A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa

阿彌陀經疏鈔演義

Phần 43

Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Huệ Trang và Đức Phong

Tập 85

 

      Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang một trăm bốn mươi mốt.

      Trong phần Dị Giải, những quan điểm được nêu ra trong các bản chú sớ của cổ đức đương nhiên đều rất có lư, đều chẳng mâu thuẫn với chánh kinh. Hôm nay, đoạn văn chúng ta sắp thảo luận chính là lời quyết đoán của Liên Tŕ đại sư: Tông Thú thật sự rốt ráo ở chỗ nào.

 

      (Huyền Nghĩa) Thử kinh tông hồ Pháp Tánh, ư Pháp Tánh trung, phục phân tổng biệt, tổng nhi hợp chi, vị thị y chánh thanh tịnh, tín nguyện văng sanh, dĩ vi Tông Thú.

      (玄義) 此經宗乎法性,於法性中,復分總別,總而合之,謂是依正清淨,信願往生,以為宗趣。

      (Huyền Nghĩa: Kinh này đề cao Pháp Tánh. Trong Pháp Tánh, lại chia thành Tổng và Biệt. Trong phần Tổng [Tông Thú], nói gộp lại [những ư kiến của chư cổ đức] th́ lấy “y báo và chánh báo thanh tịnh, tín nguyện văng sanh” làm Tông Thú).

 

      Ư nghĩa này quả thật đă khái quát rất viên măn những ư kiến về Tông Thú do cổ đức đề ra. Trước tiên nói “tông hồ Pháp Tánh” (đề cao Pháp Tánh), v́ trong Ngũ Giáo, pháp môn Niệm Phật thuộc về Đại Thừa Chung Giáo, cũng là giai đoạn cuối cùng của Đại Thừa, đồng thời c̣n thuộc về Đốn Giáo, là pháp môn đốn siêu. Nó cũng có chút phần ư nghĩa Viên Giáo, Lư Sự vô ngại, thông với kinh Hoa Nghiêm. Đại Thừa Chung Giáo nói về Pháp Tánh, tuy cũng nói về Pháp Tướng, nhưng những Pháp Tướng được nói tới cuối cùng đều quy vào Pháp Tánh. Kinh này cũng mang ư nghĩa ấy, v́ trong kinh này dạy “viên chứng ba thứ Bất Thoái”, hăy đặc biệt chú ư tới chữ Viên v́ trong hết thảy các pháp môn không có chữ này! Ba thứ Bất Thoái Chuyển chính là Vị Bất Thoái, Hạnh Bất Thoái, và Niệm Bất Thoái, trong thế gian chúng ta rất khó đạt được, quả thật chẳng dễ dàng! Vị Bất Thoái chắc chắn chẳng đọa trong ba ác đạo; nói cách khác, bảo đảm chẳng lui sụt, đạt được bảo đảm. Điều này không chỉ cần phải có Thiền Định, mà c̣n cần trí huệ quán chiếu, v́ sao? Trong Kiến Tư phiền năo, nhất định phải đoạn tất cả tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc trong tam giới.

       Nếu chẳng đoạn Kiến Tư phiền năo, dẫu công phu định lực tốt đẹp tới đâu đi nữa, có thể sanh vào trời Tứ Thiền, hay có thể sanh vào cơi trời Tứ Không, vẫn là lục đạo phàm phu! Sanh lên trời Tứ Thiền, khi thọ mạng trong cơi trời Tứ Thiền đă hết, vẫn phải đọa lạc! Tứ Không Thiên cũng chẳng ra ngoài lệ ấy, vẫn phải đọa lạc, luân hồi! Phàm là địa vị càng cao, đọa lạc càng nặng. Khi thọ mạng của chư thiên Tứ Thiền, Tứ Không đă hết, nếu chẳng đọa địa ngục, sẽ đọa trong súc sanh đạo; hơn nữa, quá nửa là đọa địa ngục, đúng như câu nói: “Trèo cao, ngă đau”. Tiểu Thừa Sơ Quả công phu định lực chẳng bằng Tứ Thiền Thiên và Tứ Không Thiên, nhưng họ có trí huệ, có huệ giải, có thể đoạn phiền năo. Các đồng tu thật sự học Phật nhất định phải chú ư: Phiền năo chẳng đoạn, chẳng thể liễu sanh tử! Nếu quư vị chẳng bị phiền năo quấy nhiễu, đời này có thể thành Phật; quư vị bị phiền năo nhiễu loạn, e rằng đời sau chẳng dễ ǵ sanh trong hai đường trời người. Vấn đề này hết sức nghiêm trọng, ai cũng chẳng giúp được!

      Đoạn trừ tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc là địa vị Kiến Đạo trong Tiểu Thừa. Vị ấy đă thấy đạo, thấy đạo rồi sẽ tu đạo, đó mới là Vị Bất Thoái, chắc chắn chẳng đọa trong ba ác đạo. Vị ấy tu hành chứng quả cũng có kỳ hạn, bảy lần sanh trong cơi trời hay cơi người sẽ đoạn Tư Hoặc; Tư Hoặc đoạn rồi bèn chứng quả A La Hán. Sau khi đă chứng A La Hán, hồi Tiểu hướng Đại, mới có thể đạt đến Hạnh Bất Thoái. Hạnh Bất Thoái chẳng c̣n lui sụt xuống Nhị Thừa (Thanh Văn, Duyên Giác); nói cách khác, vị ấy quyết định là Đại Thừa Bồ Tát, chẳng bị lùi xuống địa vị Tiểu Thừa. Niệm Bất Thoái là mong thành Phật, niệm niệm đều tinh tấn hướng về Vô Thượng Bồ Đề, chẳng bị thoái chuyển, đó là bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo, hay Sơ Địa trong Biệt Giáo. Đó gọi là “niệm niệm lưu nhập biển Tát Bà Nhă”, biển Tát Bà Nhă (Sarvajña) chính là Vô Thượng Bồ Đề, chẳng bị thoái chuyển nữa. Tuy vị ấy đă chứng ba thứ Bất Thoái Chuyển, nhưng chưa viên, “viên” là viên măn! Viên măn ba thứ Bất Thoái chính là bậc Đẳng Giác Bồ Tát. Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Văn Thù, Phổ Hiền, Di Lặc Bồ Tát đă viên chứng ba thứ Bất Thoái.

      Văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, quư vị chẳng văng sanh th́ thôi, hễ văng sanh, dẫu chỉ là hạ hạ phẩm văng sanh, đều viên chứng ba thứ Bất Thoái. Quư vị hăy suy nghĩ: Tiện nghi như thế t́m ở đâu ra! Ai nấy đều mong văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, có văng sanh hay chăng? Nói thật ra, được văng sanh hay không, chớ hỏi ai khác, hăy hỏi chính ḿnh! Nếu người khác tán thán quư vị: “Quư vị nhất định [văng sanh] chẳng có vấn đề ǵ!” Kẻ ấy hoàn toàn chẳng bảo đảm! Đến khi ấy, quư vị có thể văng sanh hay không vẫn phải dựa vào chính ḿnh. So với chuyện tu học các pháp môn khác, điều này vẫn tốt hơn nhiều lắm, vẫn dễ đạt hơn nhiều. Thế nhưng quư vị vẫn phải tự trừ bỏ chướng ngại, tự buông vọng tưởng xuống! Chướng ngại chẳng thể trừ bỏ, vọng tưởng chẳng thể buông xuống được, th́ một câu Phật hiệu chưa niệm đắc lực. Đối với công phu như vậy, trong lúc b́nh thường, chúng ta phải kiểm nghiệm, kiểm thảo xem câu Phật hiệu của chính ḿnh có niệm đắc lực hay chưa. Đắc lực là ǵ? Khi ta niệm câu Phật hiệu này, quả thật có niệm trừ được phiền năo, vọng tưởng của ḿnh. Khi chẳng niệm Phật, phiền năo, vọng tưởng lại dấy lên. Khi niệm Phật, quả thật có thể bỏ được phiền năo, vọng tưởng; công phu như thế gọi là “đắc lực”. Nếu niệm tới niệm lui mà vọng tưởng phiền năo vẫn dấy lên như cũ th́ niệm Phật hiệu chẳng đắc lực! Chính ḿnh phải tự hiểu t́nh huống này, làm cách nào để giúp cho chính ḿnh có công phu đắc lực mới nắm chắc văng sanh.

      Cổ đức cũng nói: “Người niệm Phật phải thường dán một chữ Chết trên trán”. Chúng ta phải hiểu dụng ư thật sự của câu nói này. Thứ nhất là nâng cao sự cảnh giác của chính ḿnh; thứ hai là dạy chúng ta hăy buông xuống muôn duyên. Đó gọi là “sanh ra chẳng mang theo ǵ đến, chết chẳng mang theo ǵ đi”, “muôn thứ đem chẳng được, chỉ có nghiệp theo thân”, quư vị chẳng thể mang theo ǵ cả! Khuyến khích chúng ta hăy buông xuống! Thân tâm, thế giới, hết thảy đều buông xuống, công phu dễ đắc lực. Có ư niệm cảnh giác này, quư vị sẽ tinh tấn chẳng lười, chẳng dám khinh dễ, bỏ lỡ tháng ngày quư báu, dùng thời gian quư báu này để dấy vọng tưởng, v́ sao chẳng dùng thời gian ấy để niệm Phật, văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới? Hoàn toàn chẳng giống nhau!

      Quư vị thành Phật th́ mới thật sự có thể yêu thương, che chở người nhà. Nếu quư vị chẳng thành Phật, vô dụng! Sau khi đă thành Phật, bất luận người nhà quyến thuộc ở trong nẻo nào, quư vị đều nhận biết, đều có thể t́m được họ, đều có thể giúp đỡ họ. Nếu quư vị chẳng thành Phật, chính ḿnh một mực hồ đồ, người nhà quyến thuộc có đầu thai vào nhà quư vị, quư vị cũng chẳng nhận biết, thật đấy! Có cha mẹ thân yêu nhất, con cái sau khi đă chết, bèn đầu thai làm chó, làm gà trong nhà ḿnh, quư vị cũng chẳng biết, một mực giết chúng để ăn. Trong kinh Phật, chúng ta đă thấy [nói tới] điều này, do không biết mà!

      “Nhất niệm bất sanh” là Phật, “nhất tâm bất loạn” chắc chắn thấy Phật; v́ thế, nói là “tông hồ Pháp Tánh” (đề cao Pháp Tánh). Trong Pháp Tánh, lại chia thành Tổng và Biệt. Ư nghĩa Tổng là “y báo và chánh báo thanh tịnh, tín nguyện văng sanh”. Đó là nghĩa chung, chúng ta hăy xem lời chú giải.

 

      (Sớ) Thủ tiền nhị thuyết kiêm hợp ngôn chi, tổng vi Tông Thú, dĩ tiền thuyết bất cai y chánh, hậu thuyết vị tường tín nguyện, cố tu kiêm hợp, thỉ đắc vô di.

      () 取前二說兼合言之,總為宗趣,以前說不該依正,後說未詳信願,故須兼合,始得無遺。

      (Sớ: Lấy hai thuyết trên đây cùng gộp lại để nói, tổng hợp thành Tông Thú. Bởi lẽ, thuyết trước chẳng bao gồm y báo và chánh báo, thuyết sau chẳng nói rơ tín nguyện, nên phải hợp lại th́ mới chẳng thiếu sót ǵ).

 

      Liên Tŕ đại sư nhận định cách nh́n của cổ đức. Trong phần trước, dựa theo lời cổ đức, có bản chú giải lấy tín nguyện làm Tông, có những bản chú giải lấy y báo và chánh báo thanh tịnh làm Tông, ư nghĩa đều chẳng viên măn, đều lệch vào một bên. Liên Tŕ đại sư nói: Ư chỉ chính xác phải gồm cả hai điều này. V́ thế, hợp thuyết “y báo chánh báo thanh tịnh” và “tín nguyện văng sanh” của cổ đức làm tông chỉ sẽ chẳng bị thiếu khuyết ư nghĩa.

 

      (Sớ) Lương diêu y chánh tín nguyện, kiêm bị giao tư, nhi đắc văng sanh, giai bất xuất tự tâm cố.

      () 良繇依正信願,兼備交資而得往生,皆不出自心故。

      (Sớ: Ấy là v́ y báo, chánh báo, tín nguyện đều trọn đủ, phụ trợ lẫn nhau, bèn được văng sanh, đều chẳng ra ngoài tự tâm).

 

      Có tín, có nguyện, nếu không có y báo và chánh báo trang nghiêm nơi Tây Phương Cực Lạc thế giới, tín và nguyện của chúng ta đều phí uổng; v́ thế, nhất định phải nương vào “y báo và chánh báo thanh tịnh” để giúp đỡ “tín nguyện” của chúng ta. Chúng ta thấy Tây Phương Cực Lạc thế giới tốt đẹp như thế th́ mới khởi tín tâm, mới phát nguyện văng sanh. Xem chuyện này trong kinh Vô Lượng Thọ, quư vị xem bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật, vừa đọc bốn mươi tám nguyện bèn chẳng thể không [phát nguyện] văng sanh! Thấy có thế giới tốt đẹp dường ấy, hoàn cảnh tốt đẹp dường ấy, làm sao có thể không sanh về? Không nghe nói tới, chưa thấy, tín nguyện chẳng sanh khởi; chứ nghe rồi, thấy rồi, nhất định sẽ mong sanh về. “Tư” là tư trợ (資助: giúp đỡ), giúp đỡ quư vị, giúp quư vị sanh tín tâm, giúp quư vị phát nguyện, nẩy sanh nguyện vọng cầu văng sanh. Có y báo và chánh báo thanh tịnh của Tây Phương, mà nếu chẳng có tín nguyện, cơi nước thanh tịnh ấy có liên quan ǵ với chúng ta đâu nhỉ? Chẳng có liên quan ǵ! Do vậy, nhất định phải có tín, có nguyện, như thế th́ mới có thể giúp chúng ta đích thân chứng được hai thứ quả báo nơi y báo và chánh báo bên Tây Phương. Đủ thấy “y báo, chánh báo thanh tịnh” và “tín nguyện văng sanh” là một, không hai!

      “Giai bất xuất tự tâm giả” (đều chẳng ra ngoài tự tâm), chắc có kẻ hoài nghi, đă là “y báo, chánh báo tín nguyện văng sanh là Tông Thú”, cần ǵ phải nói “Pháp Tánh là Tông”? Do vậy, ở đây Liên Tŕ đại sư phải giảng giải rơ ràng. Cổ đức có vị nói kinh Hoa Nghiêm lấy “vô ngại thậm thâm pháp giới làm Tông”, cũng có người nói “lấy duyên khởi làm Tông, pháp giới duyên khởi chính là lẫn nhau, nhập vào lẫn nhau”, cũng có người nói “lấy nhân quả làm Tông”. Đủ thấy đại đức đối với Tông Thú có cách nh́n không nhất định, mỗi người có cách nh́n riêng, đều nói có lư, tùy thuộc người ấy nh́n từ góc độ nào. Có rất nhiều cách nói, chúng ta đều có thể dùng làm tham khảo.

      Trước khi đức Phật nhập Niết Bàn, đă răn dạy đệ tử đời sau, hăy nương theo Tứ Y Pháp! Tuân thủ Tứ Y Pháp sẽ giống hệt, chẳng khác ǵ đức Phật tại thế. Điều thứ nhất trong Tứ Y Pháp là “y pháp, chẳng y nhân”. Pháp là kinh điển, chúng ta phải nương tựa vào đó. “Nhân” là ǵ? Chú giải do con người viết lời giải thích; v́ thế, từ xưa đến nay nhiều bản chú giải của cổ đức chỉ để cho chúng ta tham khảo. Chúng ta nương vào kinh, như thế th́ mới chẳng có thiên kiến, chẳng đi sai đường. Bất luận cổ nhân nói như thế nào, chúng ta nghe thử, nếu hợp lư th́ chọn lấy một phần, tôi quyết định chẳng hoàn toàn đi theo Ngài. Chính ḿnh làm như vậy th́ mới có thể khai ngộ, mới có kiến giải của chính ḿnh. Nếu không, bị người khác xỏ mũi lôi đi, không được rồi! Thế nhưng có không ít đồng tu mắc phải bệnh này, hễ nghe, học điều ǵ đầu tiên sẽ coi điều ấy là chánh yếu, chịu ảnh hưởng của vị tổ sư đại đức tiếp xúc lần đầu, chấp trước kiến giải của vị ấy là đúng, bài xích những ư kiến bất đồng của người khác. Đó là lầm lỗi, là “y nhân, chẳng y pháp”. Tuy tổ sư đại đức rất cao minh, họ chưa thành Phật, kiến giải của họ chưa phải là viên măn rốt ráo, họ chỉ có thể thấy được một phần. V́ thế, chúng ta chỉ có thể dùng [kiến giải của họ] làm [tài liệu] tham khảo, chớ nên hoàn toàn vâng theo họ.

      Kinh Hoa Nghiêm nói về hành vi của Bồ Tát vô cùng rơ ràng, lại c̣n nói đến tu hành chứng quả. Thanh Lương đại sư chia toàn bộ bản kinh thành bốn đoạn lớn là Tín, Giải, Hành, Chứng, thứ tự vô cùng tinh nghiêm, cuối cùng là mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về Cực Lạc. Có người nói kinh Hoa Nghiêm “lấy Hải Ấn tam-muội lư thật làm Tông”, có người bảo “lấy nhân quả và lư thật hợp làm tông”, nhân quả là hạnh vị, lư thật là pháp giới. Đấy là cách nh́n của cổ đức đối với kinh Hoa Nghiêm, rất tương tự cách nh́n của cổ đức đối với kinh này [như đă nói] trong phần trên. Hiền Thủ đại sư đă dung hợp rất nhiều cách nh́n của các đại đức từ xưa thành một; nay Liên Tŕ đại sư có cách nh́n này, chẳng phải là do Ngài sáng tạo, phát hiện, Ngài cũng có căn cứ: Ngài cũng tuân theo lời khải thị của Hiền Thủ đại sư.

 

      (Sớ) Kỳ tổng vi Tông Thú giả, như Hoa Nghiêm lệ.

      () 其總為宗趣者,如華嚴例。

(Sớ: Tổng Tông Thú của kinh này phỏng theo [cách phán định Tông Thú] của kinh Hoa Nghiêm).

 

      Giống như chúng tôi vừa mới nói với quư vị [những điều này].

 

      (Sớ) Bỉ kinh diệc kiêm chúng thuyết, tổng nhân quả duyên khởi Lư Thật pháp giới dĩ vi Tông Thú cố.

      () 彼經亦兼眾說,總因果緣起理實法界以為宗趣故。

      (Sớ: Kinh ấy cũng bao gồm các thuyết, gộp chung nhân quả, duyên khởi, Lư Thật, pháp giới làm Tông Thú).

 

      Cách nói này rất có lư, Ngài cũng có căn cứ.

 

      (Sớ) Nhược dục phân chi.

      () 若欲分之。

      (Sớ: Nếu muốn tách ra).

 

      Phân chia, vạch giới hạn rơ hơn một chút.

 

      (Sớ) Thượng cú vi Tông, hạ cú vi Thú, nghĩa diệc tự minh.

      () 上句為宗,下句為趣,義亦自明。

      (Sớ: Câu trên là Tông, câu dưới là Thú, ư nghĩa cũng tự sáng tỏ).

 

      “Thượng cú vi Tông, hạ cú vi Thú” (câu trên là Tông, câu dưới là Thú), lấy kinh Hoa Nghiêm làm thí dụ, [Tông của] kinh Hoa Nghiêm là “nhân quả, duyên khởi”, đây là câu trên, là tông chỉ của kinh, “Lư Thật, pháp giới” là Thú. Tuân theo thể lệ [phán định Tông Thú] của kinh Hoa Nghiêm, đối với kinh Di Đà, “y báo, chánh báo thanh tịnh” là Tông, “tín nguyện văng sanh” là Thú.

 

      (Sớ) Nhược dục gia chi, bỉ kinh gia bất tư nghị, kim kinh diệc nhĩ.

      () 若欲加之,彼經加不思議,今經亦爾。

      (Sớ: Nếu muốn thêm nữa th́ kinh kia (kinh Hoa Nghiêm) c̣n thêm vào “chẳng nghĩ bàn”, kinh này (kinh Di Đà) cũng thế).

 

      Kinh Di Đà cũng là chẳng nghĩ bàn, cũng là kinh chẳng thể nghĩ bàn. Thêm vào theo cách nào? Lấy kinh này làm mẫu th́ “y báo và chánh báo thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn” là Tông, “tín nguyện văng sanh chẳng thể nghĩ bàn” là Thú. Tín nguyện văng sanh cũng chẳng thể nghĩ bàn, tuyệt diệu!

 

      Nhị, biệt minh.

      (Huyền Nghĩa) Hựu biệt minh chi, tắc thành ngũ đối: Nhất giáo nghĩa, nhị Sự Lư, tam cảnh hạnh, tứ hạnh tịch, ngũ tịch dụng, dĩ vi Tông Thú.

      二、別明

      (玄義) 又別明之,則成五對:一教義,二事理,三境行,四行寂,五寂用,以為宗趣。

      (Hai là nói riêng về Tông Thú của kinh này.

      Huyền Nghĩa: Lại nói Tông Thú riêng của kinh này sẽ gồm năm cặp: Một là giáo nghĩa, hai là Sự Lư, ba là cảnh hạnh, bốn là hạnh tịch, năm là tịch dụng. Dùng [năm cặp ư nghĩa này] làm Tông Thú).

 

      Trong đoạn này, Liên Tŕ đại sư giải thích Tông Thú cặn kẽ, mà cũng là đặc biệt đề cao công dụng của bộ kinh này, mục đích không ǵ chẳng nhằm mong chúng ta sẽ phát khởi tín nguyện chân chánh. Cách nói này quả thật cũng là bất đắc dĩ, v́ thông thường, người thế gian xem nhẹ kinh này. Tuy người niệm tụng kinh Di Đà rất nhiều, trong giới Phật giáo chẳng coi trọng kinh này cho lắm. Phân lượng kinh này ngắn hơn những bộ kinh lớn như kinh Kim Cang, kinh Pháp Hoa, kinh Lăng Nghiêm quá nhiều. Thật ra, kinh Di Đà trọng yếu hơn tất cả các kinh, nhưng mọi người chẳng biết giá trị. V́ thế, Liên Tŕ đại sư bất đắc dĩ phải tốn ngần ấy tinh thần để phân tích cặn kẽ cho chúng ta!

      [Sách Diễn Nghĩa nhận định]: “Thế nhân đa nghi thử kinh văn nghĩa thô thiển” (người đời phần nhiều ngờ kinh này là thô thiển), coi rẻ kinh này, coi thường kinh này, “giáo nghĩa nhất đối túc dĩ phá trừ giá cá kiến giải” (cặp ư nghĩa “giáo nghĩa” đủ để phá trừ kiến giải này), chuyển biến cách nh́n của chúng ta đối với kinh này. “Ngu giả đa chấp Sự nhi mê Lư, Sự Lư nhất đối năng phá trừ tha” (Kẻ ngu phần nhiều chấp Sự mê Lư, cặp ư nghĩa Sự Lư có thể phá trừ kiến chấp ấy). “Cuồng vọng đích nhân đa chấp Lư nhi phế Sự, cảnh hạnh nhất đối túc dĩ phá chi” (kẻ cuồng vọng phần nhiều chấp Lư phế Sự, cặp “cảnh hạnh” đủ để phá trừ). Có thể có kẻ ngờ pháp môn Niệm Phật là pháp hữu vi, chẳng phải là pháp vô vi. Pháp hữu vi nông cạn, không cao minh như pháp vô vi, chẳng bằng Thiền. “Hạnh tịch nhất đối túc dĩ phá chi” (một cặp hạnh tịch đủ để phá [kiến chấp này]). Cũng có người nghĩ “Niệm Phật là Tiểu Thừa giáo, [người tu Tịnh Độ] chỉ mong giải thoát cho riêng ḿnh, chẳng phải là giáo pháp Đại Thừa viên măn nhất, “tịch dụng nhất đối túc dĩ phá chi” (một cặp tịch dụng đủ để phá trừ). Đại sư dùng năm cặp [ư nghĩa] này để thuyết minh.

      Thứ nhất là “giáo nghĩa”: Giáo là ngôn giáo, Nghĩa là nghĩa lư. Người có trí huệ có thể từ một chữ hay một câu trong kinh văn mà hiểu vô lượng nghĩa, nhưng người ngu chỉ biết niệm tụng, chẳng hiểu ư nghĩa. V́ thế, chẳng thể không nêu tỏ [những ư nghĩa được bao hàm trong] cặp “giáo nghĩa”. Rốt cuộc, người trí ít ỏi, kẻ ngu đông đảo nên tất yếu phải thảo luận [“giáo nghĩa”].

      Thứ hai là Lư Sự, Sự là nói tới “y, chánh, tín, nguyện”, tức y báo, chánh báo, khởi ḷng tin, phát nguyện, những điều này đều là Sự. Lư là tự tánh, là Pháp Tánh. Mỗi một điều trong Sự như “y, chánh, tín, nguyện” đều quy về, ḥa nhập vào tự tánh, tức là: Lư và Sự là một, Sự là Sự của Lư, Lư là Lư của Sự, Lư và Sự chẳng hai. Đương nhiên đối với những kẻ chấp Sự mê Lư, họ chẳng hiểu chỉ thú chân thật của kinh này.

      Thứ ba là “cảnh hạnh”. Cảnh là cảnh pháp giới, mà cũng là A Di Đà Phật. Hạnh là tâm pháp giới, tức là nhất tâm chấp tŕ. A Di Đà Phật đă là cảnh pháp giới, nay chúng ta niệm một câu [Phật hiệu], dùng nhất tâm để xưng danh, há chẳng phải là dùng tâm pháp giới để nhập cảnh pháp giới ư? Có khác ǵ kinh Hoa Nghiêm hay chăng? Chẳng khác ǵ! Do vậy, niệm một câu Phật hiệu, phải đặc biệt ghi nhớ, Phật, Tổ đều dạy chúng ta giống hệt: Nhất tâm xưng danh, nhất tâm đấy nhé! Nhất tâm là ǵ? Chẳng có ư niệm thứ hai th́ là nhất tâm. Do vậy, khi niệm Phật, đừng nghĩ “ta cầu nhất tâm”, v́ “cầu nhất tâm bất loạn” là vọng niệm, là nhị tâm. Niệm A Di Đà Phật, trong tâm lại nghĩ đến nhất tâm bất loạn, vẫn mong thấy Phật, thấy tướng tốt lành, vận dụng cả đống cái tâm vào niệm Phật, không được rồi, đó chẳng phải là nhất tâm niệm. Nhất tâm là thật thà, tức là khi chúng ta niệm Phật, ư niệm ǵ cũng chẳng nghĩ đến, cũng chẳng nghĩ đến nhất tâm, cũng đừng nghĩ tới văng sanh, cũng đừng mong thấy Phật, chuyện ǵ cũng chẳng nghĩ tới, thật thà niệm một câu Phật hiệu. Đó gọi là “nhất tâm xưng niệm”, điều này rất quan trọng!

    V́ thế, có kẻ hoài nghi: Chẳng phải là trong kinh dạy chúng ta phải cầu nhất tâm bất loạn đó sao? Dạy chúng ta phải cầu sanh thế giới Cực Lạc đó sao? V́ sao lại chẳng nghĩ đến? Không sai, kinh dạy như thế, [nhưng quư vị phải hiểu]: Dạy quư vị phải có nguyện ấy, nhưng đừng nên có cái tâm ấy. Quư vị có cái tâm ấy, tâm quư vị sẽ biến thành khá nhiều tâm! Quư vị phải có cái nguyện ấy! Đă có cái nguyện ấy, quư vị biết v́ sao chúng ta niệm câu A Di Đà Phật? Ta niệm câu A Di Đà Phật để cầu nhất tâm. Trong tâm chúng ta mong cầu nhất tâm, th́ sẽ chẳng đạt được nhất tâm. Nay đức Phật dạy chúng ta một phương pháp: Niệm A Di Đà Phật có thể đắc nhất tâm, ta niệm A Di Đà Phật chẳng phải là để cầu nhất tâm bất loạn đó sao? Niệm A Di Đà Phật, trong tâm lại nghĩ đến nhất tâm bất loạn, tức là quư vị chẳng nhất tâm xưng danh, chẳng thật thà, vừa niệm A Di Đà Phật vừa khởi vọng tưởng!

      Kinh dạy chúng ta: Niệm A Di Đà Phật có thể văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Chúng ta nguyện văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, cách nguyện như thế nào? Niệm A Di Đà Phật chính là phát nguyện. Quư vị chẳng niệm Phật sẽ chẳng thể văng sanh; niệm Phật bèn có thể văng sanh. Đủ thấy niệm một câu A Di Đà Phật, Tín - Nguyện - Hạnh đều trọn đủ. Quư vị chẳng biết ư vị này, cho rằng trong một câu Phật hiệu chẳng có ǵ hết, Tín cũng không có, Nguyện cũng chẳng có, nhất tâm bất loạn cũng chẳng có, thứ ǵ cũng đều không có. Quư vị niệm như vậy, mỗi ngày niệm mười vạn tiếng, quả thật là không có, v́ sao? V́ trong tâm quư vị chẳng biết A Di Đà Phật có những ǵ. Niệm như vậy rất oan uổng! Cổ nhân nói: “Rách toạc cuống họng cũng uổng công”. V́ thế, quư vị phải hiểu rơ, bất cứ thứ ǵ cũng đều bao gồm trong một câu A Di Đà Phật; niệm một câu A Di Đà Phật có vô lượng vô biên công đức.

      Nhất tâm xưng danh gọi là Nhất Hạnh tam-muội, cũng gọi là Nhất Tướng tam-muội. Quư vị đọc Lục Tổ Đàn Kinh đều biết: Muốn minh tâm kiến tánh thành Phật, làm Tổ, nhất định phải tu hai thứ tam-muội này. Trong Tịnh Độ, hai thứ tam-muội ấy là một câu A Di Đà Phật; chỉ cần quư vị nhất tâm xưng niệm th́ hai thứ tam-muội ấy đều đầy đủ.

      Thứ tư là “hạnh tịch”. Hạnh là Nhất Hạnh tam-muội, là nhất tâm xưng niệm. Tịch là Tịch trong Tịch Quang. Nói cách khác, nhất tâm xưng niệm có thể chứng quả báo Thường Tịch Quang. Kinh Hoa Nghiêm gọi quả báo Thường Tịch Quang là Nhất Chân pháp giới, hay “cảnh giới giải thoát chẳng thể nghĩ bàn” (bất khả tư nghị giải thoát cảnh giới). Quư vị dùng phương pháp khác để tu sẽ rất phiền phức, rất khó tu thành công; nhất tâm xưng niệm A Di Đà Phật, dùng phương pháp này dễ dàng, có thể hoàn thành trong một đời. Mấu chốt là nhất tâm xưng niệm, khi niệm Phật đừng nên khởi vọng tưởng!

      Thứ năm là “tịch dụng”, Tịch là bản thể Thường Tịch, Dụng là hằng sa diệu dụng. Hai chữ Tịch Dụng hoàn toàn nói về cảnh giới nơi quả địa Như Lai. Đây là nói đến viên măn rốt ráo nhất, là Phật quả trong Viên Giáo. Phật đích thân chứng bản thể Thường Tịch, Chân Như bổn tánh. “Thường” là vĩnh viễn chẳng biến đổi, “Tịch” là thanh tịnh tịch diệt, vĩnh viễn là tướng tịch diệt thanh tịnh. Khi khởi tác dụng, sẽ là vô lượng vô biên, rộng độ chúng sanh. Đấy mới là ư chỉ mầu nhiệm của Đại Thừa. Xin hăy xem chú giải:

     

      (Sớ) Nhất, giáo nghĩa nhất đối giả, dĩ giáo vi Tông, linh đạt nghĩa vi Thú. Ngôn sùng thượng thử niệm Phật văng sanh chi giáo.

      () 一、教義一對者,以教為宗,令達義為趣,言崇尚此念佛往生之教。

      (Sớ: Cặp thứ nhất là “giáo nghĩa”: Dùng Giáo làm Tông, khiến cho thông đạt nghĩa lư là Thú, đề cao giáo pháp niệm Phật văng sanh này).

 

      “Sùng” () là đề cao, chúng ta đặc biệt đề cao bộ kinh này. Bộ kinh này là sách giáo khoa của Thích Ca Mâu Ni Phật ban cho chúng ta. Nay trong nhiều bộ sách giáo khoa, chúng ta đặc biệt đề cao bộ này là do ư nghĩa nào? Ư tưởng chánh yếu của bộ sách giáo khoa này là dạy chúng ta niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ; nhưng nếu chúng ta hỏi: V́ sao Phật muốn dạy chúng ta niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ?

 

      (Sớ) Kỳ ư vân hà? Chánh dục hiểu hội kinh trung sở thuyết A Di Đà Phật chánh báo, y báo thanh tịnh trang nghiêm.

      () 其意云何?正欲曉會經中所說阿彌陀佛正報依報清淨莊嚴。

      (Sớ: Có ư nghĩa như thế nào? Chính là v́ muốn [cho người nghe] biết chánh báo và y báo thanh tịnh trang nghiêm của A Di Đà Phật như trong kinh đă nói).

 

      V́ sao dạy quư vị niệm Phật cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ? Nhằm nói với quư vị, chánh báo (thân thể) trong Tây Phương Cực Lạc thế giới thanh tịnh trang nghiêm. Cái thân mà chúng ta có trong thế gian này chẳng kiên cố, sanh, lăo, bệnh, tử, thọ mạng ngắn ngủi. Hễ ăn uống không cẩn thận một tí, ngay lập tức thân thể ngă bệnh; trúng phong hàn một chút bèn cảm mạo, thân thể hết sức yếu ớt! Thân thể bên Tây Phương Cực Lạc thế giới chính là cái thân Kim Cang bất hoại mà ḷng chúng ta thường hâm mộ, vĩnh viễn chẳng sanh bệnh. V́ thế, Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng mở tiệm thuốc, chẳng có thầy thuốc, thọ mạng vô cùng dài, vô lượng thọ mà! Đức Phật vô lượng thọ, phàm ai sanh về nơi đó đều là vô lượng thọ, thọ mạng dài. Ở nơi này, chúng ta nếu thọ mạng dài, sống lâu bèn già nua, già nua bèn kém sáng suốt, chịu nỗi khổ tuổi già! Người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới trường thọ nhưng chẳng già. Quư vị nghĩ xem, quư vị có muốn về đó hay không? Đừng nói ǵ khác, chỉ nghe nói điều tốt đẹp này, bèn vội vàng sanh sang đó. Các thế giới của chư Phật trong mười phương đều chẳng có t́nh h́nh này, cho nên mới nói: “Các cơi Phật mười phương, A Di Đà đệ nhất”. Đây là nói đến y báo, chánh báo, y báo là hoàn cảnh. Hoàn cảnh nơi ấy quá tốt đẹp.

      Theo dự ngôn của Đông phương và Tây Phương từ năm nay trở đi, thế giới mỗi năm một hỗn loạn dữ dội hơn; do vậy, hoàn cảnh của chúng ta không tốt! Hoàn cảnh nơi Tây Phương Cực Lạc thế giới tốt đẹp dường ấy, v́ sao chẳng sanh về? Giữ lấy Tây Phương Cực Lạc thế giới, chúng ta đều có thể [thoát nạn] kịp lúc, thời gian ba năm hay năm năm là đủ rồi. Sau khi chúng ta tu thành công pháp môn này, thích đi khi nào bèn đi khi ấy, đến ngày địa cầu bị hủy diệt cũng không sao cả, ta đi rồi! Quư vị tự tại lắm, chẳng gặp nạn. Quư vị chẳng có bản lănh ấy, sẽ bị gặp nạn, chịu sự uy hiếp ấy.

      Nay tôi nói thật thà: Học Phật mà tu các pháp môn khác, sẽ [trở tay] chẳng kịp. Chẳng phải là các pháp môn khác không hay, [chỉ v́] các pháp môn khác chẳng nhanh chóng như vậy. Giáo pháp này là Đại Thừa Chung Giáo, Đại Thừa Đốn Giáo. Đốn là nhanh chóng, nhanh hơn Thiền! Thiền kém xa Tịnh, v́ Thiền mà chưa minh tâm kiến tánh, sẽ chẳng thể vượt thoát tam giới; dẫu sanh lên trời Tứ Thiền vẫn chẳng thể thoát khỏi luân hồi. Người ấy có thể tránh khỏi tai nạn trên địa cầu, nhưng chưa ra khỏi lục đạo luân hồi, cho nên vẫn kém xa [hành nhân] nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Đây là nói về những đạo lư được bao hàm trong giáo nghĩa, [tức là đạo lư] v́ sao chúng ta phải niệm Phật cầu văng sanh.

     

      (Sớ) Tín chi nguyện chi.

      () 信之願之。

      (Sớ: Tín rồi nguyện).

 

      Chúng ta hiểu rơ giáo nghĩa này sẽ tin tưởng. Chúng ta tin tưởng chuyện niệm Phật văng sanh, cũng muốn ra đi, bèn phát ra cái nguyện ấy.

 

      (Sớ) Tắc sanh bỉ quốc.

      () 則生彼國。

      (Sớ: Sẽ sanh về cơi ấy).

 

      Đây là kết quả, nhất định có thể sanh về thế giới Cực Lạc của A Di Đà Phật.

 

      (Sớ) Giáo trung hữu như thị nghĩa, thị kỳ Thú dă.

      () 教中有如是義,是其趣也。

      (Sớ: Trong Giáo có nghĩa như vậy, đấy chính là Thú của nó).

 

      “Giáo” là Tông, ư nghĩa [của Giáo] là hướng về (Thú).

 

      (Sớ) Bất đồ vi ngữ ngôn văn tự nhi dĩ.

      () 不徒為語言文字而已。

      (Sớ: Chẳng phải chỉ là ngôn ngữ, văn tự mà thôi).

 

      Chẳng phải chỉ là ngôn ngữ, văn tự. Cổ đức nói: “Suốt ngày chuyển kinh, chẳng biết là suốt ngày bị kinh chuyển”. Trong Lục Tổ Đàn Kinh cũng có ư nghĩa này. Thiền sư Pháp Đạt tụng kinh Pháp Hoa ba ngàn biến, đến gặp Lục Tổ [với thái độ] rất ngạo mạn. Lục Tổ vừa thấy thái độ của ông ta liền biết ngay, Ngài nói: “Trong bụng ông nhất định có thứ ǵ đó khiến ông cảm thấy ḿnh rất phi thường, nên rất ngạo mạn”. Pháp Đạt thưa là chính ḿnh đă niệm ba ngàn bộ kinh Pháp Hoa. Mỗi ngày niệm một biến, ba ngàn bộ mất mười năm! Kinh niệm nhuyễn nhừ, nhưng chẳng hiểu ư nghĩa, chỉ biết niệm kinh, chẳng hiểu ư nghĩa. Sư hằng ngày chẳng chuyển Pháp Hoa, mà bị Pháp Hoa chuyển. Chuyển như thế nào? Do niệm nhiều kinh như thế, cảm thấy chính ḿnh có công đức rất lớn, người khác chẳng sánh bằng, ngạo nghễ, ngă mạn. Kẻ khác chẳng niệm kinh ấy, đối với người khác rất khiêm hư, cho rằng ta cái ǵ cũng không có, khách sáo đối với người khác, điều ǵ ta cũng thua người khác. Niệm kinh nhiều ngần ấy, cảm thấy chính ḿnh ghê gớm lắm, bị kinh chuyển rồi, lầm mất rồi! V́ thế, Lục Tổ khai thị cho Sư, cảnh tỉnh Sư, dạy Sư phải liễu giải nghĩa thú và nghĩa lư trong kinh; đấy mới là “chuyển kinh”. V́ thế, đọc kinh nhất định phải hiểu Lư; nếu chẳng hiểu Lư, sẽ bị kinh xoay chuyển. Bị kinh xoay chuyển chính là như Thanh Lương đại sư đă nói: “Tăng trưởng tà kiến”. Quư vị chẳng hiểu nghĩa chân thật trong kinh. Quư vị niệm càng nhiều, tà kiến càng lắm, tăng trưởng tri kiến, tăng trưởng phân biệt, chấp trước, vọng tưởng. Nếu thật sự thông đạt nghĩa lư trong kinh, càng đọc kinh này, tâm địa càng thanh lương, phiền năo càng ít, phân biệt, chấp trước càng ít. Quư vị chuyển được kinh đấy!

      V́ thế, nhiều người trẻ tuổi hiện thời chẳng biết phương pháp nghiên cứu kinh Phật, họ đọc càng nhiều th́ càng giống như thiền sư Pháp Đạt: Con mắt dần dần trợn ngược lên đỉnh đầu, coi thường kẻ khác, ngỡ ḿnh học rộng, nghe nhiều, lầm lẫn quá đỗi! Ngay cả học vấn thế gian cũng có chỗ kỵ húy này! Pháp thế gian cũng thường nói: “Khi học vấn sâu, ư khí b́nh”. Người càng có học vấn, càng khiêm hư. Người càng có học vấn, có đạo đức, càng cảm thấy chẳng bằng ai, càng chẳng dám khinh mạn người khác. Đấy là thật sự có học vấn, có đạo đức, quyết chẳng phải là nói ta đọc càng nhiều sách, càng có học vấn, càng coi thường người khác! Càng có học vấn, càng tự kiêu, tự đại, chẳng có lẽ ấy!

      “Bất đồ vi ngữ ngôn, văn tự nhi dĩ” (chẳng phải chỉ có ngữ ngôn, văn tự mà thôi). Ư nghĩa này hết sức sâu. Cổ đức đă từng nói: “Tụng kinh thiên quyển, bất như giải kinh nhất kệ” (Tụng một ngàn quyển kinh, chẳng bằng hiểu một bài kệ trong kinh). Một kệ là bốn câu. Quư vị đọc một ngàn cuốn kinh, chẳng bằng hiểu ư nghĩa của bốn câu kệ; v́ quư vị hiểu ư nghĩa bốn câu kệ, sẽ dùng cả đời chẳng hết! Niệm một ngàn bộ kinh, nhưng chẳng hiểu ư nghĩa, khác nào niệm uổng công!

 

      (Sớ) Nhị, Sự Lư nhất đối giả, dĩ Sự vi Tông, linh hiển Lư vi Thú.

      () 二、事理一對者,以事為宗,令顯理為趣。

      (Sớ: Cặp thứ hai là Sự Lư, lấy Sự làm tông, khiến cho Lư hiển lộ là Thú).

 

      Năm cặp này đều có ư nghĩa liên quan, tầng sau sâu hơn tầng trước. Cặp “giáo nghĩa” trong tầng trước cạn nhất, càng về sau [mỗi cặp ư nghĩa] càng sâu hơn.

 

      (Sớ) Thừa thượng nhất kinh ngôn giáo.

      () 承上一經言教。

      (Sớ: Tiếp nối ngôn giáo của một kinh như [đă nói] trong phần trước).

 

      Tiếp theo những điều đă nói ở trên.

     

      (Sớ) Câu ước sở thuyên chi nghĩa, nhi nghĩa trung phục hữu Sự Lư.

      () 俱約所詮之義,而義中復有事理。

      (Sớ: Đều dựa theo những nghĩa lư được giảng [trong kinh mà lập ra cặp ư nghĩa thứ hai này], nhưng trong nghĩa lư lại có Sự và Lư).

 

      Sự và Lư do đâu mà có? Phần nghĩa lư trong giáo nghĩa lại có Sự và Lư; lấy Sự làm Tông, lấy Lư làm Thú.

     

      (Sớ) Ngôn sùng thượng thử y chánh tín nguyện đẳng sự, kỳ ư vân hà? Chánh dục hiển phát Sự trung sở cụ chí Lư, thị kỳ Thú dă.

      () 言崇尚此依正信願等事,其意云何,正欲顯發事中所具至理,是其趣也。

      (Sớ: Đề cao những chuyện như y báo, chánh báo, tín, nguyện v.v... là v́ ư ǵ? Chính là muốn nêu rơ trong Sự có trọn đủ Lư tột cùng, lấy đó làm Thú [của bộ kinh này]).

 

      “Chí Lư” có hai ư nghĩa:

- Một là “tùy văn nhập quán”, đây cũng chính là như cổ nhân đă dạy chúng ta, nghe kinh phải “tiêu quy tự tánh” (dung hợp, quy về tự tánh), có ư nghĩa ấy! Quư vị nghe kinh giảng các Sự, bèn có thể quy hết các Sự ấy về tự tánh, đó là Lư, Lư chính là tự tánh của quư vị. Tu hành phải “chuyển Thức thành Trí”, hai câu này (tức “tiêu quy tự tánh”“chuyển Thức thành Trí”) chính là tổng cương lănh tu hành trong Phật môn chúng ta. Nghe kinh phải tiêu quy tự tánh, mà đọc kinh cũng phải tiêu quy tự tánh, phải quy về chính ḿnh. Có thể quy về chính ḿnh, quư vị mới hiểu kinh giáo liên quan hết sức mật thiết với chính ḿnh. Tuy chuyện ấy do chính miệng Thích Ca Mâu Ni Phật nói ra, nhưng đấy chính là nói về những ư nghĩ trong tâm chúng ta. Những điều này có phải là ư nghĩ của Phật hay không? Chẳng phải! Chúng là những ư nghĩ trong tâm của chính chúng ta bị đức Phật nói ra, đó là “quy về tự tánh”. Chính ḿnh chẳng nói ra, người khác nói ra những ư nghĩ trong tâm của chính ḿnh, hăy quy về tự tánh!

      - Thứ hai là “y Sự tu tạo” (nương theo Sự để tu tập, tạo tác): Chiếu theo Sự, Sự chính là “y báo và chánh báo của Tây Phương Cực Lạc thế giới, tín nguyện văng sanh”, chúng ta chiếu theo những chuyện ấy để nghiêm túc tu học, văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ sáng tỏ Lư tự tánh duy tâm, đích thân chứng “tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”. Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, quả thật sẽ chứng đắc cảnh giới ấy. Đây chính là nghĩa thú quan trọng trong cặp Sự Lư.

 

      (Sớ) Bất đồ vi sự duyên chi tích nhi dĩ.

      () 不徒為事緣之跡而已。

      (Sớ: Chẳng phải chỉ là dấu vết nơi sự duyên mà thôi).

     

      “Đồ vi sự duyên chi tích” (chỉ là dấu vết nơi sự duyên), ở đây có hai t́nh huống:

- Một là đọc sách chấp chết cứng, đọc đến mức ngây ngốc. Tuy hằng ngày đọc sách, chẳng hiểu đạo lư trong ấy. Kẻ ấy hằng ngày đọc, có thể nói suốt ngày dùi mài nơi từng trang giấy cũ, chết cứng trong từng hàng chữ. Loại người như vậy rất đáng tiếc.

- T́nh huống thứ hai là hằng ngày niệm Phật, cầm xâu chuỗi “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật”, suốt ngày từ sáng đến tối niệm Phật, nhưng chẳng biết v́ sao phải niệm Phật! Chẳng thể quy Phật hiệu về tự tánh. V́ thế, tôi thường nói: Chúng ta niệm một câu Phật hiệu sáu chữ “nam-mô A Di Đà Phật”, hoặc niệm bốn chữ A Di Đà Phật, bốn chữ hay sáu chữ đều là cùng một câu. Từng câu từng chữ đều bao hàm Tín - Nguyện - Hạnh, đều bao hàm y báo, chánh báo, thanh tịnh trang nghiêm, đều bao hàm Giác - Chánh - Tịnh, và cũng bao gồm Giới - Định - Huệ, lục độ, vạn hạnh, không có ǵ chẳng bao hàm!

      Từng câu, từng chữ trong Phật hiệu là sống động, hoạt bát! Quư vị chẳng hiểu ư nghĩa này, suốt ngày từ sáng đến tối lần chuỗi, cổ nhân bảo “rách toạc cuống họng vẫn uổng công”. Thậm chí c̣n có những kẻ hiểu lầm, trong quá khứ tôi đă nghe đồng tu kể: Có những kẻ niệm Phật để làm ǵ? Họ nói niệm Phật một tiếng là được một đồng, mai sau chết đi vào trong cơi Âm, tôi niệm Phật càng nhiều càng nhiều tiền! Người c̣n chưa chết đă chuẩn bị làm quỷ, tích trữ tiền bạc trong cơi Âm để tương lai làm một con quỷ giàu có, chẳng thành quỷ đói, lầm lẫn quá đỗi!

      Do đây có thể biết: Niệm Phật chẳng thể không hiểu lư! Cũng có những kẻ hoài nghi, cũng có người nghe rồi coi rẻ. Sách vở từ xưa cũng đă ghi chép có kẻ chưa từng nghe kinh, chẳng hiểu đạo lư, v́ sao niệm Phật cũng được văng sanh? Thật đấy, chẳng giả đâu! Trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục và Văng Sanh Truyện đều có chuyện như vậy, thậm chí trong thời gần đây cũng có. Kẻ rất ngu si, chẳng biết chữ, chưa từng học hành, chuyện ǵ cũng chẳng hiểu, niệm một câu A Di Đà Phật bèn được văng sanh. Quư vị phải hiểu, tuy người ấy cái ǵ cũng không biết, nhưng người ấy có tín nguyện. Quư vị hỏi: Niệm Phật để làm ǵ? [Người ấy đáp]: Tôi muốn văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Người ấy biết! Tuy người ấy chẳng biết nhiều, biết một chút là đủ rồi! Người ấy có thể niệm Phật văng sanh do người ấy đă nhất tâm xưng niệm. Chúng ta thường nói là “thật thà niệm Phật”, người ấy niệm Phật chẳng khởi vọng tưởng, niệm lâu ngày, người ấy bèn thành công.

      V́ thế, đối với người niệm Phật, quan trọng nhất là phải buông xuống. Nói “buông xuống” chính là thật sự không có vọng tưởng, hết thảy đều tùy duyên, quyết định chẳng phan duyên, phan duyên là chưa buông xuống được! Phan duyên là ǵ? Trong tâm nhất định phải làm như thế này như thế nọ, đấy là phan duyên! Tùy duyên là tùy thuận hoàn cảnh, cảnh nghịch xảy đến bèn vâng chịu. V́ sao? Tâm tùy duyên bèn thanh tịnh, b́nh đẳng; tâm phan duyên chẳng thanh tịnh, chẳng b́nh đẳng. Điều này có mối quan hệ mang tánh chất quyết định đối với chuyện niệm Phật văng sanh của chúng ta. V́ thế, thứ ǵ cũng đều phải buông xuống, điều ǵ trong cuộc sống trước mắt cũng đều là tốt đẹp, trong cảnh giới thật sự tu cái tâm thanh tịnh, tu tâm b́nh đẳng, từ bi. Ba tâm này nhất định giúp chúng ta văng sanh. Chánh trợ song tu, chánh tu là một câu A Di Đà Phật, chẳng gián đoạn, chẳng xen tạp, chẳng hoài nghi; trợ tu là dùng cái tâm thanh tịnh, b́nh đẳng, từ bi trong hết thảy hoàn cảnh nhân sự. Người như vậy không ai chẳng văng sanh; đă thế, văng sanh nhất định có tướng lành, biết trước lúc mất, không bệnh tật qua đời, lúc mất chẳng ngă bệnh, nói “đi” bèn “đi”. Cận đại, có người đứng mất hoặc ngồi qua đời.

      Hôm qua tôi đi xem phim, mấy chục năm tôi chưa hề xem phim. Có thể chấm phim Lục Tổ Truyện được sáu mươi điểm, miễn cưỡng coi như cũng đạt! [Cuộc đời] Lục Tổ có rất nhiều chỗ quan trọng, rất khiến người ta cảm động, rất dễ khơi gợi người khác, nhưng phim chưa thể hiện được, rất đáng tiếc. Lục Tổ ra đi rất tự tại. Triệu tập đại chúng, bảo mọi người, khi nào ta sẽ ra đi, các ông có điều ǵ hăy hỏi mau! Trước khi Ngài tịch một năm đă hé lộ tin ấy. Quư vị đọc Đàn Kinh thấy Ngài biết trước lúc mất, phái hai người về quê hương Ngài, dựng tháp tại chùa Quốc Ân. Tuy trước khi mất một năm, Ngài chẳng nói rơ, nhưng chuyện này cũng giống như ngầm báo. Trước khi mất một tháng, Ngài mới tuyên bố rơ ràng Ngài sắp ra đi. Chuẩn bị tất cả hậu sự cả năm trước, chẳng ngă bệnh. Khi Ngài ra đi bèn khai thị, nói xong, bảo mọi người: “Ta đi đây”. Ngồi viên tịch, chẳng sanh bệnh. Cận đại, pháp sư Đàm Hư cũng không khác lắm! Quư vị đọc cuốn Ảnh Trần Hồi Ức Lục thấy Đàm Hư đại sư viên tịch tại Hương Cảng, cũng triệu tập các môn đệ của Ngài, dặn ḍ xong, rất an tường ngồi yên qua đời.

      Quư vị nói chúng tôi là người xuất gia, kẻ tại gia sợ làm không được. Tôi lại thưa cùng quư vị: Ở San Francisco có một vị lăo cư sĩ là bà Cam, bà ta có một người thân thích, cũng là một bà cụ suốt đời niệm A Di Đà Phật, thân thể rất mạnh khỏe. Khi cụ mất, cũng ngồi qua đời, ra đi trong đêm, người nhà c̣n đang ngủ, cụ ngồi trên giường, chẳng ngủ. Cụ xếp bằng tịnh tọa trên giường. Đến sáng hôm sau, không thấy cụ mở cửa pḥng, người nhà cảm thấy rất lạ lùng: Sao hôm nay bà cụ trễ quá mà chưa dậy? Bà cụ vốn lo việc nhà, nấu cơm, chăm sóc cháu bé là chuyện của cụ. Rất lâu vẫn chưa thấy cụ dậy, gơ cửa pḥng, gơ cửa chẳng thấy cụ ừ hử, bèn mở cửa pḥng. Mở cửa ra, thấy bà cụ ngồi trên giường, gọi cụ, cụ chẳng trả lời. Xem kỹ, cụ đă mất rồi. Không chỉ đă mất, mà c̣n biết trước lúc mất, áo tang của mọi người lớn nhỏ trong nhà, chẳng biết cụ đă may sẵn từ lúc nào, từng bộ xếp ngay trước mặt cụ!

      Bà cụ ấy rất thú vị, đă sớm biết trước, đă sớm chuẩn bị chu đáo, cụ ra đi! Cụ chẳng nói với người nhà, hễ nói, sẽ đi không được. Đại khái là người trong nhà vừa khóc vừa làm ồn, cụ bị năo loạn, không có cách nào ra đi được! Quư vị thấy cụ ra đi thong dong ngần ấy, tự tại dường ấy. Đến khi người nhà phát hiện, cụ đă đến thế giới Cực Lạc rồi! Đó là một vị nữ cư sĩ tại gia, hằng ngày làm việc nhà, hằng ngày bận bịu chăm lo cuộc sống của mọi người, mà cụ tự tại ngần ấy, cụ chuẩn bị nhiều việc dường ấy. Quư vị bèn hiểu: Tối thiểu là [cụ biết trước lúc mất] một tháng trước đó. Nếu không, đồ tang nhiều như vậy, chẳng thể nào may xong trong một hai hôm được! Nhất định là cụ may mà người nhà vẫn không biết, không có ai trông thấy, chắc chắn cụ phải may trong đêm khi mọi người đă ngủ nên không ai biết! Tối thiểu là trước đó một tháng. Đấy là hàng tại gia cư sĩ. V́ thế, biết trước lúc mất, ra đi tự tại, chẳng phải chỉ lợi ích cho hàng xuất gia, mà hàng tại gia cũng làm được! Quư vị thấy bà cụ cao minh lắm, thật sự cao minh! Đây là người hiện thời, chẳng phải cổ nhân. Hôm nay chúng tôi giảng đến đoạn này!

 

Tập 86

 

      Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang một trăm bốn mươi bốn:

 

      (Sớ) Tam, cảnh hạnh nhất đối giả, dĩ cảnh vi Tông, linh khởi hạnh vi Thú. Cảnh tức thị sở quán chi Lư, đối năng quán chi Trí, cố danh vi Cảnh. Ngôn sùng thượng thử Lư, kỳ ư vân hà? Kư tri Di Đà tự tánh, Tịnh Độ duy tâm, chánh dục tức thử dĩ vi chân cảnh, nhi khởi quán hạnh, chấp tŕ danh hiệu, nhất tâm bất loạn, thị kỳ Thú dă, bất đồ vi hiểu đạt thử Lư nhi dĩ.

      () 三、境行一對者,以境為宗,令起行為趣。境即是所觀之理,對能觀之智,故名為境。言崇尚此理,其意云何?既知彌陀自性,淨土唯心。正欲即此以為真境,而起觀行,執持名號,一心不亂,是其趣也,不徒為曉達此理而已。

      (Sớ: Cặp thứ ba là “cảnh - hạnh”. Lấy cảnh làm Tông, khiến cho khởi hạnh là Thú. Cảnh chính là cái Lư được quán đối ứng với cái Trí dùng để quán, nên gọi [Lư được quán] là Cảnh. Đề cao Lư này là v́ ư ǵ? Nhằm biết Di Đà là tự tánh, Tịnh Độ duy tâm, nhằm muốn lấy ngay điều này làm cảnh thật để dấy lên quán hạnh, chấp tŕ danh hiệu, nhất tâm bất loạn. Đây là Thú, chứ không phải chỉ thông hiểu Lư mà thôi!)

 

      Đây là cặp thứ ba trong năm cặp Tông Thú của kinh này. Chữ “Cảnh” nếu chiếu theo lời giải thích trong phần sau th́ chính là lấy danh hiệu Di Đà làm cảnh giới. Bốn chữ danh hiệu có bản thể là pháp giới. Nhất định phải hiểu ư nghĩa của danh hiệu bốn chữ này! A Di Đà Phật dịch sang nghĩa tiếng Hán là Vô Lượng Giác, A dịch là Vô, Di Đà là Lượng, Phật là Giác. Bốn chữ này cũng là tự tâm của chúng ta, tông Thiên Thai nói “một niệm trong tự tâm trọn đủ ba ngàn tánh tướng”, nói thật ra, chúng ta thường nói y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới, không ǵ chẳng giác; do vậy, gọi là Vô Lượng Giác. V́ thế, trong cặp Cảnh Hạnh, “lấy Cảnh làm Tông”, lấy “khởi Hạnh làm Thú”.

      “Sở quán chi Lư”“năng quán chi Trí” cũng chính là đức Phật được ta niệm và cái tâm niệm Phật của ta. Cái tâm niệm Phật là Quán Trí, đức Phật được niệm là cảnh giới. Phật pháp và học thuật thế gian khác nhau ở chỗ này, tức là Năng và Sở chẳng hai, Cảnh và Hạnh như một, mầu nhiệm ở chỗ này. “Năng quán chi Trí” là cái tâm linh minh chẳng mê muội của ta. Linh giác là chẳng bị gián đoạn, nhưng nay sự linh giác của ta bị chướng ngại, chẳng thể tỏ lộ tác dụng. Quy nạp những thứ chướng ngại ấy lại th́ một là Phiền Năo Chướng, hai là Sở Tri Chướng. Đây là hai thứ chướng ngại. Kinh cũng nói đến Tam Chướng, Tam Chướng là Hoặc Chướng, Nghiệp Chướng, và Báo Chướng, nhưng Nhị Chướng bao gồm Tam Chướng. Do vậy, tâm linh minh giác liễu của chúng ta chẳng thể tỏ lộ. Nay đức Phật dạy chúng ta phương pháp này, tức là dùng phương pháp Niệm Phật để khôi phục bổn tánh, nhưng chúng ta chớ nên không liễu giải chân tướng sự thật này: Ngoài tâm không cảnh, ngoài cảnh không tâm; tâm và cảnh là một, chẳng hai. Phải hiểu rơ đạo lư này.

      “Ngôn sùng thượng thử Lư, kỳ ư vân hà” (đề cao Lư này là v́ ư ǵ), v́ sao phải đề cao cặp Cảnh - Hạnh này? Nhằm nói cho chúng ta biết đại ư: Di Đà là tự tánh Di Đà, Tịnh Độ là duy tâm Tịnh Độ. V́ thế, Cảnh và Trí chẳng hai, ư nghĩa là như vậy đó.

      “Chánh dục tức thử dĩ vi chân cảnh, nhi khởi quán hạnh” (Chính là v́ muốn lấy điều này làm cảnh thật để khởi quán hạnh), câu này có nghĩa là: Chúng ta phải nên hiểu rơ những chữ ấy chính là “tự tánh duy tâm”“sở quán chi Lư”, những chữ nào vậy? Bốn chữ A Di Đà Phật! Ĺa khỏi tâm tánh của chính ḿnh, sẽ chẳng có danh hiệu; ĺa khỏi danh hiệu cũng chẳng có tâm tánh. Câu này nên nói như thế nào? Chúng tôi vẫn dùng tỷ dụ để nói: Ví như khi chúng ta nằm mộng, cảnh trong mộng do tâm chúng ta biến hiện. Ĺa khỏi tâm chẳng có mộng cảnh; ĺa khỏi mộng cảnh chẳng có tâm! Khi nằm mộng, cái tâm này biến thành mộng cảnh. V́ thế tâm và mộng cảnh là một, chẳng hai. Chúng ta dùng tỷ dụ này để lănh hội [ư nghĩa Cảnh và Hạnh]. Nay chúng ta niệm một câu A Di Đà Phật giống như cảnh giới trong mộng, A Di Đà Phật là cảnh giới do cái tâm niệm Phật của chúng ta biến hiện. Cái tâm niệm Phật là Trí, danh hiệu được niệm là Cảnh. Từ ư nghĩa này, hăy quan sát những đạo lư được giảng trong kinh này, quư vị sẽ lư giải chẳng khó cho lắm!

      V́ thế, phải lấy điều này “làm cảnh thật để khởi quán hạnh”. Quán hạnh là “chấp tŕ danh hiệu, nhất tâm bất loạn, lấy điều này làm Thú”. Mấu chốt tu hành Tịnh Độ nằm trong hai câu này. Một bộ kinh Di Đà cũng là để nói hai câu này. V́ thế, thật sự muốn thành tựu Tịnh nghiệp th́ niệm Phật vô cùng quan trọng. B́nh thường, ta nghiên cứu những kinh luận đều là để khi chúng ta niệm Phật trong Niệm Phật Đường sẽ chẳng khởi vọng tưởng, chẳng chấp trước, thật sự đạt được “chẳng gián đoạn, chẳng xen tạp, chẳng hoài nghi”, khiến cho chúng ta có thể thành tựu trong một thời gian ngắn. Đối với chuyện này, tôi luôn mong dành thời gian để nói rơ cặn kẽ cùng quư vị: Khi niệm Phật, chúng ta phải nên dùng tâm tư thái độ như thế nào th́ mới có thể đạt được hiệu quả thật sự. Đối với chuyện này, nếu dùng sai cái tâm, sẽ rất khó đạt được hiệu quả. Tuy đă hiểu rơ Lư, vẫn phải biết nên dùng tâm thái nào để niệm.

      Câu tiếp theo là “bất đồ vị hiểu đạt thử Lư nhi dĩ” (chẳng phải v́ để thấu hiểu Lư này mà thôi), nếu đă hiểu rơ đạo lư này, nhưng chẳng chịu tu hành, chẳng chịu niệm th́ cũng uổng phí, vẫn chẳng thể thành tựu.

 

      (Sớ) Tứ, Hạnh Tịch nhất đối giả.

      () 四、行寂一對者。

      (Sớ: Cặp thứ tư là Hạnh Tịch).

 

      Trong năm cặp này, mỗi tầng một sâu hơn, cảnh giới càng thù thắng hơn. Hạnh [trong Hạnh Tịch] chính là Cảnh Hạnh đă nói trong phần trên.

 

      (Sớ) Dĩ Hạnh vi Tông, linh chí Tịch vi Thú.

      () 以行為宗,令至寂為趣。

      (Sớ: Lấy Hạnh làm Tông, khiến đạt đến Tịch làm Thú).

 

      Tịch là ǵ? Nói thật ra, đấy chính là nhất tâm.

 

      (Sớ) Ngôn sùng thượng thử niệm Phật quán hạnh, kỳ ư vân hà? Lương diêu tâm tuy bổn tịch, đa sanh tập nhiễm, xúc cảnh sanh tâm. Nhược bất tu quán hạnh, túng linh cưỡng ức vọng tâm, chung phi Định Huệ b́nh đẳng.

      () 言崇尚此念佛觀行,其意云何?良繇心雖本寂,多生習染,觸境生心。若不修觀行,縱令強抑妄心,終非定慧平等。

      (Sớ: Đề cao quán hạnh niệm Phật này là v́ ư ǵ? Ấy là v́ tâm tuy vốn tịch, nhưng do đắm nhiễm tập khí nhiều đời, hễ tiếp xúc cảnh bèn sanh tâm. Nếu chẳng tu quán hạnh, dẫu gượng khắc phục vọng tâm, rốt cuộc vẫn chẳng phải là Định và Huệ b́nh đẳng).

 

      Trong quá tŕnh tu hành gần như [ai cũng] đều đă gặp qua [t́nh trạng này, tức là tập khí đắm nhiễm nhiều đời khiến cho tâm loạn], không chỉ là Tông Môn, Giáo Hạ, ngay cả niệm Phật cũng chẳng tránh khỏi. V́ thế, chúng ta phải biết Quán Hạnh vô cùng quan trọng. Nói theo sự tu tập trong pháp môn Tịnh Độ, Quán Hạnh là tín nguyện tŕ danh. Đấy chính là Quán Hạnh [trong pháp môn Tịnh Độ], phải sốt sắng niệm Phật. Trong phần trước đă nói rơ mục đích niệm Phật là “cầu đắc nhất tâm bất loạn”; ở đây, [lời Sớ] giảng “lương diêu tâm tuy bổn tịch” (ấy là v́ tuy tâm vốn tịch), cái tâm của chúng ta vốn là nhất tâm, vốn chẳng loạn [cho nên niệm Phật để khôi phục nhất tâm].

      Hiện thời tâm chẳng tịch, hiện thời tâm loạn v́ lẽ nào? Tiếp đó, [lời Sớ] nêu ra nguyên nhân: “Đa sanh tập nhiễm, xúc cảnh sanh tâm” (Do đắm nhiễm tập khí nhiều đời, hễ tiếp xúc cảnh bèn sanh tâm). Tám chữ này nói rơ ràng. “Đa sanh”: Chẳng phải là một đời, một kiếp, mà là đời đời kiếp kiếp. “Tập” () là tập khí, “nhiễm” () là nhiễm trước (chấp trước ô nhiễm). Đắm nhiễm tập khí nhiều đời, nhiều kiếp. Nhiễm là ô nhiễm, Trước là chấp trước. V́ thế, hễ sáu căn tiếp xúc sáu trần, tập khí bèn khởi tác dụng, lập tức bị cảnh giới bên ngoài ô nhiễm, lại dấy lên phân biệt, chấp trước, vọng tưởng. Do vậy, cái tâm tịch tĩnh vốn có của chúng ta bị mất diện mục và tác dụng. V́ thế, đức Phật mới bảo chúng ta: Nếu chẳng tu Quán, “bất tu Quán Hạnh” (chẳng tu Quán Hạnh) sẽ chẳng thể khôi phục, nhất định phải tu Quán Hạnh, tức là tín nguyện tŕ danh, chúng ta đi theo con đường này.

      Mọi người phải thật sự hiểu rơ, phải giác ngộ lớn lao, phải thật sự giác ngộ, tập khí đáng sợ lắm! Thế nhưng các đồng tu học Phật hiện thời, có ai chẳng đang dốc hết tánh mạng ḥng tăng trưởng tập nhiễm? Không chỉ chẳng thể giảm bớt tập nhiễm, mà hằng ngày c̣n mong cho nó tăng thêm! Đó là khuyết điểm to lớn. Tăng thêm như thế nào? Chẳng hạn như đặc biệt nói về các đồng tu mới học Phật, kinh ǵ cũng muốn xem, pháp môn ǵ cũng muốn học, muốn học rộng nghe nhiều; đó là tăng trưởng “tập nhiễm”! Nếu lấy học vấn thế gian để nói, người ấy nghiên cứu Phật học, làm theo cách ấy không sai, làm đúng rồi! Nếu [xét theo phương diện] học Phật, người ấy đă đi sai đường, học Phật chẳng phải là học theo kiểu đó! Học Phật là ǵ? Mong đạt được nhất tâm bất loạn, mong minh tâm kiến tánh, mục đích ở chỗ này, chứ không phải là học rộng nghe nhiều. Trong phần Huyền Nghĩa của kinh Hoa Nghiêm, Thanh Lương đại sư đă nói học rộng nghe nhiều là “tăng trưởng tà kiến”, chẳng học mà cũng chẳng nghe là “tăng trưởng vô minh”. Hăy làm như thế nào? Thưa quư vị, học một thứ, chuyên tinh, chẳng cầu học rộng. Hiện thời học Phật chẳng có mấy người thành tựu, nguyên nhân là do đâu? Chẳng đúng cách, dùng sai phương pháp!

      Quan niệm tu học Phật pháp và pháp thế gian khác nhau. Hồ Thích[1] đề xướng “học hỏi phải giống như Kim Tự Tháp”, trước hết phải học rộng, dần dần chuyên tinh. Đó là [cách học trong] thế gian. Phương pháp cầu học trong Phật pháp là Kim Tự Tháp lật ngược, trước chuyên sau rộng, cách học như vậy. Thoạt đầu là thâm nhập một môn, v́ sao? Tâm quư vị mới có thể thanh tịnh. Khi học nhiều, người học nhất định khởi phân biệt, tâm chẳng đạt được thanh tịnh. Từ xưa đến nay, những tổ sư đại đức Trung Quốc, quư vị đọc Cao Tăng Truyện hay Cư Sĩ Truyện, sẽ biết: Tất cả những người có thành tựu đều là suốt đời học một thứ, thâm nhập một môn, sau khi đă tiến nhập mới có thể cầu học rộng.

      Kinh Hoa Nghiêm là một thí dụ rất hay. Thiện Tài đồng tử tham học năm mươi ba lần. Năm mươi ba lần tham học là học rộng nghe nhiều. Lúc Ngài mới học, có làm như vậy hay không? Không! Vừa mới bắt đầu học bèn theo một vị thầy là Văn Thù Bồ Tát. Ở chỗ Văn Thù Bồ Tát, Ngài chuyên dốc sức, chuyên tu, tu một thứ! Tu thành công một thứ, nhà Thiền gọi chuyện này là “khai ngộ”, minh tâm kiến tánh, đại triệt đại ngộ, Giáo Hạ gọi là “đại khai viên giải”, người niệm Phật gọi là “nhất tâm bất loạn”, phải tu đạt đến cảnh giới này. Cảnh giới ấy chính là tốt nghiệp, đă hoàn thành một giai đoạn. Từ đấy trở đi bèn học rộng nghe nhiều. Tu học trong Phật pháp giống như một cái cây, trước hết đă có thân chính rồi sau đó mới dần dần có cành lá, hoa quả, giống như vậy, chứ chẳng giống Kim Tự Tháp.

      Nhưng hiện thời nhiều đồng tu học Phật chúng ta làm ngược ngạo, dùng phương cách Kim Tự Tháp: Vừa bắt đầu liền học rộng nghe nhiều, đến khắp nơi nghe ngóng, đến khắp nơi nh́n ngó, khiến cho đầu óc rối loạn lung tung, chẳng nắm được đầu mối. Hỏi người ấy th́ chuyện ǵ cũng biết, khá lắm, là một nhà Phật học cỡ bự! Có đoạn được phiền năo hay chăng? Chẳng hề! Thị phi, nhân ngă, tham, sân, si, mạn chẳng thể đoạn tí nào! Chẳng thể đắc Định, chẳng thể khai Huệ. Kẻ học nhiều như thế gọi là Thế Trí Biện Thông, là cái học kư vấn[2], đọc cho nhiều, nghe cho lắm, nhớ cả đống, chứ chẳng phải từ tâm tánh của chính ḿnh lưu lộ! Hy vọng các đồng tu phải chú ư điều này!

      Trong nhiều năm, qua các buổi giảng, tôi thường đề nghị các đồng tu hăy học theo một thầy, quư vị sẽ có thành tích. Nay ta chẳng t́m được thầy, đúng là chẳng t́m được thầy! Nếu quư vị gặp một vị thầy, nói chung, thầy cũng chẳng khác quư vị cho mấy, luôn là một vị thầy học rộng nghe nhiều, cũng là một vị thầy có học thức kư vấn! Cái học thức kư vấn th́ ngay cả Nho gia cũng chẳng cần đến! Trong thiên Học Kư [của sách Lễ Kư] có câu: “Kư học chi vấn, bất túc dĩ vi nhân sư dă” (Cái học do hỏi han, ghi nhớ, chẳng đáng để làm thầy người khác được). Chúng ta t́m không được thầy th́ làm sao đây? T́m cổ nhân. Nay chúng ta muốn học kinh Di Đà mà chẳng t́m được thầy th́ t́m Liên Tŕ đại sư. Bản chú giải này là của Liên Tŕ đại sư, chúng ta nương theo bản chú giải này của Liên Tŕ đại sư là được rồi!

      Chắc quư vị cũng nói: Chúng tôi đọc bản chú giải này của Liên Tŕ đại sư không hiểu! Nói thật ra, đây chẳng phải là chuyện khó. Nay tôi báo cáo với quư vị những điều tâm đắc của tôi khi đọc bản chú giải này, tôi chẳng giảng giải. Quư vị đọc bản chú giải này cũng giống như vậy, chỉ cần thành tâm thành ư đọc từ đầu đến cuối, đừng nóng ruột, chuyện này có gấp gáp cũng chẳng được! Câu tiếp theo là nói “Cưỡng ức vọng tâm” (gượng chế ngự vọng tâm), đó là gấp rút! Chuyện này gấp gáp chẳng được, cổ đức thường nói: “Độc thư thiên biến, kỳ nghĩa tự kiến” (Đọc sách ngàn lần, tự thấy ư nghĩa). Quư vị đọc Sớ Sao từ đầu đến cuối một ngàn lần, sẽ khai ngộ. V́ sao khai ngộ? Nếu quư vị chẳng nóng ruột, cứ thong thả đọc. Đọc một ngàn biến sẽ đắc Định. Quư vị đă nhất tâm bất loạn bèn thành công, bất tri bất giác thành tựu nhất tâm bất loạn. Nhất tâm bất loạn là đại triệt đại ngộ, có đạo lư như vậy!

      V́ thế, thiện tri thức chân chánh muốn t́m một học tṛ, học tṛ hướng về vị ấy xin dạy dỗ; trước hết, vị ấy nhất định sẽ hỏi: “Ông đă học Phật bao lâu? Đă đọc những kinh điển nào? Đă nghe những ai chỉ dạy?” Nếu quư vị nói: “Tôi đọc khá nhiều kinh luận, tôi nghe rất nhiều pháp sư đại đức giảng kinh”. Vị ấy bèn rất khách sáo: “Khá lắm! Rất hiếm có! Ông chẳng phải xoàng!” Chắp tay tán thán quư vị vài câu, ông hăy đi đi! Chẳng thể dạy ông được! V́ sao chẳng thể dạy? Quư vị phải biết: Tập khí của chúng sanh là “tiên nhập vi chủ” (cái ǵ được tiếp xúc trước, sẽ trở thành chánh yếu), đầu óc quư vị đă chứa đầy ắp Phật pháp, thầy giảng điều ǵ, quư vị sẽ tranh luận, chẳng phục, c̣n dạy ǵ nữa đây? Chẳng có cách nào dạy được! Bởi lẽ, quư vị vừa mới học Phật đă đi sai đường.

     Nếu quư vị gặp một vị thiện tri thức, người ta hỏi quư vị: “Ông đă niệm kinh nào?” “Tôi mới học, vẫn là mới tiếp xúc”. “Có nghe ai giảng kinh hay chưa?” “Chưa nghe ai giảng kinh”. Người ấy sẽ coi quư vị như bảo bối, quyết định chẳng vứt bỏ, [dù chỉ có] một người th́ người ấy cũng dạy quư vị, v́ sao? Một trang giấy trắng, sạch tinh tươm, chưa từng bị ô nhiễm, người này dễ dạy, chẳng có thành kiến, dạy hắn ta điều ǵ cũng đều có thể tiếp nhận hoàn toàn. V́ thế, một vị thiện tri thức gặp được người như vậy, cả đời sẽ coi người ấy như bảo bối, có thể truyền pháp cho người ấy, đâu có đơn giản! Hiện thời, nói thật thà th́ thiện tri thức cũng chẳng dễ ǵ gặp được. Có gặp, vị ấy cũng chẳng thể dạy quư vị. V́ vậy, bất đắc dĩ chỉ có cách kiếm cổ nhân, người hiện thời t́m không được th́ kiếm cổ nhân. Học kinh Di Đà, t́m Liên Tŕ đại sư, t́m Ngẫu Ích đại sư; học kinh Hoa Nghiêm t́m Thanh Lương đại sư, Lư Trưởng Giả, họ là người đời Đường, chỉ có thể làm như vậy. Chúng ta thật sự muốn học đạo, muốn thành tựu, đó là con đường đúng đắn duy nhất, là con đường to lớn sáng sủa!

      Khi nào mới có thể đi tham học, đến các nơi nghe kinh, đến các nơi nh́n ngó? Phải thật sự đạt được tâm đắc nơi một môn, chẳng hạn như khai ngộ, có ngộ xứ. Quư vị đọc bộ Di Đà Kinh Sớ Sao này mười năm; sau mười năm, quư vị lại đi nghe các vị thầy giảng kinh, thuyết pháp, xem những bản chú sớ khác nhau, quư vị sẽ khác hẳn, thật sự có tư cách tham học, v́ sao? Tôi đă dụng công nơi bộ kinh này mười năm, đến khi ấy quư vị đă mở mang huệ nhăn, pháp nhăn cũng đă mở; bất luận đến nơi đâu xem xét, thăm ḍ, chắc chắn đạt được lợi ích, chẳng bị tổn hại. Nếu chẳng có cơ sở mười năm nơi một bộ kinh, nói thật ra, chẳng có tư cách tham học!

      V́ sao hiện thời Phật Học Viện chẳng thể đào tạo nhân tài? Trong quá khứ, tôi cũng dạy tại Phật Học Viện mấy năm, nay tôi chẳng đến đó. V́ sao chẳng đến? Tôi đă hiểu rơ, đó là đại hội đua tài giảng diễn. Học tṛ là thính chúng, giờ này, vị pháp sư X... đến giảng một tiếng đồng hồ; giờ sau, thay thầy Y... lại giảng một môn khác nữa. Học sinh có thể tiếp thu hay chăng? Hoàn toàn chẳng thể hấp thu! Vừa mới giảng xong, ngay lập tức, thay thầy khác, thay bài học, quên sạch, quên béng mọi điều trong giờ học trước! Cái c̣n sót lại là “thầy X... giảng như thế nào? Thầy này giảng ra sao?” Phê b́nh họ Trương giỏi, họ Lư dở ở nơi đó. Chúng ta cần ǵ phải tham gia đại hội tranh tài giảng diễn ấy? Chẳng ganh đua với người ta, cho nên tôi cũng chẳng đến. Mất thời gian, tốn tinh lực, chẳng đạt được hiệu quả! Chẳng bằng chính ḿnh ở nhà xem kinh, niệm Phật, thật sự có thụ dụng. Đây là tôi cống hiến kinh nghiệm tham học của chính ḿnh cho quư vị đồng tu tham khảo.

      “Nhược bất tu quán hạnh, túng linh cưỡng ức vọng tâm” (nếu chẳng tu quán hạnh, dẫu gắng gượng chèn ép vọng tâm), “ức” () là đè nén, đây là tu tập quá gấp rút, rất phiền phức, sẽ thâu được hiệu quả trái ngược. Chẳng hạn như người tham Thiền, miễn cưỡng khống chế vọng tâm của chính ḿnh, dẫu cho người ấy tu Thiền th́ vẫn là có Định chứ không có Huệ. Thiền ấy như thế nào? Si Thiền. Dẫu hết thảy vọng tưởng đều buông xuống, đều chẳng nghĩ tới, đến cuối cùng, tu thành Vô Tưởng Định, biến thành ngoại đạo. Dẫu tu thành công, tương lai sanh làm ngoại đạo thiên trong Tứ Thiền Thiên, tức là Vô Tưởng Thiên, học Phật mà trở thành ngoại đạo! Học Giáo, nếu dụng tâm quá độ, tâm hiếu cường, hiếu thắng tha thiết, chúng tôi thấy rất nhiều người thổ huyết, thần kinh c̣n bị rối loạn. Trong quá khứ, chúng tôi cũng có một đồng học dụng công quá độ, nghiên cứu kinh chẳng ngủ nghỉ, làm như thế mười tháng sau chẳng thể xem kinh! Ông ta bảo tôi: “Chỉ cần nh́n vào kinh, liền thấy một vầng đen kịt, chẳng thấy một chữ nào”. Biến thành t́nh trạng như thế là v́ dụng công chẳng thích đáng! Tham Thiền cũng giống như thế, mà niệm Phật cũng như vậy, quyết định chẳng thể dụng công quá gấp rút. Muốn thành tựu nhanh chóng, chắc chắn đi vào ngơ rẽ! Chớ nên quá lơi lỏng, mà cũng đừng quá gấp rút. V́ thế, Phật pháp dạy quư vị phải noi theo Trung Đạo th́ mới có thể thành công. Niệm Phật đă mệt, bèn nghỉ ngơi, đừng nghĩ “chẳng thể nghỉ ngơi được, ta lại bị gián đoạn”, thể lực sẽ không chịu được, quư vị đâu phải là căn tánh ấy! Thể lực tốt đẹp, mỗi ngày chỉ cần ngủ hai tiếng đồng hồ th́ quá tốt, quư vị có thể niệm bảy ngày bảy đêm không ngủ nghỉ, vẫn được! Thân thể không ổn, chắc chắn chớ nên miễn cưỡng! Hễ mệt bèn nghỉ ngơi, tinh thần khôi phục sẽ niệm tiếp, như vậy mới là tốt, như vậy mới là “chẳng gián đoạn”. V́ thế, mọi người phải hiểu ư nghĩa này, đừng nên miễn cưỡng đè nén bản thân, “chung phi Định - Huệ b́nh đẳng” (rốt cuộc chẳng phải là Định - Huệ b́nh đẳng). Định - Huệ b́nh đẳng mới là Thiền thật sự.

     

(Sớ) Kim y chánh quán, chấp tŕ danh hiệu, chí ư nhất tâm, tắc phục hoàn không tịch chi Thể, thị kỳ Thú dă.

() 今依正觀,執持名號,至於一心,則復還空寂之體,是其趣也。

(Sớ: Nay nương theo chánh quán, chấp tŕ danh hiệu, đến mức nhất tâm bèn khôi phục cái Thể không tịch, đó là Thú).

 

“Chánh quán”: Chấp tŕ danh hiệu có Sự Tŕ và Lư Tŕ, Sự Tŕ và Lư Tŕ đều gọi là Chánh Quán. “Chí ư nhất tâm” (đạt đến nhất tâm) là nhất tâm bất loạn. Ngẫu Ích đại sư nói rất hay, bất luận Sự Tŕ hay Lư Tŕ, có thể tŕ đến mức đoạn Kiến Tư phiền năo th́ đều gọi là Sự nhất tâm bất loạn. Sự Tŕ hay Lư Tŕ đều như nhau. Niệm đến mức phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân, đều gọi là Lư nhất tâm bất loạn. Sự Tŕ chú trọng nơi sự tướng, chúng ta thường nói “thật thà niệm Phật”, những người này thường thành tựu nhiều hơn người thông đạt kinh giáo, lại c̣n cao minh hơn, v́ sao? Người thông đạt kinh giáo suốt ngày từ sáng đến tối suy nghĩ lung tung, nghĩ kinh này là đạo lư ǵ, kinh kia là đạo lư ǵ, đều gọi là “suy nghĩ lung tung”.

      Lục Tổ nói rất hay: “Vốn chẳng có một vật, chỗ nào nhuốm bụi trần”, tâm thanh tịnh khẩn yếu lắm! Do vậy, sư Ấn Tông hỏi Lục Tổ: “Ngũ Tổ có thường giảng Thiền Định giải thoát hay không?” Ngài lập tức ngăn lại, nói: “Thiền Định và giải thoát là hai pháp, Phật pháp là pháp không hai, hai pháp chẳng phải là Phật pháp”. Ngăn chặn ngay! Nói cách khác, do Ấn Tông là pháp sư giảng kinh, đầu óc đầy ắp danh từ Pháp Tướng, cho nên chẳng thể kiến tánh. Tuy sư có thể giảng kinh, nhưng chẳng thể minh tâm kiến tánh, Lục Tổ một đao cắt rời, đoạn dứt tất cả tri kiến của sư, mong sư có thể minh tâm kiến tánh.

      Thông đạt giáo nghĩa, thông đạt lư luận, niệm A Di Đà Phật, đó gọi là Lư Tŕ. Sự Tŕ là hoàn toàn không hiểu, như đồ đệ của pháp sư Đế Nhàn, chẳng biết chữ, chưa từng học hành, chưa hề nghe kinh, xuất gia cũng chưa thọ giới. Pháp sư Đế Nhàn bảo ông ta niệm một câu “Nam-mô A Di Đà Phật”, dạy ông ta một câu như thế. Người này rất tuyệt vời, thật sự nghe lời, thật sự tiếp nhận, chịu làm, người này hoàn toàn là Sự Tŕ. Sở dĩ, lăo pháp sư dạy ông ta [làm như thế] là do ông ta đă lớn tuổi mới xuất gia, ngoài bốn mươi mới xuất gia: “Ông niệm mệt bèn nghỉ ngơi, nghỉ khỏe rồi lại niệm tiếp. Một mực niệm như thế, nhất định có lợi ích”. Chính ông ta cũng không biết có lợi ích ǵ, nhưng niệm suốt ba năm, bèn biết trước lúc mất, đứng văng sanh. Sự tŕ đấy! Khi ông ta văng sanh, pháp sư Đế Nhàn lo liệu hậu sự cho ông ta, tán thán: “Đại pháp sư giảng kinh, thuyết pháp, phương trượng các ngôi chùa nổi tiếng trong thế gian hiện thời, không ai có thể sánh bằng ông! Thật sự chẳng sánh bằng!” Ông ta điều ǵ cũng chưa nghe đến, chuyện ǵ cũng chẳng biết, trong đầu ông ta chẳng có những thứ lộn xộn. Thầy dạy ông ta một câu A Di Đà Phật, từ đấy trở đi, trong đầu chỉ có A Di Đà Phật. Trừ A Di Đà Phật ra, điều ǵ cũng không biết, do như vậy nên mới có thể thành công.

      Nay chúng ta đă bị lừa, đă chất chứa không ít thứ [trong ḷng]. Nếu đă hiểu rơ, thấu triệt Lư, thấu triệt rồi th́ sao? Có thể buông xuống. Nếu chẳng thấu triệt Lư, không buông xuống được, vẫn nghĩ ngợi, như vậy là sẽ bị thiệt tḥi nhiều lắm! Nói thật ra, các đồng tu chúng ta đang hiện diện nơi đây, có ai chẳng phải là đời đời kiếp kiếp đều tu hành? Có ai chẳng cúng dường vô lượng chư Phật? Giống như kinh Vô Lượng Thọ đă nói: “Cúng dường bốn trăm ức Phật”, nhưng quư vị mê khi cách ấm, vẫn bị thoái chuyển, là v́ lẽ nào? Đời đời kiếp kiếp đều học, nhưng chẳng học thấu suốt, mà vẫn không đành ḷng buông xuống, tạo thành đại chướng ngại cho chính ḿnh.

      Tôi thường khuyến khích các đồng tu, kinh giáo học một môn, thâm nhập một môn, trong tương lai sẽ thành một người có uy tín trong Phật học. Chẳng hạn như trong thời cận đại, lăo pháp sư Viên Anh xuất gia, suốt đời chuyên dốc sức nơi kinh Lăng Nghiêm. Trong lời tựa bộ Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa, Sư cho biết: Từ năm hai mươi ba, hai mươi bốn tuổi, Sư bắt đầu dốc sức nơi kinh Lăng Nghiêm, đến lúc ngoài bảy mươi tuổi mới viết xong bộ Giảng Nghĩa. Sư suốt đời dốc sức nơi kinh Lăng Nghiêm, gần như chẳng có ngày nào không đọc Lăng Nghiêm. Thông đạt một bộ kinh, các kinh khác đều thông!

      Trong giới cư sĩ tại gia, cư sĩ Giang Vị Nông suốt đời dụng công nơi kinh Kim Cang trọn bốn mươi năm. Bộ Kim Cang Kinh Giảng Nghĩa của ông là bộ chú giải kinh Kim Cang có uy tín nhất, dụng công quá sâu! Cư sĩ Châu Chỉ Am cũng dốc sức suốt bốn mươi năm nơi Tâm Kinh hai trăm sáu mươi chữ, viết ra cuốn Tâm Kinh Thuyên Chú, là bản chú giải Tâm Kinh có giá trị nhất. Chúng ta phải học theo điều này, chỉ cần dốc sức nơi một môn, nhất định sẽ có thành tựu, chẳng có thầy cũng chẳng sao!

      Trong Ảnh Trần Hồi Ức Lục, pháp sư Đàm Hư có chép truyện cư sĩ Lưu Văn Hóa đọc kinh Lăng Nghiêm, không ai chỉ dạy, cư sĩ đọc suốt tám năm. Ông ta niệm kinh Lăng Nghiêm suốt tám năm bèn có cảm ứng chẳng thể nghĩ bàn. Ông ta biết Đông Y đôi chút, mở tiệm thuốc Bắc. Có một buổi trưa, ông ta ở trong tiệm thuốc Bắc, không có ai mua bán, liền gục đầu lên quầy ngủ gà ngủ gật. Chính ông ta cảm giác h́nh như ḿnh ngủ mà chẳng phải ngủ, trọn chẳng phải là đă ngủ say, thấy hai người bước vào. Hai người ấy đă chết, là oan gia đối đầu của ông ta, trong quá khứ đă từng có tranh chấp nợ nần, cùng lôi nhau ra ṭa. Lưu Văn Hóa thắng kiện, hai người này thua kiện. Sau khi thua, hai người này bèn treo cổ tự tử.

      Đối với chuyện này, ông ta từ trước đến giờ cảm thấy khó chịu lắm, v́ lẽ nào mà do một chút tiền đến nỗi ép hai người mất mạng? Tự ḿnh thường áy náy. Nay thấy hai người bọn họ đi đến, ông ta hoảng sợ, biết hai người này đă chết: “Hai con quỷ này đến đây, sợ là đến báo thù!” Rốt cuộc, ông ta thấy hai người này dường như không có ác ư, họ đi tới trước mặt ông ta quỳ xuống. Ông ta bèn hỏi: “Các ông quỳ trước mặt tôi để làm ǵ?” Bọn họ nói: “Cầu siêu độ”. Ông ta bèn vững tâm, chẳng phải là họ đến báo thù, mà là cầu siêu độ. Ông ta bảo: “Được! Cách siêu độ ra sao?” Họ thưa: “Chỉ cần ông nhận lời là được!” “Không sao! Tôi bằng ḷng!” Ông nh́n thấy hai con quỷ ấy trèo lên đầu gối ông ta, trèo đến vai bèn thăng thiên.

      Sau khi hai con quỷ ấy được siêu độ, kế đó, ông ta lại thấy một nữ nhân dẫn một đứa bé. Cô ta là người vợ đă mất của ông ta, đứa con cũng theo mẹ tới trước mặt ông ta, cũng muốn cầu siêu độ. Ông ta bèn đáp ứng giống như vậy: “Được rồi, ta bằng ḷng, ta siêu độ các ngươi”. Cũng là thấy bà vợ dắt đứa bé trèo lên đầu gối ông ta, lên đến vai bèn thăng thiên. Nghi thức ǵ cũng chẳng có, cũng chẳng cần tụng kinh, cũng chẳng cần bái sám. Do sức mạnh nào vậy? Do công đức của tám năm đóng cửa đọc kinh Lăng Nghiêm. Do vậy, là người thật sự có đạo hạnh, ông ta gật đầu, [người đă mất] bèn được siêu độ.

      Không ai giảng giải, không có thầy, chớ sợ! Chỉ cần quư vị cầm cuốn kinh sách này, mỗi ngày đọc một lần, đọc suốt mười năm hay tám năm sẽ hữu hiệu, sẽ thành công. Nói cách khác, quư vị có tâm nhẫn nại hay không? Tâm nhẫn nại là phước báo, quư vị có phước báo ấy hay không? Đó là quư vị có thiện căn, nhân duyên, nay kinh điển chẳng thiếu khuyết chính là nhân duyên trọn đủ, quư vị cũng hiểu rơ đạo lư này. Nói cách khác, quư vị có phước phận hay không? Phước phận chính là tâm nhẫn nại. Trong thực tế, thân cận thầy cũng giống như vậy! Chẳng thân cận một vị thầy mười năm, cũng chẳng thể thành tựu. Tại Đài Trung, tôi thân cận thầy Lư suốt mười năm. Năm Dân Quốc 47 (1958), tôi thân cận thầy, đến năm Dân Quốc 56 (1967) rời thầy, tṛn mười năm, không kiên tŕ sẽ không được. Khuyết điểm lớn nhất của con người hiện thời là mong nhanh chóng, mong mau thành, mong muốn có ngay danh lẫn lợi, đâu có chuyện như vậy được! Nhất định không thể như thế được! Thưa quư vị, nếu danh lợi thật sự đưa tới th́ nó tới cũng nhanh mà đi cũng chóng. Đấy là đạo lư tất nhiên! Mong nhanh chóng sẽ chẳng đạt được mà!

 

      (Sớ) Bất đồ vi hữu tác vọng kế nhi dĩ.

      () 不徒為有作妄計而已。

      (Sớ: Chẳng phải là hữu vi, hư vọng biến kế sở chấp mà thôi)

 

      “Hữu tác” là hữu vi, “hữu tác” là đối với “vô tác” mà nói. “Vọng kế” hay “hư vọng biến kế” chính là nói tương phản với Viên Thành Thật trong Duy Thức. Câu này có nghĩa là: “Nhược bất quy không tịch, tắc thị hữu vi, hữu tác chi tu” (Nếu chẳng quy về không tịch, sẽ là tu hữu vi, hữu tác). Do tu hữu vi, hữu tác, chắc chắn không đạt được nhất tâm, chắc chắn chẳng thể kiến tánh. Nói cách khác, quư vị tu như thế nào đi nữa, công phu cũng chỉ đạt được phân nửa mà thôi, chẳng thể viên măn. Do vậy, nhất định phải quy về không tịch, tức là thanh tịnh tịch diệt. Thiền lấy thanh tịnh tịch diệt làm chỗ quy túc, Tịnh Độ cũng lấy thanh tịnh tịch diệt làm chỗ quy túc, nhất tâm bất loạn mà! Nếu trong tâm có một niệm, sẽ thành hai, chẳng phải là một. Giáo Hạ cũng như vậy, Giáo Hạ phải từ ngôn thuyết trở về vô ngôn thuyết, th́ mới có thể đại triệt đại ngộ nơi Giáo Hạ, mới có thể đại khai viên giải. Từ có ngôn thuyết trở về vô ngôn thuyết, “thuyết tức vô thuyết, vô thuyết tức thuyết” (nói là chẳng nói, chẳng nói là nói), đều phải lấy không tịch làm chỗ quy thú. Do vậy, quyết định chẳng phải là “hữu vi, vọng kế”.

 

      (Sớ) Ngũ, tịch dụng nhất đối giả.

      () 五、寂用一對者。

      (Sớ: Cặp thứ năm là Tịch Dụng).

 

      “Tịch” chính là tịch diệt trong đoạn trên. Nói cách khác, khi ấy đă đạt đến Lư nhất tâm bất loạn, công phu đă thành tựu. Sau khi thành tựu, đương nhiên có dụng xứ, tức là khởi tác dụng. V́ thế, Tịch là Thể, khởi dụng là tác dụng to lớn của nó.

 

      (Sớ) Dĩ tịch vi Tông, linh phát dụng vi Thú. Ngôn sùng thượng thử Tịch, kỳ ư vân hà? Lương diêu vọng tưởng chấp trước, vô diêu giải thoát, vọng tận, tâm nhất, tắc “tịnh cực, quang thông”. Dụ như trần tận, kính minh, vô tượng bất hiện.

      () 以寂為宗,令發用為趣。言崇尚此寂。其意云何?良繇妄想執著,無繇解脫,妄盡心一,則淨極光通。喻如塵盡鏡明,無像不現

      (Sớ: Lấy Tịch làm Tông, khiến cho khởi tác dụng là Thú. Đề cao Tịch là v́ ư ǵ? Ấy là v́ vọng tưởng chấp trước, không do đâu mà giải thoát được. Hễ vọng hết, tâm bèn nhất, đấy chính là “tịnh đến cùng cực bèn sáng suốt”. Ví như hết bụi, gương bèn sáng, không h́nh ảnh nào chẳng hiện).

 

Đoạn này có cùng ư nghĩa với điều đức Phật đă giảng trong kinh Lăng Nghiêm. Tâm chúng ta vốn tịch tĩnh, vốn chẳng có một vật, nay trong tâm chẳng tịch tĩnh, v́ sao chẳng tịch tĩnh? Trong phẩm Như Lai Xuất Hiện của kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đă nói [rơ nguyên nhân]. Phẩm Như Lai Xuất Hiện do đức Phật tự nói sau khi Ngài vừa mới thành Phật, là cảnh giới của chính Ngài khi ấy. Khi chính Ngài đă thành Phật, tức là thị hiện thành Phật, thấy hết thảy chúng sinh trong đại địa đồng thời thành Phật, bèn rất cảm khái, nói một câu: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai”, hoàn toàn giống như Phật, chẳng có mảy may sai biệt nào! Đáng tiếc là chúng sanh do có “vọng tưởng, chấp trước, nên chẳng thể chứng đắc”, chẳng thể chứng đắc và hưởng thụ cảnh giới ấy. Căn bệnh là do vọng tưởng, chấp trước; v́ thế, ở đây nói “lương diêu vọng tưởng, chấp trước, vô diêu giải thoát” (ấy là do vọng tưởng, chấp trước, không thể do đâu mà giải thoát được), giải thoát là tự tại. Kinh Hoa Nghiêm nói Lư Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại; chẳng thể đạt tới cảnh giới của Phật, Bồ Tát là v́ vọng tưởng, chấp trước.

“Vọng tận” là vọng tưởng, chấp trước thảy đều bỏ sạch. Hết thảy đều bỏ sạch, chẳng c̣n nữa, tâm bèn nhất, đấy là nhất tâm bất loạn. Do vậy, có thể biết: Chỉ cần quư vị c̣n có một vọng tưởng, c̣n có một chấp trước, quư vị sẽ chẳng đắc nhất tâm. Bởi vậy, trong khi niệm Phật, tôi luôn khuyến khích, cổ vũ các đồng tu niệm Phật đừng nên cầu nhất tâm, niệm Phật đừng nên cầu văng sanh, niệm Phật đừng nên cầu tướng lành, v́ sao? Do quư vị có cầu là có vọng tưởng, chấp trước. Quư vị niệm Phật mà có vọng tưởng, chấp trước này, làm sao đắc nhất tâm? Chẳng thể được! Quư vị niệm ǵ cũng đều không có. Niệm một câu Phật này thuần thục, tự nhiên Phật hiện tiền, tự nhiên đắc nhất tâm, quyết định văng sanh, những điều mong mỏi thảy đều đạt được; nhưng nếu quư vị khởi niệm trong khi niệm Phật, sẽ chẳng đạt được, v́ sao? Trong sự niệm Phật của quư vị có xen tạp, tức là xen tạp vọng tưởng, chấp trước, cho nên quư vị chẳng thể thành công. Nhất định phải hiểu điều này!

Có người hỏi: “Tôi niệm Phật chẳng cầu nhất tâm, chẳng cầu văng sanh, chẳng cầu thấy Phật, chẳng cầu ǵ cả th́ tôi niệm Phật hiệu này để làm ǵ?” Kẻ ấy chẳng biết: Trong từng câu, từng chữ của Phật hiệu đă bao hàm “cầu nhất tâm, cầu văng sanh, cầu thấy Phật”, đều được bao gồm trong ấy. Nếu lại khởi lên những ư niệm này th́ hỏng rồi, hỏng bét! Chỉ cần một mực niệm bốn chữ này, điều ǵ cũng chẳng nghĩ tới, chẳng có pháp nào ở trong ấy, sở nguyện sở cầu của quư vị sẽ đều bao gồm trong ấy. Quư vị không nghĩ đến, nhưng chúng vẫn được bao gồm trong ấy, đúng là mầu nhiệm không thể diễn tả được! Cái tâm bèn nhất. Đây là chuyện trọng yếu nhất trong việc học Phật.

Chúng ta học Phật nhằm mục đích cầu “cái tâm chuyên nhất”. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, Hiển Giáo, Mật Giáo, đều có cùng một mục tiêu: Cầu nhất tâm. Quư vị phải nhớ: Phương pháp nào giúp cho cái tâm ta được chuyên nhất th́ phương pháp ấy hữu hiệu đối với ta. Phương pháp nào khiến cho trong tâm ta khởi lên phân biệt, chấp trước, chúng ta phải bỏ phương pháp ấy. Chính ḿnh nhất định phải hiểu rơ điều này, nhất định phải giác ngộ, khiến cho chúng ta tiến bộ rất nhanh, thật sự có tiến bộ trên Phật đạo.

“Tắc tịnh cực quang thông”: Câu này xuất phát từ câu “tịnh cực quang thông đạt” trong kinh Lăng Nghiêm. “Tịnh” là Định, là nhất tâm bất loạn. Khi công phu nhất tâm bất loạn đă thành thục, tự nhiên phóng quang minh. Quang minh ấy là trí huệ. Trí huệ hiện tiền, vô lượng vô biên trí huệ. Trí huệ này chẳng phải do học được, cho nên gọi là Tự Nhiên Trí, hay Vô Sư Trí, điều ǵ cũng đều thông đạt. Mọi người đều biết Huệ Năng đại sư chưa từng đi học, không biết chữ, ở Hoàng Mai nghe Ngũ Tổ thuyết pháp vào canh ba lúc nửa đêm, nghe giảng đôi chút, chỉ một lần ấy! Ngũ Tổ giảng kinh Kim Cang, giảng được một phần ba, giảng đến câu: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (Hăy nên không trụ vào đâu mà sanh tâm), Ngài bèn hoát nhiên đại ngộ, chẳng cần phải giảng tiếp, Ngài đă thông đạt hết thảy rồi! Không chỉ là thông đạt kinh Kim Cang, mà tất cả toàn bộ kinh điển Phật giáo đều thông đạt

V́ sao có thể thông đạt toàn bộ? Tâm tịnh. “Tịnh cực quang thông”. Ngũ Tổ giúp Ngài một chút; lúc b́nh thường tâm Lục Tổ đă thanh tịnh. Nếu tâm Ngài không thanh tịnh, sẽ chẳng thể nói: “Bồ Đề bổn vô thụ, minh kính diệc phi đài, bổn lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai” (Bồ Đề chẳng phải cây, gương sáng chẳng phải đài, vốn chẳng có một vật, chỗ nào nhuốm bụi trần). Tâm bất tịnh, sẽ chẳng đạt được cảnh giới này, sẽ chẳng thể nói lời này! Tâm Ngài đă tịnh, nên Ngũ Tổ vừa khai thị, tạo một chút Tăng Thượng Duyên, do một chút ấy, Ngài bèn thông suốt, quang minh của Ngài bèn lộ ra. V́ thế, trên đường lánh nạn, c̣n chưa đến chỗ bọn thợ săn, tại thôn Tào Hầu gặp tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng. Tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng thường niệm kinh Đại Bát Niết Bàn, kinh này phân lượng cũng rất lớn, có bốn mươi quyển. Tuy niệm kinh này, có rất nhiều ư nghĩa bà ta chẳng hiểu, gặp Lục Tổ bèn thỉnh giáo Ngài, v́ Ngài trụ tại thôn Tào Hầu tới tám tháng. Có thời gian dài như thế, Ngài bèn giảng cho tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng nghe kinh Niết Bàn một lượt từ đầu đến cuối. Chuyện này có ghi trong Đàn Kinh. Đây là lần đầu tiên Ngài giảng kinh, lúc ấy, Ngài hai mươi bốn tuổi. Trước lúc đến ẩn ḿnh trong đoàn thợ săn, Ngài có một đoạn nhân duyên như thế. Người đuổi bắt Ngài nhằm đoạt lại y bát là Huệ Minh chính là người đắc độ thứ nhất, người đắc độ thứ hai là tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng.

Quư vị phải hiểu: Trí huệ thật sự do nhất tâm bất loạn mà có, chúng ta cầu điều khẩn yếu này. Hiện thời, có rất nhiều người đă phạm sai lầm: Ta phải đọc thật nhiều kinh, đọc thật nhiều luận, ta phải nghiên cứu những thứ ấy. Sai lầm rồi! Đó là [học tập] để trở thành một chuyên gia Phật học. Làm một nhà Phật học th́ được, chứ chẳng ăn nhập ǵ đến Tam Học Giới - Định - Huệ của chính ḿnh! Chúng ta lăng phí nhiều thời gian và tinh lực quư báu nơi đây, cái được không bù nổi cái mất. Cái được quá hữu hạn, cái mất không có cách ǵ bù đắp được! Thành tựu trong Phật pháp là đắc nhất tâm, do nhất tâm mà khai trí huệ, đấy là thành tựu trong Phật pháp, “tịnh cực quang thông” [có nghĩa là như vậy].

[Liên Tŕ đại sư dùng] tỷ dụ “trần tận, kính minh” (hết bụi, gương sáng). Thời cổ, gương soi mặt làm bằng đồng. Gương đồng phải mài, càng mài càng sáng, mỗi ngày đều phải mài. Chẳng mài sẽ đóng bụi, đóng bụi sẽ chẳng soi được! Gương soi vốn có thể chiếu, tỷ dụ trí huệ quang minh vốn sẵn đủ, chẳng cần phải cầu từ bên ngoài, cầu chẳng được đâu! Đ̣i hỏi điều ǵ? Đ̣i hỏi gương phải sạch, tâm địa phải thanh tịnh. Tâm đă nhất, trí huệ sẽ tự nhiên xuất hiện. Tâm chẳng nhất, muốn cầu trí huệ th́ đến nơi đâu để cầu? Giống như gương dơ bẩn, đóng cả đống bụi bặm, làm sao có thể soi tỏ được? Chẳng trừ bỏ bụi bặm, mà muốn gương tỏa quang minh, sẽ là chuyện không thể thực hiện được! Trước hết, phải cầu nhất tâm, không cầu trí huệ. Từ trong nhất tâm, tự nhiên sanh ra trí huệ, điều này rất khẩn yếu. Bụi hết, gương tự nhiên tỏa quang minh, “vô tượng bất hiện” (không h́nh tượng nào chẳng hiện), sẽ soi rơ rệt cảnh giới bên ngoài. Nói cách khác, tất cả các pháp thế gian và pháp xuất thế gian đều thông đạt, hiểu rơ, chẳng c̣n có chướng ngại. Tỷ dụ này có ư nghĩa như vậy!

 

(Sớ) Sở vị kư sanh bổn quốc, đắc Vô Sanh Nhẫn dĩ, hoàn nhập sanh tử, dĩ vô số phương tiện, đại tác Phật sự, độ thoát chúng sanh, diệu dụng hằng sa, thị kỳ Thú dă.

() 所謂既生本國,得無生忍已,還入生死,以無數方便,大作佛事,度脫眾生,妙用恆沙,是其趣也。

(Sớ: Đó gọi là: Đă sanh về nước ấy, đắc Vô Sanh Nhẫn, trở vào sanh tử, dùng vô số phương tiện để làm Phật sự to lớn, độ thoát chúng sanh, diệu dụng nhiều như cát sông Hằng. Đấy là Thú [của kinh này]).

 

Phối hợp với kinh này để nói, kinh này lấy văng sanh làm tác dụng. Chúng ta tu học pháp môn này nhằm mục đích cầu văng sanh, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới trong một đời, nhất tâm bèn đạt được. Nay chúng ta niệm Phật, mong niệm đến mức nhất tâm, chẳng dễ đâu! Thật khó lắm! V́ thế, nay chúng ta văng sanh chỉ cầu ǵ? Đới nghiệp văng sanh. Trong một lá thư viết cho bạn, Ngẫu Ích đại sư từng để lộ cảnh giới của chính ḿnh. Ngài nói Ngài suốt đời học Phật, nhưng cũng chẳng dám bàn tới thành tựu ǵ, hạ hạ phẩm văng sanh chính là kết cục chắc chắn của chính Ngài. Nói cách khác, Ngài quyết định tin tưởng chính ḿnh có thể văng sanh. Phẩm vị nào? Hạ hạ phẩm mà thôi. Ngài có cầu thượng phẩm hay không? Ngài không cầu, Ngài chẳng có ư niệm ấy, chỉ cầu văng sanh, hạ hạ phẩm cũng được, chính ḿnh cũng rất thỏa ư rồi! Chúng ta nghĩ xem: Ngẫu Ích đại sư là hạng người nào? Quyết chẳng tham cầu phẩm vị cao. Chúng ta nên bắt chước các tổ sư đại đức, thật thà niệm Phật, cầu đới nghiệp văng sanh.

Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, quư vị bèn chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới bèn chứng đắc điều này. V́ sao biết? Trong kinh thường nói: Viên chứng ba thứ Bất Thoái. Nếu chẳng chứng Vô Sanh Nhẫn, làm sao có ba thứ Bất Thoái cho được? Đă nói đến ba thứ Bất Thoái, nhất định đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Vô Sanh Pháp Nhẫn, thưa quư vị, không chỉ là Sự nhất tâm, trên thực tế, nó là Lư nhất tâm bất loạn. Sau khi chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, quư vị bèn thành tựu. “Đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn dĩ” là quư vị đă đạt được, thật sự đạt được. Sau khi đạt được, bèn độ chúng sanh, “hoàn nhập sanh tử” (trở vào sanh tử), [sanh tử] là lục đạo luân hồi, quư vị bèn trở lại lục đạo luân hồi. Lúc ấy, trở vào lục đạo luân hồi chẳng phải là đầu thai, chẳng phải là đến thọ báo, mà là “thừa nguyện tái lai”, tự tại lắm! Quư vị tự do ra vào lục đạo, không như chúng ta hiện thời muốn thoát khỏi lục đạo chẳng được, chẳng có cách nào! Khi ấy, người đó ra vào tự do, chẳng có chướng ngại.

Người ấy vào trong lục đạo để làm ǵ? Vào lục đạo độ chúng sanh. Đối với kẻ có duyên với chính ḿnh, thấy kẻ căn cơ đă chín muồi, căn cơ chín muồi c̣n phải hữu duyên, hữu duyên cũng phải là căn cơ chín muồi, người ấy bèn đến [chỗ kẻ hữu duyên, căn cơ chín muồi ấy]. Nói “căn cơ chín muồi” là người ấy có thể tin tưởng. Quư vị dạy người ấy làm như vậy, người ấy sẽ chết sạch so đo, khăng khăng tu tập, quyết định thành công trong đời này. Loại người ấy được gọi là “căn cơ chín muồi”. Nói cách khác, người căn cơ chín muồi nhất định vượt thoát luân hồi trong đời này, nhất định văng sanh. Đối với kẻ chưa chín muồi, bèn gieo thiện căn, cũng giúp đỡ người ấy, khiến cho người ấy có thể nghe kinh nhiều, niệm Phật nhiều, nhưng người ấy chưa thể văng sanh trong đời này. Đấy là tăng trưởng thiện căn cho kẻ ấy, [tuy] kẻ ấy chưa thể văng sanh trong đời này. Sở dĩ kẻ ấy chẳng thể văng sanh là do chính kẻ ấy chẳng nghiêm túc niệm Phật, tam tâm, nhị ư, đă niệm Phật mà vẫn mong học môn khác, như vậy là không được rồi!

Ngày hôm nay, tôi bảo Ngộ Đạo, phước báo của tôi chẳng lớn bằng thầy ấy, chính thầy ấy phải hiểu, phải giác ngộ điều này. Tôi chẳng thể an tâm niệm Phật mấy ngày, tôi chẳng có thời gian. Nếu không giảng kinh, bèn có người tới t́m tôi khiến tôi bị chia trí, họ đă đến, chẳng thể không gặp. V́ thế, tôi thiếu phước báo. Tôi bảo họ: “Tôi ra ngoại quốc giảng kinh ba tháng, các ông hăy khéo niệm Phật suốt ba tháng. Đấy là có phước báo”. Tôi nói: “Ngày nào tôi có phước báo, tôi sẽ mở Niệm Phật Đường niệm Phật, cũng chẳng giảng kinh. Người giảng kinh chẳng có phước, người niệm Phật có phước”. Thật đấy, chẳng giả đâu! Người giảng kinh là bỏ ḿnh v́ người, chính ḿnh niệm chẳng thành, khuyên người khác niệm Phật. Điều đáng để an ủi là mỗi lần đến chỗ nào vẫn thật sự có mấy người chịu nghe lời, tối thiểu là có một hai người biết nghe lời, có thể thật thà niệm Phật, chúng tôi bèn cảm thấy hết sức an ủi, chẳng uổng công bôn ba!

Sau khi thành tựu, thả chiếc bè Từ, trở lại độ chúng sanh, “dĩ vô số phương tiện, đại tác Phật sự” (dùng vô số phương tiện, làm Phật sự lớn lao). Thưa quư vị, Phật sự ở đây không phải là niệm kinh siêu độ vong hồn, chẳng phải vậy! Giảng kinh, thuyết pháp là Phật sự, đại chúng nhóm lại niệm Phật hoặc tham Thiền cộng tu th́ gọi là Phật sự. “Vô số phương tiện” chính là dùng các thứ pháp môn, đương nhiên tùy theo căn tánh của chúng sanh: Thích Thiền bèn dạy họ tham Thiền; ưa Giáo bèn dạy họ nghiên cứu kinh điển; ưa thích niệm Phật bèn dạy họ niệm Phật; chuộng tŕ chú bèn dạy họ tŕ chú. Nói chung, những điều này có mối nhân duyên liên quan với kiếp trước hoặc nhiều đời nhiều kiếp.

Chẳng hạn như trong đời quá khứ, quư vị là người niệm Phật, nay vừa nghe nói niệm Phật bèn vui thích; người ta dạy quư vị tŕ chú, dạy quư vị tham Thiền, quư vị chẳng có hứng thú, v́ sao? Do quư vị có tập khí, nhiều đời nhiều kiếp đă huân tập pháp môn này. Nếu trong đời quá khứ toàn là tham Thiền, tọa hương trong Thiền Đường, nay bảo quư vị niệm Phật, quư vị cũng chẳng ham thích, chẳng cảm thấy hứng thú. Do vậy, từ nhiều pháp môn, bản thân chúng ta sẽ thể nghiệm, biết chúng ta đă tu pháp môn nào trong đời quá khứ. Nhiều pháp môn bày ra trước mặt, quư vị vừa tiếp xúc, sẽ có pháp môn đặc biệt ưa chuộng, sẽ có pháp môn đặc biệt ham thích, chứng tỏ quư vị trong đời quá khứ có tập khí rất sâu đối với pháp môn ấy, trong đời này lại tiếp tục tu, sẽ dễ thành tựu. Nếu tu một pháp môn mà chính ḿnh chẳng có hứng thú, sẽ rất khó [thành tựu]!

Mục đích là “độ thoát chúng sanh”, hai chữ “độ thoát” là tỷ dụ, “độ” là vượt sông. “Độ” () được dùng giống như “độ” (: vượt sông), từ biển khổ sanh tử này, vượt sang bờ Niết Bàn bên kia. Nếu nói theo kinh này, sẽ là từ thế giới Sa Bà này vượt sang Tây Phương Cực Lạc thế giới. “Thoát” là thoát ly sanh tử luân hồi, mang ư nghĩa này. “Diệu dụng Hằng sa”: Tác dụng vô lượng vô biên, nhiều như cát sông Hằng. Do vậy, có thể biết sanh sang Tây Phương Tịnh Độ để làm ǵ? Nhằm khôi phục trí huệ bản năng của chính ḿnh. Khôi phục trí huệ bản năng của chính ḿnh, giúp đỡ vô lượng vô biên chúng sanh. Chúng ta trở vào lục đạo luân hồi để làm chuyện này.

 

(Sớ) Bất đồ vi trầm không trệ tịch nhi dĩ.

      () 不徒為沈空滯寂而已。

(Sớ: Chẳng phải chỉ là vướng mắc trong không tịch mà thôi).

 

“Trầm không trệ tịch” là nói điều ǵ? Người Tiểu Thừa! Người Tiểu Thừa sau khi chứng đắc Thiên Chân Niết Bàn, sẽ không ra khỏi đó, nên được gọi là kẻ chỉ biết giải thoát cho riêng ḿnh (tự liễu hán). Sau khi chính họ đă đạt đến sự an lạc, chẳng quan tâm đến người khác, chẳng độ chúng sanh, giống như đă vùi kín trong không tịch, chẳng thể phát đại dụng lợi ích chúng sanh. Những lời này đều nói về sở chứng của bậc Thanh Văn và Duyên Giác là Thiên Chân Niết Bàn, [loại Niết Bàn này] c̣n gọi là Hữu Dư Niết Bàn, khác với [Niết Bàn của] Bồ Tát. Bồ Tát niệm niệm mong giúp đỡ chúng sanh, niệm niệm mong độ thoát chúng sanh, quyết chẳng lấy tự độ làm mục tiêu cuối cùng.

Do vậy, người Tiểu Thừa chẳng mong văng sanh, v́ nguyện hạnh chẳng tương đồng, chẳng tương ứng với Tây Phương Cực Lạc thế giới. Do lẽ này, người Tiểu Thừa tuy chứng đắc A La Hán, hoặc chứng đắc Bích Chi Phật, vẫn chẳng thể văng sanh; trừ phi họ thay đổi cách nghĩ, hồi Tiểu hướng Đại, muốn phát tâm độ chúng sanh th́ được. Họ cầu văng sanh như vậy, nhất định có thể đạt tới. Nếu chẳng hồi Tiểu hướng Đại, chắc chắn chẳng thể văng sanh. V́ thế, người hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư của Tây Phương Cực Lạc thế giới cao minh hơn A La Hán, Bích Chi Phật rất nhiều. A La Hán và Bích Chi Phật chẳng sánh bằng! Thế nhưng tu thành A La Hán hay Bích Chi Phật chẳng dễ dàng! Cầu đới nghiệp văng sanh chẳng phải là chuyện khó, ai nấy đều có thể làm được. Do vậy, nhất định phải khéo niệm Phật.

Chúng tôi giảng kinh nhiều năm như thế, có được một khoảng thời gian để niệm Phật, công đức ấy vô lượng vô biên, vô cùng thù thắng. Nói thật ra, bản thân tôi vô cùng hâm mộ [những người niệm Phật]. Các đồng tu hễ có thời gian th́ tốt nhất là nên ở lại nơi đây. Ở nơi đây, quư vị có thể ngày đêm [niệm Phật] chẳng gián đoạn. Phương pháp niệm Phật là niệm mệt bèn nghỉ, nghỉ ngơi khỏe khoắn xong, bèn tới Niệm Phật Đường để tiếp tục niệm, Phật hiệu sẽ chẳng bị gián đoạn. Ngủ tới nửa đêm, tỉnh giấc bèn dậy niệm Phật. Niệm mệt bèn đi ngủ tiếp, hết thảy h́nh thức chẳng câu nệ. Làm như thế, trong tâm quư vị chẳng bị áp lực, hết sức thoải mái. Khi nào bước vào Phật đường bèn niệm, niệm mệt bèn tự bước ra, cũng không cần phải chào hỏi bất cứ người nào, như vậy là tốt lắm, ngày đêm chẳng gián đoạn. Nói thật ra, một Niệm Phật Đường thật sự sẽ tuân theo phương thức này.

 

(Sớ) Như thị thập môn, triển chuyển sanh khởi, dĩ vi Tông Thú.

() 如是十門,展轉生起,以為宗趣。

(Sớ: Mười môn như thế lần lượt sanh khởi, dùng những môn này làm Tông Thú).

 

Trong mười môn nói trên đây, luận về phương diện Tông Thú của kinh này, phần trước là Tông, phần sau là Thú. Tông và Thú liên kết với nhau. Từ đoạn văn này, chúng ta thấy rơ rệt, minh bạch. Hôm nay đă hết thời gian rồi!

 

A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa

Phần 43 hết

 

 

 

 

     

     

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

     



[1] Hồ Thích (1891-1962) là một nhà tư tưởng thời cận đại của Trung Hoa. Ông ta quê ở huyện Tích Khê, tỉnh An Huy, tên thật là Hồ Tự Môn, tự Hy Cường, về sau đổi tên thành Hồ Thích, lấy bút hiệu là Thích Chi. Ông ta từng học ngành canh nông tại đại học Cornell ở Hoa Kỳ rồi học Triết tại đại học Columbia, chủ trương cách mạng văn hóa, đề xướng phong trào thay đổi văn hóa, bài xích Khổng Mạnh và các trào lưu tư tưởng cũ, là một người lănh đạo tích cực trong phong trào Ngũ Tứ Vận Động. Trong nhiệt t́nh cải cách Trung Hoa, ông ta đă đề xướng cấm tuyệt sử dụng Văn Ngôn trong nhà trường cũng như hô hào “đả đảo Khổng gia điếm” (đả đảo tiệm buôn của nhà họ Khổng).

[2] Học kư vấn, tức là học thuộc, ghi nhớ làu làu, nhuyễn nhừ, hễ ai hỏi đến sẽ nói thao thao, nhưng thật ra chẳng nắm được cốt lơi, chẳng hiểu ư nghĩa chân thật. Những ư nghĩa người ấy nói ra chỉ là do hỏi han hay t́m đọc, tham khảo từ sách vở hay dựa dẫm vào kiến thức của người đi trước, chứ không do tự tánh lưu lộ, nên hoàn toàn chỉ nắm được cái vỏ rỗng của văn tự!