A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn
Nghĩa
阿彌陀經疏鈔演義
Phần 61
Chủ giảng: Lão pháp sư Thích Tịnh Không
Giảo duyệt: Minh Tiến, Huệ Trang và
Đức Phong
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao
Diễn Nghĩa Hội Bản, trang hai trăm sáu
mươi hai:
(Sớ) Hựu bất
độc trí vi năng tín, Phật quả thành tựu, giai
diêu trí cố. (疏) 又不獨智為能信,佛果成就,皆繇智故。
(Sớ: Lại nữa,
chẳng phải chỉ là do trí bèn có thể tin, mà thành
tựu Phật quả cũng đều do trí).
Trong lời Sao, Liên Trì
đại sư có giải thích mấy câu này.
(Sao) Hoa Nghiêm nhị thập
nhị, kinh vân.
(鈔) 華嚴二十二,經云。
(Sao: Trong kinh Hoa Nghiêm quyển
thứ hai mươi hai có nói).
Chư vị đồng
học phải nhớ những câu giống như vậy. “Nhị thập nhị” là
quyển thứ hai mươi hai. Kinh Hoa Nghiêm có tám
mươi quyển, trong quyển thứ hai mươi hai
có nói...
(Sao) Nhất thiết chư
Phật trang nghiêm thanh tịnh, mạc bất giai dĩ
Nhất Thiết Trí cố, tắc tri A Di Đà Phật
diệc dĩ thử trí thành tựu Tịnh Độ công
đức, nhi chư chúng sanh tu Tịnh Độ giả,
dĩ trí sanh tín, tắc vi chánh tín, dĩ trí phát nguyện,
tắc vi hoằng nguyện, dĩ trí khởi hạnh,
tắc vi diệu hạnh.
(鈔) 一 切 諸 佛 莊 嚴 清 淨 , 莫 不 皆 以 一 切 智 故 。 則 知 阿 彌 陀 佛 亦 以 此 智 成 就 淨 土 功 德。而 諸 眾 生 修 淨 土 者,以 智 生 信 則 為 正 信,以 智 發 願,則 為 弘 願,以 智 起 行,則 為 妙 行。
(Sao: Hết thảy chư
Phật trang nghiêm thanh tịnh, không vị nào chẳng
đều do Nhất Thiết Trí, nên biết A Di Đà
Phật cũng dùng trí này để thành tựu công đức
của Tịnh Độ, mà các chúng sanh tu Tịnh
Độ do trí mà sanh lòng tin thì lòng tin ấy là chánh tín, dùng
trí để phát nguyện thì nguyện ấy là hoằng
nguyện, dùng trí để khởi hạnh thì hạnh
ấy là diệu hạnh).
Trong một câu này bao gồm ba
tư lương của pháp môn Tịnh Độ, [tức
là] ba điều kiện tu hành cơ bản Tín, Nguyện,
Hạnh. Ba điều kiện này đều
được kiến lập trên trí huệ, nhằm phân
biệt chẳng phải là mê tín, chẳng phải là xử
sự theo cảm tình, nó là lý tánh, mong các đồng tu
phải đặc biệt chú ý điều này, chúng ta
mới thật sự hiểu rõ niệm Phật chẳng
phải là mê tín. Trang nghiêm cõi nước Phật nhất
định phải dùng trí huệ chân thật; do vậy,
kinh Vô Lượng Thọ nói ba thứ chân thật, “chân thật huệ”, tức
là trí huệ chân thật, “chân
thật chi tế”, và
“huệ dĩ chúng sanh chân thật chi lợi” (ban cho chúng
sanh lợi ích chân thật), nói tới ba thứ chân
thật, lấy “chân thật
huệ” làm căn cứ bậc nhất. Chú giải kinh
này, Liên Trì đại sư cũng dùng Nhất Thiết Trí, cho nên Ngài nói “chẳng riêng gì Tín phải
nương vào Trí”, mà thành tựu Phật quả cũng
nhờ vào trí huệ. Trong kinh Vô Lượng Thọ, chúng ta
thấy chuyện này đặc biệt rõ ràng. Do vậy,
người tu Tịnh Độ chúng ta, [hay nói rộng
hơn] là hết thảy chúng sanh tu tập pháp môn Tịnh
Độ “dĩ trí sanh Tín”
(do trí mà sanh lòng tin) thì [lòng tin ấy] gọi là Chánh Tín. Trong Yếu
Giải, Ngẫu Ích đại sư đã nói sáu thứ
Tín, “tín tự, tín tha, tín nhân, tín quả, tín Sự, tín Lý”,
nói đến sáu thứ. Do vậy, nhất định
phải tin tưởng “tâm này
làm Phật, tâm này là Phật”. Đây là căn cứ lý
luận của toàn thể Phật pháp, bất luận tông
nào hay phái nào, “tâm này làm
Phật”, đặc biệt là pháp môn “niệm Phật
thành Phật” này, niệm Phật thành Phật đấy
nhé! Niệm Phật vãng sanh, niệm Phật làm Phật; do
vậy, phải tin tưởng chúng sanh và Phật bất
nhị! Chỉ sợ quý vị không niệm Phật,
chứ người niệm Phật quyết định
làm Phật.
Mười pháp giới
đều do tự tâm của chúng ta biến hiện, tâm
chúng ta tưởng gì liền biến ra cảnh giới
ấy. Cho nên, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp
giới do đâu mà có? Từ trong tưởng tượng
biến hiện, sức mạnh của tưởng
tượng rất lớn, tưởng điều gì
liền biến hiện điều ấy! Chúng ta phải
có trí huệ và tín tâm như vậy thì mới
được coi là “chánh tín”.
Nếu chẳng có trí huệ, nói thật ra, chánh tín sẽ
chẳng thể sanh khởi; dẫu có tín tâm vẫn
chẳng phải là chánh tín. Chẳng phải là chánh tín,
người ấy sẽ thoái chuyển, sẽ thay
đổi. Chúng tôi đã từng thấy không ít
người niệm Phật, niệm vài chục năm,
đến tuổi già bèn thay đổi, học pháp môn khác,
điều ấy vô cùng đáng tiếc! Đấy
đều là vì trong tín tâm chẳng có trí huệ, là một
thứ lòng tin theo cảm tình, nói khó nghe là mê tín, nên kẻ
ấy mới thay đổi! Người thật sự có
trí huệ chắc chắn sẽ không bị thay
đổi!
“Dĩ
trí phát nguyện” (dùng trí để phát nguyện),
nguyện ấy là “hoằng
nguyện”, nguyện ấy cũng chẳng kiến
lập trên cơ sở cảm tình hay mê tín! Nó là nguyện
từ trong trí huệ Bát Nhã, tức là nguyện phát sanh
từ lý trí, tuyệt đối chẳng phải là cảm
xúc nhất thời, nên nguyện ấy là chân nguyện.
Người ấy hiểu rõ ràng, minh bạch Sự và Lý
của y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp
giới, hiểu rõ vì sao phải chọn lựa Tây
Phương. Trong đại kinh, chuyện này rất rõ
rệt. Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, phu nhân
Vy Đề Hy gặp nạn, con cái bất hiếu, giam
chặt bà ta. Bà cảm thấy thống khổ, ở trong
hoàng cung dõi nhìn Linh Sơn. Khi ấy, đức Phật
ở núi Linh Thứu, núi Linh Thứu ở ngoài thành
Vương Xá. Bà ở trong hoàng cung niệm Phật,
cầu Phật đến cứu. Bà ta cảm thấy
thế giới này rất khổ, con cái bất hiếu, làm
phản. Nếu lúc ấy chẳng có mấy vị
đại thần khuyên can, ngăn cản, con bà ta sẽ
giết mẹ! Bà ta cảm thấy thế giới này
chẳng có ý nghĩa gì, cầu Phật: “Các cõi Phật trong
mười phương cõi nào tốt đẹp, con muốn
sang đó, chẳng muốn ở trong thế gian này
nữa!”
Bà ta có một niệm ấy,
đức Phật liền biết. Do vậy, bà Vy
Đề Hy dẫn mấy cung nữ hướng về
phương hướng núi Linh Thứu lễ bái, vừa
ngẩng đầu lên, Thích Ca Mâu Ni Phật đã dẫn
nhiều người đến hoàng cung rồi,
đến từ không trung. Đây là đức Phật
hiện Thần Túc Thông. Đức Phật đáp ứng
lời thỉnh cầu của bà ta, dùng thần lực
của Phật hiện bày các cõi Phật trong mười
phương khiến bà ta đều trông thấy. Sau khi bà
ta đã thấy các cõi Phật, bèn hướng về Thích
Ca Mâu Ni Phật thưa: “Con chọn lựa cõi Phật A Di
Đà, muốn sanh về cõi Phật A Di Đà”. Xin Thích Ca
Mâu Ni Phật dạy bà ta cách sanh về đó. Kinh ghi chép
như thế, chúng ta phải tin tưởng điều này.
Thuở ấy, trong hoàng cung, chẳng phải là một mình
vua Ba Tư Nặc trông thấy, mà cả mấy trăm cung
nữ của bà ta cũng đồng thời thấy,
chuyện ấy chẳng phải là giả!
Trong kinh Vô Lượng Thọ,
đức Phật giới thiệu Tây Phương Cực
Lạc thế giới xong, bèn hỏi A Nan: “Ông có muốn
thấy Tây Phương A Di Đà Phật hay không?” Ngài
thưa: “Con xin được thấy”. Kết quả là
Thích Ca Mâu Ni Phật dạy Ngài hướng về
phương Tây lễ bái, xưng danh, nhất tâm xưng
danh niệm A Di Đà Phật. A Nan vừa niệm A Di
Đà Phật, lạy xuống một lạy, ngẩng
đầu lên, A Di Đà Phật đã hiện trên không
trung, Ngài được trông thấy. Không chỉ riêng A Nan
trông thấy, mà có đến hơn một vạn
người nghe giảng kinh trong pháp hội Vô Lượng
Thọ lần đó thảy đều trông thấy!
Đây chẳng phải là giả, chẳng phải là
một người thấy, mà là nhiều người
như thế trông thấy! Điều này cũng chứng
thực lời Đại Thế Chí Bồ Tát đã nói
trong chương Niệm Phật Viên Thông: “Hiện tiền, đương lai, tất
định kiến Phật” (hiện tại,
tương lai, nhất định thấy Phật), ở
đây là hiện tiền thấy Phật. Ngài A Nan vừa
thấy A Di Đà Phật liền phát nguyện cầu sanh
Tây Phương Cực Lạc thế giới. Do vậy,
nếu các vị hỏi: “Hiện thời, ngài A Nan ở đâu?”
Ngài ở trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới. Ngài là tổ sư đời thứ hai của
Thiền Tông. Ma Ha Ca Diếp là sơ tổ Thiền Tông. Ma
Ha Ca Diếp truyền cho Ngài, Ngài vãng sanh Tây Phương
Cực Lạc thế giới. Do vậy, sự phát
nguyện này là thật sự hiểu rõ, nguyện sanh Tây
Phương, đấy mới là đại nguyện.
Quý vị phát nguyện phổ
độ hết thảy chúng sanh, đúng như Tứ
Hoằng Thệ Nguyện: “Chúng
sanh vô biên thệ nguyện độ, phiền não vô tận
thệ nguyện đoạn”, cho đến nguyện cuối
cùng là “Phật đạo vô
thượng thệ nguyện thành”, quý vị “thành” bằng cách nào? Nếu
quý vị chẳng thể vãng sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới, thưa quý vị, bốn nguyện
ấy đều là rỗng tuếch, hữu danh vô
thực. Quý vị mong độ chúng sanh, nhưng chẳng
có năng lực, độ không được! Quý vị
muốn đoạn phiền não, cũng chẳng
đoạn phiền não được! Phiền não
chẳng tăng trưởng thì coi như còn khá, sợ là
phiền não mỗi ngày một tăng trưởng. Nếu
chẳng đoạn, nó sẽ là tăng trưởng
mỗi ngày, đáng sợ quá! Quý vị học pháp môn thì
cũng chẳng học được! Trong thế gian
hiện thời, chẳng có thầy tốt, đồng
tham đạo hữu tốt đẹp cũng chẳng
có, hoàn cảnh tốt đẹp cũng chẳng có,
đến nơi đâu để học? Chẳng có
chỗ nào để học! Chẳng cần phải nói
đến chuyện thành Phật nữa! Vẫn luân
hồi trong lục đạo y như cũ, chẳng
thể thành Phật! Do vậy, muốn thực hiện
Tứ Hoằng Thệ Nguyện, phương pháp duy
nhất là cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới.
Vì thế, trong Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư đã giải thích
thẳng thừng về “phát Bồ Đề tâm”, Ngài nói:
Phát Bồ Đề tâm là gì? Tâm cầu sanh Tây Phương
Cực Lạc thế giới chính là Vô Thượng Bồ
Đề Tâm. Từ xưa tới nay, các tổ sư
đại đức chưa hề nói như vậy. Chúng
ta hãy suy nghĩ xem Ngài nói có lý hay không? Đúng là có. Vì
Khởi Tín Luận giảng Bồ Đề tâm là “trực tâm, thâm tâm, đại bi
tâm”; trong Quán Kinh, đức Phật giảng Bồ
Đề tâm là “chí thành tâm, thâm
tâm, phát nguyện hồi hướng tâm”. Một
niệm cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới, ba tâm ấy đều trọn đủ. Ngẫu Ích đại sư thật tuyệt
vời, một câu nói toạc ra, chúng ta nghe xong liền
hiểu rõ ràng, minh bạch, chẳng có chút nghi hoặc nào!
Lại còn cảm thấy chúng ta có thể làm
được! Quý vị nói “trực
tâm, thâm tâm, đại bi tâm”, nói cả nửa ngày, chúng
ta vẫn chẳng hiểu rõ ràng, chẳng biết học
từ chỗ nào? Càng giảng càng mơ hồ, chẳng
thể hiểu rõ như cách giảng đơn giản
của Ngẫu Ích đại sư, đấy là ưu
điểm!
Vì vậy, trong thời cận
đại, các vị như Ấn Quang đại sư,
các vị tổ sư đại đức đều công
nhận sách Yếu Giải của Ngẫu Ích đại sư là sách chú giải
kinh Di Đà bậc nhất, là bản chú giải hay
nhất, đơn giản, dễ hiểu nhất. Ấn
Quang đại sư tán thán: “Cổ
Phật tái lai, A Di Đà Phật tái lai để soạn
chú giải cho kinh A Di Đà cũng chẳng thể hay
hơn được!” Đó là tán thán Yếu Giải
đến tột bậc! Yếu Giải đơn
giản, dễ hiểu, Sớ Sao rộng lớn, tinh vi,
sâu xa. Nếu quý vị muốn biết tỉ mỉ, hãy
học Sớ Sao; nếu muốn rất đơn giản
nắm vững cương lãnh của kinh A Di Đà, hãy tìm
trong Yếu Giải. Hai loại chú giải này hay nhất,
có thể tham chiếu lẫn nhau.Trong giảng tòa, chúng tôi
cũng luân lưu giảng hai bản chú giải này.
Giảng xong Sớ Sao bèn giảng Yếu Giải. Giảng
Yếu Giải xong lại giảng Sớ Sao. Chúng tôi luân
lưu giáp vòng giảng hai bản chú giải này!
Nếu chẳng có trí huệ
chân chánh, nói thật thà, chân trí huệ là gì? Ta có trí huệ ư?
Nào ngờ là khiêm hư quá lố khi tự nói “ta chẳng có
trí huệ!” Nếu lại học kinh giáo, tông phái khác,
quả thật ta chẳng có trí huệ, trí huệ của
chúng ta không đủ; nhưng nói theo pháp môn Tịnh
Độ, trí huệ là gì? Quý vị có thể chọn
lựa pháp môn Tịnh Độ, đó là trí huệ bậc
nhất! Cách nói này chẳng quá lố, chẳng sai tí nào! Vì
sao? Mọi người công nhận Văn Thù Bồ Tát trí
huệ bậc nhất, Ngài là vị trí huệ bậc
nhất trong các vị Bồ Tát; Văn Thù Bồ Tát
chọn lựa pháp môn trì danh niệm Phật vãng sanh
Tịnh Độ, chọn lựa bằng trí huệ! Ngày
nay chúng ta cũng chọn lựa pháp môn này, chẳng khác gì
Văn Thù Bồ Tát, Ngài chọn pháp này, ta cũng chọn
pháp này! Ngoài chuyện chọn lựa này ra, ta thấy chúng
ta chẳng có gì sánh bằng Văn Thù Bồ Tát! Những
thứ khác chẳng sánh bằng không sao cả! Chỉ
cần điều này chẳng sai khác cho mấy là
được rồi, chắc chắn là khá lắm
rồi! Do vậy, ta có thể biết: Chẳng chọn
lựa pháp môn này tức là chẳng có trí huệ!
Trong Vô Lượng Thọ Kinh
Mi Chú, thầy Lý đã chú giải rất hay, thầy
viết: “Chẳng cầu
đới nghiệp vãng sanh, chẳng phải là ngu thì
cũng là cuồng”. Đó là thiếu trí huệ,
chẳng phải là ngu si thì là cuồng vọng, đều
là kẻ thiếu trí huệ! Một người có trí
huệ chắc chắn chọn lựa pháp môn này. Mấy
hôm nay, tôi cũng nói với quý vị chẳng ít, chọn
lựa pháp môn này thì nhất định phải ghi nhớ
lý luận, phương pháp, và cảnh giới
được giảng trong pháp môn, phải thường
ghi [những điều ấy] trong lòng, phải thời
thời khắc khắc thực hiện, vận dụng
vào cuộc sống của chúng ta, áp dụng vào việc
xử sự, đãi người, tiếp vật,
đấy mới là người thật sự niệm
Phật. Do vậy, chẳng có chân trí, nguyện sẽ
chẳng thể phát khởi. Dẫu có phát nguyện,
vẫn chẳng phải là đại nguyện, cho nên
kẻ ấy sẽ bị thoái chuyển, hoài nghi, đánh
mất tín tâm!
Do vậy, một đạo
tràng niệm Phật vì sao phải giảng kinh mỗi ngày?
Nhằm khiến cho quý vị đoạn nghi sanh tín!
Một đạo tràng niệm Phật thật sự sẽ
giảng năm kinh Tịnh Độ từ đầu
một lượt, như đối với kinh Di Đà
bèn giảng Sớ Sao, giảng mỗi ngày thì phải
giảng suốt một năm mới có thể giảng
viên mãn. Năm kinh một luận đều giảng từ
đầu đến cuối như vậy một
lượt, ít nhất cũng phải mất năm sáu
năm [mới hoàn tất]; nhưng năm sáu năm ấy
quyết chẳng phải là lãng phí! Sau năm sáu năm
ấy, tín tâm của quý vị nhất định kiên
cố. Nói cách khác, nắm vững Tây Phương Tịnh
Độ, quyết định chẳng có vấn
đề gì! Vì thế, chẳng thể không giảng kinh
này! Chẳng thể không niệm Phật! Niệm Phật
quyết định phải có một Niệm Phật
Đường, đạo tràng của chúng ta hiện
thời bị thiếu sót, có giảng đường,
nhưng thiếu Niệm Phật Đường, nên
đạo tràng này chỉ có một nửa, vẫn còn
thiếu một nửa. Đạo tràng này kiện toàn, tâm
mọi người đều định, dễ thành
tựu. Đạo tràng chẳng kiện toàn, tâm vẫn lao
chao, nói chung là bất định, khó thể thành tựu!
Nói đến Hạnh, Hạnh
cũng phải là “dĩ trí
khởi Hạnh”, hạnh ấy mới là “diệu hạnh”.
Trước hết, phải đại triệt
đại ngộ, sự đại triệt đại
ngộ này chẳng phải là triệt ngộ trong Thiền
Tông, mà là thật sự hiểu rõ Tây Phương Tịnh
Độ, hiểu rõ Sự và Lý ở hai nơi Sa Bà và
Cực Lạc, đó gọi là “đại triệt
đại ngộ”. Vì sao? Quyết tâm muốn rời
khỏi Sa Bà, muốn đạt đến thế giới
Cực Lạc, tâm ấy kiên định, tâm ấy
quyết định chẳng thay đổi. Đó là
sự triệt ngộ trong Tịnh Độ Tông. Sau
đấy, quý vị niệm một câu Phật hiệu sẽ
giống như trong Niệm Phật Viên Thông Chương, Đại
Thế Chí Bồ Tát đã nói: “Đô
nhiếp lục căn, tịnh niệm tương kế,
bất giả phương tiện, tự đắc tâm
khai” (nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm
tiếp nối, chẳng nhờ vào phương tiện mà
tự đạt tâm khai), đó là diệu hạnh! Khăng
khăng một mực niệm một câu Phật hiệu
này, khăng khăng một mực tu pháp môn này, chúng ta
giữ lấy một bộ Tịnh Độ Ngũ Kinh
này là đủ rồi, quyết định đạt
được Thượng Phẩm Thượng Sanh,
đó là diệu hạnh. Những kinh điển khác
đều có thể chẳng cần đến, Liên Trì
đại sư nói: “Tam
Tạng mười hai bộ, nhường cho kẻ khác
ngộ”, ta chẳng cần đến, khăng khăng
một mực có một thứ này là được
rồi, một bộ kinh A Di Đà là được
rồi! “Tám vạn bốn ngàn
hạnh, để cho người khác hành”, để
cho những người khác tu hành [các hạnh khác]!
Chúng ta chỉ chọn lấy
trì danh niệm Phật, khăng khăng một mực,
đó là diệu hạnh, là sự chọn lựa bằng
trí huệ chân chánh. Chẳng có chân thật huệ thật
sự, sẽ chẳng thể khăng khăng một
mực! Nếu cái tâm [so đo, chụp giật, toan tính
học pháp này, pháp nọ] chưa nguội lạnh, sẽ
chẳng thể khăng khăng một mực, dẫu có
tu hành, vẫn chẳng phải là diệu hạnh. Nếu
kẻ ấy gặp duyên, vẫn bị thoái chuyển,
vẫn thay lòng đổi dạ! Nghe người ta nói
mấy câu, khuyên quý vị mấy lời, ngay lập
tức ý niệm xoay chuyển, thay đổi, hạnh
kiểu đó chẳng diệu! Thật sự là chẳng
diệu! Ý niệm vừa chuyển, bèn vào trong ba ác
đạo. [Chắc quý vị sẽ cãi] ý niệm vừa
chuyển cũng chẳng đến nỗi đọa
trong ba ác đạo, vì sao [pháp sư] nói nghiêm trọng
dường ấy? Tôi thưa cùng quý vị, ý niệm xoay
chuyển sẽ thật sự đọa trong tam ác
đạo. Dẫu quý vị nhân phẩm, đạo
đức, học vấn, phước báo tốt
đẹp cách mấy, vẫn đọa trong ba ác
đạo, vì nguyên nhân nào? Quý vị đã phá hoại pháp
Tịnh Độ!
Phá hoại như thế nào?
Người ta thấy người ấy niệm Phật
vài chục năm, quý vị thấy kẻ ấy [đến
lúc] tuổi già tu pháp khác, [bèn tự nhủ] nói chung,
chẳng thể học Tịnh Độ! Đấy là quý
vị đã phá hoại Tịnh Độ, sẽ là kẻ
đọa trong địa ngục A Tỳ. Nếu quý vị
chẳng tu Tịnh Độ, sẽ chẳng tạo
nghiệp nhân này! Niệm Phật vài chục năm, lúc
tuổi già đi học Thiền, học Mật, làm cho
những kẻ học đạo khác trông thấy [hành vi của]
quý vị, [bèn nghĩ]: Người này đã hành nhiều
năm ngần ấy [mà vẫn bỏ không tu Tịnh
Độ nữa], đại khái là Tịnh Độ không
được rồi, chẳng đáng trông cậy,
vẫn là Thiền hay Mật tốt đẹp hơn! Quý
vị phải hiểu: Quý vị vừa chuyển đã
ảnh hưởng tới bao nhiêu người.
Người đông ngần ấy chịu ảnh
hưởng của quý vị, đều cùng bị lạc
lối, kẻ mù dẫn lũ đui, quý vị phải
chịu trách nhiệm nhân quả! Vì thế, phiền
phức nẩy sanh từ chỗ này!
Quý vị học Tịnh
Độ vài ngày, chuyển sang học pháp khác, chẳng
phạm lỗi lầm to tát dường ấy. Quý vị
học đã lâu, sau đó chuyển ý niệm, đáng kinh hãi
lắm! Đó là thiếu trí huệ. Không chỉ chính mình
từ đường chánh đi vào nẻo tà, mà còn
phải gánh lấy [trách nhiệm] nhân quả rất
lớn. Nếu quý vị ảnh hưởng càng nhiều
người, tội lỗi càng nặng, hết sức
đáng sợ. Vì vậy, Tín, Nguyện, Hạnh đều
nương vào trí huệ chân thật.
(Sao) Nãi chí thành Phật, hằng
tất diêu chi.
(鈔) 乃
至 成 佛,恆 必 繇 之。
(Sao: Cho đến thành
Phật, vẫn luôn cậy vào trí).
Từ Sơ Phát
Tâm mãi cho đến lúc thành Phật đều phải nương vào trí huệ, trí huệ do
đâu mà có? Trí huệ phát xuất từ tín tâm thanh
tịnh. Kinh Kim Cang nói: “Tín tâm
thanh tịnh bèn sanh Thật Tướng”. Thật
Tướng là chân thật huệ, tín tâm thanh tịnh là gì?
Trong tín tâm chẳng có mảy may hoài nghi, chẳng có mảy
may đắm nhiễm, đó là “thanh tịnh”. Do vậy,
cho đến khi thành Phật đều phải cậy vào
trí huệ, “hằng tất diêu
chi” (luôn cậy vào), đều phải có trí huệ.
(Sao) Cái thông nhân triệt quả,
thành thỉ thành chung chi yếu đạo dã, khởi
độc vi tín giải chi môn nhi dĩ tai!
(鈔) 蓋
通 因 徹 果,成 始 成 終 之
要 道 也,豈 獨 為 信 解 之
門 而 已 哉。
(Sao: Bởi lẽ, trí thông
suốt nhân, thấu triệt quả, là đạo
trọng yếu để thành tựu từ đầu
tới cuối, há có phải riêng một môn Tín Giải mà thôi
ư!)
Lời kết luận này hay
quá! Bởi lẽ, kinh này do đức Phật gọi ngài
Xá Lợi Phất để nói, trong các vị Thanh Văn,
ngài Xá Lợi Phất đại biểu trí huệ bậc
nhất. Pháp môn này là pháp khó tin, nếu chẳng phải là
trí huệ bậc nhất, có giảng cho kẻ ấy
cũng vô ích! Kẻ ấy chẳng tin, chẳng thể
tiếp nhận. Chư vị nhất định phải
biết: Nếu trong tương lai, quý vị gặp
phải đại pháp sư, lão hòa thượng, hoặc
thiện tri thức tu học đã lâu bảo quý vị
đừng nên niệm Phật: “Pháp môn Niệm Phật
không được đâu!”, khuyên quý vị tu Thiền, hay
khuyên quý vị học Mật, tôi thấy rất nhiều
kẻ như thế! Quý vị vừa nghe, [bèn nghĩ]
vị lão hòa thượng này đức cao vọng
trọng, chắc là Ngài nói chẳng sai! Nếu quý vị
nghe lời người đó liền bị mắc lừa
to lớn! Vì sao những người đó tu hành suốt
đời mà vẫn chẳng tin tưởng [Tịnh
Độ]? Kinh nói [pháp môn Tịnh Độ] là “pháp khó tin”!
Nếu những kẻ đó đều tin tưởng, làm
sao đức Phật có thể nói kinh này là “pháp khó tin” cho
được! Pháp này chẳng phải là rất dễ tin
tưởng ư? Khó lắm! Thật sự là khó! Những
người hữu tu hữu học, ắt phải
thật sự học thông suốt rồi mới tin
tưởng. Do vậy, các vị Liên Trì, Ngẫu Ích thường trích dẫn [lời
dạy của các ngài] Mã Minh, Long Thọ, Thiên Thân Bồ Tát,
Trí Giả, Vĩnh Minh, những vị ấy Tông lẫn
Giáo đều thông, thật sự thông đạt, các Ngài
chọn lấy pháp môn Niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ, thật sự thấu hiểu! Dẫu là
người học Giáo Hạ đã lâu, kẻ ấy
chẳng thật sự thông suốt. Chẳng thật
sự thông suốt sẽ chẳng tin pháp môn này, chuyện
này cũng chẳng kỳ l ạ
chút nào! Chưa thông hiểu, đích xác là chẳng tin.
Chính bản thân tôi là một thí
dụ, lúc tôi mới học Phật, chẳng tin tưởng
Tịnh Độ. Vẫn kể như rất may mắn
là [cuối cùng] tôi tin tưởng Tịnh Độ,
chẳng phải là nghe người ta khuyên, tôi tin liền,
đâu có đơn giản như vậy! Người
đầu tiên khuyên tôi là pháp sư Sám Vân, tôi chưa thể
tiếp nhận; về sau là lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam,
tôi bán tín bán nghi. Vì sao mới tin? Giảng kinh Hoa Nghiêm
mười mấy năm rồi mới tin. Tôi giảng
kinh Hoa Nghiêm bắt đầu từ năm Dân Quốc 60
(1971) mãi cho đến hiện thời chẳng gián
đoạn. Năm nay là năm Dân Quốc 77 (1988), đã
giảng mười bảy năm. Do kinh Hoa Nghiêm, tôi
thường nói: “Tôi đã khai ngộ, đại triệt
đại ngộ!” Ngộ gì vậy? Ngộ tu pháp môn
Tịnh Độ! Vì từ kinh Hoa Nghiêm, tôi đã thấy
rõ ràng, rành rẽ: Văn Thù, Phổ Hiền, Thiện Tài
đồng tử, bốn mươi mốt địa vị
Pháp Thân đại sĩ ai nấy đều niệm
Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới! Chuyện này đúng là giáng một gậy to vào
đầu tôi, đánh thức tôi! Hoa Nghiêm là cảnh
giới gì? Đến cuối cùng, thảy đều
niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
Do vậy, tôi đọc chú
giải kinh Vô Lượng Thọ của cư sĩ Hoàng Niệm
Tổ, cụ trích dẫn lời các vị đại
đức đời Đường nói Hoa Nghiêm và Pháp Hoa
đều nhằm dẫn đường cho kinh Vô
Lượng Thọ, tôi vừa đọc liền thừa
nhận [lời đoan quyết ấy] chẳng sai tí nào! Vì
sao? Tôi tin tưởng pháp môn Tịnh Độ là nhờ
kinh Hoa Nghiêm dẫn dắt. Chẳng có bộ kinh ấy
dẫn dắt, dẫu như thế nào đi nữa tôi
cũng chẳng thể tin tưởng, cũng chẳng
chịu tu học. Vì thế, tôi vô cùng cảm kích kinh Hoa
Nghiêm. Nếu không nhờ Hoa Nghiêm, tôi sẽ chẳng tin
tưởng pháp môn này. Nói thật ra, kinh Hoa Nghiêm là Tự
Phần của kinh Vô Lượng Thọ, là phần
dẫn nhập của kinh Vô Lượng Thọ. Kinh Vô
Lượng Thọ và kinh A Di Đà là Chánh Tông Phần
của kinh Hoa Nghiêm. “Thập
đại nguyện Vương đạo quy Cực
Lạc” (mười đại nguyện vương
dẫn về Cực Lạc), chẳng sai, chỗ quy túc
cuối cùng trở về kinh Di Đà. Liên Trì đại
sư bảo hai bộ kinh Di Đà và Vô Lượng Thọ
là đồng bộ, được gọi là Đại
Bổn và Tiểu Bổn. Tiểu Bổn giảng
đơn giản, Đại Bổn giảng chi tiết,
nhưng nội dung hoàn toàn giống nhau, chẳng sai
biệt!
“Thông nhân triệt quả”, từ tu nhân đến chứng
quả đều cần đến trí huệ. “Thành
thỉ thành chung”, “thỉ” (始) là quý vị bắt đầu tin
tưởng, phát nguyện, trì danh, trọn đủ Tín,
Nguyện, Hạnh, đấy là “thành
thỉ”; đến Tây Phương Cực Lạc
thế giới, quý vị viên chứng ba thứ Bất
Thoái, thành Phật trong một đời, đó là “thành chung”. Thảy đều
phải cậy vào trí huệ! Quý vị mới hiểu vì
sao đức Phật gọi ngài Xá Lợi Phất
để giảng [kinh Di Đà], chẳng gọi
người khác. Đặc biệt là kinh Di Đà “vô vấn tự thuyết”,
trong kinh này toàn là Thích Ca Mâu Ni Phật tự nói, những
người khác chẳng nói xen vào một câu nào! “Khởi độc vi tín giải
chi môn nhi dĩ tai” (há có phải riêng một môn Tín
Giải mà thôi ư).
(Sớ) Xứng Lý.
(疏) 稱
理。
(Sớ: Xét theo Lý).
Đoạn Xứng Lý này là
đoạn bàn luận tương xứng với Tánh. Vì vậy, bản chú giải này của Liên Trì đại sư chẳng
giống với những bản chú giải thông
thường, mỗi đoạn ngắn đều
chỉ quy tự tánh. Xứng Lý thường được
gọi là Tiêu Quy Tự Tánh, điều này rất ít
thấy trong các bản chú giải thông thường,
nhưng sau mỗi đoạn trong Sớ Sao đều có.
(Sớ) Tắc tự tánh tự
nhiên trí, thị Phật tự cáo Xá Lợi Phất
nghĩa.
(疏) 則自性自然智,是佛自告舍利弗義。
(Sớ: Tự nhiên trí trong
tự tánh chính là ý nghĩa của việc Phật tự
bảo Xá Lợi Phất).
Cách nói này hoàn toàn hội quy
tự tánh, nghĩa là gì? Chúng ta hãy nhìn lời giải thích
trong phần Sao.
(Sao) Vô duyên nhi chiếu, phất
lự nhi tri, diệu tánh thiên nhiên, bất tùng tha
đắc. Thị cố kiền chùy vị động,
khải thỉnh vô nhân, xí nhiên thuyết, vô gián yết.
(鈔) 無 緣 而 照,弗
慮 而 知,妙 性 天 然,不
從 他 得。是 故 犍 椎 未 動,啟
請 無 人,熾 然 說,無 間
歇。
(Sao: Vô duyên mà chiếu,
chẳng suy nghĩ mà biết, diệu tánh thiên nhiên
chẳng do điều gì khác mà đạt được. Do
vậy, kiền chùy chưa động tới, chẳng
có người khải
thỉnh mà nói tràn trề, chẳng gián đoạn, ngưng
nghỉ).
Mấy câu này có ý nghĩa
rất sâu, “vô duyên nhi chiếu”,
Chiếu là trí huệ khởi tác dụng. Công phu tu hành
của nhà Thiền gồm ba giai đoạn: Giai
đoạn thứ nhất là Quán Chiếu, giai đoạn
thứ hai là Chiếu Trụ, giai đoạn thứ ba là
Chiếu Kiến. Chiếu Kiến là kiến tánh. Trong Kim
Cang Kinh Giảng Nghĩa, lão cư sĩ Giang Vị Nông
đã nói về ba cảnh giới này rất rõ ràng. Chúng ta
niệm Phật cũng có ba giai đoạn, ba giai
đoạn ấy được nói theo cách khác, nhưng
nói thật ra, ý nghĩa tương đồng. Quán
Chiếu trong Thiền Tông được Tịnh
Độ Tông gọi là công phu thành phiến. Chiếu
Trụ trong Thiền Tông chính là Sự nhất tâm bất
loạn trong Tịnh Độ. Chiếu Kiến như
Thiền Tông đã nói chính là Lý nhất tâm bất loạn
trong Tịnh Độ. Quán Tự Tại Bồ Tát trong Bát
Nhã Tâm Kinh là Quán Thế Âm Bồ Tát, Ngài đã tu hành tới
giai đoạn cao tột, tức là Chiếu Kiến. “Chiếu kiến Ngũ Uẩn
giai Không”, Chiếu Kiến là minh tâm kiến tánh. Chúng ta
niệm Phật đạt đến Lý nhất tâm cũng
là minh tâm kiến tánh. Do vậy, danh từ, thuật ngữ
khác nhau, nhưng cảnh giới giống nhau. “Vô duyên nhi chiếu”, những
loại Chiếu thông thường nói chung là phải có duyên
rồi sau đó mới khởi Quán Chiếu.
Nói tới Tri (知: hiểu biết)
thì Tri nói chung là chúng ta phải suy nghĩ mới biết. “Lự” (慮) là suy nghĩ, suy xét, nghiên cứu, [sau
đó] chúng ta hiểu rõ ràng, minh bạch chuyện này. [“Phất lự nhi tri”] ở
đây là nói không có duyên, chẳng cần đến duyên,
Chiếu là tự nhiên, chẳng cần phải suy xét mà
biết. Ví dụ như A La Hán có thần thông, Bích Chi
Phật có thần thông, Quyền Giáo Bồ Tát có thần
thông, các Ngài có Tha Tâm Thông, nhưng nếu Ngài chẳng suy
nghĩ, suy xét thì trong tâm người khác nghĩ gì Ngài
sẽ chẳng biết. Do vậy, nếu quý vị hỏi
Ngài chuyện quá khứ hay tương lai, trước
hết, Ngài phải nhập Định, sau đấy
mới có thể bảo cho quý vị biết, tức là Ngài
có duyên, có lự, chẳng thể lập tức nói với quý
vị. Ngài phải nhập Định một chốc thì
món thần thông ấy (Tha Tâm Thông) mới có thể khởi
tác dụng. Nếu Ngài chẳng tác ý, thần thông chẳng
khởi tác dụng. Những vị này chẳng bằng
người sanh trong hạ hạ phẩm của Tây
Phương Cực Lạc thế giới.
Người sanh trong hạ
hạ phẩm của Tây Phương Cực Lạc
thế giới, ở trong hoa sen còn chưa nở, nhưng
người ta đã thấy thấu suốt, nghe thông
suốt, thần thông và đạo lực đều
chẳng khác biệt với Phật cho mấy, chắc
chắn là Thanh Văn, Duyên Giác, Quyền Giáo Bồ Tát trong các
thế giới phương khác chẳng thể sánh
bằng, phải kém cỏi hơn! Người ấy
ở trong búp sen chưa nở, mọi người đừng
nghĩ “búp sen chưa nở, nói chung rất mất tự
nhiên, chẳng có tự do”, [hiểu như vậy là] sai
mất rồi! Hoa sen ấy bao lớn? Kinh nói hoa sen bé là
một do-tuần, một do-tuần (yojana) là bốn
mươi dặm Tàu. Đó là nơi quý vị ở.
Bốn mươi dặm! Gần như to bằng thành
phố Đài Bắc. Nếu quý vị nói: Một mình ta
ở trong đó, có phải là rất nhàm
chán hay không? Chẳng phải vậy! Quý vị ở trong
hoa sen ấy, A Di Đà Phật, Quán Âm, Thế Chí,
đại chúng trong Thanh Tịnh Hải Hội thảy
đều ở trong ấy, hóa thân ở trong ấy. Vì
thế, trong ấy rất náo nhiệt, mỗi ngày giảng
kinh, thuyết pháp, niệm Phật, kinh hành rất náo
nhiệt! Đó là hoa sen bé. Hoa sen to sẽ lớn cả ngàn
do-tuần, hoặc một vạn do-tuần! Hoa sen to còn
lớn hơn địa cầu của chúng ta, bỏ
địa cầu vào đó vẫn còn rộng thênh thang! Tình
hình trong mỗi đóa hoa sen đều là như vậy.
Vì vậy, trong
mỗi hoa sen đều là một thế giới, khi hoa
nở, quý vị liền thấy Báo Độ của Tây
Phương Cực Lạc thế giới, thấy Báo Thân
Phật của A Di Đà Phật. Báo Thân Phật và vị
Phật được thấy trong hoa sen khác nhau. Báo
Thân Phật có vô lượng tướng, mỗi
tướng có vô lượng hảo, chẳng phải là ba
mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo.
Báo Thân Phật to lớn, kệ Tán Phật có câu: “Bạch hào uyển chuyển
ngũ Tu Di, cám mục trừng thanh tứ đại
hải”. Đó là Báo Thân Phật. Trong hoa sen quý vị
chẳng nhìn thấy, chẳng thấy thân tướng
Phật to dường ấy! Sau khi hoa nở, sẽ
thấy thân tướng Phật lớn dường
ấy, thân của chính mình cũng to, thân hình của chính
mình cũng cao lớn. Do vậy, trong hoa và ngoài hoa là hai
thế giới. Vì lẽ đó, đến nơi ấy
chắc chắn chẳng tịch mịch, mà cũng vô cùng
tự tại. Mỗi ngày có thể đi thăm viếng
mười phương thế giới, cảnh giới
được nói trong kinh Di Đà là cõi Phàm Thánh Đồng
Cư, trọn chẳng phải là cảnh giới trong cõi
Thật Báo Trang Nghiêm. Đấy cũng là cảnh giới
của hạng đới nghiệp vãng sanh chúng ta trong hoa
sen nơi ao bảy báu, đúng là đẹp đẽ khôn
xiết!
Vì vậy, người sanh trong
hạ hạ phẩm của Tây Phương Cực Lạc
thế giới cũng chẳng cần đến duyên mà
chiếu, chẳng cần suy nghĩ liền biết.
Bởi lẽ, do duyên mà chiếu, do suy nghĩ mà biết
đều là do ngoại cảnh mà đạt
được, đó là “trí
huệ hữu tác vi” (trí huệ phát sanh tác dụng do
duyên theo cảnh trần), chẳng phải là Tự Nhiên
Trí. Chẳng phan duyên, nhưng không gì chẳng chiếu, không
cần suy nghĩ mà không gì chẳng biết, đấy là
chân trí huệ, đó mới là Tự Nhiên Trí, là Vô Sư Trí.
Trí chẳng cần phải do thầy truyền dạy, mà
tự nhiên khởi lên, không cần cậy vào ngoại duyên,
trí huệ ấy tự nhiên hiện tiền, chẳng do cái
khác mà có! Đã có diệu huệ, trí huệ chân thật
như vậy, quý vị nghĩ xem: Cần gì mà phải gõ
dẫn khánh, gióng chuông để khải thỉnh Phật
tới giảng kinh, thuyết pháp? Chẳng cần
thiết! “Thị cố
kiền chùy vị động” (do vậy, kiền chùy
chưa động tới), “kiền
chùy” là pháp khí. Chúng ta nghênh thỉnh pháp sư, nghênh
thỉnh Phật, Bồ Tát thuyết pháp đều
phải gõ hoặc đánh pháp khí, chẳng cần, không dùng
đến, trí huệ của quý vị đã hiện
tiền.
“Khải
thỉnh vô nhân, xí nhiên thuyết, vô gián yết” (không
người khải thỉnh mà nói tràn trề, chẳng gián
đoạn, chẳng ngừng nghỉ), chẳng cần phải
khải thỉnh! “Xí nhiên” và
“vô gián” là nói sáu trần
tận hư không khắp pháp giới đều đang
thuyết pháp. Thế giới Tây Phương là như
thế, có thế giới nào chẳng phải là như vậy?
Sáu trần trong thế giới này của chúng ta cũng
thuyết pháp, điều đáng tiếc là gì? Chúng ta
chẳng có trí huệ, nên quý vị chẳng thể cảm
nhận. Người trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới có trí huệ, tâm địa thanh tịnh, nên
sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần [sẽ
nhận biết] toàn bộ đều đang thuyết
pháp. Đoạn này nhằm giải thích ý nghĩa
được biểu hiện bởi chuyện
đức Phật nói với ngài Xá Lợi Phất.
Nhị, thị pháp.
二、示法
(Hai
là dạy pháp).
“Thị”
là khai thị, [“thị pháp”]
là khai thị pháp môn này.
(Kinh) Tùng thị Tây Phương,
quá thập vạn ức Phật độ, hữu thế
giới danh viết Cực Lạc.
(經) 從
是 西 方。過 十 萬 億 佛 土。有
世 界 名 曰 極 樂。
(Kinh: Từ phương Tây
của thế giới này, đi qua mười vạn
ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc).
Mấy câu này là cương lãnh
của cả bản kinh, hãy chú trọng chữ Hữu.
Nhìn từ thế giới Sa Bà của chúng ta về
phương Tây, vượt qua mười vạn ức
cõi Phật, bên ấy có một thế giới tên là thế
giới Cực Lạc.
(Sớ) Độ thị sở
y, danh y báo.
(疏) 土是所依,名依報。
(Sớ: Cõi nước là
sở y (chỗ để nương vào), gọi là y báo).
Chúng ta sinh tồn phải
nương cậy đại địa, đó là “y báo”. “Báo” là đền
đáp. Trong quá khứ, chúng ta tu cái nhân này, hiện tại
được đền đáp bằng điều này. “Chánh báo” là thân thể của
chúng ta. Ngoài thân thể ra, những gì chúng ta nương
nhờ vào để sống đều gọi là “y báo”. Y báo có hai loại
lớn: Một là vật chất y báo, hai là nhân sự y báo.
Chánh báo chỉ có một mình ta, chẳng thể tính
nhiều người khác vào đó, người khác là y báo
của ta. Chẳng thể nói chánh báo là hết thảy
hữu tình chúng sanh, chẳng thể nói theo kiểu ấy.
Chánh báo chỉ nói đến một mình ta. Chúng ta sống
trong thế gian này, có hoàn cảnh nhân sự, có hoàn cảnh
vật chất, thảy đều là y báo. Nay chúng ta nói
về Tây Phương Cực Lạc thế giới, nói
về A Di Đà Phật:
(Sớ) Phật thị năng y,
danh chánh báo.
(疏) 佛是能依,名正報。
(Sớ: Phật là năng y
(chủ thể nương tựa), gọi là chánh báo).
Hoàn cảnh là sở y (đối
tượng để chủ thể nương tựa);
đấy là nói về y báo. Cõi nước là sở y,
gọi là y báo. Phật là năng y (chủ thể nương
tựa), gọi là chánh báo. Nay nói về y báo trước.
Cương lãnh của cả bản kinh gồm ba câu kinh
văn, đây là câu đầu tiên. Câu thứ hai là “kỳ độ hữu
Phật, hiệu A Di Đà, kim hiện tại thuyết
pháp” (cõi ấy có Phật hiệu là A Di Đà, nay đang
thuyết pháp), câu này thuộc kinh văn trong phần sau.
(Sớ) Thị giả, chỉ
thử giới ngôn.
(疏) 是者,指此界言。
(Sớ: Chữ Thị là nói
đến cõi này).
Trong câu “tùng thị Tây Phương”, chữ Thị
chỉ thế giới này, tức là thế giới Sa Bà, chúng
ta hiện đang ở trong thế giới này. Chư
vị phải nhớ, [nói tới “thế giới” này]
trọn chẳng phải là nói tới địa cầu.
Nếu hiểu là địa cầu, trật mất
rồi, sẽ có vấn đề to lớn. Nay chúng ta
biết địa cầu tròn xoe, đi về phương
Tây, đi hết một vòng lại trở về [chỗ
cũ], rốt cuộc Tây Phương ở chỗ nào?
Hiện thời máy bay hết sức lẹ làng, loại máy
bay tân tiến nhất trong tương lai bay một vòng
quanh địa cầu chỉ cần sáu hoặc bảy
giờ là đủ rồi! Máy bay tối tân nhất trong
hiện thời, từ Mỹ bay sang Nhật Bản
mất hai giờ, bay đến Nhật Bản hay [từ
Mỹ] rồi lại bay sang Đài Loan, thời gian
chẳng sai biệt cho mấy, hai giờ đã đến
nơi rồi! Nước Mỹ hiện đang thí
nghiệm, trong tương lai, tốc độ máy bay
vận chuyển hành khách đều nhanh chóng như thế!
Khoa học kỹ thuật phát triển, thế giới càng
ngày càng bé lại. Sau này, sang Mỹ chỉ hai tiếng
đồng hồ là đến rồi. Tây Phương
được nói ở đây là phương Tây của
thế giới Sa Bà.
(Sớ) Tùng thử Sa Bà thế
giới, hướng Tây nhi khứ.
(疏) 從此娑婆世界,向西而去。
(Sớ: Từ thế giới
Sa Bà này, đi về hướng Tây).
“Thế
giới Sa Bà” là tên của một đại thiên thế
giới. Địa cầu của chúng ta thường
được gọi là Diêm Phù Đề (Jambudvipa).
Nếu nói “phương Tây của Diêm Phù Đề” chính là
nói tới địa cầu này, còn ở đây là nói
đến thế giới Sa Bà. Thế giới Sa Bà là
một đại thiên thế giới, là khu vực giáo hóa
của Thích Ca Mâu Ni Phật, đại khái giống như
hệ Ngân Hà chúng ta quan sát thấy trong Thiên Văn hiện
thời. Nếu chúng ta lấy hệ Ngân Hà làm đơn
vị để nói [thì Tây Phương trong đoạn kinh
Di Đà này] chính là Tây Phương của hệ Ngân Hà
[thuộc thế giới Sa Bà]. Nói như vậy sẽ hợp
lý, thật sự chẳng có vấn đề gì! Ngân Hà cũng
đang chuyển động, nhưng thời gian
để hệ Ngân Hà xoay một vòng cần phải dùng
quang niên (năm ánh sáng) để tính toán. Pháp vận
của Thích Ca Mâu Ni Phật tổng cộng chỉ có
một vạn hai ngàn năm, khi đem so một vạn hai
ngàn năm với sự chuyển động của
hệ Ngân Hà, e rằng độ số chỉ sai lệch
một hai độ, nên phương hướng chẳng
sai, quả thật là [cõi Cực Lạc] ở Tây
Phương, nó di động rất nhỏ!
Đây là nói trong pháp vận dài
một vạn hai ngàn năm của Thích Ca Mâu Ni Phật,
độ số chuyển động của hệ Ngân Hà
quá nhỏ, nhỏ chẳng đáng kể, trọn chẳng
ảnh hưởng đến phương hướng.
Nếu quý vị nghiên cứu Thiên Văn cận đại
liền hiểu rõ, mới hiểu đức Phật
thuyết pháp đúng là chẳng thể nghĩ bàn, phù
hợp với khoa học cận đại. Do vậy, đây
là nói về phía Tây của hệ Ngân Hà, đi về phía Tây như
thế, đi theo hướng Tây.
(Sớ) Danh quá.
(疏) 名過。
(Sớ: Gọi là “vượt
qua”).
Vượt qua! Vượt qua
bao nhiêu? Vượt qua mười vạn ức cõi
Phật.
(Sớ) Phật độ
giả, nhất đại thiên giới danh nhất
Phật độ.
(疏) 佛土者,一大千界名一佛土。
(Sớ: Phật độ (cõi
Phật): Một đại thiên thế giới gọi là
một Phật độ).
Một đại thiên thế
giới là một khu vực giáo hóa của một vị
Phật, được gọi là “một Phật độ”. Giả sử một
Phật độ là một hệ Ngân Hà, từ
hướng Tây của hệ Ngân Hà chúng ta, phải
vượt qua bao nhiêu hệ Ngân Hà? Mười vạn
ức hệ Ngân Hà. Các nhà Thiên Văn học hiện
thời chưa thể quan sát tới, bất quá họ phát
hiện vài trăm hệ Ngân Hà mà thôi, thua kém quá xa! Viễn
vọng kính được dùng trong Thiên Văn hiện
thời là loại viễn vọng kính sử dụng sóng vô
tuyến điện, vẫn chưa đạt đến
một ức [hệ Ngân Hà]. Mười vạn ức
nhiều quá sức! Năng lực khoa học kỹ
thuật của chúng ta chưa đạt được
một phần vạn! Ở bên ấy có một thế
giới.
(Sớ) Quá như thị Phật
độ, chí thập vạn ức, ngôn khứ thử
phương viễn chi viễn dã.
(疏) 過如是佛土,至十萬億,言去此方遠之遠也。
(Sớ: Trải qua các cõi
Phật như thế tới mười vạn ức, ý
nói xa cách phương này quá xa).
Khoảng cách này khá xa!
(Sớ) Phi Đàn Kinh thập
vạn bát thiên chi độ dã.
(疏) 非壇經十萬八千之土也。
(Sớ: Chẳng phải là cõi
nước ở ngoài mười vạn tám ngàn dặm
như trong Đàn Kinh đã nói).
Đặc biệt nêu ra vì
Đàn Kinh rất phổ biến tại Trung Quốc,
người đọc [kinh ấy] rất nhiều. Trong
Đàn Kinh, Lục Tổ bảo Tây Phương Cực
Lạc thế giới cách chúng ta mười vạn tám ngàn
dặm, Liên Trì đại sư giảng cặn kẽ câu
nói này. Lục Tổ đại sư không biết chữ,
Ngài chưa hề nghiên cứu kinh Di Đà, chủ yếu
là dạy người đến học đạt
được sự lãnh ngộ, thấu hiểu lẽ
Thiền, chứ chẳng coi trọng Giáo. Vì thế, Ngài nói
kiểu đó cũng là nói tùy tiện, chẳng dựa theo
giáo nghĩa để giảng. Lục Tổ chủ
trương “duy tâm Tịnh
Độ, tự tánh Di Đà”, chẳng bàn đến
sự tướng. Chúng ta phải liễu giải
những ý nghĩa này. Lời Tổ Sư nói hoàn toàn chẳng
sai, Ngài có kẻ đương cơ riêng, có dụng ý. Ngài
một phen nói như vậy khiến cho hàng đương
cơ ngộ nhập tự tánh, mục đích của Ngài
là ở chỗ này, khiến cho kẻ khác khai ngộ,
chẳng nhằm khuyên kẻ khác cầu sanh Tây
Phương. Đấy là do môn đình thiết lập khác
nhau, cho nên chẳng thể dùng cách nói trong Đàn Kinh
để giải thích kinh Di Đà. Vì thế, Tổ Liên Trì
mới nói: Chẳng phải là nói đến cõi nước
cách xa mười vạn tám ngàn dặm như Lục
Tổ đã nói trong Đàn Kinh.
(Sớ) Nhược cứ
Sự, cứ Lý, diệc vị vi viễn.
(疏) 若據事據理,亦未為遠。
(Sớ: Nếu xét đến
Sự lẫn Lý thì [cõi Cực Lạc cách Sa Bà] cũng
chẳng xa).
Chúng ta nghe “mười vạn
ức cõi Phật” thường là chẳng có cách nào
tưởng tượng được, khoảng cách quá
xa! Nhưng “cứ Sự,
cứ Lý”, chẳng thể coi là xa, vì sao chẳng thể
coi là xa? Còn có chỗ xa hơn cõi ấy nữa! Kinh Hoa Nghiêm
nói thế giới Hoa Tạng từ dưới lên trên có
hai mươi tầng, giống như một cao ốc hai
mươi tầng, thế giới Sa Bà của chúng ta và Tây
Phương Cực Lạc thế giới cùng ở trong
một tầng, tức tầng thứ mười ba. Quý
vị nghĩ xem thế giới Hoa Tạng lớn ngần
nào? Thật sự chẳng thể nghĩ bàn! Đức
Phật nói “tận hư không khắp pháp giới”, đó có
phải là một thế giới Hoa Tạng hay không?
Chẳng phải! Trong vũ trụ có vô lượng vô biên
những thế giới giống như thế giới Hoa
Tạng. Đó là nói đại thế giới của chúng
ta được gọi là thế giới Hoa Tạng. Nói
đến đại thiên thế giới, nói đến
thế giới Sa Bà thì vẫn là một tiểu thế
giới, là khu vực giáo hóa của một đức
Phật. Nhìn từ đại thế giới, [Cực
Lạc] có xa hay không? Rất gần, cùng ở trong một
tầng lầu, một ở phía Đông, một ở phía
Tây, chẳng xa!
(Sớ) Thế dĩ thời
ngôn, giới dĩ xứ ngôn.
(疏) 世以時言,界以處言。
(Sớ: Thế là nói theo
thời, Giới là nói theo xứ).
Thế giới: “Thế” là nói tới thời gian. Thế là ba con
số mười[1]. Ba mươi năm là thế hệ,
Trung Quốc cổ đại nói như vậy. “Giới” là giới hạn, bốn phương,
bốn góc, trên, dưới, đấy là giới hạn.
Đây là nói theo nơi chốn.
(Sớ) Cực Lạc giả,
Phạn ngữ Tu Ma Đề.
(疏) 極樂者,梵語須摩提。
(Sớ: Cực Lạc,
tiếng Phạn là Tu Ma Đề).
Thế giới Cực Lạc
là do chúng ta dịch nghĩa, đọc theo âm tiếng
Phạn là Tu Ma Đề (Sukhāmatī, Sukhāvatī).
(Sớ) Thử vân An Lạc.
(疏) 此云安樂。
(Sớ: Cõi này dịch là An
Lạc).
Ý nghĩa chánh xác của từ
ngữ ấy là An Lạc. “Thử”
là Trung Quốc, [Tu Ma Đề] dịch sang nghĩa
tiếng Hán là An Lạc.
(Sớ) Diệc vân An
Dưỡng, diệc vân Thanh Thái, diệc vân Diệu Ý.
(疏) 亦云安養,亦云清泰,亦云妙意。
(Sớ: Còn dịch là An
Dưỡng, còn dịch là Thanh Thái, hoặc còn dịch là
Diệu Ý).
Có nhiều cách dịch như
vậy, đều là dịch theo ý nghĩa.
(Sớ) Danh tuy tiểu thù, giai
Cực Lạc nghĩa.
(疏) 名雖小殊,皆極樂義。
(Sớ: Danh xưng tuy sai khác
đôi chút, nhưng đều có nghĩa là Cực Lạc).
Tuy danh tự khác nhau, ý nghĩa
đều tương thông. Hợp chung mấy ý nghĩa
này để xét, sẽ thấy càng viên mãn, rõ ràng hơn ý
nghĩa được bao hàm trong từ ngữ Tu Ma
Đề. Cưu Ma La Thập đại sư dịch kinh
đã dịch từ ngữ này thành Cực Lạc.
(Sớ) Nhiên độ hữu
đa chủng.
(疏) 然土有多種。
(Sớ: Nhưng cõi
nước có nhiều thứ).
Thế giới Cực Lạc có
bốn cõi, nên nói có nhiều thứ.
(Sớ) Tứ độ chi trung,
kim thử Cực Lạc thị Đồng Cư
độ.
(疏) 四土之中,今此極樂是同居土。
(Sớ: Trong bốn cõi, cõi
Cực Lạc nay đang nói ở đây là cõi Đồng
Cư).
“Kim
thử” là gì? Chỉ kinh Di Đà. Thế giới Cực
Lạc được nói trong kinh Di Đà là cõi Đồng
Cư trong bốn cõi của thế giới Cực Lạc,
chẳng phải là cõi Thật Báo Trang Nghiêm, chẳng
phải là cõi Thường Tịch Quang. Vì sao nói là cõi
Đồng Cư? Vì chúng ta đới nghiệp vãng sanh
đều sanh vào cõi Đồng Cư, nói như vậy càng
thêm thân thiết. Tuy là cõi Đồng Cư...
(Sớ) Nhi diệc thông tiền
tam độ.
(疏) 而亦通前三土。
(Sớ: Nhưng cũng thông
với ba cõi trước).
Trong các thế giới của
mười phương chư Phật chẳng có
điều tuyệt diệu này. Thế giới của
mười phương chư Phật đều có
bốn cõi, giống như thế giới nay chúng ta đang
sống là cõi Phàm Thánh Đồng Cư của Thích Ca Mâu Ni
Phật. Cõi Phương Tiện Hữu Dư và cõi Thật
Báo Trang Nghiêm [của thế giới Sa Bà] chẳng ở
nơi đây, chúng ta chẳng thấy được!
Điều mầu nhiệm của Tây Phương Cực
Lạc thế giới là: Tuy là cõi Phàm Thánh Đồng
Cư, nó thông với “ba cõi
trước”. Do vậy, vãng sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới là “hoành
siêu” (vượt thoát theo chiều ngang), chẳng
phải là “thụ xuất”
(thoát ra theo chiều dọc), hoành siêu tam giới, tới Tây
Phương Cực Lạc thế giới, sanh ngang vào
bốn cõi, tuyệt diệu chẳng thể diễn tả
được! Sanh về một là sanh trong hết
thảy, sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư đồng
thời cũng giống như sanh vào cõi Phương
Tiện Hữu Dư, cõi Thật Báo Trang Nghiêm, cõi
Thường Tịch Quang; vì sao? Vì trong cõi Phàm Thánh
Đồng Cư thấy trọn Bồ Tát, thiên nhân
đại chúng trong ba cõi trên. Nói cách khác, nếu các vị
đại Bồ Tát ấy sanh vào cõi Thật Báo Trang Nghiêm
thì cõi Thật Báo Trang Nghiêm và cõi này cũng dung thông, mỗi
ngày cũng gặp mặt người trong cõi Phàm Thánh
Đồng Cư, cũng là mỗi ngày sống với nhau,
quá sức mầu nhiệm! Đúng là pháp khó tin. Chúng ta
cũng chẳng có cách nào tỷ dụ sự khác biệt
này!
Trước kia, tôi giảng kinh
này, bất đắc dĩ chỉ đành dùng học trò
học hành trong nhà trường làm tỷ dụ. Giống
như ngôi trường này của chúng ta, Tiểu Học
chẳng phải là Trung Học, Trung Học chẳng
phải Đại Học, trường học tách
rời. Mỗi cấp lớp cũng tách rời, quyết
định chẳng hỗn tạp. Tình hình trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới rất
đặc thù, học trò Tiểu Học, học trò Trung
Học, sinh viên Đại Học đều cùng học
chung một phòng học, mầu nhiệm đến cùng
cực! Vì thế, mọi người mỗi ngày gặp
mặt, mỗi ngày cùng nhau nắm tay, chẳng thể nghĩ bàn! Trong các thế giới
của mười phương chư Phật thế
giới chẳng có tình hình như thế! Chư Phật,
Bồ Tát và mọi người đều ở cùng
một chỗ. Tuy mỗi cá nhân có báo độ [khác nhau],
phẩm vị mỗi cá nhân khác nhau, nhưng cùng sống
một chỗ chẳng trở ngại gì, hằng ngày
qua lại chẳng trở ngại gì! Trong các thế
giới của mười phương chư Phật
chẳng có tình hình như vậy! Chỉ riêng thế
giới ấy (Cực Lạc) là có; vì thế, vô cùng
đặc biệt. Đó là nói “thông
tiền tam độ” (thông với ba cõi trước).
(Sớ) Hựu Thọ Dụng, Pháp
Tánh, Biến Hóa tam độ, diệc đồng thử ý.
(疏) 又受用法性變化三土,亦同此意。
(Sớ: Lại nữa, ba cõi Thọ
Dụng, Pháp Tánh, Biến Hóa cũng có cùng ý nghĩa này).
Trong lời Sao, Liên Trì
đại sư sẽ giải thích rất tỉ mỉ ý
nghĩa này. Lời Sao càng giảng tỉ mỉ, chúng ta càng
biết rõ ràng. Không chỉ có thể đoạn nghi sanh tín,
mà còn có thể giúp chúng ta quán tưởng.
(Sớ) Hựu thập chủng
độ, diệc đồng thử ý.
(疏) 又十種土,亦同此意。
(Sớ: Lại nữa,
mười loại cõi cũng có cùng ý nghĩa này).
“Mười
loại cõi” được nói trong kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa
Nghiêm luôn dùng “mười” để biểu thị pháp.
(Sớ) Hựu Phật tuy vô
độ, vị hóa chúng sanh, bất phương thuyết
độ.
(疏) 又佛雖無土,為化眾生,不妨說土。
(Sớ: Lại nữa, tuy
Phật không có cõi nước, nhưng vì hóa độ chúng
sanh, chẳng ngại nói đến cõi nước).
Câu này là nói xứng tánh, đúng
như Phật chẳng có tướng, vì độ chúng
sanh, chẳng ngại hiện các thứ tướng.
Phật chẳng có danh hiệu, vì độ chúng sanh,
cũng chẳng ngại thành lập các thứ danh hiệu.
Có thể thấy cõi nước là để người
khác thọ dụng, tự - tha bất nhị. Vì thế,
chẳng ngại thuyết pháp như vậy, không ngại
thị hiện. Điều này hiển thị Lý Sự vô
ngại, Sự Sự vô ngại, chính là cảnh giới
trong kinh Hoa Nghiêm.
Bản Sớ Sao chú giải
[kinh Di Đà] của Liên Trì đại sư hoàn toàn dùng
cảnh giới Hoa Nghiêm để chứng tỏ Tây
Phương Cực Lạc thế giới là tinh hoa của
thế giới Hoa Tạng. Vì thế giới Cực
Lạc chẳng rời khỏi thế giới Hoa Tạng,
[thế giới Hoa Tạng] giống như một cao
ốc, phần đặc sắc nhất trong cao ốc
ấy chính là một gian phòng của A Di Đà Phật trong
tầng thứ mười ba. Gian phòng ấy là chỗ
đặc sắc nhất, là nơi tinh hoa, gần như
là có ý nghĩa này. Nói về cả thế giới Hoa
Tạng là kinh Hoa Nghiêm, còn Di Đà Tịnh Độ là
một bộ phận tinh hoa nhất trong thế giới
Hoa Tạng. Do vậy, bốn mươi mốt địa
vị Pháp Thân đại sĩ trong thế giới Hoa
Tạng đều phát nguyện cầu sanh về cõi
Tịnh Độ ấy.
(Sao) Y báo giả.
(鈔) 依報者。
(Sao: Y báo là...).
Nhằm giải thích chữ “y báo” trong phần trên.
(Sao) Thân tạ độ cư,
cố danh sở y. Tùy sở tác nghiệp, y hữu
thắng liệt, cố danh vi Báo.
(鈔) 身
藉 土 居,故 名 所 依。隨
所 作 業,依 有 勝 劣,故
名 為 報。
(Sao: Thân nương vào cõi
nước để ở, nên gọi là “sở y” (chỗ
để nương vào). Tùy theo nghiệp đã tạo, mà
sở y có thù thắng hay hèn kém, vì thế gọi là Báo)
Chữ Độ có ý nghĩa dễ
hiểu, chẳng dễ hiểu rõ chữ Báo. Chúng ta nói thông
tục, Tây Phương Cực Lạc thế giới
sản vật phong phú ngần ấy, như bảy báu là
những thứ thuộc loại hiếm có như vàng trong
thế giới này của chúng ta, chúng ta coi những khoáng
vật ấy là trân bảo, [có được] một tí
xíu [những thứ ấy] đã là quý báu lắm, giá
trị rất cao! Tây Phương Cực Lạc thế
giới bảy báu quá nhiều, khắp nơi đều
có, giống như đá tảng, bùn đất trong thế
giới này, quá nhiều! Ngày nay chúng ta coi vàng ròng là bảo
vật, người ta coi vàng ròng là thứ để lót
đường. Hiện thời chúng ta nghĩ kim
cương, phỉ thúy, trân châu, mã não là những thứ
rất trân quý, người ta coi chúng là vật liệu xây dựng,
dùng để cất nhà! Chúng ta đeo giắt những
thứ ấy khắp thân, đến Tây Phương
Cực Lạc thế giới người ta trông thấy
sẽ cười quý vị! Đó là phước báo khác
nhau.
Đừng nói chúng sanh trong hai
cõi Sa Bà và Cực Lạc phước báo khác biệt,
phước báo của người trong thế giới này
cũng khác nhau. Từ TV chúng ta thấy bao nhiêu người
chết đói tại Phi Châu, quý vị thấy hình
tướng của họ là da bọc xương, chúng ta
ở đây dư dả, ấm no, cùng sống trên
địa cầu mà phước báo khác biệt! Vì sao có
hiện tượng này? Đời trước tu
phước khác nhau. Quý vị đời trước tu
phước, đời này nhất định sanh trong cõi có
phước; chẳng có phước báo, quý vị sẽ
sanh về nơi chẳng có phước báo, nhất
định phải hiểu đạo lý này, hiểu rõ chân
tướng sự thật này. Vì thế, cùng là
người một nhà, do mỗi cá nhân tu phước khác
nhau, dẫu đời sau vẫn chưa thoát khỏi
lục đạo luân hồi, dẫu cho cùng làm thân
người như nhau, cũng chẳng thể sống cùng
một chỗ, [bởi] phước báo khác biệt.
Lại nhìn xưa nay, xưa nay phước báo khác nhau, nói
thật thà, phước báo của cổ nhân vượt xa
người hiện tại chúng ta. Chúng
ta đọc lịch sử, thấy các đế
vương thời cổ ban thưởng công thần,
thưởng mấy chục “dật”
vàng ròng. Một dật (鎰) là hai mươi bốn
lượng, nhìn từ lịch sử, quý vị biết
thuở ấy vàng, bạc, châu bảo nhiều, hiện
thời chẳng thấy nữa. Chúng sanh phước
bạc, những thứ bảo
vật ấy dần dần ít đi, chẳng còn nữa!
Kinh Phật nói Chuyển Luân
Vương xuất thế, chúng sanh phước báo
lớn, bảy báu xuất hiện trên mặt đất,
trồi lên. Quả thật là cảnh chuyển theo tâm,
chuyển theo phước đức và nhân duyên của quý
vị. Hiện thời các nhà khoa học đã hiểu rõ
sự tướng này, vì sao [những bảo vật]
chẳng còn nữa? Đây là nói tới kết cấu hóa
học, chúng bị biến hóa, tiêu mất. Khi con
người có phước báo, nó lại biến hóa,
lại kết tinh, hợp thành [bảo vật]. Cảnh
chuyển theo tâm là thật, là sự thật ngàn vạn
phần xác đáng! “Y báo chuyển theo chánh báo” là thật,
ngàn vạn phần xác đáng! “Tâm chuyển theo cảnh” là
giả, là hiện tượng thỉnh thoảng, tạm
thời xảy ra, chẳng phải là hiện tượng
chân thật, càng chuyển càng tệ! Đó là thiếu phước.
Thật sự có phước báo thì xác thực là hoàn
cảnh chuyển biến theo chánh báo của chúng ta.
Do vậy, chúng ta phải
hiểu chữ Báo này, đã biết quả báo này, chúng ta
liền biết tu nhân. Chúng ta mong quả báo tốt,
nhất định phải tu nhân tốt, phải giữ
tấm lòng tốt, phải làm chuyện tốt, phải làm
người tốt, phải tích thiện tu đức,
quả báo của chúng ta liền thù thắng, bất
luận chánh báo hay y báo thảy đều thù thắng. Vì
thế, quả báo do chính mình tu, chính mình thọ dụng,
tự làm, tự chịu, chẳng thể oán trời trách
người, chẳng thể trách “trời già không công
bằng”, chẳng thể trách Phật, Bồ Tát chẳng
phù hộ. Nếu quý vị oán trời, trách người,
trách Phật, Bồ Tát chẳng phù hộ, tội càng thêm
tội, lầm lẫn quá đỗi! Hoàn cảnh của chính
chúng ta bất hảo, hãy tu đức, tu thiện, nghiêm túc
tu dăm ba năm, hoàn cảnh của quý vị nhất
định chuyển biến, chuyển thành mọi
chuyện như ý, mọi chuyện vừa lòng, có thể
chuyển được! Như trong Liễu Phàm Tứ
Huấn, Viên Liễu Phàm là một thí dụ. Thuở ban đầu,
ông ta bán tín bán nghi, cho nên phát tâm làm ba ngàn việc thiện.
Làm mười năm mới xong, thật sự chuyển
biến. Sau đó, lại phát tâm làm việc thiện
rất dễ dàng, ông ta lại phát tâm làm một vạn
điều thiện, chỉ một vài ngày đã viên mãn! Quý
vị thấy trong Liễu Phàm Tứ Huấn có chép
[chuyện này]!
Do vậy, càng có phước,
lại càng tu phước dễ dàng. Những năm qua
chúng tôi cũng giống như thế. Thuở đầu
in kinh, chúng tôi phát tâm in một ngàn bộ khó khăn lắm!
Chẳng dễ gì gom được một chút tiền
để in một ngàn bộ! Hiện thời, chúng tôi in
kinh, nói in một vạn bộ, tiền ngay lập tức
đưa tới, chưa đầy vài ngày đã thành
tựu. Do vậy nói: Ngày càng dễ dàng! Đó là cảm
ứng chẳng thể nghĩ bàn. Trong quá khứ, qua sách
vở, chúng ta thấy sự cảm ứng của cổ
nhân, hiện thời bản thân chúng tôi đã làm như vậy
nhiều năm như thế, đích thân chúng tôi thể
nghiệm, chẳng sai tí nào! Hôm nay đã hết thời gian
rồi, chúng tôi giảng tới chỗ này!
Tập
122
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao
Diễn Nghĩa Hội Bản, trang hai trăm sáu
mươi bốn.
(Sao) Y báo giả, thân tạ
độ cư, cố danh sở y. Tùy sở tác nghiệp,
y hữu thắng liệt, cố danh vi báo. Ngôn tùng thị
Sa Bà giả, Sa Bà, Cực Lạc tại Hoa Tạng trung,
nhị độ tương vọng.
(鈔) 依
報 者,身 藉 土 居,故 名
所 依;隨 所 作 業,依 有
勝 劣 ,故 名 為 報。言 從 是 娑
婆 者,娑 婆 極 樂,在 華
藏 中,二 土 相 望。
(Sao: Y báo là thân nương vào
cõi nước để ở, nên gọi là “sở y”
(chỗ để nương vào). Tùy theo nghiệp đã
tạo, mà sở y thù thắng hay hèn kém, vì thế gọi là
Báo. Nói “từ cõi Sa Bà này” là vì hai cõi Sa Bà và Cực Lạc đối
diện nhau trong thế giới Hoa Tạng).
Chúng ta xem tiếp từ chỗ
này.
(Sao) Kim vân “quá” giả, tùng
thử Tây hướng hoành cắng nhi quá dã, Nhất
đại thiên giả, tam thiên đại thiên thế
giới dã, chí hạ lục phương trung biện.
(鈔) 今
云 過 者,從 此 西 向 橫 亙
而 過 也。一 大 千 者,三
千 大 千 世 界 也,至 下 六
方 中 辨。
(Sao: Nay nói là “vượt qua”,
tức là từ phương Tây cõi này hướng theo
chiều ngang mà đi. Một đại thiên là một tam
thiên đại thiên thế giới, đến phần Sáu
Phương [Phật Tán Thán] trong phần sau sẽ biện
định).
Trong đoạn này đã nói
đến vài chuyện, chúng ta nói từng chuyện một.
Kinh Hoa Nghiêm nói thế giới Hoa Tạng có hai mươi
tầng, thế giới Cực Lạc và thế giới Sa
Bà chúng ta cùng ở trong tầng thứ mười ba
của thế giới Hoa Tạng. Dùng viễn vọng kính
tân tiến nhất của thiên văn trong hiện thời,
chúng ta vẫn chưa thể quan sát trọn hết tầng
thứ mười ba, huống là bảy tầng phía trên và
mười hai tầng phía dưới. Chúng ta đang ở
tầng thứ mười ba, có thể thấy thế
giới vô cùng to lớn. Trong kinh, đức Phật
dạy: Tuyệt đối chẳng phải là cả
vũ trụ là một thế giới Hoa Tạng, chẳng
phải vậy! Kinh Hoa Nghiêm nói trong hư không có vô
lượng vô biên thế giới giống như thế
giới Hoa Tạng, ta liền hiểu thế giới to
lớn, thật sự chẳng thể nghĩ bàn. Những
điều này quả thật còn phải chờ khoa
học chứng thực, hiện thời, đích xác là
đã chứng thực đôi chút.
“Quá”
(過) là vượt qua,
từ phương Tây của thế giới Sa Bà, chẳng
phải là phương Tây của địa cầu. Chúng ta
tu Tịnh Độ, vì sao hướng mặt về
phương Tây là chỗ mặt trời lặn, đó chính
là phương Tây của địa cầu, vì sao? Nói
thật ra, đấy là buộc tâm chuyên hướng
đến một phương hướng, mang ý nghĩa
ấy! Phương Tây của địa cầu chắc
chắn chẳng phải là phía Tây của hệ Ngân Hà,
chỉ cốt giữ lấy ý niệm ấy. Trên thực
tế, chúng ta vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới, đối với phương hướng chúng ta
có thể chẳng cần lo ngại, vì sao? Chắc chắn
là A Di Đà Phật đến tiếp dẫn quý vị,
mang quý vị đi. Rốt cuộc phương
hướng ở nơi đâu, quý vị chẳng cần
phải tìm kiếm! Nếu chúng ta đi tìm, chắc
chắn sẽ không tìm được, vũ trụ to
như thế, đến đâu để tìm? Tìm chẳng
ra! Nhất định là Quán Âm Bồ Tát, Đại
Thế Chí Bồ Tát, A Di Đà Phật đến tiếp
dẫn chúng ta, dẫn dắt chúng ta ra đi.
Nếu các Ngài chẳng
đến tiếp dẫn, sẽ chẳng thể vãng sanh.
Vì vậy, khi lâm chung, thụy tướng vãng sanh nhất
định là thấy Tam Thánh đến tiếp dẫn.
Lúc vãng sanh dẫu có các thụy tướng khác, nếu
chẳng có Phật đến tiếp dẫn, đều
chẳng đáng tin. Quý vị nói “biết
trước lúc mất” thì người có phước
báo trong thế gian cũng có thể biết trước lúc
mất. Biết trước lúc mất là người có
phước báo rất lớn, đời sau kẻ ấy
sẽ sanh vào đâu? Không nhất định, có kẻ sanh
lên trời, có kẻ sanh trong loài người, có kẻ thành
quỷ vương trong quỷ đạo. Phước báo
rất lớn đều biết trước lúc mất.
Nói thật ra, biết trước lúc mất chẳng
nhất thiết là vãng sanh. Vãng sanh nhất định
phải thấy Tây Phương Tam Thánh đến tiếp
dẫn thì mới là đúng. Quý vị nói sau khi người
ấy đã chết, chân tay rất mềm mại, đó
cũng là hảo tướng. Nói ngắn gọn, từ
những hảo tướng ấy đại đa số
chúng ta có thể chứng thực người ấy
chắc là chẳng đọa tam ác đạo, đời
sau sanh trong hai đường nhân thiên. Dẫu sanh trong ác
đạo cũng chẳng sao, người ấy
phước báo to lớn, người thế gian chúng ta nói
“người ấy đi làm thần”, tối thiểu là
hạng như Thổ Địa Công, Thành Hoàng Gia, là
đại phước đức quỷ trong quỷ
đạo, được gọi là Đa Tài Quỷ,
người ấy cũng có rất nhiều thụy
tướng. Vì thế, những thứ ấy chẳng
đủ để chứng thực. Dẫu có lưu
lại xá-lợi, lưu lại nhục thân [không hư
hoại], vẫn chưa thể chứng thực. Thụy
tướng vãng sanh quyết định là Tam Thánh
đến tiếp dẫn, chúng ta phải nhớ
điều này!
Tôi nhớ lúc mới học
Phật chưa được bao lâu, quen biết lão cư
sĩ Châu Kính Trụ. Vị lão cư sĩ này đã vãng sanh
bốn năm rồi, thọ chín mươi sáu tuổi.
Cụ cùng một tuổi với thầy Lý, vãng sanh
trước thầy Lý một năm. Tôi học Phật
hết sức có duyên với cụ, cụ là đại
biểu Quốc Hội. Thoạt đầu, mới
vừa đến Đài Loan, cụ bèn sáng lập Đài
Loan Ấn Kinh Xứ, người in kinh Phật sớm
nhất tại Đài Loan là cụ. Cụ đi khắp
nơi hóa duyên in kinh Phật. Khi đó, số lượng
in cũng ít, bản in cũng khá kém, nhưng đã là
hết sức khó có! Do tôi có cơ hội quen biết
cụ như vậy, nên cụ thường tặng kinh
sách cho tôi đọc. Chỉ cần cụ in xong một
cuốn sách, nhất định sẽ gởi ngay cuốn
đầu tiên cho tôi. Cụ là con rể cụ Chương
Thái Viêm. Cụ Chương Thái Viêm là Quốc Học
đại sư đầu thời Dân Quốc, là một người
rất lỗi lạc. Cụ Chương Thái Viêm từng
làm phán quan của Đông Nhạc Đại Đế.
Thuở ấy, cụ Châu trọn chẳng tin Phật, nghe
bố vợ nói những chuyện ấy, cụ bán tín bán
nghi, coi như chuyện thần thoại.
Thuở trẻ, cụ Châu
từng thấy nhiều chuyện kỳ quái, cụ thường
kể cho tôi nghe những chuyện cũ. Cụ nói có
một lần, tôi ghi nhớ rất sâu, cụ sanh vào
những năm cuối nhà Thanh. Trước cách mạng Tân
Hợi, nhằm thời đại Tuyên Thống Hoàng
Đế[2], đại khái là năm Tuyên Thống
thứ ba (1911), cách cuộc khởi nghĩa Vũ
Xương nhằm ngày mồng Mười tháng
Mười năm Tân Hợi (1911) độ nửa năm,
nhằm đúng năm Tuyên Thống thứ ba. Quê cụ có
một vị Cử Nhân, cụ sống ở nông thôn,
cụ là người Ôn Châu, tỉnh Chiết Giang. Tại
quê nhà, có một vị Cử Nhân là con một, sau khi thi
đỗ, hoàn cảnh gia đình cũng đủ
sống, thuộc loại nhà có của ăn của để
đôi chút, nên người ấy chẳng ra làm quan,
sống với cha mẹ, vô cùng hiếu thuận.
Có
một hôm, vào giữa trưa, trong khi nghỉ trưa,
người ấy nằm mộng. Cảnh giới trong
giấc mộng ấy hết sức rõ ràng, nói thẳng là
chẳng giống như trong cảnh mộng, mà giống
như cảnh giới trong hiện thực. Ông ta mộng
thấy có người đưa thiếp mời,
cưỡi một thớt ngựa, gõ cửa. Ông ta đang
ngủ trưa, chỉ cảm thấy có người gõ
cửa, bèn tỉnh dậy ra mở cửa. Thật ra, ông
ta vẫn còn trong giấc mộng, nhưng nghĩ mình đã
tỉnh giấc, chồm dậy mở cửa. Mở
cửa bèn thấy người ấy ăn mặc rất
kỳ quái, không giống cách ăn mặc của
người thời ấy, mà ăn vận giống như
cổ nhân, cỡi ngựa, đưa thiếp mời cho
ông ta. Trên thiếp mời đúng là tên ông ta. Người
ấy bèn hỏi: “Ở đây, có người này hay không?”
Ông ta đáp: “Chính là tôi!” Kết quả là người
ấy bèn bảo ông ta: “Đại tướng quân của
chúng tôi mời ông”. Ông ta nghe nói, cảm thấy lạ lùng,
nói: “Tuy tôi đỗ Cử Nhân, trước nay chẳng qua
lại với giới quan trường, rất ít
người quen biết, ông có lầm hay không? Có lẽ là
trùng tên, trùng họ!” Kẻ đó nói: “Địa chỉ
lẫn tên họ không sai, ông đi với tôi là
được rồi”. Lôi phắt ông ta lên ngựa, ông ta cũng
chẳng thể tự chủ, phải đi theo kẻ
đó!
Kết quả là ông ta nhận
thấy thớt ngựa ấy chẳng chạy trên mặt
đất mà giống như bay trong không trung. Chừng
độ nửa giờ đã tới nơi. Thấy
một cung điện rất lớn, rất nhiều
người đang chụm đầu kề tai bàn
luận, dường như đã nẩy sanh một biến
cố trọng đại nào đó, nên họ đang
thảo luận tại đó. Ông ta liền hỏi dò
người khác, rốt cuộc đại tướng
quân tên họ là gì? Kết quả người ta cho biết
đại tướng quân là Nhạc Phi. Ông ta vừa nghe,
liền nói: “Hỏng bét! Chẳng lẽ là ta đã chết
rồi ư?” Nhạc Phi là người đời
Tống. Lúc ấy, ông ta mới tỉnh ngộ, bảo:
“Không được! Nhà ta trên có mẹ già, vợ còn
trẻ quá, con còn bé quá, ta chẳng thể chết
được”.
Một lát sau, gióng trống,
đại tướng quân thăng đường,
liền triệu kiến ông ta. Nhạc Phi đối
với ông rất khách sáo, rất lễ độ, cho ông ta
biết: Họ chuẩn bị chinh phạt miền
Bắc, mời ông ta trông coi văn thư, giống như
là mời ông ta làm Bí Thư vậy, giao cho ông ta một
chức vụ như thế. Ông ta nghe xong cũng cảm
thấy rất áy náy, nhưng cũng cảm thấy
rất vinh dự, có thể thay Nhạc Phi lo việc mà! Ông
ta nói: “Trong nhà còn có mẹ già, vợ, con, chẳng có cách nào,
hiện thời nhất định chẳng thể
đi”. Nhạc Phi liền nói: “Hiện thời cách thời
gian xuất binh hãy còn bốn tháng, ta lập tức đưa
ông trở về. Ông về nhà lo liệu hậu sự,
đến hạn kỳ ước định vào bốn
tháng sau, ta sẽ sai người đến đón ông”. Ông
ta nghĩ thầm: “Chuyện này rất khó có! Có thể theo
chân vị anh hùng dân tộc cũng rất vinh dự”. Vì
thế, ông ta đồng ý, bèn được đưa về.
Sau khi trở về, tỉnh giấc, kể lại
chuyện ấy với cha mẹ. Cha mẹ ông ta nói:
“Chuyện chiêm bao! Suy nghĩ lung tung, há có thật!” Ông ta
cảm thấy chẳng giả, vì ông ta thấy cảnh
giới quá chân thật, ghi nhớ quá rõ ràng. Do vậy,
liền nghiêm túc lo liệu hậu sự.
Tới ngày ước
định, ông ta phải ra đi, bèn báo tin cho thân thích,
bằng hữu, mời khách đến nhà, giã biệt
mọi người để ra đi. Ông ta sống ở
đó, cách thôn trang của cư sĩ Châu Kính Trụ
chỉ có mười mấy dặm đường.
Họ nghe chuyện này, một người đang sống
sờ sờ, tuổi trẻ măng lại chẳng có
bệnh tật gì. Vì thế, mọi người
đều đến xem náo nhiệt, xem rốt cuộc ông
ta chết kiểu nào? Châu lão cư sĩ cũng đến
xem tình hình ấy. Trong nhà ông ta cũng bày tiệc
rượu mời thân thích, bằng hữu. Cơm nước
xong xuôi, ông ta thấy thời thần sắp đến,
bèn tắm rửa, thay y phục, ở trong phòng.
Đương nhiên, bạn bè chí thân cũng đều
ở trong phòng trò chuyện với ông ta. Rốt cuộc
chuyện này là thật hay giả? Há lẽ nào đáng tin? Có
thể chẳng phải là sự thật! Chẳng mấy
chốc, ông ta thưa với cha: “Người đến
đón con đã tới rồi, đang ở ngoài cửa,
con trông thấy người ấy”. Bố ông ta nổi cáu:
“Tao chỉ có một thằng con này, chắc chắn
chẳng để cho nó ra đi!” Người con khuyên
bố: “Chớ nên chống đối! Chẳng chống
lại được. Đó gọi là rượu mời chẳng
uống, lại uống rượu phạt. Vẫn là cái
được chẳng bù nổi cái mất”. Ông ta vừa
khuyên giải, người cha cũng cảm thấy người
dẫu sống một trăm tuổi cuối cùng cũng
phải chết. Sau khi chết, nếu biết rõ ràng, rành
mạch sẽ đi về đâu thì cũng là chuyện
rất khó có! Bố ông ta chẳng còn có cách nào khác, liền
thốt một tiếng: “Được!” Ông ta liền
tắt thở, chết ngay!
Đích thân lão cư sĩ Châu
Kính Trụ thấy chuyện này, đó là gì? Đến
quỷ đạo. Như vậy là cho đến hiện
thời Nhạc Phi vẫn còn ở trong quỷ đạo,
làm quỷ vương! Vì sao Ngài chẳng thể sanh thiên?
Đại khái là do cái tâm báo cừu rửa nhục quá
nặng, nên chẳng thể sanh thiên. Cụ kể cho tôi
nghe chuyện này, bảo: “Thế gian động loạn,
quỷ thần loạn trước”. Người Kim là
tổ tiên người Mãn Thanh[3]. Lúc cách mạng Tân Hợi lật
đổ Mãn Thanh, trước đó nửa năm, quỷ
thần đã lật đổ quỷ Mãn Thanh. Sau
đấy, chúng ta mới có thể lật đổ
họ. Cụ giảng rõ một đạo lý: “Thế gian
này động loạn, quỷ thần loạn
trước!” Nếu quỷ thần chẳng loạn,
thế gian này sẽ thái bình, nhất định là quỷ
thần loạn trước. Theo cụ, những chuyện
quái lạ như vậy rất nhiều, muốn kể,
cũng kể chẳng hết, hết sức thú vị,
đều là sự thật.
Bản thân cụ tin Phật,
cụ học Tài Chánh, trong thời Kháng Chiến làm cục
trưởng thuế vụ hai tỉnh Tứ Xuyên và Tây
Khang. Sau khi thắng lợi, cụ làm tài chánh sảnh
trưởng (giám đốc sở tài chánh) tỉnh
Chiết Giang; về sau, theo chánh phủ đến nơi
đây (Đài Loan). Đối với những chuyện
quỷ thần, tuy thấy rõ ràng như thế, cụ
vẫn chẳng tin Phật. Cụ tin tưởng quỷ
thần là thật, chẳng giả, chính cụ đã
thấy quá nhiều. Cụ kể nhân duyên học Phật
là do tự mình thấy quỷ, lúc ấy mới phát tâm
học Phật. Cụ nói hồi ở Trùng Khánh, tỉnh
Tứ Xuyên, buổi tối cùng mấy người bạn
họp nhau đánh mạt chược, chơi rất khuya.
Tới tận khuya mới về nhà. Đêm khuya, trên
đường cũng chẳng có ai, trên đường
tuy có đèn đường, nhưng đèn
đường có khoảng cách rất xa. Hơn nữa,
bóng đèn có độ sáng là hai mươi watts,
dường như có, dường như không. Cụ
thấy trên đường ở phía trước có
một phụ nữ, cũng chẳng chú ý. Phía
trước có người ấy, cụ cứ đi theo
sau. Đi gần độ nửa tiếng, cụ bỗng
nhiên nghĩ: “Đêm khuya lơ khuya lắc như thế
này, cớ sao lại có một phụ nữ một mình ra
khỏi cửa?” Cụ vừa nghĩ, bèn rởn da gà, thân
tuôn mồ hôi lạnh. Nhìn kỹ, người phụ
nữ đằng trước chỉ có nửa thân trên,
chẳng có nửa người dưới, sợ gần
chết! Chẳng mấy chốc, không thấy người
ấy đâu nữa! Sau khi bị một mẻ hoảng
hốt, cụ mới về nhà, xem kinh Phật, niệm
Phật, học Phật. Cụ nói: “Đó có thể là Quán
Âm Bồ Tát biến hiện. Nếu chẳng phải là
tự mình gặp phải, ta vẫn chưa thể tiến
vào Phật môn”. Cụ kể nhân duyên cụ học Phật
như vậy, thật sự gặp gỡ. Nhân duyên
học Phật của mỗi cá nhân khác nhau.
Vì thế, các thứ thụy tướng
đều chẳng thể chứng tỏ [người
đã mất] vãng sanh, ắt phải thấy Tây
Phương Tam Thánh đến tiếp dẫn. Do vậy,
chúng ta niệm Phật tâm phải khẩn thiết,
phải chân thành thì mới có thể có cảm ứng.
“Nhất đại thiên giả, tam thiên
đại thiên thế giới” (một đại thiên là một tam thiên đại
thiên thế giới). Tam thiên đại thiên thế
giới, trên thực tế là nói tới một đại
thiên thế giới. Một đại thiên, vì sao gọi là
tam thiên? Tam thiên là nói tới kết cấu, thành phần
của nó. Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ nói: “Một hệ Ngân Hà là một
đơn vị thế giới trong kinh Phật”.
Một ngàn đơn vị thế giới gọi là
một tiểu thiên thế giới. Do vậy cũng
biết: Một tiểu thiên thế giới do một ngàn
hệ Ngân Hà hợp thành, rồi lại lấy một
tiểu thiên thế giới làm đơn vị, một
ngàn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế
giới. Lại lấy trung thiên thế giới làm
đơn vị, một ngàn trung thiên thế giới là
một đại thiên thế giới. Phật pháp nói
một đại thiên thế giới thì hình thức
cấu thành của nó gồm có tiểu thiên, trung thiên,
đại thiên, do vậy gọi là tam thiên đại thiên
thế giới. Trên thực tế, tam thiên đại thiên
thế giới là một thế giới, là khu vực giáo hóa của một vị Phật,
gồm mười ức hệ Ngân Hà, có phạm vi lớn
ngần ấy! Đó là khu vực giáo hóa của một
vị Phật, to dường ấy! Có những kẻ
chẳng nghiên cứu Phật pháp, nhìn vào văn tự
đoán xằng ý nghĩa, cho rằng Phật pháp nói chỉ có ba ngàn thế giới, sai
lầm rồi! “Chí hạ
lục phương trung biện” nghĩa là rốt cuộc tới phần sau, trong đoạn kinh văn nói về sáu phương Phật sẽ giảng tỉ mỉ!
(Sao) Thập vạn ức
giả, tùng thử quá Tây chi trình, dĩ ức kế chi,
đương hữu thập vạn. Vị quá nhất
Phật độ, thập Phật độ, nãi chí ức
Phật độ. Hựu tùng nhất ức Phật
độ, thập ức Phật độ, nãi chí thập
vạn ức Phật độ, cố viết viễn chi
viễn dã.
(鈔) 十 萬 億 者,從
此 過 西 之 程,以 億 計 之,當
有 十 萬。謂 過 一 佛 土,十
佛 土,乃 至 億 佛 土。又
從 一 億 佛 土,十 億 佛 土,乃
至 十 萬 億 佛 土,故 曰 遠
之 遠 也。
(Sao: “Mười vạn
ức”: Từ đây đi về phương Tây, dùng con
số ức để tính, sẽ có mười vạn.
Nghĩa là qua khỏi một cõi Phật, mười cõi
Phật, cho đến một ức cõi Phật, lại
từ một ức cõi Phật, mười ức cõi Phật,
cho đến mười vạn ức cõi Phật, cho nên
nói là đã xa xôi lại càng xa xôi hơn).
Tây Phương Cực Lạc
thế giới tuy thuộc tầng thứ mười ba
trong thế giới Hoa Tạng, diện tích của tầng
ấy lớn bao nhiêu? Thực tại là chẳng thể
nghĩ bàn. Từ phía Tây của thế giới Sa Bà chúng ta
đang sống đây, trải qua một Phật
độ là mười ức hệ Ngân Hà, mười
Phật độ cho đến một ức Phật
độ, mười ức Phật độ, trăm
ức Phật độ, mãi cho đến mười
vạn ức Phật độ, vẫn nằm trong
tầng này. Quý vị nghĩ xem thế giới Hoa Tạng
lớn cỡ nào? Quá ư là lớn, chẳng thể
nghĩ bàn! “Cố viết
viễn chi viễn dã” (cho nên nói đã xa lại càng xa).
(Sao) Nhiên Ức hữu tứ
chủng: Thập vạn, bách vạn, thiên vạn, vạn
vạn.
(鈔) 然 億 有 四
種:十 萬、百 萬、千 萬、萬
萬。
(Sao: Nhưng Ức có bốn
loại: Mười vạn, trăm vạn, ngàn vạn,
vạn vạn).
Người Ấn Độ
nói Ức có quan niệm khác với Trung Quốc. Ức
[trong cách nói của người Ấn Độ] có bốn
loại: Mười vạn là một Ức, đó là số
nhỏ, trăm vạn cũng gọi là Ức, một ngàn
vạn cũng gọi là Ức, một vạn vạn
cũng gọi là Ức. Theo con số tính toán của người
Hoa, một vạn vạn mới là Ức.
(Sao) Kim chi sở chỉ, vị
khả tri dã.
(鈔) 今 之 所 指,未
可 知 也。
(Sao: Nay kinh này nói đến
loại Ức nào, cũng chưa thể biết
được!)
Con số Ức nói trong kinh
Phật, rốt cuộc là nói đến con số nào?
Một Ức là mười vạn, hay trăm vạn, ngàn
vạn, hay vạn vạn? Kinh trọn chẳng nói rõ ràng.
Nói cách khác, tối thiểu, mười vạn gọi là
một Ức. Mười lần mười vạn thì
khoảng cách ít nhất cũng là một trăm vạn cõi
Phật, vì nó là mười ức. Nói thật ra,
đối với chuyện này, chúng ta chỉ hiểu là
một khoảng cách khá xa xôi, rốt cuộc xa bao nhiêu,
chúng ta không cần so đo.
Nói thật ra, vãng sanh, tốc
độ vô cùng nhanh chóng! Trong quá khứ nói tốc
độ ánh sáng lớn nhất, những phát hiện
gần đây cho thấy quả thật có những thứ
vượt trỗi tốc độ ánh sáng, vượt
gấp mấy lần! Trong kinh Phật có nói tới Trung
Ấm của con người, tục ngữ gọi là “linh
hồn”, kinh Phật gọi là “thần thức”, tốc
độ vô cùng lớn. Trong phần Hệ Từ
Truyện của kinh Dịch, Khổng Tử đã nói: “Du hồn vi biến, tinh khí vi
vật”, hai câu này vô cùng phù hợp nguyên lý và nguyên tắc
trong Phật pháp. Hồn chẳng linh! Nói “du hồn” rất chánh xác, vì sao? Tốc độ
của nó quá lớn, tột bậc chẳng ổn
định, đi lung tung khắp nơi. Nếu nó có
thể định, tức là người có công phu tu hành
rất cao, mới không đến nỗi đi lung tung
khắp nơi. Thần thức của người bình phàm
luôn đi lung tung bên ngoài, tốc độ lại còn
lớn vô cùng. Vì thế, trong một khảy ngón tay
đến ngay Tây Phương Cực Lạc thế
giới; chẳng cần đến một giây đã
đến nơi, tốc độ ánh sáng há có thể nào
sánh bằng! Do vậy, khoảng cách dẫu xa tới
mấy, chỉ trong khảy ngón tay bèn tới ngay, có năng
lực to như vậy.
(Sao) Đàn
Kinh thập vạn bát thiên giả.
(鈔) 壇 經 十 萬 八 千 者。
(Sao: Cõi
nước cách xa mười vạn tám ngàn dặm trong
Đàn Kinh).
Đây là một cách nói sai
lầm!
(Sao) Ngoa chỉ kim Tây Vực dã,
diệc tường biện hạ lục phương
trung.
(鈔) 訛 指 今 西
域 也,亦 詳 辨 下 六 方 中。
(Sao: Lầm chỉ xứ Tây
Vực hiện thời, [chuyện này] cũng
được biện định tường tận
trong phần Sáu Phương ở phần sau).
Lục Tổ nói tới [cõi cách
xa] “mười vạn tám ngàn” [dặm] trong Đàn Kinh chính
là nói về Ấn Độ thuở đó. Khi ấy,
[cổ nhân cảm thấy] Ấn Độ cách Trung
Quốc rất xa, thuở đó, giao thông chưa phát
triển. Nói “mười vạn tám ngàn dặm” để
hình dung sự xa xôi, chẳng phải là nói tới Tây
Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà
Phật Tịnh Độ. Đoạn này cũng
được Liên Trì đại sư giảng rõ tỉ
mỉ trong đoạn Sớ Sao của phần Sáu
Phương Phật.
(Sao) Ngôn vị vi viễn giả,
tự hữu nhị nghĩa.
(鈔) 言 未 為 遠
者,自 有 二 義。
(Sao: Nói “chưa phải là xa”
có hai ý nghĩa).
Tuy nói Sa Bà và Cực Lạc cách
xa mười vạn ức cõi Phật, nói thật ra,
trọn chẳng thể tính là xa xôi. Ở đây có hai ý
nghĩa.
(Sao) Nhất giả, cứ
Sự.
(鈔) 一 者 據 事。
(Sao: Một là xét theo Sự).
Nói theo mặt Sự.
(Sao) Pháp Hoa minh Đông
phương thế giới chi đa, nhi dĩ mạt
thổ điểm trần kế chi.
(鈔) 法 華 明 東
方 世 界 之 多,而 以 抹 土
點 塵 計 之。
(Sao: Kinh Pháp Hoa nhằm nói rõ
các thế giới ở phương Đông rất
nhiều, bèn dùng các hạt bụi nhỏ do đất
bị mài nát ra để tính toán).
Thật là xa. “Thổ” là bùn đất, đem bùn đất
[trong cả một đơn vị thế giới] mài nát
như bột, mài thật mịn, cứ mỗi hạt
như vậy, [tức là] đối với mỗi hạt
bụi như vậy, ở đây, khi tính toán bèn dùng
một hạt ấy, kinh Pháp Hoa nói: Coi mỗi hạt là
một sát độ (cõi nước), tức một cõi
Phật. Tây Phương Cực Lạc thế giới cách
chúng ta chỉ có mười vạn ức cõi Phật, chúng
ta vẫn có thể tính ra, kinh Pháp Hoa nói “các thế giới phương Đông rất
nhiều”, lấy địa cầu mài thành bột,
mỗi hạt bụi tính là một cõi Phật, quý vị
nói xem là bao nhiêu? Nếu đem so với con số ấy,
mười vạn ức quá ít! Nhìn từ tỷ lệ này,
sẽ là khoảng cách rất gần, chẳng thể tính
là xa!
(Sao) Tắc thập vạn
ức giả, đặc chí thiểu nhĩ.
(鈔) 則 十 萬 億
者,特 至 少 耳。
(Sao: Vậy thì mười
vạn ức lại đặc biệt là ít nhất!)
Quá ư là ít, kinh Hoa Nghiêm nói:
(Sao) Hoa Nghiêm nhất thế giới
chủng.
(鈔) 華 嚴 一 世
界 種。
(Sao: Một thế giới
chủng trong Hoa Nghiêm).
“Nhất
thế giới chủng” là nói đến thế
giới Hoa Tạng.
(Sao) Sa Bà chi ngoại, vi nhiễu
thập tam sát trần thế giới, kim Cực Lạc
chỉ quá thập vạn ức độ, hà túc vi
viễn.
(鈔) 娑
婆 之 外,圍 繞 十 三 剎 塵
世 界,今 極 樂 止 過 十 萬
億 土,何 足 為 遠。
(Sao: Bên ngoài Sa Bà có mười
ba sát trần[4] thế
giới vây quanh, nay Cực Lạc chỉ cách [Sa Bà] mười
vạn ức cõi, nào đáng gọi là xa?)
Nói theo phẩm Thế Giới
[Thành Tựu] trong kinh Hoa Nghiêm, một thế giới chủng
có tất cả hai mươi tầng, thế giới Sa Bà
thuộc tầng thứ mười ba, thế giới
Cực Lạc cũng thuộc tầng thứ mười
ba, tính ra chẳng xa! Trong vũ trụ, những thế giới
chủng giống như vậy nhiều vô lượng vô
biên, đấy mới là xa thật sự. Thứ hai, nói
theo Lý.
(Sao) Nhị giả cứ Lý,
tắc sở vị thập vạn ức giả,
đối phàm phu sanh tử tâm lượng ngôn nhĩ.
(鈔) 二 者 據 理,則
所 謂 十 萬 億 者,對 凡 夫
生 死 心 量 言 耳。
(Sao: Hai là xét theo Lý, nói
“mười vạn ức” là nói ứng theo tâm lượng
sanh tử của phàm phu).
Vì sao? Phàm phu có phân biệt, có
chấp trước, nên rõ ràng là có khoảng cách xa xôi
như thế.
(Sao) Tịnh nghiệp
nhược thành, lâm chung tại Định chi tâm, tức
Tịnh Độ thọ sanh chi tâm dã.
(鈔) 淨 業 若 成,臨
終 在 定 之 心,即 淨 土 受
生 之 心 也。
(Sao: Nếu Tịnh nghiệp
thành tựu, cái tâm Định trong lúc lâm chung chính là cái tâm
sanh vào Tịnh Độ vậy).
“Lâm chung tại Định chi tâm” là cách nói trong tông Thiên Thai, [lời
ấy do] Trí Giả đại sư nói. Trí Giả
đại sư là tổ sư tông Thiên Thai, thành lập
giáo nghĩa Tam Chỉ Tam Quán. Thuở ấy, nhiều
vị cao tăng Ấn Độ đến Trung Quốc,
thấy Ngài nói cách ấy đều vô cùng khâm phục.
Đó chính là kiến địa của Ngài, do chính Ngài phát
hiện. Các vị cao tăng Ấn Độ thuở
ấy nghe Ngài nói như vậy đã nghĩ tới kinh
Lăng Nghiêm, bảo Trí Giả đại sư: “Quan
niệm, ý nghĩ, cách nói của Ngài hết sức gần
gũi những điều được giảng trong
hội Lăng Nghiêm”. Do vậy, người Hoa mới
biết Ấn Độ còn có một bộ pháp bảo là
Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh.
Người Ấn Độ tiếc pháp, mọi
người trên thế giới đến Ấn
Độ du học, cầu Phật pháp, nhưng
người Ấn Độ giấu kinh Lăng Nghiêm
đi, không cho người khác xem. Vì thế, người
ngoại quốc chẳng biết trong các kinh nhà Phật có
kinh Lăng Nghiêm. Thuở ấy, họ lỡ miệng
tiết lộ có kinh Lăng Nghiêm. Quý vị nghĩ xem, trong
quá khứ, cao tăng đến Trung Quốc chẳng
đem kinh này theo, vì sao? Hải quan của họ kiểm soát
rất nghiêm, kinh này không được phép đem ra
khỏi cửa ải, nó là vật bị cấm! Pháp sư
Trung Quốc đến Ấn Độ chẳng thấy
[kinh Lăng Nghiêm], họ (người Ấn Độ)
đã cất giấu rồi không cho quý vị thấy.
Quốc bảo của họ mà! Không chịu dễ dãi
truyền cho người khác!
Tới khi ấy mới
biết, sau khi đã biết, do Trung Quốc cách Ấn
Độ xa xôi như thế, đi đường bộ
phải một hai năm mới có thể đến nơi,
chẳng phải là chuyện dễ dàng. Qua đó, chưa
chắc người ta đã cho quý vị xem. Vì thế, lão
nhân gia bèn dựng một đài bái kinh tại núi Thiên Thai,
mỗi ngày hướng về phía Ấn Độ lễ
bái, cầu cho bộ kinh này sớm có ngày truyền
đến Trung Quốc. Trí Giả đại sư lạy
suốt mười tám năm, đã viên tịch, kinh
vẫn chưa truyền đến Trung Quốc. Tinh
thần bất phàm như vậy, lạy suốt
mười tám năm. Về sau, pháp sư Bát Lạt
Mật Đế lén lút đem bộ kinh ấy vào Trung
Quốc, Ngài chịu khổ nạn rất lớn. Thuở
đầu, lén mang vài lần đều là bị hải
quan xét thấy. Khi bị xét thấy, cũng phải
chịu phạt, nhưng dẫu sao Sư là người xuất
gia, xử tội nhẹ một chút!
Lần đem cuối cùng,
chẳng biết Sư dùng thứ gì để sao chép bộ
kinh ấy. Sao chép trên một tấm vật liệu rất
mỏng, hình như chẳng phải là giấy, mà là da dê hay
là chất gì không biết, [chỉ biết] là một
thứ rất mỏng để sao. Sao xong, Ngài cuộn
lại, mổ cánh tay mình, giấu kinh vào đó, để
cho vết thương liền lại. Làm như vậy
để sang Trung Quốc, hải quan chẳng xét ra, Ngài
giấu trong thịt mà! Ngài theo đường biển
đến Quảng Châu. Sau khi đến Quảng Châu,
mổ cánh tay lấy kinh ra, chẳng biết dùng chất
thuốc gì để tẩy rửa, vẫn rất
tốt, kinh văn vẫn hiện ra rõ ràng. Vì thế, kinh
được dịch tại Quảng Châu. Sau khi dịch
thành công, do kinh này bị đưa ra khỏi nước,
đem đến Trung Quốc, chính Ngài lại trở
về tiếp nhận quốc gia xử phạt, Ngài
phải chịu trách nhiệm; đem quốc bảo là
vật phẩm nghiêm cấm truyền sang Trung Quốc,
trở về tiếp nhận pháp luật của quốc
gia xét xử. Trí Giả đại sư lạy kinh này
suốt mười tám năm có cảm ứng. Do lẽ
đó, kinh Lăng Nghiêm truyền đến Trung Quốc là
chuyện khó khăn nhất.
Bản thân Thiên Thai Trí Giả
đại sư chuyên tu Tịnh Độ, Ngài cầu sanh
Tịnh Độ. Ngài chọn phương pháp tu Tịnh
Độ theo Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh, dùng
Quán Tưởng Niệm Phật, vì Ngài có chú giải kinh Quán
Vô Lượng Thọ Phật. Tác phẩm Quán Vô
Lượng Thọ Phật Kinh Sớ Sao còn gọi là
Diệu Tông Sao, lời Sớ do chính ngài Trí Giả viết,
lời Sao do đồ đệ của Ngài là tôn giả
Tứ Minh soạn. Mãi cho đến hiện thời,
bộ Sớ Sao này vẫn là tác phẩm chú giải Quán Vô
Lượng Thọ Phật Kinh có uy tín nhất. Ngài sử
dụng Quán Tưởng Niệm Phật thành công. Khi Ngài
vãng sanh, các đệ tử hỏi Ngài: “Lão nhân gia vãng sanh,
rốt cuộc phẩm vị cao đến đâu?” Ngài
đáp: “Nếu ta không lãnh chúng, sẽ là Thượng
Phẩm vãng sanh”. Vì Ngài lãnh chúng, lãnh chúng là làm Trụ Trì
tự miếu, Ngài phải quản sự, do quản
sự nên phân tâm, phải suy nghĩ. Vì thế, Ngài bảo
mọi người Ngài chỉ là ngũ phẩm vị vãng
sanh.
Ngũ phẩm vị là gì? Là
đới nghiệp vãng sanh, sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng
Cư. Địa vị ấy chẳng cao, đó là bỏ
mình vì người, hy sinh phẩm vị của chính mình
để thành tựu đại chúng, ban cho bọn người
đời sau như chúng ta một khải thị rất
lớn. Bỏ mình vì người, chính mình phải quyết
định có thể vãng sanh thì mới được!
Nếu bỏ mình vì người, được lắm,
nhưng tương lai chính mình vẫn luân hồi trong
lục đạo, vẫn là ba ác đạo, như vậy
là trật mất rồi! Ngài bỏ mình vì người, còn
có thể vãng sanh cõi Phàm Thánh Đồng Cư, có thể
đảm bảo điều này. Có năng lực như
vậy thì mới có thể bỏ mình vì người.
Chưa có năng lực như vậy thì vẫn phải
ngoan ngoãn, thật thà niệm Phật. Quý vị mới
biết những vị Trụ Trì, Đương Gia,
chức sự trong các tự viện, tùng lâm xưa kia
đều là Bồ Tát tái lai. Phàm phu làm những chuyện
tạp nhạp ấy, làm sao có thể vãng sanh cho
được? Kẻ ấy tu gì đều chẳng tu
thành công! Kẻ ấy tu Thiền chẳng thể
đắc Định, nghiên cứu Giáo chẳng thể
khai ngộ, niệm Phật chẳng thể vãng sanh,
nhất định là như thế! Những vị
thường trụ chấp sự thay đại chúng
phục vụ, bỏ mình vì người, là Bồ Tát tái
lai, chẳng phải là phàm phu. Bản thân chúng ta hãy suy
nghĩ, chúng ta là phàm phu, chẳng phải là thánh nhân,
chẳng dám làm những chuyện ấy, thật sự
chẳng dám!
Ấn Quang đại sư là
Bồ Tát tái lai, đã nêu gương cho bọn chúng ta trong
thời cận đại. Điều thứ nhất là
Ngài không làm Trụ Trì. Thứ hai là Ngài không xây dựng
tự miếu, suốt đời chẳng dựng một
ngôi chùa nào, cũng chẳng tu bổ ngôi chùa nào. Ngài
chẳng làm Trụ Trì, chẳng làm Đương Gia,
chẳng làm Chấp Sự. Thứ ba là Ngài không thâu nhận
đồ đệ xuất gia. Thứ tư là không
truyền giới, không làm thầy truyền giới. Nêu
gương cho chúng ta, thật thà niệm Phật, như
vậy thì chúng ta mới có thể có tương lai, mới
có thể vãng sanh. Đích xác là chẳng thể dính dáng
những sự vụ ấy được, nhưng
người hiện thời liều mạng tranh giành,
lầm lẫn quá đỗi! Giành được rồi,
nếu quý vị làm chẳng tốt đẹp, sẽ
vướng tội nghiệp suốt đời. Quý vị
làm tốt đẹp, đó là bổn phận của quý
vị, quý vị phải làm cho tốt! Làm chẳng tốt,
quý vị mắc tội. Làm tốt đẹp thì là bổn
phận, là chuyện nên làm, cũng chẳng thể cậy
công được, chẳng có công lao gì để khoe
khoang! Vì thế, đảm nhiệm chấp sự xác thực là phục vụ
đại chúng, nhất định phải hiểu rõ nhân
quả. Vì thế, tổ Ấn Quang nêu gương tốt
nhất cho chúng ta, chúng ta phải nên học theo Ngài!
Thiên Thai Trí
Giả đại sư nói, “lâm
chung tại Định chi tâm, tức Tịnh Độ
thọ sanh chi tâm dã” (lúc
lâm chung, tâm định thì tâm ấy chính là tâm sanh về
Tịnh Độ), hai câu này rất trọng yếu. Ngài là
bậc tái lai, vãng sanh Tịnh Độ, trong Tịnh
Độ Thánh Hiền Lục có chép truyện Ngài, trong Vãng
Sanh Truyện cũng có. Lâm chung tâm định là công phu
phải được bồi dưỡng trong lúc bình
thường. Bình thường tâm chúng ta không định
thì lúc lâm chung làm sao định nổi? Lại thưa cùng
quý vị, bình thường định dễ dàng, lâm chung
khó định, vì sao? Sanh ly tử biệt, quý vị có
thể không động tâm hay chăng? Quý vị có thể
thật sự chẳng có mảy may vướng mắc nào
ư? Ắt phải thật sự chẳng động
tâm, thật sự chẳng có vướng mắc, tâm
mới định được!
Khi ấy, “cử niệm”, cử niệm là niệm A Di
Đà Phật, bèn là lúc vãng sanh Tịnh Độ. Do
vậy, ta có thể biết: “Tịnh
Độ thọ sanh, bất ly thử tâm” (Thọ sanh
Tịnh Độ chẳng lìa tâm này). Tâm chẳng có [so
đo] đây kia, há còn có từ Sa Bà đến Cực
Lạc! Đấy là nói theo Lý. Tổ sư Tịnh
Độ Tông có một quyển sách nhỏ mang tựa
đề Tịnh Độ Sanh Vô Sanh Luận, cổ nhân
nói: “Sanh tắc quyết
định sanh, khứ tắc thật bất khứ”
(sanh bèn quyết định sanh, đi thì thật sự
chẳng đi), [đó là] nói theo Lý! Sanh Vô Sanh Luận
hết sức hay, nhất là bản chú giải của
cư sĩ Quý Thánh Nhất, chú giải rất tỉ
mỉ. Cổ đức có chú giải nhưng lời chú
quá sâu, chúng ta chẳng dễ gì thấy rõ ràng. Cư sĩ
Quý Thánh Nhất chú giải rất rõ ràng, rất dễ
hiểu, Ấn Quang đại sư cũng rất tán thán,
lại còn viết lời tựa [cho sách ấy]. Chúng tôi
đem bộ sách ấy từ Hương Cảng về
tái bản, hết sức có giá trị. Vì thế, các
đồng tu thật sự muốn nghiên cứu Tịnh
Độ, chúng ta phải đổ công nghiên cứu
những kinh luận trọng yếu ấy. Luận ấy
chuyên giảng về việc vãng sanh Tịnh Độ, dù
Sự hay Lý đều phải hiểu rõ ràng!
Cổ nhân cũng có nói tỷ
dụ, vì những kẻ bình phàm nhờ vào tỷ dụ
sẽ dễ hiểu. Giống như một người
nằm mộng, trong mộng chúng ta từ nơi này
đến nơi khác, khoảng cách rất xa! Thật ra,
mộng do tâm biến, chẳng rời khỏi cái tâm này! Sau
khi quý vị tỉnh giấc, [những cảnh giới
trong mộng] thảy đều do tâm biến hiện, há có
xa gần? Hiện thời khoa học phát triển, tiến
bộ hơn xưa. Chúng ta xem TV, trên màn hình chiếu
cảnh Đài Bắc, cảnh tiếp theo là Âu Châu, chưa
đầy mấy giây chúng ta thấy toàn bộ thế
giới. Tuy thấy khắp toàn bộ thế giới,
chẳng rời khỏi màn hình, chẳng đến,
chẳng đi! Nói theo Lý, xác thực là như thế.
Y báo và chánh báo trang nghiêm trong
mười pháp giới “duy tâm
sở hiện, duy thức sở biến”, dẫu hư
không to đến mấy, giống như kinh Hoa Nghiêm đã
nói, vô lượng vô biên thế giới chủng trong vũ
trụ đều chẳng rời khỏi tự tánh của
chúng ta, toàn là do tự tánh biến, toàn là do tự tánh hiện.
Vì thế, trong một khảy ngón tay đều có thể
đạt đến, trong một niệm bèn đạt
ngay tới. Nói theo Lý, chẳng có xa hay gần, chẳng có
cách ngăn, trở ngại.
(Sao) Hựu vị phân minh tại
mục tiền thị dã, diệc hà thường viễn!
(鈔) 又 謂 分 明
在 目 前 是 也,亦 何 嘗 遠。
(Sao: Lại nói “phân minh ở
ngay trước mắt” là nhằm nói về ý này, cũng có
bao giờ xa!)
Đây là nói theo Lý, giống
như Sơ Tổ Viễn Công đại sư, thuở
sanh tiền, Ngài niệm Phật, ba lần thấy Tây
Phương Cực Lạc thế giới, giống như
ở ngay trước mặt, hiển hiện ngay
trước mặt, có thể thấy là [Cực Lạc]
chẳng xa! Tâm đã thanh tịnh, [Cực Lạc] bèn ở
ngay trước mắt. Nếu tâm chẳng thanh tịnh bèn
xa tít tắp. Thật ra, trong Đàn Kinh,
Lục Tổ đại sư nói “mười vạn tám ngàn”, nhằm nói đến
ý nghĩa này, Ngài nói tâm xa hay gần. Ngài nói mười
vạn là so với điều gì? “Mười vạn” là Thập Ác, “tám ngàn” là Bát Tà (tương phản của
Bát Chánh Đạo). So chúng với những thứ ấy,
rất có lý! Trong tâm chúng ta rời khỏi Thập Ác,
giống như mười vạn liền chẳng có,
rời khỏi Bát Tà, tám ngàn cũng chẳng có, cảnh
giới ấy ở ngay trước mặt. Vì thế, xét
theo dụng ý của Ngài, Lục Tổ cũng chẳng nói
sai, mà nói cũng rất có lý, chủ yếu dạy chúng ta trong
tâm phải rời khỏi mười ác, tám tà, Tây
Phương Tịnh Độ ở ngay trước
mắt. Nếu mười ác, tám tà trong tâm quý vị không
trừ, thật sự chẳng phải chỉ là
mười vạn tám ngàn!
(Sao) Thời vị quá, hiện,
vị lai, Xứ vị tứ duy, thượng, hạ.
(鈔) 時 謂 過 現
未 來,處 謂 四 維 上 下。
(Sao: Thời là quá khứ,
hiện tại, tương lai; Xứ là bốn
phương, trên, dưới).
“Thời”
là nói đến thời gian, có quá khứ, hiện tại,
tương lai. “Xứ sở”
là nói đến bốn phương, trên, dưới.
(Sao) Đơn thời,
đơn xứ, thế giới bất thành. Hợp
thời dữ xứ, danh thế giới dã.
(鈔) 單 時 單 處,世
界 不 成,合 時 與 處,名
世 界 也。
(Sao: Chỉ có Thời hay
chỉ có Xứ, thế giới chẳng thành. Hợp
Thời và Xứ lại, sẽ gọi là Thế Giới).
Đây là giải thích thế
giới, “Thế” là thời
gian, ba mươi năm gọi là một Thế (một
thế hệ). Chữ Thế trong tiếng Hán thuộc
loại Hội Ý, Thế là ba chữ Thập. Ba mươi
năm là một Thế. “Giới”
là giới hạn.
(Sao) Cực Lạc dịch
hữu đa danh.
(鈔) 極 樂 譯 有
多 名。
(Sao: Cực Lạc
được dịch thành nhiều danh xưng).
Thế giới Cực Lạc
dịch [từ tiếng Phạn sang Hán] có rất nhiều
danh xưng.
(Sao) Nhi cực chi vi ngôn, hiển
chí cực chi lạc.
(鈔) 而 極 之 為
言,顯 至 極 之 樂。
(Sao: Nhưng nói là Cực thì
đã chỉ rõ sự vui sướng [trong cõi ấy]
đạt đến tột bậc).
Nhưng trong nhiều danh
xưng được phiên dịch, hai chữ Cực
Lạc được dùng phổ biến nhất, vì sao?
Ở đây, đại sư cho chúng ta biết, ý nghĩa
của hai chữ này có thể bao gồm tất cả
những danh xưng phiên dịch khác. [Cực Lạc] có
nghĩa là vui sướng đến tột bậc!
(Sao) Phi nhân thiên nhất thiết
chư lạc chi tỷ.
(鈔) 非 人 天 一
切 諸 樂 之 比。
(Sao: Hết thảy niềm
vui trong cõi trời, cõi người chẳng thể sánh
bằng).
Mọi thứ vui sướng
trong nhân gian, thiên thượng đều chẳng thể
sánh bằng!
(Sao) Cố đặc tiêu dã.
(鈔) 故 特 標 也。
(Sao: Vì thế, đặc
biệt nêu ra).
Vì thế, trong nhiều danh
từ phiên dịch, đặc biệt dùng chữ Cực
Lạc. Tiếp đó là giải thích bốn cõi.
(Sao) Tứ độ giả,
nhất viết Thường Tịch Quang độ. Kinh
vân: “Tỳ Lô Giá Na biến nhất thiết xứ. Kỳ
Phật trụ xứ, danh Thường Tịch Quang”,
thị cực quả nhân sở cư.
(鈔) 四 土 者,一
曰 常 寂 光 土。經 云:毗
盧 遮 那 遍 一 切 處,其 佛
住 處,名 常 寂 光,是 極
果 人 所 居。
(Sao: Bốn cõi, một là cõi
Thường Tịch Quang. Kinh dạy: “Tỳ Lô Giá Na
trọn khắp hết thảy mọi nơi, trụ
xứ của đức Phật ấy được
gọi là Thường Tịch Quang”, là chỗ ở
của bậc cực quả).
“Cực quả” là Phật. “Thường
Tịch Quang” chính là bản thể của vạn
hữu trong vũ trụ như trong Triết Học đã
nói. Đây là thật sự đạt đến rốt
ráo, đạt đến viên mãn, rốt ráo viên mãn, nên
gọi là “cực quả”, tức
là quả vị tột đỉnh rốt ráo viên mãn trong tu
hành. Kinh dạy, đức Phật có danh hiệu là Tỳ
Lô Giá Na. Kinh Hoa Nghiêm nói đến tam thân Phật: Tỳ Lô
Giá Na là Pháp Thân Phật, Lô Xá Na là Báo Thân Phật, Thích Ca Mâu
Ni Phật là Ứng Thân Phật. Tỳ Lô Giá Na có hai ý
nghĩa, một ý nghĩa đã được nói ở
đây, tức là Biến Nhất Thiết Xứ (trọn
khắp hết thảy các chốn), ý nghĩa kia là Quang Minh
Biến Chiếu (quang minh chiếu trọn khắp). Nói
thật ra, Quang Minh Biến Chiếu và Biến Nhất
Thiết Xứ ý nghĩa vẫn giống nhau. Tận hư
không khắp pháp giới là một Lý Thể, hết
thảy vạn vật, vạn pháp đều chẳng
rời khỏi nó, đều do nó biến hiện.
Giống như chúng ta xem TV, Pháp Thân là gì? Màn hình. Bất
luận quý vị hiển lộ hình tượng gì, bất
luận quý vị biến như thế nào, quý vị
chẳng thể rời khỏi màn hình! Ngay cả thái hư
không (không gian, hư không) cũng chẳng rời khỏi
nó! Đây chính là bản thể của vạn hữu trong
vũ trụ, đúng như nhà Thiền đã nói: “Diện mạo trước khi
được cha mẹ sanh ra”. Kinh thường nói: “Thập phương nhất thiết
Phật, cộng đồng nhất Pháp Thân” (Mười
phương hết thảy Phật, cùng chung một Pháp
Thân). Phật có chung một Pháp Thân, chúng ta và Phật có chung
một Pháp Thân hay không? Đương nhiên! Hết thảy
chúng sanh, cho đến núi, sông, đại địa,
hư không, đều là do nó hiện. Nó là căn bản
thật sự, là bản thể thật sự [của vạn
pháp]. Trong pháp môn Tịnh Độ, nó được
gọi là cõi Thường Tịch Quang, cũng có nghĩa là
Quang Minh Biến Chiếu, khắp hết thảy chúng sanh,
khắp hết thảy quốc độ, khắp hết thảy
thời gian và không gian, mang ý nghĩa này.
Vì sao gọi là Thường
Tịch Quang? Trụ xứ của Phật, trên thực
tế, Pháp Thân Phật chẳng có hình tướng, Pháp Thân
há có tướng? Nếu quý vị nói Pháp Thân có hình dạng
ra sao ư? Tận hư không khắp pháp giới là dáng vẻ
của Pháp Thân, hư không thế giới là dáng vẻ
của Pháp Thân. Nếu quý vị hiểu tận hư không
khắp pháp giới vốn là chính mình, quý vị liền
chứng đắc Pháp Thân. Người chứng
đắc Pháp Thân tâm thanh tịnh, bình đẳng, biết
Tự và Tha là một, chẳng hai! Chúng tôi nêu tỷ dụ,
giống như nằm mộng. Trong mộng vừa giác
ngộ “ta nay đang nằm mộng”, bản thân ta trong
mộng do tâm của chính mình biến hiện, tất cả
mọi người trong mộng cũng do tâm của chính
mình biến hiện. Ngoài mộng chẳng có tâm, ngoài tâm
chẳng có mộng. Toàn thể mộng cảnh là chính mình,
kể cả núi, sông, đại địa, hư không trong
mộng thảy đều là chính mình, mới hoát nhiên
đại ngộ, nguyên lai tận hư không khắp pháp
giới là ta, trừ ta ra, chẳng có ai khác, đó gọi là
“triệt ngộ thanh tịnh Pháp Thân”. Khi ấy, quý vị sẽ
dấy lên Đồng Thể Đại Bi, Vô Duyên
Đại Từ đối với hết thảy chúng
sanh. Tâm quý vị thật sự bình đẳng đối
với hết thảy chúng sanh, vì sao? Nguyên lai đều là
chính mình, trừ chính mình ra, chẳng có ai khác!
Thường Tịch Quang:
Thường là nói tới Pháp Thân, Tịch là nói tới
giải thoát, Quang là nói tới trí huệ. Ba đức
của Niết Bàn là Pháp Thân, Bát Nhã, Giải Thoát. Pháp Thân là
chân thân của chính mình, quyết định chẳng hư
vọng, đó là chứng đắc chân thân của chính
mình. Khẳng định đích xác y báo và chánh báo trang nghiêm
trong mười pháp giới là chính mình, chẳng phải là
ai khác, đó là chứng đắc Pháp Thân. Pháp là hết
thảy các pháp. Hiểu rõ triệt để “hết
thảy các pháp là một mình ta”. Đúng như đang
nằm mộng, đột nhiên giác ngộ “ta đang
nằm mộng”, đến rốt cuộc, mộng là
chuyện gì, hoàn toàn hiểu rõ! Chẳng còn so đo hết
thảy các cảnh giới trong mộng nữa, chẳng có
chấp trước, phân biệt, kiến giải ấy gọi
là “Phật tri, Phật
kiến”, kinh Pháp Hoa gọi điều đó là “nhập Phật tri kiến”.
Đó là Phật tri Phật kiến, tận hư không
khắp pháp giới là một, chẳng hai.
Kiến giải của phàm phu
phân chia Tự và Tha. Kinh Kim Cang nói: “Tướng ta, tướng người,
tướng chúng sanh, tướng thọ giả”, phân
biệt, chấp trước mới có [các tướng
ấy]! Rời khỏi hết thảy phân biệt,
chấp trước, há còn có? Thế giới này vốn là
một. Vì thế, sau khi chứng đắc Pháp Thân,
thế giới này là Nhất Chân pháp giới, vốn là
một, không hai. Một mới là thật, hai là giả, hai
sẽ chẳng chân. Cảnh giới cao nhất của nhà
Thiền là “thức đắc
nhất, vạn sự tất” (biết được
một, muôn sự hoàn thành). “Thức
đắc” là quý vị thật sự nhận biết
Một, giác ngộ “vạn pháp trong toàn thể vũ
trụ vốn là một”, được lắm! Chuyện
gì đều chẳng có nữa, quý vị tu hành đã
đạt đến viên mãn rốt ráo, chẳng còn gì
nữa! Trong Đại Thừa, đã tốt nghiệp
Nhất Thừa Phật pháp! Sở dĩ quý vị
chẳng thể tốt nghiệp là do trong tâm quý vị còn
có hai, còn chưa đạt đến một! Đã
đạt đến Một, tức là đã tốt
nghiệp Phật pháp liễu nghĩa rốt ráo trong
Nhất Thừa! Đấy là cảnh giới cao nhất
trong Phật pháp!
Danh từ này hiển thị Tam
Đức trong Nhất Chân pháp giới chẳng thể
nghĩ bàn. Thứ nhất là Thường, tức Pháp Thân,
quý vị thật sự thấy chân tướng của
vũ trụ và nhân sinh, tức là Thật Tướng.
Triệt ngộ Thật Tướng, đó là Lý, là vĩnh
hằng, cho nên Thường, vĩnh viễn không thay
đổi. Tịch là Giải Thoát, đại tự
tại, như Quán Tự Tại Bồ Tát được
nói trong Tâm Kinh, tự tại! Sự tự tại ấy do
từ Tịch mà đạt được! Tịch là gì?
Trong tâm chẳng sanh một niệm, thanh tịnh, tịch
diệt. Diệt gì? Diệt hết thảy phân biệt,
chấp trước, vọng tưởng, tâm đã
tịch. Đối với năm thứ Nhẫn trong kinh
Nhân Vương, đức Phật chứng đắc
Tịch Diệt Nhẫn, còn cao hơn Vô Sanh Pháp Nhẫn, vì
Vô Sanh Pháp Nhẫn còn có Tự và Tha, vẫn chưa phải
là một. Tịch Diệt là một, là cảnh giới cao
nhất.
Do vậy, bất luận tông
nào hay pháp môn nào trong Phật pháp, vì sao coi trọng Thiền
Định như vậy là do đạo lý này! Thiền
Định tương ứng với Tịch. Quý vị
chẳng dùng đến công phu Định, làm sao
đạt được tâm thanh tịnh? Vì thế,
Phật pháp nhất định phải tu Thiền
Định, nhưng tu Thiền Định cũng
chẳng nhất định là Phật pháp, phải
biết điều này, vì sao? Thiền Định có sâu hay
cạn khác nhau! Thế gian có Tứ Thiền, Bát
Định, đó chẳng phải là Phật pháp. Tiểu
Thừa có Cửu Thứ Đệ Định, chẳng
phải là Phật pháp rốt ráo. Trong Đại Thừa,
cũng có nhiều thứ Định, như đại
định viên mãn rốt ráo được kinh Lăng
Nghiêm gọi là Thủ Lăng Nghiêm Đại Định,
trong kinh Hoa Nghiêm lại đổi thành một danh xưng
khác, tức là Sư Tử Phấn Tấn tam-muội, trong
pháp môn Niệm Phật là Lý nhất tâm bất loạn. Danh
xưng khác nhau, nhưng thật ra là cùng một chuyện. Cùng
một cảnh giới, cùng một chuyện, nhưng các
tông phái gọi bằng các danh từ khác biệt. Vì thế,
chúng ta phải đặc biệt coi trọng tu
Định, người niệm Phật phải
đặc biệt coi trọng tu nhất tâm. Người
hiện thời tu hành chẳng thể thành công, đáng
tiếc! Vì sao chẳng thể thành công? Tâm chẳng
định, chẳng thật thà, đi lung tung mọi
nơi, suy nghĩ nháo nhào!
Ấn Quang đại sư
dạy các đồ đệ của Ngài, hễ ai nghe
lời đều có thành tựu. Nếu chẳng nghe
lời thì đều chẳng thành tựu. Kẻ nghe
lời ít, kẻ chẳng nghe lời đông đảo.
Nghe lời là như thế nào? Ấn Quang đại sư
răn dạy các đồ đệ tại gia quy y: Quý
vị trở về nhà hãy thật thà niệm Phật,
chẳng cần đến chùa, chẳng cần tới tham
gia pháp hội, chuyện gì cũng đều chẳng
cần làm. Ngay cả đến chùa miếu thăm lão nhân
gia, nếu quý vị tới mấy lần, Ngài sẽ
hỏi quý vị: “Ngươi đến làm gì?” “Con
đến gặp sư phụ”. “Ngươi đã gặp
sư phụ rồi, còn có gì hay ho nữa đâu mà xem!”
Chửi quý vị, đuổi về! Kể cả sư
phụ của chính mình cũng chẳng cần gặp
nhiều, hãy về nhà thật thà niệm Phật! Ngắm
tượng Phật nhiều hơn, nghĩ tới
Phật nhiều hơn, nhìn sư phụ chẳng thể
vãng sanh, nhìn tượng Phật có thể vãng sanh. Trong tâm
luôn nghĩ đến thầy sẽ là lục đạo
luân hồi, niệm lục đạo luân hồi. Niệm
A Di Đà Phật, quý vị có thể vãng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới. Đó là một
vị thiện tri thức chân chánh!
Bởi lẽ đó, hễ
nhắc tới Ấn Quang đại sư, chẳng ai
không tôn kính! Ai hoằng dương pháp của Ngài? Không ai
hoằng dương, vì sao? Vì nếu hoằng dương,
đạo tràng chẳng có ai. Ngài chẳng bảo
người khác đến đạo tràng, ngay cả
đạo tràng của Ngài, Ngài cũng chẳng cho phép.
Về sau, Ngài lập Niệm Phật Đường
tại chùa Báo Quốc ở Tô Châu, quý vị đến đó
để làm gì? Đến Niệm Phật
Đường niệm Phật, thật thà niệm
Phật. Quý vị đến niệm Phật, bèn hoan nghênh
quý vị tới, chấp thuận! Quý vị chẳng
phải là niệm Phật, đến nơi đây, nói là
thăm sư phụ, hay gặp ai đó, chẳng
được, quyết định sẽ bị xua
đuổi, quở mắng, Ngài chẳng lưu tình mảy
may nào! Do vậy, nhắc tới pháp sư Ấn Quang
mọi người đều rất tôn kính, nhưng
chẳng ai tán thán Ngài, nói thật đấy! Y theo
phương pháp tu hành của Ngài, chẳng có ai không thành
công! Thâm nhập một môn trọng yếu hơn bất
cứ điều gì khác!
Do vậy, trong giảng tòa
bấy nhiêu năm qua, tôi nhiều lượt khích lệ
các đồng tu chúng ta: Hãy học một bộ kinh, niệm
một bộ kinh tới rốt ráo, chớ nên thay
đổi! Chớ nên đi tham phỏng, hiện thời
tham phỏng là gì? Ai là thiện tri thức? Trước kia,
người ta triều sơn nhằm tham phỏng
thiện tri thức, hiện thời đến đâu để
tìm? Hiện thời, quý vị tham phỏng một
người, [người ấy] giảng một cách, chỉ
dạy quý vị một con đường. Tham phỏng
một vị thầy khác, lại là một cách giảng
khác, lại là một con đường khác. Tham phỏng
bốn, năm vị thiện tri thức sẽ trở thành
bốn, năm đường lối, kết quả
chẳng biết đi theo con đường của
người nào mới tốt, xong luôn! Không giống như
thời cổ, bậc đại đức thật
sự vào thời cổ chỉ dạy quý vị tuân theo một
con đường. Tuy sở học của những
vị đại đức ấy khác hẳn, môn đình
tu tập khác nhau, nhưng Ngài quan sát căn cơ của quý
vị, vẫn chỉ cho quý vị một con
đường [phù hợp với căn tánh của quý
vị]. Quý vị và Ngài có pháp môn khác biệt, Ngài quyết
chẳng giữ quý vị lại, mà sẽ giới
thiệu nơi tương ứng với pháp môn của quý
vị. Đấy là vị thiện tri thức chân chánh.
Chính mình khiêm hư, tán thán người khác, chư vị
phải hiểu rõ điều này!
Chính mình thật sự mong thành
tựu, nhất định phải tu Định; hằng
ngày đi lung tung, tâm chẳng định được.
Trong Tây Phương Xác Chỉ, Giác Minh Diệu Hạnh
Bồ Tát có nói, niệm Phật kỵ nhất là xen
tạp. Xen tạp là gì? Ngài nêu ra vài thí dụ, đọc
kinh là xen tạp. Chẳng phải là kinh điển của
tông mình, ta là người tu niệm Phật, ta lại
muốn xem kinh Hoa Nghiêm, lại muốn niệm kinh Pháp Hoa,
lại muốn niệm kinh Đại Bát Nhã, lại
muốn đọc Đại Trí Độ Luận, thôi
rồi, xen tạp, quý vị chẳng chuyên! Tu Tịnh
Độ, nói cách khác, năm kinh một luận Tịnh
Độ đã đủ cho quý vị niệm rồi! Còn
muốn tham Thiền, còn muốn niệm chú, thấy
người khác học cái này cũng muốn học theo, [thấy
người ta] học cái khác cũng mong học theo, xen
tạp! Lại còn cử hành pháp hội, lại còn tạp
tâm chuyện gẫu, gặp đạo hữu chẳng nói
“chánh kinh thoại”. Chánh kinh thoại là gì? Một câu A Di
Đà Phật là chánh kinh thoại, trừ A Di Đà Phật
ra, chẳng có câu nào khác là chánh kinh thoại. Tạp tâm
chuyện gẫu! Lại còn nói những chuyện cát, hung,
họa, phước chẳng khẩn yếu. Nhất tâm
nhất ý cầu sanh Tịnh Độ, bận tâm gì
đến cát hung, họa phước, không quan tâm tới
những chuyện ấy, những thứ đó đều
là xen tạp. Xen tạp, tâm quý vị sẽ không thanh
tịnh, chẳng đạt được nhất tâm
bất loạn, mà công phu thành phiến cũng chẳng
đạt được!
Chúng ta không chỉ niệm
Phật muốn đắc nhất tâm bất loạn, mà
niệm kinh vẫn cùng một mục tiêu “cầu nhất
tâm bất loạn”. Chúng ta niệm Phật cầu khai
ngộ, vì sao? Ngộ là Lý nhất tâm bất loạn, chúng
ta niệm kinh cũng nhằm cầu khai ngộ. Muốn
cầu khai ngộ phải cầu từ đâu? Cầu
từ trong Định, cầu từ tâm thanh tịnh. Trong
tâm quý vị suốt ngày từ sáng đến tối suy
nghĩ loạn xạ, há cầu được ư? Do
những tạp niệm, vọng niệm của chúng ta quá
nhiều, phân biệt, chấp trước quá nặng; hãy
niệm Phật nhiều, niệm kinh nhiều. Chọn
lấy một bộ kinh, mỗi ngày đều niệm
kinh ấy, niệm đến nhuần nhuyễn,
đừng cầu thông hiểu: Kinh này có ý nghĩa gì?
Trước kia, tôi đã từng nói với quý vị, toàn
là lời thật thà, trong kinh chẳng có ý nghĩa gì. Quý
vị cầu thông hiểu điều gì? Những gì quý
vị “liễu giải” toàn là dấy vọng tưởng,
chắc chắn chẳng liễu giải nghĩa chân
thật. Bài kệ Khai Kinh có nói: “Nguyện
giải Như Lai chân thật nghĩa”, những gì quý
vị hiểu đều là suy nghĩ lung tung,
chắc chắn chẳng phải là nghĩa chân thật
của Như Lai.
“Như
Lai chân thật nghĩa” là gì? Chẳng có ý nghĩa, đó
là “Như Lai chân thật
nghĩa”. Chẳng có ý nghĩa, tâm thanh tịnh, tâm đã
định, đến lúc khởi tác dụng sẽ là vô
lượng nghĩa; Trương Tam đến hỏi: Cõi
Thường Tịch Quang giảng như thế nào? Quý
vị giảng rõ ràng cho ông ta, ông ta hiểu rõ. Lý Tứ
đến hỏi: Thường Tịch Quang giảng
như thế nào? Quý vị lại giảng một cách khác,
do cách giảng ấy, Lý Tứ khai ngộ, ông ta cũng
hiểu rõ. Chẳng có ý nghĩa, nên khi khởi tác dụng
bèn có vô lượng nghĩa. Mỗi ý nghĩa thích hợp
đối với một người, có thể làm cho
người ấy khai ngộ, khiến người ấy
được thọ dụng. Nếu có ý nghĩa,
hỏng rồi, kinh này chỉ thích hợp với một
người, trừ người ấy ra, những
người khác đều chẳng dùng được!
Phật pháp mầu nhiệm là mầu nhiệm ở
chỗ này! Do vậy, quý vị quyết định chớ
nên tìm ý nghĩa của nó. Quý vị niệm kinh thì niệm
kinh nhằm đắc Định, niệm kinh nhằm
thanh tịnh tâm, tâm thanh tịnh sanh trí huệ. Kinh Kim Cang
nói: “Tín tâm thanh tịnh bèn sanh
Thật Tướng”, chúng ta niệm kinh nhằm mục
đích này, cầu điều này, cầu thẳng
thừng, thỏa đáng, tiến nhập cõi Thường
Tịch Quang. Trì danh niệm Phật là phương pháp
niệm Phật cao nhất, có mấy ai hiểu? Mấy ai chịu
thật thà làm? Sau khi xếp kinh lại, vẫn suy nghĩ
loạn xạ, vẫn là cái này được, cái kia khá,
chùa này khá lắm, pháp sư nọ rất tốt!
Đều vẫn là tạo nghiệp luân hồi, phiền
phức to lắm! Nếu quý vị nghe lời tôi, các pháp
sư trong rất nhiều chùa miếu sẽ hận tôi thấu
xương! Tôi chẳng có cách nào, chỉ đành ngay
lập tức đến Tây Phương Cực Lạc
thế giới lánh nạn! Hôm nay đã hết thời gian
rồi!
A Di Đà
Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa
Phần 61
[1] Chữ Thế (世) do ba chữ Thập (十) ghép lại.
[2] Tuyên Thống (Gehungge Yoso) là niên hiệu
của Phổ Nghi, hoàng đế cuối cùng của nhà
Thanh. Nhà vua chỉ tại vị ba năm ngắn ngủi
(từ năm 1908 đến năm 1912), rồi bị
lật đổ bởi cách mạng Tân Hợi. Về sau,
Phổ Nghi được Nhật đưa lên làm vua bù
nhìn Mãn Châu Quốc sử dụng hai niên hiệu khác là
Đại Đồng (1932-1934) và Khang Đức (1934-1945).
[3] Nhà Thanh do người Mãn Châu sáng lập
nên gọi là nhà Mãn Thanh. Mãn Châu là tên gọi khác của dân
tộc Nữ Chân (Jušen, còn
viết là Jurchen), tuy có thuyết cho Mãn Châu và Nữ Chân là
hai sắc tộc khác nhau. Đây là một dân tộc đã
được sử sách nhắc đến khá sớm,
đời Hán - Tấn gọi là Ấp Lâu, thời Nam
Bắc Triều gọi là Vật Cát, đời Tùy -
Đường gọi là Hắc Thủy Mạt Hạt.
Danh xưng Nữ Chân (hoặc Nữ Trực)
được sử dụng từ thời Liêu - Kim
trở đi. Nhà Thanh thuộc bộ tộc Kiến Châu
Nữ Chân. Vào thế kỷ 12, Hoàn Nhan A Cốt Đả
(Wanyan Aguda) làm thủ lãnh tộc Nữ Chân, sáng lập ra
nhà Kim. Danh xưng Kim vốn là dịch nghĩa tên sông Anchuhu
tại quê hương của họ. Dòng họ Aisinjoro (Ái
Tân Giác La) của hoàng đế nhà Thanh cũng xuất phát
từ chữ Anchuhu. Nhà Kim bị Mông Cổ diệt quốc
vào năm 1234 dưới đời Kim Mạt Đế
(Hoàn Nhan Thừa Lân) vào năm 1234. Đến thế kỷ
16, Nỗ Nhĩ Cáp Xích (Nurhaci) thống nhất các bộ
tộc Nữ Chân, thành lập hệ thống quân
đội Bát Kỳ, và lập ra nhà Hậu Kim. Danh xưng
Hậu Kim được đổi thành Thanh dưới
thời hoàng đế Hoàng Thái Cực.
[4] Sát trần: Số lượng vi
trần trong một sát-độ (một cõi Phật).