong Hộ Quốc Tức Tai Pháp Hội Pháp Ngữ, Ấn
Quang đại sư cũng nhắc đến chuyện
này, khích lệ chúng ta nhất định phải phát nguyện
cầu sanh Tịnh Độ. Chẳng cầu sanh Tịnh
Độ, dẫu tu giống như thiền sư Viên Trạch,
vẫn phải luân hồi, đó là nhân duyên quả báo. Chúng
ta phải hiểu rơ điều này, phải thật sự
giác ngộ, phải phát tâm.
Điều này cho thấy tu các
tông khác, Hiển giáo cũng thế, mà Mật giáo cũng thế,
chẳng tin Tây Phương Tịnh Độ, chẳng muốn
văng sanh, thảy đều là phi khí. Dưới đây nói
người lành tu hành rất tốt đẹp, [nhưng không
có Tín, Hạnh, Nguyện] sẽ đều chẳng
được.
(Sớ) Tuy hữu chư quá,
ư bỉ Phật độ hữu Tín, Hạnh, Nguyện,
diệc danh vi khí.
(疏) 雖有諸過,於彼佛土有信行願,亦名為器。
(Sớ: Tuy có các lỗi,
nhưng có Tín, Hạnh, Nguyện đối với cơi Phật ấy, cũng gọi là khí).
Quư vị phải đặc biệt
lưu ư điểm này, tạo tội nghiệp như thế
nào? Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh nói quư vị tạo
tội nghiệp Ngũ Nghịch, Thập Ác phải đọa
địa ngục A Tỳ, đừng sợ, quư vị gặp
gỡ pháp môn này, “tôi tin tưởng, tôi phát nguyện, tôi niệm
Phật”, quư vị vẫn văng sanh giống hệt như [người
lành tu Tịnh Độ]. Do vậy, quư vị tạo tội
lỗi nhỏ nhoi, c̣n sợ điều ǵ? Cớ ǵ phải
suốt ngày từ sáng đến tối phải ray rứt
trong ḷng, chẳng chịu vứt bỏ? Hỏng rồi! Tuy
quư vị tạo tội nghiệp, chẳng tạo Ngũ
Nghịch, Thập Ác, chẳng giết cha, giết mẹ,
giết A La Hán, phá ḥa hợp Tăng, chúng ta chẳng làm những
chuyện xấu ấy, chẳng có điều ác to lớn
ngần ấy! Hạng người đại ác ấy niệm
Phật đều có thể văng sanh, huống hồ là những
tội nhỏ nhặt khác, thấm vào đâu? Vấn đề
là quư vị phải thật sự tin tưởng!
Hữu tâm làm những chuyện
ác, đó là tội. Vô tâm làm, đó là lỗi, tội lỗi!
Tội nghiệp và lầm lỗi khác nhau. Chúng ta nay tuy niệm
Phật, nhưng tội lỗi vẫn y như cũ không
tránh khỏi, lớn nhỏ ǵ đều có. Đây là đạo
lư ǵ vậy? Tập khí phiền năo từ vô thỉ kiếp
đến nay, công phu niệm Phật của chúng ta hiện
thời chưa thể đè nén phiền năo, nên mới có hiện
tượng này. Nếu đè nén phiền năo, tức là quư vị
niệm đến mức công phu thành phiến, chẳng c̣n
tạo tội lỗi nữa, đó là điều nhất
định. Nói cách khác, chỉ cần vẫn có lỗi lầm
nho nhỏ, chứng tỏ công phu của quư vị chưa
thành phiến. Công phu thật sự thành phiến, sẽ chẳng
có lầm lỗi, v́ quư vị thật sự có thể chế
ngự phiền năo, tập khí, quư vị có năng lực ấy.
Đạt đến mức Sự nhất tâm bất loạn
là đoạn được tập khí phiền năo, đoạn
hết Kiến Tư phiền năo. Đạt đến Lư
nhất tâm bất loạn là đại triệt đại
ngộ, minh tâm kiến tánh.
Nói đến chỗ này, tôi c̣n
có một câu kính khuyên các vị đồng tu. Trong Ngũ
Nghịch, Thập Ác, c̣n có một tội nặng sẽ
đọa địa ngục A Tỳ, đó là đại
vọng ngữ. Đại vọng ngữ là ǵ? Chính ḿnh
chưa chứng quả, bảo người khác tôi đă chứng
quả, đó là tội đọa địa ngục A Tỳ.
Ta tự ḿnh chưa khai ngộ, bảo người khác:
“Tôi đă khai ngộ”. Chưa chứng đạo, tự ḿnh
nói đă chứng đạo, tội lỗi ấy vô cùng nặng
nề, chẳng phải là vọng ngữ tầm thường,
mà là đại vọng ngữ. Do vậy, ngàn muôn phần
phải cẩn thận. Có những loại vọng ngữ
là Tăng Thượng Mạn, chẳng phải do kẻ ấy
cố ư, mà v́ không biết, ngu si! Trong quá khứ tôi đă gặp
một đồng tu, tu hành niệm Phật khá lắm, ông
ta đến nói với tôi là ông ta đă chứng quả A
La Hán. Ông ta chưa chứng đắc, tôi nói cách nào ông ta
cũng không tin. Tôi nói: “Thật sự chứng quả A La
Hán, sáu thứ thần thông đều trọn đủ”.
Khi ấy, chúng tôi đang ở trong nhà ông ta, nhà có xây tường,
tôi hỏi ông ta: “Bên ngoài xe chạy qua, có người, ông có
thấy rơ ràng hay không?” Ông ta nói: “Tôi không thấy”. Tôi nói:
“Trong tâm tôi nay đang nghĩ đến chuyện ǵ, ông có
biết hay không?” “Không biết!” Tôi nói: “Ông chẳng có Thiên
Nhăn Thông, chẳng có Tha Tâm Thông, ông chưa chứng quả A
La Hán”. Ông ta mới chịu phục. Tuy chẳng cố ư khởi
vọng ngữ, ông ta vô ư, tự ḿnh nghĩ như vậy,
lầm rồi! Lầm lẫn quá đỗi!
Do vậy, chúng ta thường
xuyên kiểm điểm chính ḿnh, trong tâm của chính ḿnh c̣n
có thị phi, nhân ngă, có tham, sân, si, mạn, chắc chắn
là phàm phu. Thứ ǵ cũng chưa đạt được,
mà huệ cũng chưa khai. Chưa có Định, lấy đâu
ra Huệ? Chưa có Định mà có Huệ th́ là cuồng
huệ, hại chết người! Trí huệ thật sự
từ tâm thanh tịnh sanh ra. Trong tâm chưa đạt
được thanh tịnh, trí huệ do đâu mà sanh? Nhất
định phải hiểu điều này. Ngàn vạn phần
đừng nên tạo tội lỗi!
(Sớ) Phản thị giai khí,
như hạ sở minh.
(疏) 反是皆器,如下所明。
(Sớ: Trái lại, đều là căn khí, sẽ
được giảng rơ như dưới đây).
“Phản
thị” là trái nghịch với những điều
đă nói ở trên. Nói cách khác, kẻ ấy có tín, có nguyện,
có hạnh, đấy là pháp khí trong pháp môn Tịnh Độ,
có thể nhận lănh pháp môn này, trong đời này chắc
chắn có thành tựu chẳng thể nghĩ bàn. Hôm nay
chúng tôi giảng tới đoạn này.
A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn
Nghĩa
Phần 39 hết
[1] Đại Bảo Tích Kinh (Mahā-ratnakūta-sūtra) gồm một trăm hai mươi quyển, do ngài Bồ Đề Lưu Chí dịch. Cổ đức giải thích: Do là các pháp Đại Thừa thâm diệu nên gọi là Bảo, do tụ tập vô lượng pháp môn nên gọi là Tích. Kinh được chia thành bốn mươi chín hội, trong ấy hai mươi ba hội (tám mươi quyển) do các vị dịch kinh thời Ngụy, Tấn, Nam Bắc Triều, Tùy, Đường dịch được gọi chung là Cựu Dịch; hai mươi sáu hội c̣n lại do ngài Bồ Đề Lưu Chí dịch được gọi chung là Tân Dịch. Nội dung kinh rất rộng, bao gồm Bát Nhă (chẳng hạn hội Văn Thù Sở Thuyết Bát Nhă), Tịnh Độ (hội Vô Lượng Thọ Như Lai), Luật Tông (hội Ma Ha Ca Diếp, hội Tam Tụ Luật Nghi), Bồ Tát hạnh, Mật giáo v.v...
[2] Ngũ cốc là năm loại hạt
chính dùng làm lương thực tại Trung Hoa. Sau này,
Ngũ Cốc là từ ngữ phiếm chỉ các loại
lương thực. Ngũ Cốc gồm: đạo (gạo
tẻ), thử (kê hạt lớn, proso millet), tắc (tiểu
mễ, kê hạt nhỏ, foxtail millet), mạch (lúa ḿ, bao gồm
các loại như hắc mạch, tiểu mạch, kiều
mạch v.v...), thục (đại đậu, tức đậu
nành).