A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa
阿彌陀經疏鈔演義
Phần 53
Chủ giảng:
Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt:
Minh Tiến, Huệ Trang và Đức Phong
Tập 105
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ
Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang thứ hai trăm lẻ
ba.
(Sao)
Phế Biệt tùng Tổng giả, dĩ bất vân “nhĩ
văn”, nhi vân “ngă văn”. Lương diêu Ngă tắc thống
thâu chư căn thức đẳng, dĩ Tổng cai Biệt,
cố vân “ngă văn”.
(鈔) 廢別從總者,以不云耳聞,而云我聞。良繇我則統收諸根識等,以總該別,故云我聞。
(Sao: “Phế Biệt, theo Tổng”:
Do chẳng nói “tai nghe” mà nói “ta nghe”, ấy là v́ Ngă bao gồm
các Căn, Thức v.v... nên dùng Tổng để bao gồm
Biệt. V́ thế, nói “ta nghe”).
Ư
nghĩa của đoạn này rất rơ ràng. Chúng ta nói “mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân” là những bộ phận trên
thân thể chúng ta, nói Ngă th́ toàn bộ các bộ phận nhiều
như vậy đều được bao gồm. V́ thế,
chẳng nói là “nhĩ văn”
mà nói là “ngă văn”.
(Sao)
Thỉ Giáo đẳng giả.
(鈔) 始教等者。
(Sao:
Thỉ Giáo v.v...)
Đây là giải
thích [các ư nghĩa về Ngă] theo Thỉ Giáo, Chung Giáo, và
Đốn Giáo trong Đại Thừa.
(Sao)
Nhược vân ngă kư vô ngă, văn diệc vô văn, thị Đại
Thừa sơ môn, Thỉ Giáo ư dă.
(鈔) 若云我既無我,聞亦無聞,是大乘初門,始教意也。
(Sao: Nếu nói “ngă đă là vô
ngă, có nghe cũng như không nghe”, th́ đó là ư nghĩa trong
Thỉ Giáo, tức là bước đầu của Đại
Thừa vậy).
Câu này nói
về giáo nghĩa trong Thỉ Giáo. Đại Thừa Thỉ
Giáo giảng về Không, hoàn toàn nói theo thể tánh. Nếu
dùng thuật ngữ triết học hiện đại
để nói th́ Thỉ Giáo giảng về bản thể của
vạn hữu trong vũ trụ. Bản thể là không tịch;
do vậy, hết thảy hiện tượng đều
là pháp được sanh bởi nhân duyên. Phàm là “nhân duyên sanh pháp” (pháp sanh bởi
nhân duyên) sẽ chẳng có tự tánh, chẳng có tự thể.
V́ thế, Ngă quả thật là chẳng thể được
(bất khả đắc). Đă chẳng có Ngă th́ ai nghe? Đương
nhiên cũng chẳng có ai nghe. Đối với Không Tông của
Tiểu Thừa và Bát Nhă của Đại Thừa, đều
có thể nói là “hết thảy
các pháp đều Không”, như thường nói: “Phật diệc vô thuyết, ngă
diệc vô văn” (Phật cũng chẳng nói, ta cũng
chẳng nghe), đó gọi là “chân
văn”. Ư nghĩa này khá sâu, nhất là tông Bát Nhă trong
Đại Thừa, [kinh điển thuộc] hệ thống
Bát Nhă quả thật khá sâu!
Đọc
Kim Cang Kinh Giảng Nghĩa, chúng ta thấy cư sĩ Giang
Vị Nông đă nói rất rơ ràng: Trong thời đại
Đường - Tống, rất ít người muốn giảng
kinh Kim Cang, do nguyên nhân nào? Chỉ sợ người ta nghe
xong nẩy sanh hiểu lầm, đọa vào Ác Thủ Không
(sai lầm do chấp trước lư Không, phủ nhận mọi
sự tướng, phế bỏ tu hành) sẽ phiền
toái to lớn. V́ thế, trong kinh thường nói: “Ninh khả chấp Hữu như
Tu Di sơn, bất khả chấp Không như giới tử”
(Thà chấp Có như núi Tu Di, chẳng chấp Không chừng
bằng hạt cải). Đó là nói quư vị chấp
trước Có, người ấy có thể cứu, Có là
như thế nào? Có nhân, có quả, tối thiểu quư vị
chẳng dám làm chuyện xấu, sẽ làm việc thiện,
thiện có thiện báo, ác có ác báo, c̣n cứu được!
Nếu chấp trước Không, điều ǵ cũng đều
là Không, chuyện xấu ǵ kẻ ấy cũng dám làm, v́ sau
khi làm đâu có ǵ, rỗng không mà! Không xong rồi, rất
nhiều tệ nạn! V́ thế, cổ nhân cũng chẳng
muốn giảng kinh luận Bát Nhă do sợ người nghe
nếu chẳng hiểu rơ ư nghĩa thật sự, sẽ
thường nẩy sanh hiểu lầm.
Gần
đây, người bàn luận Bát Nhă (giảng Không) rất
nhiều, nói rất huyền, rất diệu, nói đến
nỗi hoa trời rơi loạn xạ, thật ra, kẻ ấy
có Không hay chăng? Tôi thấy kẻ ấy chẳng Không! V́
sao? Kẻ ấy rất coi trọng danh lợi, rất so
đo, có thể thấy kẻ ấy chẳng Không, miệng
nói Không, trong tâm chẳng Không. Kẻ ấy nói Không, chắc
chắn chẳng phải là nghĩa Không trong tam thừa, v́
sao? Nếu chính ḿnh chẳng nhập cảnh giới ấy,
những ǵ quư vị nói đều chẳng thật, giả
trất! Chính ḿnh ắt phải khế nhập cảnh giới
ấy, thật sự thấu hiểu; sau đó, quư vị
nói ra, ư vị sẽ khác hẳn. Hiện thời có rất
nhiều kẻ nói Không, đàm huyền thuyết diệu đều
là trên mặt văn tự, phần lớn là đọc mấy
cuốn sách, miệng nói thao thao như nước chảy;
nếu quư vị thật sự hỏi kẻ ấy mấy
câu, hắn cũng chẳng thể đáp được! Chúng
ta phải hiểu điều này!
Cư sĩ
Giang Vị Nông đổ công sức bốn mươi năm
nơi kinh Bát Nhă rất đáng giá, quả thật, ông ta có
thể thấu hiểu [Bát Nhă] đôi chút. Tuy có thể thấu
hiểu đôi chút, ông ta vẫn chuyên tu Tịnh Độ, cầu
nguyện văng sanh, đó nghĩa là ǵ? Thưa quư vị, đấy
là thật sự hiểu được nghĩa Không. Nói
cách khác, kẻ chủ trương “hết thảy đều là Không, vạn pháp đều
là Không, trong ngoài đều Không”, hủy báng Tịnh
Độ, chẳng muốn cầu sanh Tịnh Độ, thật
sự chẳng hiểu nghĩa Không! Mă Minh Bồ Tát, Long Thọ
Bồ Tát đều là tổ sư Không Tông, nhưng những
vị ấy đều phát nguyện niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ. Tám tông phái của Đại Thừa
Trung Quốc đều do ngài Long Thọ truyền dạy.
V́ thế, ngài Long Thọ là tổ sư chung của cả
tám tông, là tổ sư khai tông của tám tông phái Đại
Thừa, nhưng Ngài là một người cầu sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới. Do vậy, ta biết:
Không có tông nào chẳng quy về Tịnh Độ, cuối
cùng đều là chỉ quy Tịnh Độ. Chúng ta phải
nên nhận biết chuyện này!
(Sao)
Nhược vân tùng duyên cố Không, bất hoại giả
danh, tức bất văn nhi văn, văn nhi bất
văn, Chung Giáo ư dă.
(鈔) 若云從緣故空,不壞假名,即不聞而聞,聞而不聞,終教意也。
(Sao: Nếu nói do các duyên nên là
Không, chẳng hoại giả danh, tức là “chẳng nghe mà
nghe, nghe nhưng chẳng nghe” sẽ là ư nghĩa trong Chung
Giáo).
Chung Giáo
là giai đoạn cuối cùng của Đại Thừa, đến
lúc ấy, chú trọng giảng về hiện tượng,
tức là nói về Tướng. Bởi lẽ, Thỉ Giáo giảng
về Thể. Thể là rỗng không, nhưng Thể có tướng,
tướng là Có, tướng chẳng Không! Nhưng quư vị
cũng chớ nên chấp trước tướng Có ấy
là thật sự có! Nó đúng là có, nhưng chẳng phải
là thật sự có. Nói thật ra, Phật pháp giảng về
chân và vọng bằng một định nghĩa rất đơn
giản, rất dễ hiểu! Phàm là “chân”, chắc chắn
sẽ chẳng biến đổi, mà vĩnh viễn
thường trụ, Phật pháp gọi nó là Chân. Nếu nó
thường thay đổi, Phật pháp gọi nó là Giả,
là giả tướng, chẳng phải là chân tướng.
Chúng ta nghĩ xem có tướng nào vĩnh viễn không biến
đổi? T́m không ra! Động vật có sanh, lăo, bệnh,
tử, tức là chúng biến đổi trong từng sát-na.
Thực vật có sanh, trụ, dị, diệt, cũng biến
đổi trong từng sát-na. Khoáng vật thành, trụ, hoại,
không, biển xanh, ruộng dâu, vẫn là biến đổi!
Nói cách khác, quư vị t́m không được thứ ǵ vĩnh
hằng chẳng thay đổi. Do vậy, đức Phật
bảo chúng ta: “Phàm những ǵ
có h́nh tướng đều là hư vọng”. Những
tướng ấy đều là pháp sanh diệt, chẳng
phải là thường trụ. Nói cách khác, duyên sanh, duyên diệt,
là pháp được sanh bởi nhân duyên. Do nhân duyên sanh, điều
này vô cùng rơ rệt, có thể nh́n thấy được.
Tướng là Có, cái Có ấy là tạm thời có. Thí dụ
như trong cơi này, một người sống tới tám chín
mươi tuổi; trong tám chín mươi năm đó, người
ấy tồn tại, nhưng trước đó chẳng có,
mà sau đó cũng chẳng có!
Chiều
thứ Bảy hôm trước, tôi ở đại y viện
Đài Loan, trong bệnh viện có hội Niệm Phật,
rất khó có, mời tôi đến giảng diễn. Tôi thấy
vậy, rất cảm động. Những bác sĩ và y tá
hướng dẫn một số bệnh nhân niệm Phật,
niệm rất khẩn thiết, rất khó có! V́ họ hằng
ngày thấy kẻ này đi, người khác tới, thấy
hiện tượng đó, nên họ cảm nhận khác hẳn
chúng ta: Các bệnh nhân đang bệnh khổ. Các đồng
tu bên kia (bên Mỹ) bảo tôi: Vợ cư sĩ Châu Tuyên Đức
ở
Tướng
ấy là giả có, trong Phật pháp c̣n gọi là Diệu Hữu.
“Diệu” là nó chẳng phải
là thật; tuy chẳng thật, nhưng nó có, chẳng thể
nói nó không có. Thể là Không, tướng là giả, tướng
có. Tâm Kinh nói: “Sắc bất dị
Không, Không bất dị Sắc”. Không là nói về Thể,
nói tới bản thể; Sắc là nói về hiện tượng,
Thể và hiện tượng là một. Nói cách khác, Thể
là Không, Tướng cũng là Không, điều này cho chúng ta
thấy: Thể lẫn Tướng đều chẳng thể
chấp; hễ chấp trước th́ thứ ǵ cũng là
sai lầm! Ở đây nói: “Duyên
sanh cố không” (do các duyên sanh ra nên là Không) là nói về Tướng,
nói theo phương diện Tướng.
“Bất hoại giả danh”: Giả
danh chẳng hoại, đương nhiên giả tướng
càng chẳng phá hoại. V́ thế, “Phật pháp trên thế gian, chẳng hoại tướng
thế gian. Phật pháp trên thế gian, chẳng ĺa pháp thế
gian”. Người thật sự tu hành, đạo tràng ở
trong tâm, chẳng ở nơi h́nh tướng bên ngoài. Đạo
tràng ở trong ḷng, lục căn tiếp xúc lục trần
cảnh giới thảy đều là “tu hành”. Nói theo thực
tế, bất luận tông phái nào, phương pháp tu hành cao
cấp đều vốn là như vậy. Cuộc sống
là Phật pháp, Phật pháp là cuộc sống, Phật pháp và
cuộc sống của chúng ta hoàn toàn dung hợp thành một
thể. Kinh Hoa Nghiêm giảng rơ nghĩa thú này. V́ thế,
kinh Hoa Nghiêm vô cùng thích hợp với con người hiện
thời, nhất là phương Tây tư tưởng cởi
mở, cuộc sống tự do, hoàn toàn tương ứng
với cảnh giới Hoa Nghiêm, chỉ cần quư vị thật
sự hiểu rơ ràng, chắc chắn người ấy sẽ
đạt được sự hưởng thụ tối
cao trong cuộc sống. Chẳng giống như Tiểu Thừa
và Quyền Giáo chấp vào h́nh tướng, có nghi thức nhất
định, có nghi quy nhất định, cuộc sống
của Thỉ Giáo Đại Thừa Bồ Tát là tu tŕ. V́
thế, chẳng hoại giả danh, chẳng hoại giả
tướng, chẳng hoại pháp thế gian; đấy là
“chẳng nghe mà nghe, nghe nhưng
không nghe”. Cớ sao nói “chẳng
nghe”? Nói theo Lư, sẽ chẳng có nghe. Nói theo Lư, Thể là
Không, Tướng là giả, lấy đâu ra nghe? Nhưng nói
theo Sự th́ có nghe, có Lư, có Sự! V́ vậy, “chẳng nghe mà nghe, nghe nhưng
không nghe”. Lư Sự viên dung, Lư Sự chẳng trở ngại,
Lư Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại, đấy mới
là viên cực, diệu cực! Đó là giáo nghĩa của Đại
Thừa Chung Giáo.
(Sao)
Nhược vân năng sở song tịch, vô văn bất
văn, ly niệm đốn hiển, Đốn Giáo ư dă.
(鈔) 若云能所雙寂,無聞不聞,離念頓顯,頓教意也。
(Sao: Nếu nói Năng và Sở
cùng vắng lặng, chẳng có Nghe và Không Nghe, ĺa niệm,
mau chóng hiện rơ, đó là ư nghĩa trong Đốn Giáo).
Đây là
ư nghĩa “vạn pháp duyên sanh”
(vạn pháp do các duyên sanh ra). V́ duyên sanh nên chúng chẳng có tự
tánh. Do đó, hiển lộ hết thảy các pháp cũng
là Không. Duyên sanh tỏ rơ [các pháp] vô tự tánh, duyên sanh là
Năng Hiển, vô tự tánh là Sở Hiển. “Năng Sở song tịch” là
hai bên đều tách ĺa. Nghe và Chẳng Nghe là hai bên; do vậy,
nói Chẳng Nghe cũng là “Chẳng Không Nghe”. Chữ Vô ấy
bao trùm những điều sau đó. “Vô văn, vô bất văn” (không nghe, chẳng phải
là không nghe) là rời khỏi hai bên. “Ly niệm đốn hiển”: Ly niệm là chân tâm,
chân tâm ly niệm, ở đây, chúng ta gọi [chân tâm] là “nhất tâm”, tức là Lư nhất
tâm bất loạn, nhất tâm bèn hiện tiền. Đó là
cảnh giới rất cao, chúng ta thường gọi là “nhất niệm bất sanh”, Lục
Tổ nói “vốn chẳng có một
vật” là nói đến cảnh giới ấy. Người
Đại Thừa viên đốn tu ǵ trong cuộc sống?
Tu điều này, tu “nhất niệm
bất sanh” trong xử sự, đăi người, tiếp
vật. Nhất niệm bất sanh là Thiền Định
rất sâu, họ tu điều ấy. Chuyện bên ngoài hiểu
rơ ràng, rành rẽ, đó là Tu Huệ, giữ cho Định
Huệ cân bằng.
Từ
xưa tới nay, các vị đại đức đều
thừa nhận kinh Di Đà là pháp môn viên đốn, quư vị
hiểu: Nói thật ra, người niệm Phật là tu Phật
pháp cao cấp nhất, trong bất luận cảnh giới
nào chỉ quan tâm một câu A Di Đà Phật, hết thảy
những vọng tưởng, tạp niệm khác thảy đều
buông xuống, đó là Đốn! Nghe và Chẳng Nghe là hai bên,
hai bên đều buông xuống, trong tâm chỉ giữ một
câu Phật hiệu. Hết thảy buông xuống là Song Tịch;
chỉ giữ một câu Phật hiệu là Song Chiếu, Tịch
- Chiếu đồng thời. V́ thế, sức mạnh ấy
chẳng thể nghĩ bàn. Nay chúng ta công phu niệm Phật
chẳng đắc lực, tuyệt đối chẳng phải
v́ pháp môn không hay, mà v́ bản thân chúng ta chẳng thể nương
theo pháp môn này để tu học, lỗi lầm ở nơi
chính ḿnh, chẳng do kinh điển, chẳng do Phật, Bồ
Tát! Rốt cuộc lỗi lầm ở chỗ nào? Do chúng
ta chưa thể buông tham, sân, si, mạn xuống, chưa thể
buông thị phi, nhân ngă xuống, chướng ngại ở
chỗ này. Nếu thị phi, nhân ngă, tham, sân, si, mạn thảy
đều buông xuống, há công phu chẳng đắc lực
ư? Thị phi, nhân ngă là duyên bên ngoài, tham, sân, si, mạn là
duyên bên trong, đều là giả, đều chẳng thật,
v́ sao? Thảy đều là “duyên
sanh pháp”, tức pháp sanh bởi các nhân duyên, bản thể
của chúng là Không. Chúng ta mê nơi những hiện tượng
hư huyễn ấy, giống như nằm mộng mà chẳng
biết chính ḿnh đang nằm mộng, coi mộng là thật,
hỏng bét ở chỗ này. Do vậy, công phu chẳng đắc
lực.
“Vô” và “ly” đều có nghĩa là Bỏ. Nếu chúng ta có
thể buông những thứ ấy xuống, tâm chúng ta lập
tức thanh tịnh. Tâm thanh tịnh là chân tâm, là bổn tánh
của chúng ta, là Lư nhất tâm bất loạn như kinh này
đă nói. Đó là ư nghĩa Đốn Giáo, tương ứng
với kinh này.
(Sao)
Ngă vô ngă giả, sanh nhi bất sanh, bất sanh nhi sanh, tức
Pháp Thân cố. Căn cảnh giả, văn thuyết A Di
Đà Phật, năng văn, sở văn, phi nhất dị
cố. Sa Bà, Cực Lạc giả, sở vị Sa Bà y chánh,
toàn xử Cực Lạc chi tự tâm cố. Dĩ thử
kinh phần nhiếp ư Viên, ưng quy Pháp Tánh cố.
(鈔) 我無我者,生而不生,不生而生,即法身故。根境者,聞說阿彌陀佛,能聞所聞,非一異故。娑婆極樂者,所謂娑婆依正,全處極樂之自心故。以此經分攝於圓,應歸法性故。
(Sao: “Ngă, vô ngă”: Sanh mà chẳng
sanh, chẳng sanh nhưng sanh, tức là Pháp Thân. “Căn, cảnh”:
Nghe nói A Di Đà Phật, chủ thể nghe và đối
tượng được nghe đều chẳng phải
là một hay khác. “Sa Bà, Cực Lạc” ư nói: Y báo và chánh báo
cơi Sa Bà hoàn toàn thuộc trong Cực Lạc nơi tự
tâm. Do kinh này thuộc về Viên một phần, nên phải
thuộc về Pháp Tánh).
Đây là
nói đến “ngă, vô ngă”, đại
sư giải thích: Sanh mà chẳng sanh, chẳng sanh nhưng
sanh. Sanh là Có, sanh là Ngă; cũng có thể nói Sanh là phàm phu, v́ phàm
phu chấp trước Sanh. Vô Sanh là A La Hán, Tiểu Thừa.
Tiểu Thừa vô ngă, do đă đoạn Ngă Chấp. A La
Hán tuyệt đối chẳng c̣n chấp trước thân
này là ta, v́ Ngài đă thật sự hiểu rơ chân tướng
sự thật, không có Ngă Chấp, nhưng hăy c̣n Pháp Chấp.
[Những lời giảng] ở chỗ này nhằm dạy
chúng ta: Ngay cả Pháp Chấp cũng phải phá trừ, “sanh nhưng chẳng sanh, chẳng
sanh mà sanh, chính là Pháp Thân”. Sanh và chẳng sanh là một,
chẳng hai, v́ sao có phàm phu và Nhị Thừa? V́ họ chấp
trước, một đằng là chấp trước sanh
nên gọi là phàm phu, kẻ chấp trước bất sanh gọi
là A La Hán. Nói cách khác, một đằng chấp trước
hiện tượng, tướng là có, chấp trước
Có; một đằng chấp trước tánh Không, Thể
chẳng có, họ chấp trước Không. Giống như
trong triết học hiện thời, một đằng chấp
trước bản thể, một đằng chấp
trước hiện tượng. Chúng ta gọi kẻ chấp
trước hiện tượng là phàm phu, họ có Ngă. Kẻ
chấp trước bản thể, vô ngă, chấp trước
Không. Hai bên đều trật, phàm phu chúng ta sai lầm, nhưng
người Nhị Thừa cũng chưa hề đúng, vẫn
là sai lầm! Trong kinh Đại Thừa, đức Phật
đă quở trách A La Hán, Bích Chi Phật, gọi họ là “tiêu nha bại chủng” (giống
mầm hư bại), đọa trong hầm sâu Niết Bàn
là do ư nghĩa này!
Bồ
Tát thông minh, chẳng chấp trước hai bên. V́ sao hai bên
cũng chẳng chấp trước? Các Ngài hiểu đó
là cùng một chuyện. Thể là Thể của Tướng,
chẳng phải là ngoài Tướng có một Thể, chẳng
phải vậy! Tướng là Tướng của Thể,
chẳng phải là ngoài Thể có Tướng, giống như
cổ nhân đă sánh ví: “Dĩ
kim tác khí, khí khí giai kim” (dùng vàng làm đồ vật, món
nào cũng là vàng). Vàng ở chỗ nào? Các món đồ là vàng,
vàng là đồ vật. Ngoài các món đồ, há có vàng? Ngoài
vàng, há có các món đồ? Vàng và các món đồ là một, chẳng
hai. Do vậy, sanh và bất sanh là một, chẳng hai, hai bên
cũng chẳng chấp trước. Đấy là Pháp Thân,
ư nghĩa Pháp Thân bèn hiện tiền! Pháp Thân là chân ngă.
“Căn
cảnh giả, văn thuyết A Di Đà Phật” (“Căn,
cảnh”: Nghe nói A Di Đà Phật), “năng văn” (chủ thể nghe, cái có thể
nghe) là Căn, A Di Đà Phật được nghe (sở
văn) là cảnh giới. Quư vị nói xem: Rốt cuộc Năng
Văn và Sở Văn là một, hay là hai? Căn thân và cảnh
giới rơ rệt, đương nhiên chẳng phải là một;
v́ thế nói là “phi nhất”;
nhưng Căn và Trần đều từ trong Chân Như bổn
tánh biến hiện, v́ thế nói là “phi dị”. Dùng Duy Thức để giảng th́ Căn
là Kiến Phần của A Lại Da Thức; cảnh giới
bên ngoài, tức Trần, là Tướng Phần của A Lại
Da. Kiến Phần và Tướng Phần do cùng một Tự
Chứng Phần biến hiện. V́ thế, Tánh và Tướng
cùng nguồn.
Khoa học hiện đại
chưa phát triển đến tŕnh độ này, hiện
thời, họ đă biết vật chất bất diệt,
biết năng lượng và vật chất có thể chuyển
biến thành lẫn nhau. Khoa học hiện tại hiểu
đạo lư này: “Có thể biến vật chất thành năng
lượng”, bom nguyên tử được phát minh dựa
trên đạo lư này. Nhưng hiện tại họ vẫn
chưa biết làm thế nào để biến năng lượng
thành vật chất, khoa học gia vẫn chưa biết.
Nếu biết điều ấy, sẽ thụ dụng tự
tại! Đúng là chúng ta muốn ǵ bèn có thể biến hiện
thứ ấy, v́ tất cả hết thảy vật chất
đều do năng lượng biến hiện. Hiện
tại vẫn chưa biết cách biến! Thể chất
và năng lượng của vật chất được
Phật pháp gọi là Trần, vật chất và năng lượng
của Lục Trần; nhưng c̣n có một bộ phận
sợ rằng khoa học cho đến hiện thời vẫn
chưa t́m ra; đó là hiện tượng tâm lư, tâm năng
(năng lực của tâm), họ chẳng hiểu tâm năng
và vật chất là tương đồng, là một, chẳng
hai, chúng có cùng nguồn. Chính v́ cùng nguồn, nên tới khi quư
vị không có chướng ngại, sẽ biến hóa tự
tại. Như trong Tây Du Kư viết Tôn Ngộ Không có bảy
mươi hai phép biến hóa, đó là “tiểu vu” (phù thủy oắt con), quá nhỏ bé! Đến
khi quư vị chẳng có chướng ngại, thần thông
sẽ rộng lớn chẳng thể nghĩ bàn! Quư vị
có thể biến hóa tam thiên đại thiên thế giới,
chắc chắn sẽ có thể! V́ sao? Tam thiên đại
thiên thế giới cũng do tâm năng của chúng ta biến
hiện!
V́ thế,
nh́n từ căn nguyên, chúng tương đồng, chẳng
phải là hai thứ, chẳng khác biệt! Nh́n từ hiện
tượng trước mắt, chúng không đồng nhất,
chẳng phải là một; nhưng nh́n từ căn bản,
cội nguồn, chúng lại chẳng phải là hai! V́ thế,
nói “phi nhất, phi dị”, Lư
này vô cùng sâu xa! Nhưng chúng ta có thể hiểu được
th́ sau khi hiểu sẽ nhập cảnh giới ấy. Nhập
cảnh giới ấy, chân tướng sự thật được
tỏ bày; nói cách khác, bản năng hiện tiền. Trong Phật
pháp, nói đến tu hành th́ v́ sao một gă phàm phu có thể
thành La Hán? Thành Bồ Tát? Thành Phật? Tất cả hết
thảy nguyên lư tu hành căn cứ trên đâu? Căn cứ
trên đạo lư này! Do vậy ta biết: Nói tới “tu hành”
th́ chắc chắn chẳng phải là tu trí huệ, hay tu thần
thông, đạo lực, chẳng phải vậy, v́ trí huệ,
thần thông, đạo lực vốn sẵn đủ, rốt
cuộc là tu ǵ vậy? Tu sửa mê hoặc, điên đảo;
trí huệ, thần thông, đạo lực vốn có của
chúng ta bị mê, chẳng biết, nay quư vị trừ khử
mê, khôi phục bản năng (năng lực sẵn có), tu
là tu những điều ấy!
Ngàn muôn
phần đừng lầm lẫn, ngỡ ngoài bổn tánh
của chúng ta c̣n có trí huệ, thần thông, [tưởng như
vậy] là lầm mất rồi, biến thành ngoại
đạo! V́ thế, phải hiểu ngoài tâm không có hết
thảy các pháp, phải hướng vào trong tự tánh để
cầu hết thảy các pháp. Do đó, Phật pháp gọi
là “nội học”, cầu pháp ngoài tâm gọi là ngoại
đạo. Nay chúng ta niệm Phật cầu sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới, Tây Phương
Cực Lạc thế giới ở nơi đâu? Do tự
tâm của chúng ta biến hiện! Quư vị phải hiểu
rơ đạo lư này. Nay chúng ta dùng một câu Phật hiệu
để khai phát tự tánh. Nếu quư vị nghĩ ngoài cái
tâm này có một Tây Phương Cực Lạc thế giới,
ngoài tâm có A Di Đà Phật, Ngài có thể đến giúp chúng
ta, vậy là quư vị đă biến thành ngoại đạo,
niệm Phật mà niệm đến nỗi trở thành ngoại
đạo! Ở đây, [đại sư] nói với chúng
ta nhiều như thế nhằm dạy chúng ta hiểu rơ
chân tướng sự thật.
“Sa Bà y chánh, toàn xử Cực Lạc
chi tự tâm” (y báo và chánh báo của cơi Sa Bà hoàn toàn thuộc
trong Cực Lạc nơi tự tâm). Thế giới Sa Bà là
hoàn cảnh cư trụ hiện tại của chúng ta. Mấy
năm nay, tôi thường ra ngoại quốc, đối với
sự học Phật của bản thân tôi rất hữu ích,
tôi ngộ hiểu sâu xa, ngộ ǵ vậy? Mỗi ngày đều
làm khách! Có nhà hay chăng? Trở về Đài Loan, ở lâu
nhất là hai tháng. V́ thế, trong quan niệm của tôi, thế
giới này là lữ quán, mỗi ngày đều lữ hành. Lại
suy nghĩ: Cả đời này, chúng ta lữ hành mỗi ngày,
cho nên chẳng chấp trước bất cứ nơi nào,
v́ sao? Ở hai ngày lại phải đi, đối với
con người lẫn sự việc đều rất lợt
lạt. Lại suy nghĩ: Nếu chúng ta chẳng sanh Tịnh
Độ, th́ vẫn là lữ hành trong lục đạo. Hôm
nay ở nhân đạo, ngày mai trong súc sanh đạo, ngày mốt
tới địa ngục đạo; lữ hành trong sáu nơi
của lục đạo, chuyển qua, chuyển lại!
Sau khi văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới
th́ sao? Vẫn lữ hành. Tới đó thành Phật, tới
mười phương thế giới hóa độ chúng
sanh. Nơi nào có duyên bèn đến đó, duyên hết lại
ra đi. Chân tướng của đời người là
như thế. V́ thế, đối với mỗi nơi nào,
người nào, những thứ chấp trước sẽ
tự nhiên phai nhạt.
Phai nhạt
sẽ có lợi là Ái Biệt Ly (yêu thương mà phải
chia ĺa), Oán Tăng Hội Khổ (oán ghét mà phải gặp
gỡ) chẳng có! Chẳng lưu luyến, tôi tới chỗ
nào, người ta hoan nghênh, gặp mặt vui vẻ, rời
khỏi nơi ấy, quên sạch sành sanh! Tôi chẳng viết
cho ai một lá thư nào, chẳng thể mở ra lệ ấy.
V́ viết thư, người ta sẽ nói: “Pháp sư viết
thư cho người khác, chẳng viết thư cho tôi”. Rất
phiền! Thảy đều chẳng viết, mọi người
nhất loạt b́nh đẳng. Đó là tốt nhất! Quư
vị cũng chẳng cần nghĩ tới tôi, tôi cũng
chẳng nhớ tới quư vị, sạch làu! Đi đến
[một nơi nào đó], tôi sẽ gởi thông cáo, tôi gởi
thông cáo bằng cách nào? Tôi đem vé máy bay photocopy ra mấy tấm,
đem bản sao gởi cho họ. Họ sẽ biết khi
nào tôi tới là được rồi, một chữ tôi cũng
chẳng cần phải viết, thuận tiện nhất!
V́ thế, thứ ǵ cũng lợt lạt, thật thà niệm
một câu Phật hiệu A Di Đà Phật, chắc chắn
có thụ dụng!
Quá khứ,
ở ngoại quốc, tôi cũng đă từng nói với quư
vị. Tôi nghĩ ra một phương pháp niệm Phật,
tôi cảm thấy rất hữu dụng. Hiện thời,
các đồng tu ngoại quốc cũng rất vui vẻ
hoan nghênh. Tôi ngỡ là tôi phát minh ra, nhưng tối hôm qua,
xem sách cũ, giở đến phần [Những
Khai Thị Trong] Phật Thất [của Hành Sách đại
sư], th́ ra trong niên hiệu Khang Hy nhà Thanh, Ngài cũng
đă làm theo cách như thế! Hóa ra, cái tôi nghĩ là kiểu
mới vẫn là thứ cũ, nhưng phương pháp cũ
ấy hiện thời không ai đề xướng, không
ai áp dụng phương pháp ấy. Tôi vừa trông thấy
hết sức vui vẻ, nghiễm nhiên cổ nhân cũng
dùng phương pháp này, phương pháp ấy, quả thật
là tốt đẹp, đáng nên đề xướng. Nhưng
hiện thời đạo tràng này của chúng ta quá nhỏ,
nếu giảng đường của chúng ta to gấp đôi
như thế sẽ có thể áp dụng: Một khu để
nhiễu Phật, một khu chỉ tĩnh, một khu lạy
Phật, chia thành ba khu.
Cổ
nhân dùng ba ban. Khi niệm th́ cứ một ngàn câu niệm Phật
luân lưu theo thứ tự thuận, tức là khi nhiễu
Phật phải niệm một ngàn câu Phật hiệu, niệm
xong một ngàn câu Phật hiệu, quư vị bèn chỉ
tĩnh (止靜)[1].
Ban thứ hai ra khỏi chỗ, đi nhiễu Phật, ban
thứ nhất và thứ ba chỉ tĩnh; ban thứ hai đi
nhiễu, niệm Phật một ngàn tiếng xong, cũng
chỉ tĩnh, ban thứ ba đi nhiễu Phật. Cách nghĩ
của vị ấy hoàn toàn giống như cách tôi nghĩ:
Hễ vào Niệm Phật Đường bèn thôi tṛ chuyện,
chỉ niệm Phật, không nói năng. Chẳng tụng
kinh, cũng chẳng có xướng tán, [mọi nghi thức
khác] đều không có, chỉ khởi đầu cây hương
thứ nhất [trong ngày đầu tiên] là có. Sau đấy,
suốt bảy ngày trong Phật Thất đều chẳng
có. Pháp khí chỉ có một cái dẫn khánh và một cái mơ nhỏ,
chỉ dùng hai thứ ấy. Tương lai, chúng ta in Phật
Thất Nghi Quy, chúng ta sẽ đề xướng cách làm
này. Nghi quy rất đơn giản, rất thực dụng,
v́ sao? Khi mọi người cùng nhau niệm Phật, sẽ
chẳng cảm thấy có áp lực. Quư vị niệm ra tiếng
một ngàn câu, khi chỉ tĩnh lắng nghe hai ngàn câu, sau đấy,
lại xoay ṿng đến quư vị, ba ban mà! Nghe niệm hai
ngàn câu, chỉ tĩnh, dốc toàn bộ tinh thần lắng
nghe. Nếu có lúc quư vị cảm thấy hôn trầm, bèn niệm
thầm, hay Kim Cang tŕ, miệng chẳng niệm ra tiếng,
chớ để chính ḿnh hôn trầm, dùng phương pháp
này.
Chữ “Sa Bà” chỉ thế giới hiện
tại của chúng ta. “Toàn xử
Cực Lạc chi tự tâm”, tự tâm là pháp giới, ở
đây nói là tự tâm, kẻ b́nh phàm chúng ta thấy chữ
này bèn hiểu sai ư nghĩa, tâm là ǵ? Nay ta suốt ngày từ
sáng đến tối suy nghĩ lung tung, gọi đó là tâm!
Chẳng phải vậy! Cái tâm ta suốt ngày từ sáng đến
tối suy nghĩ lung tung chẳng phải là tự tâm, mà là
vọng tâm. Tự tâm là cái tâm chính quư vị vốn có, nhà
Thiền gọi nó là “phụ mẫu
vị sanh tiền bổn lai diện mục” (diện mạo
vốn có trước khi được cha mẹ sanh ra), đó
là tâm. Trong kinh Lăng Nghiêm, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo ngài A
Nan đi t́m tâm, [tức là t́m] cái tâm này, đó là chân tâm. Chúng
ta có một bức tranh để kết duyên gọi là Thập
Pháp Giới Đồ, chính giữa [bức tranh] là Tâm, vạn
pháp duy tâm, đó gọi là “duy
tâm sở hiện, duy thức sở biến”, đấy
là chân tâm của chúng ta. Thế
giới Sa Bà do tâm chúng ta biến, thế giới Cực Lạc
cũng do tâm chúng ta biến. Tâm năng biến là một, thế
giới được biến là hai! Thật ra, không chỉ
là hai, mà vô lượng vô biên hằng sa thế giới không
ra ngoài nhất tâm. Do vậy, kinh Hoa Nghiêm nói tới Nhất
Chân pháp giới, Nhất Chân pháp giới là ǵ? Tự tâm là Nhất
Chân pháp giới. Mê tự tâm, con người thường
coi cảnh giới bên ngoài là pháp giới, nên mới có mười
pháp giới. Thật ra, pháp giới chẳng phải chỉ
có mười, “mười” là biểu thị pháp, biểu thị
ư nghĩa vô tận. V́ số đếm từ một đến
mười, lại tính từ đầu, từ mười
một đến hai mươi, từ hai mươi mốt
tới ba mươi, [cho nên “mười”] biểu thị ư
nghĩa vô tận. Sau khi mê, pháp giới là vô cùng vô tận.
Sau khi giác ngộ, pháp giới là một, ở đây nói là “phi nhất, phi dị”, tức
là Nhất Chân pháp giới. V́ thế, nói “Sa Bà y chánh, toàn xử Cực Lạc chi tự tâm” (y
báo và chánh báo của cơi Sa Bà hoàn toàn thuộc trong Cực Lạc
nơi tự tâm).
“Dĩ thử kinh phần nhiếp
ư Viên, ưng quy Pháp Tánh cố” (do kinh này thuộc về
một phần Viên, nên phải quy về Pháp Tánh), đức
Phật giảng kinh, Lư là một, nhưng do đối tượng
thính chúng khác nhau, cho nên thuyết pháp có sai khác. Có thể nói đối
tượng của bộ kinh này không ǵ chẳng gồm thâu,
trên là gồm cả bậc Đẳng Giác Bồ Tát, Văn
Thù, Phổ Hiền; dưới là ác đạo chúng sanh, ngay
cả chúng sanh trong địa ngục A Tỳ cũng được
bao gồm trong ấy, thật sự là mười pháp giới
không ǵ chẳng được bao gồm. V́ thế là “tam căn phổ bị, lợi
độn toàn thâu” (thích hợp khắp ba căn, gồm
thâu lợi căn lẫn độn căn), đấy là
giáo nghĩa Viên Giáo. Tuy chẳng phải là Thuần Viên, như
kinh Pháp Hoa là Thuần Viên, nhưng kinh Di Đà cũng thuộc
loại Viên Giáo, gọi là “phần
nhiếp ư Viên”.
Trong phần
trước, chúng tôi đă từng đề cập, thuở
ấy, Liên Tŕ đại sư có nỗi khổ rất bất
đắc dĩ, Ngài sống vào những năm cuối đời
Minh, thuộc niên hiệu Thiên Khải và Vạn Lịch nhà
Minh. Thuở ấy, tại Trung Quốc đại lục,
phong khí Thiền hết sức thịnh hành, mọi người
cũng coi thường Tịnh Độ. Liên Tŕ đại
sư là tổ sư trung hưng Tịnh Độ Tông, chẳng
giống các vị tổ sư khác. Tính đến nay, [Tịnh
Độ Tông] tổng cộng có mười ba đời tổ
sư, nhưng có thành tựu đặc thù th́ chỉ có ba vị
đại sư. Vị thứ nhất là vị sáng lập
tông này, tức là có Huệ Viễn đại sư đời
Tấn, vị thứ hai chấn hưng lần nữa là Vĩnh
Minh Diên Thọ. Về sau, truyền được mấy
trăm năm lại dần dần suy, Liên Tŕ đại
sư lại chấn hưng. Đây là ba vị đại
sĩ lỗi lạc của Tịnh Độ Tông. Trong t́nh
h́nh ấy, phong khí nhà Thiền vô cùng thịnh hành, ai nấy
xúm xít học Thiền, Ngài chẳng thể mích ḷng kẻ khác.
Mích ḷng kẻ khác sẽ có lắm chướng ngại, sẽ
có nhiều kẻ chống đối. V́ thế, phải nói
mềm mỏng, uyển chuyển. Nếu Ngài nói kinh này là
Thuần Viên, là Cực Viên, nhất định mọi người
sẽ phản đối. V́ thế, trong Sớ Sao, chỗ
nào Ngài cũng trích dẫn kinh Hoa Nghiêm và kinh Pháp Hoa, v́ lẽ
nào? Hoa Nghiêm và Pháp Hoa đều là Thuần Viên, [dùng cách như
vậy] để đề cao địa vị kinh Di
Đà, v́ xen lẫn kinh Hoa Nghiêm và Pháp Hoa vào đây [để
chứng minh kinh Di Đà], mọi người sẽ chẳng
thể nói kinh này chẳng phải là Viên Giáo! Đây là sự
bất đắc dĩ phải rát miệng, buốt ḷng. Bối
cảnh trong thời đại của Ngài là như vậy,
cho nên lời lẽ hết sức mềm mỏng, uyển
chuyển!
Thật
sự hiểu rơ, Ngài biết kinh Di Đà và kinh Vô Lượng
Thọ là
viên nhất trong các kinh Viên Giáo, là đốn nhất trong các
kinh Đốn Giáo! Hiện thời có thể nói như vậy,
v́ hiện tại ngôn luận tự do, không ai can thiệp. Thuở
ấy chẳng được! Lúc đó, áp lực trong giới
Phật giáo rất sâu, Ngài chịu sức ép trầm trọng,
nên chỉ có thể nói là Phần Viên, tức là trong kinh có một
phần thuộc về tư tưởng Viên Giáo, có một
phần là lư luận Viên Giáo. Ngài nói như vậy th́ người
ta nghe mới c̣n có thể miễn cưỡng tiếp nhận!
Trên thực
tế, [pháp môn Tịnh Độ] là viên nhất trong các pháp
viên, v́ sao? V́ Ngẫu Ích đại sư sống vào thời
Liên Tŕ đại sư đă phục hưng Tịnh Độ
[thành công], Ngài là người kế thừa, nên Ngài nói khác với
Liên Tŕ đại sư. Ngài bảo kinh Di Đà là “Hoa Nghiêm áo tạng, Pháp Hoa bí tủy”
(tạng sâu mầu của Hoa Nghiêm, tinh tủy kín nhiệm
của Pháp Hoa), Ngài nói như vậy đó! Có nghĩa là
[kinh Di Đà] là pháp viên nhất trong các pháp viên, đốn
nhất trong các pháp đốn; đề cao kinh Di Đà, vượt
trỗi Hoa Nghiêm và Pháp Hoa. Quư vị phải hiểu, nếu
không có cơ sở do Liên Tŕ đại sư [đă bồi
đắp tốt đẹp], tổ Ngẫu Ích cũng chẳng
dám nói như thế! Giống như xây bảo tháp, Liên Tŕ
đại sư đă đặt vững nền tảng,
tổ Ngẫu Ích có thể xây cao lên, lúc ấy mới là
hoàn toàn chân thật hiển lộ. “Ưng quy Pháp Tánh”, nói hết sức có đạo
lư, nhất là từ Di Đà Kinh Yếu Giải, tức là bản
chú giải do Ngẫu Ích đại sư biên soạn, ta thấy
[Tổ nói] đơn giản, thẳng thừng: [Kinh Di
Đà] chẳng khác kinh Hoa Nghiêm, Lư Sự vô ngại, Sự
Sự vô ngại, nhưng chỗ quy túc cuối cùng của
kinh Hoa Nghiêm là “mười
đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc”.
(Sớ)
Hoặc nghi Phật thành đạo cửu, A Nan phương
thỉ xuất gia, hà đắc câu ngôn “ngă văn”?
(疏) 或疑佛成道久,阿難方始出家,何得俱言我聞。
(Sớ: Hoặc nghi
là Phật thành đạo đă lâu, A Nan mới xuất gia,
lẽ đâu [đầu các kinh] đều nói là “ta nghe”?)
Nghi vấn
này, từ xưa tới nay đều có. V́ sao? Nh́n vào Phật
giáo sử, hoặc đọc Thích Ca Phương Chí hay Thích
Ca Phổ đều có thể nêu ra câu hỏi này. Ngày Thích
Ca Mâu Ni Phật thành đạo, tôn giả A Nan sanh ra; tên
Ngài do vua Tịnh Phạn đặt cho, tức là phụ
thân của Thích Ca Mâu Ni Phật đặt tên cho A Nan. A Nan (Ānanda)
dịch nghĩa sang tiếng Hán là Khánh Hỷ, [tức là] chúc
mừng hoan hỷ! V́ có người tâu với vua Tịnh
Phạn: “Thái Tử đă thành Phật”, đây là chuyện
vui mừng rất lớn; tiếp đó, lại có người
tâu, hoàng đệ[2] sanh con trai, hai chuyện vui xảy ra cùng
lúc; v́ thế, đặt tên cho Ngài là Khánh Hỷ, tức A
Nan.
Sau khi thành
đạo, đức Phật liền bắt đầu
giảng kinh, thuyết pháp. Đức Phật thành đạo
lúc ba mươi tuổi, nói cách khác, Thích Ca Mâu Ni Phật lớn
hơn A Nan ba mươi tuổi. Đức Phật thuyết
pháp hai mươi năm, A Nan mới xuất gia. A Nan hai
mươi tuổi mới xuất gia, làm thị giả của
đức Phật. Nói cách khác, những kinh đă giảng
trong hai mươi năm trước đó, A Nan chưa hề
nghe qua. Sau đấy là hai mươi mấy năm nữa,
đức Phật thuyết pháp bốn mươi chín năm,
A Nan tham dự những pháp hội ấy. Cớ sao kết
tập kinh điển đều nói: “Như thị ngă văn”? Có thể nêu ra nghi vấn
như vậy. Nghi vấn này xưa nay thường có người
nhắc tới; ở đây, đại sư giải
thích:
(Sớ)
Cổ vị hữu tứ nghĩa cố, viết “văn”
vô ngại.
(疏) 古謂有四義故,曰聞無礙。
(Sớ: Cổ nhân nói do có bốn
nghĩa, nên nói là Nghe chẳng trở ngại ǵ).
Giải
thích: Ở đây có bốn ư nghĩa, cho nên đầu các kinh,
ngài A Nan có thể nói “như thị
ngă văn”.
(Sớ)
Hựu A Nan hữu tam, hoặc văn bất văn, diệc
vô ngại cố.
(疏) 又阿難有三,或聞不聞,亦無礙故。
(Sớ: Lại nữa, có
đến ba vị A Nan, nên dù nghe hay không nghe, cũng chẳng
trở ngại ǵ).
Chú giải như vậy,
chúng ta nghe [cảm thấy] rất khó hiểu, dưới đây
c̣n phải giải thích thêm, trong lời Sao giảng:
(Sao)
Nghi giả, Phật thành đạo dĩ lịch niên nhị
thập, A Nan xuất gia, hựu thập niên, phương mạng
vi thị giả, tuy thân thị Phật, nhi tam thập niên
tiền, Phật sở thuyết kinh, hà đắc câu
xưng “ngă văn”?
(鈔) 疑者,佛成道已歷年二十,阿難出家,又十年,方命為侍者,雖親侍佛,而三十年前,佛所說經,何得俱稱我聞。
(Sao: “Nghi”: Đức Phật thành
đạo đă hai mươi năm, A Nan mới xuất
gia, lại c̣n mười năm sau đó, mới được
sai làm thị giả. Tuy đích thân hầu Phật,
nhưng đối với những kinh đức Phật
đă nói trong ba mươi năm trước đó, v́ sao
đều nói là “tôi nghe”?)
Đây là
nêu ra đơn giản một đoạn tiểu sử của
A Nan.
(Sao) Cổ đáp tứ
nghĩa giả.
(鈔) 古答四義者。
(Sao: Cổ nhân trả
lời nghi vấn ấy bằng bốn nghĩa).
Có bốn ư nghĩa.
(Sao)
Nhất triển chuyển văn.
(鈔) 一展轉聞。
(Sao:
Một là lần lượt nghe lại).
Tuy đức
Phật giảng kinh trong quá khứ, Ngài chưa từng
nghe, nhưng có những đồng học giảng cho Ngài
nghe. A Nan thích đa văn, cũng rất vui thích hướng
về người khác thỉnh giáo. V́ thế, do lần lượt
nghe mà Ngài được nghe.
(Sao)
Như Báo Ân kinh ngôn: “A Nan sở bất văn kinh, tùng
chư tỳ-kheo biên văn, hoặc chư thiên tử thuyết”.
(鈔) 如報恩經言:阿難所不聞經,從諸比丘邊聞,或諸天子說。
(Sao: Như kinh Báo Ân chép: “Những
kinh A Nan chưa được nghe, sẽ nghe từ nơi
các tỳ-kheo, hoặc từ các thiên tử nói lại”).
“Thiên tử” thuở ấy là
các vị hộ pháp của đức Phật. Các vị đại
hộ pháp ấy cũng thường cùng nghe kinh. Sau khi nghe,
các Ngài cũng có thể nói lại.
(Sao)
Như Niết Bàn Kinh, năi Hoằng Quảng Bồ Tát chi sở
lưu thông cố.
(鈔) 如涅槃經,乃弘廣菩薩之所流通故。
(Sao: Như kinh Niết Bàn là do
Hoằng Quảng Bồ Tát lưu thông).
Trong kinh Niết
Bàn có chép, đức Phật bảo Văn Thù Bồ Tát: Tỳ-kheo
A Nan là em họ ta, những kinh được giảng
trong hai mươi năm trước đó thầy ấy
chưa được nghe, sau khi ta nhập diệt, sẽ
do Hoằng Quảng giúp thầy ấy lưu thông[3]. V́ vậy, có kinh văn làm chứng cứ
cho [lời giải thích này]. Đấy là “triển chuyển văn”.
(Sao)
Nhị giả, Phật trùng thuyết, như Báo Ân Kinh ngôn: A
Nan nhân Phật mạng vi thị giả, năi cầu tam nguyện.
Kỳ tam, sở vị văn kinh, thỉnh Phật trùng
thuyết cố.
(鈔) 二者佛重說,如報恩經言:阿難因佛命為侍者,乃求三願。其三,所未聞經,請佛重說故。
(Sao: Hai là do đức Phật
nói lại, như kinh Báo Ân có chép: A Nan do được
đức Phật sai làm thị giả, bèn xin được
thỏa ba nguyện. Nguyện thứ ba là đối với
những kinh chưa được nghe, xin đức Phật
nhắc lại).
Đức
Phật bảo Ngài làm thị giả, Ngài nêu ra ba điều
kiện[4], trong ấy, điều kiện thứ
ba là “những kinh chưa
được nghe, xin Phật nhắc lại”. Đức
Phật cũng chấp nhận. Có những kinh đă giảng
trong quá khứ, Ngài chưa được nghe, có những
kinh được đức Phật nhắc lại một
lần, cho nên Ngài có cơ hội được nghe!
(Sao)
Tam giả, A Nan tự thông.
(鈔) 三者阿難自通。
(Sao:
Ba là A Nan tự thông hiểu).
Không nói, nhưng
chính Ngài cũng hiểu rơ.
(Sao)
Như Kim Cang Hoa Kinh ngôn: “A Nan đắc Pháp Tánh Giác Tự Tại
tam-muội, sở vị văn kinh, tự năng ức
tŕ”. Niết Bàn diệc vân: “Nhược tại, nhược
bất tại, tự nhiên năng giải liễu cố”.
(鈔) 如金剛華經言:阿難得法性覺自在三昧,所未聞經,自能憶持。涅槃亦云:若在若不在,自然能解了故。
(Sao:
Như kinh Kim Cang Hoa chép: “A Nan đắc Pháp Tánh Giác Tự
Tại tam-muội, đối với những kinh chưa
nghe, tự ḿnh có thể nhớ giữ”. Kinh Niết Bàn
cũng nói: “Dù hiện diện hay không cũng tự nhiên có
thể hiểu thấu suốt”).
Nói thật
ra, A Nan là đại quyền Bồ Tát thị hiện, chẳng
phải thật sự là Tiểu Thừa sơ học, Ngài
cũng là đến giúp Thích Ca Mâu Ni Phật giáo hóa chúng sanh,
giống như diễn tuồng. Thích Ca Mâu Ni Phật đóng
vai chánh, Ngài tới giúp, đóng vai phụ, lẽ đâu chẳng
hiểu rơ? Ngài hoàn toàn thông đạt, đắc Pháp Tánh Giác
Tự Tại tam-muội. Pháp Tánh Giác Tự Tại tam-muội
là ǵ? Ngộ Pháp Tánh, giống như nhà Thiền nói “minh tâm kiến tánh” có cùng một
ư nghĩa. Kiến tánh: Từ chân tánh khởi lên giác ngộ;
Pháp Tánh là chân tánh, chẳng có bờ mé, cũng chẳng có quá
khứ, hiện tại, vị lai. V́ thế, một người
thật sự kiến tánh, chẳng có pháp thế gian hay xuất
thế gian nào mà chẳng thông đạt. Thí dụ rơ rệt
nhất là Thiền Tông Lục Tổ kiến tánh, cho nên có những
thứ Ngài chưa từng nghe nhưng đều thông đạt,
những thứ Ngài chưa xem qua, nhưng đều có thể
nói được! Chỉ cần quư vị vừa nhắc
tới, Ngài lập tức hiểu ngay, v́ sao? Hết thảy
các pháp đều do Pháp Tánh biến. Quư vị đă kiến
tánh, lẽ nào chẳng thông? V́ thế, kiến tánh trọng
yếu lắm!
Người
như thế nào mới có thể kiến tánh? Nhất
định phải tu Định, trong kinh này là tu nhất
tâm bất loạn. Quư vị tu điều ấy, tâm thanh tịnh
đến tột bậc, khởi tác dụng, gọi là “chiếu
kiến”. Tâm giống như một tấm gương. Tấm
gương ấy sạch làu làu, thứ ǵ cũng đều
không có, khởi tác dụng chiếu kiến. Chiếu kiến
là trí huệ Bát Nhă, trí huệ thật sự. Mười phương
ba đời không có một pháp nào chẳng biết, thảy
đều chiếu kiến. Quư vị không nói, nó (cái tâm
thanh tịnh ấy) chẳng có phân biệt, là b́nh đẳng,
thanh tịnh. Quư vị vừa nói, nó lập tức có phản
ứng, nó nói rơ chân tướng sự thật cùng quư vị.
V́ thế, nói: “Bát Nhă vô tri, vô sở
bất tri” (Bát Nhă vô tri, không ǵ chẳng biết). Vô tri là
khi nó chiếu kiến, “Tịch
mà thường Chiếu, Chiếu mà thường Tịch”,
giống như một tấm gương, soi rơ ràng, rành rẽ,
chẳng nói một câu nào, mà cũng chẳng có phân biệt,
chẳng chấp trước, cũng chẳng giữ lại
ấn tượng, nhưng hiểu rơ ràng, rành rẽ. Kẻ
khác hỏi người ấy, hướng về người
ấy thỉnh giáo, người ấy bèn khởi tác dụng,
khi khởi tác dụng, không ǵ chẳng biết! Do vậy, quư
vị muốn cầu Chân Tri thứ ǵ cũng đều biết
th́ trước hết quư vị phải cầu thứ ǵ cũng
chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, không giữ
lại ấn tượng, cầu điều này. “Vô tri” chẳng phải vô tri theo
kiểu hoàn toàn đần độn, chẳng biết ǵ cả.
Đần độn là vô tri thật sự, c̣n [vô tri] ở
đây là “không ǵ chẳng biết”. Khi chẳng khởi tác dụng
là vô tri, khi khởi tác dụng là không ǵ chẳng biết. Đần
độn là dù khởi tác dụng hay không khởi tác dụng
đều chẳng biết, đó là sai lầm!
Chúng ta phải
khôi phục trí huệ và đức năng trong tự tánh;
dùng một câu Phật hiệu này sẽ có thể [khôi phục].
Nhất định phải buông hết thảy thân, tâm, thế
giới xuống; không chỉ buông pháp thế gian xuống,
mà Phật pháp cũng phải buông xuống. V́ chẳng buông
Phật pháp xuống, quư vị c̣n có chuyện tham luyến,
tâm chẳng thanh tịnh. Do vậy, thảy đều phải
buông xuống, đấy mới là con đường đúng
đắn để khôi phục tự tánh thanh tịnh tâm.
Ngài A Nan đă minh tâm kiến tánh, là bậc đại Bồ
Tát tái lai; v́ thế, đối với hết thảy các
kinh do đức Phật đă giảng Ngài đều biết,
chẳng nghe cũng biết.
(Sao)
Tứ giả, Thanh Lương chiết trung thượng
tam, ngôn A Nan năi đại quyền Bồ Tát, ảnh hưởng
hoằng truyền. Như Bất Tư Nghị Cảnh Giới
Kinh ngôn Xá Lợi, Mục Liên, năi chí A Nan đẳng, giai
đại quyền Bồ Tát, hiện Thanh Văn thân, hà trệ
ư tích, ngôn bất văn dă.
(鈔) 四者清涼折衷上三,言阿難乃大權菩薩,影響弘傳。如不思議境界經言:舍利、目連乃至阿難等,皆大權菩薩現聲聞身,何滯於迹,言不聞也。
(Sao:
Bốn, ngài Thanh Lương dung hội ba nghĩa trên
đây, nói A Nan là bậc đại quyền Bồ Tát, [thị
hiện trong thế giới Sa Bà] để tạo ảnh
hưởng, hoằng truyền. Như kinh Bất Tư Nghị
Cảnh Giới đă nói những vị như Xá Lợi Phất,
Mục Kiền Liên, cho đến A Nan v.v... đều là
đại quyền Bồ Tát hiện thân Thanh Văn, há bị
vướng mắc nơi h́nh tích, mà nói là [ngài A Nan] chẳng
nghe ư?)
Đây là
Thanh Lương đại sư thuộc tông Hoa Nghiêm đă
nói dung ḥa ba ư nghĩa trên đây, Ngài nói cũng vô cùng hay! Như
trong các vị đệ tử Phật, Xá Lợi Phất,
Mục Liên đều là cổ Phật tái lai. Chánh pháp trụ
thế lợi ích nhân thiên, nhưng [để giữ cho chánh
pháp trụ thế] chẳng dễ dàng! Chúng sanh thiếu phước,
sẽ chẳng tin; v́ thế, Phật đến thế giới
này, ai sẽ theo gót Ngài? Nói cách khác, ai sẽ ủng hộ
Ngài? Phàm phu chẳng nhận biết, cũng coi Ngài như
phàm phu, chẳng ủng hộ Phật, cho nên mới có “một vị Phật ra đời,
ngàn vị Phật ủng hộ”, Phật pháp mới có
thể hưng long, nhất định phải có người
ủng hộ.
Thời
kỳ Mạt Pháp, cho đến hiện thời, trong tâm chúng
sanh tưởng ǵ? Tham, sân, si, mạn, họ nghĩ tưởng
những thứ ấy, đều là cầu pháp ngoài tâm. V́
thế, ma vừa thuyết pháp, đồ chúng cả ngàn vạn
đều kéo đến. V́ sao? [Ma nghĩ]: “Kẻ khác mong
cầu, ta bèn ban cho họ”. Hôm trước, tôi thấy một
quyển sách, phía trước có h́nh Lô Thắng Ngạn đội
măo Tỳ Lô hết sức trang nghiêm đang giảng kinh Tài
Thần nơi đó: “Mọi người chuộng phát tài,
ta sẽ dạy mọi người phát tài ra sao!” V́ thế,
mọi người đều kéo đến! Trong quá khứ,
tôi ở Los Angeles nghe nói: Ông ta đến Los Angeles “hoằng
pháp” là giảng kinh Tài Thần, người nghe phải mua
vé vào cửa, mỗi vé hai mươi đồng Mỹ Kim,
người ta xúm đen xúm đỏ đến nghe, ông ta thật
sự phát tài. V́ sao? Mỗi cá nhân đều muốn phát
tài, tưởng nghe giảng làm sao để phát tài sẽ
có thể phát tài. Kết quả, chẳng phải là thính chúng
phát tài, mà là ông ta (Lô Thắng Ngạn) phát tài! Các đồng
học bên ấy bảo tôi: “Pháp sư! Nếu thầy giảng
như vậy th́ cũng phát tài”.
Chánh pháp
là dạy người ta buông xuống hết thảy, ai bằng
ḷng? Không ai đến nghe cả! Bảo quư vị đối
với tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ dục,
lục trần thảy đều buông xuống, bảo quư
vị tu tâm thanh tịnh, đương nhiên thính chúng ít ỏi!
V́ thế, chư Phật, Bồ Tát phải đến [hỗ
trợ Phật]. Một ngàn hai trăm năm mươi đệ
tử của Thích Ca Mâu Ni Phật đều là chư Phật
và đại Bồ Tát đến sắm vai, đến diễn
tuồng, cho đến các vị quốc vương, đại
thần hộ pháp của đức Phật thảy đều
là Bồ Tát tái lai. Như vua nước Xá Vệ là Ba Tư
Nặc được nhắc đến trong kinh là Tứ
Địa Bồ Tát thị hiện. Nếu không có những
vị Phật và đại Bồ Tát ấy, ai nhận biết
Thích Ca Mâu Ni Phật? V́ thế, chánh pháp quyết định
chẳng chèo kéo, mê hoặc đại chúng, quyết định
chẳng giở tṛ, chẳng diễn những tṛ xiếc để
dụ dỗ, mê hoặc chúng sanh, mà là b́nh phàm, chân thật
chỉ dạy. V́ thế, chỉ có chư Phật và các vị
đại Bồ Tát đến ủng hộ, đó gọi
là “một vị Phật ra
đời, ngàn vị Phật ủng hộ”.
Tướng
suy trong thời Mạt Pháp, chúng sanh bạc phước, Phật
cũng không tới, mà Bồ Tát cũng chẳng tới. Do
vậy, Phật pháp suy th́ ḥa hợp Tăng đoàn chẳng
có, mỗi người một đạo tràng, đúng là đáng
buồn! Nói thật thà, trong Phật giáo chẳng phải là
không có sức mạnh, chẳng phải là thiếu tiền
tài, nhưng bị phân tán! Nếu những người xuất
gia đều ở cùng một chỗ, sức mạnh sẽ
được tập trung lại, tuyệt diệu lắm!
Mỗi người dựng một chùa, đôi bên chẳng
thể hợp tác với nhau, đương nhiên Phật pháp
sẽ bị tiêu diệt, đấy là đạo lư nhất
định. Ai có thể cứu được? Không ai có thể
cứu được! V́ sao có hiện tượng này? Ma đă
nói với Phật rất rơ ràng! Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật
tại thế, Ma Vương Ba Tuần đă nói với Phật:
“Sẽ có ngày tôi tiêu diệt Phật pháp của Ngài”. Đức
Phật cười bảo hắn: “Phật pháp là chánh pháp,
ông chẳng thể diệt được!” Ma liền nói:
“Đến thời kỳ Mạt Pháp, tôi sẽ bảo ma
con, ma cháu thảy đều xuất gia, xâm nhập toàn bộ
để tiêu diệt Phật pháp”. Đức Phật nghe
nói, ứa lệ, hiện thời đúng là như vậy!
Kinh Lăng Nghiêm đă nói rất rơ ràng: “Tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng”.
V́ thế, ngày nay chúng ta may mắn được nghe chánh
pháp, sau khi nghe th́ như thế nào? Độ chính ḿnh là chánh
yếu, đấy là điều trọng yếu nhất.
Chính chúng ta t́m được một sinh lộ, biết thật
thà niệm Phật quyết định văng sanh.
Từ ngày
học Phật, tôi chẳng tán thành dựng đạo tràng,
v́ sao? Dựng đạo tràng sẽ có đấu tranh, sẽ
có phiền phức, tôi đă thấy quá nhiều rồi. Trước
đây, thầy Lư đă bảo tôi: Khi chúng ta lập đạo
tràng, mỗi cá nhân bỏ tiền hoặc ra sức, cầm
sổ công đức đi hóa duyên bên ngoài, ai nấy đều
là Bồ Tát, đồng ḷng hiệp lực xây dựng đạo
tràng. Sau khi dựng đạo tràng xong, mỗi người
đều biến thành La Sát, v́ sao? “Tôi hóa duyên được
nhiều tiền hơn quư vị, tôi phải làm Trụ Tŕ”,
“tuy tôi kém hơn ông, nhưng c̣n nhiều hơn bọn họ,
tôi phải làm Đương Gia”. Trụ Tŕ, Đương
Gia chùa miếu được chọn như thế nào? Xét
coi ai hóa duyên được nhiều tiền hơn, lấy
đó để xét, kẻ đó đạo đức ra
sao chẳng cần bàn tới! Thậm chí, chẳng phục,
tranh chấp, đấu tranh, tạo thành t́nh trạng ấy,
tôi đă chính mắt thấy! Do vậy, đạo tràng ấy
chẳng tạo dựng nên hồn! Dẫu cho đă xây dựng
xong xuôi, tới lúc quư vị đă chết, đồ tử,
đồ tôn đấu đá nơi đó. Mọi người
tranh đoạt, tạo tội nghiệp! C̣n có những nơi
bị kẻ tại gia chiếm đóng; trong nhà vị [Trụ
Tŕ, Đương Gia] ấy có các thân thích đến chiếm
đóng, biến đạo tràng thành nơi ô uế! Tôi cũng
đă từng thấy [chuyện này]. Tuy bản thân vị ấy
không có con cái, nhưng con cái của anh em, cháu trai bên nội,
bên ngoại ùa tới, chiếm đoạt chùa miếu, người
xuất gia bị đuổi đi, bọn họ mỗi
ngày thu tiền nhang đèn ở đó, làm chuyện này. Đây
là tướng suy của Phật môn trong thời Mạt
Pháp.
Do vậy,
tôi thường cổ vũ, khích lệ các đồng tu có
tài lực, chủ trương quư vị cung cấp đạo
tràng để làm ǵ? Cung cấp [nơi chốn] giảng
kinh, tu hành, chủ quyền thuộc về quư vị, mọi
người sẽ không tranh giành, cung thỉnh pháp sư hữu
đức hữu học đến trụ tŕ. Đạo
tràng của ta chẳng giao cho vị ấy, giao cho vị ấy
chính là hại vị ấy. “Tôi thỉnh thầy đến
làm trụ tŕ, hướng dẫn đại chúng tu hành, thầy
bỏ đi, quyền sở hữu tài sản thuộc về
tôi. Thầy tu tập tốt đẹp, tôi mời thầy
trụ thêm mấy năm. Thầy tu tập lôi thôi, tôi mời
thầy trụ ba năm, thầy cuốn xéo đi, tôi lại
thỉnh người khác”. Vậy th́ người ấy trụ
tại ở nơi nào cũng sẽ ngoan ngoăn tu học, v́
sao? Chẳng tu học đàng hoàng, hết hạn ba năm,
người ta chẳng mời ở tiếp nữa! [Cho nên]
người ấy sẽ có đạo tâm. Giao đạo
tràng cho người ấy, người ấy sẽ chẳng
có đạo tâm, v́ sao? Nơi này là của ta, ta làm sao th́ làm,
các ngươi đừng ḥng can thiệp, đạo tâm chẳng
c̣n! Trước kia, người tu đạo thật sự
có đạo tâm, v́ sao? Tự viện, tùng lâm là của chung,
chẳng thuộc một ai. Quư vị thật sự có đạo
đức, hoan nghênh quư vị đến trụ. Nếu quư
vị thiếu đạo đức, trụ vài ngày, mời
quư vị hăy rời đi, hăy cuốn xéo đi! V́ thế, người
ấy nhất định phải giữ quy củ, nhất
định phải thật sự tu hành th́ mới được
đạo tràng ấy hoan nghênh, mới có thể ở lâu dài
về sau. Hiện thời là mỗi người một đạo
tràng.
Tuy tôi ở
Đài Loan nhiều năm như vậy, rất hổ thẹn.
Ở Tân Gia Ba, tôi gặp pháp sư Diễn Bồi, Ngài nói:
“Thầy từ Đài Loan tới, lẽ ra phải biết
chuyện của Đài Loan”. Tôi thưa: “Xấu hổ quá,
tôi không biết!” Sư kể cho tôi nghe, Ngài nói: “Rất nhiều
pháp sư trẻ tuổi ở Đài Loan, xuất gia chẳng
bao lâu, tự ḿnh kiếm một số tín đồ, quyên góp
mua một căn pḥng ở chung cư, mệnh danh là tinh xá,
tự ḿnh mỗi người một căn”. Ngài nói ở
nơi nọ, dường như có bảy tám chục chỗ
đều giống như vậy, lắp điện thoại,
chỗ nào có “Phật sự” cần mời, người ấy
đến niệm kinh. Niệm xong, trở về, tự ḿnh
hưởng thụ một ḿnh, chẳng bị ai cai quản,
đều là kiểu đó, làm thế nào được! V́
thế, đối với chuyện truyền giới tại
Đài Loan, Ngài rất chán ngán! Pháp sư Diễn Bồi bảo
tôi: “Nếu cứ tiếp tục truyền như vậy, Phật
giáo chẳng diệt vong cũng không được! H́nh tượng
đều bị phá sạch! Trước kia, người xuất
gia phải học giới năm năm. Khi quư vị xuống
tóc xuất gia, phải trụ trong chốn thường trụ
tối thiểu năm năm, củng cố căn cơ vững
vàng rồi mới có tư cách đi tham học. Đâu có như
bây giờ, mỗi người một đạo tràng, tệ
quá!” Đúng là một vị pháp sư tốt mới có thể
nói ra những lời này!
Pháp sư
Thánh Nhất ở Hương Cảng cũng là một người
rất lỗi lạc, Ngài thường sang khuyến hóa tại
Đại Lục, Phật giáo Đại Lục vô cùng tôn
trọng Ngài. Có lần, Ngài bảo tôi: Ở Đại Lục
có một ngôi chùa mới được khôi phục, họ
chẳng biết làm theo cách nào, bèn thỉnh giáo Ngài. Họ nêu
ư kiến là trong chùa miếu hiện thời, mỗi vị
thường trụ có một pḥng riêng, tức là mỗi người
có một liêu pḥng. Pháp sư Thánh Nhất nghe xong hết sức
phản đối, Ngài bảo: “Chẳng thể được!
Chùa miếu Trung Quốc từ xưa tới nay đều
là ở theo lối quảng đơn”. “Quảng đơn”[5] là pḥng ngủ chung. Sư nói: “Mỗi người
ở một pḥng, đóng cửa lại, kẻ ấy làm ǵ
ai thấy? Mỗi người ở riêng một pḥng, chắc
chắn tu không thành công, v́ sao? Tập khí khuyết điểm
đều xuất hiện!” Do vậy, những vị tiền
bối ở Đại Lục nghe lời Ngài, chẳng cất
liêu pḥng cho mỗi cá nhân, thảy đều làm pḥng ngủ
chung. V́ thế, người tu hành ban ngày ở chung chỗ,
mọi người nh́n thấy quư vị. Tối đi ngủ,
cũng là mỗi người thấy kẻ khác, như vậy
th́ mới có thể dần dần đoạn hết tập
khí từ vô thỉ kiếp; đó là đúng! Chẳng phải
là nói chúng ta ngày nay hưởng thụ cuộc sống vật
chất dư dả, mỗi người có thể ở một
pḥng, lại c̣n một suite, hay th́ hay đấy, nhưng là
vào tam đồ ác đạo, chẳng thể đến
Tây Phương! [Muốn] tới Tây Phương Cực Lạc
thế giới, vẫn phải ở trong pḥng ngủ tập
thể, trụ quảng đơn! Đừng nói chi khác, ở
trong pḥng ngủ tập thể, tôi nghĩ mức độ
thấp nhất là mỗi sáng phải xếp mền, đệm
rất ngăn nắp. Nếu không, vừa nh́n sẽ thấy
lộn xộn, chính quư vị cũng cảm thấy rất
đáng thẹn! Nhưng mỗi người một pḥng, không
sao hết, đóng cửa pḥng lại, cũng chẳng có ai
nh́n thấy, đôi chút tập khí lười nhác sẽ không
sửa được! V́ thế, pháp sư Thánh Nhất nói
rất có lư, Ngài nói: “Người tu hành ở mỗi người
một pḥng sẽ chẳng thể nào thành tựu được!”
Đoạn này nói những đệ
tử đức Phật, cho đến các vị hộ pháp
đều là chư Phật, Bồ Tát thị hiện, có thể
thấy người thật sự có đạo tâm, sẽ
chẳng chú trọng danh lợi, chẳng quan tâm đến
địa vị, chúng ta chỉ cần làm tốt chuyện
này là được rồi, giống như diễn tuồng,
đồ đệ, học tṛ đóng vai chánh, thầy ở
bên cạnh gơ trống, chạy cờ. Họ là thầy, chẳng
quan tâm đến thân phận, địa vị, nhất
định phải diễn vở hát cho thật hay!
Phật
pháp trong thế gian nhất định phải có thể thật
sự lợi ích chúng sanh, phải chú trọng điều này,
bỏ tiếng tăm, lợi dưỡng của chính ḿnh,
Phật pháp sẽ hưng vượng. V́ vậy, Phật pháp
là đạo thầy tṛ, điều này rất khó! Hiện
thời, truyền pháp chẳng dễ dàng, người hiện
thời xử sự theo cảm t́nh, lôi kéo tín đồ, phải
khéo quan sát vẻ mặt tín đồ, phải bợ đỡ
tín đồ th́ tín đồ mới đến! Nếu quư
vị chẳng bợ đỡ họ đôi chút, [họ sẽ
so đo] người trong chùa kia đối xử tốt đẹp,
lịch sự với ta như vậy, tại sao ta phải
đến chùa này? Ta đến chùa kia chẳng hay hơn ư?
Trước kia, thầy Lư ở Đài Trung đă hết sức
cảm thán, liên hữu ở Đài Trung bị kẻ khác kéo
đi, v́ sao? Đạo tràng người ta khách đến
như trở về nhà, được hầu hạ chẳng
thiếu sót điều nhỏ nhặt nào, thoải mái lắm!
Thầy Lư giảng kinh, thuyết pháp, mỗi ngày chửi người
khác: “Thôi! Ông hằng ngày chửi tôi, bên kia họ tâng bốc
tôi, lẽ ǵ tôi đến nghe ông chửi?” V́ thế, bỏ
đi khá nhiều! Đúng là đáng cảm khái ngàn vạn
phần! Do vậy, chúng ta nghĩ đến “ngàn vị Phật ủng hộ”,
cùng nhau kiến lập chánh pháp trong thế gian này, các đồng
tu chúng ta phải ghi nhớ. Đạo tràng này của chúng
ta chẳng lôi kéo tín đồ, có thể đến nơi đây
cùng nhau nghiên cứu, mọi người
đều có phước báo. Không có phước báo, sẽ
chẳng thể tham dự thịnh hội này! Hôm nay, chúng
tôi giảng đến chỗ này!
Tập 106
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ
Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang hai trăm lẻ bảy:
(Sao)
Tam A Nan giả.
(鈔) 三阿難者。
(Sao:
“Ba vị A Nan”).
Đây là
nói về ba vị A Nan, kinh Đại Thừa thường
nói chuyện này, kinh Tiểu Thừa chẳng thừa nhận.
(Sao)
Nhất danh Hoan Hỷ, kết Thanh Văn Tạng.
(鈔) 一名歡喜,結聲聞藏。
(Sao: Vị thứ nhất tên
là Hoan Hỷ, kết tập Thanh Văn Tạng).
Đây là
hoàn toàn nói theo h́nh tướng, dấu vết. Ngài A Nan là em
họ của Thích Ca Mâu Ni Phật; sau khi đức Phật
diệt độ, Ngài vâng theo di giáo của đức Phật,
kết tập kinh điển Tiểu Thừa.
(Sao)
Nhị danh Hỷ Hiền, kết Duyên Giác Tạng.
(鈔) 二名喜賢,結緣覺藏。
(Sao: Vị thứ hai là Hỷ
Hiền, kết tập Duyên Giác Tạng).
Thông thường,
chúng cũng quy nạp Duyên Giác vào pháp Tiểu Thừa, tức
là Thanh Văn và Duyên Giác. Nếu nói tới Tam Thừa, sẽ
tách ra thành Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát. Trí huệ và công
phu tu hành của Duyên Giác đều cao hơn Thanh Văn.
Trong kinh giáo đă nêu ra sự khác biệt lớn nhất ở
chỗ: Tuy Thanh Văn đă đoạn Kiến Tư phiền
năo, nhưng chưa đoạn tập khí; Duyên Giác th́ ngay cả
tập khí cũng đoạn. Đấy là chỗ khác nhau
nơi quả chứng giữa Thanh Văn và Duyên Giác.
(Sao) Tam danh Hỷ Hải, kết
Bồ Tát Tạng.
(鈔) 三名喜海,結菩薩藏。
(Sao:
Vị thứ ba tên là Hỷ Hải, kết Bồ Tát Tạng).
Hết thảy kinh Đại
Thừa cũng do tôn giả A Nan kết tập. Do đây có
thể biết, kinh điển Tam Thừa có quan hệ mật
thiết với tôn giả A Nan. Đại Thừa nói rơ tôn
giả A Nan cũng đă ngộ nhập Pháp Tánh, cho nên thông
đạt hết thảy Đại Thừa Phật pháp
vô ngại[6].
(Sao)
Tắc A Nan dĩ đại thần lực, tùy cơ thị
giáo, thị tri nhất đại thời giáo, thử A Nan
bất văn giả, bỉ A Nan văn chi, hựu hà
văn dữ bất văn nhi vi ngại dă.
(鈔) 則阿難以大神力,隨機示教,是知一代時教,此阿難不聞者,彼阿難聞之,又何聞與不聞而為礙也。
(Sao: A Nan dùng đại thần
lực, tùy theo căn cơ mà chỉ bày giáo pháp. V́ thế,
biết: Đối với giáo pháp trong cả một đời
đức Phật, nếu ngài A Nan này không nghe, th́ ngài A Nan
khác nghe, há c̣n trở ngại v́ “nghe” hay “chẳng nghe” nữa
ư?)
Đây là
ư nghĩa vô ngại. Trong phần trước đă từng
nói: “Một vị Phật xuất
thế, ngàn vị Phật ủng hộ”, Phật pháp mới
có thể thường trụ thế gian, mới có thể
thật sự lợi ích hết thảy chúng sanh. Không có chư
Phật, chư Bồ Tát hộ tŕ, phàm phu sẽ chẳng
nhận biết, chẳng biết giá trị, càng chẳng có
ḷng nhẫn nại, chẳng có tâm dài lâu! Do điều này, ta
biết chư Phật, Bồ Tát, tổ sư đại
đức trụ tŕ trong thế gian mấy chục
năm, phát huy rạng rỡ Phật pháp đều chẳng
thể nghĩ bàn. Trong các vị đệ tử và hộ pháp,
cũng thường có nhiều vị tái lai. Nếu bảo
là không có vị nào tái lai, chỉ có một vị Phật, Bồ
Tát, hay La Hán xuất thế, chắc chắn chẳng thể
nào hóa độ chúng sanh. V́ thế, cũng biết: Pháp duyên
hoàn toàn cậy nhờ Tam Bảo.
Đương
nhiên chuyện này là “khả ngộ,
bất khả cầu” (có thể ngộ, chẳng thể
cầu). Chúng sanh có phước, Phật, Bồ Tát bèn xuất
thế; chúng sanh chẳng có phước, chúng ta làm cách nào
cũng chẳng cầu được! Phước do
đâu mà có? Phước phải do chính ḿnh tu. Bản thân chúng
ta chẳng tu phước, mong mỏi người khác tu phước,
đó là sai lầm; nhất định phải là chính ḿnh
biết tu phước. Đoạn “ngă văn” đă giảng xong. Tiếp theo đây
là giảng về “nhất thời”,
tức là điều thứ ba trong sáu thứ thành tựu.
(Sớ)
Nhất thời giả, Thời Thành Tựu dă.
(疏) 一時者,時成就也。
(Sớ:
“Nhất thời” là Thời Thành Tựu).
Lúc nào?
(Sớ)
Sư tư tương hợp, đương thời thuyết
thính sự tất, tức danh “nhất thời”, dĩ thuyết
thính vô định cố. Bất ngôn mỗ niên nguyệt nhật
giả, thập phương thời phần bất nhất,
lưỡng độ chánh sóc bất đồng cố.
(疏) 師資相合,當時說聽事畢,即名一時,以說聽無定故。不言某年月日者,十方時分不一,兩土正朔不同故。
(Sớ:
Thầy tṛ tương hợp, trong lúc ấy, nói và nghe xong
xuôi, bèn gọi là “nhất thời”; bởi lẽ, nói và nghe
bất định. Chẳng nói năm, tháng, ngày nào, v́ cách
phân định thời gian trong mười phương
khác nhau, [cách chọn lựa] ngày đầu năm giữa
hai cơi (Trung Hoa và Ấn Độ) khác nhau).
Đây là
nguyên nhân khiến [kinh điển nhà Phật] chẳng ghi
chép năm, tháng, ngày, giờ. Hiện thời, những chuyện
này càng rơ rệt hơn nữa. Chúng ta biết trên địa
cầu có múi giờ sai khác; thời cổ, chắc chắn
chưa có múi giờ sai khác! V́ sao? Cổ nhân cưỡi ngựa,
dẫu phi nhanh đến mấy th́ một ngày đi được
hai ba trăm dặm là cùng. Đi hai ba trăm dặm sẽ
chẳng thấy có chuyện múi giờ sai khác! Ngồi thuyền
cũng giống như vậy, thuận gió, thuận nước
th́ một ngày sẽ như cổ nhân nói: “Thiên lư Giang Ninh nhất nhật hoàn” (Giang Ninh ngàn dặm
một ngày về). Đó là nói h́nh dung, chứ trọn chẳng
đi được một ngàn dặm, cũng có thể nói
đi được một, hai trăm dặm đă nhiều
lắm rồi, đă khá nhanh rồi! Lữ hành kiểu ấy,
trong thuở Kháng Chiến, tôi cũng thường đi. Nếu
đi bộ th́ một ngày nhiều nhất không hơn một
trăm hai mươi dặm, [tính theo cách đo lường]
hiện thời là sáu chục cây số. Đi ít nhất là
sáu mươi dặm Tàu (tức ba mươi cây số),
đi năm ngày phải nghỉ ngơi hai ngày. V́ thế,
chẳng thể nào có múi giờ sai khác! Hiện thời, ngồi
máy bay, sự sai biệt thời gian ấy vô cùng rơ rệt.
Do liên quan đến chuyện múi giờ sai khác, sẽ không
thể ghi chép năm, tháng, ngày, giờ [cụ thể], đạo
lư như thế đấy! C̣n nữa, trong quá khứ, những
quốc gia tại Cổ Ấn Độ chưa thống
nhất, mỗi tiểu quốc gia dùng lịch pháp khác nhau.
V́ thế, năm, tháng, ngày, giờ cũng khác nhau. Hiện thời,
trên thế giới, tối thiểu có ba loại lịch pháp
khác nhau: Dương lịch, Âm lịch của Trung Quốc,
lịch pháp của Hồi giáo, chúng ta phải tuân theo loại
lịch pháp nào để ghi chép? Điều này rất rắc
rối, do vậy, chẳng dùng năm, tháng, ngày, giờ, chỉ
ghi mơ hồ là “nhất thời”.
Ư nghĩa của chữ “nhất
thời” hết sức sâu.
“Sư
tư tương hợp”: Cổ đức thường
dùng câu này để giải thích chữ “nhất thời”, tức là lúc cơ cảm tương
ứng, nghĩa là chúng sanh có cảm, Phật bèn ứng, lúc
cảm ứng đạo giao bèn gọi là “nhất thời”. Nói thật ra, chúng sanh dùng ǵ để
có thể cảm? Nhất tâm có thể cảm, tam tâm nhị
ư chắc chắn chẳng thể cảm ứng Phật, Bồ
Tát. Không chỉ chẳng thể cảm ứng Phật, Bồ
Tát, mà đối với quỷ thần cũng là như vậy.
Sách Liễu Phàm Tứ Huấn có nói tới chuyện vẽ
bùa, niệm chú, muốn vẽ đạo bùa ấy cho linh
th́ phải vẽ như thế nào mới linh? Nhất tâm bất
loạn. Trong khoảng thời gian rất ngắn, kể từ
khi chấm một nét bút để vẽ đạo bùa ấy
cho đến khi vẽ xong, trong tâm chẳng có một vọng
niệm nào, đó là lúc nhất tâm, đạo bùa ấy sẽ
linh! Niệm chú cũng giống như vậy, niệm từ
đầu tới cuối, trong tâm chẳng có vọng
tưởng nào, chú ấy bèn linh. Chư vị hăy suy nghĩ,
[sẽ thấy] chú dài chẳng bằng chú ngắn, v́ sao? [Niệm]
chú dài sẽ khởi vọng tưởng, do thời gian niệm
khá lâu! Quư vị không tin th́ niệm chú Lăng Nghiêm và chú Đại
Bi để so sánh, sẽ thấy khác nhau. Chúng ta thường
thấy niệm chú Đại Bi cảm ứng rất nhiều.
Quư vị ḍ hỏi có thấy chú Lăng Nghiêm có cảm ứng
hay không? Quá dài, khi niệm, nói chung, chẳng tránh khỏi có
một, hai vọng tưởng, xong luôn! Hễ vọng tưởng
là [sức chuyên chú] đă bị phá sạch rồi, chẳng
thể thành công. V́ thế, chú Đại Bi lại chẳng
bằng chú Văng Sanh, [v́ chú Văng Sanh] ngắn hơn! Chú Văng Sanh
lại chẳng bằng một câu “Nam-mô A Di Đà Phật”, đơn giản nhất.
V́ thế, thành tâm thành ư niệm câu Phật hiệu này, thời
gian ngắn ngủi, trong ấy chẳng xen tạp vọng
tưởng, dễ đắc nhất tâm; hễ nhất
tâm bèn khởi cảm ứng, nguyên lư ở chỗ này! V́ thế,
ngay cả giao tiếp với quỷ thần cũng đều
phải dùng nhất tâm th́ mới có cảm ứng.
(Sớ)
Ước đương tông, tắc tức thuyết
thính khoảnh, tâm cảnh mẫn, phàm thánh hội, y chánh
dung, nhất đa đẳng. Thử chư nhị pháp,
giai nhất chi thời, danh nhất thời dă.
(疏) 約當宗,則即說聽頃,心境泯,凡聖會,依正融,一多等。此諸二法,皆一之時,名一時也。
(Sớ:
Ước theo tông này th́ trong khoảng thời gian nói và
nghe, tâm lẫn cảnh đều mất, phàm và thánh dung hội,
y báo và chánh báo ḥa nhập vào nhau, một và nhiều như
nhau. Lúc các pháp có đối lập ấy đều là một
th́ gọi là “nhất thời”).
“Đương tông” là tông của
chúng ta (Tịnh Độ Tông), nói theo
giáo nghĩa trong kinh này. Hoàn toàn kiến lập trên “nhất tâm bất loạn” để
nói nên vô cùng hữu lư. Tâm chúng ta thật sự đạt
đến thuần nhất, sẽ là lúc thấy Phật, mà
cũng là lúc văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới, thật sự là tu hành khai hoa kết quả. Trong đoạn
này, nói thật ra, cũng là nói rơ công phu chân thật của người
tu Tịnh Độ. V́ thế, trong rất nhiều kinh
điển, chúng ta thấy đức Phật giảng kinh
ấy chưa xong, mới nói một nửa, những vị
đương cơ đă khai ngộ, chứng quả. Như
trong kinh Lăng Nghiêm mà rất nhiều đồng tu quen
thuộc, trong hội Lăng Nghiêm, Thích Ca Mâu Ni Phật giảng
mới một nửa, cô Ma Đăng Già bèn chứng Tam Quả;
chưa nói xong, tôn giả A Nan đă chứng Sơ Quả. V́
sao họ nghe kinh có thể chứng quả? Chính v́ đạo
lư đang được nói đến ở đây.
“Thuyết thính khoảnh” là lúc
đang nói và nghe. “Tâm cảnh mẫn”:
Tuy ở đây nói bốn câu, chỉ cần quư vị hiểu
một câu, sẽ hiểu ba câu kia. Cổ đức thường
nói nghe kinh phải “tiêu quy tự
tánh”. Tiêu quy tự tánh là như thế nào? Chính là ba chữ
“tâm cảnh mẫn” được
nói ở đây, đó gọi là “tiêu
quy tự tánh”. Tâm lẫn cảnh hai bên đều không
có, tâm mới đạt đến nhất tâm! Khi ấy, hoàn
toàn là cảnh giới hiện lượng Nhất Chân. Nói
như vậy, sợ quư vị vẫn chưa dễ ǵ hiểu
được. Tướng cảnh giới là phàm và thánh
như nhau, tâm thật sự đạt đến thanh tịnh,
b́nh đẳng, trong hết thảy các pháp đều chẳng
khởi phân biệt, chẳng chấp trước, không có vọng
tưởng. Trong ấy, chẳng có tâm mà cũng chẳng có
cảnh, tâm lẫn cảnh cùng ĺa! Đấy là nhất tâm
hiện tiền, nói “nhất thời”
chính là nói về lúc ấy!
Chúng ta nghe
kinh không nhập cảnh giới đó, cũng là nghe kinh chẳng
khai ngộ! Chư vị phải biết:
Nghe kinh khai ngộ chẳng phải là nói ngộ được
câu này trong kinh giảng theo cách nào, có ư nghĩa ǵ, chẳng
phải ngộ điều ấy, ngộ như vậy là hỏng
bét rồi! Quư vị ngộ kiểu ấy, chỉ hiểu
được câu ấy, lại xem đến câu kế tiếp
sẽ chẳng ngộ. “Ngộ”
là nói “ngộ nhập tự tánh!” Thật sự ngộ
nhập tự tánh, không chỉ hiểu trọn vẹn một
bộ kinh này, mà hết thảy các kinh do chư Phật Như
Lai đă nói cũng hiểu toàn bộ. Các pháp thế gian và
xuất thế gian không có pháp nào chẳng thông đạt,
lúc đó mới gọi là “khai ngộ”. Một ngộ, hết
thảy ngộ, chẳng phải ngộ một câu này. Chẳng
có ư nghĩa như thế! Bốn câu này nhằm [diễn tả]
t́nh trạng khai ngộ. Có thể thấy: Thật sự nói
và nghe th́ chỗ nào chẳng phải là tu hành? [Luôn luôn] đang
tu hành, tu Định! Nghe rơ ràng, rành rẽ, đó là tu Huệ.
Khi nghe chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, chẳng
có vọng tưởng, đấy là tu Định. Thái độ
nghe kinh như vậy là “Định
Huệ đẳng học” (học cân bằng Định
và Huệ), vận dụng công phu thuần thục, sẽ
nhập cảnh giới, khai ngộ. V́ thế, nghe kinh rất
kỵ khởi phân biệt trong ấy: Ở chỗ này nghĩa
là ǵ, cách giảng như thế nào, kỵ nhất điều
đó! Bởi lẽ, quư vị nghe như vậy, hoàn toàn rơi
vào ư thức, rơi vào thức thứ sáu, thức thứ
sáu là hắc ám, chẳng phải là quang minh, vĩnh viễn
chẳng thể khai ngộ. Đây là chỗ người thời
nay thua kém cổ nhân!
Nói cách
khác, quư vị c̣n có tâm là c̣n có cảnh giới. Tâm và ngoại
cảnh đối lập, sẽ c̣n có phàm, c̣n có thánh, c̣n có
y báo, c̣n có chánh báo, c̣n có một, c̣n có nhiều, quư vị hoàn
toàn sống trong thế giới tương đối. Đấy
là chưa nhập, là phàm phu; ắt cần phải vượt
thoát tương đối, nên bất đắc dĩ nói
Nhất Chân pháp giới. V́ thế “nhất thời” là khi chứng đắc Nhất
Chân pháp giới, cũng tức là khi bản thân chúng ta chứng
đắc nhất tâm bất loạn. Nhất Chân pháp giới
là Sở Chứng; nhất tâm bất loạn là Năng Chứng.
Năng và Sở là một, chẳng hai, lúc ấy là thật
sự chứng. Nếu Năng Chứng và Sở Chứng là
hai chuyện, tâm và cảnh sẽ chẳng mất, tâm và cảnh
bèn đối lập, chưa nhập. Tâm và cảnh nhất
định là một, không hai, phàm và thánh là một, y báo và chánh
báo là một, một và nhiều cũng là một, đấy
mới là thật sự khế nhập. Khi ấy, con người
thật sự giải thoát, thật sự tự tại. “Thử chư nhị pháp, giai nhất
chi thời” (lúc các pháp đối lập ấy đều
là một) th́ là “nhất thời”.
(Sao)
Thuyết thính vô định giả.
(鈔) 說聽無定者。
(Sao:
Người nói và kẻ nghe bất định).
Đây là
nhằm giải thích câu “dĩ
thuyết thính vô định cố” trong phần trước.
(Sao)
Hoặc thuyết giả đắc đà-la-ni, nhất sát-na
khoảnh, nhất tự chi trung, thuyết nhất thiết
pháp môn.
(鈔) 或說者得陀羅尼,一剎那頃,一字之中,說一切法門。
(Sao: Hoặc là người nói
đắc đà-la-ni, trong một sát-na, trong một chữ,
nói hết thảy pháp môn).
Người
thuyết pháp đắc đà-la-ni. Đà-la-ni (Dhāranī)
là dịch âm tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng
Hán là Tổng Tŕ, “tổng nhất
thiết pháp, tŕ nhất thiết nghĩa” (bao gồm hết
thảy các pháp, nắm giữ hết thảy các nghĩa),
nay chúng ta thường nói là “cương lănh”, [tổng tŕ là]
nắm vững cương lănh Phật pháp. Cương lănh
ấy vô cùng đơn giản, tóm tắt; v́ thế, kinh giảng
về đà-la-ni (tức là pháp môn Tổng Tŕ) có “nhiều chữ, ít chữ, một
chữ, không có chữ nào” sai khác! Thường là nói bốn
loại lớn ấy. “Sát-na
khoảnh” là thời gian hết sức ngắn ngủi.
“Đa tự, như chư kinh
mật chú. Nhất tự, như Án tự. Vô tự, như
vô tướng diệu tâm” (Nhiều chữ như mật
chú trong các kinh. Một chữ như chữ Án (Aum). Không có
chữ như vô tướng diệu tâm). Đà-la-ni nhiều
chữ như chú Lăng Nghiêm, chú Đại Bi, chú Văng Sanh.
Một chữ là như trong Phật môn thường nói Án
(Aum: ॐ); trong bốn mươi tự mẫu
(chữ cái) của Hoa Nghiêm, chữ A là nguyên âm thứ nhất,
hết thảy âm thanh đều từ nguyên âm này biến
hóa, nay chúng ta gọi là “mẫu âm” (vowel), mẫu âm thứ
nhất là chữ này. Vô tự là “ngôn
ngữ dứt bặt, tâm hành xứ diệt”, là nhất
tâm, “vốn chẳng có một
vật” như Lục Tổ nói thuộc loại vô tự,
tức là chân tâm, bản thể. “Vô
tướng diệu tâm” là nói tới vô tự đà-la-ni.
Vô tự đà-la-ni là Thể, có tác dụng chẳng thể
nghĩ bàn; đó gọi là “Bát
Nhă vô tri, không ǵ chẳng biết”.
Nay chúng
ta muốn đạt được, quan trọng nhất
là Vô Tự đà-la-ni, tức là đắc thanh tịnh tâm,
điều này rất trọng yếu. Đặc biệt là
tu pháp môn Tịnh Độ, nói thật thà th́ tu pháp môn Tịnh
Độ là tu tâm thanh tịnh mà thôi! Đó gọi là “tâm tịnh, ắt cơi nước
tịnh”. Chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối
niệm câu A Di Đà Phật này, quư vị có nghĩ ta hằng ngày niệm, niệm rồi
ta nghĩ có đạt được ǵ hay không? Ta có được
điều ǵ hay không? Niệm một câu A Di Đà Phật này
nhằm đắc tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh có thật
sự đạt được hay chưa? Tâm thanh tịnh
là nhất niệm bất sanh, đó là tâm thanh tịnh. Trong
tâm vẫn c̣n khởi tâm động niệm, tâm ấy chẳng
thanh tịnh. Tâm thanh tịnh có thể sanh ra muôn pháp, đấy
là căn bản! Căn bản đà-la-ni. Nếu trong tâm c̣n
có vọng niệm tơi bời, đời này chúng ta niệm
Phật sẽ không thể thành tựu, chỉ có thể nói
là kết thiện duyên với Tây Phương Cực Lạc
thế giới mà thôi! Đời này có thể văng sanh hay không?
Chẳng thể văng sanh. Quư vị muốn văng sanh th́ tâm nhất
định phải thanh tịnh. Tâm không thanh tịnh, làm
sao có thể văng sanh?
Do vậy,
chúng ta phải dùng một câu A Di Đà Phật để niệm
cho hết tập khí vọng tưởng từ vô thỉ
kiếp đến nay, niệm cho dứt những tập
khí vọng tưởng ấy. Nhưng tập khí vọng
tưởng luôn dấy lên hiện hành, đây là chuyện
phiền phức, nhất định phải đề cao
cảnh giác. Hễ lục căn của chúng ta vừa tiếp
xúc cảnh giới lục trần, tập khí bèn dấy lên
hiện hành, hễ hiện hành sẽ tạo nghiệp, tạo
nghiệp lẽ nào chẳng hứng chịu quả báo! Tuy Tịnh
Độ nói “đới nghiệp
văng sanh”, nhưng chư vị phải biết: Mang theo
nghiệp cũ, chẳng phải là mang theo nghiệp mới,
phải hiểu rơ chuyện này! Nghiệp cũ là ǵ? Nghiệp
quá khứ! Chẳng phải là hiện tại chúng ta mỗi
ngày tạo nghiệp mà có thể mang theo [những nghiệp
ấy] được, chẳng có đạo lư ấy! Nói
cách khác, nay chúng ta đă giác ngộ, chúng ta phải dùng một
câu A Di Đà Phật này để thay thế tất cả
nghiệp chướng tập khí. Đấy là bí quyết
tu hành trong pháp môn này!
Do vậy,
văng sanh, cũng là nói đến chuyện tu Tịnh Độ,
có ba bậc công phu: Bậc thượng là Lư nhất tâm bất
loạn, đoạn Kiến Tư phiền năo, phá một
phần vô minh, đấy là công phu thượng thừa. Bậc
trung là chưa phá vô minh, nhưng đă đoạn Kiến
Tư phiền năo; đấy là Sự
nhất tâm bất loạn. Kinh Vô Lượng Thọ nói
đến ba bậc là thượng bối, trung bối, hạ
bối (bậc thượng, bậc trung, bậc hạ). Bậc
hạ khuất phục Hoặc, chưa đoạn phiền
năo, nhưng một câu A Di Đà Phật này có thể áp
chế [phiền năo]. Nói cách khác, phiền năo sẽ chẳng
thể dấy lên hiện hành. Trong tâm vừa động,
ngay lập tức biến [niệm ấy] thành A Di Đà Phật.
Công phu như vậy gọi là “đới nghiệp văng sanh”.
Ư niệm vừa dấy động, ngay lập tức hiện
hành, tức là chẳng có cách nào, không được rồi!
Ư niệm vừa dấy động, lập tức chuyển
nó thành A Di Đà Phật. Tập khí nghiệp chướng có
niệm thứ nhất, niệm thứ hai biến thành A Di
Đà Phật; đó gọi là “khuất
phục phiền năo, luyện tập công phu thành phiến”,
là ba phẩm Hạ trong ba bậc chín phẩm văng sanh; mọi
người chúng ta đều có thể đạt được
những phẩm này!
Ai nấy
đều làm được, nhưng v́ sao chúng ta không làm được?
Nói thật ra là chẳng chịu làm! Mà cũng chẳng biết
chuyển ngay trong niệm thứ hai. Niệm thứ nhất
dấy lên, đương nhiên chẳng thể chuyển nơi
đó, hăy chuyển trong niệm thứ hai. Ta vừa muốn
nói năng th́ niệm ấy dấy lên, đó là niệm thứ
nhất, niệm thứ hai bèn A Di Đà Phật, biến điều
ta vốn nghĩ thành A Di Đà Phật.
Đó là niệm Phật, là công phu. Niệm Phật phải
niệm theo cách như vậy th́ mới được!
Trong Tây Phương Xác Chỉ, Giác Minh Diệu Hạnh Bồ
Tát đă dạy chúng ta, “thiểu
thuyết nhất cú thoại, đa niệm nhất cú Phật,
đả đắc niệm đầu tử, hứa nhữ
Pháp Thân hoạt” (ít nói một câu chuyện, niệm
nhiều một câu Phật, để đánh chết ư niệm,
cho Pháp Thân được sống). Nói rất minh bạch!
Người văng sanh là văng sanh như vậy! Chúng ta suốt
ngày từ sáng đến tối niệm Phật, nhưng vọng
niệm vẫn dấy lên như cũ, vẫn tạo khẩu
nghiệp và thân nghiệp y như cũ, không được
rồi! Nếu người như vậy mà cũng có thể
văng sanh th́ chẳng có đạo lư nào! Nói theo Lư, chẳng thể
thông suốt được! Do vậy, quư vị nhất
định phải biết: Mang theo nghiệp cũ, chẳng
mang theo nghiệp mới.
Thật
sự đạt được tâm thanh tịnh, chưa cần
nói đến nhất tâm bất loạn, đấy là công
phu thượng thừa (Lư nhất tâm bất loạn) và công
phu trung thừa (Sự nhất tâm bất loạn), [chỉ
nói đến] công phu bậc hạ th́ Phật hiệu của
quư vị có thể áp chế phiền năo, trí huệ hiện
tiền, ít nhiều ǵ trí huệ trong tự tánh của quư vị
đă lộ ra. Nếu quư vị chẳng thể áp chế [phiền
năo] th́ không được rồi, những ǵ quư vị lưu
lộ ra vẫn là tâm ư thức khởi tác dụng y như
cũ: Phân biệt, chấp trước khởi tác dụng,
chẳng phải là chân tâm khởi tác dụng. Trong chân tâm,
không có phân biệt, chấp trước, vọng tưởng.
Hết thảy kinh luận vốn dựa trên nguyên lư này, pháp
môn Niệm Phật của chúng ta cũng chẳng phải là
ngoại lệ, mà cũng căn cứ trên nguyên lư và nguyên tắc
này.
(Sao) Hoặc
thính giả đắc tịnh nhĩ căn, ư nhất sát-na,
văn nhất tự thời, ư dư nhất thiết tất
vô chướng ngại.
(鈔) 或聽者得淨耳根,於一剎那,聞一字時,於餘一切悉無障礙。
(Sao: Hoặc
người nghe đắc nhĩ căn thanh tịnh, trong
một sát-na, lúc nghe một chữ bèn đối với hết
thảy những điều khác đều chẳng chướng
ngại).
Đoạn trên là nói về người nói,
đoạn này nói về người nghe. Người nghe
cũng có thể khai ngộ, nói cách khác, quư vị biết
nghe! Nếu người nói biết nói, người nói
sẽ khai ngộ, người nghe biết nghe, người
nghe sẽ khai ngộ. Nếu người nói chẳng biết
nói, nhưng chúng ta là người nghe biết nghe th́ nghe xong
có thể khai ngộ hay không? Sẽ khai ngộ. Tuy người
nói từ tâm ư thức mà nói ra, là lời nói của phàm phu,
nhưng người nghe chẳng chấp vào hai bên, chẳng
chấp vào Trung Đạo, nên người nghe khai ngộ. Tức
là khi nghe, thật sự tập trung tinh thần, khi nghe quên
mất ta, tâm thật sự đạt được thanh
tịnh. Khi ấy, chẳng chấp trước tướng
Ta, mà cũng chấp trước tướng Người
của kẻ thuyết pháp, mà cũng chẳng chấp trước
tướng Pháp được nói trong khi ấy, nghe rơ ràng,
rành rẽ, phân minh, tam luân thể không, người ấy sẽ
khai ngộ. Người ấy nghe như vậy sẽ ngộ
nhập nhất tâm, [đoạn này] nói đến đạo
lư ấy. “Tịnh nhĩ
căn” [là như vậy đó].
“Tịnh nhĩ” là như ngài
Quán Thế Âm Bồ Tát đă được nhắc tới
trong kinh Lăng Nghiêm. Quán Thế Âm Bồ Tát “nhĩ căn viên thông”, bất
luận nhĩ căn nghe như thế nào, Quán Thế Âm Bồ
Tát chẳng nghe bên ngoài, Ngài nghe bên trong. Chúng ta phải hiểu
rơ ràng “trong” và “ngoài”. [Nghe nói “trong” và “ngoài”, quư vị liền
nghĩ]: Bên ngoài là âm thanh, phải tiến nhập vào trong ấy
(bên trong âm thanh) để nghe! Quư vị nghĩ như vậy
là trật lất rồi! Trong và ngoài là ǵ? Bên ngoài là Trần,
bên trong là Tánh. Do vậy, Quán Thế Âm Bồ Tát nghe âm thanh bên
ngoài, tiếng người khác nói chuyện, tiếng xe ngựa,
tiếng mưa gió, đều là âm thanh; đó là Thanh Trần.
Chúng ta nghe những âm thanh ấy đều phân biệt, chấp
trước; v́ thế đối với Nhĩ Căn và Nhĩ
Thức của chúng ta, những âm thanh ấy là Thanh Trần.
Cách nghe của Quán Thế Âm Bồ Tát khác chúng ta, Ngài dùng tánh
Nghe, chẳng dùng Nhĩ Thức. Tánh Nghe nghe âm thanh bên ngoài, bèn
nghe được tánh của âm thanh, điều này gọi
là “minh tâm kiến tánh”. V́ thế
nói Ngài “lục căn thanh tịnh”, tịnh Nhĩ Căn, tịnh
Nhăn Căn, tịnh Thiệt Căn... sáu căn không căn nào
chẳng thanh tịnh. Thanh tịnh như thế nào? Chẳng
chạy theo Trần, mà hướng theo Tánh, đi theo Tánh. Tánh
ở chỗ nào? Tánh ở ngay trong lục trần, thấy
Trần bèn thấy Tánh, người ta cao minh ở chỗ
này!
Cổ
nhân tỷ dụ “dĩ kim tác
khí, khí khí giai kim” (dùng vàng chế đồ vật, món nào
cũng là vàng), sánh ví vàng như bổn tánh, sánh ví đồ
vật như lục trần, Ngài thấy các món vật bèn
thấy vàng. Quư vị nghĩ xem: Các món vật bất b́nh đẳng,
đủ mọi cách thức, h́nh dạng, kiểu cọ, lớn
nhỏ khác nhau; thấy được vàng th́ sao? B́nh đẳng,
Thể là b́nh đẳng. Do vậy, trong tâm Ngài chẳng có hết
thảy phân biệt, chấp trước, tâm Ngài b́nh đẳng.
B́nh đẳng đối với hết thảy các pháp, v́
Ngài thấy Pháp Tánh. Tánh và Tướng chẳng tách rời,
Tánh là Tướng, Tướng là Tánh. Từ Tướng bèn
thấy Tánh, đó là Phật, Bồ Tát. C̣n phàm phu chúng ta không
như vậy, khởi phân biệt, chấp trước nơi
Tướng, quên mất Tánh, đó gọi là “mê mất”, chấp
Tướng, mê Tánh. V́ thế, mê và ngộ là chuyện như
vậy đó. Người ta ngộ là ngộ ǵ vậy? Ngộ
là ngộ tánh. Trong hết thảy các pháp, họ thấy Pháp
Tánh từ Pháp Tướng, chúng ta gọi điều đó
là Giác hay Ngộ. Người giác ngộ sáu căn thanh tịnh,
chẳng nhiễm mảy trần, cho nên khởi tác dụng
chẳng bị chướng ngại.
“Ư nhất sát-na” (trong một
sát-na) là nói thời gian rất ngắn. “Văn nhất tự thời, ư dư nhất thiết
tất vô chướng ngại” (lúc nghe một chữ, đối
với hết thảy những điều khác đều
không chướng ngại), “dư”
là quá nhiều, không chỉ là một bộ kinh này. Trong bộ
kinh này, quư vị đă khai ngộ từ một chữ, sẽ
đối với bộ kinh này chẳng có chướng ngại.
Không chỉ đối với bộ kinh này chẳng bị
chướng ngại, mà đối với hết thảy các
kinh đều không bị chướng ngại. Không chỉ
chẳng bị chướng ngại đối với hết
thảy các kinh, mà đối với các pháp thế gian hay xuất
thế gian thảy đều không bị chướng ngại,
một ngộ, hết thảy ngộ! Quư vị phải hiểu
điều này, chính ḿnh chưa khai ngộ th́ trong tâm quư vị
phải biết rơ, chẳng cần phải hỏi ai khác, đối
với hết thảy các pháp quư vị có thông đạt vô
ngại hay không? Không có! Vậy là chưa khai ngộ.
Trong Ấn
Quang Đại Sư Vĩnh Tư Lục, đại
sư có một đệ tử quy y, sau khi lăo pháp sư
viên tịch, ông ta viết một bài kỷ niệm kể lại
một đoạn nhân duyên của chính ḿnh với lăo pháp
sư. Ông ta vốn là một phần tử trí thức cao cấp,
học vấn rất khá, đọc sách rất nhiều. Về
sau học Phật, tham Thiền, chính ḿnh rất đắc
ư, ngỡ bản thân đă khai ngộ. Thiền Tông có một
bộ ngữ lục nổi tiếng là Ngũ Đăng Hội
Nguyên, bộ sách này có một ngàn bảy trăm công án, tức
là những cuộc vấn đáp nhằm tiếp dẫn học
tṛ của các vị tổ sư xưa kia. Ông ta hết sức
tự hào, nói gần như đối với một ngàn bảy
trăm công án, gần như công án nào cũng tham thấu suốt,
chỉ c̣n sót lại một vài công án chưa thấu triệt
mà thôi, c̣n chừng năm, sáu công án chưa nắm chắc,
c̣n những công án khác thảy đều chẳng có vấn
đề. Do vậy, người ấy rất tự phụ,
cũng rất ngạo mạn. V́ thế, viết một bức
thư gởi lăo ḥa thượng Ấn Quang kể về tâm
đắc của chính ḿnh. Ngài Ấn Quang gởi thư trả
lời, nói: “Một ngàn bảy
trăm công án, chỉ cần ông tham thấu một điều,
sẽ hoàn toàn thông đạt [mọi công án]. Nếu c̣n có một
công án nào chẳng tham thấu, tức là ông hoàn toàn chẳng
thấu triệt ǵ hết”. Ông ta bị lăo ḥa thượng
tạt nước lạnh lên đầu, kể ra cũng
tỉnh ngộ, bỏ Thiền, thật thà niệm A Di
Đà Phật.
Hễ có
một điều chẳng thông, tức là quư vị chẳng
thông một điều nào. Hễ thông th́ hết thảy
đều thông! Điều này thật sự là giáng một
gậy vào đầu kẻ cuồng vọng. V́ thế, thật
sự thông đạt, các pháp thế gian và xuất thế
gian chẳng có ǵ không thông đạt, quư vị xử trí những
chuyện thế gian hằng ngày cũng sẽ tùy tâm thi thố,
tuyệt đối chẳng sai lầm. Chúng ta hăy tự suy
nghĩ, chính ḿnh chưa đạt đến cảnh giới
ấy th́ cũng phải học giống như vị đại
đức kia, quay trở lại thật thà niệm A Di
Đà Phật, đừng nên dấy vọng tưởng nữa,
phải nên buông hết thảy kinh giáo xuống. Mở những
kinh ấy ra xem chỉ giúp quư vị khởi vọng tưởng,
tăng trưởng tà tri tà kiến, chẳng có lợi tí nào
cho công phu tu hành của quư vị, nhất định phải
nhớ kỹ điều này!
Đây là
nêu bày công đức và lợi ích của hai phương diện
Nói và Nghe, chỉ cần quư vị biết nghe, biết nói
th́ nói và nghe đều là tu hành, nói và nghe thảy đều
có ngộ xứ. V́ vậy, nghe kinh phải chuyên tâm, phải
buông xuống tất cả tạp niệm. Trong khi nghe chẳng
có phân biệt, chấp trước, sự nghe kinh ấy sẽ
có ngộ xứ, bất luận người nào, chẳng được
đại ngộ th́ cũng là tiểu ngộ. Trong phần
trước đă nói đại triệt đại ngộ,
chúng ta chưa làm được điều ấy, nhưng
tiểu ngộ th́ chúng ta sẽ có. Thường có tiểu
ngộ, mấy năm sau sẽ biến thành đại ngộ.
Nhiều lần đại ngộ sẽ biến thành đại
triệt đại ngộ. V́ thế, biết nghe là dùng tâm
thanh tịnh để nghe, “nói” cũng giống như thế!
Trước
khi giảng kinh, phải làm công tác chuẩn bị. Nói thật
ra, chuẩn bị [lănh hội] kinh điển để nói,
chẳng bằng đối trước thính chúng có tâm cung
kính, chẳng dám lười nhác, chẳng dám ngạo mạn,
tu những điều ấy. Trước khi giảng kinh
bèn đọc kinh, xem chú giải, khi lên giảng đài, chưa
chắc quư vị đă dùng đến những thứ chuẩn
bị sẵn, v́ sao? Lên giảng đài có nhiều ư nghĩa
mới nẩy sanh. Tôi nghĩ đối với t́nh h́nh này,
từ xưa tới nay mỗi vị pháp sư lên giảng
đài đều có kinh nghiệm này. Trong quá khứ, tôi đọc
bộ Viên Giác Kinh Thân Văn Kư, do pháp sư Đế Nhàn giảng,
mấy vị đệ tử tại gia như Tưởng
Duy Kiều v.v... ghi chép. Bản thân Ngài giảng kinh, đă
soạn một bản Viên Giác Kinh Giảng
Nghĩa, nhưng trên giảng đài Ngài chẳng giảng
theo giảng nghĩa, người ngồi dưới mỗi
ngày ghi lại những điều lăo ḥa thượng giảng,
sau đấy đưa cho lăo ḥa thượng xem. Lăo ḥa
thượng đọc xong, cảm thấy rất ngạc
nhiên: “Những điều này do tôi đă giảng ư?” “Đúng
vậy! Do lăo nhân gia giảng”. “Ta làm sao giảng hay như
thế được?” Chính ḿnh nghĩ không ra. Trên giảng
đài, do tâm thanh tịnh, công phu quán chiếu đắc lực;
v́ thế, tự nhiên trong tâm trào ra các ư nghĩa và kinh nghĩa,
tự nhiên thổ lộ ra, nhưng chính ḿnh cũng chẳng
hay biết. Các vị đại đức xưa nay đều
có kinh nghiệm này. Nói và nghe nhất định phải hiểu
thái độ nói và nghe.
(Sao)
Hoặc thuyết giả thời thiểu, thính giả thời
đa, hoặc thuyết giả thời đa, thính giả
thời thiểu.
(鈔) 或說者時少,聽者時多;或說者時多,聽者時少。
(Sao: Hoặc là người nói
trong khoảng thời gian ngắn, mà người nghe cảm
thấy thời gian rất lâu; có lúc người nói trong thời
gian rất lâu mà người nghe cảm thấy thời
gian rất ngắn).
Cảm
nhận về thời gian dài hay ngắn khác nhau. Có lúc chúng
ta nghe người ta giảng diễn, thực tế là thời
gian chẳng dài, nhưng dường như một ngày bằng
cả năm, sao mà vẫn giảng chưa xong? Có lúc nghe rất
hứng thú, quên mất thời gian, sao mà rất ngắn tựa
như trong khoảnh khắc? Những kinh nghiệm này rất
nhiều người đă có. Hai câu này có ư nghĩa như vậy.
(Sao)
Thuyết giả thần lực diên xúc tùy nghi, thính giả căn
khí lợi độn bất nhất.
(鈔) 說者神力延促隨宜,聽者根器利鈍不一。
(Sao: Người nói có thần
lực nên có thể kéo dài hay rút ngắn [thời gian] tùy
nghi, căn khí của người nghe là lợi căn hay
độn căn bất nhất).
Hai câu này
nhằm giải thích về chuyện [thời gian] người
nói nhiều hay ít, người nghe nhiều hay ít trong phần
trên. Trong Phật pháp, chuyện này quả thật có cảnh
giới chẳng nghĩ bàn. Chẳng hạn như lấy
kinh Hoa Nghiêm để nói, sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật thành
đạo, đă nói [kinh Hoa Nghiêm] dưới cội Bồ
Đề trong hai thất, cũng có chỗ nói là ba thất.
Hai thất là mười bốn ngày, ba thất là hai
mươi mốt ngày, nói một bộ kinh lớn như
thế [trong một khoảng thời gian ngắn ngủi
như vậy], ai có thể tin tưởng? Nay chúng ta đem
kinh ấy niệm một lượt, niệm suốt hai mươi
mốt ngày chưa xong, huống hồ giảng giải? Huống
chi theo như Long Thọ Bồ Tát đă thấy, bộ kinh
Hoa Nghiêm [được lưu truyền trong Diêm Phù Đề]
chỉ là cương yếu. Trong cung rồng, Ngài đă thấy
toàn bộ kinh Hoa Nghiêm, toàn bộ có bao nhiêu? Theo phương
pháp tính toán [kích thước của] kinh Phật, cứ lấy
bốn câu làm một Kệ, hoặc gọi là một bài tụng.
Bộ kinh ấy có mười tam thiên đại thiên thế
giới vi trần[7] kệ, có một tứ thiên hạ[8] vi trần
phẩm. Ngài vừa thấy bèn sững sờ, nói thẳng
thừng, đơn giản là chúng sanh trong Diêm Phù Đề
sẽ chẳng thể nào lănh nhận được! Nếu
bộ kinh này có h́nh tướng th́ cả địa cầu
cũng chẳng thể dung nạp, bộ kinh lớn như
vậy đó! Sau đấy, Ngài mới bất đắc
dĩ xem trung bộ. Trung bộ vẫn c̣n quá lớn, vẫn
chẳng có cách nào tiếp nhận. Lại xem hạ bổn,
hạ bổn là đề yếu (nêu bày những điều
quan trọng), giống như Tứ Khố Toàn Thư Mục
Lục Đề Yếu, Đề Yếu bao nhiêu? Mười
vạn bài tụng, bốn mươi vạn câu, bốn mươi
phẩm. Long Thọ Bồ Tát thấy chúng sanh trong Diêm Phù Đề
có thể tiếp nhận bản kinh Hoa Nghiêm này, bèn đem
bộ kinh này truyền dạy trong thế gian. Nhưng hiện
thời bản dịch tiếng Hán vốn chỉ là một
nửa nguyên bản, đại kinh đă bị mất,
nguyên bản tàn khuyết, bản tàn khuyết chẳng hoàn
chỉnh được truyền sang Trung Quốc, [nghĩa
là] chúng ta phiên dịch phân nửa nguyên bản, gồm tám
mươi quyển. Tám mươi quyển kinh chỉ có bốn
vạn năm ngàn bài tụng, [tức là] mười vạn
bài tụng vẫn c̣n thiếu năm vạn năm ngàn bài tụng,
c̣n thiếu một chút mới được phân nửa, vẫn
chưa đạt đến [phân nửa nguyên bản].
Điều
này có nghĩa là thời gian nói ngắn ngủi, nhưng người
nghe cảm giác lâu dài. [Thính chúng] đều là các vị Bồ
Tát nghe giảng, đương cơ [của hội Hoa
Nghiêm] đều là bốn mươi mốt địa vị
Pháp Thân đại sĩ, họ cảm thấy đă nghe rất
nhiều. Câu này nhằm nói tới đạo lư ấy, “thuyết giả thần lực
diên xúc tùy nghi” (người nói có thần lực kéo dài
hay rút ngắn tùy nghi). Thời gian chẳng phải là pháp cố
định. Chư Phật Như Lai và các vị Bồ Tát có
thần thông, có thể biến thời gian ngắn ngủi
thành lâu dài, có thể rút thời gian dài thành ngắn ngủi,
có thể tự tại. Trong tiểu thuyết truyền kỳ
của Trung Quốc có chuyện Hoàng Lương Mộng (giấc
mộng kê vàng), quư vị đi học trong nhà trường,
học Quốc Văn đều đă đọc cả rồi,
chuyện ấy nói rơ thời gian kéo dài hay rút ngắn bất
định. Thời gian ngắn ngủi mà chính ḿnh cảm
thấy đă vài chục năm trôi qua, tỉnh giấc, bất
quá là vừa mới mấy phút mà thôi! Nếu người ấy
học thứ ǵ th́ trong mộng chẳng biết đă học
bao nhiêu thứ! Đó là trong thời gian ngắn ngủi, mà
nghe rất nhiều, dùng ngay thí dụ này để nói. Có
khi nói rất nhiều, nhưng người nghe cảm thấy
rất ít, đó là v́ [người nghe] thật sự nắm
được chỗ cương lănh và trọng yếu.
“Thính giả căn khí lợi
độn bất nhất” (căn khí của người
nghe là lợi căn hay độn căn khác nhau), có người
lợi căn, có kẻ độn căn. Nói chung, một
nguyên tắc là: Nghe kinh cũng thế, đọc kinh cũng
thế, tu hành cũng thế, nhất định phải đạt
được pháp vị, phải thật sự nếm được
mùi vị Phật pháp. Hễ nếm được pháp vị
sẽ pháp hỷ sung măn, thân và tâm sẽ đạt được
khoái lạc! Đấy là thật sự có thâu hoạch nơi
Phật pháp. Nếu học Phật rất khổ sở,
giống như đi học rất nhọc nhằn, không
muốn học cũng phải học, học chẳng có hứng
thú ǵ, tức là chúng ta đă đi lạc đường,
hoặc là trật phương pháp, ắt cần phải sửa
đổi. Nguyên nhân chánh yếu là như thế đó. Phật
pháp chẳng phải là pháp cố định, kinh Kim Cang
đă nói rất hay: “Phật vô
hữu định pháp khả thuyết” (Phật chẳng
có pháp nhất định nào để nói), Phật pháp tùy
thuận mỗi chúng sanh mà có một cách thuyết pháp.
V́ vậy, quư vị hăy nói thử xem: Có bao
nhiêu pháp môn? Vô lượng vô biên. V́ sao? Chúng sanh vô lượng
vô biên, pháp môn do chúng sanh mà thiết lập. Giống như
các món thuốc, thuốc có rất nhiều loại, vô
lượng vô biên; v́ sao có nhiều thứ như vậy? Bệnh
có vô lượng vô biên. Nếu bệnh rất đơn
thuần, chỉ có một loại bệnh, sẽ chỉ có
một loại thuốc! Thuốc ấy có thể trị lành
bệnh, cần ǵ phải có nhiều thứ như thế!
Bệnh có rất nhiều loại, nên thuốc cũng rất
nhiều, đạo lư là như thế đó.
V́ vậy,
chúng ta phải chú ư phương pháp tu hành, tuyệt đối
chớ nên khăng khăng giữ chặt quy củ, người
khác dùng phương pháp ấy hữu hiệu, ta dùng không thấy
hiệu quả! Ta dùng phương pháp này rất hữu hiệu,
nhưng người khác dùng chẳng hữu hiệu. Thích hợp
với căn tánh và cuộc sống của chính ḿnh, phương
pháp tu học đối với chính ḿnh rất có hiệu
quả, thân tâm của chính ḿnh tự tại, pháp hỷ sung
măn. Chúng ta phải dùng trí huệ để chọn lựa
những điều giống như vậy, hoặc là cải
tiến phương pháp tu học của tiền nhân sao cho
thích hợp với thời đại này. Ngày nay thường
nói tới chuyện “hiện đại hóa” th́ phương
pháp tu hành trong Phật pháp cũng phải “hiện đại
hóa”, nhưng tinh thần nguyên lư và nguyên tắc vĩnh viễn
không thay đổi, phương thức có thể thay đổi.
Nhất định phải hiện đại hóa mới
được.
(Sao)
Cổ vị tam thừa phàm thánh, sở kiến Phật
thân báo hóa, niên tuế đoản trường, thành Phật
cửu cận, các các bất đồng cố. Kim chỉ
thủ Phật cập đệ tử sư tư cơ cảm
tương ngộ chi khoảnh, thuyết thính sự tất,
tiện danh “nhất thời” dă.
(鈔) 古謂三乘凡聖,所見佛身報化,年歲短長,成佛久近,各各不同故。今止取佛及弟子師資機感相遇之頃,說聽事畢,便名一時也。
(Sao:
Cổ nhân nói: - Phàm phu và thánh nhân trong tam thừa thấy báo
hóa thân của Phật có tuổi thọ dài hay ngắn khác
nhau, thành Phật gần đây hay đă lâu xa, mỗi
người thấy mỗi khác. Nay chỉ lấy khoảng
thời gian đức Phật và các đệ tử thầy
tṛ cơ cảm gặp gỡ, nói và nghe xong xuôi bèn gọi
là “một thời”).
Từ đoạn
văn này trở đi đều là ấn chứng. “Phàm phu” là lục đạo, Nhị
Thừa là Thanh Văn, Duyên Giác cùng với ba địa vị
Tam Hiền Bồ Tát trong Biệt Giáo. Những người
này đều chưa kiến tánh, nói cách khác, xử sự,
đăi người, tiếp vật vẫn dùng thức thức
sáu, vẫn dùng tâm ư thức, vẫn dùng tâm phân biệt, chưa
thể chuyển thức thành trí. Họ thấy Phật, thấy
Bồ Tát đều dùng cái tâm phân biệt, chấp trước
để thấy, cho nên họ thấy Ứng Thân của Phật.
Giống như thuở Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện
trên thế giới này, Ngài trụ thế bảy mươi
chín năm (tính theo tuổi ta là tám mươi tuổi), đó
là nói “kiến Phật thân báo
hóa, niên tuế đoản trường” (thấy báo hóa
thân của Phật có tuổi thọ dài hay ngắn khác nhau).
“Thành Phật cửu cận”,
Cửu (久) là xa xôi, Cận (近) là chẳng xa. Thích Ca Mâu Ni Phật thị
hiện [thành Phật] mới đây, Ngài cũng thị hiện
thọ mạng chẳng dài. Từ kinh Vô Lượng Thọ,
chúng ta thấy lúc ban sơ A Di Đà Phật phát tâm, Ngài mang
thân phận quốc vương, thuở ấy, thọ mạng dài lâu: Phật trụ thế
thọ mạng bốn mươi hai kiếp,
đương nhiên là thọ mạng của chúng sanh
cũng dài ngần ấy. Đó là dài hay ngắn khác nhau, Phật
thị hiện thời gian tu hành và thành đạo đều
dài.
Ở
đây, nay “chỉ thủ Phật
cập đệ tử sư tư cơ cảm
tương ngộ chi khoảnh” (chỉ lấy khoảng
thời gian đức Phật và các đệ tử thầy
tṛ cơ cảm, gặp nhau) mà gọi là “nhất thời”, chẳng nói đến chuyện
ǵ khác, chỉ chọn lấy ư nghĩa này. Thích Ca Mâu Ni Phật
là người nói, các đệ tử tham dự pháp hội
là người nghe pháp hiện diện trong khi ấy, đó
là cơ duyên chín muồi, cảm ứng
đạo giao. Nhất là do pháp môn này là “vô vấn tự thuyết” (không ai hỏi mà tự
nói), cho nên vô cùng đặc biệt.
(Sao)
Thập phương thời phần giả, dĩ thập
phương biến ư hoành thụ, thụ tắc cai hồ
thiên thượng.
(鈔) 十方時分者,以十方遍於橫豎,豎則該乎天上。
(Sao: “Phân định thời
gian trong mười phương”: Do mười
phương trọn khắp chiều ngang lẫn chiều
dọc. Chiều dọc bao gồm cả cơi trời).
“Hoành thụ”: Nói tới Thụ
(chiều dọc) là chỉ nói tới lục đạo. Lục
đạo là chư thiên, Tu La, con người, súc sanh, ngạ
quỷ, địa ngục, đó là “thụ thuyết” (nói theo chiều dọc), thời
gian quả thật khác nhau. Dưới đây, nêu ra một
thí dụ để nói:
(Sao)
Tứ Thiên nhất nhật.
(鈔) 四天一日。
(Sao:
Một ngày trên cơi trời Tứ Thiên).
“Tứ
Thiên” là Tứ Thiên Vương Thiên[9]. Một ngày đêm trên Tứ Thiên Vương
Thiên.
(Sao)
Nhân thọ ngũ tuần.
(鈔) 人壽五旬。
(Sao: Bằng năm
mươi năm trong nhân gian).
Thọ mạng
năm mươi năm trong nhân gian bằng một ngày đêm
trong Tứ Thiên Vương Thiên, thọ mạng trên Tứ
Thiên Vương Thiên dài lâu. Cao hơn Tứ Thiên Vương
Thiên là Đao Lợi Thiên, một ngày đêm trên Đao Lợi
Thiên bằng một trăm năm trong nhân gian chúng ta. V́ thế,
cơi người chẳng đáng kể ǵ, đừng nên chấp
trước quá, có ǵ tốt đẹp để so đo?
Chư thiên cơi Đao Lợi nh́n chúng ta: “Đáng
thương! Sáng sanh, tối chết!”, bọn hắn có thể
sống được bao lâu? Bất quá một ngày đêm
mà thôi! Lên cao hơn, thọ mạng Dạ Ma Thiên càng dài hơn,
một ngày đêm trên Dạ Ma Thiên là hai trăm năm trong
nhân gian chúng ta. Một ngày đêm trên Đâu Suất Thiên là bốn
trăm năm trong nhân gian chúng ta. Nh́n từ Đâu Suất
Thiên, nhân gian chúng ta chỉ sống mấy giờ, đúng là
quá đáng thương. Mấy giờ ấy cũng chẳng
thật thà! Tranh danh, đoạt lợi, lo được,
lo mất! Phải giác ngộ điều này. Đó là nh́n lên
trên.
Nếu nh́n
xuống dưới, thọ mạng trong súc sanh đạo
chẳng nhất định. Thọ mạng ngắn ngủi,
như các loài trùng nhỏ sống trên mặt nước, nó
có thể chạy tới, chạy lui trên mặt nước,
chúng ta gọi chúng là “phù du” (mayfly). Thọ mạng đích xác
của loài phù du chỉ là mấy tiếng đồng hồ.
V́ thế, chúng ta thấy thọ mạng của chúng giống
như chư thiên trời Đao Lợi thấy [thọ mạng]
của chúng ta. Trong loài súc sanh, cũng có loài thọ mạng
rất dài, như loài rồng được nói trong kinh, rồng
là súc sanh, thọ mạng dài đến mấy kiếp. Ngạ
quỷ đạo, địa ngục đạo thọ mạng
đều rất dài. Trong kinh điển nhà Phật có nói:
Một ngày đêm trong địa ngục A Tỳ là hai ngàn
bảy trăm mấy chục năm trong nhân gian. Trung Quốc
có danh hiệu là “năm ngàn năm lịch sử”, chưa đầy
hai ngày trong địa ngục A Tỳ! V́ thế, chớ nên
đến nơi ấy. Thọ mạng của họ là
bao lâu? Thọ mạng ít nhất là một vạn năm, một
ngày đêm [trong địa ngục] bằng hai ngàn bảy trăm
năm trong nhân gian! Chớ nên tạo tội nghiệp địa
ngục! Tiến vào rất dễ, thoát ra khó lắm! V́ thế,
trong kinh điển đức Phật đă giảng về
địa ngục rất tỉ mỉ, nhằm bảo chúng
ta hăy lưu tâm đề cao cảnh giác, chớ nên đọa
địa ngục. Đây là nói theo chiều dọc, thời
gian đích xác là khác nhau, sai biệt rất lớn.
(Sao)
Hoành tắc biến hồ tứ châu, Thiệm Bộ tam
canh, Câu Lô nhật ngọ, bất khả định dă.
(鈔) 橫則遍乎四洲,贍部三更,俱盧日午,不可定也。
(Sao: Theo chiều ngang th́ trọn
khắp bốn đại châu, Nam Thiệm Bộ Châu là canh
ba th́ Bắc Câu Lô Châu đă là giữa trưa, nên [thời
gian] chẳng thể nhất định).
Nói theo
chiều ngang, nay chúng ta nói là “múi giờ sai khác”. Thí dụ
như nay chúng ta ở đây là chín giờ tối th́ tại
Nữu Ước (New York) của Mỹ là chín giờ sáng. Điều
này được gọi là múi giờ sai lệch, chẳng
giống nhau. “Bất khả
định dă” (chẳng thể nhất định), nên
kinh Phật không ghi chép năm, tháng, ngày, giờ là có lư.
(Sao)
Lưỡng độ chánh sóc giả, tuế thủ chi nhật,
danh vi Chánh Sóc.
(鈔) 兩土正朔者,歲首之日,名為正朔。
(Sao: “Ngày Chánh Sóc hai cơi khác
nhau”: Ngày đầu năm gọi là Chánh Sóc[10]).
“Tuế thủ” là cách người
Trung Quốc gọi ngày mồng Một tháng Giêng vào thời
cổ. Chúng ta ấn định ngày mồng Một tháng Giêng
nhằm ngày nào? Người Trung Quốc ấn định
ngày mồng Một tháng Giêng chẳng giống người Ấn
Độ.
(Sao)
Chấn Đán, Ngũ Thiên, bất tương thống thuộc.
(鈔) 震旦五天,不相統屬。
(Sao: Trung Hoa và năm xứ
Thiên Trúc [ấn định ngày đầu năm] chẳng
giống nhau).
“Chấn
Đán” là Trung Quốc, Ngũ Thiên là Ngũ Thiên Trúc, tức
Ấn Độ. Lịch pháp Trung Quốc và lịch pháp Ấn
Độ khác nhau. Không chỉ Trung Quốc và ngoại quốc
khác nhau, mà Trung Quốc cổ đại, Hạ, Thương,
Châu khác nhau.
(Sao)
Châu chánh kiến Tư.
(鈔) 周正建子。
(Sao:
Đời Châu, ấn định tháng Tư là tháng Giêng).
Đời
Châu ấn định ngày mồng Một tháng Giêng vào tháng Tư,
tức là ngày mồng Một tháng Mười Một [Âm lịch]
hiện thời.
(Sao)
Hạ chánh kiến Dần.
(鈔) 夏正建寅。
(Sao:
Nhà Hạ định tháng Giêng nhằm tháng Dần).
Tháng Dần
là tháng ta đang sử dụng trong lịch pháp hiện thời.
Âm lịch hiện thời cũng gọi là “Hạ lịch”[11], lấy ngày mồng Một tháng Dần
làm ngày đầu năm, tức là mùng Một tháng Giêng. Có
thể thấy ba triều đại Hạ, Thương,
Châu lịch pháp khác nhau. “Thiên
can địa chi”, Địa Chi là dùng mười hai chữ[12]
để tượng trưng cho mười hai tháng. Nay chúng
ta lấy tháng Dần làm tháng Giêng.
(Sao)
Bỉ thời Chấn Đán thuộc Châu, nhi Phật tại
Xá Vệ, Xá Vệ kiến Dần, năi dụng Hạ chánh.
(鈔) 彼時震旦屬周,而佛在舍衛,舍衛建寅,乃用夏正。
(Sao: Khi ấy, Chấn Đán
thuộc nhà Châu, nhưng đức Phật ở thành Xá Vệ,
Xá Vệ lấy tháng Dần làm tháng Giêng, tức là dùng theo Chánh
Sóc của nhà Hạ).
Đây là
xét theo khảo cứu, khi đó, tại Ấn Độ,
ngày mồng Một tháng Giêng của họ giống như
chúng ta đang sử dụng hiện thời, trong khi ấy,
Trung Quốc thuộc triều đại nhà Châu. Nhà Châu ăn
Tết sớm hơn một tháng [so với hiện thời],
không giống lịch pháp hiện thời.
(Sao)
Tắc Ngũ Thiên chánh nguyệt, Chấn Đán tam nguyệt,
Ngũ Thiên nhị nguyệt, Chấn Đán tứ nguyệt
dă, diệc bất khả định.
(鈔) 則五天正月,震旦三月,五天二月,震旦四月也,亦不可定。
(Sao: Cho nên Ngũ Thiên Trúc là
tháng Giêng th́ Trung Hoa đă là tháng Ba, Ấn Độ là tháng
Hai th́ Trung Hoa đă là tháng Tư, nên cũng không thể nói
nhất định được).
Đây là
nói lịch pháp của Trung Quốc và Ấn Độ khác
nhau, huống chi thuở ấy Ấn Độ chưa thống
nhất, lịch pháp Ấn Độ cũng không thống
nhất, không giống như Trung Quốc. Ở Trung Quốc,
vào thời nhà Châu, lịch pháp đă thống nhất .
(Sao)
Cố chỉ ngôn nhất thời dă.
(鈔) 故止言一時也。
(Sao:
Cho nên chỉ nói “nhất thời”).
Đây là
nói rơ nguyên nhân theo phương diện thời gian và không
gian v́ sao chẳng ghi chép năm, tháng, ngày, giờ. Dưới
đây là nói tới giáo nghĩa trong kinh này:
(Sao)
Tâm cảnh giả, nhất tâm bất loạn, vô năng niệm,
sở niệm cố. Phàm thánh giả, dữ chư thượng
thiện nhân đồng hội nhất xứ cố. Y chánh
giả, Phật cập thủy điểu thụ lâm,
đồng thuyết diệu pháp cố. Nhất đa giả,
nhất Phật thuyết kinh, lục phương tề
tán cố.
(鈔) 心境者,一心不亂,無能念所念故。凡聖者,與諸上善人,同會一處故。依正者,佛及水鳥樹林,同說妙法故。一多者,一佛說經,六方齊讚故。
(Sao:
“Tâm cảnh”: Nhất tâm bất loạn, do không có năng niệm
và sở niệm. “Phàm thánh”: Cùng ở một chỗ với
các bậc thượng thiện nhân. “Y chánh”: Phật và
nước, chim, rừng cây cùng nói diệu pháp. “Một nhiều”:
Một vị Phật nói kinh, sáu phương cùng ca ngợi).
Những
điều này đều nói về pháp môn Bất Nhị, Lư
Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại, toàn bộ đều
là cảnh giới Hoa Nghiêm.
(Sao)
Như thượng chủng chủng nhị pháp, giai thành nhất
vị.
(鈔) 如上種種二法,皆成一味。
(Sao: Các thứ hai pháp [đối
lập] như trên đều thành một vị).
Đây là
nhập pháp môn Bất Nhị, nhập Nhất Chân pháp giới.
(Sao)
Tức dĩ thử thời vi nhất thời dă.
(鈔) 即以此時為一時也。
(Sao:
Nên coi lúc ấy là “nhất thời” vậy).
Đây mới là ư nghĩa
thật sự của “nhất
thời”. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng tôi
giảng tới chỗ này.
A Di
Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa
Phần 53 hết
[1] Chỉ tĩnh: ngồi yên lặng sau
khi niệm Phật, có thể niệm thầm hay quán tưởng
Phật hiệu. Chữ này thường bị đọc
trại thành “chỉ tịnh”.
[2] A
[3] Điều này được chép trong
quyển bốn mươi của kinh Đại Bát Niết
Bàn,
[4] Ba điều kiện ấy là: Chẳng
nhận y cũ của đức Phật, chẳng theo Phật
khi Phật được thỉnh riêng (tức là có những
trường hợp thí chủ chỉ mời ḿnh đức
Phật thọ trai, không mời toàn bộ Thường Tùy
Chúng), ba là những kinh chưa được nghe, xin đều
được nhắc lại. Hai điều đầu nhằm
tránh hiềm nghi, sợ có người dị nghị là v́
cơm áo mà A Nan làm thị giả của đức Phật.
[5] Gọi là “quảng
đơn” v́ xưa kia chư Tăng không có giường.
Mỗi người nằm ngủ trên một tấm ván vừa
với thân ḿnh, nên gọi là “đơn”. Chùa lớn có nhiều
liêu pḥng, nhưng mỗi liêu pḥng là một pḥng ngủ lớn,
có kê nhiều đơn; v́ thế, gọi là “quảng đơn”. Dưới
mỗi đơn, là một tráp nhỏ đựng quần
áo và các đồ dùng cá nhân lặt vặt, thậm chí không
có tủ riêng.
[6] Quan điểm có đến ba vị A
Nan Đà do Trí Giả đại sư đề xướng.
Trong Pháp Hoa Kinh Văn Cú có đoạn viết: “Kinh Chánh Pháp Niệm nói có ba vị
A
[7] Tam thiên đại thiên thế giới
vi trần: Số lượng vi trần trong một tam
thiên đại thiên thế giới.
[8] Tứ thiên hạ là nói đến bốn
đại bộ châu, tức nhân gian. Do bốn đại
bộ châu nằm ngay dưới Tứ Thiên Vương
Thiên nên gọi là “tứ thiên hạ”.
[9] Tứ Thiên Vương Thiên (Caturmahārājakāyikās) là tầng trời thứ nhất, nằm ngay ngang lưng núi Tu Di. Gọi là Tứ Thiên Vương Thiên v́ trong cơi trời này có bốn vị thiên vương cai quản bốn phía là Bắc phương Đa Văn Thiên Vương (Vaiśravana, thống lănh chúng Dạ Xoa, La Sát, thủ hộ Bắc Câu Lô Châu), Tây phương Quảng Mục Thiên Vương (Virūpākśa, thống lănh loài rồng, ngạ quỷ v.v... thủ hộ Tây Ngưu Hóa Châu), Nam phương Tăng Trưởng Thiên Vương (Virūdhaka, thống lănh loài quỷ Cưu Bàn Trà, Bệ Lệ Đa v.v... thủ hộ Nam Thiệm Bộ Châu), và Đông phương Tŕ Quốc Thiên Vương (Dhritarāśtra, thống lănh các loài điên cuồng quỷ, hương âm thần v.v.. , thủ hộ Đông Thắng Thần Châu). Nói chung, các loại quỷ thần, thiên long bát bộ đều thuộc quyền quản hạt của bốn vị thiên vương này.
[10] Ngày đầu tháng trong Âm Lịch
được gọi là Sóc (Sóc có nghĩa là khởi đầu,
c̣n gọi là Nguyệt Cát), tháng Giêng lại gọi là Chánh
Nguyệt, nên mồng Một tháng Giêng được gọi
là Chánh Sóc. Ngày Rằm gọi là Vọng, ngày cuối tháng gọi
là Nguyệt Tận. Tháng đủ (ba mươi ngày) th́
ngày cuối tháng gọi là Đại Tận, tháng thiếu
sẽ gọi ngày cuối tháng là Tiểu Tận.
[11] Người Trung Hoa vẫn tin Âm Lịch
hiện thời do Hiên Viên Hoàng Đế chế ra, đến
nhà Hạ chọn tháng Dần làm tháng Giêng v́ quan niệm ứng
với quẻ Thái trong kinh Dịch, nhưng nhà Thương
lại chọn tháng Sửu (tháng Chạp hiện thời)
làm tháng Giêng v́ nó tương ứng với quẻ Lâm mang ư
nghĩa tốt lành hơn, nhà Châu chọn tháng Tư (tháng Mười
Một hiện thời) làm tháng Giêng, nhà Tần chọn
tháng Hợi (tháng Mười Âm lịch hiện thời) làm
tháng Giêng, đến đời Hán Vũ Đế (144
trước Công Nguyên), quyết định quay lại áp dụng
lịch nhà Hạ và từ đó đến nay không thay
đổi nữa. Do trong nhân gian thường quan niệm
vào giờ Tư là bắt đầu cho một ngày mới, khí
Dương bắt đầu tăng trưởng, giờ
Sửu gà gáy, giờ Dần trời rạng sáng, con người
thức dậy ra đồng, nên cổ nhân hay nói “thiên khai ư Tư, địa khai
ư Sửu, nhân khai ư Dần”. Câu này được
chép lại trong Tây Du Kư hồi một. Một tà phái ở
Việt
[12] Thiên Can gồm Giáp, Ất, Bính, Đinh,
Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quư (mười chữ). Địa
Chi gồm mười hai chữ là Tư, Sửu, Dần, Mẹo
v.v... Đôi khi lại gọi theo tên loài hoa chủ yếu
trong một số tháng, nên mười hai tháng trong Âm lịch
theo thứ tự sẽ là chánh nguyệt, hạnh nguyệt,
đào nguyệt, mai nguyệt, lựu nguyệt, hà nguyệt
(hoa sen), lan nguyệt, quế nguyệt, cúc nguyệt,
lương nguyệt (tháng tốt lành), đông nguyệt
(tháng mùa Đông), và lạp nguyệt (tháng chạp).