A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa
阿彌陀經疏鈔演義
Phần 58
Chủ giảng: Lão pháp
sư Thích Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang
Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Minh Tiến,
Huệ Trang và Đức Phong
Tập 115
Xin
xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang hai trăm bốn mươi sáu:
Nhị, liệt danh.
(Kinh) Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, A Dật
Đa Bồ Tát, Càn Đà Ha Đề Bồ Tát , Thường Tinh Tấn Bồ Tát .
二、列名。
(經) 文殊師利法王子。阿逸多菩薩。乾陀訶提菩薩。常精進菩薩。
(Hai,
nêu tên.
Kinh: Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, A Dật Đa Bồ Tát , Càn Đà Ha Đề Bồ Tát
, Thường Tinh Tấn Bồ Tát ).
Kinh
này nêu tên bốn vị Bồ Tát, vị thứ nhất là Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử.
(Sớ) Văn Thù Sư Lợi giả, thử vân Diệu Thủ,
diệc vân Diệu Cát Tường, diệc vân Diệu Đức.
(疏) 文殊師利者,此云妙首,亦云妙吉祥,亦云妙德。
(Sớ: Văn Thù Sư Lợi, cõi
này dịch là Diệu Thủ, còn dịch là Diệu Cát Tường, hoặc còn dịch là Diệu Đức).
Trước tiên giới thiệu ý nghĩa của danh hiệu
Bồ Tát. Văn Thù Sư Lợi (Mañjuśrī) là tiếng
Phạn, [danh hiệu này chính] là dịch âm tiếng Ấn Độ, nghĩa tiếng Hán là Diệu
Thủ. Thủ (首) là bậc nhất. Diệu
Thủ có nghĩa là “vi diệu bậc nhất”. Cũng dịch là Diệu Cát Tường, hoặc dịch là Diệu
Đức. Ba ý nghĩa này tương thông. Diệu Thủ, Diệu Cát Tường, Diệu Đức, ý nghĩa như
nhau, chỉ là cách dịch khác nhau. Vị Bồ Tát này tượng trưng cho trí huệ bậc nhất.
(Sớ) Pháp Vương Tử giả, Phật vi Pháp Vương, Bồ
Tát nhập pháp chánh vị, danh Pháp Vương Tử.
(疏) 法王子者,佛為法王,菩薩入法正位,名法王子。
(Sớ: “Pháp Vương Tử”: Phật
là Pháp Vương, Bồ Tát nhập chánh pháp vị, gọi là Pháp Vương Tử).
Vương có nghĩa là Tự Tại. Trong hết thảy
các pháp, đức Phật đại tự tại; vì thế, gọi là Pháp Vương. Ở đây, phải chú ý Bồ
Tát “nhập pháp chánh vị”. Nhập pháp chánh
vị chỉ điều gì? Thế nào mới là pháp chánh vị? Đây là nói về bậc Đẳng Giác Bồ
Tát. Đẳng Giác Bồ Tát sẽ lập tức thuộc địa vị Hậu Bổ Phật. Chúng ta thường gọi Bồ
Tát thuộc địa vị ấy là Pháp Vương Tử.
(Sớ) Hựu thủ cử Văn Thù giả, lệ tiền Xá Lợi
Phất nghĩa.
(疏) 又首舉文殊者,例前舍利弗義。
(Sớ: Lại nữa, nêu tên ngài
Văn Thù đầu tiên, có ý nghĩa giống như Xá Lợi Phất trong phần trước).
Xếp Văn Thù Bồ Tát đầu tiên, có ý nghĩa biểu
thị pháp giống như mười sáu vị tôn giả trong phần trước. Vì trong phần Thanh
Văn chúng ở trên, Xá Lợi Phất trí huệ đệ nhất được nêu tên đầu tiên. Trong hàng
Bồ Tát cũng giống như vậy, trong hết thảy các Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi đại diện
cho trí huệ đệ nhất. Điều này nói rõ: Nếu chẳng phải là người trí huệ bậc nhất
sẽ chẳng thể tiếp nhận, chẳng thể tin tưởng bộ kinh này. Phàm ai có thể tin,
nguyện, trì danh cầu vãng sanh, đều là trí huệ bậc nhất. Nếu không có trí huệ đệ
nhất, nói thật ra, sẽ chẳng thể chọn lựa pháp môn này. Pháp môn này là pháp môn
độc nhất thành Phật trong một đời, chỉ có người trí huệ bậc nhất mới có thể chọn
lựa, mới có thể tin nhận, phụng hành.
(Sao) Văn Thù Sư Lợi, diệc vân Mạn Thù Thất Lợi.
(鈔) 文殊師利,亦云曼殊室利。
(Sao: Văn Thù Sư Lợi, còn
gọi là Mạn Thù Thất Lợi).
Cũng là dịch âm tiếng Phạn.
(Sao) Ngôn Diệu Thủ đẳng giả.
(鈔) 言妙首等者。
(Sao: Nói là Diệu Thủ v.v...)
Đây là dịch ý, Diệu Thủ, Diệu Cát Tường, Diệu
Đức, có nhiều cách dịch như thế.
(Sao) Chuẩn Hoa Nghiêm tông, biểu tam pháp
môn, viết Tín, Hạnh, Trí.
(鈔) 準華嚴宗,表三法門,曰信行智。
(Sao: Theo tông Hoa
Nghiêm, [ba cách dịch ấy] biểu thị ba pháp môn là Tín, Hạnh, Trí).
Văn Thù và Phổ Hiền đều là Đại Bồ Tát trong
hội Hoa Nghiêm, [cùng với Thích Ca Mâu Ni Phật] các Ngài được gọi là Hoa Nghiêm
Tam Thánh. Trong hội Hoa Nghiêm, các Ngài có địa vị giống như Quán Âm và Thế
Chí trong thế giới Cực Lạc. Vì Ngài biểu thị ba pháp môn Tín, Hạnh, Trí, tức là
đại diện cho Tín, Hạnh và Trí; còn Phổ Hiền Bồ Tát biểu thị Nguyện và Hạnh;
ngài Văn Thù là Tín, Hạnh, Trí, biểu trưng ba môn ấy.
(Sao) Diệu Thủ giả, Tín dã. Tín vi vạn hạnh vạn đức chi đầu thủ cố.
(鈔) 妙首者,信也,信為萬行萬德之頭首故。
(Sao: Diệu Thủ là Tín. Tín
đứng đầu vạn hạnh, vạn đức).
Tín
đứng đầu trong tu hành. Chúng ta chẳng tin sẽ không thể nào tu được! Quý vị muốn
tu hành, đầu tiên là quý vị nhất định tin tưởng. Tu hành siêng năng hay lười
nhác, công phu sâu hay cạn, có quan hệ mật thiết với lòng tin. Quý vị tin sâu
thì hạnh cũng sâu, sẽ tinh tấn, chẳng lười biếng! Nếu lòng tin cạn cợt, hạnh nhất
định cũng nông cạn, thường bị giải đãi! Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Tín vi đạo nguyên, công đức mẫu” (tín
là nguồn đạo, mẹ công đức). Tín là cội nguồn nhập đạo, là mẹ của hết thảy các công
đức. Chữ Mẫu mang ý nghĩa tỷ dụ “có thể sanh”. Chỉ có Tín mới có thể sanh ra vô
lượng vô biên công đức. Vị Bồ Tát này có đức hiệu là Diệu Thủ do mang ý nghĩa
này.
“Vạn
hạnh, vạn đức”: “Hạnh” là nói về
hạnh môn, “đức” là nói tới đức chân
thật. Trong các kinh điển Đại Thừa, những điều Bồ Tát tu tập được gọi là Lục Độ
Vạn Hạnh, như bố thí, trì giới cho đến mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ
Tát. Nói “vạn đức” là như trong kinh
thường nói “Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, Pháp Thân, Bát Nhã, Giải Thoát”. Lại nữa,
chúng ta thường đọc thấy [các đức như] Thập Lực, Tứ Vô Úy, mười tám pháp Bất Cộng
nơi quả địa Như Lai, cho đến các bộ kinh lớn thường nói vô lượng trăm ngàn đà-la-ni.
Những điều ấy đều là nói đến đức chân thật. Đức chân thật chỉ có lòng tin mới
có thể nhập. Vì thế, nói: “Tín năng tất
đáo Như Lai địa” (do tin, ắt đạt đến địa vị Như Lai). Có thể thấy tín tâm
vô cùng trọng yếu. Ba điều kiện tu hành trong pháp
môn Tịnh Độ được gọi là “ba tư lương”, thứ nhất là Tín, tín nguyện trì danh, do
ba điều kiện ấy có thể sanh về Tịnh Độ.
(Sao) Diệu Cát Tường giả, hạnh dã.
(鈔) 妙吉祥者,行也。
(Sao: Diệu Cát Tường là Hạnh).
Diệu Cát Tường là nói về Hạnh. Nương theo
Phật pháp để tu hành, chắc chắn là cát tường, nhất là nương theo kinh Di Đà để tu
hành. Kinh Thập Vãng Sanh dạy, “hành
nhân”, tức người nương theo pháp môn này để tu hành, trọn đủ Tín, Nguyện, Hạnh,
phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, “A Di Đà Phật
phái khiển nhị thập ngũ vị Bồ Tát nhật dạ bảo hộ nhĩ” (A Di Đà Phật sai
phái hai mươi lăm vị Bồ Tát ngày đêm bảo vệ quý vị). Quý vị có hai mươi lăm vị Bồ
Tát bảo hộ, lẽ nào có chuyện chẳng cát tường? Vì thế, hạnh môn này vô cùng đặc
biệt, thù thắng.
(Sao) Phật Địa Kinh ngôn: “Nhất thiết thế
gian thân cận cúng dường, tán thán, danh Diệu Cát Tường”.
(鈔) 佛地經言:一切世間親近供養讚歎,名妙吉祥。
(Sao: Phật Địa Kinh[1]
nói: “Hết thảy thế gian thân cận cúng dường, tán thán, nên gọi là Diệu Cát Tường”).
Lại nêu kinh luận để chứng thực, hết thảy
thân cận, cúng dường, tán thán, đó là do diệu đức cảm ứng.
(Sao) Hựu Chân Đế vân.
(鈔) 又真諦云。
(Sao: Lại nữa, ngài Chân Đế nói).
Pháp sư Chân Đế[2]
là người đời Đường, đây là một vị cao tăng Tây Vực đến Trung Quốc hành hóa. Sư
nói:
(Sao) Ư oán thân trung, bình đẳng lợi ích, bất
vi tổn não, danh Diệu Cát Tường.
(鈔) 於怨親中,平等利益,不為損惱,名妙吉祥。
(Sao: Bình đẳng lợi ích kẻ
oán, người thân, chẳng khiến họ bị phiền não, tổn hại, nên gọi là Diệu Cát Tường).
Oán thân bình đẳng, quyết chẳng tổn hại
chúng sanh, quyết chẳng khiến cho chúng sanh dấy khởi phiền não, đó là hạnh đại
bi bình đẳng của Bồ Tát, nên gọi là Diệu Cát Tường. Chúng ta đọc đến chỗ này,
nói thật ra, phải học theo, phải nghiêm túc học tập! Nói thật ra, trong hết thảy
thế gian, chúng ta khuyết thiếu “thân cận,
cúng dường, tán thán”, nói thật thà là chúng ta chẳng sốt sắng tu mười nguyện
Phổ Hiền. Một người niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, đối với mười nguyện Phổ Hiền và
Thập Hạnh của ngài Văn Thù (Thập Ba La Mật[3])
đều phải nên tu học. Chúng ta thấy kinh Vô Lượng Thọ, vừa mở đầu, các vị Bồ Tát,
Thanh Văn, tỳ-kheo, hết thảy đại chúng tham dự hội ấy, chẳng ai không “tuân tu Phổ Hiền đại sĩ chi đức”, “Phổ Hiền
đại sĩ chi đức” chính là mười đại nguyện vương. Vì thế, sau khi đọc kinh ấy,
chúng ta phải nắm được cương lãnh, phải hành, nỗ lực thực hiện! Trong các buổi
giảng, chúng tôi cũng thường nói: Làm được một trăm phần trăm, trong tương lai,
quý vị vãng sanh Tây Phương thế giới, quyết định là Thượng Phẩm Thượng Sanh. Làm
được chín mươi phần trăm, quý vị là Thượng Phẩm Trung Sanh. Làm được tám mươi
phần trăm, quý vị là Thượng Phẩm Hạ Sanh. Thượng Phẩm Hạ Sanh cũng khá lắm, tới
Tây Phương Cực Lạc thế giới, sau bảy ngày hoa nở, thấy Phật. Chúng ta phải
tranh thủ điều này. Vì thế, phải sốt sắng thực hiện, ở đây, [lời Sớ] cũng nêu ra
ý nghĩa này.
Chúng ta càng phải nên học tập chuyện “oán thân bình đẳng” này, chúng ta thấy
có kẻ oán, người thân đều là hết sức bất bình đẳng, đây là chướng ngại rất lớn.
Nếu có thể từ oán thân bình đẳng mà tu tâm đại bi thanh tịnh và bình đẳng của
chính mình thì lúc chúng ta vãng sanh sẽ nắm chắc một trăm phần trăm, trong
sát-na lâm chung, quý vị chẳng bị chướng ngại, vì sao? Quý vị thanh tịnh, bình
đẳng, cho đến lúc ấy sẽ chẳng có gì không buông xuống được, trong lòng sẽ chẳng
có vướng mắc gì. Thậm chí người ta chạm vào thân thể quý vị, quý vị cũng chẳng
có phiền não, oán thân bình đẳng mà. Vì thế, lúc bình thường chúng ta phải thật
sự dốc công phu để có thể tránh khỏi những chướng ngại nẩy sanh ngoài ý muốn
khi vãng sanh.
(Sao) Hựu sanh thời hữu thập chủng thụy.
(鈔) 又生時有十種瑞。
(Sao: Lại nữa, lúc Ngài
sanh ra có mười điềm lành).
Có mười thứ điềm lành[4],
cho nên gọi là Diệu Cát Tường. Đây là do Văn Thù Bồ Tát thị hiện lúc hạ sanh.
(Sao) Nhất, quang minh mãn thất, nãi chí thập,
tượng sanh lục nha, danh Diệu Cát Tường.
(鈔) 一光明滿室,乃至十象生六牙,名妙吉祥。
(Sao: Một là quang minh ngập
nhà, cho đến điều thứ mười là voi mọc sáu ngà, nên gọi là Diệu Cát Tường).
Lúc Ngài sanh ra có mười thứ tướng lành,
có thể nói là vô lượng vô biên phước đức hiện tiền, nên mới có điềm lành như vậy.
(Sao) Thị tức Giải chi Hạnh cố.
(鈔) 是即解之行故。
(Sao: Do Giải chính là Hạnh)
“Tức
Giải chi Hạnh”, đây là giải thích chữ Diệu có nghĩa là “Giải Hạnh tương ứng”,
Giải ở trong Hạnh, Hạnh ở trong Giải, Giải là Hạnh, Hạnh là Giải. Chúng tôi
cũng rất nhấn mạnh điểm này, vì tôi mong mỏi các vị đồng tu Tịnh Độ, chúng ta
phải hợp ba kinh lại để tham chiếu, tức là đối với kinh Vô Lượng Thọ, kinh Di
Đà và kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, phải biến ba kinh ấy thành tư tưởng, kiến giải,
và hành vi của chính mình, đó là Diệu. Kiến giải, tư tưởng, và hành vi của chúng
ta là Giải, [ngược lại], Giải phải là tư tưởng, kiến giải, và hành vi của chính
chúng ta. Đó là “diệu giải” ba kinh,
phải làm được điều ấy.
(Sao) Diệu Đức giả, trí dã. Kinh vân: “
(鈔) 妙德者,智也。經云:諸佛之母,釋迦之師,豈非妙德。是即行之解故。
(Sao: Diệu Đức là trí. Kinh dạy: “Mẹ của chư Phật, thầy của đức
Thích Ca, há chẳng phải là Diệu Đức ư?” Đó là Hạnh chính là Giải vậy).
[Xét đến] ý nghĩa [của danh hiệu] Diệu Đức,
nói thật ra, Văn Thù Bồ Tát đã thành Phật từ lâu, Ngài là cổ Phật thả chiếc bè
Từ, trở lại giúp Thích Ca Mâu Ni Phật hoằng pháp lợi sanh. Trong kinh, đức Phật
đã từng dạy: Ngài Văn Thù từng là “thất
Phật chi sư”, tức là thầy của bảy vị Phật, trong số đó có Thích Ca Mâu Ni Phật.
[Bảy vị Phật ấy là] ba vị cuối cùng trong kiếp quá khứ (Trang Nghiêm Kiếp), và
bốn vị Phật trong Hiền Kiếp hiện tại. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát là thầy của bảy vị Phật,
cho nên Ngài đã sớm viên mãn trí huệ. Trí huệ chẳng viên, chẳng thể gọi là Diệu
Đức. Kinh Hoa Nghiêm nói vị Bồ Tát này “liễu
liễu kiến Phật tánh, do như Diệu Đức đẳng” (thấy Phật tánh rành rành, giống
như là Diệu Đức), cũng là nói rất rõ ràng ý nghĩa này: Từ lâu xa, Văn Thù Bồ
Tát đã chứng đắc Nhất Thiết Chủng Trí, chẳng khác gì Phật; vì thế, Ngài đại diện
cho Trí Môn.
(Sao) Nhập pháp chánh vị giả, Như Lai cứ Trung
Đạo Đệ Nhất Nghĩa, nhi Bồ Tát nhập ư thử địa, thị vị thiệu long Phật chủng,
đương kế Phật vị. Như đại quân thể nguyên cư chánh, sở sanh vương tử, kim tại Đông
Cung, đương thiệu vương vị, danh Pháp Vương Tử, hựu danh Phật Tử, kỳ ý diệc
nhĩ.
(鈔) 入法正位者,如來據中道第一義,而菩薩入於此地,是謂紹隆佛種,當繼佛位。如大君體元居正,所生王子,今在東宮,當紹王位,名法王子,又名佛子,其意亦爾。
(Sao: “Nhập pháp chánh vị”: Như Lai ngự trong Trung Đạo Đệ Nhất
Nghĩa, Bồ Tát nhập địa vị ấy, điều đó gọi là “tiếp nối hưng thịnh dòng giống Phật,
sẽ kế tục địa vị Phật”, giống như hoàng đế nắm quyền[5],
vương tử do nhà vua sanh ra nay đang ở Đông Cung, sẽ nối ngôi vua, nên gọi là
Pháp Vương Tử, lại còn gọi là Phật Tử, cũng có cùng một ý nghĩa).
Ở đây vừa giảng về pháp, vừa nêu tỷ dụ. “Như Lai cứ Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa” là
nói đến chánh vị của đức Phật. “Trung Đạo
Đệ Nhất Nghĩa” là Phật vị, tức là Phật quả rốt ráo trong Viên Giáo. Thông
thường, tông Thiên Thai nói có bốn loại Phật là Tạng, Thông, Biệt, Viên; chỉ có
Viên Giáo Phật mới là Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa. “Bồ Tát nhập ư thử địa”, ý nói: Bồ Tát gần đạt đến địa vị Phật.
Trung Đạo chẳng dễ hiểu cho lắm, chúng tôi nói theo tông Thiên Thai thì tông
Thiên Thai giảng ý nghĩa [Trung Đạo] khá sâu, họ nói theo sự viên giải. Những
điều này thuộc về Giáo Hạ, Giáo Hạ nói “đại khai viên giải”, đại khai viên giải
là địa vị minh tâm kiến tánh. Nếu đại khai viên giải mà chấp vào Viên, sẽ chẳng
viên! Có thể thấy: Hễ chấp trước Viên thì vẫn là khuyết điểm, vẫn sai lầm, huống
hồ những thứ khác? Bọn phàm phu chúng ta chấp Có, chỗ nào cũng đều tưởng hết thảy
đều có thật, thật sự có, lầm mất rồi! Người Nhị Thừa chẳng chấp Có, họ chấp
Không, cũng sai luôn! Bồ Tát là hai bên Không và Có đều chẳng chấp trước. Đó gọi
là Trung Đạo.
Chương
Đại Thế Chí Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm có nói: “Đô nhiếp lục căn, tịnh niệm tương kế” (nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm
tiếp nối). Nhiếp trọn sáu căn nhưng chẳng chấp Có, tịnh niệm tiếp nối là chẳng
chấp Không, hai bên Không và Có đều chẳng chấp trước. Phương pháp niệm Phật ấy
vô cùng cao cấp, trong bốn loại niệm Phật, loại này gọi là Thật Tướng Niệm Phật,
thông thường chúng tôi rất ít nói tới, vì sao? Chúng ta làm không được. “Đô nhiếp lục căn” là nhất niệm bất sanh,
lục căn của chúng ta đối trước cảnh giới lục trần chẳng phân biệt, chẳng chấp
trước, không khởi tâm, chẳng động niệm, đó là Nhiếp, chúng ta có thể làm được
hay không? Lục căn của chúng ta tiếp xúc cảnh giới lục trần mà có thể chẳng khởi
tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước hay chăng? Làm chẳng được!
Vì thế, kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật dạy chúng ta những phương pháp niệm Phật
khác, không dạy phương pháp này. Kinh dạy chúng ta quán tưởng, quán tượng, trì
danh, chẳng giảng về Thật Tướng. Đại Thế Chí Viên Thông Chương giảng về Thật Tướng
Niệm Phật. Chúng ta phải hiểu đạo lý ấy, chúng ta cũng mong tận hết sức, nỗ lực
thực hiện; nhưng hễ có ý niệm nỗ lực thì lại không được, vì sao? Chấp tướng,
nên chẳng đạt được. Vì vậy, Thật Tướng Niệm Phật là vô cùng tự nhiên, đó gọi là
“thong dong Trung Đạo”! Trong ấy,
không có tưởng tượng, chẳng khởi tâm, không động niệm, hễ chúng ta có ý niệm bèn
là khởi tâm động niệm. Nói thật ra, chúng ta dùng ba phương pháp niệm Phật trên
đây, niệm đến Lý nhất tâm bất loạn, sau đấy, niệm Phật sẽ tự nhiên là Thật Tướng.
Thật ra, niệm Phật đến Sự nhất tâm sẽ nhiếp trọn sáu căn, quý vị đắc Niệm Phật tam-muội.
Niệm đến Lý nhất tâm mới là tịnh niệm tiếp nối. Điều ấy được gọi là Niệm Bất
Thoái, niệm niệm lưu nhập Như Lai giác hải. “Tát
Bà Nhã hải” (biển Nhất Thiết Trí) như trong kinh Phật đã nói chính là biển
đại giác, “biển” là tỷ dụ. Bồ Tát nhập pháp chánh vị cũng gần như đạt đến địa vị
này; nhưng Bồ Tát nhập vào địa vị này sẽ “thị
vị thiệu long Phật chủng, đương kế Phật vị” (được gọi là “tiếp nối hưng thịnh
dòng giống Phật, sẽ kế tục địa vị Phật”), tức là địa vị Hậu Bổ Phật, Bồ Tát nhập
địa vị này.
Tiếp đó, [lời Sao] dùng pháp thế gian làm tỷ
dụ, “như đại quân thể nguyên cư chánh”, “đại
quân” là hoàng đế, “hoàng đế cư
chánh” [nghĩa là] nơi hoàng đế ngự được gọi là “chánh vị”, tức [ngự trên] ngôi cửu ngũ[6].
Trong Phật pháp, Pháp Vương Tử giống như Đông Cung Thái Tử, địa vị giống nhau. “Sở sanh vương tử, kim tại Đông Cung, đương
thiệu vương vị” (vương tử do vua sanh nay đang ở Đông Cung, sẽ nối ngôi
vua), là người thừa kế quốc vương. Do vậy, có thể biết Pháp Vương Tử là người
thừa kế đức Phật; do vậy, Pháp Vương Tử vô cùng tôn quý.
“Hựu danh Phật Tử, kỳ ý diệc nhĩ” (lại còn
gọi là Phật tử, cũng có cùng một ý nghĩa), cũng gọi là Phật Tử, nhưng Phật Tử không
có ý nghĩa rõ rệt như Pháp Vương Tử. Trong hội Hoa Nghiêm đã nói “Phổ Hiền vi trưởng tử” (Phổ Hiền là con
cả), tức là Pháp Vương Tử, “Văn Thù vi thứ
nam” (Văn Thù là con trai thứ). Văn Thù giống như đứa con nhỏ, còn Phổ Hiền
là con lớn của đức Phật. Trưởng tử là Pháp Vương Tử, thứ nam là Phật Tử. Vì sao
trong hội Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Bồ Tát được xếp cao hơn Văn Thù Bồ Tát? Chư vị
phải hiểu, Văn Thù tượng trưng Trí, Phổ Hiền tượng trưng Hạnh, xếp Phổ Hiền vào
bậc nhất vì trọng Hạnh! Tây Phương Tam Thánh cũng giống như vậy, Quán Thế Âm được
xếp trước Đại Thế Chí vì Quán Âm tượng trưng cho Hạnh, Đại Thế Chí biểu thị
Trí, pháp môn này cũng coi trọng thực hành. Vì thế, quý vị nhìn vào cách xếp đặt
vị trí của Bồ Tát, sẽ hiểu pháp môn ấy trọng trí hay trọng hạnh, sẽ thấy rất rõ
ràng.
(Sao) Phàm Bồ Tát giai Pháp Vương Tử, độc xưng Văn Thù giả, Kinh Khê vân:
“Ư vương tử trung, đức thôi Văn Thù”. Hựu chư kinh Văn Thù thường vi nhất thiết
Bồ Tát thượng thủ cố. Lệ Xá Lợi Phất giả, Thân Tử trí huệ đệ nhất, Văn Thù đại
trí độc tôn, như tiền sở minh thử kinh duy trí phương năng tín thọ cố.
(鈔) 凡菩薩皆法王子,獨稱文殊者,荊溪云:於王子中,德推文殊,又諸經文殊常為一切菩薩上首故。例舍利弗者,身子智慧第一,文殊大智獨尊,如前所明此經惟智方能信受故。
(Sao: Phàm các vị Bồ Tát đều là Pháp Vương Tử, nhưng riêng gọi ngài
Văn Thù bằng danh từ này. Ngài Kinh Khê nói: “Trong các vị vương tử, ngài Văn
Thù phẩm đức cao nhất”. Lại nữa, trong các kinh, ngài Văn Thù thường là thượng thủ
của hết thảy Bồ Tát. Như ngài Xá Lợi Phất, Thân Tử trí huệ bậc nhất, Văn Thù đại
trí độc tôn, như trong phần trước đã nói: “Chỉ có người trí huệ mới có thể tin
nhận [pháp môn] này”).
Đoạn này giảng rất hay, vì sao? Phàm là Bồ
Tát đều gọi là Pháp Vương Tử. Pháp Vương Tử là tiếng gọi chung, không nhất định
là Phổ Hiền [hay Văn Thù] mới được gọi là Pháp Vương Tử. Chúng ta gọi chung bậc
kiến tánh Bồ Tát là Pháp Vương Tử. Trong Viên Giáo, từ Sơ Trụ trở lên đều gọi
là Pháp Vương Tử, hoặc đều gọi là Phật Tử, vì sao? Đồng Sanh Tánh với Phật,
cách nói này hết sức hợp lý. Tâm phàm phu chúng ta và tâm Phật chẳng giống
nhau. Phàm phu chúng ta sử dụng cái tâm phân biệt, tâm vọng tưởng, tâm chấp trước;
còn kiến tánh Bồ Tát, chính là chuyển tám thức thành bốn trí, Ngài chẳng sử dụng
những tâm ấy. Trong phần hai mươi lăm pháp Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm, hai
mươi lăm vị Bồ Tát thảy đều là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo; vì thế, địa vị
cũng chẳng cao lắm! Trong kinh Lăng Nghiêm, Quán Thế Âm Bồ Tát là Viên Giáo Sơ
Trụ, Đại Thế Chí Bồ Tát cũng là Sơ Trụ trong Viên Giáo. Vì thế, tuy cùng là một
vị Bồ Tát, nhưng trong mỗi bộ kinh, địa vị khác nhau. Trong hội Lăng Nghiêm, Quán
Thế Âm Bồ Tát thị hiện làm Sơ Trụ. Trong kinh Hoa Nghiêm, Ngài thị hiện làm Đệ
Thất Hồi Hướng; trong kinh Pháp Hoa, Ngài thị hiện thân phận Đẳng Giác. Vì vậy,
trong mỗi hội, thị hiện thân phận khác nhau. Trong kinh Lăng Nghiêm, Bồ Tát nói:
“Phản văn văn tự tánh, tánh thành vô thượng
đạo” (xoay lại cái Nghe để nghe tự tánh, tánh trở thành vô thượng đạo). Lấy
Quán Thế Âm Bồ Tát làm thí dụ, hai mươi bốn vị thánh [trong hội Lăng Nghiêm] cũng
chẳng ra ngoài lệ ấy, các Ngài thấy sắc, nghe tiếng khác chúng ta! Quán Âm Bồ
Tát dùng gì để nghe âm thanh? Dùng tánh Nghe để nghe. Chúng ta dùng Nhĩ Thức để
nghe, khác hẳn! Bồ Tát thấy hết thảy sắc tướng bèn dùng tánh Thấy để thấy, chúng
ta dùng Nhãn Thức để thấy. Nếu chúng ta cũng biết dùng căn tánh của sáu căn, sẽ
chẳng khác gì Phật! Nếu quý vị biết dùng căn tánh của sáu căn, sẽ được gọi là Pháp
Vương Tử. Nếu quý vị chẳng dùng căn tánh của sáu căn, vẫn dùng tám thức, chẳng
thể gọi là Pháp Vương Tử!
Thông thường gọi [Bồ Tát] là Phật Tử, phạm
vi tương đối rộng hơn một chút, có thể bao gồm cả hạng Sơ Phát Tâm chúng ta. Quý
vị học Phật, đều là đệ tử Phật, quy y Tam Bảo, đều là đệ tử Tam Bảo, tương đối
rộng rãi hơn một chút! Gọi là Pháp Vương Tử thì ý nghĩa nghiêm ngặt hơn một
chút. Trong Lăng Nghiêm Chánh Mạch, pháp sư Giao Quang bảo người học Lăng
Nghiêm phải biết “bỏ thức dùng căn”.
Tuy đề xướng như vậy, bỏ thức dùng căn há dễ dàng? Chẳng phải là chuyện dễ dàng!
Nói thật ra, công đức của một câu A Di Đà Phật trọn chẳng kém “bỏ thức dùng căn”, vấn đề là quý vị phải
biết dùng, phải biết niệm thì mới được. Biết niệm là gì? Chẳng biết niệm là gì?
Hiện thời, mọi người chúng ta đều niệm Phật, nhưng nói thật thà thì quá nửa đều
chẳng biết niệm, quý vị niệm chẳng đúng pháp! Vì thế, công hiệu chẳng rõ rệt.
Biết niệm là gì? Người biết niệm, trong tâm vừa dấy niệm, bất luận là niệm gì,
thiện niệm hay ác niệm, chánh niệm hay tà niệm, nhất loạt chẳng quan tâm tới, vì
sao? Trong Chân Như bổn tánh không có niệm, nó vốn chẳng có niệm! Có niệm là trật
rồi, vốn chẳng có ý niệm mà! Hiện thời, đối với niệm ấy, bất luận niệm gì, chỉ
cần niệm dấy lên, niệm thứ hai bèn đổi thành A Di Đà Phật. Nói cách khác, khởi
niệm chỉ có nhất niệm, quyết định không có niệm thứ hai tiếp nối, niệm thứ hai
bèn đổi thành A Di Đà Phật. Niệm Phật như vậy gọi là “biết niệm”. Niệm lâu
ngày, hết thảy phân biệt, chấp trước, vọng tưởng đều chẳng còn nữa, đều đoạn hết,
chỉ còn lại A Di Đà Phật.
Nếu quý vị thiện căn sâu dầy, do một câu A
Di Đà Phật sẽ đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, niệm đạt tới Lý nhất tâm bất
loạn, vãng sanh quyết định là Thượng Phẩm Thượng Sanh. Nếu thiện căn và phước đức
cạn một chút, chẳng dầy như vậy, phương pháp Niệm Phật này thật sự chế ngự phân
biệt, chấp trước, vọng tưởng, chẳng để chúng dấy lên, hiện hành, quý vị quyết định
có phần vãng sanh cõi Phàm Thánh Đồng Cư trong Tây Phương thế giới. Nói cách
khác, trong một đời này, chúng ta thật sự vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, viên
chứng ba món Bất Thoái, thành Phật trong một đời. Hạ hạ phẩm vãng sanh trong
cõi Phàm Thánh Đồng Cư của Tây Phương Cực Lạc thế giới vẫn là thành Phật trong
một đời. Bất luận pháp môn nào khác đều chẳng có cách nào sánh bằng pháp môn Niệm
Phật!
Ở đây, có một câu hỏi, Pháp Thân đại sĩ
thuộc bốn mươi mốt địa vị đều gọi là Pháp Vương Tử, vì sao những vị Bồ Tát khác
chẳng gọi là Pháp Vương Tử, chỉ riêng gọi ngài Văn Thù? Kinh Khê đại sư[7]
bảo: “Ư vương tử trung, đức thôi Văn Thù”,
[nghĩa là] trong hết thảy các vị Bồ Tát, ngài Văn Thù đức hạnh bậc nhất. Nếu
Ngài chẳng có đức hạnh cao dường ấy, làm sao có thể là thầy của bảy đức Phật? Đấy
là một lý do khiến cho mọi người chúng ta đặc biệt tôn trọng Ngài. “Hựu chư kinh Văn Thù thường vi nhất thiết Bồ
Tát thượng thủ cố” [nghĩa là] trong sự biểu thị pháp của đại đa số kinh điển
Đại Thừa đều xếp Văn Thù Bồ Tát đứng đầu, giống như trong pháp Tiểu Thừa, xếp
tôn giả Xá Lợi Phất bậc nhất, mang ý nghĩa tương đồng. Trong Tiểu Thừa, Thân Tử
là ngài Xá Lợi Phất, Xá Lợi Phất trí huệ đệ nhất; trong hàng Bồ Tát, Văn Thù Bồ
Tát biểu thị trí huệ đệ nhất. Bất luận Đại Thừa hay Tiểu Thừa, nếu chẳng phải
là trí huệ đệ nhất, chẳng thể tin nhận bộ kinh điển này, chẳng thể tin nhận pháp
môn này. Vì thế, nhất định phải xếp [hai ngài Xá Lợi Phật và Văn Thù] vào vị trí
thứ nhất, đó là ý nghĩa biểu thị pháp.
(Sao) Hựu phân biệt nhi luận, tắc Thân Tử Quyền
Trí, Văn Thù Thật Trí. Quyền Trí minh “hữu sanh Tịnh Độ”, Thật Trí minh “vô sanh
Tịnh Độ”. Độn căn tắc tùng Quyền nhập Thật, lợi căn tắc Quyền Thật song dung. Nhược
thôi bổn nhi luận, Bất Tư Nghị Cảnh Giới kinh vân: “Phục hữu bách thiên vạn ức Bồ
Tát, hiện Thanh Văn hình, diệc lai tại tọa, kỳ danh viết Xá Lợi Phất đẳng”. Tắc
Văn Thù, Thân Tử, đồng nhất thậm thâm trí huệ, ích tri thử kinh phi thiển trí sở
năng tín hỹ.
(鈔) 又分別而論,則身子權智,文殊實智,權智明有生淨土,實智明無生淨土,鈍根則從權入實,利根則權實雙融。若推本而論,不思議境界經云:復有百千萬億菩薩,現聲聞形,亦來在坐,其名曰舍利弗等。則文殊身子,同一甚深智慧,益知此經非淺智所能信矣。
(Sao: Lại nữa, nói phân biệt thì Thân Tử là Quyền Trí, Văn Thù là Thật
Trí. Quyền Trí nói rõ “có sanh Tịnh Độ”, Thật Trí nói rõ “chẳng sanh Tịnh Độ”.
Độn căn là từ Quyền nhập Thật, lợi căn là Quyền và Thật cùng viên dung. Nếu luận
theo căn bản (Bổn) thì kinh Bất Tư Nghị Cảnh Giới nói: “Lại có trăm ngàn vạn ức
Bồ Tát, hiện thân Thanh Văn, cũng đến trong hội này, tên các Ngài là Xá Lợi Phất
v.v...”, vậy thì Văn Thù và Thân Tử có cùng một trí huệ rất sâu, nên càng biết
kẻ trí cạn sẽ chẳng thể tin kinh này).
Đoạn chú giải này chứa đựng ý nghĩa rất
sâu. “Phân biệt nhi luận” (nói phân
biệt), vì cách giảng trong phần trước là tổng thuyết. Tách ra để nói, trí huệ có
Quyền và Thật bất đồng. Quyền là nói theo kiểu phương tiện thiện xảo, Thật là
nói chân thật. Quyền là đức Phật tùy thuận kiến giải, hiểu biết thông thường của
chúng sanh để nói. Thật là nói theo cảnh giới của chính Như Lai, thường là
chúng ta không có cách nào tiếp nhận, nhưng đó là chân thật. Đức Phật tùy thuận
kiến giải và hiểu biết thông thường của chúng ta để nói, chúng ta đều có thể tiếp
nhận, rất hoan hỷ tiếp nhận. Vì thế, hai vị này tượng trưng hai thứ trí huệ Quyền
và Thật. Người Tiểu Thừa có công phu định lực khá sâu, và cũng hiển thị trí huệ
kha khá, nhưng trí huệ của họ chẳng lưu xuất từ Chân Như bổn tánh. Do vậy, chẳng
phải là chân trí huệ; vì thế, mới miễn cưỡng nói Quyền Trí. Thật ra, nếu không
nói ra đoạn văn này, Quyền Trí của Xá Lợi Phất cũng chẳng dễ giảng, vì sao?
Không có Thật Trí, lấy đâu ra Quyền Trí? Giống như cái cây, không có rễ, lấy
đâu ra cành, lá! Thật Trí là cội rễ, Quyền Trí là cành, lá. Không có Thật Trí,
chắc chắn không có Quyền Trí, tức là cũng nói rõ: A La Hán thiếu trí huệ! Ai mới
có trí huệ? Người kiến tánh mới có trí huệ. Tâm tánh là Thật Trí, tâm tánh khởi
tác dụng, hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức, đó là Quyền Trí. Đoạn này đã
chỉ rõ, tôn giả Xá Lợi Phất cũng là bậc đại quyền thị hiện, chẳng phải là Tiểu
Thừa thật sự, mà cũng là cổ Phật tái lai, địa vị của các Ngài chẳng sai khác cho
lắm, đều giống nhau, đều đã thành Phật. Thị hiện làm Thanh Văn, hay làm Bồ Tát
trong hội Thích Ca Mâu Ni Phật, không gì chẳng nhằm giúp Thích Ca Mâu Ni Phật hoằng
pháp mà thôi. Đó là đại từ, đại bi, thả chiếc bè Từ, có ý nghĩa như vậy.
“Quyền
Trí minh hữu sanh Tịnh Độ” (Quyền Trí nói rõ “có sanh Tịnh Độ”), thừa nhận Tây
Phương Cực Lạc thế giới có thật, giống như thế giới hiện tại này của chúng ta, [Cực
Lạc] ở phương Tây của thế giới này, nhưng chẳng phải là ở phía Tây của địa cầu
này, nó ở phương Tây của thế giới Sa Bà. Trên địa cầu này, gần đây có những người
thật sự thông hiểu khoa học cũng liễu giải, địa cầu này nói thật ra là một châu
trong một tiểu thế giới. Một ngàn tiểu thế giới mới gọi là một tiểu thiên thế
giới. Lấy tiểu thiên thế giới làm đơn vị, một ngàn tiểu thiên thế giới mới gọi
là một trung thiên thế giới. Lại lấy trung thiên thế giới làm đơn vị, một ngàn
trung thiên thế giới gọi là một đại thiên thế giới. Danh xưng chung của một đại
thiên thế giới là thế giới Sa Bà. Thế giới Cực Lạc ở phía Tây thế giới Sa Bà.
Điều này nói rõ, đức Phật giảng cho chúng ta sự thật này, từ thế giới Sa Bà đi
về phương Tây qua khỏi mười vạn ức cõi Phật, quả thật có một tinh cầu, tinh cầu
ấy rất lớn, chẳng biết lớn hơn địa cầu của chúng ta bao nhiêu lần, thế giới ấy là
thế giới Cực Lạc của A Di Đà Phật.
Thế giới Cực Lạc thù thắng trang nghiêm khôn
sánh! Vì thế giới ấy là cõi Pháp Tánh, khác với thế giới của chúng ta, tánh chất
khác nhau, vì sao? Thế giới của chúng ta, thậm chí mười phương các cõi Phật đều
do Chân Như bản tánh sau khi vô minh dấy lên, biến thành A Lại Da thức; trong A
Lại Da thức lại có hai phần là Kiến Phần và Tướng Phần. Từ Kiến Phần biến hiện Tướng
Phần, Tướng Phần biến hiện y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới;
vì thế, nó từ vô minh biến hiện. Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có vô minh,
hoàn toàn do tự tánh biến hiện; do đó, nơi ấy là tự tánh Tịnh Độ, khác hẳn thế
giới này của chúng ta! Ở nơi này là “vô
minh bất giác sanh tam tế, cảnh giới làm duyên tăng trưởng lục thô”, cõi nước
của chúng ta do vậy mà có. Nói cách khác, xét đến căn nguyên của nó, cõi này do
vô minh biến hiện, còn cõi kia hoàn toàn từ Chân Như bản tánh hiện ra, căn
nguyên chẳng giống nhau. Chúng ta chẳng có cách nào lý giải điều này! Kinh thường
dạy: “Duy Phật dữ Phật phương năng cứu
cánh” (chỉ có Phật và Phật mới có thể thấu hiểu rốt ráo), hữu tình trong chín
giới chẳng thể nào lý giải, đạo lý ở chỗ này. Vì thế, người căn tánh độn một chút
bèn từ Quyền nhập Thật; đó là “có sanh Tịnh
Độ”, hữu sanh!
Khi chúng ta niệm Phật đến mức công phu thành
thục, trong tương lai, khi lâm chung, A Di Đà Phật đến tiếp dẫn chúng ta, chuyện
này là thật, chẳng giả! Vì thế, mọi người đọc đến đây, chớ nên hoài nghi, thật
sự vãng sanh, chẳng phải giả! Nhưng nếu là người lợi căn, sẽ cao minh hơn, đó gọi
là “sanh thì quyết định sanh, đi thì chẳng
thật sự đi”, không đi làm sao sanh? Không đi mà thật sự sanh! Đó là người căn
tánh nhạy bén, hiểu tự tánh của A Di Đà Phật và tự tánh của chính chúng ta là một
tánh, chẳng phải là hai tánh, nên gọi là “duy
tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà”. Người như vậy vãng sanh, thưa quý vị, đều là
thượng thượng phẩm, sanh về cõi Thật Báo Trang Nghiêm trong thế giới bên kia. Đó
là lợi căn, người ấy thật sự có trí huệ, biết có “vô sanh Tịnh Độ”.
“Vô
sanh Tịnh Độ” là thật sự liễu đạt Pháp Không, hai thứ chấp trước đều phá sạch.
Phàm phu có Nhân Ngã Chấp và Pháp Ngã Chấp. Ngã Chấp đã hết, chứng đắc Nhân Không,
quả vị niệm Phật là Sự nhất tâm bất loạn, niệm tới Pháp Không là Lý nhất tâm bất
loạn. Đắc Sự nhất tâm bất loạn, sanh vào cõi Phương Tiện Hữu Dư của Tây Phương
Cực Lạc thế giới, vẫn thuộc loại “hữu sanh
Tịnh Độ”. Cõi Phương Tiện và cõi Đồng Cư đều thuộc loại hữu sanh Tịnh Độ;
nhưng chư vị phải hiểu: Thế giới Tây Phương là Có và Không bất nhị, như Tâm
Kinh đã nói: “Sắc tức là Không, Không tức
là Sắc, Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc”, đó là diệu độ! Vì vậy,
quý vị bảo nó là hữu sanh cũng được, mà nói nó là vô sanh cũng được luôn! Hữu sanh
và vô sanh là một, không hai. Chúng ta vừa nhìn, thường thấy có đối lập, thấy hữu
sanh thì còn có hy vọng, thấy vô sanh bèn đau buồn, chẳng trông mong gì! Sai mất
rồi! Không biết chúng là một, chẳng hai! Đó là cõi mầu nhiệm thật sự!
Những người căn tánh lanh lợi khai ngộ rồi,
họ niệm Phật đến mức kiến tánh. Sau khi kiến tánh, tâm họ thật sự đạt được thanh
tịnh, khi ấy, triệt để hiểu rõ chúng sanh và Phật chẳng hai, tịnh và uế dung
thông. Giống như Đại Luận đã nói, Tâm Kinh cũng nói rõ rệt: “Chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhơ, chẳng sạch,
chẳng đến, chẳng đi, chẳng thường, chẳng đoạn”. Trung Quán Luận nói đến “bát bất” (tám điều chẳng) đó là Thật Tướng
của các pháp, cũng chính là như Đại Thế Chí Bồ Tát đã nói trong kinh Lăng
Nghiêm: “Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp
nối”. Tuy trong tâm thanh tịnh chẳng sanh một niệm, giống như Lục Tổ đã nói:
“Vốn chẳng có một vật”, Phật hiệu của
người ấy vẫn chẳng gián đoạn. Tuy Phật hiệu chẳng gián đoạn, quyết định chẳng
trở ngại “vốn chẳng có một vật”!
Thiền Tông muốn chứng “vốn chẳng có một vật” thì phải chứng tâm thanh tịnh. Nếu niệm một
tiếng Phật hiệu, họ phải súc miệng ba ngày, họ nói trong tâm đã bị nhiễm dơ! Nếu
quý vị lắng lòng đôi chút, suy nghĩ, [sẽ thấy] tâm kẻ ấy chẳng thanh tịnh! Cớ
sao nói kẻ ấy chẳng thanh tịnh? Nếu thật sự thanh tịnh, niệm một tiếng Phật hiệu
há còn có thể nhiễm bẩn kẻ ấy hay chăng? Do vậy, ta biết: Kẻ ấy chán ghét niệm Phật
thì cái tâm chán ghét ấy là tâm chẳng thanh tịnh, vẫn chẳng thoát khỏi chấp trước,
chấp trước gì vậy? Chấp trước thanh tịnh, chấp trước “không có một vật”. Kẻ ấy
trọn chẳng phải thật sự là “không có một vật nào”! Trong tâm kẻ ấy hãy còn có [ý
niệm] “không có một vật”, có [một ý niệm] “chẳng có một vật nào” tồn tại! Vì thế,
trọn chẳng thật sự đạt đến “không có một vật nào”! Nếu thật sự đạt đến “không
có một vật nào”, sẽ chẳng quan tâm đến chuyện niệm Phật [có ô nhiễm cái tâm hay
không; tâm người ấy] chắc chắn không bị ô nhiễm. Vì thế, cảnh giới này rất khó đạt
được! Tuy biết “ngoài tâm không có Phật,
ngoài Phật chẳng có tâm”, nhưng người ấy niệm Phật chưa hề gián đoạn, tuy biết
“sanh tức vô sanh, vô sanh tức sanh”,
kẻ ấy vẫn muốn vãng sanh. Chúng ta thấy trong hội Hoa Nghiêm, Pháp Thân đại sĩ
thuộc bốn mươi mốt địa vị đều niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, họ
là “vô sanh mà sanh”. Những vị Bồ Tát
ấy chẳng phải là phàm nhân! Chúng ta phải thấu hiểu từ chỗ này!
Tịnh Độ chỉ có một, tuyệt đối chẳng có
hai. Ở đây, nhằm thuyết pháp cho thuận tiện hòng khiến quý vị ngộ nhập, chứ trên
thực tế là một chuyện. Căn khí chúng sanh có lợi và độn, độn căn từ Quyền nhập Thật,
tức là cõi Phàm Thánh Đồng Cư dần dần chứng nhập cõi Thật Báo Trang Nghiêm, cũng
giống hệt như chúng ta dụng công ở đây. Chúng ta dùng thức thứ sáu, tức tâm ý
thức để niệm Phật, chẳng sai! Đó là Quyền. Quý vị hiểu rõ đạo lý ấy, sẽ có thể
từ Quyền nhập Thật, có thể chuyển thức thứ sáu, tức Ý Thức, thành Diệu Quan Sát
Trí. Nếu chẳng hiểu rõ đạo lý này, quý vị sẽ vĩnh viễn thuộc Quyền vị, chẳng thể
nhập Thật vị. Do đó, phải hiểu rõ Lý rồi thực hiện từ Quyền, dốc sức nơi mặt Sự,
ổn thỏa thích đáng, chắc chắn chẳng đi sai đường! Vì vậy, từ Sự trì dần dần tiến
đến Lý trì.
Nói đến những vị Đại Bồ Tát này, các Ngài
là lợi căn! Các Ngài là “Quyền Thật song
dung” (Quyền lẫn Thật đều viên dung). Tuy hiểu rõ Lý, vẫn chẳng phế Sự, chẳng
vứt bỏ Sự! Như Đại Thế Chí Bồ Tát đã hiểu rõ Lý, nhiếp trọn sáu căn, minh tâm
kiến tánh, Ngài suốt ngày từ sáng đến tối vẫn lần tràng hạt, niệm A Di Đà Phật chẳng
ngừng, chẳng phế Sự! Cho đến những vị như Văn Thù, Phổ Hiền là Đẳng Giác Bồ Tát
trong Viên Giáo, trong hội Hoa Nghiêm vẫn phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ. Đấy đều
là thị hiện hình tướng nhằm khuyên lơn, khích lệ cửu giới hữu tình, cửu giới
bao gồm cả Thập Địa Bồ Tát trong đó, khuyên họ cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ hòng
viên mãn Vô Thượng Bồ Đề, mang ý nghĩa này.
“Nhược
thôi bổn nhi luận” (nếu luận theo căn bản), “Bổn” là căn bản, những gì chúng ta thấy trong hiện thời là hình tướng.
Xá Lợi Phất, Văn Thù đều là thị hiện hình tích, chứ về căn bản, các Ngài đã thành
Phật từ lâu, đều là cổ Phật tái lai. “Bất
Tư Nghị Cảnh Giới Kinh vân” (kinh Bất Tư Nghị Cảnh Giới nói), Bất Tư Nghị Cảnh
Giới Kinh là kinh gì? [Chính là] Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện Phẩm trong kinh
Hoa Nghiêm, tức Nhập Bất Tư Nghị Cảnh Giới Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện Phẩm, đó
là tựa đề của phẩm kinh Tứ Thập Hoa Nghiêm. Vì tên của phẩm này quá dài, ở đây
chỉ nói Bất Tư Nghị Cảnh Giới Kinh, tức là trong Tứ Thập Hoa Nghiêm có nói: “Phục hữu bách thiên vạn ức Bồ Tát, hiện Thanh
Văn hình, diệc lai tại tọa” (lại có trăm ngàn vạn ức Bồ Tát hiện hình tướng
Thanh Văn cũng đến ngồi trong hội này). Trong kinh Hoa Nghiêm mới nêu bày căn bản
(Bổn) [của các vị Thanh Văn]! Nếu không, làm sao trong hội Hoa Nghiêm có Tiểu
Thừa cho được? [Phải là] Pháp Thân đại sĩ thuộc bốn mươi mốt địa vị mới có tư
cách dự hội Hoa Nghiêm! Chẳng phải là Pháp Thân đại sĩ, muốn thấy còn chưa thấy
được pháp hội này, cớ sao những vị như Xá Lợi Phất đều hiện diện trong ấy? Đến
hội thứ chín của kinh Hoa Nghiêm, chúng ta mới thấy điều này, tức là trong quyển
thứ nhất của bộ Tứ Thập Hoa Nghiêm ta thấy cảnh giới này, vì sao? Hàng Tiểu Thừa
đều hiện diện, bởi những vị ấy vốn chẳng phải là Thanh Văn thật sự, mà là gì? Đều
là Phật, Bồ Tát hiện thân Thanh Văn, biến hiện hình dáng Thanh Văn để tham gia pháp
hội này.
“Kỳ
danh viết Xá Lợi Phất đẳng” (tên các Ngài là Xá Lợi Phất v.v...), nêu ra một
vị, toàn bộ những vị ấy vốn đều là Pháp Thân đại sĩ. Do đó, trong kinh thường gọi
các Ngài là “đại tỳ-kheo, đại A La Hán”, cho thấy các Ngài chẳng phải là [Thanh
Văn, Duyên Giác] thật sự, mà đều là Đại Bồ Tát. “Tắc Văn Thù, Thân Tử, đồng nhất thậm thâm trí huệ” (như vậy thì Văn
Thù và Thân Tử có cùng một trí huệ rất sâu). Nói theo căn bản, các Ngài như
nhau, đều là cổ Phật hoặc đại Bồ Tát tái lai. “Diệc tri thử kinh phi thiển trí sở năng tín hỹ” (cũng biết là kẻ
trí cạn chẳng thể hiểu kinh này), thật đấy, chẳng sai tí nào, đúng như kinh đã
dạy: “Bất khả dĩ thiểu thiện căn, phước đức,
nhân duyên, đắc sanh bỉ quốc” (Chẳng thể do ít thiện căn, phước đức, nhân
duyên mà được sanh về cõi ấy). Vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, phải trọn
đủ ba điều kiện sau đây: Phải có nhiều thiện căn, nhiều phước đức, nhiều nhân
duyên. Nhân duyên hiện thời của chúng ta, nói thật ra là thù thắng hơn bất cứ
thời đại nào, năm kinh đồng thời tuyên giảng, nhân duyên ấy sâu xa. Lại nữa, giảng
Di Đà Kinh Sớ Sao cũng ít, mà giảng Yếu Giải cũng ít. Thông thường, các đạo
tràng giảng kinh Di Đà nhằm ứng phó mà thôi, giảng bảy ngày, giảng nửa tháng,
những ý nghĩa trong ấy đều không thấu lộ được! Giảng kinh Vô Lượng Thọ càng ít,
giảng kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật cũng chẳng nhiều. Đạo tràng chúng ta ba kinh đều
thâm nhập, nghiên cứu, suy xét, nhân duyên ấy thù thắng khôn sánh!
Hiện thời, tùy thuộc bản thân chúng ta thiện
căn, phước đức ra sao? Thiện căn, phước đức là gì? Thiện căn là tín giải, quý vị
có tin hay không, quý vị có thể lý giải hay không? Tôi thật sự liễu giải, tôi
tin tưởng; nhưng quý vị phải biết: Thiện căn có sâu hay cạn khác nhau. Tôi tin
tưởng, tôi hiểu rõ, thiện căn chưa thể tính là sâu, như thế nào mới được coi là
sâu? Giống như chúng ta ở nơi đây nghiên cứu bộ kinh này, cảnh giới của chúng
ta mỗi lượt mỗi khác! Từ chỗ này sẽ thấy thiện căn sâu hay cạn. Thí dụ như năm
ngoái tôi tín giải chẳng bằng năm nay, năm kia không bằng năm ngoái, năm ngoái
không bằng năm nay, năm nay lại nhất định chẳng bằng năm tới, quý vị mới thấy tín
giải đích xác có cạn hay sâu! Vì thế, thiện căn có cạn hay sâu [khác nhau]!
Phước đức cũng có lớn hay nhỏ khác nhau! Phước
đức là gì? Là phát nguyện và trì danh. Phát nguyện và trì danh cũng mỗi năm một
khác! Năm ngoái nguyện lực chẳng mạnh mẽ như nguyện lực năm nay, lòng tự tin năm
ngoái chẳng khẳng định như lòng tự tin năm nay. Quý vị thấy phước đức mỗi năm lớn
hay nhỏ khác nhau. Trì danh, nói theo phương pháp thì mỗi năm một tinh thuần hơn.
Câu Phật hiệu thật sự niệm rất hữu hiệu, rất có sức mạnh, niệm Phật mỗi năm một
tốt đẹp hơn. Đó là nói thiện căn, phước đức quả thật có sâu, cạn, lớn, nhỏ sai
khác, chúng ta chớ nên không chú ý. Chớ nên nghĩ kinh Di Đà ta đã nghe một lần,
hiểu rồi, chẳng cần nghe nữa! Kể như quý vị có thiện căn, có phước đức, nhưng
thiện căn chưa đủ sâu, phước đức chưa đủ dầy!
Tuy chúng ta có thiện căn, phước đức, nhân
duyên, nhưng đối với ba phương diện thiện căn, phước đức, nhân duyên, ắt đều phải
khiến cho chúng mạnh hơn, tiếp tục tăng mạnh hơn không ngừng. Như vậy thì đến lúc
báo tận, vãng sanh, sẽ vô cùng thù thắng, phẩm vị tăng cao, chẳng luống uổng một
đời này! Mong mọi người hãy đặc biệt lưu ý điều này, mấy năm gần đây tôi mới thấu
hiểu rất sâu điều này. Hôm nay chúng tôi giảng đến đoạn này!
Tập 116
Xin
xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang hai trăm bốn mươi chín.
(Sớ) A Dật Đa giả, thử vân Vô Năng Thắng, tức
Di Lặc Bồ Tát dã.
(疏) 阿逸多者,此云無能勝,即彌勒菩薩也。
(Sớ: A Dật Đa (Ajita), cõi
này dịch là Vô Năng Thắng, tức là Di Lặc Bồ Tát).
Vị thứ hai trong Bồ Tát chúng là Di Lặc Bồ
Tát.
(Sao) Di Lặc, thử vân Từ Thị, tánh dã, A Dật
Đa, danh dã. Cụ túc đương vân Từ Vô Năng Thắng, dĩ tại mẫu thai trung, tức hữu
từ tâm, cố dĩ danh tộc.
(鈔) 彌勒,此云慈氏,姓也,阿逸多,名也。具足當云慈無能勝,以在母胎中,即有慈心,故以名族。
(Sao: Di Lặc (Maitreya) cõi này dịch là Từ Thị, đó là họ. A Dật Đa
là tên. Nói đầy đủ sẽ là Từ Vô Năng Thắng, do khi ở trong thai mẹ, bèn có từ
tâm, vì thế, lấy họ như thế).
Ở đây, tổng cộng có sáu điều giải thích, đây
là điều thứ nhất. Từ Vô Năng Thắng là nói đến từ bi. Trong Phật môn, thông thường
nói từ bi có ba thứ, hoặc nói tới bốn thứ. Trong bốn thứ, thì:
1)
Loại thứ nhất là Ái Duyên Từ, loại này phàm phu chúng ta đều có. Chúng ta thích
kẻ khác, bèn đối xử rất từ bi với kẻ ấy, đó là Ái Duyên Từ, tâm lượng rất nhỏ, giống
như cha mẹ đối với con cái.
2)
Loại thứ hai là Chúng Sanh Duyên Từ, phạm vi mở rộng, như tâm lượng của bậc thánh
hiền, quân tử trong thế gian tương đối lớn, như ông Phạm Trọng Yêm đã nói: “Lão ngô lão dĩ cập nhân chi lão, ấu ngô ấu
dĩ cập nhân chi ấu” (dùng lòng yêu thương đối với người già của ta để đối đãi
người già của người khác, dùng lòng yêu thương đối với trẻ nhỏ của chính ta để yêu
thương trẻ nhỏ của người khác). Đấy là Chúng Sanh Duyên Từ, tâm lượng lớn hơn.
3)
Thứ ba là Pháp Duyên Từ. Pháp Duyên Từ là quan sát tự tánh của hết thảy các pháp
bình đẳng, xuất phát từ cái tâm bình đẳng mà bình đẳng quán hết thảy chúng sanh.
Bồ Tát mới có lòng Từ này, vì Ngài đã thật sự liễu giải Thật Tướng của các pháp.
Do vậy, tâm từ bi này phải sâu và lớn hơn Chúng Sanh Duyên Từ.
4)
Thứ tư là Vô Duyên Từ, vô điều kiện, Như Lai mới có lòng từ bi này, đó gọi là
chứng đến quả vị rốt ráo. Như Lai từ bi đối với hết thảy chúng sanh chẳng đòi hỏi
một điều kiện nào. Bồ Tát còn có điều kiện, Pháp Duyên Từ còn có điều kiện, Phật
chẳng có điều kiện. Đây là lòng từ bi thù thắng nhất.
Di
Lặc là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Từ Bi. Khi Ngài ở trong thai mẹ
đã có tâm từ bi, nên dòng họ Ngài dùng danh xưng này làm họ. Nói theo kiểu này
chính là lòng Từ tự lợi, vì Ngài còn ở trong thai mẹ chưa sanh ra. Cũng có thể
nói từ tâm ấy là lòng Từ hiện tại, từ tâm hiện tại, từ tâm tự lợi. Thông thường,
chúng ta nói đến từ bi đều là lợi tha, đều nói theo phương diện lợi tha, chẳng biết
từ tâm có thể tự lợi. Lòng người từ bi đến cùng cực, sẽ có thể hóa giải hết thảy
độc hại, chẳng điều gì có thể tổn hại người ấy được, từ tâm mà! Ý nghĩa thứ
hai:
(Sao) Hựu quá khứ sanh trung, ngộ Đại Từ Như
Lai, nguyện đồng thử hiệu, tức đắc từ tâm tam-muội.
(鈔) 又過去生中,遇大慈如來,願同此號,即得慈心三昧。
(Sao: Lại nữa, trong đời
quá khứ, gặp Đại Từ Như Lai, nguyện có cùng danh hiệu ấy, liền đắc từ tâm
tam-muội).
Ý nghĩa thứ hai vô cùng rõ rệt. Trong đời
quá khứ, Ngài tu Bồ Tát đạo, gặp một vị Phật có hiệu là Đại Từ, nên gọi là Đại
Từ Như Lai. Ngài phát nguyện, mong đời đời kiếp kiếp trong tương lai có cùng
nguyện, cùng hạnh với Phật. Nguyện ấy quả nhiên chẳng hư dối, sau này, khi Ngài
làm Bồ Tát, đời đời kiếp kiếp quả nhiên đắc danh hiệu ấy. Danh hiệu ấy nhìn từ
hình tướng là do vị Phật trong quá khứ, trên thực tế, Ngài tu Từ Tâm tam-muội,
tâm địa vĩnh viễn từ bi. Bất luận trong thuận cảnh hay nghịch cảnh đều một mực từ
bi, nên gọi là từ tâm tam-muội. Trong quá khứ, rất nhiều vị Bồ Tát đều học theo
Phật. Trong kinh Lăng Nghiêm, chúng ta thấy Quán Thế Âm Bồ Tát gặp gỡ cổ Quán
Âm Phật, cũng mong mỏi đồng hạnh, đồng nguyện với Quán Âm Phật, nên đời đời kiếp
kiếp làm Quán Âm Bồ Tát. Tình hình như vậy, chẳng phải chỉ mình Di Lặc Phật, mà
rất nhiều vị có tình hình như vậy. Ý nghĩa thứ ba là:
(Sao) Hựu tích vi Bà La Môn, hiệu Nhất Thiết
Trí, ư bát thiên tuế, tu tập từ hạnh.
(鈔) 又昔為婆羅門,號一切智,於八千歲,修習慈行。
(Sao: Lại nữa, xưa kia
Ngài là Ba La Môn, hiệu là Nhất Thiết Trí, trong tám ngàn năm, tu tập hạnh từ
bi).
Thứ ba, trong đời quá khứ, Ngài từng thị hiện
thân ngoại đạo. Tuy thị hiện thân phận Bà La Môn, theo đạo Bà La Môn, Ngài cũng
là tu tâm từ bi. Thứ tư...
(Sao) Hựu Phất Sa Phật thời, dữ Thích Ca Như
Lai đồng phát Bồ Đề tâm, thường tập từ định.
(鈔) 又弗沙佛時,與釋迦如來同發菩提心,常習慈定。
(Sao: Lại nữa, thời Phất
Sa Phật, cùng phát Bồ Đề tâm với Thích Ca Mâu Ni Phật, thường tu tập Từ định).
Đây cũng là nói đến chuyện quá khứ, thảy đều
là thiên trọng phương diện tự lợi hạnh. Nhìn từ chỗ này, chúng ta biết Di Lặc Bồ
Tát và Thích Ca Mâu Ni Phật từng là đồng học. Kinh còn nói thêm, không chỉ là đồng
học, mà thân phận, địa vị, tư cách của Ngài còn cao Thích Ca Mâu Ni Phật. Thích
Ca Mâu Ni Phật thành Phật sớm hơn Ngài, vượt trỗi, Ngài biến thành Hậu Bổ Phật của
Thích Ca Mâu Ni Phật, do nguyên nhân gì? Trong kinh, đức Phật đã dạy: Trong quá
khứ, khi tu Bồ Tát đạo, đức Thế Tôn dũng mãnh, tinh tấn, nên vượt trội. Nếu chẳng
dũng mãnh, tinh tấn, dựa theo thứ tự thuận, ngài Di Lặc sẽ là vị Phật thứ tư,
trong Hiền kiếp, Thích Ca Mâu Ni Phật là vị thứ năm; hiện thời các Ngài đã đảo
lộn thứ tự. Đó là do tinh tấn chẳng thể nghĩ bàn! Đức Phật cũng khuyến khích chúng
ta phải nên tinh tấn, đừng biếng nhác! Thứ năm:
(Sao) Hựu Tư Ích kinh vân: “Chúng sanh kiến giả,
tức đắc từ tâm tam-muội”.
(鈔)
又思益經云:眾生見者,即得慈心三昧。
(Sao: Lại nữa, kinh Tư Ích[8]
nói: “Chúng sanh trông thấy Ngài, liền đắc từ tâm tam-muội”).
Ý nghĩa này hết sức rõ rệt là lợi tha, lợi
ích chúng sanh. Chùa Phật hiện thời, hễ bước vào sơn môn, điện thờ thứ nhất là
Thiên Vương Điện. Chính giữa Thiên Vương Điện thờ Di Lặc Bồ Tát, đặc biệt thờ tượng
Bố Đại hòa thượng vì hết sức rõ rệt là tượng Bố Đại hòa thượng có thể khiến cho
người ta vừa trông thấy bèn sanh tâm hoan hỷ, sanh tâm từ bi. Theo lịch sử Trung
Quốc ghi chép, hóa thân của Di Lặc Bồ Tát tại Trung Quốc vô cùng rõ rệt, mọi người
đều biết đến thì có hai lần: Lần đầu tiên là Phó Đại Sĩ đời Đường, hiện thân cư
sĩ; lần thứ hai nhằm thời đại Tống Cao Tông nhà Nam Tống, hiện thân Bố Đại hòa
thượng. Từ đấy trở đi, người Trung Quốc đắp tượng Di Lặc Bồ Tát đều tạc tượng Bố
Đại hòa thượng, dùng Ngài để biểu thị từ tâm tam-muội. Bên cạnh Bố Đại hòa thượng
thường vẽ mấy đứa bé vây quanh, nhất định là có năm hay sáu đứa trẻ. [Tượng tạc
có] năm đứa trẻ khá nhiều! Năm đứa tượng trưng cho tài, sắc, danh, ăn uống, ngủ
nghỉ, [tức là] tượng trưng Ngũ Dục. Sáu đứa tượng trưng cho Lục Trần, tức Sắc, Thanh,
Hương, Vị, Xúc, Pháp. Tượng trưng Ngũ Dục, Lục Trần suốt ngày từ sáng đến tối vây
bủa Ngài, Ngài chẳng động tâm, chẳng bị quấy nhiễu! Mang ý nghĩa này!
Hiện thời tôi ở ngoại quốc, tại đạo tràng
Dallas, dùng máy thâu âm tự động xoay băng, hai mươi bốn tiếng đồng hồ niệm Phật
không ngừng, vậy thì cái máy thâu âm ấy trong tương lai nhất định thành Phật, nhất
định là Thượng Phẩm Thượng Sanh? Trật rồi! Thành Phật là tâm thành Phật, thân
chẳng thể thành Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ cũng hỏa táng, có thể thấy
thân chẳng thành Phật, mà là tâm thành Phật! Tu gì? Tu tâm! Lục Tổ Đàn Kinh ghi
chép, Lục Tổ đại sư ở Hoàng Mai, suốt tám tháng mỗi ngày đều giã gạo, bửa củi nơi
ấy, chẳng nghe kinh ngày nào, cũng chẳng bước vào cửa Thiền Đường, mà cũng chẳng
biết niệm kinh, cũng chẳng biết lạy Phật, không ai dạy Ngài! Ngài cũng chẳng hiểu
giới luật, cái gì cũng chẳng biết, lạ lùng thay! Ngũ Tổ truyền địa vị Tổ Sư cho
Ngài, dựa vào đâu? Người ta thật sự biết tu! Do vậy, nay chúng ta đã làm trật rồi,
ngay cả một câu Phật hiệu cũng chẳng biết niệm, ngay cả kinh cũng chẳng biết
nghe!
Cổ nhân nói nghe kinh phải tiêu quy tự tánh,
nghe phải có ngộ xứ. Nghe mà chẳng có ngộ xứ, chẳng liên quan đến sự tu hành của
quý vị! Nghe xong tôi luôn ghi nhớ, được chưa? Không được! Không chỉ chẳng được,
quý vị còn phạm lỗi lầm rất lớn. Vì sao? Tăng trưởng tà kiến. Đầu óc quý vị vốn
chẳng có tà tri tà kiến nhiều ngần ấy, nay nghe xong nhận vào một đống lớn tri
kiến, sẽ như Thanh Lương đại sư đã nói [“tăng trưởng tà kiến”]. Nghe kinh phải
khai ngộ, chẳng phải là bảo quý vị nghe kinh phải ghi nhớ, quý vị nhớ để làm
gì? Quý vị đọc kinh Kim Cang thấy đức Phật phủ nhận toàn bộ những gì Ngài đã nói:
Nếu ai nói đức Phật giảng kinh, kẻ ấy báng Phật! Đức Phật chẳng nói kinh, quý vị
nghe kinh từ chỗ nào? Nhớ nhiều ngần ấy từ chỗ nào?
Người biết nghe kinh, nghe kinh một tiếng
rưỡi sẽ tu gì? Tu Giới, Định, Huệ, giống như đọc kinh, buông hết thảy vọng niệm
xuống, lặng lẽ nghe giảng ở nơi đây, chẳng dấy phân biệt, không khởi chấp trước,
chẳng dấy vọng tưởng, ta tu Giới một tiếng rưỡi ở đây. Giới luật là “đừng làm các điều ác, vâng làm các điều
lành”. Một vọng tưởng ta cũng chẳng dấy lên, ta đã “đừng làm các điều ác”, Giới ấy bèn trọn đủ. Kinh là lời lẽ chân thật
lưu lộ từ tâm tánh của Phật, đó là chí thiện, thiện nhất trong các điều thiện.
Chúng ta nghe kinh là “vâng làm các điều
lành”, giới luật viên mãn. Ta dùng tâm thanh tịnh để nghe, chẳng khởi tâm, không
động niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, ta tu Định một tiếng rưỡi. Ta
nghe rõ ràng, rành rẽ, nghe có ngộ xứ, đó là trí huệ. Nghe kinh như vậy gọi là “tiêu quy tự tánh”. Khi ấy, tự tánh Giới,
tự tánh Định, tự tánh Huệ của quý vị thảy đều hiện tiền, đấy là tiêu quy tự tánh.
Tu hành phải chuyển thức thành trí, đấy là
cương lãnh của việc nghe giáo và tu hành, hành là hành vi. Trong hành vi, quan
trọng nhất là tri kiến. Nếu tri kiến sai lầm, dẫu chúng ta tu thân và khẩu tốt
đẹp đến mấy, vẫn là phước báo nhân thiên hữu lậu. Thời cổ có tỳ-kheo-ni Liên Hoa
Hương suốt đời niệm kinh Pháp Hoa, đáng tiếc là chẳng khai ngộ, chẳng may mắn
như thiền sư Pháp Đạt. Pháp Đạt gặp gỡ Lục Tổ chỉ điểm, khiến Sư đại triệt đại
ngộ, minh tâm kiến tánh. Nếu Pháp Đạt không gặp Lục Tổ, sợ rằng chẳng khác tỳ-kheo-ni
Liên Hoa Hương. Đời thứ hai, tỳ-kheo-ni Liên Hoa Hương làm thân người, nhưng kém
đời trước, đời thứ hai sanh làm kỹ nữ, trong miệng có mùi thơm hoa sen, vì đời
trước đã niệm kinh Pháp Hoa cả đời, nên trong miệng thơm hương hoa sen, nhưng làm
kỹ nữ, quý vị thấy bà ta tu hành đạt được gì? Kết quả là như vậy! Bà ta chỉ tu
cái miệng, chẳng tu tâm! Trong miệng có kinh Diệu Pháp Liên Hoa, trong tâm
không có! Niệm kinh Pháp Hoa cả đời được quả báo như vậy!
Quý vị xem những câu chuyện của cổ nhân, đọc
Cao Tăng Truyện, ngữ lục các tông, chúng ta sẽ tìm ra, họ tu gì? Thứ nhất là tu
nhẫn nhục. Kinh Kim Cang dạy: “Nhất thiết
pháp đắc thành ư nhẫn” (hết thảy pháp do nhẫn mà thành tựu). Lục Ba La Mật
trong kinh Kim Cang nhằm răn dạy kẻ sơ học trước hết phải tu hai điều: Một là bố
thí, hai là nhẫn nhục. Bố thí là buông xuống, tuyệt đối chẳng phải là nói “ta có
tiền liền ngay lập tức đem bố thí, làm chuyện tốt”, [nếu nói như vậy], quý vị đã
hiểu lầm toàn bộ ý Phật mất rồi! Đó chẳng phải là ý nghĩa thật sự của bố thí. Ý
nghĩa thật sự là phải buông kiến giải xuống, buông phiền não xuống. Hãy đem những
thứ ấy bố thí, hãy bố thí tham, sân, si, hãy đem Thân Kiến, Biên Kiến, Kiến Thủ
Kiến, Giới Thủ Kiến, Tà Kiến bố thí hết, mang ý nghĩa này. Chỉ đem tiền tài bố
thí, quý vị sẽ được phước báo trong đời sau. Trong thế gian hiện thời, kẻ có tiền,
có thế lực rất nhiều, do trong đời quá khứ đã tu nhân ấy mà ra. Quý vị thấy hiện
thời những kẻ ấy có tiền, chẳng hề tu hành, chẳng làm chuyện tốt! Vì thế, nói bố
thí là buông xuống hết thảy tri kiến của chúng ta, buông hết thảy phiền não xuống,
[Phật dạy chúng ta bố thí] là dạy chúng ta bỏ những thứ ấy, đem bố thí hết! Vì
thế, công phu áp dụng ở chỗ này!
Nếu quý vị hiểu rõ đạo lý này, Lục Tổ đại
sư ở Hoàng Mai tám tháng đã tu Lục Độ, vạn hạnh, quý vị nghĩ xem có đúng hay không?
Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, Thiền Định, Bát Nhã, thứ gì Ngài cũng đều
trọn đủ. Sự tu hành ấy chỉ có hòa thượng Ngũ Tổ Nhẫn hiểu rõ, nhìn ra. Trong chùa
ấy có hơn ba ngàn người, chỉ có một người đang thật sự tu hành, những người
khác đều là giả tu hành, chỉ có một mình Lục Tổ tu hành. Người tu hành thật sự ấy
bị những kẻ giả tu hành coi thường, nhưng người chân tu hành cung kính mọi kẻ
giả tu hành. Quý vị đọc Đàn Kinh sẽ thấy ngay cả đối với một tiểu hành giả mười
bốn, mười lăm tuổi còn chưa xuất gia, hãy còn để tóc, làm việc trong ngôi chùa ấy,
Lục Tổ đều gọi kẻ ấy là “thượng nhân”. Từ Đàn Kinh chúng ta thấy, Tổ đều gọi họ
là Thượng Nhân, tôn kính như vậy đó. Có thể thấy Ngài không chỉ tu Lục Độ, vạn
hạnh, mà còn thật sự tu mười nguyện Phổ Hiền. Chúng ta xem kinh, nghe giảng phải
chú trọng những chỗ này, phải hiểu rõ, mới hiểu tu học như thế nào trong cuộc sống
hằng ngày.
Cương lãnh tu hành là tu “giác chứ không mê, chánh chứ không tà, tịnh
chứ chẳng nhiễm”, người tu Tịnh Độ chúng ta đặc biệt chú trọng điều thứ ba
là tâm thanh tịnh. Trong tâm thanh tịnh trọn đủ Giới, Định, Huệ, trong tâm thanh
tịnh trọn đủ vô lượng trí huệ, đức hạnh. Chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối thấy
lỗi lầm của người khác, chẳng thấy bản thân có lỗi lầm! Trên thực tế, người khác
quyết định chẳng có lỗi lầm, vì sao là quyết định không có lỗi lầm? “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng”,
“hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt,
bóng”, lỗi lầm của người ta từ đâu mà có? Không có! Lỗi lầm từ đâu ra? Trong
chính cái tâm của chúng ta có lỗi lầm, tâm kính (tấm gương lòng) của chúng ta dơ
bẩn nên soi đến những nơi khác sẽ thấy chúng đều dơ bẩn. Quý vị thấy cái này dơ
bẩn, cái kia cũng bẩn thỉu, chẳng biết cái tâm soi chiếu của chính mình là nhớp
nhúa, chứ bên ngoài trọn chẳng dơ bẩn. Lục Tổ đã giảng tình hình này rất rõ
ràng: “Nếu người thật tu đạo, chẳng thấy
lỗi người khác. Nếu thấy người khác trật, chính mình càng sai hơn”. Nói rất
rõ ràng, người khác há có lầm lỗi? Chúng ta phải vận dụng giáo huấn quý báu này
vào cuộc sống, vận dụng vào xử sự, đãi người, tiếp vật.
Ngày nay chúng ta thấy các đạo tràng trong
thiên hạ đều rối beng, chẳng thấy có một đạo tràng thanh tịnh nào, nguyên nhân vì
đâu? Tâm kính của mỗi cá nhân đều một mực hồ đồ, nên khi soi chiếu bên ngoài,
luôn thấy bên ngoài dơ bẩn, chẳng biết lỗi lầm nơi chính mình. Tu hành, quý vị thật
sự hiểu rõ đạo lý này, sẽ biết tu hành phải thực hiện từ chỗ nào? Nên tu theo cách
nào? Ngày nay chúng ta niệm tới [danh hiệu] Từ Thị Bồ Tát, phải tu từ tâm tam-muội.
Chúng ta đãi người tiếp vật có tâm từ bi hay không? Chúng ta có từ bi đối với chính
mình hay không? Nếu chẳng thể sửa đổi những khuyết điểm của chính mình, tức là chẳng
có chút từ bi nào đối với chính mình, vẫn khiến cho chính mình đời sau phải luân
hồi trong lục đạo, vậy thì coi là từ bi sao được? Mức độ thấp nhất là phải sanh
về Tây Phương Cực Lạc thế giới, lúc ấy mới là từ bi đối với chính mình.
Vì thế, tôi nói Phật hiệu cũng chẳng biết
niệm, cớ sao nói chẳng biết niệm? Người biết niệm mỗi câu Phật hiệu đều chế ngự
phiền não. Quý vị niệm Phật chẳng thể chế ngự phiền não, niệm Phật hiệu vô dụng!
Ý niệm vừa dấy lên bèn lập tức đổi thành A Di Đà Phật, đó là biết niệm. Chẳng
biết niệm là miệng niệm A Di Đà Phật, trong tâm vẫn dấy vọng tưởng, đó là chẳng
biết niệm. Vì thế, công phu đắc lực nhìn từ chỗ này, mỗi một câu Phật hiệu đều
có thể chuyển biến ý niệm. Do vậy biết: Niệm Phật chẳng phải quý ở chỗ niệm cho
nhiều, cũng chẳng quan trọng phải dùng phương thức gì để niệm. Nói ngắn gọn là một
nguyên tắc: Niệm đến mức thân tâm thanh tịnh, niệm tới mức chính mình chẳng
sanh phiền não, công phu đắc lực. Niệm Phật phải niệm theo cách ấy!
Có người hỏi tôi, niệm Phật rốt cuộc là niệm
Ơ (ㄛ) Di Đà Phật, hay A (ㄚ) Di Đà Phật? Điều này
chẳng quan trọng! Từ băng thâu âm, chúng tôi nghe lão pháp sư Đàm Hư, Ngài là
người Đông Bắc, niệm Ơ (ㄛ) Nỉ (ㄋㄧˊ) Đà Phật, âm điệu rất
lạ lùng. Đó là thổ âm phương Bắc, Ngài vẫn có thể thành tựu, Ngài vãng sanh cũng
là ngồi vãng sanh. Do vậy, ta biết, âm thanh niệm Phật chuẩn xác đương nhiên là
tốt, niệm sai âm cũng chẳng sao cả, vấn đề là gì? Chỉ cần quý vị có thể chế phục
phiền não, chỉ cần trong tâm quý vị có A Di Đà Phật. Âm niệm chánh xác là A (ㄚ), đó là âm tiếng Phạn.
Trong bốn mươi hai chữ Hoa Nghiêm Tự Mẫu, chữ cái thứ nhất đọc là A (ㄚ). Chúng ta do thói
quen niệm Ơ (ㄛ) Di Đà Phật[9],
chẳng sao cả, chuyện ấy không quan trọng!
Trong Phật môn cũng có câu chuyện về niệm
chú Lục Tự Đại Minh, người ấy niệm sai, [đọc thành] “Án, ma-ni bát-mê ngưu”, khi người ấy niệm, các hạt đậu đều có cảm ứng,
các hạt đậu tự nhảy lên[10].
Người ta nói: “Ngươi niệm sai rồi! Chú ấy phải đọc là Án, ma-ni bát-mê hồng”.
Người ấy vừa thay đổi, các hạt đậu chẳng nhảy lên nữa. Người ấy chẳng quan tâm
nữa, ta vẫn niệm “Án, ma ni bát mê ngưu”
bèn có cảm ứng. Vì thế ta biết: Tâm thành ắt linh, âm đọc sai chẳng có quan hệ
to tát gì! Thứ sáu:
(Sao) Hựu Bi Hoa Kinh vân: “Phát nguyện ư đao
binh kiếp trung, ủng hộ chúng sanh”.
(鈔) 又悲華經云:發願於刀兵劫中擁護眾生。
(Sao: Lại nữa, kinh Bi Hoa
nói: “Phát nguyện ủng hộ chúng sanh trong lúc đao binh kiếp”).
Đây cũng là nói tới lòng Từ lợi tha. Không
chỉ là lòng Từ lợi tha, mà còn là lòng từ bi đến tận tương lai. Ngài phát nguyện
trong “kiếp đao binh”. “Kiếp đao binh” là nói tiểu tam tai và đại tam tai, đại
tam tai là hỏa tai, thủy tai, và phong tai, những tai nạn ấy to lớn. Tiểu tam
tai là chiến tranh, cơ cẩn (飢饉: đói kém), và ôn dịch. Trong quá khứ, chúng tôi đọc kinh thường thấy nói
đến tiểu tam tai, rất nghi hoặc, từ xưa đến nay, có ngày nào chẳng phải là chiến
tranh? Trong quá khứ, người Hoa và Nhật Bản đánh nhau tám năm, có được coi là kiếp
đao binh [trong tiểu tam tai] hay không? Vẫn chưa tính, cố nhiên là kiếp đao
binh, nhưng chẳng phải tiểu tam tai. Theo kinh nói, đao binh trong tiểu tam
tai, tức chiến tranh, chỉ có bảy ngày bảy đêm; ôn dịch là bảy tháng bảy ngày bảy
đêm, “cơ cẩn” là đói kém, bảy năm bảy
tháng bảy ngày.
Tôi
đến thăm Quảng Đảo (
(Sao) Thị tắc từ long tức thế, bi trăn hậu
kiếp, chí cực chi từ, siêu xuất phàm, tiểu, cố Vô Năng Thắng.
(鈔) 是則慈隆即世,悲臻後劫,至極之慈,超出凡小,故無能勝。
(Sao: Do vậy, lòng Từ chan
chứa đời này, lòng bi thấm tới kiếp sau, lòng Từ đạt tới tột bậc, vượt trỗi
phàm phu và Tiểu Thừa, nên gọi là Vô Năng Thắng).
Đây là tán thán Di Lặc Bồ Tát đại từ, đại
bi, phàm phu, ngoại đạo, Tiểu Thừa đều chẳng thể sánh bằng Ngài. Vì vậy, Di Lặc
có nghĩa là lòng Từ không ai vượt trội hơn được (Từ Vô Năng Thắng), không có ai
hơn được Ngài.
(Sớ) Hựu Di Lặc ký văn thử kinh, Long Hoa tất
thuyết thử kinh, đương tri thử kinh lưu thông vô tận.
(疏) 又彌勒既聞此經,龍華必說此經,當知此經流通無盡。
(Sớ: Lại nữa, ngài Di Lặc
đã nghe kinh này, ắt trong hội Long Hoa sẽ nói kinh này, nên biết kinh này lưu
thông vô tận).
Đoạn này nói vô cùng hay, đây là phục bút[11],
vì đến phần sau trong bản kinh này, sáu phương Phật tán thán. Sáu phương Phật đều
tán thán kinh này, có thể thấy sáu phương Phật nhất định hoằng dương bộ kinh này,
quả thật là tận hư không, khắp pháp giới, không lúc nào, không chỗ nào chẳng lưu
thông bộ kinh này! Do vậy, ta biết: Kinh này là “pháp môn bậc nhất để độ chúng
sanh” của mười phương ba đời hết thảy chư Phật. Ý nghĩa được bao hàm ở đây là dạy
chúng ta hãy tỉnh ngộ, nhận thức pháp môn này.
(Sao) Vấn: Hà tri tất nhĩ?
(鈔)
問:何知必爾。
(Sao: Hỏi: Vì sao biết ắt sẽ phải là như vậy?)
Trong phần trên đã nói trong tương lai,
trong hội Long Hoa, ngài Di Lặc nhất định thuyết kinh này, vì sao quý vị biết
nhất định sẽ là như thế?
(Sao) Đáp: Pháp Hoa xưng cổ Phật phóng
quang, vị thuyết thử kinh.
(鈔) 答:法華稱古佛放光,為說此經。
(Sao: Đáp: Kinh Pháp Hoa
nói cổ Phật phóng quang để nói kinh này).
Đây
là dùng kinh Pháp Hoa để chứng minh. Trong kinh Pháp Hoa, Bổn Sư Thích Ca Mâu
Ni Phật đã nói: “Phật phóng mi gian bạch
hào tướng quang, chiếu Đông phương vạn bát thiên thế giới” (Đức Phật phóng
quang minh từ tướng bạch hào, chiếu tới một vạn tám ngàn thế giới ở phương Đông),
trong quang minh hiển hiện các cõi Phật, cùng với cảnh giới y báo và chánh báo trang
nghiêm trong cõi Phật ấy. Di Lặc Bồ Tát cũng tham gia hội Pháp Hoa. Sau khi thấy
như vậy, Di Lặc Bồ Tát bèn hoài nghi, hỏi Văn Thù Bồ Tát. Văn Thù Bồ Tát bảo:
Trong quá khứ, Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật cũng từng phóng quang như vậy. Sau
khi phóng quang bèn giảng Diệu Pháp Liên Hoa. Nay Thích Ca Mâu Ni Phật cũng phóng
quang, nhất định sẽ giảng kinh giống như vậy. Dùng thí dụ này để nhìn, sẽ biết
trong tương lai, Di Lặc Bồ Tát nhất định giảng kinh này trong hội Long Hoa.
(Sao) Kim Phật phóng quang, tri tất thuyết
thử, tắc Phật Phật thuyết Pháp Hoa dã. Nhi thử kinh giả, độ sanh tối cấp, chư Phật
cộng tán.
(鈔) 今佛放光,知必說此,則佛佛說法華也。而此經者,度生最急,諸佛共讚。
(Sao: Nay đức Phật phóng quang, ta biết là đức Phật ắt nói kinh ấy,
tức là đức Phật nào cũng đều nói kinh Pháp Hoa. Nay kinh này độ chúng sanh cấp
thiết nhất, được chư Phật cùng khen ngợi).
Đây là sáu phương Phật tán thán trong phần
sau.
(Sao) Ký vị chư Phật cộng tán, tất vị chư Phật
sở thuyết, Long Hoa chi hội, tất thuyết thử kinh, hà nghi chi hữu.
(鈔) 既為諸佛共讚,必為諸佛所說,龍華之會,必說此經,何疑之有。
(Sao: Đã được chư Phật
cùng khen ngợi, ắt sẽ được chư Phật nói. Hội Long Hoa ắt nói kinh này, há còn
ngờ chi?)
Trong hội Long Hoa, Di Lặc Bồ Tát nhất định
nói Tịnh Độ tam kinh, nhất định cũng khuyên mọi người niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
Bởi lẽ, hiện thời có rất nhiều người, thậm chí còn một số pháp sư, chẳng tu Tây
Phương Tịnh Độ mà muốn tu Di Lặc Tịnh Độ. Di Lặc Tịnh Độ khó tu lắm! Tu thành công,
trong tương lai vãng sanh Đâu Suất Nội Viện, thân cận Di Lặc Bồ Tát, lại đợi đến
năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm sau, sẽ theo Di Lặc cùng xuống thế gian này. Di
Lặc Bồ Tát thị hiện thành Phật, họ sẽ thị hiện làm A La Hán, cho đến lúc ấy, Di
Lặc Bồ Tát giảng Tịnh Độ tam kinh vẫn khuyên họ vãng sanh. Nếu chúng ta tới Tây
Phương Cực Lạc thế giới, thấy họ đến: “Lão huynh, sao đến bây giờ anh mới tới?”
Vì thế, phải biết pháp môn này thù thắng. Tôi lại bảo quý vị, nếu quý vị đã vãng
sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, muốn đến thăm đạo tràng của Di Lặc Bồ Tát, mỗi
ngày đều có thể đi. Đồ đệ của Di Lặc Bồ Tát nếu muốn tới Tây Phương Cực Lạc thế
giới chẳng thể dễ dàng như thế! Vì thế nói Tây Phương Tịnh Độ thù thắng, mười
phương chư Phật tán thán. Di LặcTịnh Độ chẳng được mười phương chư Phật tán thán.
Chúng ta phải nhận thức rõ ràng điều này, nỗ lực tu Tây Phương Tịnh Độ. Vị thứ
ba là Càn Đà Ha Đề Bồ Tát :
(Sớ) Càn Đà Ha Đề, thử vân Bất Hưu Tức.
(疏) 乾陀訶提,此云不休息。
(Sớ:
Càn Đà Ha Đề (Gandhahastin), cõi này dịch là Bất Hưu Tức).
Đây là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán, có
nghĩa là chẳng nghỉ ngơi.
(Sao) Bất Hưu Tức giả, hành chư phạm hạnh, lịch
hằng sa kiếp, nhiên hậu thọ ký, kinh thử đa kiếp, tằng bất hưu tức cố.
(鈔) 不休息者,行諸梵行,歷恆沙劫,然後授記,經此多劫,曾不休息故。
(Sao: Bất Hưu Tức là hành
các phạm hạnh trải hằng sa kiếp, rồi mới được thọ ký, trải qua nhiều kiếp như vậy,
chưa từng nghỉ ngơi).
Bồ Tát tu hành bao kiếp dài lâu chưa hề gián
đoạn, chưa từng nghỉ ngơi. Vị tiếp theo là Thường Tinh Tấn Bồ Tát
(Nitiyodyukta) :
(Sao) Thường Tinh Tấn giả nhị nghĩa, nhất giả Thiên Thai vân: “Kiến
Pháp Tánh thường trụ, hành vô tác Chánh Cần cố”. Nhị giả, Bảo Tích Kinh vân: “Thử
Bồ Tát vị nhất chúng sanh, kinh vô lượng kiếp, tùy trục bất xả, do bất thọ hóa,
tằng vô nhất niệm khí xả chi tâm, nãi tinh tấn chi chí cực dã”.
(鈔)
常精進者二義,一者天台云:見法性常住,行無作正勤故。二者寶積經云:此菩薩為一眾生,經無量劫,隨逐不捨,猶不受化,曾無一念棄捨之心,乃精進之至極也。
(Sao: Thường Tinh Tấn có hai nghĩa, một là như ngài Thiên Thai nói:
“Thấy Pháp Tánh thường trụ, hành Chánh Cần vô tác”. Hai là như kinh Bảo Tích dạy:
“Vị Bồ Tát này vì một chúng sanh mà trải qua vô lượng kiếp theo sát kẻ ấy chưa
hề buông bỏ, dẫu kẻ ấy chẳng tiếp nhận sự giáo hóa, Bồ Tát vẫn không có một niệm
tâm buông bỏ, đấy là tinh tấn tới tột bậc vậy”).
“Phật
thị môn trung, bất xả nhất nhân” (trong cửa nhà Phật, chẳng bỏ một ai), một
người cũng chẳng buông bỏ! Thường Tinh Tấn Bồ Tát làm được [điều ấy]. Đối với Thường
Tinh Tấn và Bất Hưu Tức, trong quá khứ, khi chúng tôi giảng kinh này đã nói, bốn
vị Bồ Tát này biểu thị pháp, Văn Thù biểu thị trí huệ, Di Lặc biểu thị đại từ,
tu học pháp môn Tịnh Độ phải có đại trí huệ, đại từ bi, phải chẳng ngưng nghỉ,
phải thường tinh tấn, quý vị mới có thể vãng sanh. Các danh hiệu Bồ Tát được nêu
lên ở đây nhằm dạy chúng ta yếu lãnh (cương lãnh trọng yếu) trong tu hành.
(Sao) Nhị nghĩa giả, nhất thị tự lợi, vị sanh
thiện tăng trưởng, dĩ sanh thiện bảo trì, vị sanh ác dự phòng, dĩ sanh ác tốc
diệt, danh Tứ Chánh Cần.
(鈔) 二義者,一是自利,未生善增長,已生善保持,未生惡預防,已生惡速滅,名四正勤。
(Sao: “Hai nghĩa”: Một là
tự lợi, điều thiện chưa sanh phải tăng trưởng, điều thiện đã sanh phải gìn giữ,
điều ác chưa sanh phải ngăn ngừa, điều ác đã sanh phải nhanh chóng diệt, đó gọi
là Tứ Chánh Cần).
Hãy nên tu học điều này. Trong bản dịch của
Huyền Trang đại sư, ba mươi bảy Đạo Phẩm hoàn toàn được nêu ra. Trong bản dịch
của La Thập đại sư, ba khoa trước (Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc) của
ba mươi bảy Đạo Phẩm bị tỉnh lược, chỉ nói Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần, và
Bát Thánh Đạo Phần, bốn khoa ấy. Niệm Xứ và Chánh Cần rất trọng yếu, chúng ta
tu hành phải thực hiện từ nơi đây. Tứ Niệm Xứ là trí huệ, do Văn Thù Bồ Tát đại
diện, dạy chúng ta thấy thấu suốt. Tứ Chánh Cần là từ bi, do Di Lặc Bồ Tát đại diện.
Từ bi đối với chính mình, đó là nói tu lòng Từ tự lợi, tự lợi rồi mới có thể lợi
tha, phải từ bi đối với chính mình! Từ bi là chính mình nhất định phải sửa lỗi
tu thiện, phải nghiêm túc tu Tứ Chánh Cần. Thiện đã có thì phải giữ gìn nó, thiện
chưa sanh phải khiến cho nó sanh trưởng. Điều ác chưa có phải ngăn ngừa, chẳng
cho ác niệm dấy lên. Đã tạo ác nghiệp phải sám hối, sau đấy chẳng tạo nữa!
(Sao) Nhi ngôn kiến tánh vô tác, tắc liễu tri
Pháp Tánh bổn phi thiện, phi ác. Tuy vân tu thiện, bất tu nhi tu; tuy vân khử
ác, bất khử nhi khử. Sở vị “nhất niệm bất sanh”, thị chân tinh tấn cố.
(鈔) 而言見性無作,則了知法性本非善非惡。雖云修善,不修而修;雖云去惡,不去而去。所謂一念不生,是真精進故。
(Sao: Nhưng nói kiến tánh vô tác, tức là hiểu rõ Pháp Tánh vốn chẳng
thiện, chẳng ác. Tuy nói tu thiện, nhưng chẳng tu mà tu; tuy nói trừ ác, nhưng
không trừ mà trừ. Đó gọi là “nhất niệm chẳng sanh”, là tinh tấn thật sự).
Những ý nghĩa được giảng trong phần trên dễ
hiểu, hiện thời, chúng ta có thể làm được, nhưng đối với ý nghĩa ở đây, chúng
ta rất khó làm được. Nếu làm được ý nghĩa ở chỗ này, quý vị sẽ giống như Lục Tổ:
“Chẳng tu mà tu, tu mà chẳng tu”. Phàm
phu chúng ta chẳng thấy Ngài đang tu hành, chỉ có người thật sự từng trải mới
hiểu. Phật và các đại Bồ Tát biết, phàm phu và Nhị Thừa chẳng biết, vì sao? Các
Ngài xứng tánh, xứng tánh là thật tu. Xứng tánh là thật sự tinh tấn. Các Ngài biết
hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian đều chẳng có một pháp nào là ngoại
lệ, như huyễn, như hóa, như mộng, như ảnh, đó là sự thật! Ngay cả đối với chuyện
đức Phật thuyết pháp độ sanh, kinh cũng nói rất hay: “Như không cốc hưởng” (như tiếng vọng từ hang trống). Kinh Hoa
Nghiêm nói: “Như mộng, huyễn, bọt, bóng”,
Phật môn thường nói: “Đại tác mộng trung Phật
sự, kiến lập thủy nguyệt đạo tràng” (Làm chuyện Phật sự to lớn trong mộng,
tạo lập đạo tràng bóng trăng in nước), đạo tràng giống như bóng trăng in xuống
nước, là hình bóng, chẳng chân thật! Quý vị liễu giải chân tướng của y báo và
chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới, sẽ tâm bình, khí hòa, biết hết thảy
các pháp đều chẳng thể được, hết thảy các pháp đều thanh tịnh, tự tại, vì sao? Chúng
là hình bóng!
Đối với người trước kia, quả thật hình bóng
rất khó lãnh hội, nhưng đối với người hiện thời, điều này rất dễ hiểu. Chúng ta
mỗi ngày coi TV, [những hình ảnh hiện ra trên] màn hình TV là hình bóng. Quý vị
thấy một đống to kim cương, châu báu, quý vị cũng chẳng đạt được, biết nó là Không.
Thấy một đống phân lớn trên màn hình, quý vị cũng chẳng ngửi thấy mùi thối, hình
bóng mà! Chúng chẳng có tốt, xấu, chẳng có thiện, ác, vì sao? Đều là Không. Thật
sự hiểu rõ chân tướng sự thật này, [sự thật ấy] được gọi là Chư Pháp Thật Tướng,
quý vị đều hiểu rõ. Bất luận trong cảnh giới nào, tâm quý vị thanh tịnh, bình đẳng.
Do vậy, ta biết: Hết thảy lỗi lầm đều do chúng ta ngỡ hình bóng là thật, thấy
kim cương, châu báu trên màn hình, bèn hận chẳng thể đoạt lấy ngay lập tức; đó
là thứ của ta! Trông thấy thứ không thích bèn sốt ruột toan đập vô mặt nó, kết
quả là màn hình TV bị đập nát bét, tay bị thương máu chảy ròng ròng, mà vẫn không
biết vì sao! Hiện thời hết thảy lũ chúng sanh chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối
làm chuyện ngốc nghếch này, chẳng biết tất cả các cảnh giới đều Không. Đó là điện
ảnh, điện ảnh lập thể (3D), trọn chẳng thể được, chẳng có một pháp nào để có thể
đạt được! Chúng ta thấy màn chiếu của phim ảnh là mặt phẳng, cớ sao nay nhìn vào
chúng lại thấy là [hình ảnh] lập thể, trọn chẳng thể được! Nếu quý vị tu từ chỗ
này sẽ kiến tánh. Khi kiến tánh, tu mà chẳng tu, chẳng tu mà tu!
Người
niệm Phật chúng ta giống hệt như Đại Thế Chí Bồ Tát đã nói trong kinh Lăng
Nghiêm: “Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm
liên tục”. Nhiếp trọn sáu căn là vô tu, vô niệm, tịnh niệm liên tục là hữu niệm,
niệm A Di Đà Phật chẳng ngừng là “niệm mà
vô niệm, vô niệm mà niệm”. Hai dòng trước trong đoạn này nói về Sự, hai dòng
sau giảng về Lý, giảng chân tướng sự thật, chẳng có thiện hay ác, chẳng có tu,
chẳng có chứng. Chính vì chân tướng sự thật là như vậy, nên quý vị mới có thể một
bước lên trời, đạo lý của pháp môn Tịnh Độ niệm Phật được kiến lập trên cơ sở này.
Dùng một câu Phật hiệu để thay thế hết thảy các niệm, bất luận niệm ấy là thiện
hay ác, thiện và ác đều là Không, chỉ có một câu A Di Đà Phật, hết thảy những điều
khác đều xa lìa, đó là một bước lên trời, ngay lập tức khôi phục bản tánh. Do vậy,
đến Tây Phương Cực Lạc thế giới mới viên chứng ba món Bất Thoái, mới lên trọn bốn
cõi, đạo lý là như thế đó!
Ở đây, đại sư kết luận, kết luận ấy cổ nhân
cũng đã nói, “sở vị nhất niệm bất sanh,
thị chân tinh tấn” (đó gọi là “một niệm chẳng sanh”, là tinh tấn thật sự).
Cổ nhân có một bài kệ như sau: “Nhược khởi
tinh tấn tâm, thị vọng, phi tinh tấn; nhược năng tâm bất vọng, tinh tấn vô hữu
nhai” (nếu khởi tâm tinh tấn, là vọng, chẳng tinh tấn. Nếu tâm thật chẳng vọng,
tinh tấn không bến bờ). Đó là đúng, quý vị khởi tâm tinh tấn, thì cái tâm tinh
tấn ấy là vọng tưởng, trong tâm thanh tịnh đã có một vọng tưởng tồn tại, làm
sao có thể gọi là tinh tấn cho được? Chẳng thể gọi là tinh tấn. Lục Tổ nói “vốn chẳng có một vật”, quý vị đã có một
vật, nếu quý vị tinh tấn thì vật ấy là vô minh, là điên đảo, không thể gọi là
chân tinh tấn được!
Do vậy, đối với hết thảy các kinh, hết thảy
các lời do đức Phật đã nói về sau này được ghi chép thành văn tự nhiều ngần ấy,
quyết định chớ nên chấp tướng, hễ chấp tướng là trật. Điều này là chuyện bất đắc
dĩ, chẳng có cách nào, là một thứ phương tiện, giống như cột mốc chỉ đường, quý
vị coi cột mốc chỉ đường là mục tiêu thì sai mất rồi! Nhìn cột mốc chỉ đường rồi
đi tiếp, chẳng cần phải quan tâm đến nó. Chúng ta nghe kinh điển và ngôn ngữ của
Phật, nghe rồi đừng nên suy tưởng, chẳng cần quan tâm đến, quý vị đi tiếp là đúng.
Nếu quý vị dừng lại, suy nghĩ một chút, ghim nó trong đầu óc, đầu óc quý vị sẽ
trở thành đống rác, chồng chất cả một đống lớn rác của Phật, đấy là một lỗi lầm
rất ư là lớn! Tu học Phật pháp khó khăn, nói thật ra, khó là khó ở chỗ này, rất
nhiều người đã hiểu lầm Phật pháp. Chúng ta lại xem ý nghĩa thứ hai.
(Sao) Nhị thị lợi tha, vị đa chúng sanh, do
vị vi nan.
(鈔) 二是利他,為多眾生,猶未為難。
(Sao: Hai là lợi tha, độ
nhiều chúng sanh, vẫn chưa phải là khó khăn).
Đây là nói hóa độ rất nhiều chúng sanh, vẫn
chưa phải là khó khăn. Độ một chúng sanh, chúng sanh ấy chẳng nghe lời, tuy chẳng
nghe vẫn chẳng bỏ cuộc. Điều này rất khó, quả thật chẳng dễ dàng!
(Sao) Kim viết vị nhất chúng sanh, thiểu thời
vị nhất chúng sanh, do vị vi nan.
(鈔) 今曰為一眾生,少時為一眾生,猶未為難。
(Sao: Nay nói độ một chúng
sanh, dành một thời gian ngắn cho một chúng sanh thì vẫn chưa phải là khó
khăn).
“Thiểu
thời” là thời gian ngắn, dành một thời gian ngắn vì một chúng sanh thì vẫn
chưa phải là khó.
(Sao) Kim viết vô lượng kiếp, đa kiếp nhi dị
khả hóa độ, diệc vị vi nan. Kim viết do bất thọ hóa nhi bất khí xả, bất khí xả
do vị vi nan. Kim viết vô nhất niệm khí xả, như thị tinh tấn, cánh vô thoái đọa,
cố danh viết Thường.
(鈔) 今曰無量劫,多劫而易可化度,亦未為難。今曰猶不受化而不棄捨,不棄捨猶未為難。今曰無一念棄捨,如是精進,更無退墮,故名曰常。
(Sao: Nay nói trong vô lượng kiếp hoặc nhiều kiếp mà dễ hóa độ thì vẫn
chưa phải là khó. Nay nói do kẻ ấy chẳng tiếp nhận sự giáo hóa mà chẳng buông bỏ,
chẳng buông bỏ thì vẫn chưa phải là khó. Nay nói là chẳng có một niệm nào buông
bỏ, tinh tấn như thế, càng chẳng lui sụt, nên gọi là Thường).
Quý vị thấy từng tầng tỷ dụ cho thấy Bồ Tát
quả thật là từ bi đến cùng cực, tinh tấn đến tột cùng. Đặt điều này ở đầu kinh,
nói cách khác, vừa mở đầu đã dạy chúng ta điều kiện cơ bản để học kinh Di Đà,
chúng ta có trọn đủ [những điều kiện ấy] hay không? Những điều kiện ấy chẳng trọn
đủ, chẳng có tí kiên trì nào, sẽ chẳng thể vãng sanh!
Căn bệnh lớn nhất của thế hệ hiện thời là
thiếu lòng kiên trì, chẳng biết tu hành là gì? Quý vị hãy đọc Thiền Lâm Bảo Huấn.
Thuở ấy, tôi đến Đài Trung cầu học với thầy Lý, thầy Lý chỉ định tôi đọc bộ sách
thứ nhất là Thiền Lâm Bảo Huấn[12].
Lúc ấy rất khổ, Thiền Lâm Bảo Huấn không có bản lưu hành riêng, tôi phải sao từ
Đại Tạng Kinh. Dường như tôi sao không nhiều lắm, vì chỉ có văn bản, chứ không
có chú giải. Thuở ấy, tôi dùng bản Tần Già Tạng. Bản hiện thời rất tốt, lại còn
có chú giải, tức Thiền Lâm Bảo Huấn Bút Thuyết, chú giải soạn rất tỉ mỉ.
Thiền
Lâm Bảo Huấn có tất cả hơn ba trăm điều, hơi giống như Thái Căn Đàm[13],
rất có ý vị, đọc rất cảm động, toàn là dạy người khác phải biết phát tâm ra
sao, thân cận thầy bạn như thế nào. Tôi có ấn tượng sâu đậm nhất [khi đọc chuyện]
một người tham học, người này phẩm hạnh lẫn học vấn đều tốt đẹp, nhưng lão hòa
thượng và ông ta đúng là giống như oan gia đối đầu, nhìn kiểu nào cũng chẳng thuận
mắt, vô duyên vô cớ chửi đánh ông ta. Nhưng ông ta rất hay, khinh nhục thế nào
vẫn chẳng bỏ đi, vẫn ngồi trong hội nghe kinh. Có một hôm, lão hòa thượng đem nước
rửa chân trút lên người ông ta từ đầu đến chân, ông ta vẫn nín chịu, vẫn không bỏ
đi. Cuối cùng, lão hòa thượng thấy vậy rất cáu, trực tiếp hạ lệnh đuổi ông ta đi,
để ông ta không còn có cách nào nữa. Ông ta có đi hay không? Vẫn không đi. Ông
ta tìm chỗ ở bên ngoài chùa, tới nghe giảng kinh từ ngoài tường qua cửa sổ, vẫn
chẳng bỏ đi. Lão hòa thượng cũng biết như vậy. Ba năm trôi qua như vậy, lão hòa
thượng muốn truyền pháp, giống như Ngũ Tổ truyền pháp, muốn tìm một người kế thừa
để truyền pháp. Những đại đệ tử đều tưởng là chính mình [sẽ được chọn], kết quả
là lão hòa thượng tuyên bố, tìm người ấy từ bên ngoài về, truyền pháp cho người
ấy, ngoài dự liệu của mọi người! [Đại chúng] mới hiểu lão hòa thượng vùi dập đủ
mọi cách nhằm bồi dưỡng đức hạnh cho người ấy. Ông ta được lão hòa thượng nhìn
trúng, nên mới cố ý đày đọa như thế, cuối cùng truyền pháp cho ông ta. Vì thế,
nhất cử nhất động của ông ta lão hòa thượng đều biết rõ. Do vậy, chúng tôi rất
cảm động.
Vì vậy, học đạo, thường thân cận một vị thầy
tốt, bốn năm năm thầy chẳng nói một câu nào, mà sai quý vị làm những việc khổ sở,
nặng nề. Có kẻ chẳng nín nhịn được: “Ta đến đây để cầu pháp, nhưng thứ gì cũng
chẳng cầu được”, lắc đầu bỏ đi. Muốn đi thì để cho người ấy đi, đó là gì? Người
chẳng thể đào tạo được, thiếu lòng kiên trì, là kẻ chẳng thể thành tựu. Do vậy,
cũng biết: Tu hành thì điều đầu tiên là tu gì? Tu Nhẫn Nhục Ba La Mật. Nhẫn Nhục
Ba La Mật tu thành, những gì quý vị đạt được chẳng bị mất đi; bởi lẽ, “hết thảy các pháp do Nhẫn mà thành”. Nếu
quý vị không có trình độ công phu này, lão hòa thượng dạy quý vị này nọ, đến cuối
cùng sẽ ra sao? Quý vị ham cao chuộng xa, kiêu căng, ngạo mạn, ngỡ chính mình chẳng
ai sánh bằng, rốt cuộc, thân bại danh liệt, kết quả tất nhiên là như vậy. Vì thế,
người nào là pháp khí? Xem người ấy có kiên trì, có nhẫn nại hay không! Người ấy
có bao nhiêu thành tựu, chắc chắn sẽ tỷ lệ thuận với lòng nhẫn nại của người ấy.
Công phu nhẫn nại càng sâu, thành tựu càng lớn, nhẫn nại càng cạn, căn khí nhỏ
nhoi, thành tựu càng nhỏ bé! Đó là đạo lý nhất định.
Công phu nhẫn nại tới mức thuần thục, là tam-muội,
đã đắc Định. Vì thế, Lục Độ phải theo thứ tự thuận, chẳng thể điên đảo. Do vậy,
vì sao hiện nay chẳng có trì giới? Vì không có bố thí. Bố thí là tầng thứ nhất,
trì giới là tầng thứ hai. Không có bố thí là trong tâm quý vị vướng mắc, quá
nhiều thứ tạp nhạp, chẳng thể buông thứ nào xuống, làm sao quý vị giữ giới cho được?
Bố thí là dạy chúng ta hãy buông xuống, hết thảy phân biệt, chấp trước, vọng tưởng
phiền não thảy đều buông xuống, quý vị mới có thể tinh tấn. Có giới mới có thể
nhẫn. Giới là cơ sở của nhẫn. Nhẫn là cơ sở của tinh tấn, tinh tấn là cơ sở của
Thiền Định. Thiền Định là cơ sở của trí huệ, căn lầu ấy có thể xây càng cao.
Thiếu tầng thấp nhất, chắc chắn chẳng thể xây tầng trên được!
Có ai chẳng biết nói danh từ Lục Độ? Ai nấy
đều nhớ thật kỹ, nhưng nhớ kỹ có ích gì? Vô dụng! Không thể thật sự buông xuống
được! Không chỉ hết thảy các pháp tạp nhạp của thế gian phải buông xuống, mà Phật
pháp cũng phải buông xuống. Nếu thứ gì trong Phật pháp quý vị cũng nhớ kỹ, hỏng
bét, huệ môn sẽ bế tắc, quý vị chẳng thể khai ngộ! Đấy là “tăng trưởng tà kiến” như Thanh Lương đại sư đã nói! Quý vị nghe càng
nhiều, đọc càng lắm, tà kiến càng lắm, thành kiến càng nhiều, thấy cái này không
đúng pháp, cái kia cũng chẳng đúng pháp, kinh này nói như thế này, kinh kia nói
như thế nọ, cho là Phật đều có nói, đó là báng Phật. Quý vị hãy lôi kinh Kim
Cang ra xem, kinh Kim Cang dạy: Nếu ai nói đức Phật thuyết pháp, tức là báng Phật.
Chẳng dễ dàng! Vì thế, chúng ta đọc kinh, xem kinh, quyết định chớ chấp trước, đó
là đúng pháp. Chẳng chấp trước là buông xuống; bởi lẽ, đức Phật dạy: “Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp”
(pháp còn nên bỏ, huống gì phi pháp), “bỏ” là bố thí, buông xuống.
Chúng ta mỗi ngày phải niệm kinh, phải đọc,
phải giảng, phải nghe mỗi ngày, nhưng mỗi ngày chớ nên chấp tướng, chớ nên chấp
trước, cảnh giới của quý vị sẽ mỗi ngày mỗi khác! Ngày hôm qua, tôi đọc kinh này
có kiến giải như thế này, cách giảng như thế này. Ngày hôm nay đọc kinh này, kiến
giải và cách giảng khác hôm qua. Có thể thấy ngày hôm qua tôi đọc kinh này [có
ngộ xứ khác với hôm nay], đã đọc qua đoạn ấy, tôi chẳng chấp trước vào đấy! Nếu
nhớ kỹ, ngày hôm nay tôi vẫn giảng y hệt, giống như băng cassette, nghe một trăm
lượt vẫn giống hệt như cũ, chẳng có gì mới mẻ xuất hiện, chẳng có trí huệ, ghi
nhớ chết cứng mà! Vì vậy, nhất định phải khai trí huệ, chớ nên ghi nhớ chết cứng!
Thuở ấy, tôi học kinh, thầy Lý cũng một gậy
đánh thức tôi. Lúc đó, tôi viết bút ký, cụ gọi tôi vào phòng cụ, hỏi: “Có phải
là anh ghi bút ký hay không?” Tôi thưa: “Dạ phải!” “Anh ghi để làm gì? Sang năm
cảnh giới của anh lại khác, chẳng phải là bút ký năm nay của anh trở thành thứ
phế thải hay sao?” Tôi nghĩ rất có lý, cần gì phải chuốc lấy phiền phức vậy! Vì
thế, đơn giản là chẳng ghi bút ký nữa, chuyên môn chú ý nghe. Vì chép bút ký bị
phân tâm, chẳng thể chuyên tâm nghe, chuyên tâm nghe chắc chắn có Định, có Huệ.
Tôi vừa mới nói, đó là Tam Học Giới, Định, Huệ được hoàn thành cùng lúc, ân đức
của thầy Lý rất lớn! Nếu khi ấy cụ chẳng dạy tôi làm như vậy, tôi vẫn một mực biên
biên, chép chép; nói cách khác, tất nhiên cũng là chết cứng nơi ghi chép. Bản
thân tôi giảng điều gì sẽ chẳng rời khỏi bút ký, không thoát khỏi phạm vi ấy!
Vì thế, ở Đài Trung, tôi học được một phương
pháp sống động, chẳng phải là học thứ bị chết cứng! Tôi đọc chú giải của cổ nhân,
thấy trong ấy có vô lượng ý nghĩa xuất hiện. Cụ vừa chỉ điểm, ý nghĩa ấy bèn
xuyên suốt, thông đạt, tuyệt đối chẳng phải là giảng [rập khuôn] theo bản chú
giải ấy. Nếu giảng theo chú giải, mỗi lần sẽ giống nhau, vì sao mỗi biến đều khác
nhau? Mỗi ngày đều khác nhau? Có thể thấy là chẳng chiếu theo chú giải, nhưng cũng
chẳng rời khỏi chú giải! Mọi người phải lắng lòng thấu hiểu đạo lý này. Vì thế,
hiểu tinh tấn là gì, biết phải tu hành ra sao thì mới thật sự là đúng Lý, đúng pháp.
(Sao) Hựu Bất Hưu Tức, tất Thường Tinh Tấn; Thường
Tinh Tấn, tất Bất Hưu Tức. Thử nhị Bồ Tát, diệc danh thù nhi đức nhất giả dã.
(鈔) 又不休息,必常精進;常精進,必不休息。此二菩薩,亦名殊而德一者也。
(Sao: Lại nữa, Bất Hưu Tức ắt Thường Tinh Tấn; Thường Tinh Tấn ắt Bất
Hưu Tức (chẳng ngơi nghỉ). Hai vị Bồ Tát này cũng là tên khác nhau, nhưng đức là
một).
Trong kinh này, chẳng nhắc đến những vị Bồ
Tát khác, đặc biệt nêu tên hai vị Bồ Tát này , dụng ý rất sâu! Vì tín nguyện
trì danh đòi hỏi “chẳng hoài nghi”, buông xuống, bỏ sạch nghi tình, chẳng gián
đoạn, chẳng xen tạp. “Chẳng gián đoạn” là Bất Hưu Tức, “chẳng xen tạp” là chân tinh
tấn, xen tạp sẽ chẳng phải là tinh tấn! Do vậy, danh hiệu Bồ Tát ở đây phô bày
nguyên tắc trọng yếu trong sự tu học pháp môn này. Chúng ta nương theo cương lãnh
ấy để tu hành, nhất định thành tựu trong một đời này.
Như đức Thế Tôn, như đức Di Đà có cùng đại
trí, đại từ, đại trí khế nhập Thật Tướng của các pháp. Đại từ phổ độ chúng sanh.
Nếu nói theo pháp môn này, đại trí là thật sự lý giải ba kinh, thật sự lý giải,
chẳng sai lầm tí nào! Đại từ là chuyên hoằng ba kinh. Vì kinh này là pháp môn bậc
nhất để chư Phật độ hết thảy chúng sanh. Lại còn là khiến cho những chúng sanh
tội ác nặng nề nhất có thể nhờ mười niệm hay một niệm mà vãng sanh, có thể
thành Phật. Pháp môn này chẳng thể nghĩ bàn! Hết thảy các pháp môn khác đều chẳng
có công hiệu này, chỉ riêng pháp môn này thù thắng, đại trí cần phải tương ứng với
kinh, ắt phải vận dụng đại từ thì mới có thể hoằng dương trọn khắp. Chính mình
y giáo tu hành là lòng Từ tự lợi, tuyên dương pháp môn này lòng Từ lợi tha. Chúng
tôi giảng tới chỗ này!
A Di Đà
Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa
Phần 58 hết
[1] Phật Địa Kinh có tên gọi đầy đủ là Phật Thuyết Phật Địa
Kinh do ngài Huyền Trang dịch vào đời Đường. Thân Quang Bồ Tát đã viết bộ Phật
Địa Kinh Luận để giảng giải kinh này. Bộ luận ấy được ngài Huyền Trang dịch ra
tiếng Hán gồm bảy quyển.
[2] Chân Đế (Paramārtha, 499-569), là người nước Ưu Điền Ni, Ấn Độ, là một vị đại pháp sư kiêm dịch giả nổi danh ngang hàng với ba vị La Thập, Huyền Trang và Bất Không. Ngài sở trường về Vô Tướng Duy Thức Học, theo đường biển từ Phù Nam (một vùng đất cổ ở phía Nam vùng Thủy Chân Lạp, tức Nam Việt Nam) đến Trung Quốc vào năm Thái Thanh thứ hai (548) thời Lương Vũ Đế. Khi Ngài đến kinh đô Kiến Nghiệp thì gặp loạn Hầu Cảnh làm phản Lương Vũ Đế nên phải lánh sang đất Tô Hàng, khởi sự dịch kinh nơi đó. Ngài dịch tất cả 76 bộ kinh, tổng cộng 315 quyển, trong đó nổi tiếng nhất là các bộ Nhiếp Đại Thừa Luận, Câu Xá Luận, Kim Thất Thập Luận... Do vùng Hoa Nam loạn lạc liên miên, Ngài khó thể an trụ, lại không có đạo tràng dịch kinh được triều đình bảo trợ như các vị La Thập, Huyền Trang, Bất Không, nên sức dịch thuật và nghị lực của Ngài thật đáng khâm phục. Năm 512 cảm ngộ Hoa Nam không phải là vùng đất hoằng pháp thuận lợi, Ngài ngồi thuyền trở về Ấn Độ, nhưng lại bị bão đánh giạt trở lại Quảng Châu, được Thứ Sử Âu Dương Ngỗi tha thiết thỉnh cầu, lại được các vị như Trí Khải v.v... quy y (đây là trùng âm đọc, không phải là tổ Trí Khải của tông Thiên Thai), Ngài tiếp tục dịch kinh. Chịu ảnh hưởng của Ngài, các tông Nhiếp Luận và Câu Xá được thành lập tại Trung Hoa. Ở đây, có lẽ hòa thượng nói nhầm, vì ngài Chân Đế mất năm 569, lúc đó Trung Hoa còn thuộc thời Nam Bắc Triều. Năm 569 nhằm niên hiệu Thiên Thống thứ năm nhà Bắc Tề, Thiên Bảo thứ tám nhà Tây Lương, Thái Kiến nguyên niên nhà Nam Trần, Thiên Hòa thứ tư nhà Bắc Châu. Nhà Đường mãi đến năm 618 mới thành lập.
[3] Thập Ba La Mật là Thí, Giới, Nhẫn, Thiền, Bát Nhã,
Phương Tiện, Nguyện, Lực và Trí.
[4] Mười tướng lành: Một là quang minh ngập nhà, hai là
cam lộ đầy sân, ba là đất trồi lên bảy báu, bốn là thần mở kho tàng, năm là gà
sanh trứng phượng, sáu là lợn sanh ra lợn con có hình rồng, bảy là ngựa sanh kỳ
lân, tám là trâu sanh ra con Bạch Trạch, chín là kho lúa tràn ngập hạt thóc bằng
vàng, mười là voi có sáu ngà.
[5] “Thể nguyên cư
chánh” là từ ngữ chỉ sự cai trị của nhà vua. Theo Hán Ngữ Từ Điển, từ ngữ
này có nghĩa là hoàng đế lấy nguyên khí của trời đất làm Thể, thường dùng chánh
đạo để cai trị, giáo hóa dân chúng, nên gọi là “cư chánh”.
[6] Theo Dịch học, Cửu là số Dương lớn nhất, mang ý nghĩa
tôn quý nhất, còn Ngũ là con số tượng trưng cho sự vừa phải chừng mực trong các
số Dương. Dùng hai con số này ghép lại để hình dung vua tôn quý nhất trong một
nước, nhưng xử sự luôn thích hợp, chừng mực, biết kiềm chế thích đáng, không sa
vào cực đoan. Đồng thời, quẻ Thuần Càn trong kinh Dịch gồm sáu vạch liền nét chồng
lên nhau, mỗi một vạch được gọi là Cửu. Cửu Ngũ chính là vạch thứ năm trong quẻ
Thuần Càn, được kinh Dịch giảng là: “Cửu
Ngũ, phi long tại thiên, lợi kiến đại nhân” (Cửu Ngũ: Rồng bay lên trời, bậc
đại nhân nêu rõ phong thái, khuôn phép, hoặc còn có cách giải thích là Cửu Ngũ:
Rồng bay lên trời, bậc đại nhân được lợi). Dù hiểu theo nghĩa nào, Cửu Ngũ thể
hiện ý nghĩa tốt lành, không thái quá, vì là số thuần Dương nhưng không đến cực
hạn như Thượng Cửu (hào cuối cùng trong quẻ Thuần Càn), vì hễ đến cực hạn, chí
Dương sẽ biến thành Âm. Cửu Ngũ hàm nghĩa đã gần đến cực hạn, nhưng vẫn điều
hòa, thích đáng, giống như vua dẫu quyền lực đã đến mức chí tôn, vẫn kính trời
sợ đất, biết kiềm chế, xử sự thích đáng.
[7] Kinh Khê Trạm Nhiên (711-782) là tổ thứ chín của tông
Thiên Thai, quê ở đất Kinh Khê, Tấn Lăng, Thường Châu (nay thuộc huyện Nghi
Hưng, tỉnh Giang Tô). Ngài mang chí xuất trần từ bé. Năm mười bảy tuổi, rời nhà
đi học đạo các nơi, đến năm Khai Nguyên 18 (730), gặp ngài Kim Hoa Phương Nham ở
Đông Dương, nghe giảng Ma Ha Chỉ Quán, bèn xin cầu học với tổ thứ tám của tông
Thiên Thai là ngài Tả Khê Huyền Lãng. Dưới sự dìu dắt của Tổ, Ngài chuyên học
Thiên Thai Giáo Quán. Đến năm Khai Bảo thứ bảy (749), Sư xuất gia tại chùa Tịnh
Lạc ở Quân Sơn, Nghi Hưng. Ngài nghiên cứu rộng rãi Luật Tông, nhất là Tứ Phần
Luật. Ngài tự đề cho mình trách nhiệm trung hưng Thiên Thai, nên lại ra sức chú
giải ba bộ sách lớn của tông Thiên Thai (Pháp Hoa Văn Cú, Ma Ha Chỉ Quán, Pháp
Hoa Huyền Nghĩa). Các trước tác chủ yếu của Ngài là Pháp Hoa Kinh Huyền Nghĩa
Thích Thiêm, Pháp Hoa Kinh Văn Cú Ký, Ma Ha Chỉ Quán Phụ Hành Truyền Hoằng Quyết,
Kim Cang Bễ, Chỉ Quán Nghĩa Lệ, Pháp Hoa Ngũ Bách Vấn Luận v.v...
[8] Kinh này có tên gọi đầy đủ là Tư Ích Phạm Thiên Sở Vấn
Kinh, còn gọi là Tư Ích Nghĩa Kinh, do ngài Cưu Ma La Thập dịch vào thời Diêu Tần,
gồm hai mươi bốn phẩm. Trong kinh này, đức Phật vì Võng Minh Bồ Tát và Tư Ích
Phạm Thiên v.v... giảng lý Không Tịch. Các bản dịch khác của kinh này là Trì
Tâm Phạm Thiên Sở Vấn Kinh do ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào thời Tây Tấn và Thắng
Tư Duy Phạm Thiên Sở Vấn Kinh do ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch vào thời Bắc Ngụy.
Kinh này được chú giải khá nhiều, nổi tiếng nhất là các bộ Trì Tâm Phạm Thiên
Kinh Lược Giải của ngài Đạo An, Chú Tư Ích Kinh của ngài Hiền Minh, Tư Ích Phạm
Thiên Sở Vấn Kinh Giản Chú của ngài Viên Trừng.
[9] Đây giọng đọc chữ A trong tiếng Quan Thoại tùy từng địa
phương, thế mà cũng gây nên tranh luận, giống kiểu tranh luận phải đọc A Di Đà
Phật hay A Mi Đà Phật trong hiện tại, thậm chí có người chủ trương phải đọc Phật
là Bụt, hay không được niệm A Di Đà Phật mà phải niệm là Phật A Di Đà hoặc Bụt
A Di Đà thì mới là “Việt hóa kinh điển”! Có người còn cực đoan đến mức chủ
trương tất cả chữ Di trong kinh điển phải đọc thành Mi hết như Tu Mi Sơn thay
vì Tu Di Sơn, và quả quyết chư Tổ và những vị dịch kinh tiền bối đã đọc ngọng
chữ Mi thành Di (sic!) Nếu đúng như vậy, không hiểu sao các vị học giả như Đào
Duy Anh, Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn v.v... đều nhất loạt không hẹn
mà cùng “đọc ngọng” Mi Đà thành Di Đà hết!
[10] Trong câu chuyện này, do người niệm chú chữ nghĩa kém
cỏi, thấy các chữ Ma, Ni, Bát (嘛呢叭) trong chú Lục
Tự Đại Minh có bộ Khẩu đằng trước vẫn đọc là Ma, Ni, Bát, bèn nghĩ chữ Hồng (吽) gồm hai chữ Khẩu (口) và Ngưu (牛) ghép lại, có lẽ vẫn phải đọc
là Ngưu. Tin chắc như vậy, người ấy cứ trì như thế nhiều năm. Để nhớ biến số đã
tụng niệm, do không có xâu chuỗi, người ấy dùng hai cái chén, một chén đựng đầy
đậu, chén kia trống không, cứ niệm xong một biến lại bỏ một hạt đậu từ chén đậu
sang cái chén trống không cho đến hết bèn bỏ ngược lại. Niệm nhiều năm như thế,
do tâm tinh chuyên, có cảm ứng, cứ niệm xong một biến, một hạt đậu từ chén này
nhảy sang chén kia, người ấy khỏi cần phải thò tay bốc như trước.
[11] “Phục bút”
là một thủ pháp trong cách viết văn, nhất là trong tiểu thuyết chương hồi của
Trung Hoa, nhằm ngầm chỉ diễn biến trong tương lai, nếu người đọc tinh ý sẽ
đoán biết được tình tiết câu chuyện diễn biến như thế nào. Một thí dụ kinh điển
thường được dùng để miêu tả lối Phục Bút là trong Hồng Lâu Mộng, Giả Bảo Ngọc nằm
mơ thấy chính mình đến Thái Hư Huyễn Cảnh, thấy trên giá sách có nhiều cuốn
sách đề tên theo từng tỉnh. Hỏi tiên cô chủ quản Thái Hư Huyễn Cảnh thì được
cho biết đó là các sách ghi số mạng của những nữ nhân trong mỗi tỉnh. Vì quê ở
Nam Kinh (thuở ấy gọi là Kim Lăng), nên Giả Bảo Ngọc mở cuốn Kim Lăng Thập Nhị
Thoa Chính Sách ra coi, thấy có hình vẽ và những bài thơ tứ tuyệt. Trong ấy, có
một trang vẽ một con sói đang đuổi một cô gái, phía dưới đề bốn câu thơ: “Tử hệ Trung Sơn lang, đắc chí tiện xương cuồng,
kim khuê hoa liễu chất, nhất tái phó hoàng lương” (tạm dịch: Sói ở trong rừng
núi, đắc chí càng hung tàn, thân liễu bồ khuê các, một năm mộng huyễn hư). Các
nhà chú giải bảo bài thơ này nói về số mạng của Giả Nghênh Xuân (chị họ Giả Bảo
Ngọc; Nghênh Xuân là con của Giả Xá. Giả Xá là bác ruột của Giả Bảo Ngọc). Chữ
Tử Hệ (子系) trong bài thơ ghép lại thành chữ Tôn (孫), tức là Tôn Thiệu Tổ, chồng Giả Nghênh Xuân. Giả
Nghênh Xuân lấy Tôn Thiệu Tổ gia đình khá giả, nhưng chồng hung bạo, hành hạ đến
nỗi Nghênh Xuân chết rất trẻ, xuất giá vừa đầy năm đã chết.
[12] Sách Thiền Lâm Bảo Huấn do hai ngài Diệu Hỷ Phổ Giác
và Trúc Am Sĩ Khuê biên soạn tại chùa Vân Môn ở Giang Tây vào thời Nam Tống,
thâu thập những lời giáo huấn từ ngài Hoàng Long Huệ Nam cho đến ngài Phật Chiếu
Chuyết Am. Tác phẩm này được chú giải khá nhiều, trước sau có Thiền Lâm Bảo Huấn
Hợp Chú (do Trương Văn Gia hiệu đính), Thiền Lâm Bảo Huấn Niêm Tụng, nhưng phổ
biến nhất là bộ Thiền Lâm Bảo Huấn Bút Thuyết do ngài Thích Trí Tường soạn vào
cuối đời Minh, đầu đời Thanh. Tác phẩm này được viết xong vào năm Bính Tuất
(1706) triều Khang Hy.
[13] Thái Căn Đàm do Hồng Ứng Minh soạn vào thời Vạn Lịch
nhà Minh, gồm 358 câu cách ngôn về trí huệ và nhân sinh, được chia thành hai tập.
Hồng Ứng Minh là một đạo sĩ, tự là Tự Thành, hiệu Hoàn Sơ, không rõ quê quán,
năm sinh và năm mất. Ông tinh thông tam giáo, thường lui tới các chùa Phật và
trường học, thâu thập những tinh hoa. Ông ta cho biết đã nhặt được Thái Căn Đàm
là một tác phẩm ngôn luận của Thiền Tông từ một ngôi chùa đổ nát, đem về tu chỉnh,
biên tập thành tác phẩm hoàn chỉnh. Đây có lẽ cũng là một cách nói khiêm tốn,
vì trước đó chưa ai nghe nói đến tác phẩm này. Tác phẩm này cùng với Tiểu Song
U Ký của Trần Kế Nho và Vi Lô Dạ Thoại của Vương Vĩnh Bân được ca tụng là “xử thế tam đại kỳ thư” (ba bộ sách tuyệt
diệu về cách xử thế). Xin trích một đoạn trong Thái Căn Đàm như sau: “Lương dược khổ khẩu, trung ngôn nghịch nhĩ.
Nhĩ thường văn nghịch nhĩ chi ngôn, tâm thường hữu phất tâm chi sự, tài thị tấn
đức tu hạnh đích chỉ thạch. Nhược ngôn ngôn duyệt nhĩ, tiện bả thử sanh mai ư
trấm độc trung hỹ. Hòa khí chí tường, thần hỷ đa thụy. Tật phong nộ vũ, cầm điểu
thích thích, tễ nhật quang phong, thảo mộc hân hân. Khả kiến thiên địa bất khả
nhất nhật vô hòa khí, nhân tâm bất khả nhất nhật vô hỷ thần” (Thuốc hay đắng
miệng, lời trung chói tai. Tai thường nghe lời chói tai, tâm thường có những
chuyện chẳng thuận ý, đấy mới là cột trụ để tấn đức, tu hạnh. Nếu lời lẽ nào
cũng bùi tai, ắt đời này sẽ bị vùi lấp trong chất độc của chim Trấm. Hòa khí tốt
lành nhất, tinh thần vui vẻ sẽ có lắm điều tốt đẹp. Gió giật mưa cuồng, chim
chóc run rẩy. Trời quang, gió lặng, cây cỏ hân hoan. Đủ thấy trời đất chẳng thể
có ngày nào không có hòa khí, lòng người chẳng thể có một ngày nào tâm tình chẳng
vui vẻ).