A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa
阿彌陀經疏鈔演義
Phần 40
Chủ giảng:
Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt:
Minh Tiến, Huệ Trang và Đức Phong
Tập 79
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn
Nghĩa Hội Bản, trang một trăm hai mươi bảy:
(Huyền Nghĩa) Ư thị
khí trung, bối chi, phẩm chi, thành tam, thành cửu, cửu
chi hựu cửu, tam chi hựu tam, hựu tế phân chi, phục
ưng vô lượng, như nhị bộ trung thuyết.
(玄義) 於是器中,輩之品之,成三成九,九之又九,三之又三,又細分之,復應無量,如二部中說。
(Huyền Nghĩa: Trong
những người đúng là căn khí, lại chia ra thành
ba bậc và chín phẩm, từ mỗi phẩm trong chín phẩm
lại chia thành chín phẩm nhỏ hơn, từ mỗi bậc
trong ba bậc lại chia thành ba bậc nhỏ hơn. Nếu
phân chia tỉ mỉ hơn, sẽ là vô lượng như
trong hai bộ kinh đă nói).
Đoạn này nói về phẩm
vị trong Tây Phương Cực Lạc thế giới.
(Sớ) Thứ minh giai đẳng
dă.
(疏) 次明階等也。
(Sớ: Kế đến là nói phẩm vị).
“Thứ”
(次) là nói đến
đoạn thứ hai, “minh giai
đẳng”: Thuyết minh phẩm vị sai biệt
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới.
(Sớ) Bối giả, Đại Bổn tam bối,
phẩm giả, Quán Kinh cửu phẩm, cố viết “tam,
cửu”. Tam bối chi trung, phục tam bối chi, tắc
thành cửu bối. Cửu phẩm chi trung, phục cửu
phẩm chi, tắc thành bát thập nhất phẩm.
(疏) 輩者,大本三輩,品者,觀經九品,故曰三九。三輩之中,復三輩之,則成九輩。九品之中,復九品之,則成八十一品。
(Sớ: “Bối” là ba bậc
trong kinh Đại Bổn, “phẩm” là chín phẩm trong Quán
Kinh, nên nói là “ba bậc, chín phẩm”. Trong ba bậc, [mỗi
bậc] lại chia thành ba bậc nữa nên thành chín bậc.
Trong chín phẩm, [mỗi phẩm] lại chia thành chín phẩm
nữa, nên thành tám mươi mốt phẩm).
Trong “tam
bối” lại chia thành tam bối nữa, tam bối là
thượng, trung, hạ, trong bậc thượng có
thượng thượng, thượng trung, thượng
hạ, trong bậc hạ lại có hạ thượng, hạ
trung, và hạ hạ. Trong ba bậc,
lại chia mỗi bậc thành ba; do vậy, thành chín bậc.
Mỗi một phẩm trong chín phẩm lại chia thành chín
phẩm nữa nên thành tám mươi mốt phẩm.
(Sớ) Bối chi vô cùng, phẩm
chi bất dĩ, tắc thành bách thiên vạn ức bối phẩm,
cố viết “phục ưng vô lượng”.
(疏) 輩之無窮,品之不已,則成百千萬億輩品,故曰復應無量。
(Sớ: Bậc th́ vô
cùng, phẩm chẳng thể xiết, nên thành trăm ngàn vạn
ức bậc, phẩm; v́ thế, nói “nên lại là vô lượng”).
Đoạn này nói ra chân tướng.
B́nh thường, quư vị đọc kinh văn, dường
như phẩm vị trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới rất đơn giản, chỉ có ba bậc, chín
phẩm, trên thực tế, chẳng phải vậy! Giống
như học hành trong thế gian, trường học lại
phân ra bao nhiêu là lớp; dẫu trong cùng một lớp, khi
thi cử lại có bậc nhất, bậc nh́, bậc ba, một
mực sắp xếp thấp dần như thế. Những
điều này đều có ư nghĩa phẩm vị. Do công
phu của mỗi người văng sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới mỗi khác, nên phẩm vị
cũng nhiều, đó là chuyện hết sức hợp
lư.
(Sớ) Sở dĩ nhiên giả,
quân danh niệm Phật, đồng nhất văng sanh, nhi tu hữu
Sự Lư, công hữu cần nọa, tùy nhân cảm quả,
địa vị tự biệt.
(疏) 所以然者,均名念佛,同一往生,而修有事理,功有勤惰,隨因感果,地位自別。
(Sớ: Nguyên do là
tuy cùng gọi là niệm Phật, cùng là văng sanh, nhưng tu tập
có Sự và Lư, công phu có siêng năng hay biếng nhác, nhân nào cảm
lấy quả nấy, nên địa vị tự sai khác).
Nêu ra lư do v́ sao có nhiều phẩm
vị dường ấy! Người văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới công phu tu hành khác
nhau, có Sự, có Lư. Nói thật ra, Lư và Sự đều tốt
đẹp như nhau, nay chúng ta nh́n bằng con mắt thông
thường, đương nhiên hiểu Lư tốt đẹp
hơn chẳng hiểu Lư nhiều, tốt đẹp ở
chỗ nào? Nói thật ra là một câu: “Chết sạch ḷng so đo, khăng khăng niệm
A Di Đà Phật”. Quư vị đă hiểu rơ Lư th́ mới
chết sạch ḷng so đo, mong ngóng, khiêm hư sát đất.
Nếu chẳng hiểu rơ Lư mà cũng có thể chết sạch
ḷng so đo, khăng khăng hành tŕ, quả báo đích thực
sẽ chẳng khác người hiểu Lư cho lắm. Bất
luận hiểu Lư hay không, đều phải niệm đến
mức Kiến Tư phiền năo đoạn sạch mới
có thể đắc Sự nhất tâm bất loạn, quư vị
phải ghi nhớ điểm này. Niệm Phật đến
mức phá một phẩm vô minh, chứng một phần
Pháp Thân, đó là vừa mới chứng đắc Lư nhất
tâm bất loạn. Bốn mươi mốt địa vị
Pháp Thân đại sĩ trong thế giới Tây
Phương đều là Lư nhất tâm. Chúng ta dùng kinh Hoa
Nghiêm để phân định, phán đoán, th́ từ Thập
Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập
Địa, cho đến Đẳng Giác tại Tây
Phương Cực Lạc thế giới đều là Lư
nhất tâm bất loạn. Do điều này có thể biết:
Công phu Lư nhất tâm sâu hay cạn, [phẩm vị] sẽ
sai khác rất nhiều. Lư nhất tâm là như thế th́ Sự
nhất tâm và công phu thành phiến chẳng ra ngoài lệ ấy,
cũng đều có cùng một t́nh h́nh. V́ thế, công phu phải
siêng năng, dũng mănh, phải nỗ lực, phải dùng
thời gian quư báu để niệm Phật, như vậy
th́ khi cảm được quả báo trong Tây Phương
Cực Lạc thế giới, tự nhiên địa vị
sẽ khác nhau!
(Sớ) Cố Niết Bàn thuyết
thập nhị nhân duyên, tằng vô nhị pháp, nhi hạ trí
quán giả, đắc Thanh Văn Bồ Đề, trung trí
quán giả, đắc Duyên Giác Bồ Đề, thượng
trí quán giả, đắc Bồ Tát Bồ Đề.
Thượng thượng trí quán giả, đắc Phật
Bồ Đề.
(疏) 故涅槃說十二因緣,曾無二法。而下智觀者,得聲聞菩提。中智觀者,得緣覺菩提。上智觀者,得菩薩菩提。上上智觀者,得佛菩提。
(Sớ: V́ thế, kinh Niết Bàn nói mười hai
nhân duyên chưa hề là hai pháp, nhưng kẻ hạ trí
quán sát [mười hai nhân duyên ấy] đắc Thanh
Văn Bồ Đề, kẻ trung trí quán bèn đắc
Duyên Giác Bồ Đề, bậc thượng trí quán bèn
đắc Bồ Tát Bồ Đề, bậc thượng
thượng trí quán bèn đắc Phật Bồ Đề).
Cùng là một chuyện, tùy theo
trí huệ của mỗi người sâu hay cạn mà chia
thành nhiều phẩm bậc. “Hạ
trí” vẫn c̣n có trí huệ, chẳng thể nói là không có
trí huệ, [trí huệ] lớn hơn chúng ta nhiều lắm,
chúng ta ngay cả hạ trí cũng chẳng có! Bậc hạ
trí quán thẳng vào bản thể, kinh Phật thường
nói “vạn pháp vô thường,
vạn pháp đều không”. Người ấy quán
mười hai nhân duyên, từ mười hai nhân duyên đạt
được khải thị. Cách quán như vậy thành tựu
Thanh Văn là cùng, là Tiểu Thừa A La Hán mà thôi. [Lời Sớ
giảng] “hạ trí thị
đản giải Thiên Không, nhi căn sảo độn giả”
(hạ trí là kẻ chỉ hiểu lệch lạc lư Không,
căn cơ hơi độn), tức là người
căn tánh hơi độn, cho nên chỉ thấy Sanh Diệt
Thập Nhị Nhân Duyên. Theo [cách phán định] Tứ Giáo
của tông Thiên Thai, Sanh Diệt Thập Nhị Nhân Duyên là
nông cạn nhất. “Trung trí”:
Trí huệ cao hơn A La Hán, “diệc
đản giải thiên Không, nhi căn đại lợi giả”
(cũng chỉ hiểu lệch lạc lẽ Không, nhưng
căn tánh nhạy bén hơn nhiều), căn tánh nhạy bén,
thông minh hơn bậc A La Hán. Đối với thập nhị
nhân duyên, họ quán thấy Bất Sanh Diệt Nhân Duyên,
đối với pháp nhân duyên rất sâu, người này thấu
hiểu, lư giải cao hơn A La Hán rất nhiều. Người
như thế trở thành Bích Chi Phật, tức Duyên Giác, “Duyên Giác Bồ Đề”, Bồ
Đề có nghĩa là giác ngộ.
Chữ “thượng trí” chỉ Bồ Tát, chỉ có Bồ
Tát mới thật sự hiểu rơ Trung Đạo, mới
thật sự thông hiểu Trung Đạo. Ngài quán mười
hai nhân duyên, cách nh́n cao hơn hai loại trước nhiều
lắm, Ngài thấy mười hai nhân duyên là nhân duyên sanh diệt
chẳng thể nghĩ bàn, tâm lượng rộng lớn;
do vậy, cũng thành hạnh môn rộng lớn, lục
độ, vạn hạnh. Đó là “đắc Bồ Tát Bồ Đề”, thành tựu
trí huệ của Bồ Tát. Chữ “thượng thượng trí” chỉ Phật,
nơi quả địa Như Lai, không chỉ lư giải
thấu triệt Trung Đạo, mà c̣n thật sự đạt
được sự thanh tịnh nơi nhân duyên chẳng
sanh diệt không thể nghĩ bàn, thanh tịnh là Phật
pháp. Do hết thảy Phật pháp đều thành tựu,
nên “đắc Phật Bồ
Đề”. Do điều này biết rằng: Cùng là một
pháp Thập Nhị Nhân Duyên, từ vô minh duyên hành, hành duyên
thức, thức duyên danh sắc, cho đến lăo tử,
cùng là pháp Thập Nhị Nhân Duyên, mà mỗi người
trông thấy, thấu hiểu, ứng dụng đều
khác nhau. Đây là nêu ra một tỷ dụ để nói [mà
thôi].
(Sớ) Thị tắc chư
thiên cộng khí, thực hữu tinh thô.
(疏) 是則諸天共器,食有精粗。
(Sớ: Cho nên
chư thiên cùng chung một đồ đựng, mà thức
ăn có tinh hay thô).
Mấy câu này xuất phát từ
kinh Tịnh Danh, tức là kinh Duy Ma Cật. Kinh Duy Ma Cật
nói:
Phải biết trong hết thảy
các pháp thế gian và xuất thế gian, chỉ có một
pháp này là thật. Trong lúc b́nh thường, quư vị hăy lặng
lẽ suy tưởng: Thế gian này là giả, thứ ǵ
cũng đều là giả, chẳng có thứ ǵ là của
chính ḿnh, kể cả thân thể này. Quư vị mỗi
đêm đi ngủ, khi ngủ say, quên mất cái thân này,
người ta khiêng cái thân của quư vị đi, quư vị
cũng không biết! Ngay cả cái thân cũng không phải
là chính ḿnh, huống ǵ vật ngoài thân! Nhất định
phải giác ngộ, trong kinh đức Phật thường
nói: “Vạn ban tương bất
khứ, duy hữu nghiệp tùy thân” (muôn thứ không
đem được, chỉ có nghiệp theo thân). V́ thế,
khởi tâm, động niệm, tạo tác, chúng ta phải
đặc biệt lưu ư, phải thật sự làm
được “đừng làm
các điều ác, vâng làm các điều lành”.
Trong kinh, đức Phật
đă nói tiêu chuẩn thiện - ác gồm rất nhiều
thứ, những tiêu chuẩn ấy đều là so sánh nhằm
chỉ bày rơ ràng; chúng tôi cũng nêu ra một trường hợp
để nói: Chư thiên thiện hơn con người
chúng ta, chư thiên tu Thập Thiện, tu từ - bi - hỷ
- xả tứ vô lượng tâm, cao minh hơn nhân gian chúng
ta tu Ngũ Giới khá nhiều; nhưng chư thiên so với
A La Hán, thậm chí so với Tu Đà Hoàn, họ vẫn chẳng
thiện bằng. V́ sao? Hưởng hết phước trời,
vẫn đọa trong tam đồ. Tu Đà Hoàn chẳng
đọa tam đồ, nh́n theo khía cạnh này, Tu Đà
Hoàn thiện, chư thiên bất thiện! Tu Đà Hoàn chẳng
bằng A La Hán, A La Hán chẳng bằng Bích Chi Phật. Thiện,
ác có nhiều đẳng cấp. Kinh luận nêu ra một
tiêu chuẩn tối thiểu, chúng ta phải ghi nhớ: Phàm
là chuyện lợi ích chúng sanh th́ là thiện, có lợi cho
người khác. Đối với điều lợi này,
cần phải nói rơ thêm: Đó là lợi ích trong một
đời này. Đời này được hưởng sự
tốt đẹp, đời sau vẫn được
hưởng sự tốt đẹp th́ mới là lợi ích
chân chánh. Hiện thời được lợi, đời
sau chịu khổ báo, đó là bất thiện. Thiện
chân chánh th́ hiện tại được lợi ích, trong
đời sau vẫn được lợi ích. Hễ tự
tư tự lợi th́ là ác. V́ sao nói tự tư tự lợi
là ác? Tục ngữ Trung Quốc có câu: “Nhân bất vị kỷ, thiên tru địa diệt”
(người không v́ chính ḿnh, trời tru, đất diệt),
có ai chẳng v́ chính ḿnh? V́ sao Phật pháp nói “v́ chính ḿnh là
ác”? Quư vị phải hiểu: V́ hết thảy chúng sanh thật
sự là v́ chính ḿnh. Đạo lư này rất sâu, quư vị phải
tham cứu tỉ mỉ.
Quư vị có thể v́ hết thảy
chúng sanh, hết thảy chúng sanh sẽ tự nhiên v́ quư vị,
tự tại lắm! Hết thảy chúng sanh đều v́
quư vị, quư vị hưởng phước báo bất tận. Quư vị chẳng gặp
lúc khó khăn; nhà Phật chúng ta bảo là: “Pháp duyên thù thắng”.
Pháp duyên của quư vị tốt đẹp! Đến bất
cứ nơi đâu cũng đều có người tiếp
đăi, đều có người chăm sóc. Làm sao tu
được như vậy? Quư vị khởi tâm động
niệm đều v́ người khác, quư vị mới
đạt được quả báo ấy. Niệm niệm
chỉ v́ chính ḿnh, chẳng nghĩ đến người
khác, sẽ chẳng đạt được quả báo
thù thắng ấy! Chúng ta phải có khái niệm về tiêu
chuẩn thiện ác, hăy nghĩ thay người khác cho nhiều,
hăy làm giùm người khác cho nhiều, người ấy
nhất định có phước. Có thể quên mất bản
thân, phước ấy càng lớn, v́ sao? Phá Ngă Chấp! Phá
Ngă Chấp th́ niệm Phật bèn là Sự nhất tâm bất
loạn. Tiến hơn bước nữa là Pháp Chấp
cũng phá, quư vị đắc Lư nhất tâm bất loạn,
trong hàng Bồ Tát, địa vị ấy được
gọi là Pháp Thân đại sĩ. Do vậy, nhất định
phải nỗ lực đoạn ác tu thiện.
(Sớ) Tam thú đồng hà,
độ phân thâm thiển, yên khả vu dă.
(疏) 三獸同河,渡分深淺,焉可誣也。
(Sớ: Ba con thú cùng
vượt sông, thân h́nh ch́m trong nước sâu hay cạn,
há có thể dối gạt ư?)
Tỷ dụ này xuất phát từ
Thiền Tông Tập của Vĩnh Gia đại sư. “Tam thú” là voi to, ngựa, và thỏ,
ba con thú vượt sông. Thể tích của chúng khác nhau. Con
thỏ bơi trên mặt nước, con ngựa qua sông,
thân thể nó nặng hơn, nên nước ngập đến
nửa ḿnh, ch́m trong nước sâu hơn. Voi lớn thân thể
càng nặng, nó đi từng bước trên đáy sông
để vượt qua. Đấy là nói sâu hay cạn khác
nhau, tỷ dụ ba hạng người căn tánh khác nhau,
đạt được quả vị sâu hay cạn khác
nhau!
(Sớ) Thảng kỳ tự phụ
lợi căn, văn thuyết niệm Phật nhược
tương mỗi yên, ninh tri bối phẩm thiên uyên, tồn
hồ kỳ nhân nhi dĩ. Chung bất niệm Phật,
độn trí nhữ dă, hiếu kỳ phụ thắng chi
sĩ, hạnh b́nh khí nhi tư chi.
(疏) 儻其自負利根,聞說念佛若將浼焉,寧知輩品天淵,存乎其人而已。終不念佛,鈍置汝也,好奇負勝之士,幸平氣而思之。
(Sớ: Nếu kẻ nào tự phụ là lợi
căn, nghe nói đến niệm Phật bèn cảm thấy
như là phải quỵ lụy, đâu biết phẩm bậc
[trong cơi Cực Lạc] khác nhau một trời một vực,
tùy thuộc mỗi người mà thôi! Trọn chẳng niệm
Phật th́ ông được xếp vào hàng ngu độn;
mong bậc ham chuộng quái lạ, cao siêu, hăy b́nh tĩnh suy
nghĩ).
Mấy câu này nhằm khuyên lơn,
khích lệ chúng ta, hăy hiểu t́nh h́nh thật sự bên thế
giới Tây Phương, khích phát chúng ta phải tinh tấn
chẳng lười nhác, nỗ lực tu tŕ. Đây là nói giả
thiết, nếu quư vị tự cho ḿnh là hạng căn
tánh rất bén nhạy, “văn
thuyết niệm Phật nhược tương mỗi
yên” (nghe nói đến niệm Phật bèn cảm thấy
như là quỵ lụy), chữ “mỗi”
(浼) có nghĩa cầu cạnh người
khác, quỵ lụy người khác. V́ kẻ lợi căn
nghe nói đến pháp môn này, chẳng muốn tu học, v́
sao? Bản thân ta tu hành dựa vào chính ḿnh để thành công
cớ ǵ c̣n phải quỵ lụy A Di Đà Phật? Pháp
môn này gọi là pháp môn Nhị Lực, [phải hiểu rơ] v́
lẽ ǵ ta phải trông cậy A Di Đà Phật? Do vậy,
ở chỗ này, chúng ta nhất định phải tự
hiểu: Phẩm loại trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới quá nhiều, hoàn toàn phụ thuộc chính
ḿnh tranh thủ như thế nào?
Nếu quư vị tu học các
pháp môn khác, chẳng tin tưởng pháp môn Niệm Phật,
cũng chẳng phát nguyện; ở đây, Liên Tŕ đại
sư nói: Người ấy thật sự là độn
căn, chẳng phải là kẻ thông minh. Trong lời chú
đại lược cho Vô Lượng Thọ Kinh, thầy
Lư có viết: “Chẳng cầu
đới nghiệp văng sanh, chẳng ngu, ắt cuồng!” Đọc
đến đoạn kinh văn ấy rồi mới có cảm
xúc sâu xa, v́ kinh Vô Lượng Thọ đă nêu ra sự thật:
Trong kinh có nói tới những vị Bồ Tát đời
đời kiếp kiếp đều phát Bồ Đề
tâm, tu Bồ Tát đạo, trong đời quá khứ từng
cúng dường bốn trăm ức Phật, rốt cuộc
vẫn bị mê khi cách ấm, vẫn bị thoái chuyển.
V́ thế, thầy Lư nói: “Chẳng
cầu đới nghiệp văng sanh, chẳng ngu, ắt cuồng!”
Ở đây cũng có cùng ư nghĩa ấy, khuyến khích, cổ
vũ chúng ta phải phản tỉnh cẩn thận, những
pháp môn khác có thật sự tu được hay chăng?
Tham Thiền có thể đắc
Thiền Định, ngồi xếp bằng, ngồi
mười ngày, nửa tháng không đứng dậy, chẳng
cần ăn cơm, cũng không cần uống nước,
làm được như vậy; nhưng thưa cùng quư vị:
Chẳng ra khỏi tam giới, chẳng thể liễu sanh
tử, chẳng đoạn phiền năo! Nếu công phu Thiền
Định sâu hơn một chút, biết hiện tại,
quá khứ, vị lai, chẳng lầm nhân quả, nhưng vẫn
có nhân quả báo ứng, chắc chắn chẳng sánh bằng
Hạ Phẩm Hạ Sanh đới nghiệp văng sanh. V́ sao
chúng ta chẳng chọn lấy Tây Phương Tịnh
Độ? Chọn lấy Tây Phương Tịnh Độ
mới thật sự là viên măn rốt ráo.
Điều kiện để
giữ lấy Tịnh Độ là ba món tư lương:
Thứ nhất là tin sâu chẳng nghi, thứ
hai là chịu phát đại nguyện thiết tha, trong một
đời này, ta chỉ có một nguyện vọng: “Gặp
A Di Đà Phật, sanh về Tây Phương Cực Lạc
thế giới”. Chúng ta hễ nghĩ bèn nghĩ đến
A Di Đà Phật, nếu niệm bèn niệm A Di Đà Phật,
những thứ khác thảy đều buông xuống,
như vậy th́ mới được. Nếu nghĩ
đến chuyện khác, tức là xen tạp. Dẫu suốt
ngày từ sáng đến tối thọ tŕ danh hiệu,
trong ấy vẫn có xen tạp, v́ sao? Quư vị nghĩ
đến chuyện khác! V́ thế, phải ghi nhớ: Ngàn
vạn phần đừng tơ tưởng! Nếu quư vị
nghĩ đến người nhà quyến
thuộc hiện thời, th́ người nhà quyến thuộc
nói chung phải chia ĺa, phải giă biệt, chẳng có cách
nào viên măn, chẳng có cách nào thường tụ họp,
đó là chuyện chẳng thể được! Chỉ
có văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới th́ sẽ
thường tụ họp. V́ thế, bản thân quư vị
niệm Phật, người trong nhà chẳng chịu niệm
Phật, quư vị hăy nêu gương cho họ thấy, họ
sẽ niệm!
Trong cuốn Niệm Phật Luận,
lăo pháp sư Đàm Hư có kể chuyện cư sĩ Trịnh
Tích Tân, ông ta học Phật rất kiền thành, buông bỏ
hết sự nghiệp, chẳng cần tới nữa, hằng
ngày niệm Phật. Ông ta biết giảng kinh, đến
các nơi giảng kinh, thuyết pháp cho người khác, em trai
ông ta hết sức bất măn. Sau này, khi ông ta văng sanh, người
em trai thấy ông ta lúc văng sanh chẳng ngă bệnh, biết
trước lúc mất. Ông ta văng sanh nhằm lúc giảng
kinh; ông ta giảng kinh xong, đại chúng giải tán, c̣n lại
mười mấy người, ông ta nói với các đạo
hữu, nhờ họ thuê cho ông ta một căn nhà. Kết
quả là những đạo hữu đó cảm thấy
rất lạ lùng: “Ông nói ông sắp ra đi, thuê nhà để
làm ǵ?” Ông ta đáp: “Tôi chẳng đến nơi nào khác,
tôi sang Tây Phương Cực Lạc thế giới. Chết
ở nhà người khác chẳng tiện, ông hăy thuê nhà giùm
tôi”. Các đồng tu nghe chuyện này, bảo: “Chúng tôi chẳng
kiêng kỵ, đến nhà tôi tốt hơn”. Mỗi người
đều hoan nghênh ông ta: “Chúng tôi chẳng kiêng kỵ, ông
thật sự có bản lănh ấy”. Đây chẳng phải
là người đơn giản! Ông ta lại chẳng bị
bệnh. Được rồi! Trịnh Tích Tân liền nhận
lời, ở nhà một người bạn. Khi lâm chung, các
bạn bè trợ niệm cho ông ta, c̣n bảo ông ta: “Cổ
nhân văng sanh đều nói mấy câu kệ để làm kỷ
niệm, ông cũng nên đọc cho chúng tôi một bài kệ”.
Trịnh cư sĩ nói: “Không cần, thấy
tôi như thế này là được rồi”. Mọi
người niệm Phật cho ông ta mười lăm
phút, ông ta qua đời. Em trai ông ta thấy như vậy mới
giác ngộ, cho nên cũng dốc hết tánh mạng niệm
Phật, ba năm sau cũng biết trước thời khắc
văng sanh. Đó là độ người nhà!
V́ thế, chính ḿnh thật sự
có thành tựu, nhất định sẽ hóa độ một
phương. Đối với những chỗ giống
như vậy, chúng ta phải nghiêm túc suy nghĩ nhiều
phen, học Phật, bất cứ một pháp môn nào chẳng
bằng niệm Phật. Niệm Phật mà cái tâm của quư
vị chưa thật ổn th́ phải nghiên cứu kinh
điển cho nhiều. Nghiên cứu những kinh điển
nào? Kinh điển quá nhiều, ở nơi đây chúng tôi in
một cuốn sách lớn, tức là đem ba thứ chú giải
kinh A Di Đà in gộp chung, sách ấy đáng để
nghiên cứu. Bản hội tập kinh Vô Lượng Thọ
của lăo cư sĩ Hạ Liên Cư hết sức hay. Kinh
Vô Lượng Thọ có năm bản dịch khác nhau; thật
sự nghiên cứu kinh Vô Lượng Thọ th́ vẫn phải
tham khảo các bản dịch gốc.
(Huyền Nghĩa) Tổng thâu giả.
(玄義) 總收者。
(Huyền Nghĩa: Nói tóm lại).
Đây là lời tổng kết,
tổng kết của cả chương này.
(Huyền Nghĩa) Đản tŕ
Phật danh, tất sanh bỉ quốc.
(玄義) 但持佛名,必生彼國。
(Huyền Nghĩa:
Chỉ tŕ danh hiệu Phật, ắt sanh về cơi kia).
Ngữ khí hết sức khẳng
định, nhất định sanh về thế giới
Tây Phương.
(Huyền Nghĩa) Tắc hoặc
cao, hoặc hạ, hoặc thánh, hoặc phàm.
(玄義) 則或高或下,或聖或凡。
(Huyền Nghĩa:
Dù cao hay thấp, dù thánh hay phàm).
Do v́ phẩm vị khác nhau, cho
nên có cao - thấp, có thánh - phàm. Trong cơi Phàm Thánh Đồng
Cư là phàm, từ cơi Phương Tiện Hữu Dư trở
lên là thánh, tức là thánh nhân. Nếu [xét theo] cơi
Phương Tiện Hữu Dư trong thế gian này, họ
bằng với A La Hán, tức bậc thánh trong Tiểu Thừa,
nhưng trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm, họ là bậc Bồ
Tát kiến tánh. Đó gọi là Tam Hiền Thập Thánh.
(Huyền Nghĩa) Năi chí hoặc
tín, hoặc nghi, hoặc tán, hoặc hủy, tri hữu bỉ
Phật, tiện thành thiện căn, đa kiếp, đa
sanh, câu mông giải thoát.
(玄義) 乃至或信或疑,或讚或毀,知有彼佛,便成善根,多劫多生,俱蒙解脫。
(Huyền Nghĩa: Cho
đến dù tin hay ngờ, hoặc tán thán, hoặc hủy
báng, do biết có vị Phật ấy, liền trở thành
thiện căn nhiều kiếp nhiều đời, đều
được giải thoát).
Mấy câu này quả thật chẳng
thể nghĩ bàn!
(Sớ) Cao hạ giả, dĩ thượng phẩm
tức đăng bỉ ngạn, hạ phẩm do thắng
thiên cung, tắc phẩm vị tuy thù, giai đắc bất
thoái cố.
(疏) 高下者,以上品即登彼岸,下品猶勝天宮,則品位雖殊,皆得不退故。
(Sớ: “Cao, thấp”:
Do thượng phẩm liền lên bờ kia, hạ phẩm
vẫn hơn cung trời, tức là phẩm vị tuy khác
biệt, nhưng đều đắc bất thoái).
Đây là chỗ chẳng thể
nghĩ bàn của Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Thượng Phẩm Thượng Sanh bèn “tức đăng bỉ ngạn” (liền vượt
lên bờ kia), “bỉ ngạn”
là thành Phật. Hễ đến Tây Phương Cực Lạc
thế giới bèn thành Phật. Trong bài kệ tán Phật [chúng
ta] thường niệm, có câu: “Hoa
khai kiến Phật ngộ Vô Sanh”. Đấy chính là
Thượng Phẩm Thượng Sanh, hễ văng sanh bèn
thành Phật. “Hạ phẩm”
là nói tới hạ phẩm trong cơi Phàm Thánh Đồng
Cư, là địa vị thấp nhất trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới, hưởng
phước báo vượt trỗi thiên cung. Chữ “thiên cung” chỉ Dục Giới,
Sắc Giới, thậm chí bao gồm cả Vô Sắc Giới.
V́ sao? Dục Giới thiên có ngũ suy[1], vẫn phải
đọa lạc. Trời Tam Thiền có hỏa tai, thủy
tai, phong tai. Cổ nhân nói: “Túng
nhiên tu đáo Phi Phi Tưởng” (dẫu tu lên đến
cơi trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ), đó
là Vô Sắc Giới, là tầng cao nhất trong hai
mươi tám tầng trời, đă đến cơi trời
Phi Phi Tưởng, “bất
như Tây Phương quy khứ lai” (chẳng bằng trở
về Tây Phương), chẳng sánh bằng Hạ Phẩm
Hạ Sanh trong Tây Phương Cực Lạc thế giới.
V́ Hạ Phẩm Hạ Sanh trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới không có tướng ngũ suy, không bị lui
sụt, không có thiên tai, hai mươi tám tầng trời làm
sao có thể sánh bằng? Đó là “hạ phẩm do thắng thiên quốc” (hạ phẩm
văng sanh vẫn c̣n hơn cơi trời).
“Tắc
phẩm vị tuy thù, giai đắc bất thoái cố”
(tức là phẩm vị tuy sai khác, nhưng đều
đắc bất thoái): Đây là chỗ chẳng thể
nghĩ bàn nhất của Tây Phương Cực Lạc thế
giới. Trong mười phương thế giới không
có chuyện này, chỉ có Tây Phương Cực Lạc thế
giới là có, họ bất thoái chuyển. Không chỉ bất
thoái chuyển, mà trong kinh c̣n nói rất rơ ràng: Viên chứng
ba món Bất Thoái, hăy đặc biệt chú ư chữ Viên! Thông
thường, trong thế giới của chúng ta, hoặc là
nói theo các cơi Phật trong mười phương, đều
giống nhau, nhất định phải đoạn sạch
tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc trong ba cơi mới
chứng Vị Bất Thoái, đó là địa vị chẳng
lui sụt, tức là vĩnh viễn không lui xuống ba ác
đạo, quư vị ở trong hai đường nhân
thiên, đó là Vị Bất Thoái. Sau khi đă đoạn Kiến
Tư phiền năo, chứng quả A La Hán, hồi Tiểu,
hướng Đại, khi ấy mới chứng đắc
Hạnh Bất Thoái, chẳng dễ dàng! “Hạnh” là tu hành, quyết định chẳng
lui sụt xuống Nhị Thừa, tức là chẳng lùi xuống
Tiểu Thừa. Môn Bất Thoái thứ ba cần phải
phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân, mới
đạt đến Niệm Bất Thoái. Đó là nói về
ba thứ Bất Thoái.
Nói thật ra, ai đắc ba thứ
Bất Thoái? Bậc Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, Ngài
đắc cả ba thứ Bất Thoái này. Người Hạ
Phẩm Hạ Sanh trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới cũng có ba thứ Bất Thoái. Không chỉ có ba thứ
Bất Thoái, mà c̣n viên chứng ba thứ Bất Thoái. Chữ
Viên này phải giải thích ra sao? Tôi vừa mới nói
đó thôi! Sơ Trụ Bồ Tát tuy chứng ba thứ Bất
Thoái, nhưng chưa viên măn. Chứng viên măn ba thứ Bất
Thoái là ai? Bậc Đẳng Giác Bồ Tát trong Viên Giáo,
như Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ
Tát, Văn Thù, Phổ Hiền, Di Lặc Bồ Tát, Địa
Tạng Bồ Tát mới viên chứng ba thứ Bất
Thoái. V́ thế, hễ văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới, các thứ hưởng thụ và cảnh giới
chẳng khác các vị Đẳng Giác Bồ Tát cho mấy,
chuyện tốt đẹp như vậy t́m ở đâu
ra? Tra duyệt khắp hết thảy kinh điển, chẳng
thấy Thích Ca Mâu Ni Phật nói như vậy [trong các kinh
khác]. Nh́n vào các thế giới chư Phật trong mười
phương, cũng chẳng có chuyện này. V́ thế, Tây
Phương Cực Lạc thế giới được
gọi là “pháp khó tin”, thật sự khiến người
ta khó tin!
Quư vị phải nghiêm túc nghiên
cứu những chú sớ kinh luận, mục đích chẳng
ngoài khiến cho chúng ta chết sạch ḷng mong ngóng, kiên định
nơi pháp môn này. Công đức Niệm Phật chẳng thể
nghĩ bàn! Niệm Phật có thể khử tà, đă có rất
nhiều tấm gương [chứng tỏ niệm Phật]
có thể xua đuổi yêu ma, quỷ quái, cho nên một câu
Phật hiệu là được rồi!
(Sớ) Thánh phàm giả, dĩ cụ
phược phàm phu, đản đắc văng sanh, tức dữ
chư đại Bồ Tát câu hội nhất xứ, tắc
chung đương thành thánh cố, thử chuyên cử kỳ
thuận giả.
(疏) 聖凡者,以具縛凡夫,但得往生,即與諸大菩薩俱會一處,則終當成聖故,此專舉其順者。
(Sớ: Thánh phàm: Do
hàng phàm phu đầy dẫy triền phược, chỉ
cần được văng sanh liền ở cùng một chỗ
với các vị đại Bồ Tát, nên rốt cuộc sẽ
thành thánh. Đây là chuyên nói về những kẻ thuận
theo pháp môn này).
Thế giới Tây Phương
đặc biệt, hễ văng sanh sẽ được A
Di Đà Phật và Quán Âm, Thế Chí đến tiếp
đón. Sau khi đă được đón về Tây
Phương Cực Lạc thế giới, quư vị hằng
ngày ở chung với Phật, Bồ Tát. Chắc quư vị
cũng hoài nghi: Phật, Bồ Tát sao lại có nhiều thời
gian như vậy để bầu bạn với tôi?
Đúng là các Ngài chẳng rời quư vị, thật ra, hóa
thân bầu bạn với quư vị, các Ngài có vô lượng
vô biên chẳng thể nghĩ bàn hóa thân. Tuy ở trong búp
sen, sen c̣n chưa nở, chư Phật Bồ Tát và hải
hội đại chúng đều hóa thân trong ấy, quư vị
hằng ngày ở cùng chỗ với Phật, Bồ Tát.
Đó là cùng với các vị thượng thiện nhân ở
một chỗ, các vị thượng thiện ấy chính
là Đẳng Giác Bồ Tát. Tam Hiền Thập Thánh là Thiện,
thiện nhất trong các vị thiện nhân, thượng
thiện là Đẳng Giác Bồ Tát. Quư vị ở cùng một
chỗ với các Ngài. Do đây có thể biết, sớm muộn
ǵ quư vị cũng sẽ thành Phật. Đây là chuyên nói về
“thuận”, thuận là những
người đầy đủ Tín - Hạnh - Nguyện,
tất nhiên là như thế. Tiếp theo đây, luận về
những kẻ bất thuận.
(Sớ) Hạ ngôn tín nghi tán hủy.
(疏) 下言信疑讚毀。
(Sớ: Tiếp đó, nói về kẻ tin hay ngờ,
tán thán hay hủy báng).
Hoặc
là tin tưởng, hoặc hoài nghi, hoặc là khen ngợi,
hoặc là hủy báng, đều chẳng sao cả!
(Sớ) Tắc kiêm vi thuận, vô
bất hoạch ích dă.
(疏) 則兼違順,無不獲益也。
(Sớ: Tức là kẻ
chống trái lẫn kẻ thuận theo, chẳng ai không
đạt được lợi ích).
Không ai chẳng đạt
được lợi ích! Trước kia, các sách Liễu
Phàm Tứ Huấn và Cảm Ứng Thiên đặc biệt
nhấn mạnh: Đừng nên tùy tiện vứt bỏ giấy
có chữ, càng chẳng nên tùy tiện vứt bỏ h́nh
tượng Phật. Trong thời đại quá khứ, lời
này tuyệt đối chính xác, v́ sao? Tượng Phật,
kinh sách chẳng dễ dàng có được. Trước kia,
kinh sách được in bằng bản khắc gỗ, phải
đục chạm từng chữ một; khi in th́ dùng mực
bằng chất muội gỗ tùng để bôi lên [khuôn gỗ],
đem từng trang giấy miết lên khuôn in, rất tốn
công. Một người thợ in mỗi ngày in được
mười cuốn sách là giỏi lắm rồi. Nếu in
xong xuôi mười cuốn sách, đóng b́a đàng hoàng, sợ
rằng phải tốn thời gian đôi ba ngày, sách chẳng
dễ ǵ có được! Một loại khác là sách chép
tay, khi không có sách th́ chép tay. V́ thế, kinh sách hết sức
quư báu. Chúng ta nhất định chẳng nên tổn hoại,
tự ḿnh đọc xong c̣n phải đưa cho người
khác đọc, công đức sẽ to lớn.
Thời đại hiện tại
khác hẳn. Kỹ thuật ấn loát phát triển, chúng ta hễ
in là mấy ngàn cuốn, mấy vạn cuốn, in mấy
ngày là xong. Do vậy, quan niệm học Phật của con
người hiện tại cũng khác thuở xưa. Trong
quá khứ, tượng Phật vẽ trên giấy, để
lâu ngày cũ đi, c̣n được tu bổ lại, c̣n
muốn để thờ. Hiện thời, hễ h́nh
tượng Phật cũ kỹ, chẳng có ai muốn. Làm
như thế nào? Đương nhiên phải thiêu đi,
làm như vậy không mắc tội. Kinh sách cũng giống
như vậy. Sách đă cũ rách cũng nên thiêu hủy,
nhưng hiện thời có trường hợp phải nên
chú ư, đó là những cuốn sách đóng gáy bằng chỉ,
năm tháng đă lâu bị hư hỏng, chúng ta có thể bồi
lại giống như bồi tranh vẽ, bồi thêm một
lớp nữa dưới mỗi trang, tối thiểu có
thể bảo tồn năm trăm năm, chúng ta gọi
loại này là “thiện bổn thư”. Nhất định
phải trân quư thiện bổn thư, chớ nên tùy tiện
khuyên điểm, vẽ, vạch; đối với loại
sách in bằng máy, chúng ta có thể vẽ, vạch, ghi chú, chứ
nguyên bản nhất định phải bảo tồn, chớ
nên tổn hoại.
Trong quá khứ, tôi từng đề
nghị in h́nh Phật trên báo. Tôi đến mỗi nơi
trên nước Mỹ đều khuyên các đồng tu nên
làm theo cách ấy, phát hành báo chí, tạp chí với số
lượng lớn nhất, in h́nh Phật trong đó khiến
cho người mỗi ngày đọc báo đều có
cơ duyên thấy Phật. Bên cạnh h́nh Phật cũng
phải ghi danh hiệu Phật: “Nam-mô A Di Đà Phật”,
khiến họ mỗi ngày niệm một tiếng, công
đức chẳng thể nghĩ bàn. Bất luận
người ấy có tin hay không, chủng tử của Tây
Phương Tịnh Độ đă gieo trong A Lại Da Thức
của người ấy. Có người nói: “Người
ta quăng những tờ báo vào đống rác”, đừng
bận tâm tới điều đó, đừng sợ.
“Như vậy là tạo tội nghiệp”, tạo tội
nghiệp cũng không sao! Nếu chúng sanh đều có thể
độ, ta tạo tội nghiệp ấy phải đọa
địa ngục, ta cam tâm t́nh nguyện, phải có tinh thần
như thế! Quư vị phải biết: Độ bao nhiêu
chúng sanh mà! V́ thế, phải có tấm ḷng “xả ḿnh v́
người khác”, đừng nên lúc nào cũng chỉ
nghĩ đến lợi ích của chính ḿnh, khiến Phật
pháp chẳng thể hoằng dương, chẳng thể
tiến triển. Tiếp theo đây, đại sư nêu
lên một câu vấn đáp nhằm giải thích vấn
đề này.
(Sớ) Vấn: Tín tán ưng
nhĩ, vân hà nghi hủy diệc viết thiện căn?
(疏) 問:信讚應爾,云何疑毀亦曰善根。
(Sớ: Hỏi: Tin
tưởng, khen ngợi, lẽ đương nhiên là
như vậy. Cớ sao ngờ vực, hủy báng mà
cũng nói là thiện căn?)
Kẻ tin tưởng, tán thán
đương nhiên là thiện căn, chúng ta chẳng hoài
nghi điều này. Kẻ chẳng tin, hủy báng, cớ
sao gọi là thiện căn cho được?
(Sớ) Đáp: Thường Bất
Khinh thọ kư chư nhân.
(疏) 答:常不輕授記諸人。
(Sớ: Đáp: Ngài
Thường Bất Khinh thọ kư cho mọi người).
Đây là Thường Bất
Khinh Bồ Tát (Sadāparibhūta
Bodhisattva).
Trong hội Lăng Nghiêm, ta cũng thấy Ngài, mà trong hội
Pháp Hoa, chúng ta cũng thấy Ngài. Thường Bất Khinh
Bồ Tát thọ kư cho người khác.
(Sớ) Giai đương tác Phật.
(疏) 皆當作佛。
(Sớ: Sẽ đều thành Phật).
Hết thảy chúng sanh, mỗi
chúng sanh đều sẽ thành Phật.
(Sớ) Nhân nghi bất tín, năi chí
đả mạ.
(疏) 人疑不信,乃至打罵。
(Sớ: Người
ta nghi ngờ chẳng tin, thậm chí đánh, chửi).
Người khác nghe nói lời ấy
chẳng tin tưởng, đánh đập, chửi bới
Thường Bất Khinh Bồ Tát. A! Bồ Tát nói lời
chân thật với quư vị, chẳng những quư vị
không tin tưởng, mà c̣n muốn đánh Ngài, lại c̣n
toan chửi bới Ngài. Tội lỗi ấy nặng lắm!
(Sớ) Nhân đọa địa
ngục, tùng địa ngục xuất, chung đắc
thành đạo.
(疏) 因墮地獄,從地獄出,終得成道。
(Sớ: Do vậy,
đọa địa ngục, từ địa ngục
thoát ra, rốt cuộc thành đạo).
Sau khi chịu hết tội báo
do đánh chửi Bồ Tát ấy, hạt giống do nghe
câu Phật pháp ấy thật sự là thiện căn,
vĩnh viễn chẳng tiêu mất, nó là hạt giống
Kim Cang trong bát thức tâm điền. Nhờ vào hạt giống
Kim Cang ấy, sau khi đă hết nghiệp báo, gặp
được duyên, bèn thật sự thành tựu, người
ấy có duyên với Phật. Do vậy, chúng ta phải hiểu
rơ đạo lư này. Tuy người khác chửi mắng, hủy
báng, chúng ta cũng chẳng bận ḷng, không cần phải
để ư. Chúng ta biết người ấy trong
tương lai nhất định sẽ thành Phật v́ hạt
giống Phật của người ấy đă được
gieo rồi!
(Sớ) Khởi phi mạ đả
tùng nghi nhi sanh, nghi tùng tri sanh, tri tùng văn sanh, văn tri hữu
Phật, nhiên hậu sanh nghi.
(疏) 豈非罵打從疑而生,疑從知生,知從聞生,聞知有佛,然後生疑。
(Sớ: Há chẳng
phải là chửi đánh do nghi sanh ra, nghi do biết sanh ra,
biết do nghe sanh ra. Nghe biết có Phật rồi mới
sanh ḷng nghi).
Tuy là sanh ḷng nghi, nhưng người
ấy đă nghe tới Phật.
(Sớ) Tằng vị văn chi,
nghi tùng hà phát? Nhân văn tri cố, Phật chi nhất tự,
dĩ uẩn thức điền, đầu chủng thổ
trung.
(疏) 曾未聞之,疑從何發。因聞知故,佛之一字,已蘊識田,投種土中。
(Sớ: Nếu chưa từng nghe, ḷng nghi do
đâu mà phát sanh? Do nghe biết, nên một chữ Phật
đă được chứa trong ruộng thức, như
gieo hạt giống xuống đất).
Công đức lợi ích là ở
chỗ này. V́ thế, người hiểu lư chẳng sợ
kẻ khác không tin, chẳng sợ người khác hủy
báng, chẳng sợ người khác lăng nhục, quư vị
hăy nên tận tâm tận lực giới thiệu Phật
pháp với hết thảy chúng sanh. Bất luận kẻ ấy
tin hay không, chúng ta nhất định phải làm như thế
này: Chỉ cần trong A Lại Da Thức của người
ấy có hạt giống này, sau nhiều đời nhiều
kiếp, người ấy nhất định gặp
duyên. Sau khi gặp duyên, nhất định thành tựu. Khi
người ấy thành tựu, nhất
định sẽ cảm kích quư vị. Đến khi thành
tựu, sẽ đắc Túc Mạng Thông, người ấy
sẽ thấy: “Trong bao nhiêu kiếp trước, người
đó đă giới thiệu Phật pháp cho ta”, người
ấy hết sức cảm tạ quư vị, v́ sao? Quư vị
đă độ người ấy. Nếu quư vị không
ban cho người ấy hạt giống đó, làm sao
người ấy có thể thành Phật? Do vậy, đừng
sợ, chẳng cần kiêng dè ǵ cả, chẳng cần phải
chấp trước ǵ cả!
(Sớ) Vũ lộ hốt
tư, chung hữu sanh nhật.
(疏) 雨露忽滋,終有生日。
(Sớ: Mưa,
sương chợt tưới tắm, rốt cuộc sẽ
có ngày sanh trưởng).
Hai câu này tỷ dụ trong
tương lai gặp duyên, là v́ người ấy có hạt
giống, hễ gặp được duyên, nhất định
sanh trưởng, nhất định thành tựu.
(Sớ) Bỉ hủy Phật giả,
nghĩa diệc như thị.
(疏) 彼毀佛者,義亦如是。
(Sớ: Ư nghĩa những
kẻ hủy báng Phật [mà vẫn được gọi
là thiện căn] cũng như thế đó).
Hủy báng Phật cũng có
đạo lư như vậy đó! Người hủy báng
Phật, tương lai sẽ đều thành Phật. Bất
quá là phải chịu tội một thời gian, có một
khoảng thời gian bị đọa lạc, nhưng khi
tội báo đă xong, nhất định gặp duyên, sẽ
thành thục.
(Sớ) Cố viết đản
tri hữu Phật, giai thành thiện căn, tất cánh giải
thoát, bất văn, bất tri, tắc bất thành chủng.
(疏) 故曰但知有佛,皆成善根,畢竟解脫,不聞不知,則不成種。
(Sớ: Cho nên nói chỉ
cần biết có Phật th́ đều thành thiện
căn, rốt ráo giải thoát. Chẳng biết, chẳng
nghe, sẽ chẳng thành hạt giống).
Mấy câu này hết sức quan
trọng, nhất là đối với pháp môn Tịnh Độ
trong Phật pháp. Là v́ quư vị nghe hết thảy các pháp
môn khác chẳng thể thành tựu trong một đời
này. Chẳng những không thể thành tựu trong một
đời này, mà nói thật ra, đời đời kiếp
kiếp đều chẳng thể thành tựu. Nếu muốn
thành tựu, vẫn là phải niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ. Các đồng tu nghe tôi nói kiểu này, chắc
cũng bảo tôi nói quá bạo miệng. Thật ra, tôi có
căn cứ để nói như thế, chẳng phải
là nói tùy tiện. Căn cứ ǵ vậy? Dựa theo Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Trong hội Hoa
Nghiêm đến cuối cùng, mười đại nguyện
vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về
Cực Lạc. Chúng ta nghe lời này phải giác ngộ!
Không ǵ chẳng phải là dùng văng sanh thế giới Cực
Lạc ḥng thành tựu rốt ráo. Nếu các thế giới
phương khác cũng rốt ráo thành tựu, hàng Đẳng
Giác Bồ Tát trong Viên Giáo cần ǵ phải văng sanh thế
giới Tây Phương? Không cần thiết! Văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới
chẳng có ư nghĩa ǵ cả! Chính v́ hàng Đẳng Giác Bồ
Tát của Viên Giáo mà c̣n phải phát nguyện văng sanh, chúng ta
mới biết thế giới Tây Phương mới
là quả báo rốt ráo chân thật viên măn.
Đă biết sự thật
này, v́ sao nay chẳng tu? Hiện thời chịu tu, đấy
là như trong kinh đă nói: Thiện căn, phước
đức, nhân duyên, ba điều kiện trọn đủ.
Không chỉ trọn đủ, mà thật sự là đại
thiện căn, đại phước đức, đại
nhân duyên. Thật sự hiểu rơ, thật sự tiếp
nhận, từ nay trở đi, chúng ta không chỉ tùy duyên
đối với pháp thế gian, tùy duyên là buông xuống.
Buông xuống chẳng phải là chuyện ǵ cũng không hỏi
tới. Quư vị phải hiểu rơ điều này. Buông xuống
là ǵ? Chẳng c̣n phan duyên nữa, đó là buông xuống. Từ
nay trở đi, tùy duyên sống qua ngày, dùng toàn bộ thời
gian để niệm Phật, phải hoàn tất đại
sự bậc nhất của chúng ta trong một đời
này.
Tất cả những kinh luận
trong pháp xuất thế gian cũng phải buông xuống, chẳng
cần phải nghiên cứu, phí tinh thần chẳng cần
thiết! Coi nhiều thêm mấy bộ kinh chẳng bằng
niệm nhiều mấy câu Phật, v́ sao? Quư vị xem kinh
nhiều chẳng thể tăng cao phẩm vị, niệm
Phật nhiều mới có thể tăng cao phẩm vị.
Xem kinh nhiều, tư tưởng tán loạn, quư vị sẽ
nghĩ kinh này nói như thế này, kinh kia nói như thế
nọ, v́ sao nói khác nhau? Đâm ra quư vị hoài nghi, thậm
chí chẳng tin tưởng, thoái chuyển; do vậy, chẳng
bằng không xem. Người niệm Phật chỉ đọc
ba kinh một luận, hoặc là xem Tịnh Độ Thập
Yếu, Ấn Quang Đại Sư Văn Sao, đủ rồi,
chẳng cần phải xem ǵ khác. Tu học như thế,
trong một đời này, chúng ta nhất định có
thành tựu. Hôm nay đă hết thời gian rồi!
Tập 80
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn
Nghĩa Hội Bản, trang một trăm hai mươi
chín:
Ngũ, năng thuyên Thể Tánh.
五、能詮體性
(Năm,
tŕnh bày Thể Tánh của kinh này).
Đây là môn thứ năm trong
mười môn, mà cũng là đoạn lớn thứ
năm, thuyết minh Thể Tánh của bộ kinh này. Thể
(體) là bản thể
của kinh, Tánh (性) là nói đến tánh chất của nó. Phần Huyền
Nghĩa trong đoạn này cũng hết sức trọng
yếu. Nếu hiểu rơ Thể Tánh của kinh này, chúng ta
mới tin tưởng. Dùng danh từ, thuật ngữ hiện
thời để nói, [luận định] Thể Tánh chính
là [nói rơ] đức Phật đă dựa trên đạo lư
nào để giảng bộ kinh này, cũng như [bàn định]
Ngài đă dựa trên căn cứ lư luận nào. Bạn nói
với chúng tôi nhiều như thế, quả thật có căn
cứ lư luận, đương nhiên chúng tôi sẽ tin
tưởng. Thể Tánh là nói về đạo lư và lư luận
dùng làm căn cứ cho bộ kinh này. V́ thế, điều
này khá quan trọng, đủ để khơi gợi, dấy
lên tín tâm cho chúng ta, chẳng đến nỗi hoài nghi pháp
môn này. Phần giải thích [Thể Tánh] được chia
thành bốn đoạn: Một là Tùy Tướng (luận
về sự phụ thuộc giữa văn tự và nghĩa
lư), hai là Duy Thức, ba là Quy Tánh, bốn là Vô Ngại. Đoạn
văn này có mức độ khá sâu v́ dính dáng đến
căn cứ lư luận. Do vậy, đây là đoạn khó
hiểu nhất trong phần Huyền Nghĩa.
Sơ, Tùy Tướng.
(Huyền Nghĩa) Dĩ tri thử
kinh bị cơ phổ biến, vị tri năng thuyên, hà
vi Thể Tánh.
初、隨相
(玄義) 已知此經被機普遍,未知能詮,何為體性。
(Thứ
nhất, Tùy Tướng.
Huyền
Nghĩa: Đă biết
kinh này thích hợp trọn khắp các căn cơ, nhưng
chưa biết kinh này dùng Thể Tánh nào để nói).
Trước
tiên, nêu vấn đề bằng phương thức vấn
đáp, nêu ra vấn đề này đầu tiên. Đoạn
trước nói về đối tượng thích ứng,
được tiếp dẫn bởi kinh này, chúng ta biết
người căn tánh thượng, trung, hạ, kinh đă
giảng hết sức hay: Chỉ cần có thể tin, có
thể nguyện, có thể hành, sẽ đều là đối
tượng được tiếp dẫn bởi pháp môn
này. Nói cách khác, quư vị chẳng tin, chẳng chịu phát
nguyện, chẳng chịu niệm Phật, sẽ không có
cách nào hết, chẳng phải là đối tượng
tiếp dẫn của pháp môn này. Nói điều này với
chúng ta hết sức rơ ràng, đơn giản, dễ hiểu.
Trong các đối tượng được tiếp dẫn,
bậc thượng thượng căn như Văn Thù Bồ
Tát, Phổ Hiền Bồ Tát đều là đối tượng
được tiếp dẫn. Kẻ hạ hạ căn,
thậm chí không biết chữ, chưa từng đi học,
chẳng hiểu biết ǵ, nghe pháp môn này rồi bèn chết
sạch ḷng mong ngóng, khăng khăng niệm Phật cũng
có thể thành công. Thậm chí, c̣n có súc sanh niệm Phật
văng sanh. Trong lịch sử Trung Quốc, qua các đời
đă ghi chép chẳng ít [những chuyện như vậy];
tôi tin là những chuyện không được ai ghi chép c̣n
nhiều hơn nữa. V́ thế, pháp môn này quả thật
rộng lớn, phổ biến, “bị
cơ phổ biến” (thích hợp trọn khắp
căn cơ), “bị” (被) có nghĩa là gia bị, hết sức
phổ biến.
Tiến
thêm bước nữa, chúng ta muốn hiểu, “vị tri năng thuyên”
(chưa biết kinh này thuật nói), “thuyên” (詮) là nói,
thuật, những văn tự, ngôn ngữ được
nói trong kinh này “hà vi Thể Tánh”
(Thể Tánh như thế nào), Thể là Lư, tức là đạo
lư của bản kinh, căn cứ đạo lư của bộ
kinh này là ǵ? Thể và Tánh đều nói về Lư, dưới
đây là câu trả lời.
(Huyền Nghĩa) Y cổ triển
chuyển thập môn thôi bổn, ước chi thành tứ.
(玄義) 依古展轉十門推本,約之成四。
(Huyền Nghĩa: Nếu
theo lối cổ th́ lần lượt dùng mười môn
để suy xét đến tận gốc, nếu nói tóm tắt
th́ gồm bốn điều).
“Ước”
(約) là quy nạp, quy nạp thành bốn
môn. Trong Thể, nói đến Tùy Tướng, Duy Thức,
Quy Tánh và Vô Ngại, quy nạp thành bốn môn ấy. Ở
đây, trước hết phải giải thích “thập môn thôi bổn” là ǵ? Cổ
đức giảng về giáo thể, tức là [biện định]
những bộ kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong bốn
mươi chín năm là từ chỗ nào mà nói ra? Căn cứ
trên đạo lư nào để nói? [Những đạo lư ấy
được gọi chung là giáo thể]. Cổ đại
đức gom những đạo lư ấy thành mười
điều, từ mười điều ấy truy ngược
lên dần dần để t́m được điều
căn bản. Điều thứ nhất là “âm thanh, ngữ ngôn”. Thuở Thích
Ca Mâu Ni Phật tại thế, Ngài dùng âm thanh làm Phật sự.
Do vậy, âm thanh là giáo thể. Sau khi đức Phật diệt
độ, các đệ tử đem những lời thầy
đă giảng trong quá khứ ghi chép lại, viết thành
văn tự. Điều thứ hai là “danh cú văn thân”: [Danh (名) là] danh từ, thuật ngữ.
Một ư nghĩa hoàn chỉnh th́ gọi là một Cú (句: Câu). Văn (文) là văn tự.
[Cú và Văn] đều gọi là Thân (身)[2].
Điều thứ ba là “thông thủ
tứ pháp” (gom chung bốn pháp Danh, Cú, Văn, Thân để
nói lên Thể). Điều thứ tư là “chư pháp hiển nghĩa” (dùng các pháp ấy
để hiển thị nghĩa lư); đây là nói về Lư.
Văn tự là “năng thuyên”
(chủ thể đóng vai tṛ diễn nói), nó có thể tŕnh
bày, giảng nói. Trong [những điều được
diễn nói] ấy, nhất định có nội dung, cổ
nhân nói “văn dĩ tải
đạo” (dùng văn để chở đạo),
trong ấy có lư luận, có đạo lư. Chúng ta hăy từ
ngôn ngữ, văn tự mà ngộ đạo lư, chớ nên
chết cứng trong ngôn ngữ, văn tự. Ngôn ngữ,
văn tự là công cụ, có mục đích nhằm khiến
cho chúng ta ngộ được cái Lư trong ấy; có như
vậy th́ mới thật sự thụ dụng.
Thứ
năm là “nhiếp cảnh duy
tâm” (quy kết cảnh chỉ do tâm biến hiện), “cảnh” là cảnh giới;
âm thanh, ngôn ngữ, văn tự đều thuộc vào cảnh
giới. Những cảnh giới ấy từ chỗ nào
biến hiện ra? Duy tâm sở hiện. Nói cách khác, dần
dần có thể phát hiện được bản thể
của nó, bản thể là chân tâm, bổn tánh. Những kinh
do đức Phật nói do từ chân tâm bổn tánh lưu lộ.
“Dần dần” là như kinh Hoa Nghiêm đă nói [từ bốn
pháp Danh, Cú, Văn, Thân, truy ngược lại để thâm
nhập nghĩa lư], thâm nhập đến mức Lư Sự
vô ngại, rồi Sự Sự vô ngại, khi đạt
đến viên măn rốt ráo, tâm tánh hoàn toàn khôi phục sự
sáng sạch, tức là lúc quang minh tịnh khiết, chẳng
nhiễm mảy trần, hết thảy Sự - Lư trong tận
hư không trọn pháp giới đều thấy, giống
như Tâm Kinh đă nói: “Chiếu
kiến Ngũ Uẩn giai không”. Ngũ Uẩn là ǵ? Hết
thảy Sự Lư thế gian và xuất thế gian chẳng
ra ngoài Ngũ Uẩn, nhỏ th́ như cái thân của chúng ta
là thân Ngũ Uẩn, lớn th́ toàn thể thế giới
là thế giới Ngũ Uẩn. Hữu t́nh thế gian là
như thế, mà Trí Chánh Giác thế gian cũng chẳng phải
là ngoại lệ! Thế giới Sa Bà của chúng ta do
Ngũ Uẩn hợp thành, Tây Phương Cực Lạc thế
giới vẫn do Ngũ Uẩn hợp thành. Ngũ Uẩn
nơi chúng ta là nhiễm, Ngũ Uẩn ở bên kia là tịnh.
Thật ra, Ngũ Uẩn đâu có nhiễm hay tịnh? Tịnh
hay nhiễm do ḷng người, quư vị phải hiểu rơ:
Tâm mê là nhiễm, tâm thanh tịnh là tịnh.
Trong
kinh Hoa Nghiêm, đức Phật nói rất minh bạch: Chúng
sanh và Phật khác biệt ở chỗ nào? Chúng sanh có phân biệt,
chấp trước, vọng tưởng; Phật chẳng
có phân biệt, chấp trước, vọng tưởng,
chuyện là như vậy đó! Phẩm [Như Lai] Xuất
Hiện trong kinh Hoa Nghiêm có nói: “Hết
thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng
của Như Lai”. Phật và chúng sanh không khác nhau, chỉ
sai biệt đôi chút như vậy. Chỉ cần hết
thảy chúng sanh buông phân biệt, vọng tưởng, chấp
trước xuống th́ quư vị gọi là Phật, gọi
là “thành Phật”. Nói thật ra, thành Phật đơn giản
như vậy đó. Quư vị đă hiểu
rơ Lư, nhưng không buông phân biệt, chấp trước xuống
được, biết làm cách nào nữa đây? Chịu
buông xuống là được! Không chịu buông xuống,
Phật cũng chẳng cứu được quư vị,
cũng chẳng giúp đỡ được. V́ thế, tu
hành là tu ǵ? Chính là trừ bỏ vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước, tu điều này. Cổ
đức nói: “Chỉ cầu
trừ vọng”, quư vị trừ hết hư vọng
là được rồi, chẳng cần phải cầu Chân.
V́ sao chẳng thể cầu Chân? Cầu Chân là một thứ
vọng niệm, giống như trong lần trước
tôi đă với quư vị: Quư vị chỉ cần niệm
Phật, chẳng cần cầu nhất tâm bất loạn;
v́ quư vị cầu nhất tâm bất loạn th́ ư niệm ấy
cũng là vọng niệm, là chướng ngại đối
với nhất tâm bất loạn. Quư vị phải hiểu
rơ đạo lư này. Chỉ cần thẳng thừng niệm
bốn chữ, niệm đến khi công phu thành thục, tự
nhiên sẽ là nhất tâm bất loạn. Niệm Phật suốt
ngày [mà cứ băn khoăn] “sao ta vẫn chưa đắc
nhất tâm bất loạn?” Niệm như vậy suốt
cả đời vẫn chẳng thể đắc nhất
tâm bất loạn, trong mỗi niệm đều có chướng
ngại, trong mỗi niệm đều có vọng tưởng,
làm sao thành tựu cho được?
Thập
môn[3] được
quy nạp thành bốn môn. Trong bốn môn, môn thứ nhất
là Tùy Tướng. Chữ Tùy có hai nghĩa:
-
Thứ nhất là “văn tùy
ư nghĩa, nghĩa tùy ư văn”, [tức là] trong
văn có ư nghĩa, trong ư nghĩa cũng có văn
chương; bởi lẽ, ư nghĩa có tŕnh tự, có tầng
lớp, từng điều rạch ṛi, chẳng lộn xộn,
đó là văn chương. Đây là nói về Giáo Thể.
-
Ư nghĩa thứ hai là khi chưa đến mức “hội quy nhất tâm” (gom hết
về nhất tâm) th́ chúng ta sẽ t́m ṭi, dựa trên văn
tự nhằm hiểu rơ chỗ quy kết của những
lư luận ấy.
Đó
là ư nghĩa Tùy Tướng. Bốn đoạn này, càng
đọc về sau càng sâu, mỗi phần sau đều
sâu hơn phần trước.
(Huyền
Nghĩa) Tiên minh Tùy Tướng, ư trung phục nhị,
nhất vị thanh danh cú văn, nhị vị sở thuyên
nghĩa, dĩ văn dữ nghĩa giai thuộc tướng
cố.
(玄義) 先明隨相,於中復二,一謂聲名句文,二謂所詮義,以文與義皆屬相故。
(Huyền
Nghĩa: Trước hết, nói về Tùy Tướng.
Trong đây lại có hai điều: Một là thanh, danh, cú, văn;
hai là nghĩa lư được diễn nói bởi [thanh, danh,
cú, văn], bởi lẽ, văn và nghĩa đều thuộc
về tướng).
Cũng có đồng học
chúng ta đọc xong sẽ có nghi vấn. Văn tự là tướng,
chẳng thành vấn đề! Cớ sao nghĩa lư cũng
nói là tướng? Phía dưới sẽ có giải thích. V́
nếu đem nghĩa so với Lư để nói th́ nghĩa
vẫn là “năng thuyên” (chủ
thể tuyên nói), cho nên nó vẫn thuộc vào tướng.
Sâu hơn một tầng nữa là giáo lư, giáo lư phải do
chính ḿnh lắng ḷng lănh hội, thường nói là “ư nằm ngoài lời”, sâu là
sâu tại chỗ này; nhưng đối với bản kinh
này, bất luận quư vị thấu hiểu nghĩa lư sâu
hay cạn, đều được lợi ích. Thậm
chí hoàn toàn chẳng hiểu nghĩa lư, ta tin tưởng, ta
muốn về Tây Phương, ta niệm một câu A Di
Đà Phật cũng có thể văng sanh. Pháp môn này thù thắng
chẳng thể nghĩ bàn ở chỗ này, chẳng giống
các pháp môn khác: Nhất định phải ngộ nhập
sâu xa mới được thụ dụng. Pháp môn này hay là
hay ở chỗ này, chẳng ngộ nhập vẫn
được thụ dụng!
(Sớ) Thập môn triển chuyển,
tường kiến Hoa Nghiêm Huyền Đàm, Khuê Phong phục
ư trung ước nhi thúc chi, toại vi tứ môn.
(疏) 十門展轉,詳見華嚴玄談,圭峰復於中約而束之,遂為四門。
(Sớ: “Mười
môn lần lượt” xem chi tiết trong bộ Hoa Nghiêm Huyền
Đàm, ngài Khuê Phong lại rút gọn [mười môn ấy]
thành bốn môn).
Bộ Hoa Nghiêm Kinh Huyền
Đàm[4]
gồm chín quyển do Thanh Lương đại sư viết
vào đời Đường, là bản chú giải kinh Hoa
Nghiêm có uy tín nhất, được gọi là Đại Sớ.
Ngài Khuê Phong là thiền sư Tông Mật, là học tṛ ngài
Thanh Lương. Ngài Thanh Lương là tổ sư đời
thứ tư của tông Hoa Nghiêm, ngài Tông Mật là đời
thứ năm, là Ngũ Tổ của tông Hoa Nghiêm. Tác phẩm
trứ danh nhất của Ngài được lưu truyền
hậu thế là bộ Viên Giác Kinh Sớ Sao. Ngài dốc sức
rất lớn nơi kinh Viên Giác, viết mấy bản chú
giải. Viên Giác Kinh Sớ Sao, Viên Giác Kinh Lược Sớ
đều do Ngài viết. Từ truyện kư, chúng ta thấy
vị pháp sư này cũng rất bất phàm. Ngài thấy
kinh điển nhiều quá, một người trong một
đời mà đọc hết thảy các kinh có thể nói
là chuyện không thể được! Làm thế nào để
chọn lấy một hai thứ trong hết thảy các
kinh để chuyên dốc công phu? Thấy kinh điển
nhiều dường ấy đều thích hết, vậy
th́ rốt cuộc nên chọn thứ nào mới nên? Lăo nhân
gia dùng phương pháp [sau đây]: Trước hết, lễ
Phật cầu cảm ứng, cầu Phật, Bồ Tát
gia tŕ. Lạy Phật xong bèn tiện tay rút lấy một
quyển trong Đại Tạng Kinh, quyển ấy do Phật,
Bồ Tát gia tŕ, rút được cuốn
Viên Giác Kinh. Được rồi! Ngài bèn chết sạch
mong ngóng, khăng khít dốc sức nơi kinh Viên Giác, Ngài
bèn thành tựu. Thuận tay rút ra một quyển là do lễ
Phật kiền thành, cung kính cầu Tam Bảo gia tŕ ḥng
biết chính ḿnh có duyên với bộ kinh nào, dùng
phương thức ấy. Từ xưa đến nay, măi
cho đến hiện tại, chú giải kinh Viên Giác không có
ai hơn được Tông Mật đại sư. Ngài
chú giải kinh Viên Giác chẳng dùng thập môn khai khải
mà đem mười môn quy nạp thành bốn môn, “ước nhi thúc chi, toại vi
tứ môn” (rút gọn lại bèn thành bốn môn). Nay Liên
Tŕ đại sư chọn dùng phương thức của
Khuê Phong Tông Mật đại sư, dùng bốn môn để
thuyết minh [thể tánh của kinh Di Đà].
(Sớ) Sơ, “thanh, danh, cú, văn” giả, cứ
Đại Tiểu Thừa giáo, hoặc dĩ thanh vi giáo thể.
(疏) 初、聲名句文者,據大小乘教,或以聲為教體。
(Sớ: Thứ nhất,
“thanh, danh, cú, văn”: Theo Đại Tiểu Thừa giáo, hoặc
lấy âm thanh làm giáo thể).
Đức Phật tại thế,
dùng âm thanh để thuyết pháp; thuở ấy không có
kinh sách, đức Phật giảng, mọi người
nghe.
(Sớ) Hoặc dĩ Danh, Cú, Văn,
Thân nhi vi giáo thể.
(疏) 或以名句文身而為教體。
(Sớ: Hoặc dùng
danh, cú, văn, thân để làm giáo thể).
Sau khi đức Phật diệt
độ, do tôn giả A Nan là bậc đa văn đệ
nhất, có trí nhớ tốt nhất, sức ghi nhớ của
ngài A Nan giống như máy thâu âm hiện thời, nghe qua một
lần chẳng quên một chữ nào, có thể nhắc lại,
Ngài có năng lực ấy. Ngài A Nan nhắc lại, các đồng
học chứng minh, lại c̣n ghi chép, trở thành cội
nguồn của kinh điển cho đời sau. Đối
với sự truyền thừa của Phật giáo, ngài A
Nan có cống hiến rất lớn. Có thể nói: Nếu
không có Ngài, dù đức Phật nói kinh nhiều dường
ấy, chúng ta vẫn chẳng có cơ hội được
nghe.
(Sớ) Kim y Thanh Lương
đại sư, thông thâu tứ giả, dĩ thanh vi giáo chủ.
(疏) 今依清涼大師,通收四者,以聲為教主。
(Sớ: Nay dựa
theo Thanh Lương đại sư, gộp chung cả bốn
thứ này lại, lấy âm thanh làm Giáo Thể chủ yếu).
Đây là ư nghĩa mà ngài Thanh
Lương đă dùng để chú giải kinh Hoa Nghiêm: Ngài
quy nạp lại, lấy âm thanh làm Giáo Thể. Ngài Thanh
Lương cũng có căn cứ [để luận định
như vậy], chứ không phải là nói bừa, như
trong kinh Lăng Nghiêm, Văn Thù Bồ Tát khi chọn lựa
pháp Viên Thông đă nói: “Thử
phương chân Giáo Thể, thanh tịnh tại âm văn”
(Chân Giáo Thể phương này, thanh tịnh nơi nghe tiếng).
Chúng sanh trong thế giới Sa Bà Nhĩ Căn nhạy bén nhất;
quư vị bảo họ nh́n, chẳng dễ ǵ khai ngộ,
nói cho họ nghe, họ rất dễ khai ngộ. Đây là
dùng âm thanh làm Giáo Thể.
(Sớ) Danh giả thứ đệ
hàng liệt, thuyên pháp tự tánh.
(疏) 名者次第行列,詮法自性。
(Sớ: Danh là liệt
kê theo thứ tự nhằm diễn tả tự tánh của
pháp).
“Thuyên”
(詮) là “thuyên
thuật” (詮述: giảng nói,
tŕnh bày). Trong những danh từ ấy có chứa đựng
tự tánh của hết thảy các pháp. Chẳng hạn
như đối với danh từ Vô Lượng Thọ
Phật, chúng ta quả thật nghĩ đến một vị
Phật. Chữ Vô có nghĩa là “chẳng có tự tánh”, hết
thảy đều không có! “Vô Lượng”: Gộp hai chữ
Vô và Lượng lại sẽ biến thành vô hạn, chẳng
có hạn lượng. “Thọ” là thọ mạng. [Vô Lượng
Thọ là] thọ mạng chẳng có hạn lượng, ư
nghĩa rất rơ ràng. Chúng ta có thể nghĩ đến vị
Phật ở bên ấy, chẳng cần nói đến
điều ǵ khác, chỉ nói là Ngài có thọ mạng chẳng
có hạn lượng, chẳng có giới hạn. Phật
có nghĩa là Giác, vị Phật ấy đă có thọ mạng
dài lâu lại vừa là bậc đại trí đại
giác, Phật là đại trí đại giác. Từ danh từ
này, chúng ta có thể thấu hiểu một sự thật:
Có một vị Phật đại trí đại giác, thọ
mạng cực dài. “Danh” có thể chứa đựng tự
thể của pháp này, “pháp” là nói hết thảy vạn
pháp. Chúng ta nêu ra [danh hiệu của] một vị Phật
để nói, th́ [danh hiệu ấy] chứa đựng tự
thể của Ngài.
Thông thường, những kẻ
tầm thường như chúng ta danh chẳng phù hợp thật!
Chúng ta đặt tên, chọn những danh xưng đẹp
đẽ, nhưng sự thật và danh xưng chẳng phù
hợp. Chư Phật, Bồ Tát danh phù hợp thật, các
Ngài chọn danh hiệu nào th́ trên thực tế, đúng là
như vậy. Chúng ta học Phật, khi quư vị quy y, vị
pháp sư truyền thọ Tam Quy đặt pháp danh cho quư vị,
pháp danh có nghĩa là ǵ? Hy vọng trong một đời
này, quư vị sẽ danh phù hợp thật, đừng nên
để danh và thật mâu thuẫn. Cổ nhân Trung Quốc
đặt danh xưng rất chú ư, đa số là mong sao
danh và thật phù hợp. Con người hiện tại chẳng
đáng tin, chẳng chín chắn như người đời
trước. Từ kinh điển, chúng ta thấy tại Ấn
Độ vào thời cổ, rất nhiều danh xưng của
một cá nhân quả thật là “danh phù hợp thật”. Chẳng
hạn như tôn giả Câu Hy La
(Kausthila), Câu Hy La nghĩa là ǵ? Đại Tất Cái, dịch
sang nghĩa tiếng Hán là đầu gối của Ngài
đặc biệt to, tiếng Hán gọi là Đại Tất
Cái. Ngài danh và thật tương hợp, tương xứng.
(Sớ) Cú giả thứ đệ
an bố, thuyên pháp sai biệt.
(疏) 句者次第安布,詮法差別。
(Sớ: Cú là sắp
đặt theo thứ tự để giảng về sự
sai biệt của các pháp).
Chúng tôi vẫn dùng Vô Lượng
Thọ Phật để làm tỷ dụ. Cú là một câu
hoàn chỉnh, Vô Lượng Thọ Phật là một câu
hoàn chỉnh, ư nghĩa rất hoàn bị, có thể bao hàm ư
nghĩa của đại pháp. Nếu chúng ta chỉ nói
Lượng Thọ Phật th́ ư nghĩa chưa toàn vẹn.
Do vậy, mỗi chữ trong bốn chữ này chẳng thể
thiếu một chữ nào. Hễ thiếu một chữ,
ư nghĩa sẽ không trọn vẹn, chẳng hoàn chỉnh.
Mỗi một chữ trong Cú đều sai khác, gộp lại
mới thành một ư nghĩa hoàn chỉnh. “Cú giả, thứ đệ an bố, thuyên pháp sai biệt”
(Cú là sắp đặt theo thứ tự để giảng
về sự sai biệt của các pháp). Những chữ ấy
chẳng thể xáo trộn, chẳng thể thiếu khuyết
th́ mới hiển thị hoàn toàn ư nghĩa [của câu ấy].
(Sớ) Văn giả thứ
đệ liên hợp, thượng nhị sở y. Thử
Danh, Cú, Văn tam giả, khuất khúc vi Thanh thượng
thuyên biểu. Duy Thanh, tắc bất năng thuyên nghĩa.
Duy Danh, Cú, Văn, tắc vô tự thể. Kiêm thử tứ
sự, thị vi giáo thể, dĩ Giả, Thật, Thể,
Dụng kiêm tư dă.
(疏) 文者次第聯合,上二所依。此名句文三者,屈曲為聲上詮表,唯聲,則不能詮義。唯名句文,則無自體。兼此四事,是謂教體,以假實體用兼資也。
(Sớ: Văn là liên kết
theo thứ tự, phụ thuộc vào hai loại trước
(Danh và Cú). Ba món Danh, Cú, Văn phải nương vào Thanh
(âm thanh) để nói ra. Chỉ có Thanh, sẽ chẳng thể
diễn tả nghĩa lư. Chỉ có Danh, Cú, Văn, ắt
chúng sẽ không có tự thể. Kiêm cả bốn điều
này để thành giáo thể, trọn dùng Giả, Thật, Thể,
Dụng để giúp lẫn nhau vậy).
Đoạn này hơi khó hiểu.
“Văn” là từ hai câu gộp
lại trở lên th́ mới là văn chương. Trong sách
Luận Ngữ, có khi hai câu là một chương, có khi ba
câu là một chương, mỗi chương tŕnh bày một
chuyện hoàn chỉnh. Trước đời Hán, văn tự
vô cùng thuần phác, nhất định chẳng rườm
rà; về sau, văn tự có phong cách tu từ, càng ngày càng cố
sức bóng bẩy, khác rất xa với tánh chất chất
phác, thành thật của cổ văn. “Văn” có nghĩa là văn sức (trau chuốt lời
lẽ cho bóng bẩy), ắt phải dùng lối nói hoa mỹ,
nay ta gọi là “tu từ” (Rhetoric)[5], kết hợp
[những biện pháp tu từ lại] như vậy th́ mới
phô diễn được sự mỹ hóa (beautify) văn
chương: Văn tự đẹp đẽ, đọc
lên âm thanh du dương. Lối văn Biền Thể[6] được
người ta ưa thích nhất. Trong văn học, nói
đến những loại đẹp đẽ nhất
như thơ, từ, ca, phú, những lời văn trong tuồng
hát đều hết sức bóng bẩy, đều càng
được trau chuốt. Kinh Phật sau khi được
kết tập lần đầu, cũng t́m những
người giỏi văn chương nhuận sắc, tu
chỉnh. Từ Phạn văn dịch sang tiếng Hán, sau
khi đă dịch xong toàn bộ kinh văn, nhất định
phải mời mấy tay văn học gia nổi tiếng
đến nhuận văn. “Nhuận
văn” là gọt giũa, trau chuốt, nhưng chẳng
thể biến đổi ư nghĩa, mà gắng hết sức
chỉnh sửa từ ngữ, câu văn, văn tự sao
cho đẹp đẽ; có công tác này. Những chuyện này
đều thuộc về ư nghĩa đang nói ở
đây!
“Kiêm
thử tứ sự, thị vị giáo thể” (kiêm cả
bốn chuyện này để làm giáo thể): Kinh thể và
bản thể của kinh Phật là văn tự. Chúng ta chẳng
thể tách khỏi kinh sách, kinh sách là căn cứ giáo học
của Phật giáo. “Giả, thật,
Thể, Dụng kiêm tư” là nói tới điều ǵ vậy?
Trong ấy có Giả, có Thật, có Thể, có Dụng, những
điều này bổ trợ lẫn nhau. Danh, Cú, Văn
đều là giả, v́ sao là giả? Chúng là bất tương
ứng hành pháp. Quư vị học Duy Thức, học Bách Pháp
sẽ hiểu: Cái gọi là “bất
tương ứng hành pháp” nói theo danh từ bây giờ
là những ǵ thuộc về trừu tượng, không có thực
thể. V́ thế chúng được gọi là “bất tương ứng”,
chẳng tương ứng với ai? Chẳng tương
ứng với Tâm, chẳng tương ứng với Tâm Sở,
chẳng tương ứng với Sắc. Tâm pháp là Bát Thức
Tâm Vương, đó là thật, v́ hết thảy vạn
pháp đều do nó biến, tâm là Năng Biến. So sánh giữa
Năng Biến và Sở Biến th́ Năng Biến là chân, Sở
Biến là giả. Tâm Sở pháp là tác dụng của Tâm
Vương, phụ thuộc Tâm Vương, gồm có tất
cả năm mươi mốt món. Đối lập với
Tâm Sở pháp là Sắc pháp. Sắc pháp là Y Tha Khởi Tánh,
cũng coi như là có, quả thật có chuyện ấy, chẳng
thể nói chúng không có. Ngôn ngữ, văn tự là bất
tương ứng hành pháp, đă chẳng phải là Tâm pháp
hay Tâm Sở pháp, mà cũng chẳng phải là Sắc pháp. Nói
theo ba tánh của Duy Thức, tánh chất của chúng (bất
tương ứng hành pháp) được gọi là Biến
Kế Sở Chấp Tánh; đây chính là một thứ vọng
tưởng hay quan niệm chấp trước trong tâm chúng
ta, cho rằng có những thứ này, chứ trên thực tế
chẳng có! V́ thế, văn tự bất quá là một thứ
phù hiệu mà thôi, là một thứ hết sức trừu
tượng, là giả, chẳng thật!
Âm thanh quả thật tồn tại,
âm thanh thuộc về Sắc pháp. Sắc pháp có mười
một thứ, gồm Ngũ Căn và Lục Trần,
Ngũ Căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân; Lục
Trần là Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Âm thanh
là một thứ trong Lục Trần, thuộc về Sắc
pháp. Sắc pháp là Y Tha Khởi Tánh, thật sự có. Biến
Kế Sở Chấp Tánh chẳng thật sự có, mà là giả
có. Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết pháp, âm thanh là Thể,
về sau ghi chép thành văn tự, đó là Dụng. Có Thể,
có Dụng, có Giả, có Thật! Cái Thật ấy chẳng
phải là chân thật tuyệt đối; do so sánh với Danh
Cú Văn Biến Kế Sở Chấp Tánh nên quả thật
có chuyện ấy. Tuy có chuyện ấy, nhưng cũng chẳng
thể coi là chân thật tuyệt đối được.
(Sớ) Nhị, sở thuyên
nghĩa giả, thử Thanh, Danh, Cú, Văn, nhược vô
sở thuyên chi nghĩa, tắc đồng hồ thiên vận,
thù vô ư huống.
(疏) 二、所詮義者,此聲名句文,若無所詮之義,則同乎篇韻,殊無意況。
(Sớ: Hai là những nghĩa
lư được diễn bày [bởi thanh danh cú văn]:
Thanh, Danh, Cú, Văn ấy nếu không diễn tả những
nghĩa lư th́ chúng sẽ giống như các sách tự điển,
gieo vần[7], trọn chẳng có ư nghĩa ǵ!)
Trong văn tự, nếu thật
sự không có ư nghĩa, sẽ giống như từng chữ
một trong tự điển, mỗi chữ chẳng liên
kết với nhau th́ chẳng có ư nghĩa ǵ hết, giống
như các loại sách vận thư (sách dạy gieo vần
như Quảng Vận) hay thi vận (sách liệt kê những
chữ có cùng vần trong thơ ca) xưa kia, chẳng có ư
nghĩa ǵ hết, trở thành có tánh chất giống
như vậy. V́ thế, trong văn nhất định phải
có nghĩa th́ mới có giá trị. Nghĩa lư càng sâu càng có
giá trị. Trong báo chí có văn tự, trong tạp chí
cũng có văn chương, nhưng ư nghĩa quá nông cạn,
đọc một lần chẳng muốn xem lần thứ
hai. So với những thứ văn học có giá trị, có
mức độ sâu th́ ư vị sâu hơn, đọc xong vẫn
muốn đọc nữa. Thế nhưng tác phẩm
văn học dù hay đến đâu, đọc hai chục
hay ba chục lần cũng chẳng muốn đọc nữa.
Chúng ta đọc Thập Tam Kinh[8] là sách của
Nho gia, đọc Lăo Tử, Trang Tử, những sách đó
ư vị nồng nàn, sâu đậm, đúng là đọc
trăm lần chẳng chán! Nếu xem kinh Phật, đích
xác là từ Sơ Phát Tâm cho đến Đẳng Giác Bồ
Tát, đọc qua vô lượng kiếp vẫn đọc
không chán, v́ sao vậy? V́ kinh từ Chân Như bổn tánh
lưu lộ, bổn tánh chẳng có cùng tận. V́ thế,
pháp vị được bao hàm trong ngôn ngữ văn tự
cũng chẳng cùng tận, có nghĩa vị rất nồng
đậm.
(Sớ) Nhược đồ
nghĩa vô văn, diệu lư bằng hà nhi đắc hiển
thị.
(疏) 若徒義無文,妙理憑何而得顯示。
(Sớ: Nếu chỉ
có nghĩa lư suông, chẳng có văn tự, diệu lư nhờ
vào đâu để hiển thị).
Tuy có nghĩa vị, nhưng nếu
không có văn tự dẫn dắt, chúng ta sẽ không có cách
nào thông đạt [nghĩa lư ấy]. Nghĩa vị ấy
do đâu mà có? Thưa quư vị, tuyệt đối chẳng
phải là có sẵn trong văn tự. Nếu trong văn tự
có pháp vị, lẽ ra mỗi người đọc
văn tự đều có thể cảm nhận, chẳng
phải vậy! Pháp vị ấy do đâu mà có? Do quư vị
nhờ vào văn tự để dẫn khởi tâm tánh của
chính ḿnh phát xuất; do vậy, ư vị chẳng có cùng tận.
Đó gọi là “pháp hỷ sung măn”, chúng ta thường nói
là “ngộ xứ”. Sự ngộ ấy có chấm dứt
hay không? Không có! Chẳng có chấm dứt! Quư vị đọc
kinh, hằng ngày có ngộ xứ. Cũng có người nói:
“Tôi hằng ngày niệm kinh mà chẳng có ngộ xứ, v́
sao chẳng có ngộ xứ?” Quư vị niệm kinh không
đúng cách; vừa niệm kinh, vừa khởi vọng
tưởng, chẳng có ngộ xứ! Khi niệm kinh, tâm
địa chẳng thanh tịnh, chẳng thể có ngộ
xứ! Khi niệm kinh, thái độ chẳng cung kính, chẳng
có ngộ xứ! V́ thế, nếu dùng cái tâm thành kính, thanh tịnh
để niệm kinh, chẳng thể nói là không có ngộ
xứ; chỉ có thể nói là ngộ xứ sâu hay cạn
khác nhau, nhất định có ngộ xứ! Niệm một
lượt sẽ có ngộ xứ một lượt, niệm
hai lượt sẽ có ngộ xứ hai lượt. Ngộ
xứ ấy chẳng có giới hạn. V́ thế, đọc
kinh từ Sơ Phát Tâm cho đến khi thành Phật vẫn
chẳng chán là do đạo lư này! Niệm ra hết vô
lượng trí huệ và đức năng trong Chân Như
bổn tánh của chính ḿnh, mầu nhiệm ở chỗ
này, chẳng thể nghĩ bàn! V́ thế, đức Phật
khuyên chúng ta: Kinh Phật chẳng thể không đọc. Ba
món phước trong Quán Kinh đến cuối cùng là “đọc tụng Đại Thừa”.
V́ thế, đọc kinh hết sức trọng yếu.
(Sớ) Lương dĩ văn
tùy ư nghĩa, nghĩa tùy ư văn.
(疏) 良以文隨於義,義隨於文。
(Sớ: Bởi lẽ,
văn nương theo nghĩa, nghĩa nương theo
văn).
Văn có thể khơi gợi,
phát khởi tâm trí của chúng ta, khiến cho tâm trí của
chúng ta sẽ thuận theo văn tự ấy mà lưu lộ
ra. Đó là lợi ích chẳng thể nghĩ bàn.
(Sớ) Văn nghĩa
tương tư, năi thành giáo thể.
(疏) 文義相資,乃成教體。
(Sớ: Văn và
nghĩa nương giúp nhau, bèn thành giáo thể).
Giáo thể, nói theo cách hiện
thời, những kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật nói được
chép thành sách, tuy sách vở là giả, nhưng chúng có tác dụng.
Tác dụng ǵ vậy? Có thể dẫn phát tự tánh của
chúng ta. Tự tánh của chúng ta là Thể. Cái Thể của
chúng ta và Thể của Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng khác, là
một Thể, chẳng có hai Thể! Đọc kinh có thể
minh tâm kiến tánh, phải đọc như vậy th́ mới
được! Chết cứng nơi văn tự là hỏng
rồi. V́ thế, quyết định đừng để
văn tự xoay chuyển, phải dùng văn tự để
dẫn dắt, phát khởi chân tánh của chính ḿnh, đọc
như vậy th́ mới được!
Quư
vị nghe thấy điều này dường như rất
huyền, rất diệu. Đương nhiên quư vị
cũng khát khao, ta nên làm sao th́ mới đạt được?
Quư vị hăy nhớ những ǵ tôi vừa mới nói, đừng
quên: Dùng tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm cung kính để niệm.
Khi niệm, chẳng cần phải phân biệt những ư
nghĩa trong ấy, ư nghĩa sẽ tự nhiên hiển hiện.
Đó là ngộ xứ. Quư vị suy nghĩ điều này
có nghĩa là ǵ, đại khái có ư nghĩa nào? Lầm rồi!
Quư vị hoàn toàn rớt trong ư thức. Bài kệ Khai Kinh nói
rất hay: “Nguyện giải
Như Lai chân thật nghĩa”, thế mà quư vị đă
hoàn toàn hiểu lầm ư nghĩa chân thật của Như
Lai. Quư vị hằng ngày niệm kinh, niệm đến cuối
cùng bèn hiểu lầm nghĩa chân thật của Như
Lai! C̣n có cách nào nữa đây? Không có cách nào cả! V́ thế,
quư vị nhất định phải biết niệm.
Trong quá khứ, tôi cũng đă
từng bảo quư vị: Niệm kinh là hoàn thành Tam Học
Giới - Định - Huệ cùng một lúc. V́ thế, niệm
kinh là tu hành: Tu Giới, tu Định, tu Huệ. Giới luật
là “đừng làm các điều
ác, vâng làm các điều lành”. Giới Tiểu Thừa là
“đừng làm các điều
ác”, Bồ Tát Giới là “vâng
làm các điều lành”. Khi chúng ta niệm kinh, tâm địa
chân thành, cung kính, thanh tịnh, tâm quư vị đương
nhiên cũng chẳng có điều ác, bèn làm được
“không làm các điều ác”.
Kinh là ngôn ngữ lưu lộ từ Chân Như bổn tánh
của Thích Ca Mâu Ni Phật, lành nhất trong những sự
lành, chẳng có ǵ tốt lành hơn được! Đọc
kinh là “vâng làm các điều thiện”.
Do vậy, giới luật Đại Thừa lẫn Tiểu
Thừa đều viên măn, thảy đều trọn đủ.
Khi niệm kinh bèn nhất tâm niệm, nhất tâm là Định,
chuyên tâm, niệm kinh nhất định chẳng suy
nghĩ loạn xạ. Ta niệm một câu, suy nghĩ trong
ấy có ư nghĩa ǵ, th́ gọi là “suy nghĩ loạn xạ”,
chẳng có Định! Ta niệm kinh là tu Định, chẳng
khởi một niệm trong ấy. Chẳng có phân biệt,
chấp trước, đó là tu Định. Niệm kinh
văn từng chữ phân minh, từng câu rơ ràng, chẳng
đọc sai, chẳng đọc lộn xộn, đó là
tu Huệ. Quư vị niệm như vậy mới ḥng khai ngộ.
V́ thế, công đức niệm kinh rất lớn, đạo
lư là ở chỗ này!
Vừa niệm vừa suy
nghĩ ư nghĩa, đó là khởi vọng tưởng. Những
ǵ quư vị suy nghĩ chẳng phải là ư nghĩa
được nói trong kinh, những ư nghĩa trong kinh phải
là lưu lộ, từ nội tâm của quư vị tuôn ra, chẳng
cần phải nghĩ, hễ nghĩ là trật mất rồi!
Đây là chỗ tuyệt đối khác nhau giữa kinh Phật
và những thứ văn chương, sách vở thế
gian. Tất cả sách vở trong thế gian đều từ
cái tâm phân biệt, chấp trước, ư thức lưu lộ,
quư vị đọc có thể suy ra những ư nghĩa; c̣n
những ǵ đức Phật nói chính là từ cái tâm vô phân
biệt lưu lộ. Quư vị dùng cái tâm phân biệt để
suy nghĩ, sẽ tuyệt đối chẳng hiểu
được ư nghĩa; ắt phải bỏ sạch phân
biệt, chấp trước, vọng tưởng! Niệm
kinh như thế mới ḥng đạt được ư
nghĩa chân thật của Như Lai, quư vị niệm kinh
mới thật sự đạt được thụ dụng.
(Sớ) Cố kim thử kinh.
(疏) 故今此經。
(Sớ: Nên nay kinh này).
Nói đến bản kinh [Di
Đà] này.
(Sớ) Tùng “như thị ngă
văn”, chí “tác lễ nhi thoái”.
(疏) 從如是我聞,至作禮而退。
(Sớ: Từ “tôi
nghe như thế” cho đến “làm lễ, lui ra”).
Đây là nói toàn bộ kinh A Di
Đà.
(Sớ) Thị Thanh, Danh, Cú,
Văn Thể.
(疏) 是聲名句文體。
(Sớ: Là Thể của Thanh, Danh, Cú, Văn).
Văn tự trong kinh văn thật
sự là Thể của Thanh, Danh, Cú, Văn.
(Sớ) Nhi kỳ trung sở thuyết
y chánh nhị báo, tín nguyện văng sanh đẳng, thị sở
thuyên nghĩa dă.
(疏) 而其中所說依正二報,信願往生等,是所詮義也。
(Sớ: Nhưng những
điều như y báo và chánh báo, tín nguyện văng sanh v.v... nói
trong ấy chính là những nghĩa được kinh nói tới).
Trong văn tự có những ư
nghĩa.
(Sớ) Dĩ thị nhị giả, giao tương
tùy cố, nhi vi giáo thể.
(疏) 以是二者,交相隨故,而為教體。
(Sớ: Dùng hai
điều này (văn và nghĩa) tùy thuộc lẫn nhau
để làm giáo thể).
Trong văn có nghĩa, trong
nghĩa có văn. Đây là nói từ “tùy tướng” (nghĩa tùy thuộc vào tướng
văn tự, tướng văn tự tùy thuộc
nghĩa) để nêu ra đại ư của giáo thể.
(Huyền Nghĩa) Hựu nhược cứ pháp sở
hiển nghĩa, tắc vô phi Phật sự, như
hương phạn, quang minh đẳng, đương
tri pháp pháp giai vi giáo thể.
(玄義) 又若據法所顯義,則無非佛事,如香飯光明等,當知法法皆為教體。
(Huyền Nghĩa: Lại
nữa, nếu dựa theo những nghĩa đă được
hiển thị bởi pháp th́ không ǵ chẳng phải là Phật
sự, như cơm thơm, quang minh v.v... Hăy nên biết
pháp nào cũng đều là giáo thể).
“Pháp”
là hết thảy các pháp. Nói thật ra, hết thảy các
pháp đều có thể “hiển
nghĩa”. Quư vị đọc bộ kinh sách này th́ bộ
kinh sách này là một pháp, nó có thể hiển lộ nghĩa
lư. Trừ kinh sách ra, hết thảy các pháp đều có thể
hiển lộ nghĩa lư. Từ kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy
thế giới Hoa Tạng; từ kinh này, ta thấy lục
trần trong Tây Phương Cực Lạc thế giới
thuyết pháp. Lục trần thuyết pháp, tức là pháp
nào cũng đều có thể hiển lộ nghĩa lư.
Đây là thật, chẳng giả! Trong Hoa Nghiêm Kinh Sớ
Sao, Thanh Lương đại sư đă giảng ư
nghĩa này rất thấu triệt, đấy chính là
như chúng tôi thường nói “biểu
pháp”. Biểu (表) là tỏ lộ, pháp (法) là ư nghĩa trong ấy. Chẳng hạn
như chúng ta thấy nến th́ nến là một pháp;
người giác ngộ, người chẳng mê thấy nến
có thể dẫn phát công đức từ trong bổn tánh của
chính ḿnh. Nến thắp lên là quang minh, tâm địa của
chúng ta phải quang minh, phải chiếu hết thảy
chúng sanh, phá mê khai ngộ cho hết thảy chúng sanh. Ngộ
là tướng sáng, mê là tướng tối. Nến thắp
lên, cháy dần dần, cháy không c̣n ǵ nữa, đó là “xả kỷ vị nhân” (hy
sinh ḿnh v́ người khác), hy sinh chính ḿnh, ta v́ người
khác. Đó là Tánh Đức. Trước tượng Phật
phải cúng đèn, xưa kia là đèn dầu hay nến nhằm
tượng trưng cho những ư nghĩa ấy. Thắp
hương th́ hương biểu thị ḷng tin, tượng
trưng cho Giới - Định, trong bài Hương Tán có
câu “Giới Định chân
hương”. Thấy hương, ngửi mùi
hương phải nghĩ: Ta phải tin. Tin vào những lời
răn dạy của đức Phật, tin Phật là bậc
chân thật, Phật chẳng gạt người, hăy nên tu
Giới, tu Định. Đèn tượng trưng tu Huệ.
Đốt hương, thắp đèn biểu thị
căn bản của sự tu học trong Phật pháp: Tam Học
Giới - Định - Huệ. Một bộ Đại Tạng
Kinh nhằm giảng Giới - Định - Huệ. Quư vị
thấy một nén hương, một cây nến hoàn toàn biểu
thị [căn bản tu học trong Phật
pháp]. Đại Tạng Kinh nhiều ngần ấy cũng
nhằm nói những điều này. Một cây hương,
một ngọn nến cũng [diễn tả những ư
nghĩa] nhiều dường ấy, chẳng tăng, chẳng
giảm, nhưng có mấy ai giác ngộ?
V́ thế, người giác ngộ
hằng ngày thấy Phật, thấy vô lượng vô biên
Phật; chư Phật, Bồ Tát mỗi ngày từ sáng
đến tối vây quanh chính ḿnh, phàm phu chẳng biết,
đáng thương thay! Người giác ngộ cảm kích
khôn ngằn. Phật ở nơi đâu? Tất cả hết thảy
chúng sanh, hết thảy nhân vật, không ai chẳng phải
là Phật, không ai chẳng phải là thiện tri thức.
Thiện Tài đồng tử trong kinh Hoa Nghiêm là một tấm
gương cho chúng ta, năm mươi ba vị thiện
tri thức là những ai? Chính là nam, nữ, già, trẻ, các
ngành nghề trong xă hội hiện thời. Trong ấy có kẻ
xấu, đúng thế! Trong năm mươi ba người
cũng có người xấu, trong ấy có người học
Phật, mà cũng có kẻ học theo ngoại đạo,
quả thật đă tượng trưng cho xă hội hiện
thời. Trong mắt Thiện Tài, những người ấy
đều là thiện tri thức, thảy đều là Phật,
Bồ Tát. Tôi thấy chỗ tốt lành của quư vị,
tôi học theo quư vị, dẫn phát thiện hạnh của
chính ḿnh. Thấy chỗ ác của quư vị, tôi hiểu rơ,
phản tỉnh xem tôi có điều ác ấy hay chăng. Do
vậy, thiện nhân lẫn ác nhân đều là thầy của
chính ḿnh. Không có thiện nhân, sẽ chẳng thể khơi
gợi, dấy lên thiện tâm của chính ḿnh; không có kẻ
ác, sẽ chẳng thể sửa đổi lỗi lầm
của chính ḿnh. V́ thế, người lành, kẻ ác, chuyện
tốt, việc xấu đều thành tựu vô thượng
Bồ Đề của chính ḿnh. Đoạn này có ư
nghĩa như vậy đó!
Do vậy, nói: Chẳng có pháp nào
không phải là giáo thể! “Pháp”
là nói đến pháp tướng. Đối với hết
thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, nếu quư
vị hiểu ư nghĩa được hiển thị bởi
chúng th́ “vô phi Phật sự”
(không ǵ chẳng phải là Phật sự), có thứ nào chẳng phải là Phật sự? Chúng ta thấy
những kẻ chấp trước khôn ngằn, hăy suy
nghĩ coi chính ḿnh có chấp trước như vậy hay
là không? Những người ấy là thầy của ta! V́
nếu chúng ta không gặp họ, sẽ chẳng phản tỉnh.
Hễ có, bèn lập tức thay đổi; không có, ta bèn gắng
sức, từ nay về sau ngàn vạn phần chớ nên có
chấp trước ấy! Tu hành như vậy mới có
thể thành tựu!
“Hương
phạn, quang minh” (cơm thơm, quang minh): Khi ăn
cơm, mỗi cá nhân hằng ngày phải ăn cơm.
Cơm tượng trưng điều ǵ? Nếu quư vị
nghĩ thông suốt ư nghĩa biểu thị pháp của sự
ăn cơm, quư vị sẽ đại triệt đại
ngộ, thật sự có thể buông xuống. Trong ấy,
biểu thị ư nghĩa ǵ? Thân thể của chúng ta là cái
thân mang bệnh. Thân thể quư vị rất khỏe mạnh,
nhưng ba ngày không ăn cơm sẽ đói ră ruột, chẳng
có khí lực ǵ hết. Mạnh khỏe ở chỗ nào? Cơm
là thuốc. Quư vị thấy đó: Sau mấy tiếng
đồng hồ lại phải dùng thuốc một lần,
chẳng uống thuốc ấy, thân thể sẽ chẳng
thể chống chọi được! Thân thể quư vị
khỏe mạnh, cường tráng ở chỗ nào? Giả
trất, chẳng thật! Mê hoặc, điên đảo!
Nhưng cách mấy tiếng đồng hồ, quư vị lại
phải uống thuốc ấy để duy tŕ thân mạng.
Trừ thân mạng ra, quư vị phải nghĩ: Quư vị
c̣n có huệ mạng. Trừ cái thân xác thịt ra, c̣n có Pháp
Thân. Làm thế nào để duy tŕ Pháp Thân huệ mạng của
chúng ta? Lẽ nào ăn cơm chẳng phải là Phật sự?
Lẽ nào chẳng phải là tu hành? Chẳng có chuyện nào
không phải là Phật sự! Chẳng có một pháp nào chẳng
thông với vô thượng đạo!
Vô thượng đạo là
Chân Như bổn tánh, đạo lư ǵ vậy? V́ hết thảy
các pháp đều từ Chân Như bổn tánh biến hiện.
Kinh Đại Thừa đă dạy: “Ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo”
(Nên quán tánh pháp giới, hết thảy chỉ do tâm tạo),
không có pháp nào chẳng thông với tánh Thấy. Kinh Lăng
Nghiêm nói rất hay: “Nhất thiết
pháp nhân tâm thành Thể” (hết thảy các pháp do tâm mà
thành Thể), “ngoài tâm không pháp,
ngoài pháp không tâm”, quư vị học Phật thường
nghe những câu này. V́ thế, chẳng có pháp nào không thể
giác ngộ, chẳng có pháp nào không thể nhập đạo.
Người căn tánh nhạy bén, thấy hoa bay, lá rụng
trong thiên nhiên đều có thể ngộ “vạn pháp vô thường”, có thể buông xuống
hết thảy thân tâm thế giới, tâm được
thanh tịnh. Kẻ nghiệp chướng nặng nề,
đừng nói là chẳng thấy được dấu tích
gợi ư nơi các pháp, mà nghe kinh cũng chẳng hiểu,
cũng chẳng thể giác ngộ, nghiệp chướng
quá nặng!
(Sớ) Pháp năng hiển
nghĩa.
(疏) 法能顯義。
(Sớ: Pháp có thể hiển lộ nghĩa lư).
Chúng tôi vừa nói một chút về
ư nghĩa này.
(Sớ) Tắc pháp pháp tự
chương.
(疏) 則法法自彰。
(Sớ: Nên mỗi pháp tự phơi bày).
“Chương”
là rơ ràng, hiển lộ, chẳng ẩn giấu một tí
nào!
(Sớ) Bất sĩ văn tự.
(疏) 不俟文字。
(Sớ: Chẳng đợi văn tự).
Cần ǵ phải giải nói, cần
ǵ dùng đến văn tự? Đúng là chẳng cần
dùng đến!
(Sớ) Như Hoa Nghiêm vân đài, bảo vơng, mao khổng
quang minh, giai năng thuyết pháp.
(疏) 如華嚴雲臺寶網,毛孔光明,皆能說法。
(Sớ: Như trong
kinh Hoa Nghiêm, đài mây, lưới báu, lỗ chân lông tỏa
quang minh đều có thể thuyết pháp).
Quư vị hăy nên liễu giải,
những thứ ấy nói pháp ǵ vậy? Tôi vừa mới
nêu lên một thí dụ trước mắt: Cây nến thuyết
pháp ǵ? Hương thuyết pháp ǵ? Bục giảng thuyết
pháp ǵ? Tượng Phật thuyết pháp ǵ? Đều phải
hiểu. Quư vị thảy đều hiểu rơ, danh
xưng chung của chúng là Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh. Kinh Hoa Nghiêm sống động, chẳng
phải là một bản kinh [chết cứng], chẳng phải
là bộ kinh tám mươi quyển! Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh là thế giới
hiện tiền, nếu quư vị hiểu, sẽ nhập cảnh
giới Hoa Nghiêm.
(Sớ) Tịnh Danh vân: Hữu Phật
thế giới, dĩ hương phạn nhi tác Phật sự.
(疏) 淨名云:有佛世界,以香飯而作佛事。
(Sớ: Kinh Tịnh
Danh nói: “Có thế giới Phật dùng cơm thơm[9] để làm Phật sự).
Người trong thế giới
ấy thiệt căn nhạy bén! Người trong thế
gian này của chúng ta vừa nghe kinh liền khai ngộ!
Người trong thế giới ấy nhĩ căn chẳng
nhạy bén, Phật nói cách nào họ cũng không hiểu, Phật
làm mấy món ăn, họ vừa ăn liền khai ngộ.
Họ khai ngộ từ ngũ vị, căn tánh khác nhau!
Chúng ta đến thế giới ấy, Phật quyết
định chẳng mời chúng ta ăn cơm, v́ sao? Càng
ăn càng mê, chẳng thể khai ngộ. Do vậy, đọc
đến đoạn kinh Duy Ma này, đừng nghĩ sang
thế giới ấy v́ thế giới ấy hằng ngày
có món ngon. Thế giới ấy khá lắm, quư vị muốn
sang bên đó, căn tánh chẳng thích hợp, quư vị sang
bên đó cũng chẳng ăn ǵ được!
(Sớ) Hữu Phật thế giới
dĩ quang minh nhi tác Phật sự.
(疏) 有佛世界,以光明而作佛事。
(Sớ: Có thế giới Phật dùng quang minh để
làm Phật sự).
Đây là Phật phóng quang, quư vị
thấy quang minh ấy bèn khai ngộ. Quư vị hiểu ư
nghĩa tượng trưng bởi quang minh ấy, màu sắc
của quang minh cũng nhiều đến vô lượng.
Trong thế gian hiện thời của chúng ta cũng có,
nhưng ít hơn. Ở ngă tư đặt đèn đỏ,
đèn xanh, đèn vàng, chúng ta đều hiểu, chẳng cần
phải nói. Người lái xe trông thấy đèn đỏ
liền biết ngừng lại. Đó là “làm Phật sự”,
quư vị bèn giác ngộ. Do vậy, có thế giới, đức
Phật chẳng nói câu nào, mà phóng quang, đại chúng trông
thấy bèn khai ngộ, phiền năo cũng đoạn, Phật
đạo cũng thành.
(Sớ) Năi chí nhất sắc, nhất
hương, nhất cử, nhất động.
(疏) 乃至一色一香,一舉一動。
(Sớ: Cho đến
một sắc, một hương, nhất cử, nhất
động).
Cử động có thể biểu
thị pháp ư? Có thể biểu thị pháp! Trong thế
gian hiện tại của chúng ta cũng có, thủ ngữ
(sign language, ngôn ngữ giao tiếp bằng cách dùng tay ra dấu).
Trước kia, người ngoại quốc đề
xướng phổ biến [thủ ngữ], v́ sao? Không
thông hiểu ngôn ngữ, dùng “thủ ngữ” để trao
đổi ư kiến bèn hiểu nhau. Học ngôn ngữ rất
phiền phức, học thủ ngữ dễ dàng hơn. Học
xong, đi khắp thế giới đều có thể sử
dụng được, động tác mà! V́ thế, chúng ta
thấy thủ ấn của Phật, Bồ Tát, đó chính
là động tác, các động tác ấy cũng biểu
thị những ư nghĩa rất sâu!
(Sớ) Kim thử kinh giả, thủy, điểu,
thụ lâm, hàm tuyên diệu pháp, tắc tùy cử nhất
pháp, giai thành giáo thể.
(疏) 今此經者,水鳥樹林,咸宣妙法,則隨舉一法,皆成教體。
(Sớ: Nay kinh này:
Nước, chim, rừng cây đều tuyên diệu pháp. Lấy
bất cứ pháp nào đều thành giáo thể).
Do điều này có thể biết:
Giáo thể rộng lớn chẳng có ngằn mé. V́ sao? Nói
xuyên suốt th́ Tánh - Tướng bất nhị, Tánh - Tướng
như một. Ĺa Tướng, nào c̣n có Tánh? Muốn thấy
Tánh th́ phải thấy từ Tướng. Cổ đức
có tỷ dụ: “Dùng vàng chế
đồ vật, món nào cũng là vàng”. Rời khỏi
đồ vật chẳng t́m ra vàng, rời khỏi vàng chẳng
có đồ vật. Hai thứ này nương tựa vào
nhau mà tồn tại. Mối quan hệ giữa Tánh và Tướng
là như vậy đó. Nói đến Phật pháp th́ mối
quan hệ giữa Văn và Nghĩa cũng như thế
đó. Từ chỗ này có thể thấu hiểu những
nghĩa thú được nói trong phần Tùy Tướng,
chúng ta mới hiểu rơ Thể Tánh của kinh. Sau khi hiểu
rơ, chẳng riêng bộ kinh này, mà hết thảy các pháp do đức
Phật đă nói chúng ta đều tin tưởng, đều
chẳng hoài nghi. Đức Phật nói ngoài mười vạn
ức cơi Phật lại có thế giới, chúng ta cũng
tin tưởng, v́ sao? Do tâm mà thành Thể. Tự tánh của
chúng ta là vạn đức, vạn năng, thế giới
Tây Phương là cái được biến (Sở Biến),
là vật được biến hiện bởi tâm thức
của chính ḿnh. Công năng này vô lượng vô biên, lẽ
nào chẳng thể biến hiện? Sau khi hiểu rơ Lư, quư
vị sẽ khẳng định chân tướng sự thật,
chẳng hoài nghi nữa.
Đoạn văn này chủ yếu
nhằm tăng trưởng tín tâm cho chúng ta. Trong bốn
đoạn, hôm nay chúng tôi giảng xong một đoạn,
phần sau c̣n ba đoạn nữa, đều nhằm thâm
nhập, thảo luận Giáo Thể. Hôm nay đă hết thời
gian rồi.
A Di
Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa
Phần
40 hết
[1] Ngũ suy là năm dấu hiệu báo
trước một vị trời sắp hết thọ mạng,
chia thành hai loại: Đại ngũ suy và tiểu ngũ
suy.
Đại ngũ suy là: 1) Y phục tự
nhiên biến thành bẩn thỉu, nặng nề. 2) Hoa cài
trên đầu bị héo. 3) Dưới nách toát mồ hôi. 4)
Thân thể bẩn thỉu, rít nhớp. 5) Chẳng ưa
thích ṭa ngồi của chính ḿnh.
Tiểu ngũ suy là: 1) Tiếng nhạc
không tự nhiên trỗi lên nữa. 2) Ánh sáng nơi thân mờ
yếu. 3) Nước tắm dính vào ḿnh. 4) Tham đắm cảnh
chung quanh không bỏ được. 5) Cảm thấy thân
trống rỗng, mắt nháy lia lịa.
[2] Theo Hoa Nghiêm Kinh Sớ, chữ Thân có
nghĩa là “tụ tập”. Do Văn là từ Cú hợp thành,
Cú do Danh hợp thành, nên Cú và Văn được gọi
chung là Thân.
[3] Trong phần này, không rơ v́ sao ḥa thượng
Tịnh Không chỉ nói năm môn đầu, không giảng
năm môn c̣n lại. Theo A Di Đà Kinh Sớ Sao Sự
Nghĩa, mười môn ấy chính là: 1) Âm thanh ngữ ngôn
2) Danh cú văn thân 3) Thông thủ tứ pháp 4) Chư pháp hiển
nghĩa 5) Nhiếp cảnh duy tâm 6) Hội duyên nhập
Không (gom các duyên về Không) 7) Lư Sự vô ngại 8) Thông nhiếp
sở thuyên (đúc kết những điều đă nói) 9)
Sự sự vô ngại 10) Hải ấn bính hiện (Chân
như hải ấn hiển hiện rạng ngời).
[4] Hoa Nghiêm Huyền Đàm có tên đầy
đủ là Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao Huyền Đàm, c̣n gọi
là Thanh Lương Huyền Đàm. Nội dung bao gồm phần
cương yếu và những phần luận định
liên quan đến Huyền Nghĩa của kinh Hoa Nghiêm trích
từ các tác phẩm Hoa Nghiêm Kinh Sớ và Hoa Nghiêm Kinh Tùy Sớ
Diễn Nghĩa Sao. Tác phẩm này lại c̣n được
chú giải bởi các bộ Hoa Nghiêm Huyền Đàm Quyết
Trạch (do Tông Diễn soạn) và Huyền Đàm Hội
Huyền Kư (do Phổ Thụy soạn).
[5] Tu từ là biện pháp tăng cường
hiệu quả thuyết phục của ngôn ngữ, ngoài mục
đích thẩm mỹ, c̣n tăng cường sức hấp
dẫn, tạo ấn tượng trong tâm trí người
nghe, cũng như khiến cho những ư tưởng
được diễn tả trở nên rơ ràng, mạch lạc.
Những biện pháp tu từ thường dùng nhất trong
chữ Hán là ngụ ngôn, phú (diễn tả trực tiếp),
tỷ (so sánh), hứng (gợi ư liên tưởng), khoa sức
(thậm xưng, nói ngoa), phúng thích (bỡn cợt), đảo
ngữ... cũng như sử dụng điển tích, thành
ngữ v.v... Tác phẩm đầu tiên nghiên cứu một
cách hệ thống về Tu Từ Học là Văn Tâm
Điêu Long của Lưu Hiệp.
[6] Văn Biền Thể c̣n gọi là Tứ
Lục, Biền Lệ, Biền Văn, Biền Phú v.v... Theo
sách Thuyết Văn Giải Tự, Biền (駢) có nghĩa là hai con ngựa cưỡi
đi song song. Biền Văn đă có từ thời Tiên Tần,
hưng thịnh nhất dưới thời Ngụy - Tấn,
về sau trở thành thể văn bắt buộc phải
dùng trong trường thi vào đời Minh và Thanh. Toàn thể
bài văn phải theo kết cấu đối ngẫu, tức
là trừ một ít câu, cứ mỗi đoạn đều
có thể chia thành hai vế đối, số chữ, vần
điệu đều phải giống nhau, mỗi chữ
chính yếu phải “ăn vần” với nhau rất phức
tạp. Mỗi câu dùng bốn chữ, hay sáu chữ là chính,
đôi khi có thể dùng năm hay bảy chữ, có khi dùng
đến tám, chín, mười chữ, nhưng rất ít
khi dùng đến kiểu này. Lời văn phải hết
sức đẹp đẽ, bóng bảy, sử dụng
điển tích cầu kỳ, bí hiểm, âm thanh du
dương nhằm phô diễn sự học rộng,
nhưng nhiều khi nội dung rỗng tuếch! Xin trích một
đoạn trong bài Thu Nhật Đăng Hồng Phủ
Đằng Vương Các Tiễn Biệt Tự (Lời
giăi bày nhân một ngày Thu lên gác Đằng Vương của
Hồng Phủ tiễn biệt nhau): “Lạo thủy tận nhi hàn đàm thanh, yên quang
ngưng nhi mộ sơn tử. Tằng đài
tủng thúy, thượng xuất trùng tiêu, phi các tường
đan, hạ lâm vô địa. Hạc đinh phù chử, cùng đảo
dự chi oanh hồi, quế điện lan cung, tức
cương loan chi thể thế” (tạm dịch:
Nước lụt đă hết, đầm lạnh xanh thẫm.
Chiều tà, khói quyện ánh sáng, núi tím biếc. Đài cao chập
chùng chót vót, vút tận trời xanh, gác son chênh vênh, nh́n không
thấy đất. Le, hạc xúm xít bến sông, sóng vờn
quanh đảo, cung lan, điện quế, dường thế
núi quanh co).
[7] “Thiên vận”
là tên gọi gộp chung hai bộ sách Ngọc Thiên và Quảng
Vận. Sách Ngọc Thiên là một loại tự điển
cổ xưa do Cố Dă Vương biên soạn dưới
đời Lương vào thời Nam Bắc Triều, phỏng
theo cách biên soạn của bộ Thuyết Văn Giải Tự,
nhưng cải tiến, hợp lư hơn, gồm ba
mươi quyển, 16.917 chữ, chia thành 542 bộ thủ.
Với mỗi chữ có ghi âm đọc theo cách Phiên Thiết
(tức dùng hai chữ đă biết ghép lại nhằm giải
thích âm đọc. Chẳng hạn, chữ 詮 được chú âm cách đọc
là Thả Duyên thiết, nên phải đọc là Thuyên). Sơ Tổ Chân Ngôn Tông của Nhật
Bản là ngài Không Hải vào năm 806 đă mang tác phẩm
này về Nhật, và dựa theo đó để biên soạn
bộ Tenrei Basho Meigi (Triện Lệ Vạn Tượng
Danh Nghĩa), tức là bộ tự điển đầu
tiên của Nhật. Quảng Vận có tên gọi đầy
đủ là Đại Tống Trùng Tu Quảng Vận, do
nhóm Trần Bành Niên biên soạn trong niên hiệu Tường
Phù đời Tống Chân Tông, là một bộ sách
được biên tập từ các vận thư (sách dạy
cách gieo vần trong khi làm thơ phú, chữ nào vần với
chữ nào) trước đó như Thiết Vận,
Đường Vận v.v... Nội dung sách rất rắc
rối, chia các chữ Hán thường dùng thời đó
(26.194 chữ) thành bốn loại dựa theo dấu giọng
(b́nh, thượng, khứ, nhập) rồi với mỗi
giọng lại chia thành các vần, thành hai trăm lẻ
sáu hệ thống vần chính. Do vậy, từ ngữ “thiên vận” thường
được dùng để chỉ các loại từ
điển và sách dạy gieo vần nói chung.
[8] Thập Tam Kinh là mười ba bộ
kinh điển chủ yếu của Nho gia mà các sĩ tử
Trung Hoa kể từ đời Tống bắt buộc phải
học nếu muốn đỗ đạt, gồm kinh
Thi, kinh Thư, Lễ Kư, Châu Dịch, Tả Truyện (Tả
Thị Xuân Thu là bộ biên niên sử nhằm chú giải
kinh Xuân Thu do Tả Khâu Minh biên soạn), Công Dương Truyện
(chú giải kinh Xuân Thu do Công Dương Cao người
nước Tề biên soạn), Cốc Lương Truyện
(chú giải kinh Xuân Thu do Cốc Lương Tử biên soạn),
Châu Lễ (tương truyền do Châu Công biên soạn, viết
về cách tổ chức quan chế đời Châu), Nghi Lễ
(ghi chép các thứ nghi lễ đời Châu), Luận Ngữ
(ghi chép lời dạy của Khổng Tử), Hiếu Kinh
(ghi chép lời Khổng Tử dạy Tăng Sâm về
đạo hiếu), Nhĩ Nhă (bộ từ điển
đầu tiên của Trung Hoa, không rơ tác giả) và Mạnh Tử
(sách ghi lại tư tưởng, quan điểm của Mạnh
Tử, thường được tin là do chính Mạnh Tử
biên soạn, và do các học tṛ của ông như Vạn
Chương, Công Tôn Sửu v.v... chỉnh lư).
[9] Theo phẩm Hương Tích Phật trong
kinh Duy Ma Cật, ngài Xá Lợi Phất tự nghĩ: “Đă sắp đến giờ
thọ trai, các vị Bồ Tát này sẽ ăn bằng ǵ?” Khi
ấy, cư sĩ Duy Ma Cật bèn bảo: “Đức Phật nói tám món giải thoát, nhân giả
nên phụng hành, há lẽ chẳng ĺa ăn uống để
nghe pháp ư? Nếu ngài muốn ăn, hăy đợi giây
lát, tôi sẽ cho ngài món ăn chưa từng có”. Thế
rồi ngài Duy Ma Cật chẳng rời khỏi ṭa, trước
mặt đại chúng, hóa ra một vị Bồ Tát tướng
hảo quang minh, oai đức thù thắng lấn át chúng hội,
bảo vị Bồ Tát ấy hăy đến cơi Chúng
Hương ở phương trên cách xa Sa Bà bốn
mươi hai hằng hà sa cơi Phật. Trong cơi ấy, Phật
hiệu là Hương Tích Như Lai. Hóa Bồ Tát cầu Phật
ban cho cơm thơm đem về thế giới Sa Bà để
làm Phật sự. Hương Tích Như Lai bèn đem những
cái bát thơm ngát đựng cơm thơm trao cho hóa Bồ
Tát. Chín trăm vạn Bồ Tát cơi ấy cũng theo hóa Bồ
Tát đến thế giới Sa Bà. Khi đó, ngài Duy Ma hóa ra
chín trăm vạn ṭa sư tử, nghiêm tịnh tốt
đẹp cho các vị Bồ Tát ấy ngồi.
Hương thơm từ cơm ấy xông khắp thành Tỳ
Da Ly và tam thiên đại thiên thế giới. Ngài Duy Ma Cật
bảo ngài Xá Lợi Phất và chúng Thanh Văn: “Các vị nhân giả có thể
ăn cơm cam lộ vị, do ḷng đại từ un
đúc của Như Lai, đừng đem ḷng suy nghĩ có
hạn lượng, sẽ không thể tiêu hóa cơm này”.
Hóa Bồ Tát nói: “Đừng
dùng tiểu trí, tiểu đức của Thanh Văn để
suy lường vô lượng phước huệ của
Như Lai. Bốn biển cạn sạch, cơm này vẫn
không hết. Dẫu cho hết thảy mọi người
bốc cơm vo thành nắm to bằng núi Tu Di [để
ăn], ăn suốt một kiếp, cơm vẫn chẳng
hết”.