A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa

阿彌陀經疏鈔演義

Phần 52

Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Minh Tiến, Huệ Trang và Đức Phong

 

Tập 103

 

      Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang một trăm chín mươi bốn:   

 

      (Sao) Lược chương giả, ngôn bất tận ư, cố vân lược dă.

  () 略彰者,言不盡意,故云略也。

      (Sao: “Tŕnh bày đại lược”: Nói chẳng hết ư, nên bảo là “đại lược”).

 

      Đây là một đoạn ngắn đă được giảng trong lần trước, nhằm giải thích Văn Tự Bát Nhă.

 

      (Sao) Lục chủng thành tựu, phân hợp nhị khoa giả.

() 六種成就,分合二科者。

      (Sao: Sáu thứ thành tựu được chia ra, và gộp lại thành hai khoa).

 

      Có những bản [chú giải] kinh, sáu thứ thành tựu được chia thành sáu khoa, chia rất tỉ mỉ. Ở đây, Liên Tŕ đại sư chia khá đơn giản, gộp năm thứ thành tựu đầu thành một khoa, xếp Chúng Thành Tựu thành riêng một khoa, [do vậy, sáu thứ thành tựu được] chia làm hai khoa. “Khai hợp” (tức chữ “phân hợp” được dùng trong lời Sao), “khai” là triển khai, “hợp” là quy nạp; trong kinh Phật có rất nhiều lề lối như vậy.

 

      (Sao) Lệ như Ngũ Uẩn, Lục Căn, hoặc hợp Sắc khai Tâm, hoặc hợp Tâm khai Sắc, tùy kỳ sở nghi, vô định pháp dă.

  () 例如五蘊六根,或合色開心,或合心開色,隨其所宜,無定法也。

      (Sao: Ví dụ như Ngũ Uẩn và Lục Căn th́ Ngũ Uẩn là gộp Sắc, tách Tâm [thành nhiều thành phần khác nhau], hoặc [như trong trường hợp Lục Căn] th́ gộp Tâm, chia chẻ Sắc [thành năm căn riêng biệt], tùy thuận cơ nghi, chẳng có pháp nhất định).

 

      Đây là nêu thí dụ. Trong kinh điển nhà Phật và các bản chú giải của cổ đức, những trường hợp như vậy rất nhiều, trong tương lai chư vị đều có thể thấy được. Ngũ Uẩn là năm pháp Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Gộp lại, chẳng hạn như “hợp Sắc khai Tâm”, Sắc chỉ nói một thứ, tức là quy nạp hết thảy các Sắc pháp thành một, nói triển khai Tâm pháp thành bốn thứ. Thọ, Tưởng, Hành, Thức đều là Tâm pháp; đó là “hợp Sắc khai Tâm”. Lục Căn là “hợp Tâm khai Sắc”, Nhăn Căn, Nhĩ Căn, Tỵ Căn, Thiệt Căn, Thân Căn đều là Sắc, chỉ có Ư Căn là Tâm; Tâm pháp nói một thứ, Sắc pháp nói năm thứ. “Hợp” là quy nạp, “khai” là triển khai. V́ thế, thuyết pháp chẳng nhất định; nhưng lúc nói luôn có một nguyên tắc. V́ sao có lúc đức Phật nói Ngũ Uẩn? Có lúc nói Lục Căn? Do đối tượng (thính chúng) khác nhau. Nếu đối phương mê Sắc pháp rất sâu, mê Tâm pháp cạn hơn, bèn đối với điều mê sâu mà nói cặn kẽ, đối với điều mê cạn bèn nói đại lược. Có khi nói nhiều về Tâm pháp, như Ngũ Uẩn là để nói với kẻ mê tâm nặng nề! Nói Lục Căn là đối với kẻ mê sắc nặng hơn một chút, tức là nói với kẻ mê sắc tướng nặng nề. Nếu Sắc lẫn Tâm đều mê nặng nề, đức Phật bèn giảng Thập Nhị Xứ, hoặc Thập Bát Giới. Trong Thập Bát Giới, Sắc pháp được nói rất nhiều, đến mười một thứ: Lục Trần (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) là sáu Sắc pháp, trong Lục Căn, trừ Ư Căn thuộc Tâm pháp ra, năm thứ c̣n lại là Sắc pháp; [do vậy] sáu cộng thêm năm thành mười một thứ, tức là nói đến mười một thứ Sắc pháp. Lục Thức là Tâm pháp, lại c̣n có Ư Căn. V́ thế, nói đến bảy thứ Tâm pháp, [hợp với mười một món Sắc pháp] thành Thập Bát Giới. Đối với kẻ Sắc và Tâm đều mê sâu đậm, đức Phật thuyết pháp như vậy. Do điều này, ta biết đức Phật chẳng có cách nói nhất định, chỉ tùy thuận nhu cầu của đối phương mà thuyết pháp cho chúng sanh. Nói thật ra, bản thân đức Phật chẳng có pháp nào để nói. Đây là một nguyên tắc trong sự thuyết pháp của đức Phật và trong cách chú giải kinh điển của cổ đức.

 

      (Sao) Phật thị giả.

      () 佛示者。

      (Sao: Phật dạy).

 

      Nhằm giải thích câu “Phật thị A Nan cố” (đức Phật dạy A Nan) [trong lời Sớ]. Lục Chủng Thành Tựu trong phần Tự [của một bản kinh] xuất phát từ lời dặn ḍ của đức Phật.

 

      (Sao) Trí Luận vân: “Phật Niết Bàn thời, thị A Nan ngôn, nhất thiết kinh sơ, giai vân như thị ngă văn, nhất thời Phật tại mỗ quốc, mỗ địa”. Cái thị tôn Phật di sắc cố.

       () 智論云:佛涅槃時,示阿難言,一切經初,皆云如是我聞,一時佛在某國某地。蓋是尊佛遺敕故。

      (Sao: Trí Độ Luận chép: “Lúc đức Phật nhập Niết Bàn, dạy ngài A Nan: - Đầu hết thảy các kinh đều ghi ta nghe như thế này, một thời đức Phật ở nước nọ, nơi nọ”. Đấy là tôn trọng di giáo của đức Phật vậy).

 

      Lúc Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ, ngài A Nan vẫn giống như phàm phu, trong tâm vô cùng khổ sở. Ngài A Nậu Lâu Đà bảo ngài A Nan hăy thỉnh giáo đức Phật, thỉnh giáo bốn chuyện. Trong ấy có chuyện: Đầu hết thảy các kinh phải xếp đặt ra sao? Đức Phật dạy: Trước hết thảy các kinh đều phải thêm câu “tôi nghe như thế này, một thời, đức Phật ở nơi nào đó, cùng với những người nào”, thêm mấy câu ấy. Do vậy, phần Thông Tự tuân theo “di sắc” của đức Phật, tức là làm theo di giáo của đức Phật.

 

      (Sao) “Đoạn nghi” giả, A Nan kết tập thời, chúng khởi tam nghi: Nhất, nghi Phật trùng khởi; nhị, nghi A Nan thành Phật; tam, nghi tha phương Phật lai. Kim viết “như thị ngă văn”, tam nghi đốn thích. “Tức tránh” giả, viết “ngă văn”, tắc phi ức kiến tự tác cố.

      () 斷疑者,阿難結集時,眾起三疑:一、疑佛重起,二、疑阿難成佛,三、疑他方佛來。今曰如是我聞,三疑頓釋。息諍者,曰我聞,則非臆見自作故。

      (Sao: “Đoạn nghi: Khi ngài A Nan kết tập, đại chúng dấy lên ba mối nghi: Một là nghi Phật trở lại, hai là nghi A Nan đă thành Phật, ba là nghi Phật từ nơi khác đến. Nay nói “ta nghe như thế”, ba mối nghi ấy nhanh chóng được cởi gỡ. “Dứt tranh căi”: Nói “tôi nghe” [ngụ ư: Những kinh điển tôi nói đây] chẳng phải do tôi tự suy nghĩ, bịa ra).

 

      Chẳng phải do ư tưởng của ngài A Nan, hoàn toàn là lời đức Phật đă nói, mọi người sẽ chẳng tranh chấp!

 

      (Sao) Giản tà giả, viết “như thị”, tắc dị ngoại đạo “A Ưu” cố.

      () 揀邪者,曰如是,則異外道阿憂故。

      (Sao: “Phân biệt khác với tà ngoại”: Nói “như thế” nên khác với [kinh điển] của ngoại đạo dùng chữ “A Ưu”).

 

      Phía trước kinh điển của ngoại đạo Ấn Độ có phù hiệu là từ ngữ “A Ưu” này. A là Không, Ưu là Có. Nói cách khác, [A Ưu là] hoặc Có, hoặc Không, đây là một câu nói nước đôi! Kinh Phật khác hẳn, mở đầu khác hẳn bọn họ

 

      (Sao) Như Phật Địa Luận vân: “Như thị chi pháp, ngă tích tằng văn”, ư tỵ tăng giảm dị phân quá thất, diệc “tức tránh” nghĩa dă.

      () 如佛地論云:如是之法,我昔曾聞,意避增減異分過失,亦息諍義也。

      (Sao: Như Phật Địa Luận đă nói: “Pháp như thế, xưa kia tôi đă từng được nghe”, [nói như vậy] nhằm tránh khuyết điểm phân tranh, biện bác “tăng, giảm, khác biệt”, cũng là ư nghĩa dứt tranh căi vậy).

 

      Nêu lên lệ này rất hay! Ngài A Nan kết tập di giáo của đức Phật, hoàn toàn nhắc lại lời đức Phật đă dạy trong thuở ấy, chẳng thêm, chẳng bớt, giống hệt như đức Phật đă nói khi trước. Lúc đấy, những người tham dự, đồng thời tham gia kết tập có năm trăm vị A La Hán, chẳng có ai đưa ra ư kiến phản đối th́ lúc ấy mới có thể chép xuống; chắc chắn chẳng giống như chúng ta trong hiện tại, trong hội nghị chỉ cần đa số thông qua là được! Lúc kết tập kinh chẳng phải là như vậy! Hễ có một người phản đối, câu ấy không thể ghi lại, năm trăm vị A La Hán tham dự nghe xong đều gật đầu: “Chẳng sai! Đức Phật nói như thế, tôi có nghe nói”. Nếu có một ai nói: “A Nan! Tôi chưa hề nghe đức Phật nói câu ấy”, chẳng thể ghi lại [câu ấy]. Do vậy biết: Thái độ kết tập kinh điển thuở ấy vô cùng nghiêm túc, cẩn thận, nhằm giữ chữ tín với người đời sau th́ hậu thế mới tôn trọng và tin tưởng kinh điển. Đấy cũng là ư nghĩa “dứt tranh luận”. V́ thế, kinh điển lưu thông, mọi người chẳng dị nghị. Dưới đây là tách ra để nghiên cứu, khảo sát từng câu một.

 

      (Sớ) Như thị giả, Tín Thành Tựu dă.    

      () 如是者,信成就也。

      (Sớ: “Như thị” là Tín Thành Tựu).

 

      Trong sáu thứ thành tựu, điều này thuộc về Tín Thành Tựu.

 

      (Sớ) Như Trí Luận trung thuyết.

      () 如智論中說。

      (Sớ: Như trong Trí Độ Luận đă nói)

 

      Lời Sao trích dẫn Đại Trí Độ Luận. Đại Trí Độ Luận gồm một trăm quyển, do Long Thọ Bồ Tát trước tác. Bộ luận này giải thích Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật Kinh[1], chúng ta thường gọi kinh ấy là kinh Đại Bát Nhă. Kinh Đại Bát Nhă có tất cả ba mươi quyển. Long Thọ Bồ Tát soạn chú giải tới bao nhiêu quyển? Bản gốc bằng tiếng Phạn gồm một ngàn quyển. Một ngàn quyển chú giải để giải thích ba mươi quyển kinh văn, giải thích vô cùng tỉ mỉ. Đại Trí Độ Luận đă dành ra từ ba quyển rưỡi đến bốn quyển để giải thích bốn chữ “như thị ngă văn”. Thuở ban đầu, khi tôi đọc Đại Trí Độ Luận mới thật sự cảm nhận nghĩa vị trong kinh Phật chẳng cùng tận. Giải thích bốn chữ mà đă nghiễm nhiên gần tới bốn quyển kinh văn!

      Bộ luận này do Huyền Trang đại sư mang từ Ấn Độ về, dịch ra. Do người Hoa chuộng đơn giản, nếu dịch thành một ngàn quyển, sợ chẳng có ai xem. Vừa nh́n thấy nhiều như thế, họ sẽ không đọc! Do vậy, Ngài cô đọng, rút gọn thành một trăm quyển; nói cách khác là một phần mười. Cách dịch ra sao? Phần đầu tiên hoàn toàn dịch đúng theo nguyên văn trong bộ luận, tổng cộng ba mươi bốn quyển, đó là phần đầu. Mỗi phần sau đó đều dịch đại ư, nêu ra những điểm quan trọng, chẳng dịch hoàn toàn. V́ thế, quư vị muốn đọc nguyên bản chú giải của Long Thọ Bồ Tát th́ đọc ba mươi bốn quyển đầu, đó là phần đầu bộ chú giải. Do vậy biết: Chú sớ kinh Phật th́ phải chú giải tỉ mỉ, nghĩa thú chẳng thể nói trọn. Đây là trích dẫn mấy câu trong Đại Trí Độ Luận để nói, mấy câu quan trọng nhất [nói về] Tín Thành Tựu.

 

      (Sớ) Hựu nhị tự phục vi nhị nghĩa, hữu đa chủng giải. Nhược dĩ Tông giản định, ước đương Tông, tắc nhất tâm bất loạn viết Như, duy thử vô phi viết Thị.

      () 又二字復為二義,有多種解。若以宗揀定,約當宗,則一心不亂曰如,唯此無非曰是。

      (Sớ: Lại nữa, hai chữ [Như Thị] ấy lại có hai nghĩa, có nhiều cách giảng giải. Nếu dùng Tông [do chính ḿnh đang tu học] để biện định, xét theo Tịnh Độ Tông, nhất tâm bất loạn là Như, chỉ có điều này không sai là Thị).

 

      “Dĩ Tông giản định”: Tông ở đây là “bổn Tông” (tông ta đang tu học). V́ một câu kinh văn có rất nhiều ư nghĩa, chúng ta tu học tông nào sẽ có cách giảng giải theo tông đó. Như vậy th́ đối với nhiều loại chú giải, chúng ta sẽ có một tiêu chuẩn lấy hay bỏ. Cũng giống như vậy, đối với “như thị ngă văn”, Thiền Tông có cách giảng của Thiền Tông, cách giảng của Thiền Tông và Tịnh Độ Tông hoàn toàn khác nhau, có thể nói là trái ngược nhau. Do vậy, nếu chẳng hiểu rơ, đọc bản chú giải này, cách giảng của hai người [tu theo hai tông phái khác nhau] sẽ hoàn toàn khác nhau, xung đột, mâu thuẫn lẫn nhau. Thật ra, chẳng phải vậy! Mỗi tông có phương pháp tu hành riêng, cho nên giảng giải ư nghĩa khác nhau.

       “Đương Tông” tức là Tịnh Độ Tông của chúng ta, niệm Phật. Cách giảng của Tịnh Độ Tông là dùng hai câu đơn giản, rơ ràng để giảng rành rẽ hai chữ “như thị”: Nhất tâm bất loạn là Như. “Duy thử vô phi” (chỉ có điều này không sai), quyết định chẳng sai, đó là Thị. Dùng ngay ư nghĩa trong kinh văn [kinh Di Đà]! Nói thật ra, hai câu trọng yếu nhất trong cả bộ kinh A Di Đà là “nhất tâm bất loạn, tâm bất điên đảo”. Chúng ta học Phật, nếu muốn quyết định thành tựu trong một đời này, quư vị tuân thủ hai câu ấy là được rồi! Phải học hai câu ấy sao cho chúng thật sự ḥa nhập thành một khối với tư tưởng, hành vi, và cuộc sống của chính ḿnh th́ mới được. Nếu nói lúc tôi niệm Phật th́ nhất tâm bất loạn, c̣n chẳng niệm sẽ loạn; vậy là không được rồi! Chẳng có tác dụng! Xử sự, đăi người, tiếp vật, thảy đều phải nhất tâm bất loạn, tâm chẳng điên đảo, phải như vậy th́ quư vị niệm Phật mới được coi là công phu thành tựu.

      Chúng ta thấy nhiều người lúc văng sanh, biết trước lúc ra đi, chẳng có bệnh khổ, nói đi bèn đi, họ có bản lănh ǵ vậy? Thật ra, nói xuyên suốt th́ họ đă vận dụng chữ “Như” này vào cuộc sống, nên họ thành công. V́ thế, tu Tịnh Độ là tu tâm tịnh, “tâm tịnh, ắt cơi nước tịnh”. Nhất tâm bất loạn, tâm bèn thanh tịnh; tâm chẳng thanh tịnh, chắc chắn chẳng đạt đến nhất tâm bất loạn. Dùng phương pháp ǵ để tu đến mức nhất tâm bất loạn? Dùng phương pháp Niệm Phật. Do vậy, phương pháp trong Tông này vô cùng đơn giản, ai nấy đều có thể làm được. Đạt tới nhất tâm bất loạn, chuyện ǵ cũng đều hiểu rơ, quá khứ, hiện tại, vị lai, không ǵ chẳng biết. Nói thật ra, ai nấy đều có thể làm được, vấn đề là quư vị có muốn làm, có chịu làm hay không! Nếu quư vị muốn làm, chịu làm, chẳng một ai không làm được!

      “Duy thử vô phi viết Thị” (chỉ có điều này không sai nên nói là Thị), tôi phỏng theo cách này để nói: “Duy thử thị Chân viết Thị” (chỉ có điều này là Thật nên nói là Thị), văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới là chân thật, những điều khác thảy đều là giả. Thế giới này là hư vọng, chẳng chân thật, phải giác ngộ điều này! Biết là hư vọng, đấy là thấy thấu suốt. Có thể thấy thấu suốt, quư vị mới có thể buông xuống, xử sự, đăi người, tiếp vật trong cuộc sống hằng ngày, quư vị sẽ chẳng phân biệt quá mức, mà cũng chẳng chấp trước quá mức! Quư vị nhất định giữ thái độ: Cái ǵ cho qua được bèn cho qua! Chẳng có chuyện ǵ là thật, đều là hư vọng, chẳng thật sự tồn tại! Chỉ có niệm Phật là thật, chỉ có tâm địa thanh tịnh là thật, những cái khác đều là giả. Xét trong toàn bộ Phật pháp có nhiều tông phái ngần ấy, chỉ có tông phái này thành tựu dễ dàng nhất, nắm chắc thành tựu nhất! Cổ nhân bảo: “Vạn người tu, vạn người về”, chẳng giả một tí nào

 

      (Sao) Trí Luận vân: “Phật pháp đại hải, tín vi năng nhập”. Tín giả, ngôn thị sự như thị, bất tín giả, ngôn thị sự bất như thị.

      () 智論云:佛法大海,信為能入。信者言是事如是,不信者言是事不如是。

      (Sao: Trí Độ Luận chép: “Biển cả Phật pháp, do ḷng tin mà có thể vào”. Tin sẽ nói chuyện này đúng là như thế, chẳng tin sẽ nói chuyện này chẳng phải là như thế).

 

      Đoạn văn này trích từ Đại Trí Độ Luận. Đối với Phật pháp, nhất định phải do ḷng tin mới có thể nhập môn. Nói đến Tín, thật ra, có hai loại:

- Loại thứ nhất là chân tướng Sự Lư đều hiểu rơ ràng, nên tin tưởng. Loại này rất khá, chẳng hoài nghi, ḷng tin vững chắc, chẳng ngờ vực, Tín Căn đă kiến lập.

- Loại kia là những kẻ chẳng hiểu rơ Sự Lư, tuy trọn chẳng hiểu rơ, nhưng có thể tin tưởng, mà cũng chẳng hoài nghi. Nói thật ra, kẻ ấy đă có thiện căn và phước đức từ nhiều đời, nhiều kiếp. Nếu kẻ ấy chẳng có thiện căn, phước đức, sẽ chẳng tin tưởng. Do người ấy tin tưởng, nên chắc chắn sẽ thành tựu. Nhất là đối với pháp môn này, trong kinh, đức Phật đă gọi pháp môn này là “pháp khó tin”, thật sự khó! Nếu kẻ ấy có thể tin tưởng pháp khó tin, ta có thể thấy kẻ ấy thiện căn, phước đức sâu dầy. V́ sao? Do đă tin, nên trong đời này, người ấy nhất định văng sanh. Hễ văng sanh, chắc chắn sẽ thành Phật trong một đời này. Pháp môn này là phương pháp thành Phật ngay trong đời này, chẳng cần đợi đến đời thứ hai, thành Phật ngay trong đời này! Tiếp đó, Tổ dẫn lời giảng của mấy vị cổ đại đức.

 

      (Sao) Triệu công viết.

      () 肇公曰。

      (Sao: Ngài Tăng Triệu nói).

 

       Triệu công là ngài Tăng Triệu, là một vị đệ tử của Cưu Ma La Thập đại sư. La Thập đại sư là người dịch bộ kinh này, Ngài có bốn học tṛ vô cùng kiệt xuất, được gọi là “Thập môn tứ triết” (bốn vị học giả lỗi lạc trong môn đ́nh ngài La Thập), Tăng Triệu là một vị trong số đó, trẻ tuổi nhất, thông minh tuyệt đỉnh, nhưng thọ mạng rất ngắn ngủi, ba mươi mấy tuổi đă viên tịch, thành tựu phi phàm. Ngài viết Duy Ma Kinh Chú, Triệu Luận, mấy tác phẩm do Ngài viết được lưu truyền hậu thế. Ngài nói:

      (Sao) Như thị giả, tín thuận chi từ dă.

      () 如是者,信順之辭也。

      (Sao: “Như thị” là từ ngữ biểu lộ sự tín thuận).

 

      Đó là tin, sau khi đă tin th́ mới có thể thuận theo, đấy mới là tin tưởng thật sự.

 

      (Sao) Cố thế nhân doăn khả, diệc viết “như thị”.

  () 故世人允可,亦曰如是。

      (Sao: V́ vậy, người đời chấp nhận [điều ǵ] th́ cũng nói “như thị”).

 

      Người thế gian đối với chuyện ǵ nếu chấp nhận, cũng sẽ nói “đúng như thế”.

 

      (Sao) Phục nhị nghĩa giả.

  () 復二義者。

      (Sao: Lại có hai nghĩa)

 

      Lại có hai ư nghĩa.

 

      (Sao) Hựu ly “như thị” nhị tự các thích dă.

      () 又離如是二字各釋也。

      (Sao: Chính là lại đem hai chữ “như thị” tách ra để giải thích từng chữ một).

     

“Ly” là tách ra, Như là ǵ? Thị là ǵ?

 

      (Sao) Đa giải giả, hữu dĩ thánh nhân thuyết pháp, đản hiển ư Như, duy Như vi Thị.

  () 多解者,有以聖人說法,但顯於如,唯如為是。

      (Sao: “Có nhiều cách giải thích”, có người cho rằng thánh nhân thuyết pháp chỉ nhằm hiển lộ lư Như, chỉ có Như là đúng).

 

      Nêu lên mấy trường hợp. Trên thực tế, có rất nhiều cách giải thích hai chữ này! “Thánh nhân thuyết pháp”: Chữ “thánh nhân” chỉ Phật; câu này có thể nói là đă bao gồm hết thảy các kinh, hết thảy các kinh cũng không ra ngoài phạm vi này! “Đản hiển ư Như” (chỉ nhằm hiển lộ lẽ Như), giảng chữ Như theo cách nào? Chính là Chân Như bổn tánh. Đức Phật giảng hết thảy các kinh, không ǵ chẳng nhằm mục đích dạy chúng ta minh tâm kiến tánh, thấy Chân Như bổn tánh của chính ḿnh. Hết thảy các kinh đều nhằm bày vẽ, chỉ dạy chúng ta hăy kiến tánh. V́ thế, [lời Sao nhận định] “duy Như vi Thị” (chỉ có Như là đúng). Nếu chẳng dạy chúng ta minh tâm kiến tánh, chắc chắn kinh điển ấy chẳng phải là kinh điển nhà Phật, đặc biệt là kinh điển Đại Thừa. Có phải là kinh này dạy chúng ta minh tâm kiến tánh? Đúng vậy! V́ sao biết đúng là như vậy? Nhất tâm bất loạn là minh tâm kiến tánh, nhất tâm là chân tâm, chân tâm c̣n gọi là Chân Như. Do vậy, thảy đều là dạy chúng ta minh tâm kiến tánh.

 

      (Sao) Như Lưu Cầu sở thuyết.

  () 如劉虬所說。

      (Sao: Như ngài Lưu Cầu[2] đă nói).

 

      Đây cũng là một vị đại đức thuở xưa, hết sức có thành tựu trong Phật pháp. Trong Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao, Thanh Lương đại sư thường trích dẫn lời Ngài.

 

      (Sao) Hữu dĩ Như giả, đương Lư chi ngôn. Thị giả, vô phi chi xưng.

      () 有以如者,當理之言,是者,無非之稱。

(Sao: Có người cho Như là nói xứng Lư, c̣n Thị là nói không sai).

 

Lư là Chân Như Lư thể, “đương Lư” nói thật ra là xứng tánh, là từ chân tâm Lư thể lưu xuất ngôn ngữ, văn tự, đó là ư nghĩa của chữ Như. Thị là quyết định chẳng sai. Từ Chân Như bổn tánh lưu lộ, làm sao có khuyết điểm cho được? Lẽ nào có sai lầm cho được? Điều đó được gọi là Thị. Ngài Thanh Lương giải thích kinh Hoa Nghiêm cũng trích dẫn câu này.

 

      (Sao) Như Sanh công sở thuyết.

      () 如生公所說。

      (Sao: Như ngài Đạo Sanh đă nói).

 

       “Sanh công” là ngài Đạo Sanh[3]. “Sanh công thuyết pháp, ngoan thạch điểm đầu” (ngài Đạo Sanh thuyết pháp, đá cũng gật đầu) chính là vị này. Ngài nói:

 

      (Sao) Hữu dĩ Như Lai thuận cơ vi ứng, danh Như, chúng sanh vô phi vi cảm, danh Thị.

  () 有以如來順機為應名如,眾生無非為感名是。

      (Sao: Có người cho rằng Như Lai thuận theo căn cơ mà ứng th́ gọi là Như; chúng sanh không ǵ chẳng cảm, nên gọi là Thị).

 

      Đây là nói tới chuyện “ứng cơ thuyết pháp, cảm ứng đạo giao”. Từ những lời giải thích hai chữ Như Thị trên đây, có thể thấy nh́n từ phương diện nào để giảng hai chữ Như Thị đều rất có lư, đều có thể chấp nhận; nhưng rốt ráo lấy Chân Như bổn tánh làm Đệ Nhất Nghĩa là cách giải thích bậc nhất. Cách giải thích này cũng tuyệt lắm. V́ đức Phật giảng kinh, đương nhiên là phải Khế Cơ và Khế Lư. Kinh cũng dạy điều này, nếu giảng kinh mà chẳng khế Lư tức là chẳng phải từ Chân Như bổn tánh lưu lộ, sẽ gọi là “ma thuyết”. V́ thế, phân biệt Phật và ma, lấy tông chỉ kinh này để nói, nếu quư vị từ nhất tâm bất loạn mà nói th́ là Phật thuyết. Nếu từ tam tâm, nhị ư, loạn tâm mà nói th́ là ma thuyết. Phân biệt giữa Phật và ma như thế đó!

      Ngoài ra, c̣n phải Khế Cơ. Khế Cơ là phải có thể thích hợp với tŕnh độ của chúng sanh. Nếu chẳng thích hợp tŕnh độ chúng sanh, tuy là nói từ nhất tâm bất loạn, nhưng nói ra, mọi người nghe không hiểu, đó gọi là nói phí công, là nói lời thừa thăi! Do vậy biết, kinh Phật tuân theo tiêu chuẩn, thứ nhất là phải từ Chân Như bổn tánh lưu lộ, thứ hai là phải khiến cho chúng sanh nghe hiểu. Nghe xong, họ có thể tiếp nhận. Đó gọi là “Khế Cơ, khế Lư”. Do vậy, ngài Đạo Sanh nói theo phương diện Khế Cơ, c̣n những lời giảng trong phần trước là nói theo phương diện Khế Lư. “Thuận cơ vi ứng” (ứng hiện thuận theo căn cơ), chúng sanh có cảm, Phật bèn có ứng. “Vi ứng” (ứng hiện) là Như, “chúng sanh vô phi vi cảm” (chúng sanh chẳng ai không cảm), đó là Thị.

      Hiểu rơ đạo lư này, chư vị đồng tu phải nhớ, đức Phật thuyết pháp, các vị Bồ Tát, tổ sư thuyết pháp là v́ chúng sanh mà thuyết, chẳng nhằm khoe khoang công phu của chính ḿnh, chẳng nhằm phô trương chính ḿnh. Do trong quá khứ, lúc tôi mới học Phật, đă từng nghe có những pháp sư thuyết pháp, sau khi thuyết xong, phía dưới có rất nhiều tín đồ, thường thân cận pháp sư, rất thân thuộc, đến thỉnh giáo pháp sư sau khi Ngài giảng xong, đă nói: “Thưa sư phụ, lời giảng hôm nay của lăo nhân gia, con chẳng hiểu ǵ hết”. Giảng quá sâu, không hiểu! Vị sư phụ ấy cười: “Nếu các ngươi nghe hiểu pháp ta giảng th́ c̣n đáng giá chi nữa?” Nói vậy là trật lất! Nói ra là phải khiến cho người ta nghe sẽ thấu hiểu, có thể tiếp nhận, tiêu hóa, người ta mới được hưởng lợi ích. Cố ư nói cho kẻ khác nghe chẳng hiểu, tức là quư vị nói uổng công mất rồi, người ta đến đó nghe cũng phí công nghe, đôi bên đều phí uổng thời gian! Rất đáng tiếc, sai mất rồi! Quư vị nhất định phải nhớ: Sau này, quư vị thuyết pháp, chớ nên nói quá sâu, hăy nói sao cho người khác nghe bèn hiểu được. Tự ḿnh khoe khoang bản thân giỏi giang, đấy chính là sai lầm, chớ nên làm như vậy.

 

      (Sao) Như Dung công sở thuyết.

       () 如融公所說。

      (Sao: Như ngài Biến Dung đă nói).

 

       “Dung công” là thiền sư Biến Dung[4], Ngài sống vào đời Minh, Liên Tŕ đại sư đă từng đến tham học với Ngài. Thuở ấy, Ngài là một vị cao tăng nổi tiếng, Liên Tŕ đại sư chịu ảnh hưởng rất lớn từ Ngài. Chư vị học Phật phải biết, chúng ta thân cận một vị thiện tri thức th́ rốt cuộc ai là thiện tri thức? Nói thật ra, chuyện này chẳng quan trọng, thật sự học được điều ǵ [từ vị ấy mới là quan trọng], c̣n thầy có thật sự cao minh hay không là chuyện thứ yếu! Chính ḿnh đối với thầy có thành ư mới là điều kiện bậc nhất khiến cho quư vị có thể đạt được điều ǵ hay không, giống như Ấn Quang đại sư đă dạy: “Một phần thành kính được một phần lợi ích, mười phần thành kính được mười phần lợi ích”.

      Trong kinh, đức Phật đă kể một câu chuyện; đó là một chuyện thật được đức Phật nhắc đến trong kinh điển. Ngài nói có một vị tỳ-kheo già tu hành rất nhiều năm, chẳng đắc đạo, trong tâm rất áo năo, mà cũng rất hổ thẹn. Có mấy tỳ-kheo trẻ tuổi vừa mới xuất gia muốn trêu ghẹo, bỡn cợt, bèn bảo vị tỳ-kheo già ấy:

- Chẳng phải là thầy muốn chứng quả hay sao?

- Vâng! Tôi muốn chứng lắm, nhưng chẳng biết chứng bằng cách nào!

- Chúng tôi biết, để tụi tôi dạy thầy.

- Hay quá!

- Nhưng thầy phải mời tụi tôi ăn uống ngon lành, phải bao tụi tôi ăn.

Vị tỳ-kheo già lấy tiền bạc dành dụm ra, nhưng Sư cũng chẳng dành dụm được mấy, bèn bán sạch mớ quần áo ít ỏi để mời họ ăn. Họ ăn no xong, vị tỳ-kheo già cầu hỏi cách chứng quả như thế nào? Họ cũng đâu có cách nào, nhưng đă lỡ nhận lời rồi, bèn trêu ghẹo sư, bảo Sư ngồi xổm ở góc nhà, họ nói: “Thầy ngồi xổm ở đó, trong tâm thầy chớ có suy nghĩ loạn xạ, hăy nghe theo lời tôi nói”. Vị tỳ-kheo trẻ bèn cầm trái banh ném vô đầu Sư, bảo: “Thầy đă chứng Sơ Quả”. Vị tỳ-kheo già gật đầu: ‘Đúng vậy!” Lại đổi sang góc bên kia, Sư cũng ngoan ngoăn bước sang góc kia. Lại ném bóng vào đầu Sư: “Thầy đă chứng Nhị Quả”. Chuyển khắp bốn góc: “Thầy đă chứng Tứ Quả La Hán!” Sau khi trở lại góc ban đầu, Sư đảnh lễ mấy vị tỳ-kheo trẻ tuổi nghịch ngợm. Các tỳ-kheo trẻ thưa: “Tôi giỡn với thầy mà!” Sư nói: “Tôi đă thật sự chứng Tứ Quả”. Mấy vị tỳ-kheo trẻ tuổi đều sững sờ, hướng về Sư cầu sám hối, Sư nói: “Tôi quả thật đă chứng Tứ Quả”. Điều này cho thấy tâm vị ấy chân thành, dẫu người khác trêu ghẹo Ngài, Ngài vẫn một mực chứng quả. Tâm Ngài có mười phần thành kính nên đạt được. Bởi lẽ đó, quư vị muốn thân cận một vị thầy, thân cận vị thầy nào mới là thiện tri thức thật sự? Vị thầy nào mà quư vị cảm thấy tôn kính nhất, hăy thân cận vị ấy, nhất định sẽ thành tựu.

     Trong quá khứ, lúc tôi mở Đồ Thư Quán ở nơi đây, có mấy vị xuất gia trẻ tuổi như Ngộ Nguyên, Y Nhân ở nơi đây. Sau đấy, pháp sư Vĩnh Tinh bên Hương Cảng mở Phật Học Viện tại nơi đó, thỉnh pháp sư Hiển Minh sang đó làm viện trưởng. Họ nghe tin ấy, mong sang Hương Cảng cầu học. Lúc sắp ra đi, tôi chúc phước: “Mấy thầy đă tôn kính pháp sư Hiển Minh th́ phải khéo học theo Ngài. Nếu mấy thầy thật sự có thể học với Ngài suốt mười năm, nhất định sẽ có thành tựu. V́ nếu các thầy chẳng tôn kính thầy, làm sao các thầy đạt được ǵ?” Đó gọi là “một phần cung kính, được một phần lợi ích”. Sau khi họ tới Hương Cảng, nghe nói h́nh như chỉ học được một học kỳ, nhà trường cũng chẳng thể tiếp tục, pháp sư Hiển Minh cũng bỏ đi luôn. Sau này, bọn họ ở bên đó chuyên lo kinh sám, rất đáng tiếc!

      V́ vậy, chúng ta phải học theo cổ nhân, theo một vị thầy, tức là vị thầy mà quư vị cảm thấy tôn kính nhất. Liên Tŕ đại sư đă nêu gương cho chúng ta. Thuở ấy, thiền sư Biến Dung hết sức lỗi lạc. Khi Tổ đến gặp Ngài, tam bộ nhất bái, đến lạy dưới ṭa lăo ḥa thượng, thỉnh lăo ḥa thượng khai thị. Lăo ḥa thượng thấy Tổ cung kính như vậy, chỉ nói với Tổ một câu: “Ngươi đừng để danh lợi làm hại”, người bên cạnh [lăo ḥa thượng] nghe xong cười ha hả, v́ sao? Tam bộ nhất bái từ chốn xa xôi dường ấy đến nơi, chỉ được dạy một câu tầm thường tẻ nhạt như vậy, mọi người đều cười nhạo Tổ. Tổ bèn bảo bọn họ: “Tôi nhờ một câu nói này mà đạt được lợi ích cả đời!” Có thể thấy lăo nhân gia thường giáo huấn người khác như vậy, người khác không được hưởng lợi ích v́ đă coi thường câu ấy, nghe mỗi ngày, giống như gió thoảng qua tai, chẳng lưu ư. Tổ nghe câu này bèn nhớ kỹ trong ḷng, suốt đời chẳng phạm lỗi lầm ấy, suốt đời tránh né tiếng tăm, lợi dưỡng. Do vậy, Tổ trở thành nhất đại cao tăng, thành tựu vượt trỗi thiền sư Biến Dung. Đấy chính là “mười phần cung kính” như tổ Ấn Quang đă dạy, từ câu này Ngài “được mười phần lợi ích”, đạt được lợi ích viên măn, hết sức khó có!

 

      (Sao) Hữu dĩ Thật Tướng chi Lư, thỉ chung bất dị danh Như, như Lư nhi thuyết danh Thị.

() 有以實相之理,始終不異名如,如理而說名是。

(Sao: Có người coi lư Thật Tướng từ đầu đến cuối chẳng sai khác là Như, nói đúng như Lư là Thị).

 

      Cách nói này hoàn toàn dựa vào Lư Thể của chân tánh để luận định Như và Thị, cả hai chữ đều được giảng theo Lư, đều luận theo lư tánh.

 

      (Sao) Như Thiên Thai sở thuyết.

      () 如天台所說。

      (Sao: Như tông Thiên Thai đă nói).

 

      Đây là tông Thiên Thai. Tông Thiên Thai lấy kinh Pháp Hoa làm chủ tu (pháp tu chánh yếu).

 

      (Sao) Hữu dĩ Như vi Chân Không, Thị vi Diệu Hữu.

  () 有以如為真空,是為妙有。

      (Sao: Có người coi Như là Chân Không, Thị là Diệu Hữu).

 

      Tông Thiên Thai nói như vậy. Thiên Thai là Không Tông, Hoa Nghiêm là Hữu Tông; nhưng các vị tổ sư tông Thiên Thai đều niệm Phật, cầu văng sanh Tịnh Độ; tuy những vị như Trí Giả đại sư suốt đời hoằng dương kinh Pháp Hoa, giảng lư luận Không Tông, soạn Ma Ha Chỉ Quán để dạy phương pháp tu hành này, lăo nhân gia tự viết Ma Ha Chỉ Quán để dạy người khác tu, nhưng chính Ngài niệm Phật cầu văng sanh, chúng ta phải hiểu rơ điều này. Rất nhiều vị tổ sư tông Thiên Thai niệm Phật cầu văng sanh, như pháp sư Đế Nhàn, pháp sư Đàm Hư trong thời cận đại, đều niệm Phật cầu văng sanh.

 

      (Sao) Địch phá ngoại đạo đoạn thường nhị kiến.

      () 敵破外道斷常二見。

      (Sao: Phá trừ hai kiến chấp Thường và Đoạn của ngoại đạo).

 

      Cách nói ấy của tông Thiên thai nhằm phá trừ Thường Kiến và Đoạn Kiến của ngoại đạo.

 

      (Sao) Như Thanh Lương chiết trung chư gia sở thuyết, dư thuyết thượng đa, khủng phiền bất dẫn.

       () 如清涼折衷諸家所說,餘說尚多,恐繁不引。

      (Sao: Như ngài Thanh Lương chọn lọc, dung ḥa những thuyết của các vị ấy, c̣n có rất nhiều thuyết khác, sợ rườm rà nên chẳng dẫn ra đây).

 

      Nếu trích dẫn [trọn đủ] sẽ phiền lắm, quá nhiều!

 

      (Sao) Dĩ thượng các hữu ư nghĩa, tiểu dị đại đồng, tịnh vô tương ngại.

      () 以上各有意義,小異大同,並無相礙。

      (Sao: Các ư nghĩa được nhắc đến trên đây, khác nhau đôi chút, nói chung là tương đồng, trọn chẳng trở ngại lẫn nhau).

 

      Nếu đọc nhiều th́ những điều này đều thuộc loại kiến thứcPhật học thông thường; v́ thế, những cách nói [khác biệt vừa dẫn trên đây] thật sự là đại đồng tiểu dị, tuyệt đối chẳng trái nghịch chân lư.

 

      (Sao) Dĩ Tông giản định giả.

  () 以宗揀定者。

      (Sao: Dùng Tông của hành nhân đang tu tập để biện định, chọn lựa).

 

      Đây là dựa trên tông phái, bản thân chúng ta đang tu học tông nào hay pháp môn nào, bèn dùng giáo nghĩa trong tông ấy hoặc môn ấy để chọn lựa, biện định, sẽ đạt được lợi ích lớn nhất.

 

      (Sao) Như Thị nhị nghĩa, tùy tông dĩ định.

  () 如是二義,隨宗以定。

      (Sao: Ư nghĩa của hai chữ Như Thị sẽ tùy theo tông [ta đang tu học] để biện định ư nghĩa).

 

      Mỗi tông có một cách giảng riêng theo tông ấy.

 

      (Sao) Kim thử kinh tông hồ nhất tâm.

      () 今此經宗乎一心。

      (Sao: Nay kinh này đề cao nhất tâm).

 

      Bản kinh này lấy “nhất tâm bất loạn” làm Tông.

 

      (Sao) Lương diêu chấp tŕ danh hiệu, nhất tâm bất loạn. Nhất tâm, tắc phi sanh, phi diệt, vô khứ, vô lai, trạm nhiên thường trụ.

       () 良繇執持名號,一心不亂。一心,則非生非滅,無去無來,湛然常住。

      (Sao: Bởi lẽ, chấp tŕ danh hiệu, nhất tâm bất loạn. Nhất tâm chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng đến, chẳng đi, trong lặng, thường trụ).

 

      Điều này là đúng, quư vị phải liễu giải điều này. Nay chúng ta thấy hết thảy các pháp trong thế giới này đều là sanh diệt, vô thường. V́ sao có hiện tượng này? V́ tâm chúng ta sanh diệt, vô thường; tâm sanh diệt thấy cảnh giới bên ngoài sanh diệt, tâm vô thường thấy vạn pháp vô thường. Nói thật ra, chẳng phải là vạn pháp có sanh diệt hay vô thường! Nếu nói vạn pháp là sanh diệt, vô thường, sai mất rồi! Đạo lư này rất khó hiểu, chúng ta có thể nêu tỷ dụ để nói, giống như hiện thời chúng ta chiếu phim, nh́n vào TV sẽ chẳng dễ thấy, nhưng chiếu phim sẽ dễ nh́n ra! Quư vị thấy phim ảnh, nay chúng ta thường sử dụng máy quay phim loại nhỏ không chuyên nghiệp, trong một giây thường chụp được hai mươi bốn “pô”, tức là hai mươi bốn tấm phim được chụp liên tục [trong một giây]. Mỗi khi ống kính mở đóng một lần, ống kính mở ra, chúng ta xem như một tấm phim được sanh ra, ống kính đóng lại, ta bảo tấm phim diệt. Một giây, ống kính đóng mở hai mươi bốn lần, tức là hai mươi bốn lần sanh diệt. H́nh ảnh được chiếu lên [ví như] tướng bên ngoài, [mỗi giây] chiếu hai mươi bốn tấm [khác nhau], tướng bên ngoài có sanh diệt hay không? Chẳng có, nhưng ống kính đóng hay mở là có sanh diệt. V́ nó đóng hay mở, nên chiếu cuộn phim này giống như có sanh có diệt. Nếu chúng ta chẳng dùng đến sự đóng mở ấy, mà trực tiếp nh́n vào [từng tấm ảnh trong cuốn phim] sẽ chẳng thấy tướng sanh diệt.

      Trong tâm chúng ta, mỗi giây “đóng mở” (sanh diệt) bao nhiêu lượt? Trong kinh, đức Phật đă nêu ra một tỷ dụ, Ngài nói một cái khảy ngón tay có sáu mươi sát-na, tức là [một sát-na] bằng một phần sáu mươi [thời gian] khảy ngón tay một lần. Đại khái, chúng ta khảy nhanh một tí, trong một giây có thể khảy bốn lần, chúng ta có thể khảy được như thế. Trong một giây khảy bốn lần, bốn nhân sáu mươi th́ trong một sát-na có bao nhiêu lần sanh diệt? Đức Phật nói mỗi niệm trong tâm chúng ta có chín trăm lần sanh diệt. Chư vị lại nhân lên xem, chín trăm nhân với sáu mươi nhân với bốn [thành hai trăm mười sáu ngàn lần sanh diệt]. Máy chiếu phim mỗi giây rọi hai mươi bốn tấm phim lên màn bạc, quư vị đă ngỡ là thật, chẳng thấy nó là giả. Nay chúng ta nh́n hiện tượng bên ngoài, trong một giây có hai mươi mốt vạn sáu ngàn lần (216.000) sanh diệt, làm sao thấy được chân tướng của tướng cảnh giới bên ngoài? Nh́n chẳng ra! Chẳng thấy chân tướng! Thật sự đạt đến nhất tâm, nhất tâm là chẳng có tâm sanh diệt trong ấy, sanh diệt đă đoạn rồi, đó là chân tâm.

      Dùng chân tâm để nh́n cảnh giới bên ngoài th́ cảnh giới bên ngoài như thế nào? Bất sanh, bất diệt. V́ vậy, trong kinh Pháp Hoa, đức Phật đă dạy: “Thị pháp trụ pháp vị, thế gian tướng thường trụ (bất hoại)” (pháp ấy trụ nơi pháp vị, tướng thế gian thường trụ (chẳng hư hoại)), tức là Ngài dạy chúng ta: Hết thảy các hiện tượng bất sanh, bất diệt. Nếu quư vị nghĩ tướng ấy có sanh, có diệt, quư vị đă nh́n sai mất rồi! Nếu quư vị thấy hết thảy các pháp bất sanh bất diệt, đấy là Thật Tướng của các pháp. Ai có thể thấy Thật Tướng của các pháp? Đạt tới nhất tâm bất loạn sẽ thấy Thật Tướng của các pháp. Thấy Thật Tướng của các pháp, thế giới ấy cũng chẳng gọi là mười pháp giới, mà gọi là Nhất Chân pháp giới. Như vậy th́ Nhất Chân pháp giới ở chỗ nào? Ở ngay trước mặt chúng ta. Chúng ta dùng máy chiếu phim đem chiếu lên màn bạc để nh́n, đấy chính là mười pháp giới; bỏ máy móc đi, bỏ sạch, không cần tới nó, sẽ là Nhất Chân pháp giới. Nay chúng ta chẳng dùng cái tâm sanh diệt ấy, thế giới vốn là Nhất Chân. Chẳng phải là nói ngoài mười pháp giới có một cái Nhất Chân, chẳng phải vậy! Mười pháp giới và Nhất Chân pháp giới là một, không hai, tùy thuộc quư vị dùng tâm ǵ để nh́n. Quư vị dùng tâm sanh diệt, sẽ thấy mười pháp giới; dùng tâm bất sanh bất diệt để nh́n, pháp giới ấy sẽ là Nhất Chân pháp giới, bởi lẽ, chân tướng sự thật là như vậy. V́ thế, quư vị có thể trở lại quá khứ, cũng có thể lập tức tới vị lai, v́ sao? Ba đời là một, không hai. Quư vị có phân biệt, nên mới có ba đời, mới có quá khứ, hiện tại, vị lai; không có phân biệt, sẽ chẳng có ba đời! Do vậy, quư vị có thể trở lại quá khứ, mà cũng có thể đến vị lai. Đấy là nói “phi sanh, phi diệt, vô khứ, vô lai” (chẳng sanh, chẳng diệt, không đến, không đi), chẳng có đến hay đi.

“Trạm nhiên thường trụ”: Trạm nhiên (湛然) là tỷ dụ. Trong kinh Phật thường dùng b́nh ngọc lưu ly thanh tịnh làm tỷ dụ. Lưu Ly: Nay chúng ta gọi ngọc Lưu Ly được nói trong kinh Phật là ngọc Phỉ Thúy (Jadeite). “Pha lê” (Sphatika) được nhắc đến trong kinh chính là “thủy tinh” trong hiện thời. Thời cổ chưa phát minh ra pha lê, thủy tinh [thuở đó] là chất pha lê trong thiên nhiên. Những khoáng vật trân quư ấy thanh tịnh, trong ấy chẳng có một tí ǵ dơ bẩn, giống như b́nh bằng ngọc Lưu Ly đựng nước, trong ngoài sạch sẽ, khiết tịnh! Đấy là ư nghĩa của chữ “trạm nhiên”. Điều này ví như Chân Như bổn tánh của chúng ta. Nói thật ra, Chân Như bổn tánh chẳng có mảy may ô nhiễm nào! Nay chúng ta nói nó bị nhiễm bẩn, đó là đức Phật nói phương tiện, chẳng phải là thật sự ô nhiễm! Thật sự ô nhiễm th́ làm sao có thể đoạn được? Làm sao c̣n có thể trừ khử được? Do vậy, mê chỉ là mê bề ngoài, tuyệt đối chẳng phải là mê Chân Như bổn tánh, không phải vậy. Chúng ta nói “ô nhiễm” th́ chắc chắn chẳng phải là Chân Như bổn tánh bị ô nhiễm. Đến tột cùng mê ở chỗ nào? Ô nhiễm ở chỗ nào? Thưa quư vị, quư vị chú tâm t́m ṭi, sẽ chẳng t́m được! Chính v́ chẳng t́m được, nên đức Phật mới bảo mê và ô nhiễm là hư vọng, chẳng thật! Nếu là thật, sẽ nhất định t́m được. Quư vị t́m không được, nên nó mới là hư vọng. V́ vậy, gọi là “mê vọng”, mê chẳng phải là thật, mê là hư vọng.

      Đă biết là hư vọng th́ nhất định có thể rời khỏi cái mê ấy, có thể đoạn sạch nó. Giác là thật, bản tánh là thật, thanh tịnh là thật, nên chắc chắn có thể khôi phục. Đến lúc nào sẽ khôi phục? Nói thật ra là trong một niệm! Nhất niệm hoảng nhiên đại ngộ sẽ ngay lập tức khôi phục. V́ thế, Phật pháp mầu nhiệm ở chỗ này, khiến cho quư vị giác ngộ. Sau khi giác ngộ, sẽ được gọi là “phá mê, khai ngộ”. Mê ấy về căn bản là giả, chẳng thể t́m được! Chẳng hạn như quư vị nói: “Trong tâm tôi buồn phiền quá, phiền năo! Có phương pháp ǵ để có thể đoạn phiền năo hay chăng?” Có phương pháp! Quư vị hăy t́m cho ra phiền năo để tôi nh́n thấy, tôi sẽ đoạn nó giùm quư vị. Quư vị có thể t́m được phiền năo hay không? Kết quả là quư vị t́m cách nào cũng chẳng t́m được. T́m chẳng được phiền năo th́ về căn bản là không có phiền năo! Đấy là chân tướng tỏ lộ.

      Thuở ấy, Huệ Khả đại sư là Nhị Tổ của Thiền Tông tuy xuất gia tu hành, nhưng tâm bất an, phiền năo rất nặng. Ngài rất hy hữu, thấy Tổ Đạt Ma từ Ấn Độ sang, ngồi nh́n vách suốt chín năm tại chùa Thiếu Lâm, công phu Thiền Định rất sâu, nên thỉnh Tổ hăy dạy Ngài. Về căn bản, Tổ Đạt Ma không đoái hoài ngài Huệ Khả. Ngài Huệ Khả thấy Đạt Ma tổ sư không quan tâm tới, khi đó, mùa Đông, trời đang đổ tuyết, Ngài dùng đao chặt đứt một cánh tay, tay phải cầm cánh tay trái dâng lên cúng dường Tổ Đạt Ma. Ngài Đạt Ma ngó lại: “V́ sao ngươi làm như thế?” Ngài thưa: “Tâm con bất an, xin lăo nhân gia an tâm cho con”. Đạt Ma tổ sư duỗi tay ra, nói: “Được rồi, ngươi lấy cái tâm ra cho ta coi. Ta sẽ an nó cho ngươi”. Lúc ấy, ngài Huệ Khả mới hồi quang phản chiếu, t́m măi chẳng được, tâm chỗ nào vậy? Cuối cùng, trả lời Đạt Ma tổ sư: “Con t́m tâm, nhưng chẳng thể t́m được!” Đạt Ma tổ sư nói: “Ta đă an tâm cho ngươi rồi”. Ta thay ngươi an cái tâm rồi, ngươi t́m chẳng được, t́m không được tức là nó không có! Ngươi c̣n cái ǵ để có thể bất an nữa đây? Do câu nói ấy, tổ Huệ Khả bèn khai ngộ và trở thành tổ sư đời thứ hai của Thiền Tông.

      Quư vị thật sự có phiền năo, quư vị có thể dùng cách này: Lấy phiền năo ra, t́m ra nó cho tôi xem, phiền năo của quư vị ở chỗ nào? Có h́nh dạng giống như thế nào? Là vuông, tṛn, hay dẹp? T́m cho ra để coi thử, nó là vàng, đỏ, hay xanh lá cây? Quư vị có thể t́m ra hay chăng? T́m không ra, về căn bản là chẳng có chuyện này, tức là quư vị mê hoặc, điên đảo! Hễ quư vị ngộ th́ điều ǵ cũng chẳng có. Do vậy, đức Phật giảng lẽ thật cùng quư vị, pháp chân thật là như vậy đó. Đấy là “trạm nhiên thường trụ, chân tâm thường trụ”. Trong hội Lăng Nghiêm, tôn giả A Nan rất lỗi lạc, Ngài suy nghĩ đến bảy chỗ đều nghĩ chẳng đúng! Ngài thưa tŕnh những chỗ Ngài nghĩ tâm ở đó, đức Phật bèn dạy: “Ông t́m cái tâm ra cho ta coi”. T́m bảy chỗ, Phật đều bác bỏ, đều sai cả, đúng là t́m tâm trọn chẳng thể được. Do vậy, [đoạn văn giảng về] bảy chỗ gạn tâm [trong kinh Lăng Nghiêm] đích xác là khai trí huệ. Đó là nói về nhất tâm bất loạn, dùng mấy câu này để miêu tả h́nh dạng của nhất tâm bất loạn. Nhất tâm bất loạn được gọi là Như.

 

      (Sao) Hựu thử nhất tâm, tứ quá ly, bách phi tuyệt, cố danh viết Thị.

       () 又此一心,四過離,百非絕,故名曰是。

      (Sao: Lại nữa nhất tâm ấy, ĺa bốn lỗi, dứt trăm điều sai, nên gọi là Thị).

 

      Trong kinh nói đến “tứ quá, bách phi” rất nhiều. Đức Phật nêu ra thí dụ này, có thể nói là đă bao quán tất cả vọng tưởng của chúng ta. “Quá” là quá thất (過失: lầm lỗi), [tứ quá] là bốn thứ lầm lỗi. Chúng tôi tùy tiện nêu lên một thứ để nói, chẳng hạn như Thị Phi. Thị (: đúng) là cái thứ nhất, Phi Thị (非是: chẳng đúng) là cái thứ hai. Diệc Thị Diệc Phi (亦是亦非: vừa đúng, vừa sai) là cái thứ ba, Phi Thị Phi Phi (非是非非: chẳng phải đúng, chẳng phải sai) là cái thứ tư. Những thứ ấy gọi là Bốn Thứ Lầm Lỗi Căn Bản. Tâm thanh tịnh há có Thị, Phi? Hễ có Thị th́ tương phản của nó là Phi, thiết lập sự tương đối, Thị cũng là trật! Thị và Phi thảy đều chẳng có th́ mới không có lầm lỗi; nhưng quư vị thảy đều chẳng có, hễ c̣n có ư niệm này (tức ư niệm “mọi thứ thảy đều chẳng có”), quư vị vẫn chưa thanh tịnh! Do vậy, Song Diệc và Song Phi (Diệc Thị Diệc Phi và Phi Thị Phi Phi) đều là lầm lỗi, đây là nêu ra một trường hợp để nói!

      Nêu ra bất cứ câu nào, th́ sự tương đối được kiến lập đều có đủ bốn câu. Trong mỗi câu thuộc bốn câu ấy, quư vị phỏng theo lệ ấy để suy diễn, [th́ trong mỗi câu] lại có bốn câu, nên biến thành bốn lần bốn là mười sáu câu. Đối với mười sáu câu th́ quá khứ có mười sáu câu, hiện tại có mười sáu câu, vị lai có mười sáu câu, cho nên biến thành bốn mươi tám câu. Đối với bốn mươi tám câu, lại có bốn mươi tám câu đă dấy niệm, và bốn mươi tám câu chưa dấy niệm, gộp lại thành chín mươi sáu câu. Chín mươi sáu câu ấy kể cả bốn câu căn bản hợp thành một trăm câu, nên gọi là Bách Phi. Từ ngữ này bao quát tất cả hết thảy vọng tưởng. Tất cả vọng tưởng suốt ngày từ sáng đến tối của quư vị chẳng ra ngoài nguyên tắc “tứ cú bách phi” này! Quư vị mỗi ngày dấy vọng tưởng, hết thảy đều là hư vọng, trong nhất tâm bất loạn không có, những thứ ấy thảy đều chẳng có, nên gọi là Thị. Đó là dùng nghĩa lư “nhất tâm bất loạn” trong kinh này để giải thích.

 

(Sao) Dị thử sở minh, bất đắc xưng Thị.

  () 異此所明,不得稱是。

(Sao: Những ǵ khác với những điều được nêu lên ở đây sẽ chẳng được gọi là Thị).

 

      Nếu nói khác với cách giải thích này, sẽ chẳng phải là cách giảng trong tông này. Đối với tông này, cách giảng hai chữ Như Thị [như vừa đă nêu trên đây] là hợp lư nhất; đó cũng là sự thụ dụng tốt nhất trong sự tu học pháp môn này. Hai chữ Như Thị được giới thiệu đến đây [là xong], dưới đây là giảng về Ngă Văn.

 

      (Sao) Ngă văn giả, Văn Thành Tựu dă.

      () 我聞者,聞成就也。

      (Sao: “Tôi nghe” là Văn Thành Tựu).

 

      Trong sáu thứ thành tựu, món thứ hai là Văn Thành Tựu.

 

      (Sao) Ngă giả, tự ngă.

      () 我者自我。

      (Sao: Ngă là tự ḿnh).

 

      Là chính ḿnh.

 

      (Sao) Văn giả, thân văn, tự ngă thân văn, phi tư thục cố, phi độc cổ cố.

       () 聞者親聞,自我親聞,非私淑故,非讀古故。

      (Sao: “Nghe” là đích thân nghe, chính ḿnh đích thân nghe, chẳng phải là do được nghe truyền lại, chẳng phải do đọc tác phẩm của cổ nhân).

 

      [Nói “ngă văn”] nhằm phân biệt với “tư thục”“độc cổ”. [“Tư thục”“độc cổ”] chẳng phải là đích thân nghe, mà là nghe truyền lại, nghe lời truyền thuật lại. “Độc cổ” là đọc sách, chúng ta đọc sách của cổ nhân, biết một số chuyện, nhưng chẳng phải là chính tai ta nghe, mà là nghe thuật lại! “Tư thục”: Trong Phật môn và Nho gia đều có “tư thục đệ tử”, tức là học theo cổ nhân. Chúng tôi cũng thường đề xướng điều này, v́ hiện thời chẳng có những vị đại đức tại thế, chúng ta phải làm như thế nào th́ mới có thể thành tựu? Chúng ta học theo cổ nhân. Chẳng hạn như chúng ta muốn học kinh Di Đà, mà chẳng t́m được một vị thầy giỏi, nhưng bộ Sớ Sao của Liên Tŕ đại sư vẫn c̣n, chúng ta noi theo Sớ Sao để học kinh Di Đà, làm đệ tử của Liên Tŕ đại sư; đó gọi là “tư thục đệ tử”. Chẳng phải do Ngài đích thân dạy bảo chúng ta, nhưng trước tác của Ngài vẫn c̣n, chúng ta học từ văn tự của Ngài, đó gọi là “tư thục đệ tử”. Từ xưa tới nay, người dùng phương pháp này, tu thành công vô cùng nhiều. Ngẫu Ích đại sư học theo ngài Liên Tŕ, là tư thục đệ tử của Liên Tŕ đại sư, v́ lúc ấy, Liên Tŕ đại sư đă văng sanh. Ngài Ngẫu Ích học bộ Sớ Sao, trở thành nhất đại tổ sư của Tịnh Độ Tông, Ngài học thành công.

      Phải như thế nào mới là tư thục đệ tử thật sự? Giống như thuở trước bái sư, người ấy vô cùng kính phục thầy, bội phục đến năm vóc gieo xuống đất, muốn theo Ngài. Học bao nhiêu năm? Phải học mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm, chuyên học với một vị thầy. Chẳng hạn như quư vị muốn làm tư thục đệ tử của Liên Tŕ đại sư, làm bạn đồng học với Ngẫu Ích đại sư, tối thiểu quư vị phải đọc bộ Di Đà Kinh Sớ Sao của Liên Tŕ đại sư mười năm. Tác phẩm này chỉ có bốn quyển, kể cả kinh và sớ, mỗi ngày quư vị đọc một lượt, đọc hằng ngày, đọc suốt mười năm, tôi thấy quư vị cũng chẳng kém Ngẫu Ích đại sư, cũng sẽ trở thành nhất đại tổ sư của Tịnh Độ Tông, thật đấy, chẳng giả đâu! Học theo lời dạy của một vị, theo một thầy, lúc đó mới gọi là “tư thục đệ tử”. Hôm nay ta đọc tác phẩm này, mai xem tác phẩm khác, chẳng thể gọi là “tư thục đệ tử” được. Theo chắc chắn một vị thầy, phải theo suốt mười năm, hai mươi năm, tối thiểu là mười năm, chẳng thể ít hơn mười năm. Mỗi ngày đọc sách này, mỗi ngày đọc một lần, đọc suốt mười năm sẽ khai ngộ, thật sự đạt được nhất tâm bất loạn.

 

      (Sao) Tự ngă thân văn giả, tự giản phi kỷ, thân giản phi diện, cái thị kỷ cung diện thọ chi thuyết dă.

       () 自我親聞者,自揀非己,親揀非面,蓋是己躬面受之說也

(Sao: “Tự ḿnh đích thân nghe”: Chữ Tự nhằm tách biệt với trường hợp chẳng phải do chính ḿnh [nghe nhận], chữ Thân nhằm tách biệt với trường hợp vắng mặt (chỉ nghe nói lại), tức là chính ḿnh đối trước mặt, vâng nhận lời dạy của [đức Thế Tôn]).

 

“Tự ngă thân văn”: Chính ḿnh nghe nói, được thầy trực tiếp chỉ dạy.

 

      (Sao) Tư thục giả, Mạnh Tử vân: “Dư vị đắc vi Khổng Tử đồ dă, dư tư thục chư nhân dă.

  () 私淑者,孟子云:予未得為孔子徒也,予私淑諸人也。

      (Sao: “Tư thục”, Mạnh Tử nói: “Ta chưa được làm học tṛ Khổng Tử, ta học lại với các môn đệ của Ngài”)[5].

 

      “Đồ” () là học tṛ. Ngài không sống cùng một thời đại với Khổng Tử, Khi Mạnh Tử sanh ra, Khổng lăo phu tử đă qua đời, chẳng c̣n ở trên đời. Do vậy, chẳng thể làm học tṛ Khổng lăo phu tử. “Dư tư thục chư nhân”: Tự ḿnh hướng về các môn sinh của Khổng lăo phu tử học tập, tức là được nghe những lời truyền dạy lại, chứ không trực tiếp tiếp nhận [giáo huấn của thầy].

 

      (Sao) Thích viết.

      () 釋曰。

      (Sao: Giảng rằng).

 

      Giải thích.

 

      (Sao) Dĩ Mạnh Tử phi thân kiến Khổng Tử, năi thọ nghiệp Khổng Tử chi hậu nhân, nhi tư kỳ đạo, dĩ thiện kỳ thân giả dă.

  () 以孟子非親見孔子,乃受業孔子之後人,而私其道,以善其身者也。

      (Sao: Do Mạnh Tử chẳng đích thân gặp Khổng Tử, mà theo học với hậu duệ của Khổng Tử, tự ḿnh dùng đạo ấy để tu thân trở thành tốt lành vậy).

 

      Đó gọi là “tư thục đệ tử”, chẳng do thầy đích thân truyền dạy.

 

      (Sao) Độc cổ giả, Tề Hoàn Công độc thư ư đường thượng, luân nhân dĩ vi sở độc giả, cổ nhân tao phách nhĩ.

       () 讀古者,齊桓公讀書於堂上,輪人以為所讀者,古人之糟粕耳。

      (Sao: “Đọc sách cổ”: Tề Hoàn Công đọc sách nơi nhà trên, người thợ làm bánh xe chê nhà vua đọc sách như vậy là nhai bă của cổ nhân).

 

      Chuyện này phê phán Tề Hoàn Công[6]. Tề Hoàn Công là chư hầu, tức là hoàng đế [nước Tề] thời ấy, đọc sách. “Luân nhân” là người làm công, là một anh thợ [làm bánh xe]. Anh ta nghe nhà vua đọc sách, bèn phê phán: “Những điều nhà vua đọc chẳng phải là tinh hoa, cốt lơi của cổ nhân, mà là đọc cặn bă của cổ nhân”. Đây là một điển cố, dưới đây là lời giải thích.

 

      (Sao) Dĩ Hoàn Công phi diện đối cổ nhân, cổ nhân dĩ văng, vi đồ độc kỳ di ngôn giả dă.

  () 以桓公非面對古人,古人已往,為徒讀其遺言者也。

      (Sao: Bởi lẽ Hoàn Công chẳng gặp mặt cổ nhân, cổ nhân đă qua đời rồi, chỉ uổng công đọc di ngôn của họ).

 

      Nói thật ra, câu này chính là như chúng ta thường nói: “Ăn chẳng tiêu”.
Hằng ngày đọc, nhưng chẳng thể tiêu hóa, đọc những thứ ấy chẳng có tác dụng ǵ! Chúng ta đọc kinh Phật cũng vậy, nếu quư vị chẳng thể tiêu hóa ư nghĩa (lănh hội ư nghĩa chân thật) của kinh điển, cổ nhân bảo là “chết cứng nơi từng hàng chữ”. Chẳng thà không đọc sách! Nếu nói khó nghe hơn, sẽ là đọc sách trở thành đần, đọc sách lâu ngày biến thành kẻ ngây ngốc v́ sách, sai mất rồi! Tề Hoàn Công đọc sách nhưng chẳng tiêu hóa được, nên bị anh thợ chê cười!

 

      (Sao) Kim A Nan cung phùng chí thánh, phi tư thục dă, hợp thượng tự ngă.

  () 今阿難躬逢至聖,非私淑也,合上自我。

      (Sao: Nay ngài A Nan đích thân gặp gỡ bậc chí thánh, chẳng phải là “tư thục”, điều này phù hợp với ư nghĩa “tự ngă” trong phần trên).

 

      Ngài A Nan sống cùng một thời đại với Thích Ca Mâu Ni Phật, làm đệ tử Phật, mỗi ngày tự ḿnh nghe Phật thuyết pháp. Do vậy, Ngài chẳng phải là tư thục đệ tử của đức Phật!

 

      (Sao) A Nan nhĩ linh chí giáo, phi độc cổ dă, hợp thượng thân văn.

() 阿難耳聆至教,非讀古也,合上親聞。

      (Sao: Ngài A Nan đích thân nghe giáo lư tột bậc, chẳng phải là đọc sách của cổ nhân, phù hợp với ư nghĩa “thân văn” trong phần trên).

 

      Ngài đích thân nghe Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh, cho nên chẳng phải là đọc sách cổ.

      (Sao) Tự ngă thân văn, kim dĩ cáo chúng, tiện ưng tín thọ, cánh phục hà thuyết.

  () 自我親聞,今以告眾,便應信受,更復何說。

      (Sao: Do chính ḿnh đích thân nghe, nay thuật lại với đại chúng, họ liền tin nhận, chẳng c̣n nói ǵ nữa!)

 

      Đây là chứng tín cho chúng ta, chẳng phải là Ngài nghe thuật lại, chẳng phải là đọc sách cổ rồi xen lẫn kiến giải của chính ḿnh vào đó, mà là trực tiếp nghe lời Phật dạy, nhắc lại lời Phật, đúng như lời Phật nói.

 

      (Sớ) Thánh nhân vô ngă, kim hà xưng Ngă?

      () 聖人無我,今何稱我?

      (Sớ: Thánh nhân vô ngă, sao nay xưng là Ta?)

 

      Trong Phật pháp, điều thứ nhất là phải phá Ngă Chấp. Nếu chẳng phá Ngă Chấp, sẽ không thể thoát khỏi tam giới; nói cách khác, chắc chắn luân hồi trong lục đạo, chẳng thể thoát được! Nếu chẳng phá Pháp Chấp, sẽ chẳng thể kiến tánh. Do lẽ đó, hàng A La Hán phá Ngă Chấp, chưa phá Pháp Chấp, nên các Ngài vượt thoát lục đạo luân hồi, nhưng chẳng thể kiến tánh. V́ thế, cả hai thứ chấp trước Ngă và Pháp đều phải phá, đặc biệt là phá Ngă Chấp được xếp vào vị trí thứ nhất. Chúng ta niệm Phật th́ chư vị phải biết, đối với “nhất tâm bất loạn” được nói trong phần sau kinh này, để giảng bốn chữ ấy, trong tác phẩm [Sớ Sao] này, Liên Tŕ đại sư đă dành tới nửa quyển văn tự để chú sớ. Bản chú giải của Ngài gồm tất cả bốn quyển; nói cách khác, [Ngài đă dùng tới] một phần tám văn tự [trong toàn bộ bản chú giải] để giải thích “nhất tâm bất loạn”. Quư vị bèn hiểu bốn chữ ấy là một câu trọng yếu nhất trong kinh này. Nhất tâm bất loạn có hai loại là Sự nhất tâm và Lư nhất tâm. Niệm thế nào th́ mới có thể đạt đến Sự nhất tâm? Phá Ngă Chấp là Sự nhất tâm, phá Pháp Chấp là Lư nhất tâm. Có thể thấy phá Ngă Chấp rất trọng yếu!

      Ngài A Nan là thánh nhân, lúc kết tập kinh điển, Ngài đă chứng Tứ Quả; chứng Tứ Quả, chưa phá Pháp Chấp, nhưng chắc chắn đă phá Ngă Chấp; cớ sao Ngài vẫn nói “Ta”? Tiếp theo đây là lời giải thích cho lời cật vấn “thánh nhân vô ngă, kim hà xưng Ngă” (thánh nhân vô ngă, nay sao lại xưng là Ta), [Liên Tŕ đại sư] trích dẫn lời giảng của Đại Trí Độ Luận.

 

      (Sớ) Trí Luận hữu tam.

      () 智論有三。

      (Sớ: Đại Trí Độ Luận nêu ra ba điều).

 

      Đại Trí Độ Luận đă nêu ra ba lư do.

 

      (Sớ) Nhất, tùy thế gian cố.

  () 一、隨世間故。

      (Sớ: Một, do thuận theo thế gian).

 

      Nhằm thuận tiện trao đổi ư kiến, thuận tiện giáo hóa chúng sanh, nếu chẳng dùng danh xưng Ta, sẽ chẳng có cách nào dạy người khác. V́ lợi ích chúng sanh, tôi tùy thuận thế gian. Quư vị gọi thứ này là Ta th́ tôi cũng nói là Ta!

 

      (Sớ) Nhị, phá tà kiến cố.

() 二、破邪見故。

      (Sớ: Hai là do phá tà kiến).

 

      Nếu chứng Vô Ngă, nhưng chính ḿnh đối với người khác cũng chẳng thừa nhận, phủ định Ngă, sẽ trở thành tà tri tà kiến, không thể được!

 

      (Sớ) Tam, bất trước Vô Ngă cố.

       () 三、不著無我故。

      (Sớ: Ba, do chẳng chấp trước Vô Ngă).

 

      Chẳng chấp trước Ngă, mà cũng chẳng chấp trước Vô Ngă, tới lúc ấy mới thật sự là đoạn Ngă Chấp.

 

      (Sớ) Dĩ thị tam giả, bất ngại thuyết Ngă, hựu Pháp Thân chân ngă, diệc đắc xưng Ngă.

      () 以是三者,不礙說我,又法身真我,亦得稱我。

      (Sớ: Do ba điều ấy, chẳng ngại nói đến Ngă. Hơn nữa, Pháp Thân là Chân Ngă, nên cũng có thể nói Ngă).

 

      Nếu thật sự thấy Pháp Thân, xác thực là Thường - Lạc - Ngă - Tịnh, bốn ư nghĩa ấy là chân thật, chẳng giả. Nay v́ sao đức Phật dạy chúng ta phá Ngă Chấp? Chúng ta chưa thấy Pháp Thân. Chưa thấy Pháp Thân th́ khái niệm Ngă của chúng ta là giả, chẳng thật! Ư nghĩa này rất ư là sâu! Trong phần sau của bản chú giải này sẽ c̣n thảo luận cặn kẽ. Những chỗ này đều đáng cho chúng ta học tập. Chúng ta phải hiểu chân tướng sự thật, phải học theo Phật, Bồ Tát, nội tâm của chính ḿnh phải thanh tịnh, chớ nên phân biệt, đừng chấp trước. Nhưng khi chúng ta tiếp xúc đại chúng, thuận theo sự phân biệt của chúng sanh mà phân biệt, thuận theo sự chấp trước của chúng sanh mà chấp trước. Do vậy, nói: “Phật pháp tại thế gian, bất hoại thế gian tướng” (Phật pháp trong thế gian, chẳng hoại tướng thế gian). Không phá hoại tướng thế gian th́ gọi là “đại từ, đại bi”.

      Chấp trước và chẳng chấp trước đồng thời, chẳng có trước sau, không có thứ tự. Đối với chính ḿnh mà nói th́ không có chấp trước, vô ngă; đối người khác bèn nói Ta. Đây là chỗ khác nhau giữa Phật, Bồ Tát và chúng ta. Chúng ta nói Ta, chính ḿnh thật sự có một cái chấp trước Ngă kiên cố; Phật, Bồ Tát trọn chẳng chấp trước. Do tùy thuận chúng sanh mà Phật, Bồ Tát nói [như thế], v́ lợi ích chúng sanh mà nói, chẳng phải v́ lợi ích chính ḿnh. Chư vị phải hiểu: Chính ḿnh chẳng có sự chấp trước ấy, đó là tự lợi; ḥa quang đồng trần với người khác là lợi tha. Tự lợi và lợi tha cũng là đồng thời, chẳng có thứ tự trước hay sau. Hôm nay, chúng tôi giảng tới chỗ này!

 

Tập 104

 

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang một trăm chín mươi chín:

 

      (Sớ) Thánh nhân vô ngă, kim hà xưng Ngă? Trí Luận hữu tam: Nhất, tùy thế gian cố, nhị, phá tà kiến cố, tam, bất trước vô ngă cố. Dĩ thị tam giả, bất ngại thuyết Ngă. Hựu Pháp Thân chân ngă, diệc đắc xưng Ngă.

      () 聖人無我,今何稱我?智論有三:一、隨世間故,二、破邪見故,三、不著無我故。以是三者,不礙說我,又法身真我,亦得稱我。

      (Sớ: Thánh nhân vô ngă, nay cớ sao nói là Ta? Trí Độ Luận nêu lên ba điều: Một, do tùy thuận thế gian; hai, do phá tà kiến; ba, do chẳng chấp trước Vô Ngă. Do ba điều ấy, nói Ngă chẳng trở ngại ǵ. Lại nữa, Pháp Thân là Chân Ngă, nên cũng nói Ngă).

 

      Đoạn này nhằm ngăn ngừa trước trường hợp có những kẻ học một chút Phật pháp, [bèn bắt bẻ] trong kinh Phật thường nói phải phá Ngă Chấp và Pháp Chấp. Sơ Quả đă phá Thân Kiến, Tứ Quả La Hán đă phá Ngă Chấp, v́ sao, các Ngài vẫn c̣n nói Ta? Ngăn ngừa mối nghi hoặc như thế, cho nên ở đây, đại sư đặc biệt giảng rơ, Ngài dẫn ba ư nghĩa [v́ sao] xưng là Ta như trong Đại Trí Độ Luận đă giảng. Trong phần dưới có giải thích ba ư nghĩa ấy, chúng ta hăy đọc lời Sao:

 

      (Sao) Thử hạ phục phân “ngă văn” vi nhị, ly thích đồng tiền.

  () 此下復分我聞為二,離釋同前。

      (Sao: Dưới đây lại chia “ngă văn” thành hai đoạn để giải thích từng điều [riêng rẽ] giống như [phương cách giải thích hai chữ “như thị”] trong phần trên).

 

      “Ly” là tách ra để giảng, Ngă là ǵ? Văn là ǵ? Giống như phương cách đă được sử dụng trong phần trước. Điều thứ nhất là:

 

      (Sao) Nhất vân tùy thế gian giả, vị thế pháp trung thuyết Ngă, phi Đệ Nhất Nghĩa trung thuyết Ngă, tùy thuận thế gian nhi thuyết, vô hữu thật thể, tắc bất quai ư Đệ Nhất Nghĩa dă.

      () 一云隨世間者,謂世法中說我,非第一義中說我,隨順世間而說,無有實體,則不乖於第一義也。

      (Sao: Một là nói “tùy thuận thế gian” có nghĩa là nói Ngă theo pháp thế gian, chẳng phải là nói Ngă như trong Đệ Nhất Nghĩa Đế, tùy thuận thế gian mà nói, [cái Ngă ấy] chẳng có thực thể, nên chẳng trái nghịch Đệ Nhất Nghĩa).

 

       Đệ Nhất Nghĩa chẳng thể nói được, điều này thường diễn tả là “ngôn ngữ dứt bặt, tâm hành xứ diệt”. Những ǵ có thể diễn tả được đều là Đệ Nhị Nghĩa, Đệ Tam Nghĩa! Những ǵ có thể tư duy, tưởng tượng, cũng không phải là Đệ Nhất Nghĩa. Đệ Nhất Nghĩa là ǵ? Trong Đệ Nhất Nghĩa, ngay cả Đệ Nhất Nghĩa cũng không có. Nếu có Đệ Nhất Nghĩa, sẽ chẳng phải là Đệ Nhất Nghĩa thật sự. Nói thật ra, nói theo tướng được hiện th́ Chân Như bổn tánh được gọi là Nhất Chân pháp giới. Chư pháp Thật Tướng” như kinh Pháp Hoa đă nói, hay “Lư nhất tâm bất loạn” được nói trong Tịnh Độ đều là Đệ Nhất Nghĩa. Nó có rất nhiều danh từ, hơn một trăm loại, đều nhằm nói về cùng một chuyện! Thật ra, chẳng thể nào diễn tả được! Chính chúng ta phải tự ḿnh thấu hiểu, chỉ có thể lănh hội, chẳng thể vận dụng tư duy, v́ vừa rớt vào tư duy sẽ là Đệ Nhị Nghĩa, chẳng c̣n là Đệ Nhất Nghĩa nữa.

      Nhà Thiền nói “tham Thiền” tức là ĺa tâm ư thức để tham, ĺa tâm ư thức là Đệ Nhất Nghĩa. “Tâm” là A Lại Da thức, “Ư” là Mạt Na thức, tức thức thứ bảy, “Thức” là thức thứ sáu (Ư Thức). Quư vị có thể rời khỏi thức thứ sáu, thức thứ bảy, thức thứ tám, những ǵ quư vị hiển lộ sẽ là Chân Như bổn tánh, Chân Như bổn tánh là Đệ Nhất Nghĩa. Làm thế nào mới có thể ĺa được? Trước hết, quư vị phải hiểu “tâm ư thức” nghĩa là ǵ? Là hiện tượng như thế nào? Thức thứ sáu, tức Ư Thức, cái tâm phân biệt ấy là thức thứ sáu (Ư Thức), thức thứ bảy là chấp trước, chúng ta nói thức thứ tám là “ghi ấn tượng”. Nói cách khác, quư vị chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, không giữ ấn tượng, lúc ấy là Đệ Nhất Nghĩa. Chúng ta mắt thấy sắc chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, chẳng giữ lại ấn tượng; tai nghe tiếng cũng chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, chẳng giữ lại ấn tượng, tức là không dùng tâm ư thức; khi ấy, lục căn tiếp xúc cảnh giới lục trần đều là Đệ Nhất Nghĩa.

      Ở đây, quư vị hăy khéo suy nghĩ, quư vị có thể nói một câu nào hay không? Đừng nói chi khác, chúng tôi nêu thí dụ như thế này: “Rời khỏi hết thảy danh tướng, quư vị hăy nói một câu xem, đấy là ǵ vậy? Quư vị có thể nói được hay không?” Ĺa khỏi tướng danh tự, quư vị nói “trang giấy” th́ “trang giấy” là danh tự, “tinh xá” cũng là danh tự, “cái thẻ kẹp sách” cũng là danh tự! Tôi bảo quư vị rời khỏi tướng danh tự, quư vị hăy nói một câu xem, đó là ǵ vậy? Chẳng nói được! Chẳng rơ ràng hay sao? Rơ ràng là nói không được, đấy là Đệ Nhất Nghĩa. Quư vị có thể nói được th́ là Đệ Nhị Nghĩa, chẳng phải là Đệ Nhất Nghĩa.

      Khi Phật pháp chưa truyền tới Trung Quốc, người Trung Quốc cũng biết tới cảnh giới ấy! Quư vị thấy Lăo Tử đă nói: “Danh khả danh, phi thường danh; đạo khả đạo, phi thường đạo”, hai câu này có cùng một ư nghĩa với “ngôn ngữ dứt bặt, tâm hạnh xứ diệt” trong kinh Phật. Cách nói khác nhau, nhưng cảnh giới và ư nghĩa hoàn toàn tương đồng. Có thể thấy Lăo Tử cũng thấy Đệ Nhất Nghĩa, cũng chứng đắc Thật Tướng của các pháp. Nếu Ngài không phải là Phật tái lai th́ cũng là bậc Bát Địa Bồ Tát trở lên! Chẳng phải là Bát Địa trở lên, sẽ không thể nói được! Chưa nhập cảnh giới này, sẽ không thể nói được! Phật pháp chưa truyền đến Trung Quốc, người Trung Quốc cũng đă nhập cảnh giới này.

      V́ thế, trong Đệ Nhất Nghĩa là pháp b́nh đẳng, là pháp thanh tịnh, từ Đệ Nhất Nghĩa lưu xuất tác dụng là từ bi. Do vậy, từ bi là Tánh Đức, là đức năng sẵn có trong Chân Như bản tánh, đại từ đại bi! Chúng ta thường nói “vô duyên Đại Từ, đồng thể Đại Bi”. Nếu chưa kiến tánh, tâm từ bi này không lưu xuất được, chúng ta muốn học cũng không học được, miễn cưỡng học cách nào cũng đều học không giống, ắt chính ḿnh phải đích thân nhập cảnh giới này mới được. Bởi lẽ, trong Đệ Nhất Nghĩa không có Ngă! Như trong kinh Kim Cang đă nói bốn tướng đều là Không, Ngă lấy đâu ra? Khi ấy mới gọi là Đệ Nhất Nghĩa, cũng gọi là Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa. V́ vậy, xác thực là Vô Ngă. Do tùy thuận thế gian bèn khởi tác dụng th́ gọi là từ bi.

      Nếu Phật thường trụ trong Đệ Nhất Nghĩa, trong Đệ Nhất Nghĩa th́ như tôi vừa mới nói, không chỉ chẳng có ngôn ngữ, cũng chẳng có tư duy, thử hỏi đức Phật giáo hóa chúng sanh bằng cách nào? Đức Phật giảng các bộ kinh, nói nhiều lời như thế, đều là từ Đệ Nhất Nghĩa biến thành Đệ Nhị Nghĩa, nên chúng ta mới có thể đạt được lợi ích, Ngài mới có thể giảng cho chúng ta để chúng ta nghiên cứu thảo luận, một hỏi, một đáp. Nếu trong Đệ Nhất Nghĩa th́ ngay cả ư niệm cũng chẳng thể khởi lên, c̣n có nói năng, ngôn ngữ chi nữa? Vậy th́ Phật cũng chẳng thể giáo hóa chúng sanh, chúng sanh cũng vĩnh viễn chẳng thể khai ngộ. Do vậy, phải chuyển Trí thành Thức, chuyển thành phân biệt, chấp trước, giữ lại ấn tượng, khởi những tác dụng ấy. Khởi lên những tác dụng ấy nhằm giáo hóa chúng sanh. V́ thế, biến hiện [những tác dụng ấy] để người khác thụ dụng, chẳng phải để chính ḿnh thụ dụng! Biến hóa tâm ư thức để người khác thụ dụng! V́ lẽ đó, chư Phật, Bồ Tát là trí và thức đồng thời khởi tác dụng, chẳng có thứ tự trước hay sau, v́ sao? Ngài tự thụ dụng là Trí; nói cách khác, Ngài chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, mà cũng chẳng giữ lại ấn tượng, Ngài tự thụ dụng bốn trí Bồ Đề. Kẻ khác thụ dụng những ǵ? Tám thức. V́ thế, Phật là tám thức và bốn trí đồng thời. Đối với chính ḿnh là bốn trí, đối với người khác là tám thức. Tám thức của Ngài do tứ trí biến hóa thành bát thức; v́ thế, Ngài chẳng mê, chẳng phiền năo. Đấy là Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế.

      Đích xác là phàm phu chúng ta chỉ có tám thức, chẳng có bốn trí, v́ sao? Trong hết thảy các pháp bèn phân biệt, chấp trước, giữ lại ấn tượng, chuyện này phiền phức lớn lắm. Phiền phức ǵ vậy? Biến hiện lục đạo luân hồi như thế đó! Lục đạo luân hồi do chính ḿnh biến ra, chính ḿnh thoạt ch́m, thoạt nổi trong ấy, ai có thể cứu quư vị? Không ai có thể cứu, người cứu quư vị vẫn là chính ḿnh. Trừ chính ḿnh ra, ai cũng đều chẳng thể cứu quư vị được! Quư vị nói Phật, Bồ Tát đại từ đại bi có thể cứu chúng ta, vậy th́ Phật, Bồ Tát thật sự từ bi, đă sớm cứu thoát chúng ta hết cả rồi, lẽ đâu hiện thời chúng ta vẫn luân hồi sanh tử trong lục đạo? Phật, Bồ Tát không cứu được! Phật, Bồ Tát có thể cứu chúng ta bằng cách dạy cho chúng ta biết chân tướng sự thật này, chúng ta hiểu rơ rồi th́ chính ḿnh mới có cách, cách ǵ vậy? Giống như Phật, Bồ Tát, chẳng dùng tâm ư thức sẽ chẳng có luân hồi, sẽ giải thoát.

      V́ vậy, các đồng tu phải hiểu rơ, trong cuộc sống hằng ngày, lục căn của chúng ta tiếp xúc cảnh giới lục trần, phải biết rằng gốc bệnh sâu đậm là “phân biệt, chấp trước, giữ lại ấn tượng”, căn bệnh ấy đáng sợ lắm! Căn bệnh ấy là căn bản sanh tử từ vô lượng kiếp đến nay. Ai có năng lực chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, chẳng giữ lại ấn tượng khi lục căn tiếp xúc cảnh giới lục trần, ai có năng lực ấy? Người có năng lực ấy đă thành Phật, thành Bồ Tát, đă thoát ĺa tam giới. V́ thế, tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn đều nói cùng một Lư này, chẳng có Lư thứ hai nào! Ngàn kinh vạn luận đều nhằm nói về một Lư này. Rất nhiều phương pháp đều nhằm dạy chúng ta hăy xoay chuyển quan niệm, hễ chuyển được sẽ thành công. V́ sao chẳng thể chuyển được? Tập khí quá sâu! Dùng tâm ư thức đă thành thói quen. Chúng ta biết phải chuyển, nhưng hễ gặp chuyện bèn ngay lập tức hồ đồ, mê muội, lại quen thói sử dụng [tâm ư thức], rắc rối ở chỗ này! Từ vô thỉ kiếp tới nay đă dùng thành thói quen, nay xoay chuyển ngay lập tức sẽ chẳng thể chuyển được, chuyện này phiền lắm!

      Nhưng chúng ta thấy cổ đức có nhiều vị thật sự chuyển được. Chúng ta phải đặc biệt lưu ư: Cớ sao các Ngài có thể chuyển được? Chúng ta nghiên cứu nguyên nhân, cố nhiên [người ta sẽ] thường nói: “Đó là bậc tái lai! Người ta tu hành nhiều đời nhiều kiếp!” Nếu chúng ta bị câu nói này mê hoặc, sẽ bị họa hại nghiêm trọng! Nói thật ra, lời ấy chẳng sai, đó là thiện căn nhiều đời nhiều kiếp, nhưng bản thân chúng ta không có [thiện căn] ư? Chính chúng ta cũng là thiện căn nhiều đời nhiều kiếp, đúng như trong khi giảng nghĩa kinh Vô Lượng Thọ hôm thứ Tư, chúng ta đă đọc một đoạn trong đó có dẫn lời của Thiện Đạo đại sư: Văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, chín phẩm sai biệt là v́ chúng ta gặp duyên khác nhau. Lời ấy rất có lư, trong tâm chúng tôi bội phục! Nói cách khác, từ vô thỉ kiếp tới nay, chúng ta luôn có thiện căn, người khác có th́ ta cũng có, nhưng gặp duyên khác nhau, cho nên văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới mới có chín phẩm sai biệt. Nói cách khác, ngày nay chúng ta gặp gỡ duyên thù thắng nhất, trong đời này văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới thượng phẩm thượng sanh. Nếu gặp duyên kém cỏi, có thể là chẳng thể văng sanh được! Đúng là gặp duyên bất đồng! Nhân đều giống nhau, lời nói ấy mới thật sự có lư. Do vậy, chúng ta phải coi trọng cái duyên.

      Duyên chẳng ngoài ba điều kiện: Thứ nhất là thiện tri thức, thứ hai là đồng tham đạo hữu, thứ ba là đạo tràng. Thiện tri thức chân chánh là ǵ? Thật sự nhận biết rơ ràng, chẳng hiểu sai lạc pháp môn này, chúng ta noi theo người ấy sẽ chẳng đi sai đường. Đồng tham đạo hữu cùng nhau tu hành, khích lệ, rèn giũa lẫn nhau. Chư vị đồng tu phải biết: Kinh Phật gọi sự nhận thức ấy là chánh tri chánh kiến, không dễ dàng! Tôi thưa cùng quư vị đồng học, trong nhiều năm qua, tôi cũng đă dạy không ít học tṛ, từng dạy chẳng ít Phật học viện, nay nghĩ lại th́ chính ḿnh cũng rất hổ thẹn, v́ sao? Đúng là như người ta thường nói: “Khiến cho con em người khác lầm lạc!” Dạy học khiến cho con em của người khác bị lầm lỡ. Tôi dạy tại Phật học viện, trong quá khứ cũng đă khiến cho con em người khác bị lầm lạc, nhưng chẳng phải là cố ư, v́ sao? Chính ḿnh chẳng nhận biết rơ ràng, cứ nghiễm nhiên làm thầy! Nay mới hiểu rơ, mới hối hận! Nay tôi đă hiểu rơ, nhận biết đường lối rồi! Sau khi nhận rơ, mới thật sự giác ngộ cách dạy học của cổ nhân là đúng, chính xác; nay chúng ta [tự phụ chính ḿnh] thông minh, tài trí, nghĩ ra một khuôn khổ phương pháp khác, đó là sai lầm.

      Cổ nhân dùng phương pháp ǵ? Thâm nhập một môn. Mười năm trước, tức năm 1977, tôi đến giảng kinh tại Hương Cảng lần đầu tiên, giảng kinh Lăng Nghiêm. Lúc ấy, lăo pháp sư Hải Nhân ở Hương Cảng vẫn c̣n sống, năm sau Ngài viên tịch, tức là viên tịch năm 1978. Tôi đến viếng Ngài, khi ấy Ngài đă ngoài chín mươi tuổi, ở Hương Cảng, Ngài được xưng tụng là Thủ Lăng Nghiêm Vương. Sư cả đời chuyên giảng kinh Lăng Nghiêm. Tôi ở Hương Cảng, do tôi giảng kinh Lăng Nghiêm, nghe nói Ngài suốt đời nghiên cứu kinh Lăng Nghiêm, đương nhiên phải đến bái yết Ngài, tṛ chuyện rất hợp ư, được lăo nhân gia chỉ dạy rất nhiều. Làm học tṛ của Ngài chẳng dễ dàng, Ngài dạy học theo lối xưa, chẳng dùng kiểu mới, nghe nói Ngài chỉ có sáu vị đồ đệ. Tư cách ra sao mới được Ngài thâu nhận làm học tṛ? Phải thuộc kinh Lăng Nghiêm! Không chỉ thuộc ḷng kinh, mà c̣n phải thuộc ḷng chú giải. Ngài chỉ định bản chú giải, nếu là tôi, tôi sẽ không chọn bản chú giải ấy! Sư chọn bản Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Văn Cú do Ngẫu Ích đại sư trước tác. Trong quá khứ, tôi học Lăng Nghiêm, chọn bản chú giải Lăng Nghiêm Kinh Chánh Mạch của pháp sư Giao Quang. Bản Văn Cú tôi cũng có, [sách được đóng thành] mười tập, khâu gáy bằng chỉ, cả kinh lẫn chú giải đều phải thuộc ḷng. Nếu chẳng thể thuộc, Ngài sẽ không thâu nhận. Làm học tṛ của Ngài phải học thuộc kinh Lăng Nghiêm, phải thuộc chú giải; nhưng học tṛ của Ngài người nào cũng có thành tựu, Ngài sử dụng phương pháp của cổ xưa.

      Nếu chúng ta nghiên cứu Cao Tăng Truyện kỹ càng, từ xưa tới nay, thậm chí tại gia cư sĩ, họ thành tựu gần như chẳng có ngoại lệ nào, đều là suốt đời chuyên dồn công sức nơi một bộ kinh. Như vào đầu thời Dân Quốc, cư sĩ Giang Vị Nông suốt đời chuyên môn nghiên cứu kinh Kim Cang, ông ta dành ra bốn mươi năm dụng công nơi kinh Kim Cang, cuối cùng viết thành bộ Kim Cang Kinh Giảng Nghĩa, đó là thành tích nghiên cứu bốn mươi năm của ông ta. Cư sĩ Châu Chỉ Am nghiên cứu Tâm Kinh, Tâm Kinh hai trăm sáu mươi chữ, ông ta cũng phải tốn bốn mươi năm công phu để viết một bộ chú giải cho Tâm Kinh, tức Tâm Kinh Thuyên Chú. Quư vị suy nghĩ xem, tinh lực cả đời dồn vào một bộ kinh. Trong truyện kư của pháp sư Đàm Hư có đề cập “bát tái hàn song độc Lăng Nghiêm” (tám năm siêng gắng đọc kinh Lăng Nghiêm), đọc một bộ kinh Lăng Nghiêm suốt tám năm. V́ vậy, mọi người nếu muốn thành tựu, thật sự phải đổ công sức mười năm hay tám năm nơi một bộ kinh. Mười năm hay tám năm ấy rất khổ, không ai biết tới quư vị, không ai hỏi đến quư vị! Mười năm quạnh quẽ siêng khổ học tập, học mười năm hay tám năm, quư vị sẽ khai ngộ! Hễ ngộ bèn nhập Đệ Nhất Nghĩa. Sau khi ngộ, hết thảy các kinh luận đều thông, tức là “một kinh thông, hết thảy các kinh đều thông”. Con người hiện tại đi lạc đường, v́ sao? Hễ vừa dụng công bèn sách này cũng phải đọc, sách kia cũng phải xem, thứ ǵ cũng đều đọc, mong thứ ǵ cũng đều hiểu, kết quả là sau khi đọc, thứ ǵ cũng đều không hiểu! Những ǵ quư vị hiểu đều là kiến thức thông thường bề ngoài, thậm chí ngay cả kiến thức thông thường cũng nói sai be bét! V́ sao? V́ quư vị chưa nhập cảnh giới, chưa nhập Đệ Nhất Nghĩa! Phải là sau khi khế nhập th́ mới được, mới là thật, chẳng giả.

     Do điều này, chúng ta hăy suy nghĩ, trước đây coi thường, tưởng phương pháp cổ xưa là cũ rích, đáng phải nên đào thải, nay ta thật sự hiểu rơ phương pháp ấy là phương pháp cao minh nhất. Các phương pháp tách ĺa phương pháp ấy đều là sai lầm; nhất định phải thâm nhập một môn! Quư vị muốn nghiên cứu kinh Di Đà, hăy đọc Sớ Sao, hoặc đọc Yếu Giải; mỗi ngày đọc một lần, quư vị niệm suốt mười năm, chẳng gián đoạn bữa nào. Nói cách khác, tâm quư vị đắc định rồi, đó là Niệm Phật tam-muội, v́ sao? Trong tâm quư vị chẳng hề nghĩ đến điều ǵ khác, tâm định nơi chuyên nhất, đó là Niệm Phật tam-muội. Quư vị có Định, Định lâu ngày sẽ khai trí huệ, nhất quyết chớ nên tam tâm nhị ư. Nếu chư vị muốn thành tựu, niệm kinh Vô Lượng Thọ cũng được, mà niệm kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật cũng được, nhưng chỉ nên niệm một thứ, đừng nên niệm hai thứ, hăy thâm nhập một môn!

      Ở đây, Tổ trích dẫn mấy câu từ bộ Đại Luận, Bồ Tát biết người thế gian nói “Ta”, Ngài hiểu rơ ràng “Ta” là bất khả đắc. V́ thế, để tự ḿnh thụ dụng th́ là vô ngă tướng, chẳng trái nghịch Đệ Nhất Nghĩa. Tùy thuận chúng sanh nên nói “Ta”, sự tùy thuận chúng sanh ấy chính là ḷng đại từ đại bi lưu lộ từ chân tánh để người khác thụ dụng. Nhằm giáo hóa và lợi ích chúng sanh mà nói “Ta”, tuyệt đối chẳng phải là chính ḿnh có phân biệt, có chấp trước. Ư nghĩa thứ hai là nói:

 

      (Sao) Nhị vân phá tà kiến giả, vị tà ngă, mạn ngă, danh tự ngă, thế tục nhân cụ tiền nhị ngă, học đạo nhân cụ hậu nhị ngă, thánh nhân duy tối hậu ngă, thuận tục xưng ngă, đản thị danh tự, thật vô tà mạn, cố vô quá cữu.

  () 二云破邪見者,謂邪我、慢我、名字我,世俗人具前二我,學道人具後二我,聖人唯最後我,順俗稱我,但是名字,實無邪慢,故無過咎。

      (Sao: Hai, nói “phá tà kiến” là muốn nói tới tà ngă, mạn ngă, và danh tự ngă. Người thế tục có đủ hai thứ ngă đầu, người học đạo có đủ hai thứ ngă sau, thánh nhân chỉ có loại ngă cuối cùng. Thuận theo thế tục nên xưng là ta, nhưng đó chỉ là danh tự, chứ thật sự chẳng có tà ngă hay mạn ngă, nên chẳng phạm lỗi ǵ!)

 

      Ở đây, [lời Sao] đă nêu lên ba điều;

- Thứ nhất là tà kiến. Tà kiến là kiến giải sai lầm. Căn bản là không có ta, nhưng ngỡ là có Ta, đó gọi là Tà Ngă.

- Thứ hai là Mạn Ngă, kiêu căng, ngạo mạn. Chỉ cần có Ngă th́ chắc chắn sẽ có Mạn. Chữ [Mạn] này là một chướng ngại rất lớn. V́ có Ngă Kiến, nhất định có ngạo mạn, nói chung là luôn [tưởng] ḿnh mạnh hơn người khác, người khác chẳng bằng ta, chẳng biết hết thảy các pháp b́nh đẳng, hết thảy các pháp “tướng Có, thể Không”, chắc chắn là b́nh đẳng. Trong sự b́nh đẳng, dấy lên sự ngạo nghễ, ngă mạn, tâm b́nh đẳng mất đi! Nếu tâm chẳng b́nh đẳng, chắc chắn chẳng thể kiến tánh, chắc chắn chẳng thể phá nghiệp chướng, ngă mạn là nghiệp chướng. V́ thế, tu tŕ Phật pháp, pháp môn thứ nhất là “lễ kính chư Phật”, v́ sao phải tu lễ kính? Phá ngă mạn! Nói cách khác, phá trừ nghiệp chướng. Chướng ngại ấy sẽ ngăn trở quư vị minh tâm kiến tánh, ngăn trở Bồ Đề Niết Bàn của chính ḿnh. Không chỉ chướng ngại điều ấy (Bồ Đề Niết Bàn), mà hễ có ngă mạn, nhất định sẽ tạo tội nghiệp. Chính ḿnh ngạo nghễ, khinh mạn người khác, đấy là tạo tội nghiệp. Đừng tưởng tội nghiệp ấy rất nhỏ, tội nghiệp rất nhỏ nhưng hằng ngày tích lũy sẽ biến thành chướng ngại trọng đại, chướng ngại quư vị học đạo! Không chỉ đạo nghiệp chẳng thể thành tựu, mà thậm chí nó c̣n chướng ngại quư vị lư giải kinh luận. Kẻ kiêu căng, ngạo mạn nghe kinh sẽ không hiểu, mà cũng chẳng thể khai ngộ. Nếu kẻ ấy ngộ th́ đều là ngộ nơi đường tà, suy nghĩ lệch lạc, chẳng thể ngộ chánh pháp. Điều này đúng là vô cùng nghiêm trọng.

- Thứ ba là Danh Tự Ngă, Danh Tự nghĩa là hữu danh vô thực.

      Tiếp đó, Tổ phân tích: Người thế tục trọn đủ hai thứ Ngă trước đó, tức là Tà Ngă và Mạn Ngă. Người học đạo trọn đủ hai loại Ngă trong phần sau, tức là Mạn Ngă và Danh Tự Ngă, v́ sao? Họ có kiến giải chính xác. Chẳng hạn như hàng Sơ Quả Tiểu Thừa, đă chứng Sơ Quả, kiến giải chính xác, chẳng có Tà Ngă, nhưng có Mạn Ngă. V́ sao có Mạn Ngă? V́ họ đă đoạn Kiến Hoặc, nên không có kiến giải sai lầm, nhưng chưa đoạn Tư Hoặc, tham, sân, si, mạn chưa đoạn, nên Ngă của họ thuộc loại Ngă Mạn, chẳng phải là Tà Ngă. Đạt tới địa vị Đại Bồ Tát, Tư Hoặc đoạn sạch, Mạn Ngă chẳng c̣n nữa, sau đấy, nói Ngă với chúng ta, các Ngài cũng nói Ngă, [cái Ngă ấy] là Danh Tự Ngă, chẳng trở ngại Sự, [v́ Ngă ấy] hữu danh vô thực. Nhằm thuận tiện nói năng, đó là mánh khóe giáo hóa chúng sanh, bất đắc dĩ, chư vị nghĩ thứ này là Ta ư? Được rồi! Tôi cũng gọi nó là Ta, chứ thật sự chẳng có ngă mạn. V́ thế, thánh nhân xưng Ta trọn chẳng có khuyết điểm! Điều thứ ba....

 

      (Sao) Tam, bất trước Vô Ngă giả, chư thánh nhân tri nhất thiết pháp Không, Thật Tướng Vô Ngă, nhi bất trước Không, bất trước Vô Ngă.

      () 三不著無我者,諸聖人知一切法空實相無我,而不著空,不著無我。

      (Sao: Ba là chẳng chấp trước Vô Ngă. Các vị thánh nhân biết hết thảy các pháp là Không, Thật Tướng Vô Ngă, nhưng chẳng chấp trước Không, chẳng chấp trước Vô Ngă).

      Ư nghĩa này vô cùng trọng yếu. Chấp Không và chấp Có đều sai lầm như nhau, v́ sao? Chẳng đoạn chấp trước th́ chẳng qua là thay đổi đối tượng chấp trước mà thôi. Đức Phật dạy chúng ta phá chấp trước, chứ Ngài chẳng bảo chúng ta thay đổi đối tượng chấp trước, quư vị phải biết điều này! Ngài biết Thật Tướng vô ngă, nhưng chẳng chấp trước tướng Vô Ngă, cho nên khi khởi tác dụng tùy thuận chúng sanh th́ vẫn nói “Ta” giống hệt như chúng sanh. Nói Ta, nhưng chẳng chấp Ngă Tướng, chẳng chấp Không Tướng, tức là hai bên đều chẳng chấp trước.

 

      (Sao) Hựu Du Già hữu tứ ư, đại lược đồng thử, đệ tam nghĩa ngôn, nhược định vô ngă, thùy vi tu học, nhân tắc sanh bố, cố bất trước Vô Ngă.

   () 又瑜伽有四意,大略同此,第三義言,若定無我,誰為修學,人則生怖,故不著無我。

      (Sao: Lại nữa, Du Già Sư Địa Luận [nói Ngă] có bốn ư, đại khái giống những điều đang được nói ở đây. [Trong bốn nghĩa ấy], nghĩa thứ ba là: Nếu cứ khăng khăng vô ngă, ai sẽ tu học, người ta sẽ sanh ḷng sợ hăi; v́ thế, chẳng chấp trước Vô Ngă).

 

      Đây là trích dẫn một đoạn trong Du Già Sư Địa Luận để chứng minh, nhằm đặc biệt chứng minh câu thứ ba “do chẳng chấp trước Vô Ngă”. Du Già Sư Địa Luận nói: Vô Ngă th́ người nào học Phật? Ai sẽ tu hành?

 

      (Sao) Hựu Quán Kinh Sớ vân: “Vô ngă tắc vô văn, vô văn tắc hóa đạo tuyệt. Vị truyền hóa bất tuyệt, giả danh thuyết Ngă”.

  () 又觀經疏云:無我則無聞,無聞則化道絕,為傳化不絕,假名說我。

      (Sao: Lại nữa, Quán Kinh Sớ viết: “Vô ngă th́ không nghe, không nghe th́ sự hóa độ tu học bị chấm dứt. Nhằm truyền thừa, hóa độ chẳng dứt, nên giả danh nói Ngă”).

 

       Trong Quán Kinh [Sớ] cũng nói rơ ràng: Vô ngă th́ không có ai truyền pháp, mà cũng chẳng có cách nào thực hiện tự lợi, lợi tha. Nói cách khác, hai phương diện tự hành và giáo hóa chúng sanh đều chẳng thể thành tựu. V́ lẽ đó, Bồ Tát chẳng chấp trước Ngă, mà cũng chẳng chấp trước Vô Ngă. Ngă và Vô Ngă hai đằng đều chẳng chấp trước, ư nghĩa này mới là chân nghĩa! Nói “chân nghĩa” tức là ba thứ Thể, Tướng, Dụng đều trọn đủ, ba thứ ấy đồng thời. Nói theo Thể, vô ngă, Thể là không tịch; c̣n nói theo Tướng th́ sao? Tuy Thể là Không, nhưng nó có thể hiện tướng, nơi tướng có Ngă hay chăng? Nơi tướng cũng vô ngă. Thể vô ngă, mà tướng cũng vô ngă, Ngă do đâu mà có? Ngă từ Dụng mà có. Chúng ta khởi tác dụng, tức là tác dụng tự hành, hóa độ người khác. Từ tác dụng mà kiến lập cái Ngă; cái Ngă ấy được gọi là Danh Tự Ngă, v́ sao? Thể lẫn Tướng đều bất khả đắc, hữu danh vô thực, chẳng trở ngại ǵ!

      Dụng là Trung Đạo. Phật pháp nói “dụng Trung”, Nho gia cũng “dụng Trung”. Nho gia vận dụng Trung Dung, quả thật là anh hùng có cái nh́n đại lược giống nhau. Khổng lăo phu tử và Thích Ca Mâu Ni Phật chưa hề gặp mặt, chưa từng tiến hành hội đàm, nhưng đích xác là kiến giải chẳng khác biệt cho mấy, đều là “dùng Trung”. Điều này rất tuyệt, vận dụng Trung Đạo. Bởi lẽ, Thể, Tướng, Dụng đồng thời, chẳng có thứ tự trước hay sau. V́ thế, đức Phật giảng kinh, thuyết pháp nhằm chỉ dạy chúng ta tu hành theo cách nào, thảy đều là dùng Trung. Nếu chúng ta cũng biết dùng Trung, sẽ nhập Phật tri kiến, sẽ tương ứng với Phật pháp. V́ sao chúng ta học Phật chẳng giống? V́ sao học Phật chẳng thành tựu? V́ chẳng dùng Trung! Quư vị biết Chân, biết Chân Không, sẽ thấy thấu suốt hết thảy các pháp không có tự tánh, không có tự thể, Thể là Không! Thấy thấu suốt. Biết hết thảy các tướng là giả; chẳng có tướng nào là thật, quư vị sẽ buông xuống. Đă thấy thấu suốt lại buông xuống, quư vị sẽ tự tại. Tự tại là Trung, cuộc sống của quư vị đạt tự tại, nay chúng ta gọi điều này là “chân, thiện, mỹ, huệ”, hạnh phúc mỹ măn, Phật pháp gọi điều này là Trung Đạo. Quư vị có thể sống trong Trung Đạo, ngập tràn “chân, thiện, mỹ, trí huệ”, chắc chắn quư vị sống đời hạnh phúc nhất, viên măn nhất. Có thể thấy sự thụ dụng trong Phật pháp chẳng thuộc trong đời sau, mà là hưởng thụ ngay trong hiện tại, tùy thuộc quư vị có biết sử dụng hay không, có thật sự triệt để hiểu rơ hay không? Biết sử dụng th́ không ǵ chẳng được tự tại!

      Những chỗ như thế này chúng ta đều phải học tập. Học tập chẳng phải là học tập theo h́nh dáng, mà phải thật sự học giống như Phật, thấu hiểu Thật Tướng của các pháp, triệt để hiểu rơ Chân, Giả, Trung là một, không hai. Bất luận pháp nào cũng đều trọn đủ Chân, Giả, Trung. Tông Thiên Thai nói Nhất Tâm Tam Quán, tùy tiện lấy một pháp nào, to như thế giới, hoặc nhỏ như vi trần, không pháp nào chẳng trọn đủ Nhất Tâm Tam Quán. Giống như chúng ta cầm lấy trang giấy này, đây là một pháp. Nói về Thể, bản thể của nó là Không, chẳng có tự thể, Tướng của nó là Giả. Chúng ta dùng nó để đánh dấu [trang sách đang đọc dở], nó khởi tác dụng, Dụng là Trung, chúng ta dùng Trung! Có trở ngại Thể và Tướng hay chăng? Chẳng trở ngại! V́ thế, Thể, Tướng, Dụng đồng thời, chẳng hề tách rời, pháp nào cũng đều là như thế. Nếu quư vị tiến nhập chỗ này, sẽ đạt được đại tự tại. Từ nay trở đi, chẳng c̣n lo âu, vướng mắc, tâm và toàn thể vạn pháp hợp thành nhất thể, thụ dụng tự tại!

 

      (Sao) Pháp Thân chân ngă giả, ước bổn nhi ngôn.

  () 法身真我者,約本而言。

(Sao: “Pháp Thân là Chân Ngă”, tức là nói theo phương diện bản thể).

 

      Đây là nói theo bản thể.

 

      (Sao) A Nan diệc thông Pháp Thân Ngă dă, dĩ vô ngă pháp trung, hữu chân ngă, tức Pháp Thân Ngă, như Niết Bàn Thường Lạc Ngă Tịnh chi Ngă, hà ngại ư vô ngă?

      () 阿難亦通法身我也,以無我法中,有真我,即法身我,如涅槃常樂我淨之我,何礙於無我。

      (Sao: A Nan cũng thông suốt Pháp Thân Ngă, do trong pháp vô ngă có chân ngă, tức là Pháp Thân Ngă, như Ngă trong Thường Lạc Ngă Tịnh [được nói trong kinh] Niết Bàn, nên [nói Ngă] há trở ngại vô ngă?)

 

       Trí Giả đại sư chú giải kinh Pháp Hoa, trong bộ Pháp Hoa Kinh Văn Cú, Ngài đă chia kinh Pháp Hoa thành hai phần: Nửa bộ đầu và nửa bộ sau. Kinh Pháp Hoa có tất cả bảy quyển, hai mươi tám phẩm, mười bốn phẩm đầu thuộc nửa bộ đầu, mười bốn phẩm sau thuộc nửa bộ cuối. Trong mỗi nửa bộ đều có ba phần là Tự Phần, Chánh Tông Phần và Lưu Thông Phần, cách phân định ra sao? Tức là Bổn Tích Nhị Môn, chia thành hai môn là Bổn Môn và Tích Môn. Nói tới Tích Môn th́ Tích () là dấu vết, h́nh tướng, dùng tỷ dụ để nói, sẽ giống như diễn tuồng. Nói Tích là nói trên sân khấu, quư vị mang thân phận nào, đó là Tích. Nói tới Bổn () th́ quư vị ở sau sân khấu có thân phận [thật sự như thế nào], đó là Bổn. Bổn Tích nhị môn [là như vậy đó]. Nói theo mặt dấu vết, h́nh tướng (Tích Môn), tôn giả A Nan là một đệ tử của Thích Ca Mâu Ni Phật, là Sơ Quả Tu Đà Hoàn. Đấy là nh́n từ tướng, giống như diễn tuồng, Ngài đóng vai ấy, thủ diễn vai ấy, phải diễn cho thật giống. Đóng vai nào th́ phải [diễn xuất] giống như vai tṛ ấy, đó là nói theo mặt h́nh tướng, dấu vết. Nói theo Bổn, ngài A Nan là đại Bồ Tát thị hiện nhằm giúp Thích Ca Mâu Ni Phật giáo hóa chúng sanh, giống như trợ giáo của Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngài chẳng thật sự là một vị Tu Đà Hoàn trong Tiểu Thừa, mà là Đại Bồ Tát tái lai. Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất, nh́n theo h́nh tích, là học tṛ của Thích Ca Mâu Ni Phật, là Tiểu Thừa Tứ Quả La Hán, có địa vị như thế. Nếu nh́n theo diện mạo sau sân khấu, các Ngài đă sớm thành Phật, là các vị cổ Phật tái lai!

      Đó gọi là “nhất Phật xuất thế, thiên Phật ủng hộ”, nghĩa là một vị Phật xuất thế giáo hóa chúng sanh, một ngàn Phật (không chỉ là một ngàn vị Phật), chư Phật có duyên với vị Phật ấy, có duyên với chúng sanh thảy đều đến ủng hộ, giúp đỡ vị Phật ấy giáo hóa chúng sanh. Những vị đến ủng hộ, có vị thị hiện thân phận xuất gia như Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất, A Nan; có vị thị hiện thân phận tại gia như vua Ba Tư Nặc thuở ấy là hộ pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật. Nhà vua là Tứ Địa Bồ Tát, phát tâm đến hộ pháp. Chư vị phải hiểu [những vị làm công tác] hoằng pháp và hộ pháp đều chẳng dễ dàng, đều là Bồ Tát tái lai! Chẳng phải là Bồ Tát, nói thật thà, ai nhận biết Thích Ca Mâu Ni Phật? Ai coi Ngài như vật báu? Ủng hộ như vậy, nhất định phải là kẻ thật sự nhận biết giá trị. Ai nhận biết giá trị? Chư Phật, Bồ Tát nhận biết giá trị, chứ phàm phu chẳng biết! Phàm phu chẳng nhận biết giá trị, cho nên người ủng hộ thường ngỡ ma là Phật!

      Nếu chư vị nghiên cứu chú giải kinh Vô Lượng Thọ kỹ lưỡng, trong chú giải đă giảng rất rơ ràng, A Di Đà Phật phát bốn mươi tám nguyện, v́ sao Ngài phải phát ra nguyện này, nguyện nọ? Trong các nguyện ấy có nói tới Tha Tâm Thông, hễ sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới bèn có Tha Tâm Thông. Đấy là đức Phật thấy khá nhiều chúng sanh trong mười phương thế giới có trí huệ, nhưng thiếu phước đức, hoặc có phước báo, nhưng thiếu trí huệ. Có lúc lại có đức, nhưng không có quyền vị, như Đào Uyên Minh (Đào Tiềm), “lui về đi thôi” (quy khứ lai hề), rút lui! V́ sao? Suốt đời ôm ấp học vấn, nhưng chẳng có chỗ dùng, không nơi dụng vơ! Lại có những kẻ thiếu đức lại giữ địa vị rất cao, địa vị rất cao ấy sẽ tổn hại dân chúng khá nhiều. Nếu có Tha Tâm Thông, chúng ta sẽ ủng hộ người hữu đức hữu học, hết thảy dân chúng đều hưởng lợi lạc! Có thể thấy Tha Tâm Thông vô cùng trọng yếu. V́ thế, A Di Đà Phật mới phát nguyện như sau: Phàm là người văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, thảy đều đắc Tha Tâm Thông. Nếu có một ai chẳng đắc Tha Tâm Thông, Ngài thề chẳng thành Phật. Nhất là trong thời kỳ Mạt Pháp, pháp yếu, ma mạnh, v́ sao ma mạnh mẽ? Ma tu phước, phước báo to lớn. Người thật sự học Phật, thật sự phát tâm, phước báo kém hơn ma vương! Thật sự phát tâm th́ làm như thế nào? Vội vă cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, về đi thôi, v́ sao? Chẳng có phước báo, sẽ chẳng thể độ chúng sanh! Từ kinh luận, chúng ta có thể thấy những chỗ như vậy, đều phải nên biết.

      Ngài A Nan đă là Pháp Thân đại sĩ, nhất định Ngài đă sớm chứng đắc Tam Đức bí tạng. Tam Đức là Pháp Thân, Bát Nhă, Giải Thoát, Ngài đă chứng đắc! Mỗi đức trong Tam Đức đều có Thường, Lạc, Ngă, Tịnh, thật đấy, chẳng giả đâu! Pháp Thân có Thường, Lạc, Ngă, Tịnh chân thật, Bát Nhă cũng có Thường, Lạc, Ngă, Tịnh chân thật, Giải Thoát cũng có Thường, Lạc, Ngă, Tịnh chân thật; đấy là Chân Ngă, chẳng phải là Giả Ngă! Trong kinh có tám cách định nghĩa chữ Ngă, chúng ta chỉ nói hai định nghĩa trọng yếu nhất:

1) Ư nghĩa thứ nhất là “chủ tể”. Ngă có nghĩa là chủ tể, tức là chính ḿnh làm chủ. Nay chúng ta hăy suy nghĩ, bản thân chúng ta có thể làm chủ hay chăng? Nếu ta có thể làm chủ, năm nào cũng là mười tám tuổi th́ ta mới làm chủ được! Ta chẳng già, chẳng bệnh, chẳng chết th́ mới có thể làm chủ. Ngày nay, tuy ta mong mỏi như thế, vẫn phải già, vẫn phải bệnh, vẫn phải chết, [tức là] không thể làm chủ, không có Ngă!

2) Ư nghĩa thứ hai là “tự tại”. Ngă có nghĩa là “tự tại”. Chúng ta cũng chẳng đạt được tự tại! Nhưng Pháp Thân thật sự làm chủ, thật sự tự tại. Bát Nhă và Giải Thoát đều là tự tại, đều làm chủ, cho nên chúng có ư nghĩa Ngă!

V́ thế, nói theo Bổn, đại Bồ Tát hóa thân có Chân Ngă. Tuy các Ngài miệng nói Ngă để hằng thuận chúng sanh, vẫn tương ứng với Tự Tại Ngă của chính ḿnh, chẳng phải là gạt người, nên nói lời ấy trọn chẳng nói sai!

      “Vô ngă pháp trung, hữu Chân Ngă, tức Pháp Thân Ngă” (trong pháp vô ngă có Chân Ngă, tức Pháp Thân Ngă). Tự tánh là Chân Ngă, tức là Pháp Thân. Pháp Thân Ngă là Chân Ngă. “Như Niết Bàn Thường, Lạc, Ngă, Tịnh chi Ngă”: Có Chân Thường, Chân Lạc, Chân Ngă, có thanh tịnh chân chánh (Chân Tịnh). Đối với phàm phu và Tiểu Thừa, Quyền Giáo Bồ Tát, bốn chữ “Thường, Lạc, Ngă, Tịnh” là hữu danh vô thực. Tứ Niệm Xứ dạy chúng ta hăy dùng trí huệ để quan sát, nhưng trong cảnh giới phàm phu không có [Thường, Lạc, Ngă, Tịnh]. “Quán thân bất tịnh”, không có Tịnh! “Quán Thọ là khổ”, không có Lạc! “Quán pháp vô thường”, không có Thường! “Quán tâm vô ngă” [không có Ngă]. Bốn chữ ấy hàng Pháp Thân đại sĩ đều có, các Ngài có Thường, Lạc, Ngă, Tịnh, quả thật trọn đủ bốn tịnh đức ấy, chẳng thiếu thứ ǵ! Nay chúng ta dùng phương pháp Niệm Phật để chứng đại Niết Bàn, chứng Pháp Thân, niệm tới tŕnh độ nào? Niệm tới Lư nhất tâm bất loạn bèn chứng đắc, hoặc phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân, chính ḿnh sẽ đạt được, thật sự thụ dụng bốn đức Thường, Lạc, Ngă, Tịnh ấy. Những vị Đại Quyền Bồ Tát thị hiện có nói Ta, há trở ngại vô ngă? Các Ngài quả thật có thể nói Ngă. Dưới đây là giảng chữ Văn:

 

      (Sớ) Văn giả, nhĩ căn phát thức, phế biệt tùng tổng.

      () 聞者耳根發識,廢別從總。

      (Sớ: Văn là nhĩ căn sanh nhĩ thức, bỏ biệt, theo tổng).

 

       Lẽ ra nên nói Văn là “nhĩ văn” (tai nghe), v́ sao nói “ngă văn” (ta nghe)? “Nhĩ” là lục căn, là biệt, “Ngă” là tổng. Nói “ngă văn” cũng được, mà nói “nhĩ văn” cũng thế. Bỏ cái riêng biệt, thuận theo tổng quát, nên nói “ngă văn”.

 

      (Sớ) Cố vân “ngă văn”, Đại Thừa trung tam, Thỉ Giáo vô văn, Chung Giáo văn nhi bất văn, Đốn Giáo vô văn bất văn.

  () 故云我聞,大乘中三,始教無聞,終教聞而不聞,頓教無聞不聞。

      (Sớ: V́ thế, nói là “ta nghe”. Trong Đại Thừa có ba loại nghe: Thỉ Giáo không nghe, Chung Giáo nghe mà chẳng nghe, Đốn Giáo không có Nghe và Chẳng Nghe).

 

      Tông Hiền Thủ giảng Ngũ Giáo là Tiểu, Thỉ, Chung, Đốn, Viên. Loại trừ Tiểu Giáo ra, đó là Tiểu Thừa, v́ kiến giải của Tiểu Thừa giống như phàm phu. Thỉ Giáo là bắt đầu của Đại Thừa, cho nên bắt đầu nói từ chỗ này. Trong ba câu ấy, Văn là pháp Có, Vô Văn là Không, quy nạp lại [sẽ là] một đằng Không, một đằng Có. Thỉ Giáo nói hết thảy các pháp là Không, hoàn toàn chú trọng quan sát Thể của hết thảy các pháp, quan sát từ Lư Thể của hết thảy các pháp, nên thành lập giáo nghĩa “vạn pháp giai Không”. Do vậy nói họ “vô văn”, vạn pháp đều là Không!

      Chung Giáo là nửa sau của Đại Thừa, Thỉ Giáo là nửa đoạn đầu của Đại Thừa. Đức Phật nói đến Không là nói đến bản thể. Nửa đoạn sau là từ Thể khởi Dụng, khởi Dụng là hiện tướng, hiện tướng chính là Có. Phân chia đại lược th́ Phật giáo có hai tông là Không và Hữu. Phân chia tỉ mỉ th́ trong Không Tông có rất nhiều phân phái. Trong Hữu Tông lại có rất nhiều tông, nói nghiêm ngặt, quy nạp toàn thể lại sẽ là hai tông Không và Hữu. Không và Có là một, chẳng hai! Không là nói về Thể. Có Thể, nhất định có Tướng. Thể chẳng ĺa Tướng. Tướng nhất định có Thể, Tướng chẳng rời Thể. Do đó, Thể và Tướng là một, không hai. Nhằm khiến cho chúng ta giác ngộ, nhằm thuận tiện thuyết pháp, nên đức Phật nói Thể, nói Tướng. Nói tới Thể, chúng ta chớ nên chấp trước Thể. Nói tới Tướng, chúng ta chớ nên chấp Tướng. Quư vị chấp Tướng sẽ chẳng ngộ Thể. Quư vị chấp trước Thể, nhất định bị Tướng mê hoặc. Nói cách khác, Thể và Tướng thảy đều không hiểu rơ, chẳng cần phải chấp trước chúng, đó là hiểu rơ Thể và Tướng. Do vậy, nói Không là do Không mà ngộ Diệu Hữu; nói tới Hữu, là từ trong Hữu ngộ Chân Không. Bất luận giảng theo cách nào, cảnh giới ngộ nhập là một, không hai, là cùng một cảnh giới, lúc ấy mới gọi là “pháp môn vô nhị, vô biệt” (pháp môn chẳng hai, chẳng khác)! Tuy pháp môn muôn vàn sai khác, hễ ngộ nhập sẽ là một; có như vậy th́ mới có thể thật sự thụ dụng Phật pháp.

      “Đại Thừa Chung Giáo thị song chiếu nhị biên” (Chung Giáo của Đại Thừa chiếu soi cả hai bên), Thể và Tướng đều nói, cho nên nói là “nghe, nhưng chẳng nghe”. Ở đây, [lời Sao] giảng “Chung Giáo văn nhi bất văn” (Chung Giáo nghe nhưng chẳng nghe). Nói cách khác, đến khi ấy mới hiểu Không và Hữu là một, không hai: “Tức Hữu nhi Không, tức Không nhi Hữu” (Hữu chính là Không, Không chính là Hữu), đúng là “song chiếu nhị biên”. Trong Tâm Kinh có nói: “Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc”. Sắc là có, Sắc là tướng, tức sắc tướng. Không là Chân Không, là Thể, Thể là Không. V́ vậy, nói: “Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc. Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc”.

       “Đốn Giáo vô văn bất văn” (Đốn Giáo không có Nghe và Chẳng Nghe). “Đốn giáo thị song giá nhị biên” (Đốn Giáo ngăn che cả hai bên [Có và Không]). Chung Giáo là song chiếu, “song chiếu” là vừa Có vừa Không, cũng Có cũng Không, nói theo Tướng th́ Có! Nói theo Thể sẽ là Không. Đốn Giáo là “song giá”. Song Giá là Không lẫn Có đều chẳng có; không chỉ chẳng có Không, mà ngay cả Có cũng chẳng có. Đó là Song Giá. Đốn Giáo “vô văn diệc vô bất văn” (không có nghe mà cũng chẳng phải là không có nghe). Không Nghe và Không Chẳng Nghe, cả hai đằng đều tách ĺa. “Vô văn” (không nghe) là ngăn lấp Có, “vô bất văn” (chẳng phải là không nghe) nhằm ngăn lấp Không, đấy mới là Trung Đạo song giá nhị biên. Song Chiếu là Trung Đạo, Song Giá cũng là Trung Đạo, họ thụ dụng giống hệt như nhau, tương đồng. Phương pháp để tiến nhập khác biệt, một đằng tiến nhập bằng Song Giá, một đằng tiến nhập bằng Song Chiếu. Thật ra, sau khi đă tiến nhập sẽ tương đồng. Các giáo nghĩa thông thường đều nói như vậy.

 

      (Sớ) Ước đương tông.

       () 約當宗。

      (Sớ: Nếu xét theo tông này).

 

      Chữ “đương tông” chỉ Tịnh Độ Tông chúng ta. Cách nh́n và cách giảng chữ Văn trong tông này như thế nào?

 

      (Sớ) Tắc truyền pháp thánh nhân, dĩ ngă vô ngă bất nhị chi Chân Ngă, căn cảnh phi nhất dị chi diệu nhĩ, văn Sa Bà Cực Lạc vô chướng ngại chi pháp môn dă.

      () 則傳法聖人,以我無我不二之真我,根境非一異之妙耳,聞娑婆極樂無障礙之法門也。

      (Sớ: Bậc thánh nhân truyền pháp, lấy Ngă và Vô Ngă chẳng hai làm Chân Ngă, lấy Căn và Cảnh chẳng một, chẳng khác làm cái tai nhiệm mầu, để nghe pháp môn chẳng chướng ngại giữa Sa Bà và Cực Lạc).

 

      Đây là giải thích theo giáo nghĩa của tông này. Nên giảng câu “dĩ ngă vô ngă bất nhị chi chân ngă” như thế nào? Ngă là Có, nói theo Tướng. Vô Ngă là nói theo Thể. “Ngă vô ngă bất nhị” là Thể và Tướng chẳng hai, mà cũng là Tánh và Tướng như nhau, cũng là: Có chính là Không, Không chính là Có, chẳng phải Có, chẳng phải Không, hoàn toàn kiến lập từ Trung Đạo; nói tới ư nghĩa này! V́ sao? V́ tông của chúng ta là Đại Thừa Đốn Giáo, pháp môn này thành tựu trong một đời, bảy ngày thành tựu. Pháp môn Niệm Phật là Đốn Giáo, có thể nói các vị tổ sư đại đức các tông các phái xưa nay đều công nhận: Đây là pháp môn Đốn Giáo, viên cực, đốn cực. V́ thế, phải chọn cách nh́n của Đốn Giáo để [giảng giải chữ Văn] th́ mới là đúng.

       “Căn Cảnh phi nhất dị chi diệu nhĩ”: “Căn” là Nhĩ Căn. “Văn” sử dụng Nhĩ Căn, “Cảnh” là âm thanh. Đối tượng của Nhĩ là âm thanh. “Căn cảnh nhược nhất, tắc nhị câu thành không” (Nếu Căn và Cảnh là một, th́ hai thứ đều trở thành Không), rỗng không, cả hai thứ [Căn và Cảnh] đều chẳng thể thành lập. “Kim phi nhất, phi dị, tắc Không Hữu song khiển, tức thị Đốn Giáo song giá Trung Đạo dă” (Nay chẳng một, chẳng khác, tức là Không lẫn Hữu đều mất, chính là Trung Đạo ngăn lấp hai bên trong Đốn Giáo vậy). Chẳng thể nói là một, mà cũng chẳng thể nói là “dị” (khác). “Dị” là chẳng một. Một và Chẳng Một đều chẳng thể kiến lập, đó mới là diệu! Nói Nhất, sẽ chẳng là Dị; nói Dị sẽ chẳng là Nhất. Nay Không và Có cùng tồn tại, Không và Có chẳng hai, song giá, song chiếu, giá và chiếu đồng thời, chúng ta thường nói là “Tịch mà thường Chiếu, Chiếu mà thường Tịch”. V́ thế, cái Tai này tuyệt diệu tột bậc, sử dụng cái Tai tuyệt diệu này [để nghe]!

       “Văn Sa Bà Cực Lạc vô chướng ngại chi pháp môn” (nghe pháp môn chẳng chướng ngại nơi Sa Bà và Cực Lạc): Sa Bà là nơi chúng ta đang cư trụ; Cực Lạc là nơi chúng ta muốn đến. Tuy kinh nói hai nơi này cách nhau mười vạn ức cơi Phật, nói thật ra, Sa Bà văng sanh Cực Lạc chẳng ngăn ngại, thế giới Cực Lạc cũng chẳng ngăn ngại thế giới Sa Bà. Đó là “câu tồn” (cùng tồn tại)! Đấy là pháp môn Song Chiếu. “Sở vị cứu cánh cực quang, bất việt phàm phu nhất niệm” (Tức là nói quang minh tột bậc rốt ráo chẳng ra ngoài một niệm của phàm phu), giảng như thế nào? Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới, đương nhiên trong ấy bao gồm cả Sa Bà lẫn Cực Lạc, đúng như kinh Hoa Nghiêm đă dạy: “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”, chẳng có chướng ngại! Hiểu rơ đạo lư này sẽ thấy thấu suốt. Chỉ sau khi đă thấy thấu suốt, chúng ta mới buông xuống tất cả những nỗi ngờ vực, lo lắng. Hễ buông xuống, nhất tâm bèn hiện tiền.

      Do vậy biết: Nhất tâm bất loạn chẳng khó chứng, chẳng khó đắc! Hiện thời, chúng ta ngờ vực, lo nghĩ quá nhiều, cho nên nhất tâm chẳng thể hiện tiền. Không chỉ nhất tâm chẳng thể hiện tiền, ngay cả công phu thành phiến cũng chẳng thể hiện tiền, chuyện này rất phiền! Chẳng thể hiện tiền, tuy chúng ta niệm, nhưng công phu chẳng đắc lực. Do vậy, phải nói lắm kinh luận dường ấy, sâu ngần ấy. Nói thật ra, Lư này vốn sâu xa, nhưng sâu có thể nói thành cạn, cạn th́ cũng chỉ cạn đến một mức độ nào đó, Lư này quả thật sâu như thế. Sau khi đă hiểu rơ, nói chung, đều là một mục đích, buông xuống hết thảy các mối ngờ vực, lo lắng mà thôi! Buông hết thảy phân biệt, chấp trước, vọng tưởng xuống, sẽ thành công.

      Chúng ta thật sự có thể buông hết thảy phân biệt, chấp trước, vọng tưởng xuống, quư vị sẽ là người thượng thượng căn, từ nay trở đi, chẳng cần phải nghe kinh giáo nữa. Kinh điển [đối với người ấy sẽ] như thế nào? Giấy lộn! Một đống giấy lộn! Giảng kinh là ǵ? Nói nhăng nhít! Chẳng cần tới! Nếu trong tâm c̣n có nghi lự (ngờ vực, lo lắng), th́ vẫn cần phải có những thứ ấy (kinh điển và lời giảng kinh), v́ sao? Chúng có thể giúp chúng ta giảm bớt và tiêu trừ nghi lự, tác dụng ở chỗ này. Nói cách khác, bản thân chúng ta vẫn chưa phải là thượng thượng căn, vẫn c̣n có nghi lự, trong tâm vẫn có phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, chắc chắn chẳng phải là thượng thượng căn! Bậc thượng thượng căn phân biệt, chấp trước, vọng tưởng thảy đều xóa sạch, thảy đều chẳng c̣n. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng tôi giảng tới chỗ này!

A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa

Phần 52 hết

 



[1] Bộ kinh này do ngài Cưu Ma La Thập dịch (khác với Đại Bát Nhă Kinh sáu trăm quyển do ngài Huyền Trang dịch). Thật ra, từ ngữ Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật Kinh chỉ hai bản kinh khác nhau: Đại Phẩm Bát Nhă Kinh (hai mươi quyển) và Tiểu Phẩm Bát Nhă Kinh (mười quyển) đều do ngài La Thập dịch. Thông thường, hai bộ này luôn được in chung với nhau, nên Ḥa Thượng mới nói bộ kinh này gồm ba mươi quyển.

[2] Lưu Cầu (439-495), tự Linh Dự, là một vị ẩn sĩ đời Nam Tề, người xứ Nam Dương. Thuở trẻ, ông từng làm quan Quốc Tử Bác Sĩ, huyện lệnh, cuối cùng là quận thừa huyện Phú Dương. Ông nghiên cứu Phật pháp tinh tường, chủ trương thuyết “nhập Không tất Đốn”, soạn nhiều bản chú giải như Chú Pháp Hoa Kinh, Chú Vô Lượng Nghĩa Kinh... Ông đề xướng cách phán giáo Phật pháp gồm Đốn Tiệm nhị giáo, ngũ thời, thất giai. Ông chủ trương chỉ có kinh Hoa Nghiêm là Đốn Giáo, các kinh khác đều là Tiệm Giáo. Quan điểm Ngũ Thời của ông khá giống cách phán giáo Ngũ Thời trong tông Thiên Thai.

[3] Đạo Sanh (355-434), c̣n gọi là Trúc Đạo Sanh, là một học giả lỗi lạc về kinh Niết Bàn thời Đông Tấn. Sư quê ở Cự Lộc (nay thuộc huyện B́nh Hương, tỉnh Hà Bắc), kiều ngụ tại Bành Thành (Đồng Sơn, tỉnh Giang Tô), họ ngoài đời là Ngụy. Do tôn ngài Trúc Pháp Thải làm thầy, nên mới có đạo hiệu là Trúc Đạo Sanh. Năm mười lăm tuổi, Sư đă lên giảng ṭa, các bậc học rộng thạc đức chẳng ai có thể biện bác hơn được. Năm hai mươi tuổi, Sư thọ Cụ Túc Giới, oai danh giảng diễn vang lừng thiên hạ. Về sau, Sư lên Trường An theo học với ngài La Thập, được xếp vào hàng bốn đại môn đệ kiệt xuất của ngài La Thập. Năm Nghĩa Hy thứ năm (409), Sư chủ trương “Xiển Đề có thể thành Phật”, bị mọi người chống đối, bèn lui về ẩn cư tại Lô Sơn. Đến khi bản dịch kinh Đại Niết Bàn của ngài Đàm Vô Sấm truyền đến kinh đô Kiến Nghiệp, mọi người vô cùng khâm phục kiến giải của Sư. Sư để lại những tác phẩm nổi tiếng như Nhị Đế Luận, Phật Tánh Đương Hữu Luận, Pháp Thân Vô Sắc Luận, Phật Vô Tịnh Độ Luận, Ưng Hữu Duyên Luận, Biện Phật Tánh Nghĩa, Pháp Hoa Kinh Nghĩa Sớ v.v... Trong chú giải kinh Duy Ma của ngài Tăng Triệu và Đại Bát Niết Bàn Kinh Tập Giải của ngài Bảo Lương thường trích dẫn rất nhiều nhận định của ngài Đạo Sanh.

[4] Thiền sư Biến Dung Chân Viên là người nối pháp đời thứ ba mươi mốt của tông Lâm Tế, nối pháp thiền sư Phật Nham Chân Tế. Ngài Biến Dung quê ở Doanh Sơn, Tứ Xuyên, họ Tiền, xuất thân từ một gia đ́nh thư hương nhiều đời, thông duệ, mẫn tiệp từ bé, thích đọc sách, những ǵ đă đọc Sư chẳng hề quên. Năm ba mươi hai tuổi, chợt ngộ thế sự vô thường, Sư đi chiêm bái Nga My, gặp vị dị tăng ở động Cửu Lạp, bèn xuống tóc xuất gia. Sư tham học khắp nơi, đến kinh sư, nghe pháp sư Thông Tú giảng kinh Hoa Nghiêm đến câu “nhược nhân dục thức Phật cảnh giới, đương tịnh kỳ tâm như hư không” (nếu ai muốn biết cảnh giới Phật, hăy tịnh cái tâm dường hư không), chợt đốn ngộ. Ngày hôm sau, lên Khuông Sơn, ẩn cư trong động Mă Tổ. Người t́m về theo Ngài rất đông. Trong núi thiếu lương thực, Sư bèn đích thân đẵn cũi đem xuống trấn Cửu Giang đổi lấy lương thực châu cấp đại chúng, trải nóng lạnh suốt bảy năm ṛng ră, chẳng nề hà gian khổ, nên đạo hạnh lừng lẫy khắp vùng Giang Nam. Về sau, Sư trụ tại Đông Lâm Viện ở kinh đô, lắng ḷng đọc kinh, đại chúng kính ngưỡng, suy tôn Ngài là Di Lặc tái thế. Sư thị tịch năm tám mươi ba tuổi.

[5] Câu nói này trích từ thiên Ly Lâu Hạ trong sách Mạnh Tử. Triệu Kỳ chú giải: “Thục, thiện dă. Ngă tư thiện chi vu hiền nhân nhĩ, cái hận kỳ bất đắc học vu đại thánh nhân dă” (Thục là tốt lành, tôi mong được tốt lành như bậc hiền nhân, tiếc rằng chẳng được học với bậc đại thánh nhân). Dựa trên câu chú giải này, các nhà nghiên cứu Khổng Học cho rằng chữ “tư thục” mang ư nghĩa tiếc hận v́ không được trực tiếp nghe giảng dạy, nay cảm thấy may mắn được học và làm theo di huấn của thầy để trở thành hiền thiện như thầy.

[6] Tề Hoàn Công là một trong Ngũ Bá thời Xuân Thu, vua đời thứ mười lăm của nước Tề, tên thật là Khương Tiểu Bạch, là con trai của Tề Hy Công, em trai Tề Tương Công. Tranh giành ngôi vua với công tử Củ thành công, Tề Hoàn Công được Quản Trọng pḥ tá, áp dụng những chính sách tiến bộ, phát triển nông thương nghiệp, biến nước Tề thành một cường quốc, triệu tập các nước như Tống, Trần v.v... kết minh, chín lần triệu tập chư hầu, trở thành Minh Chủ đầu tiên của chư hầu, chinh phạt các sắc dân thiểu số ở ngoài quan ải như Sơn Nhung, Nhung Địch, đánh bại nước Sở, trở thành bá chủ Trung Nguyên. Tiếc là về già, Tề Hoàn Công trở thành hôn ám, sủng nịnh bọn xu phụ bất tài như Dịch Nha, Thụ Điêu, khiến triều chánh rối ren. Cuối đời, khi ông lâm bệnh, năm người con trai là Công Tử Vô Khuy, Công Tử Chiêu, Công Tử Phan, Công Tử Nguyên, Công Tử Thương giành ngôi, bèn xây bít cung điện của vua cha, không cho người vào thăm, khiến Tề Hoàn Công bị chết đói. Năm vị công tử lo đánh nhau giành ngôi đến nỗi xác Tề Hoàn Công bị bỏ mặc suốt sáu mươi ngày, rữa nát, gịi ḅ đầy lên cửa sổ.