A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa

阿彌陀經疏鈔演義

Phần 78

http://new.amtb-aus.org/Item/5309.aspx

Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Huệ Trang, Trịnh Lộc và Đức Phong

 

Tập 155

 

      Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bổn, trang ba trăm ba mươi ba:

 

      Tam, vũ hoa.

      Sơ, thiên vũ diệu hoa.

      (Kinh) Trú dạ lục thời, vũ thiên Mạn Đà La hoa.

       三、雨 華 。

初、天 雨 妙 華 。

() 晝 夜 六 時。雨 天 曼 陀 羅 華。

      (Ba, mưa hoa.

      Thứ nhất, trời đổ mưa hoa mầu nhiệm.

      Kinh: Ngày đêm sáu thời, mưa hoa Mạn Đà La cơi trời).

     

      Câu kinh văn này cũng nhằm nói rơ sự trang nghiêm trên không trung.

 

       (Sớ) Ngôn thử hoàng kim địa thượng, thường vũ thiên hoa dă. Bỉ vô Tu Di, nhật, nguyệt, nhi ngôn “lục thời” giả, dĩ hoa điểu vi hậu dă. Lô Sơn liên lậu, cái phỏng thử ư.

() 上,常 也。 月,而 者,以 也。廬 漏,蓋 意。

      (Sớ: Ư nói trên đất vàng ṛng ấy, thường mưa hoa cơi trời. Cơi ấy chẳng có núi Tu Di, mặt trời, mặt trăng, mà nói “sáu thời” là do lấy hoa và chim để hạn định thời gian. Đồng hồ sen ở Lô Sơn phỏng theo ư này).

     

      Tây Phương Cực Lạc thế giới “hoàng kim địa thượng” (trên mặt đất vàng ṛng), [nói] “hoàng kim địa” th́ có thể thấy là nơi có đại chúng cư trụ đông đúc, v́ vàng ṛng dùng để lót đất, khắp nơi trên mặt đất đều [dùng vàng] lót thành đường, nơi ấy nhất định là có rất nhiều người ở, chẳng phải là nơi núi hoang, đồng vắng. Những nơi ấy có “mưa hoa”. Có thể thấy đây là sự cảm ứng chẳng thể nghĩ bàn. Chỉ cần là chỗ có người ở, trên hư không bèn tuôn mưa hoa, đó là sự trang nghiêm trên không trung. “Trú dạ lục thời” (ngày đêm sáu thời), mưa hoa chẳng ngớt. Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có núi Tu Di, chẳng có mặt trời, mặt trăng, phân biệt ngày đêm bằng cách nào? Thế gian này có ngày đêm là v́ có mặt trời, mặt trăng, địa cầu tự xoay, bên này được mặt trời chiếu tới là ban ngày, bên kia không có mặt trời chiếu sáng bèn là ban đêm; do đó, có ngày đêm. Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có mặt trời, mặt trăng, nhưng bên ấy chẳng có thứ ǵ không tỏa sáng, tâm trái đất tỏa ánh sáng, thân người phóng quang minh, vật chất có quang minh, thế giới ấy là thế giới quang minh, chẳng có núi Tu Di, mặt trời, mặt trăng, hoặc ánh đèn.

 

      (Sao) Thử độ nhật nguyệt toàn hoàn, nhiễu Tu Di nhi phân trú dạ, như Thiệm Bộ chánh đương Tu Di chi Nam, trú tắc thỉ Đông châu bán, kinh hồ Nam châu, chung Tây châu bán. Dạ tắc thỉ Tây châu bán, kinh hồ Bắc châu, chung Đông châu bán. Phối thập nhị chi, lục thời thành trú, lục thời thành dạ, vi nhất nhật dă.

() 此 土 日 月 旋 環,遶 須 彌 而 分 晝 夜,如 贍 部 正 當 須 彌 之 南,晝 則 始 東 洲 半 ,經 乎 南 洲,終 西 洲 半;夜 則 始 西 洲 半,經 乎 北 洲,終 東 洲 半。配 十 二 支,六 時 成 晝,六 時 成 夜,為 一 日 也。

(Sao: Trong cơi này, mặt trời, mặt trăng xoay tṛn, nhiễu quanh núi Tu Di nên chia ra ngày đêm. Như châu Thiệm Bộ nằm ngay phía Nam núi Tu Di, ban ngày vừa mới hừng đông th́ mặt trời đă đi qua một nửa Đông châu, rồi đi qua Nam châu, cuối ngày đă đến phân nửa Tây châu. Ban đêm th́ lúc đầu đêm, mặt trời, mặt trăng đă đi hết nửa Tây Châu, rồi đi qua Bắc châu, đến cuối đêm nó đi hết nửa Đông châu. [Nhật nguyệt xoay ṿng như thế] đem phối hợp với mười hai chi (Địa Chi), sẽ thành sáu thời ban ngày và sáu thời ban đêm, đó là một ngày).

 

      Lời Sao do Liên Tŕ đại sư viết. Liên Tŕ đại sư là người sống vào cuối đời Minh, cách chúng ta khoảng năm trăm năm. Từ đoạn văn này, có thể thấy cách quan sát vũ trụ của người sống vào năm trăm năm trước, đương nhiên họ có cách nh́n khác với chúng ta trong hiện thời. V́ năm trăm năm trước, [nhân loại] vẫn chưa biết địa cầu xoay quanh mặt trời, không biết địa cầu tṛn xoe. Người thuở trước quan niệm “thiên viên, địa phương”, [tức là] họ nghĩ đại địa vuông vức, c̣n bầu trời là h́nh tṛn. Sách Diễn Nghĩa do pháp sư Cổ Đức soạn, Ngài là đồ đệ của Liên Tŕ đại sư, sống cùng thời đại với Liên Tŕ đại sư, nên có cùng vũ trụ quan với Liên Tŕ đại sư.

 

      (Diễn) “Trú tắc thỉ Đông châu bán” lục cú, ngôn nhật chi toàn hoàn dă. Cổ vân: “Nam Thiệm Bộ Châu nhật đương ngọ, Bắc Câu Lô Châu đả tam cổ, Đông Thắng Thần Châu nhật tương bô, Tây Ngưu Hóa Châu khai môn hộ”, thị dă.

() 晝 則 始 東 洲 半 六 句,言 日 之 旋 環 也。古 云:南 贍 部 洲 日 當 午,北 俱 盧 洲 打 三 鼓,東 勝 神 洲 日 將 晡,西 牛 貨 洲 開 門 戶,是 也。

(Diễn: Sáu câu “ban ngày vừa mới hừng đông th́ mặt trời đă đi qua một nửa Đông châu” là nói mặt trời xoay ṿng [trong vũ trụ]. Cổ nhân nói: “Nam Thiệm Bộ Châu đang giữa trưa, Bắc Câu Lô Châu đánh trống báo canh ba, Đông Thắng Thần Châu ngày mới chớm, Tây Ngưu Hóa Châu mở toang cửa” nhằm diễn tả ư này).

 

      Cách nói vào thời cổ là như vậy. Thật ra, cổ đại đức vô cùng hiểu rơ vũ trụ, trọn chẳng mê hoặc. Các Ngài quan sát, lư giải tuyệt đối chẳng thua các nhà khoa học hiện đại, cớ sao chẳng nói? Các Ngài nói ra sẽ phiền lắm, v́ sao? Giảng cho người thời đó, họ nghe cũng không lọt tai, huống chi chuyện này chẳng phải là chuyện khẩn yếu. Mọi người đều nghĩ như vậy, vậy th́ được rồi, quư vị gật đầu, chấp nhận như vậy [là đúng], chẳng sao cả, [tôi cũng nói thuận theo quư vị]. Phật pháp chú trọng minh tâm kiến tánh, trọn chẳng coi trọng phương diện thiên văn vật lư. Hiểu biết về thiên văn vật lư của cổ đại đức chẳng thua các nhà khoa học hiện đại, nếu quư vị đọc Hoa Nghiêm hay Lăng Nghiêm sẽ biết rơ. Cách nói ở đây là cách nói lưu truyền trong dân gian, chẳng do đức Phật nói. Trong quan niệm của họ, núi Tu Di ở trên địa cầu. Trên thực tế, núi Tu Di chẳng ở trên địa cầu, mà địa cầu chỉ là một châu Nam Thiệm Bộ mà thôi! Mặt trời xoay quanh núi Tu Di, rốt cuộc núi Tu Di ở đâu? Các nhà khoa học hiện đại đă biết mặt trời xoay quanh hệ Ngân Hà, nên trung tâm của hệ Ngân Hà phải là núi Tu Di.

      Trong chú giải kinh Vô Lượng Thọ, lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ đă nói rất rơ ràng: Trước đây, chúng ta tưởng một đơn vị thế giới được nói trong kinh Phật là một thái dương hệ; thật ra, phải nên hiểu một đơn vị thế giới là hệ Ngân Hà th́ mới đúng. Nếu một đơn vị thế giới là một hệ Ngân Hà, một tiểu thiên thế giới là một ngàn hệ Ngân Hà. Mười ức hệ Ngân Hà mới là một đại thiên thế giới. Cách nói này cũng rất hợp lư, nói theo kiểu này mới có thể tương ứng với những điều kinh đă giảng. Có thể thấy Phật pháp c̣n quan sát vũ trụ tỉ mỉ, rơ ràng hơn các nhà thiên văn trong hiện đại.

      Xét theo hoàn cảnh của chúng ta trên quả địa cầu này, người Trung Quốc chia ngày đêm thành sáu thời. Tư, Sửu, Dần, Măo, Th́n, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi là mười hai thời. Ngày sáu thời, đêm sáu thời, nên nói là “trú dạ lục thời” (ngày đêm sáu thời), đó là một ngày. Nay chúng ta dùng đơn vị thời gian là Giờ, hiện thời chia một ngày đêm thành hai mươi bốn giờ.

 

      (Sao) Bỉ quốc kư vô Tu Di, hựu vô nhật nguyệt, thường minh, bất hôn, trú dạ vô biện.

      () 彼 國 既 無 須 彌,又 無 日 月,常 明 不 昏,晝 夜 無 辨。

(Sao: Nước ấy đă không có núi Tu Di, lại chẳng có mặt trời, mặt trăng, thường sáng ngời, chẳng tối tăm, ngày đêm chẳng phân biệt).

 

      Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có ban đêm, nên không có danh từ “ngày đêm”.

 

       (Sao) Duy dĩ “hoa khai, điểu minh” nhi vi trú, “hoa hợp, điểu thê” nhi vi dạ dă.

() 唯 以 華 開 鳥 鳴 而 為 晝,華 合 鳥 棲 而 為 夜 也。

(Sao: Chỉ coi “hoa nở, chim hót” là ban ngày, “hoa khép, chim đậu” là ban đêm).

 

      Hoa có lúc nở, lúc cụp, chim có lúc kêu, lúc ngưng, dùng những điều đó làm đơn vị thời gian, mường tượng ngày đêm. Trên thực tế, Tây Phương Cực Lạc thế giới không có ban đêm.

 

      (Sao) Nhiên nhật nguyệt hữu vô, chư bổn bất đồng. Hán dịch vân “nhật nguyệt xử không”. Ngô dịch nhưng Hán, Vương thị phục vânxử không nhi bất vận chuyển”, Tào Ngụy bất ngôn “hữu, vô”, Nguyên Ngụy cập Tống, trực vân “vô hữu”.

      () 然 日 月 有 無,諸 本 不 同,漢 譯 云:日 月 處 空,吳 譯 仍 漢;王 氏 復 云 處 空 而 不 運 轉,曹 魏 不 言 有 無,元 魏 及 宋,直 云 無 有。

(Sao: Nhưng mặt trời, mặt trăng có hay không, các bản chép khác nhau. Bản dịch đời Hán ghi: “Mặt trời, mặt trăng ở giữa hư không”. Bản dịch đời Ngô nói giống bản dịch đời Hán. Bản của ông Vương Long Thư lại nói là “mặt trời, mặt trăng ở trên hư không, nhưng chẳng xoay chuyển”. Bản Tào Ngụy chẳng nói là có hay không. Bản dịch đời Nguyên Ngụy và bản đời Tống nói thẳng là “chẳng có”).

 

      Đoạn văn này là tham chiếu kinh Vô Lượng Thọ. Kinh Vô Lượng Thọ có mười hai loại bản dịch. Từ đời Đường trở về sau, có bảy bản bị thất truyền. Những bản kinh Vô Lượng Thọ mà Liên Tŕ đại sư được xem cũng chỉ là năm bản dịch hiện thời vẫn c̣n. Rốt cuộc Tây Phương Cực Lạc thế giới có mặt trời, mặt trăng hay không? Mỗi bản dịch của kinh Vô Lượng Thọ nói khác nhau. Bản dịch đời Hán là Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác Kinh, nói có mặt trời và mặt trăng; mặt trời và mặt trăng ở trên hư không. Bản dịch đời Ngô và bản dịch đời Hán giống nhau, có cùng một cách nói. “Vương thị phục vân” (họ Vương lại nói), “Vương thị” là cư sĩ Vương Long Thư; kinh Đại A Di Đà lưu thông hiện thời là bản hội tập của ông Vương Long Thư. Trong bản hội tập [của ông Vương] nói: “Xử không nhi bất vận chuyển” (ở trên hư không, nhưng chẳng xoay vần). Ông ta nói có mặt trời, mặt trăng, nhưng chúng không giống như mặt trời, mặt trăng trong cơi này, mọc đằng Đông, lặn đằng Tây. Mặt trời và mặt trăng trong Tây Phương Cực Lạc thế giới đứng yên, bất động. Chữ “Tào Ngụy” chỉ bản dịch của ngài Khang Tăng Khải. Bản này lưu thông rộng răi nhất, chẳng nói có, mà cũng chẳng nói không, chẳng hề nói! “Nguyên Ngụy cập Tống”: Chữ Tống chỉ kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm, bản này nói thẳng: Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có mặt trời và mặt trăng. Rốt cuộc là có mặt trời và mặt trăng hay không? Trong các bản dịch có cách nói khác nhau như thế! Dưới đây là ư kiến của Liên Tŕ đại sư:

 

      (Sao) Nhược ḥa hội chi.

      () 和 會 之。

      (Sao: Nếu nói dung ḥa).

 

      Hợp cả năm bản ấy lại để xem.

 

      (Sao) Đương thị nhật nguyệt tuy tồn.

       () 當 是 日 月 雖 存。

      (Sao: Sẽ là mặt trời, mặt trăng tuy là có).

 

      Trong thế giới này, ban đêm chúng ta thấy trong hư không có nhiều tinh cầu. Tây Phương Cực Lạc thế giới đương nhiên cũng chẳng ra ngoài lệ ấy. Tôi nghĩ mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao cũng đều có cả. Tuy có, nhưng quang minh của chúng chẳng phát sanh tác dụng. Bản thân thế giới Cực Lạc có quang minh rất thù thắng, tuy mặt trời, mặt trăng chiếu sáng, ánh sáng ấy ảm đạm, chẳng rạng rỡ. Ví như ban ngày chúng ta đốt đèn dưới ánh mặt trời, ngọn đèn ấy có tỏa sáng hay không? Có ánh sáng, nhưng vô dụng, chẳng tỏ lộ quang minh. Liên Tŕ đại sư nói đến ư nghĩa này.

 

      (Sao) Dĩ Phật cập thánh chúng, quang minh yểm ánh, dữ vô đồng nhĩ.

      () 以 佛 及 聖 眾,光 明 掩 映 , 與 無 同 耳。

(Sao: Do bị quang minh của Phật và thánh chúng che lấp, nên [mặt trời và mặt trăng] tuy có mà cũng như không).

 

      Tuy có cũng như không có, không có tác dụng.

      

(Sao) Nhi dĩ lư quỹ chi, vô giả vi chánh.

() 而 以 理 揆 之,無 者 為 正。

(Sao: Nên xét theo Lư, không có là đúng).

 

      Nói theo Lư th́ không có [mặt trời và mặt trăng] là đúng. V́ sao?

 

      (Sao) Hà giả? Đao Lợi nhi thượng, thượng bất giả nhật nguyệt vi minh, hà huống Cực Lạc!

() 何 者,忉 利 而 上,尚 不 假 日 月 為 明,何 況 極 樂。

 (Sao: V́ lẽ nào? Từ Đao Lợi trở lên, c̣n chẳng cần đến ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, huống ǵ cơi Cực Lạc?)

 

      “Không có” là nói theo thực tại, chẳng như chúng ta nay phải cậy vào mặt trời! Hết thảy các sinh vật trên địa cầu nếu chẳng có ánh sáng mặt trời đều chẳng thể sống sót, có tánh chất phụ thuộc to lớn như thế! Tây Phương Cực Lạc thế giới tuy có mặt trời và mặt trăng, nhưng chúng không có tác dụng, v́ sao? [Chúng sanh trong cơi ấy] không cần nhờ vả nguồn năng lượng ấy, chính bản thân phóng quang, cho nên tuy có [mặt trời, mặt trăng] mà cũng như không. Mặt trời, mặt trăng bên ấy giống như các ngôi sao trong thế gian này, chẳng có tác dụng ǵ đối với chúng ta. Hăy nên biết ư nghĩa như vậy th́ mới chánh xác.

 

      (Sao) Hoặc Hán dịch nhật nguyệt thượng, khuyết “vô hữu” nhị tự, vị khả tri dă, cao minh cánh tường chi.

() 或 漢 譯 日 月 上,缺 無 有 二 字,未 可 知 也,高 明 更 詳 之。

      (Sao: Hoặc là trong bản Hán dịch, đối với “nhật nguyệt” bị thiếu hai chữ “không có” chưa biết chừng, bậc cao minh sẽ hiểu rơ hơn).

 

      Liên Tŕ đại sư nêu ra ư nghĩa này, nhưng nay chúng ta hiểu rơ, “y báo chuyển theo chánh báo”. Căn cứ trên lư luận này, sẽ có thể thấu hiểu và lư giải [nhật nguyệt là] có hay không có.

 

      (Sao) Liên lậu giả, Viễn Tổ ư Lô Sơn, tập chúng niệm Phật, khắc mộc vi liên, cụ thập nhị diệp, dẫn lưu tuyền nhập tŕ, mỗi độ nhất thời, thủy kích nhất diệp, trú dạ lục thời, thiền tụng bất chuyết. Dự hội chư hiền, văng sanh thậm chúng. Kim nhân lục thời tịnh nghiệp, bổn ư Viễn Tổ, Viễn Tổ bổn thử.

() 蓮 漏 者,遠 祖 於 廬 山,集 眾 念 佛,刻 木 為 蓮,具 十 二 葉,引 流 泉 入 池,每 度 一 時,水 激 一 葉,晝 夜 六 時,禪 誦 不 輟,與 會 諸 賢,往 生 甚 眾。今 人 六 時 淨 業,本 於 遠 祖,遠 祖 本 此。

(Sao: “Đồng hồ sen”: Tổ Huệ Viễn ở Lô Sơn, nhóm họp đại chúng niệm Phật, khắc gỗ thành hoa sen có mười hai cánh, dẫn nước suối vào ao. Cứ qua mỗi một giờ, nước ngập một cánh sen. Ngày đêm sáu thời, thiền tụng chẳng thiếu sót, các vị hiền nhân dự hội, văng sanh rất đông. Người thời nay [thực hành] sáu thời tịnh nghiệp vốn là do tổ Huệ Viễn đề xướng, mà tổ Huệ Viễn lại căn cứ trên điều này (tức “trú dạ lục thời”) [để lập ra cách tu tŕ ấy]).

 

      “Liên lậu” là do Huệ Viễn đại sư sáng chế, dùng phương pháp nước nhỏ giọt để tính giờ. Ngài dùng gỗ khắc thành hoa sen, hoa sen ấy có mười hai cánh, mỗi cánh có thể chứa nước. Dẫn nước suối vào cho nhỏ giọt lên cánh sen. Hễ chứa đầy một cánh th́ là hai tiếng đồng hồ [đă trôi qua]. Hoa sen ấy giống như một cái chậu rửa mặt nhỏ, nước nhỏ giọt từ từ, chứa đầy một cánh này, nước lại được chứa trong cánh kế tiếp. Khi cả mười hai cánh đều đầy, sẽ là một ngày một đêm, tức mười hai “thời thần”. Từ xưa tới nay, phương pháp tính toán thời gian của Trung Quốc đều dùng “lậu”, dùng phương pháp này có thể biết thời khắc.

      Tịnh Độ Tông ở Trung Quốc do Viễn Công đại sư đề xướng, về sau, h́nh thành một tông phái. Thuở ấy, Ngài tập hợp các đồng tu cùng chung chí hướng ở chung với nhau để chuyên tu Tịnh nghiệp. Đạo tràng ấy ở Lô Sơn, tỉnh Giang Tây, nay gọi là Đông Lâm Tự. Thuở ấy, Viễn Công mở Niệm Phật Đường, kinh điển Tịnh Độ chỉ có kinh Vô Lượng Thọ. Lúc đó, kinh A Di Đà và kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật c̣n chưa được phiên dịch. Số lượng đồng tu cố định. Thuở ấy, chỉ có một trăm hai mươi ba người, những người ấy ai nấy đều thành tựu. Tham gia liên xă rất khó, Viễn Công lăo ḥa thượng thẩm tra, ai không đủ tư cách, Ngài chẳng thâu nhận. Ví dụ như người sống đồng thời với Ngài là Tạ Linh Vận, ông này là một đại văn học gia thời Đông Tấn, muốn tham gia liên xă, nhưng Viễn Công đại sư cự tuyệt. V́ sao chẳng thâu nhận? Lư do là ông Tạ tập khí văn nhân quá nặng, thích viết văn, thích làm thơ, soạn từ[1], những thứ ấy đều khiến cho người niệm Phật phân tâm. Quư vị liền biết quy củ trong liên xă thuở ấy rất nghiêm. Do đó, chư vị đồng tu phải nhớ: Kẻ thích đọc sách nhiều sẽ chẳng thể có thành tựu. Tôi nói với quư vị một câu thật thà: Tạ Linh Vận thích đọc sách, soạn văn chương, nên Viễn Công đại sư không cho ông ta tham gia liên xă!

      V́ sao thích đọc sách sẽ không thể thành tựu? Chư vị biết chúng ta tu pháp môn này nhằm mục đích nào? Nhằm [đạt đến] nhất tâm bất loạn! Quư vị thích đọc kinh Phật cũng không được! Quư vị thấy kinh Kim Cang nói như thế này, kinh Địa Tạng nói như thế nọ, Hoa Nghiêm và Pháp Hoa lại nói một cách khác nữa, đến khi nào quư vị mới có thể đắc nhất tâm? Chẳng thể nào! Chư vị muốn thật sự đắc nhất tâm bất loạn, thật sự muốn đạt đến công phu thành phiến, phải ghi nhớ lời cổ nhân! Người trong thế gian thường nói: “Chẳng nghe lời cổ nhân, chịu thua thiệt trước mắt”, quư vị nhất định luống uổng đời này. Hiện thời, Phật Học Viện nào mời tôi tới dạy, tôi đều không đi. Bản thân tôi cũng chẳng lập Phật Học Viện, v́ sao? Khoa mục quá nhiều, quá tạp, chẳng thể thành tựu, tới đó lăng phí thời gian! Cầu học khác cầu đạo. Cầu học th́ kiến thức của quư vị ngày một tăng trưởng, mỗi ngày phải phong phú hơn, v́ học mà mỗi ngày một tăng thêm! Mỗi ngày phải tăng trưởng! Cầu đạo khác hẳn, cầu đạo là tâm địa thanh tịnh, ngày càng thanh tịnh hơn. Nói cách khác, trong tâm quư vị càng ít những thứ tạp nhạp càng hay, v́ đạo ngày càng giảm thiểu mà! Giảm bớt những thứ này nọ trong tâm th́ quư vị mới thành công!

      Tuy trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện có nói: “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học”, chẳng sai! Nhưng “pháp môn vô lượng thệ nguyện học” ở sau “phiền năo vô tận thệ nguyện đoạn”. Nay hỏi quư vị, quư vị đă đoạn phiền năo hay chưa? Quư vị đoạn hết phiền năo rồi th́ mới có thể “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”. Nay quư vị chưa đoạn phiền năo, càng đọc, phiền năo càng nhiều hơn, tri giải của quư vị ngày càng nhiều hơn, tà tri tà kiến càng nhiều hơn, Thanh Lương đại sư bảo là “tăng trưởng tà kiến”. Không chỉ đọc sách thế gian nhiều sẽ tăng trưởng tà kiến, mà quư vị xem nhiều sách Phật vẫn là tăng trưởng tà kiến. Khi nào có thể bắt đầu xem? Đă đoạn phiền năo; Kiến Tư, Trần Sa, và Vô Minh của quư vị đều đă đoạn! Do đó, nói thật thà, học rộng nghe nhiều là khi nào? Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo mới có tư cách đi tham học bên ngoài. Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo đă đoạn Kiến Tư phiền năo và Trần Sa phiền năo, phá một phần vô minh; phá một phẩm vô minh, thấy một phần chân tánh. Năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài đồng tử trong kinh Hoa Nghiêm, đi ra ngoài tham học chính là học rộng nghe nhiều, phải có điều kiện ǵ? Điều kiện là đă chứng đắc Sơ Trụ trong Viên Giáo! Do đó, “pháp môn vô lượng thệ nguyện học” chẳng phải [dành cho những kẻ có căn cơ giống như] chúng ta trong hiện tại, hiện thời chúng ta không đủ tư cách.

      Công việc chúng ta phải làm trong hiện tại là phải đoạn phiền năo, phải tu cái tâm thanh tịnh! Các cảnh giới do lục căn tiếp xúc thảy đều là những thứ nhiễm bẩn chân tánh. V́ thế, chớ nên xem nhiều, chớ nên nghe nhiều! Quư vị xem sách bèn xem một quyển kinh A Di Đà, nếu nghe bèn là nghe một câu A Di Đà Phật. Nghe danh hiệu của những vị Phật, Bồ Tát đều là nhiễm ô, muốn đắc nhất tâm chẳng dễ dàng! Do liên xă trong thuở ấy là chuyên ṛng, nên mới có thành tựu to tát như vậy. Mỗi người văng sanh đều biết trước lúc mất, người đă văng sanh trước theo A Di Đà Phật đến đón tiếp người văng sanh sau. Quư vị đọc truyện kư về sự văng sanh của Huệ Viễn đại sư, lúc Tây Phương Tam Thánh và đại chúng trong Liên Tŕ hải hội đến đón Viễn Công, những người như Lưu Di Dân đă văng sanh trước, đều theo A Di Đà Phật đến, vừa trông thấy Viễn Công đại sư bèn nói: “Thầy dạy chúng con niệm Phật, chúng con đi trước, sao bây giờ thầy mới đến?” Trong truyện kư có ghi điều này, tuyệt đối chẳng phải là giả. Nếu chư vị muốn thật sự học, nếu muốn thành tựu thật sự, mà chẳng dùng biện pháp này của tổ sư, có thể nói là chẳng có hy vọng thành công!

      Do đó, chúng ta ngày nay, trong tương lai có dịp mở Niệm Phật Đường, mọi người cùng tu, có mấy người thật sự là chí đồng đạo hợp là được rồi, ba người hay năm người trọn chẳng phải là ít, mà một hai trăm người cũng chẳng tính là nhiều! Nhưng chư vị phải biết: Chẳng t́m đâu ra hai ba chục người thật sự có chí đồng đạo hợp, đang nhằm thời kỳ Mạt Pháp mà! Thời Viễn Công đại sư cũng chẳng hơn một trăm hai mươi ba người. Do đó, rất khó! V́ sao? Quư vị thấy giữa bao người đông ngần ấy, Niệm Phật Đường là [nơi tu] pháp môn thành Phật, người có duyên thành Phật trong một đời này đă chín muồi, phước báo to tát lắm! Có mấy ai có duyên thành Phật chín muồi trong một đời này? Bởi lẽ đó, làm sao có thể miễn cưỡng chuyện này cho được? Duyên thành Phật của một người chưa đến, sẽ chẳng thể ở trong Niệm Phật Đường. Một người thật sự khăng khăng kiên quyết, thứ ǵ cũng đều buông xuống, suốt ngày từ sáng đến tối một bộ kinh, một Phật hiệu, duyên thành Phật của người ấy đă tới rồi! Người ấy đời này quyết định thành Phật, chư vị đồng tu nhất định phải nhớ điều này. V́ lẽ đó, quư vị đọc nhiều kinh, chắc chắn chẳng có lợi!

      Phát nguyện giảng kinh, đích xác là vô cùng thù thắng, vô cùng khó có. Giảng kinh cũng chẳng phải là chuyện dễ dàng! Hai ngày hôm nay, cư sĩ Giản Phong Văn hết sức cảm khái thưa với tôi, ông ta nói chính ḿnh tạo rất nhiều tội nghiệp. Tội nghiệp ǵ vậy? Khuyên người khác giảng kinh! Tôi nói: “Đó là chuyện tốt đẹp!” Ông ta nói: “Trước kia người ấy chưa biết giảng, người đó mới ra giảng th́ hăy c̣n rất khiêm hư. Nay đă biết giảng bèn kiêu căng, ngă mạn, không để ai vào mắt. Đó là con đă hại kẻ ấy”. Tôi bảo: “Ông chẳng hại kẻ đó, chớ nên thường tự trách ḿnh!” Tôi nói: “Có cha mẹ nào chẳng mong con cái tốt đẹp? Có người làm thầy nào chẳng mong học tṛ giỏi giang? Đứa con hay đứa học tṛ làm càn, làm quấy trong xă hội, vậy th́ phải kết tội cha mẹ, thầy giáo hết sao?” Chẳng có lẽ ấy! Tôi nói: “Ông khuyên kẻ ấy là đúng, là chuyện tốt. C̣n sau này, kẻ ấy trở thành tệ hại, học theo thói xấu, đó là chuyện của hắn! Làm sao thầy có thể bảo đảm học tṛ cả đời chẳng làm chuyện xấu?” Chẳng có cách nào làm được! Cha mẹ cũng làm không được! Tôi liền bảo ông ta: Nếu thường tự trách ḿnh như vậy, sẽ bất lợi rất lớn cho sự tu hành của chính ḿnh, trở thành đại chướng ngại, v́ mỗi lần ông nghĩ đến là một lần “ta có lỗi với kẻ ấy, ta đă dẫn dụ người ấy thành hư hỏng”, tức là ông lại tạo tội nghiệp lần nữa trong A Lại Da Thức! Tôi nói: “Sao ông chẳng thay những ư niệm ấy bằng niệm A Di Đà Phật? V́ sao chẳng nghĩ tới kinh Vô Lượng Thọ? Như thế mới là đúng!”

      Chúng ta khuyên người khác học giảng kinh, học giảng kinh th́ học từ nơi đâu? Học khởi đầu từ tâm thanh tịnh, do kinh nghiệm mà chúng tôi biết điều này. V́ thế, tôi cổ vũ, khích lệ người khác giảng kinh. Học giảng kinh th́ trước hết hăy học phẩm đức của chính ḿnh, thành tựu đạo nghiệp của chính ḿnh, học bắt đầu từ đâu? Bắt đầu từ chuyên môn niệm một bộ kinh trong ba năm hoặc năm năm. Cổ đại đức [hạn định] năm năm, người hiện thời chẳng kiên nhẫn như vậy, [nhưng nói ǵ th́ nói] tối thiểu cũng phải là ba năm. Trong ba năm niệm một bộ kinh, quyết định chẳng xem bộ sách thứ hai, để cho cái tâm được Định. Sau ba năm rồi mới bắt đầu học giảng, sẽ khác hẳn! Nếu trong ba năm ấy, thứ ǵ quư vị cũng đều ưa thích, thứ ǵ cũng đều mến chuộng, vậy th́ quư vị hăy theo người khác học, tôi ở đây chẳng muốn [thâu nhận] quư vị, điều này hết sức trọng yếu! V́ vậy, phải nghĩ đến đạo tràng của tổ sư, nghĩ tới thành tựu của tiền hiền trong quá khứ, đều là những tấm gương tốt cho chúng ta, hăy nên ghi nhớ, giữ lấy, hăy nên học tập, người ta là những người đă có thành tựu. Người hiện thời cố nhiên có rất nhiều phương pháp hay, nhưng chúng ta chẳng thấy kết quả và thành tựu như họ. Nếu chúng ta học theo [cách do người hiện thời đề xướng], học suốt một đời chẳng đạt được kết quả, rất đáng tiếc! Đường lối xưa rất đáng tin cậy, chúng ta thấy không ít người thành tựu. V́ thế, theo đường lối xưa vẫn là tốt đẹp hơn!

Người thời nay [áp dụng phương pháp] “sáu thời tịnh nghiệp”, tức là phương pháp niệm Phật quanh năm trong Niệm Phật Đường. Phương thức ấy “bổn ư Viễn Tổ” (vốn xuất phát từ tổ Huệ Viễn), Viễn Công đại sư đă lưu lại nghi thức niệm Phật này.

 

      (Sớ) Mạn Đà La, thiên hoa danh dă, thử vân Thích Ư.

      () 曼 陀 羅,天 華 名 也,此 云 適 意。

      (Sớ: Mạn Đà La là tên một loài hoa cơi trời, cơi này dịch là Thích Ư).

 

      Kinh nói: “Trú dạ lục thời, vũ thiên Mạn Đà La hoa” (ngày đêm sáu thời, mưa hoa Mạn Đà La cơi trời). “Thiên” là thiên nhiên, chẳng phải do người làm, cũng chẳng do thực vật sanh trưởng, mà là thiên nhiên. Mạn Đà La (Mandarava) là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Thích Ư. Rốt cuộc hoa Mạn Đà La là hoa ǵ? Không nhất định! Quư vị thích hoa ǵ, trên trời liền rơi xuống hoa ấy. Thứ hoa do chính quư vị ưa thích, yêu chuộng, được gọi là Mạn Đà La. Người Hoa dịch nghĩa là “như ư”, [tức là] đúng ư của ta, mang ư nghĩa ấy. Do vậy, phẩm loại hoa, màu sắc, quang minh ở đây là vô lượng vô biên, tùy theo sự yêu thích của mỗi người. Quư vị thích loại ǵ liền hiện ra loại ấy, đó là Thích Ư.

      (Sớ) Hựu vân Bạch Hoa.

      () 又 云 白 華 。

      (Sớ: C̣n nói là Bạch Hoa).

 

      Cũng có ư nghĩa là hoa màu trắng.

 

      (Sớ) Thiên vũ giả, tán thán đạo đức, như Không Sanh Đế Thích sự.

() 者,讚 德,如 事。

(Sớ: “Trời tuôn mưa” là ca ngợi đạo đức, như chuyện giữa ngài Không Sanh và vua Đế Thích).

 

      Trong lời Sao có giải thích từ ngữ “Không Sanh, Đế Thích”.

 

      (Sao) Bạch hoa giả, thiên hoa đa chủng, như Mạn Thù Sa, tắc vân Xích Hoa.

      () 白 華 者,天 華 多 種,如 曼 殊 沙,則 云 赤 華。

      (Sao: Bạch Hoa: Hoa trời có nhiều loại, như Mạn Thù Sa chính là hoa màu đỏ).

 

      Hoa màu đỏ.

 

       (Sao) Kim chỉ bạch hoa, văn tỉnh tiện dă. Diệc khả Tây phương thuộc kim, thủ bạch nghiệp nghĩa.

() 今 止 白 華,文 省 便 也。亦 可 西 方 屬 金,取 白 業 義。

      (Sao: Nay chỉ nói hoa trắng, là kinh văn nói giản tiện, mà cũng có thể là phương Tây thuộc hành Kim, [nói hoa trắng] nhắm tới ư nghĩa nói về nghiệp trắng sạch).

 

      “Bạch hoa” không nhất định chỉ màu trắng, v́ người Ấn Độ gọi thiện là Bạch, gọi ác là Hắc. Bạch Hoa là “thiện hoa”, có ư nghĩa ấy, vẫn thuộc trong ư nghĩa Thích Ư. Thích Ư, nhưng nó là thiện, thiện quyết định tăng trưởng đạo niệm của quư vị. Thấy những hoa ấy, tự nhiên quư vị biết niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, biết niệm Tam Bảo, chẳng thể nào thấy hoa ấy mà nghĩ đến chuyện ǵ khác. Nếu thấy hoa ấy mà nghĩ đến pháp khác, tức là hoa ấy bất thiện, chẳng thể gọi là Bạch Hoa. Do vậy, nói Bạch Hoa không nhất định là nói đến màu sắc, quư vị phải nhớ điều này. V́ thế, nói giữ lấy “ư nghĩa bạch nghiệp” hết sức hay!

 

      (Sao) Thích Ư giả, thiên hoa diệu hảo, thích duyệt nhân ư dă.

      () 適 意 者,天 華 妙 好,適 悅 人 意 也。

      (Sao: Thích Ư: Hoa trời đẹp đẽ tuyệt diệu, khiến người ta vui ḷng, đẹp ư).

 

      Một nghĩa là bạch nghiệp, một nghĩa là đẹp đẽ khiến người ta vui ḷng, đẹp ư; hai ư nghĩa ấy hợp lại hết sức viên măn.

 

      (Sao) Đại Bổn vân: “Nhất thiết chư thiên, giai lăi thiên thượng bách thiên hoa hương, lai cúng bỉ Phật”.

      () 大 本 云:一 切 諸 天,皆 賚 天 上 百 千 華 香,來 供 彼 佛。

      (Sao: Kinh Đại Bổn nói: “Hết thảy chư thiên, đều mang trăm ngàn hoa hương đến cúng dường đức Phật ấy…”).

 

      Chư thiên” nói ở đây là các vị Bồ Tát thuộc các phương khác. Có nhiều vị Bồ Tát từ các thế giới phương khác mỗi ngày đều đến Tây Phương Cực Lạc thế giới nghe A Di Đà Phật giảng kinh, thuyết pháp. Họ đến nghe Phật thuyết pháp, nhất định có cúng dường, mang các hoa trời đến cúng dường. Trên thực tế, hoa trời cũng chẳng phải là mang lại, lẽ nào họ mang đi xa ngần ấy? Mà do biến hóa ra. Trên không trung của thế giới Cực Lạc vô cùng trang nghiêm.

 

      (Sao) Cập chư Bồ Tát, Thanh Văn chi chúng thị dă.

      () 及 諸 菩 薩 聲 聞 之 眾 是 也。

      (Sao: “Và các vị Bồ Tát, Thanh Văn” là nói về ư này).

 

      Những người khách từ bên ngoài đến cúng dường A Di Đà Phật, cúng dường các vị thượng thiện nhân trong Tây Phương Cực Lạc thế giới.

 

      (Sao) Tán thán giả, thế nhân hành thiện, chư thiên hoan hỷ, hà huống bỉ quốc.

  () 讚 歎 者,世 人 行 善,諸 天 歡 喜,何 況 彼 國。

(Sao: “Tán thán”: Người đời làm lành, chư thiên hoan hỷ, huống hồ là cơi kia).

 

      Nói đến pháp thế gian, người thế gian có thiện niệm, thiện hạnh, thưa cùng quư vị, chư thiên, quỷ thần đều hoan hỷ. Tà quỷ ác thần tuy hại người, nhưng trông thấy người lành bèn cung kính, cũng kính sợ, lánh xa. Nếu thấy kẻ nào làm chuyện bất thiện, những ác quỷ, ác thần thảy đều đến giúp kẻ ấy tạo ác, giúp họ làm chuyện bất thiện. Do vậy, có thể biết, trong tâm chúng ta khởi tâm động niệm, tạo tác hành vi, đều có quỷ thần trông thấy, có quỷ thần thừa cơ khuấy động, giở tṛ, quấy phá khiến tâm quư vị phát cuồng. Hiện thời, trong thế giới này, trong ngoài nước, chúng ta trông thấy nhiều lắm, có cứu được hay không? Chẳng cứu được! Lúc mới bắt đầu, c̣n chưa nghiêm trọng, c̣n cứu được, có thể quay lại! Nếu đă hăm thật sâu, y học hiện thời gọi [t́nh trạng đó] là “tinh thần phân liệt” (Schizophrenia), chẳng thể cứu được! Chính ḿnh nhất định phải cảnh giác!

      Đại Kinh dạy, phương pháp chân chánh, phương pháp xảo diệu nhất là phải đọc kinh, phải tuân thủ các giáo huấn trong kinh điển, phải y giáo phụng hành. Trong tâm có vọng niệm bèn đọc kinh, vọng niệm chẳng c̣n nữa! Kinh niệm thật sự thuộc làu, trong cuộc sống hằng ngày thường nghĩ đức Phật đă dạy chúng ta như thế nào, chúng ta phải nên hành ra sao, y giáo phụng hành. Trong kinh điển có nói “quán kinh ước lệnh” (quán những điều ước thúc, ngăn cấm trong kinh). Chẳng nói là Đọc, mà nói là Quán. Quán khắc sâu ấn tượng hơn Đọc. Trong Quán có công phu, tức là Quán Chiếu, Chiếu Trụ, và Chiếu Kiến như Thiền Tông thường nói. Quán Chiếu có ư nghĩa sâu hơn đọc kinh một tầng. Đọc kinh, khi quư vị chẳng khởi tác dụng, bèn chẳng có công phu quán chiếu. Đọc kinh th́ trong cuộc sống, quư vị thường nghĩ tới, ta dấy lên một niệm, [liền đối chiếu] đức Phật đă nói trong kinh như thế nào, bèn ngay lập tức có thể sửa đổi chính ḿnh, đó là Quán Chiếu. Cũng là thời thời khắc khắc ghi nhớ giáo huấn của kinh điển trong ḷng, chẳng dám vi phạm, đó là Quán Chiếu. V́ thế, thật sự có thể sanh ra tác dụng ước thúc chính ḿnh, phục tùng mệnh lệnh của Phật. Giáo huấn của Phật là mệnh lệnh của Phật, tuyệt đối phục tùng. Có như vậy, chúng ta mới có thể tránh khỏi suy nghĩ tà vạy, mới ḥng tránh khỏi tà kiến, tà hạnh. Chúng ta tâm lành, hạnh lành, chư thiên hoan hỷ, đó là pháp thế gian. Pháp thế gian mà c̣n như thế, “hà huống bỉ quốc” (huống hồ cơi ấy), Tây Phương Cực Lạc thế giới là cơi thiện bậc nhất trong hết thảy các cơi Phật.

 

      (Sao) Như Lai Bồ Tát hiền thánh thượng thiện chi sở tập hội, tán thán vũ hoa, lư cố ưng nhĩ.

() 如 來 菩 薩 賢 聖 上 善 之 所 集 會,讚 歎 雨 華,理 固 應 爾。

(Sao: Chỗ Như Lai, Bồ Tát, hiền thánh và các bậc thượng thiện nhóm hội th́ tán thán, mưa hoa là chuyện đúng lẽ).

 

      Nói theo Lư th́ phải nên như thế. Ngay cả mười phương chư Phật c̣n tán thán Tây Phương Cực Lạc thế giới, c̣n ǵ để bàn căi nữa! Mười phương chư Phật đều tán thán, nói thật ra, chúng ta cũng được nhờ lây! Quư vị niệm kinh này, niệm A Di Đà Phật, mười phương chư Phật cũng tán thán quư vị. Khen ngợi kinh, khen ngợi người đọc kinh; khen ngợi Phật, khen ngợi người niệm Phật. V́ lẽ đó, chúng ta tu hành, một bản Tịnh Độ Ngũ Kinh là đủ rồi. Người tu Tịnh Độ chân chánh, một quyển kinh là đủ. Nếu vẫn ngại một quyển c̣n ít, tâm vẫn chưa buông xuống được, bèn đọc Tịnh Độ Ngũ Kinh. Năm kinh mà vẫn cảm thấy chưa đủ, vẫn muốn xem thứ ǵ khác, tôi lại giới thiệu với quư vị bộ Tịnh Độ Thập Yếu. Nếu vẫn chưa đủ, vậy th́ tôi giới thiệu Ấn Quang Đại Sư Văn Sao. Nếu [vẫn cảm thấy] chưa đủ, Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có phần! Quyết định không thể nhiều, càng tinh chuyên càng hay, tốt nhất là suốt đời tinh chuyên nơi một bộ kinh.

      Tại Trung Quốc, từ xưa đă có nhiều vị tổ sư đại đức suốt đời chuyên giảng kinh A Di Đà, giảng mấy trăm lượt, suốt một đời chẳng giảng bộ kinh thứ hai, đó là tuyệt đối chánh xác. Nếu một ḿnh quư vị, kinh Vô Lượng Thọ và kinh A Di Đà đồng bộ, tức là Đại Bổn và Tiểu Bổn. Quư vị thật sự dùng mười năm đổ công dốc sức nơi Đại Bổn và Tiểu Bổn, chuyên tu, chuyên giảng. Trong mười năm, chẳng đọc bộ kinh thứ hai. Trừ hai bộ kinh ấy ra, [những thứ khác] nhất loạt chẳng xem; mười năm sau, quư vị sẽ là hóa thân của A Di Đà Phật. V́ sao? Nhắc tới kinh Vô Lượng Thọ hoặc kinh A Di Đà, quư vị sẽ là người [thông thạo] bậc nhất trên thế giới. Bất cứ pháp sư đại đức nào cũng chẳng thể sánh bằng quư vị. V́ sao? Quư vị chuyên dụng công nơi một bộ kinh tới mười năm! Nếu quư vị dùng mười năm công phu chuyên công dốc sức nơi Quán Âm Tam Kinh, tức là Phổ Môn Phẩm, Quán Thế Âm Bồ Tát Nhĩ Căn Viên Thông Chương của kinh Lăng Nghiêm và chương Quán Tự Tại trong kinh Hoa Nghiêm, sau mười năm quư vị là Quán Âm Bồ Tát sống, là Quán Âm Bồ Tát tái lai, chẳng sai tí nào! Đúng là hóa thân của Quán Âm Bồ Tát, v́ sao? V́ quư vị niệm mỗi ngày, được thần lực của Phật, Bồ Tát gia tŕ. Mười năm sau, quư vị nhất định hợp nhất với A Di Đà Phật, hợp nhất với Quán Thế Âm Bồ Tát, như vậy đó! Tôi nói lời thật cùng mọi người, về Lư và Sự, xác thực là như vậy; nhưng quư vị nếu muốn học nhiều, tu tạp, tu suốt một đời điều ǵ cũng chẳng thành, chẳng nắm chắc văng sanh, chịu thua thiệt rất lớn!

      Nếu tôi dạy học tṛ, bèn dạy theo cách này. Trong suốt năm năm, quư vị xem một bộ kinh, tôi thấy quư vị xem kinh khác, nhất định sẽ hung tợn đánh quư vị! Quư vị nhất định phải niệm bộ kinh này. Nếu quư vị niệm bộ kinh thứ hai, tôi buộc quư vị rời đi, tôi không nhận quư vị nữa, v́ sao? Quư vị đọc thứ khác, ư nghĩ bị ô nhiễm. Chúng tôi yêu cầu nhất tâm, phải tu tâm thanh tịnh, mỗi ngày quư vị vẫn làm chuyện nhiễm ô, làm sao đạt thanh tịnh cho được? Làm sao có thể đắc nhất tâm cho được? Sách trong Đồ Thư Quán để cho kẻ khác xem, chẳng phải là để cho ta xem! Họ đến mượn, ta cho họ mượn, đó là chuyện của họ, chẳng dính líu ǵ đến ta! Bản thân ta suốt ngày từ sáng đến tối đọc một quyển, niệm một câu A Di Đà Phật, như vậy th́ mới có thể thành công, mới là chuyên tu, chuyên hoằng. Nói thật ra, [học trọn] Tịnh Độ Ngũ Kinh cũng chưa chắc có thể thành công. Nói thật ra, đối với năm kinh, vẫn phải dốc sức nơi một bộ kinh! Ta học bộ kinh này hiểu rồi th́ mới học bộ thứ hai, như vậy th́ được! Nhưng bộ kinh thứ nhất phải học bao lâu? Tôi cảm thấy ít nhất là học mười năm. Trong quá khứ, tôi theo thầy Lư ở Đài Trung suốt mười năm học được năm bộ kinh, học nhiều quá! Nếu mười năm tôi chỉ học một bộ kinh, nay tôi đă sớm thành Phật, thành Bồ Tát, chẳng phải là như t́nh trạng này!

      Khi tôi vừa mới đến Đài Trung, học được một bộ A Nan Vấn Sự Phật Cát Hung Kinh, đây là bộ kinh vỡ ḷng của tôi. Bộ thứ hai là kinh A Di Đà, bộ thứ ba là Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, bộ thứ tư là kinh Kim Cang, bộ thứ năm là kinh Lăng Nghiêm. Mười năm học năm bộ, học quá nhiều, học tạp! Nay chính tôi mới biết thuở ấy đi sai đường. Thầy chẳng nghiêm ngặt ước thúc chúng tôi, nếu thầy nghiêm ngặt ước thúc, tôi có thể nghe lời, có thể tiếp nhận. Nếu khi ấy, thầy Lư bảo tôi: “Nếu anh nghiêm túc đọc một quyển kinh Di Đà trong mười năm, tương lai anh sẽ là hóa thân của A Di Đà Phật”, tôi nhất định sẽ làm! Tôi biết nghe lời, sau mười năm tôi biến thành A Di Đà Phật, lẽ đâu chẳng văng sanh? Quyết định văng sanh! Đấy mới là thật sự giúp đỡ người khác. Thật sự tu hành, báo chí, tạp chí, sách vở thế gian thảy đều vứt bỏ, chẳng cần đọc nữa, đó là chân tu!

 

      (Diễn) Thế nhân hành thiện chư thiên hoan hỷ giả, dĩ nhân tu giới thiện, tắc thiên đa quyến thuộc, thiên hỷ quyến thuộc, cố sanh hỷ dă. Hựu chư thiên giai hiếu thiện, nhân tu thiện, tắc thượng hợp thiên tâm, cố hỷ dă.

() 世 人 行 善 諸 天 歡 喜 者,以 人 修 戒 善,則 天 多 眷 屬,天 喜 眷 屬,故 生 喜 也。又 諸 天 皆 好 善,人 修 善,則 上 合 天 心,故 喜 也

(Diễn: “Người đời làm việc thiện, chư thiên hoan hỷ”: Do người tu giới thiện, ắt chư thiên có nhiều quyến thuộc. Do chư thiên ưa thích quyến thuộc, nên sanh hoan hỷ. Lại nữa, chư thiên đều chuộng điều lành, người tu thiện ắt là trên hợp với ḷng trời, nên [chư thiên] hoan hỷ).

 

      Đây là lời chú giải của pháp sư Cổ Đức, chú giải hết sức hay.

 

      (Sao) Như Không Sanh, Đế Thích giả.

      () 如 空 生 帝 釋 者。

      (Sao: Như Không Sanh và Đế Thích).

 

      Đây là trích dẫn một công án trong Phật môn, là một câu chuyện xưa.

 

      (Sao) Tu Bồ Đề yến tọa.

      () 須 菩 提 宴 坐。

      (Sao: Ngài Tu Bồ Đề ngồi yên).

 

      “Không Sanh” là tôn giả Tu Bồ Đề. Tu Bồ Đề (Subhūti) là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán là Không Sanh. Ngài là bậc đương cơ trong kinh Kim Cang, v́ Ngài Giải Không (thấu hiểu tánh Không) bậc nhất. “Tu Bồ Đề yến tọa” là khi ngài Tu Bồ Đề đả tọa, tĩnh tọa.

 

      (Sao) Đế Thích tán hoa.

      () 帝 釋 散 華。

      (Sao: Đế Thích rải hoa).

 

      Đế Thích” (Śakro Devānām Indraḥ) là Đao Lợi Thiên Chúa, người Hoa gọi ông ta là Ngọc Hoàng Đại Đế. Đao Lợi Thiên Chúa đi qua đó, thấy tôn giả Tu Bồ Đề nhập Định ở đó, Thiên Chúa rất hoan hỷ, rải hoa cúng dường.

 

      (Sao) Tu Bồ Đề vấn: Không trung tán hoa, đương thị hà nhân?

      () 須 菩 提 問:空 中 散 華,當 是 何 人?

      (Sao: Tu Bồ Đề hỏi: “Đang rải hoa trên hư không là người nào vậy?”)

 

      Khi ngài Tu Bồ Đề đang ngồi, [thấy] hoa rơi xuống liền hỏi: “Ai đang rải hoa?”

 

      (Sao) Đáp viết: Ngă năi Thiên Đế.

      () 答 曰:我 乃 天 帝。

      (Sao: Bèn đáp: “Tôi là Thiên Đế”).

 

      Ông ta đáp: “Tôi là Đao Lợi Thiên Chúa”. Đao Lợi Thiên Chúa rải hoa cúng dường. Lại c̣n nói:

 

      (Sao) Dĩ tôn giả thiện thuyết Bát Nhă cố.

      () 以 尊 者 善 說 般 若 故。

      (Sao: Do tôn giả khéo nói Bát Nhă).

 

      Ngài Tu Bồ Đề khéo nói Bát Nhă, nên Thiên Đế rải hoa cúng dường. Điều này nói rơ tâm người tốt lành có thể cảm động chư thiên, thiện thần. Chư thiên, thiện thần hoan hỷ cúng dường.

 

      (Sao) Thị tri Tịnh Độ văng sanh chi chúng, nhất tâm bất loạn, tắc chư niệm bất sanh, vạn pháp không tịch, tức thị thiện thuyết Bát Nhă, cảm động chư thiên, hựu hà nghi tai!

      () 是 知 淨 土 往 生 之 眾,一 心 不 亂,則 諸 念 不 生,萬 法 空 寂,即 是 善 說 般 若,感 動 諸 天,又 何 疑 哉!

 (Sao: Do vậy biết đại chúng văng sanh Tịnh Độ, nhất tâm bất loạn, nên các niệm chẳng sanh, vạn pháp không tịch, chính là khéo nói Bát Nhă, cảm động chư thiên, há c̣n ngờ ư?)

 

      Kinh Đại Bát Nhă gồm sáu trăm quyển, Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh Bát Nhă hai mươi hai năm, chúng ta có cần phải học hay không? Chẳng cần học! V́ một câu A Di Đà Phật bao gồm trọn vẹn kinh Đại Bát Nhă do đức Phật đă giảng trong hai mươi hai năm. Chỉ cần quư vị niệm đến mức tâm thanh tịnh, niệm đến mức chẳng có một vọng niệm nào, Bát Nhă liền hiện tiền. Câu Phật hiệu này chẳng thể nghĩ bàn! Một câu Phật hiệu này đă hàm nhiếp các kinh giáo do Thích Ca Mâu Ni Phật và mười phương ba đời hết thảy chư Phật Như Lai đă nói và các pháp môn do các Ngài đă tu, chẳng sót một điều ǵ! Nếu quư vị chú tâm thấu hiểu, đă đạt được pháp môn này, chẳng có pháp môn nào không đạt được! Hết thảy các pháp môn đều đạt được, vậy th́ tôi hỏi quư vị: Trong tương lai, quư vị hoằng kinh phải hoằng kinh nào? Đương nhiên ư nguyện của mỗi người mỗi khác. Dùng công phu mười năm, kinh này đă thông, hết thảy các kinh đều thông đạt toàn bộ. Khi thông đạt, quư vị hoằng dương kinh nào? Nếu quư vị hỏi tôi, tôi vẫn hoằng dương bản kinh này, chẳng hoằng dương bản kinh thứ hai, v́ sao? Nếu tôi dùng loại kinh thứ hai để dạy mọi người, tôi có lỗi với đại chúng. V́ sao? V́ bộ kinh này chân thật nhất, nhanh chóng nhất, dễ dàng nhất, nhưng quư vị chẳng dạy người khác pháp môn này, mà t́m những thứ gây phiền cho người ta, chẳng phải là cố ư làm khó người ta hay sao? Nói rất huyền, rất diệu, hoa trời rơi lả tả, nhưng chẳng đạt được lợi ích. Không chỉ là chẳng có lợi ích nơi tu hành chứng quả, mà thậm chí thật sự lư giải cũng chẳng đạt được, trọn chẳng thể nào!  

Lợi ích chân thật nhất, không ǵ bằng truyền dạy kinh Di Đà cho người khác, dạy người khác biết đến câu Phật hiệu này, đó là chân thật khôn sánh! Kinh Vô Lượng Thọ nói “huệ dĩ chúng sanh chân thật chi lợi” (ban cho chúng sanh lợi ích chân thật). Pháp môn này là “trí huệ chân thật”, “chân thật chi tế”, kinh nói liên tiếp ba món Chân Thật, những kinh điển khác chẳng có chuyện này!

 

      (Sớ) Hựu hoa hữu nhị chủng, nhất giả thiên hoa, nhị giả thụ hoa.

      () 又 華 有 二 種,一 者 天 華,二 者 樹 華。

      (Sớ: Lại nữa, hoa có hai thứ, một là thiên hoa, hai là hoa do cây cối sanh ra).

 

      “Thụ hoa” là những thứ sanh trưởng từ cây cối hoa cỏ trong thế gian.

     

      (Sớ) Kim thị thiên hoa, dĩ thiên nhiếp thụ cố.

      () 今 是 天 華,以 天 攝 樹 故。

      (Sớ: Nay ở đây [kinh chỉ nói] là hoa trời, v́ [nói] thiên hoa tức là đă bao gồm hoa của cây cối).

 

Nói “thiên hoa” th́ đương nhiên bao gồm hoa từ cây cối, nhưng hoa từ cây cối chẳng thể bao gồm thiên hoa.

 

      (Sao) Thiên hoa giả, tùng thiên nhi hạ, nghĩa như tiền thích.

   () 天 華 者,從 天 而 下,義 如 前 釋。

(Sao: Hoa trời là hoa từ trên trời rải xuống, ư nghĩa như trong phần trên đă giải thích).

 

      Giống như đă giải thích trong phần trước, hoa ấy từ không trung rơi xuống.

 

      (Sao) Thụ hoa giả.

      () 樹 華 者。

      (Sao: Hoa từ cây cối).

 

      Đây là nói Tây Phương Cực Lạc thế giới có hàng cây bảy báu.

 

      (Sao) Đại Bổn vân: “Tứ phương tự nhiên phong khởi, xuất ngũ bách âm thanh, xuy chư thụ hoa, hoa sanh dị hương, tùy phong tứ tán, tán chư Bồ Tát, Thanh Văn đại chúng. Hoa đọa địa giả, tích hậu tứ thốn, cực mục minh lệ, phương hương vô tỷ, cập chí tiểu ủy, tự nhiên loạn phong xuy khứ. Thị bỉ độ diệc vũ thụ hoa, cố viết “dĩ thiên nhiếp thụ”.

() 大 本 云:四 方 自 然 風 起,出 五 百 音 聲,吹 諸 樹 華,華 生 異 香,隨 風 四 散,散 諸 菩 薩 聲 聞 大 眾,華 墮 地 者,積 厚 四 寸,極 目 明 麗,芳 香 無 比,及 至 小 萎,自 然 亂 風 吹 去,是 彼 土 亦 雨 樹 華,故 曰 以 天 攝 樹。

(Sao: Kinh Đại Bổn chép: “Bốn phương tự nhiên nổi gió, phát ra năm trăm âm thanh, lùa qua các hoa trên cây [bảy báu], hoa tỏa mùi hương lạ, theo gió bay khắp bốn phương, rải lên các vị Bồ Tát, Thanh Văn, đại chúng. Hoa rơi xuống đất, tích lại dầy đến bốn tấc, hết sức chói ngời đẹp đẽ, thơm ngát khôn sánh. Cho đến khi hơi héo, tự nhiên có trận gió mạnh cuốn hết đi”. Vậy là cơi ấy cũng có mưa hoa từ cây cối, nên nói: “Do thiên hoa bao gồm cả hoa từ cây cối”)

 

      Đoạn kinh Vô Lượng Thọ này giảng rơ sự trang nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Hư không đổ mưa hoa, gió thổi cuốn đi, hoa từ cây cối cũng phiêu lăng khắp nơi, đẹp đẽ khôn kể xiết! Hoa rơi xuống đất, kinh nói dầy đến bốn tấc. Lại c̣n tự nhiên bày ra những kiểu dáng đẹp đẽ nhất, chẳng rối loạn. Nếu lúc hoa khô héo, bèn chẳng c̣n nữa! Hoa nơi ấy vĩnh viễn trong sạch, hoa này vừa biến mất, hoa mới lại rơi xuống.

 

(Diễn) Cập chí tiểu ủy, loạn phong xuy khứ giả, Pháp Hoa vân: “Hương phong xuy ủy hoa, cánh vũ tân hảo giả”, thị dă.

() 及 至 小 萎 亂 風 吹 去 者,法 華 云:香 風 吹 萎 花,更 雨 新 好 者,是 也。

(Sao: “Cho đến khi hơi héo, gió mạnh cuốn đi”: Kinh Pháp Hoa nói: “Gió thơm cuốn hoa héo, lại mưa xuống hoa mới”, chính là ư này).

 

      Tây Phương Cực Lạc thế giới có t́nh h́nh ấy.

 

      (Diễn) Hoặc nạn viết: Cực Lạc sở hữu hoa mộc, giai thất bảo thành, bất dĩ xuân sanh, bất dĩ thu tụy, kim năi ủy giả, hà dă?

() 或 難 曰:極 樂 所 有 花 木,皆 七 寶 成,不 以 春 生,不 以 秋 瘁,今 乃 萎 者,何 也?

(Diễn: Chắc sẽ có kẻ bắt bẻ: Tất cả hoa cỏ cây cối trong Cực Lạc đều do bảy báu hợp thành, chẳng sanh trưởng vào mùa Xuân, chẳng xơ xác vào mùa Thu, nay lại có hoa héo là như thế nào?)

 

      Thế giới Cực Lạc là thế giới bất sanh, bất diệt, tất cả hết thảy các pháp đều là bất sanh, bất diệt, lẽ nào có thể khô héo? Có khô héo là có sanh diệt. Trong khi giảng kinh Vô Lượng Thọ, tôi đă thưa bày về Tây Phương Cực Lạc thế giới, người ở bên đó hễ sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, tướng hảo và quang minh đều giống như A Di Đà Phật, chẳng thể nói là sanh ra bèn giống như trẻ nhỏ dần dần trưởng thành. Hễ có sanh trưởng, bèn có sanh, lăo, bệnh, tử. Tây Phương Cực Lạc thế giới là hóa sanh, chẳng hề nói là trưởng thành dần dần, nên hễ sanh về đó bèn sống đời đời. “Hư vô chi thân, vô cực chi thể” (cái thân hư vô, cái thể vô cực). Do đó, họ chẳng có sanh, lăo, bệnh, tử. Nếu họ có sanh trưởng, từ đứa bé dần dần trưởng thành, sẽ nhất định có già, chết. V́ lẽ đó, câu hỏi này rất có lư!

 

      (Diễn) Đáp: Thử hữu nhị nghĩa, nhất giả tùy thuận thử phương cố.

() 答:此 有 二 義,一 者 隨 順 此 方 故。

(Diễn: Đáp: Ở đây có hai nghĩa, một là do tùy thuận phương này).

 

      Chúng ta văng sanh sang đó, [hoa héo là] do tập khí của chúng ta biến hiện. V́ trong thế giới ấy, hết thảy đều là “duy thức sở biến, duy tâm sở hiện”. [Do tập khí, nên chúng ta nghĩ]: “Hoa ấy rơi xuống, lẽ nào chẳng bị héo khô?” Do trong tâm nghĩ nó sẽ bị khô héo, nó liền khô héo. Đây là những người từ các thế giới phương khác mới tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, c̣n mang theo tập khí cũ, nên thấy hiện tượng ấy.

 

      (Diễn) Nhị giả biểu pháp cố, dĩ hoa biểu Bồ Tát chi nhân hạnh.

() 二 者 表 法 故,以 花 表 菩 薩 之 因 行。

(Diễn: Hai là nhằm biểu thị pháp, dùng hoa để biểu thị nhân hạnh của Bồ Tát).

 

      “Hoa” tượng trưng cho nhân hạnh, tu nhân. Hễ tu hành hơi giải đăi, đúng là giống như cái hoa héo. Thật vậy, chẳng giả tí nào! Nơi ao bảy báu bên Tây Phương Cực Lạc thế giới, chúng ta ở nơi đây và chúng sanh trong mười phương thế giới chỉ cần phát tâm, thật sự mong sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, trong ao bảy báu bèn trổ một đóa hoa sen. Nếu quư vị niệm Phật rất tinh tấn, rất siêng năng, hoa ấy ngày càng to hơn, quang minh và màu sắc ngày càng đẹp đẽ hơn. Ở nơi đây, chúng ta phát tâm chịu niệm, hoa ấy được vun bồi thêm. Nếu chúng ta giải đăi, ngă ḷng, chẳng muốn niệm nữa, hoặc chẳng tin pháp môn này, đổi sang học pháp môn khác, hoa ấy liền khô rụng, chẳng c̣n nữa! Hoa héo rũ trong Tây Phương Cực Lạc thế giới là do A Di Đà Phật thị hiện một sự cảnh giác rất lớn, khuyên Bồ Tát phải tinh tấn, hễ giải đăi đôi chút, màu hoa ấy sẽ kém hẳn. Ư nghĩa này hết sức hay!

 

      (Diễn) Sảo hữu giải đăi, như hoa chi tiểu ủy, tắc cổ dĩ Bát Nhă chi phong, khử kỳ giải đăi, trùng gia tinh tấn, như xuy khứ ủy hoa, cánh vũ tân hảo dă.

() 怠,如 萎,則 風,去 怠,重 ,如 也。

(Diễn: Hễ hơi có giải đăi, như hoa hơi héo, bèn nổi gió Bát Nhă để trừ khử sự giải đăi ấy, lại tăng thêm tinh tấn, như thổi sạch hoa héo, lại mưa hoa mới vậy).

 

      Chúng ta phải hiểu ư nghĩa này. Trước mắt, chúng ta cúng Phật bằng hoa tươi cũng nhằm biểu thị ư nghĩa này. Cúng một hai ngày, hoa héo, liền biết là giải đăi. Lại cúng hoa mới là lại tinh tấn, lại nỗ lực, biểu thị ư nghĩa này. Nay chúng ta thường cúng [hoa] trong Phật đường, nhưng chẳng biết ư nghĩa. Tuy nói ra, quư vị cũng hiểu, nhưng chẳng thể vận dụng trong cuộc sống, chẳng thể dùng chuyện này để niệm niệm nhắc nhở chính ḿnh. Nói cách khác, tập khí của chúng ta quá nặng, vẫn chẳng thể chuyển được, công phu chẳng đắc lực. Nếu quư vị thật sự chuyển được, công phu quyết định đắc lực. Trong nhà quư vị thờ Phật cũng là như thế. Không chỉ là cúng Phật, mà bất luận ở nơi đâu, những hoa cỏ quư vị trông thấy đều là biểu thị pháp. V́ thế, vừa thấy hoa, bèn nghĩ chính ḿnh phải tinh tấn. Thấy hoa sắp héo, sắp rụng, bèn nghĩ đến sự giải đăi. Trông thấy hoa nở rất đẹp đẽ, rất sum suê, [bèn thấy] đó là tinh tấn. Không nhất định là nh́n trong Phật đường, mà tất cả bất cứ chỗ nào trông thấy hoa, đều biểu thị ư nghĩa này. Thường tương ứng với tự tánh như vậy sẽ là tốt đẹp.

 

      (Sớ) Xứng Lư, tắc tự tánh khai giác, thị hoa nghĩa.

       (Diễn) Tự tánh khai giác thị hoa nghĩa giả, dĩ Viên Giác chi tâm, như hoa khai, minh chiếu thập phương sát cố.

      () 稱 理,則 自 性 開 覺,是 華 義。

  () 自 性 開 覺 是 華 義 者,以 圓 覺 之 心,如 花 開,明 照 十 方 剎 故。

      (Sớ: Xứng Lư th́ tự tánh khai giác là ư nghĩa của hoa.

Diễn: “Tự tánh khai giác là ư nghĩa của hoa”: Do cái tâm Viên Giác giống như hoa nở, soi rơ các cơi nước trong mười phương).

 

      “Viên” là viên măn, “Giác” là giác ngộ, giác chứ chẳng mê, ví như hoa nở. “Minh chiếu thập phương sát cố”, Minh là hiểu rơ, Chiếu là chiếu kiến, [hiểu rơ, thấy thấu suốt] các cơi nước của chư Phật trong mười phương. Nói thu nhỏ hơn đôi chút, sẽ là hoàn cảnh trước mắt chúng ta, tức là hoàn cảnh vật chất và hoàn cảnh nhân sự, thứ ǵ cũng hiểu rơ, tức là thứ ǵ cũng thông đạt, chẳng bị mê hoặc. Đó là Bát Nhă hiện tiền, tâm quư vị giác, chứ không mê!

 

      (Diễn) Phật Địa Luận vân: “Như đại mộng giác, như liên hoa khai”, thị dă.

       () 佛 地 論 云:如 大 夢 覺,如 蓮 華 開,是 也。

      (Diễn: Phật Địa Luận nói: “Như tỉnh giấc mộng lớn, như hoa sen nở” là nói về điều này).

 

      Hai câu này đều là tỷ dụ tự tánh lưu lộ. Tự tánh của chúng ta bị Phiền Năo Chướng và Sở Tri Chướng ngăn trở, chẳng thể hiện tiền! Do vậy, bảo quư vị hăy buông tham, sân, si, mạn xuống. Đó là trừ khử Phiền Năo Chướng; bảo quư vị chớ nên đọc nhiều, nghe nhiều, ḥng trừ Sở Tri Chướng! Quư vị chớ nên tăng trưởng tà kiến, mà cũng đừng nên tăng trưởng phiền năo, có ư nghĩa như vậy.

 

      (Sao) Tự tánh tại mê, như hoa thượng nhụy.

       () 自 性 在 迷,如 華 尚 蕊。

      (Sao: Tự tánh đang mê, giống như hoa c̣n búp).

 

      “Nhụy” () là nụ hoa. Khi tự tánh mê, hoa vẫn chưa nở, nên nói là búp hoa.

 

      (Sao) Tự tánh hốt ngộ, như hoa chánh khai.

       () 自 性 忽 悟,如 華 正 開。

      (Sao: Chợt ngộ tự tánh, như hoa nở tung).

 

      Đây là tỷ dụ.

 

      (Sao) Hựu diệu sắc hoán lạn, bất hội nhi thành, diệu hương phức úc, bất hành nhi chí.

() 又 妙 色 煥 爛,不 繪 而 成,妙 香 馥 郁,不 行 而 至。

(Sao: Lại nữa, mầu sắc nhiệm mầu rạng ngời, chẳng vẽ vời mà thành, mùi hương ngào ngạt, chẳng đi mà đến).

 

      Nói về Tánh Hoa, hoàn toàn nói đến Tánh Đức. Đối với người tu hành mà nói, điều này rất trọng yếu. Nếu chư vị lưu ư đôi chút, [sẽ biết] trên thân con người có quang minh. Hiện thời, có rất nhiều người học Khí Công, tu học đến mức độ khá, sẽ có thể thấy quang minh của người khác. Rơ rệt nhất là trên thân mỗi người đều có hơi hướng. Nếu hơi hướng nơi thân chẳng dễ ngửi, người khác tiếp xúc bèn tránh ra xa, chính ḿnh phải cảnh giác: Bản thân ta tội nghiệp rất nặng, phải nghiêm túc tu hành, quyết định có thể tiêu trừ [nghiệp chướng] ấy!

 

      (Sao) Hoa vũ tự không, bất chủng nhi sanh, bất thải nhi hạ, tự tánh thần linh thông đạt, diệc phục như thị.

() 華 雨 自 空,不 種 而 生,不 採 而 下,自 性 神 靈 通 達,亦 復 如 是。

(Sao: Mưa hoa từ không trung, chẳng trồng mà sanh, chẳng ngắt mà rơi xuống, [biểu thị] tự tánh thần kỳ, linh diệu, thông đạt cũng giống như vậy đó).

 

      Hoa từ không trung rơi xuống, cây báu trong Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng cần trồng trọt, tự nhiên sanh trưởng. Hoa chẳng cần ngắt hái, tự nhiên có thể rơi xuống, thảy đều là “tự tánh thần, linh, thông đạt”, cũng là thần thông trong tự tánh, là Tánh Đức lưu lộ.

 

      (Diễn) Như hoa thượng nhụy giả, mê tắc nhất vô sở giác cố.

  () 如 花 尚 蕊 者,迷 則 一 無 所 覺 故。

      (Diễn: “Như hoa c̣n búp”: Hễ mê th́ chẳng giác một điều nào).

      Giống như hoa chưa nở.

 

      (Diễn) Như hoa chánh khai giả, ngộ tắc vạn pháp lăng nhiên cố.

       () 如 花 正 開 者,悟 則 萬 法 朗 然 故。

      (Diễn: “Như hoa nở tung”: Ngộ th́ vạn pháp rạng ngời).

 

      Sau khi đă giác ngộ, muôn pháp rạng ngời, giống như hoa nở. Dùng hoa để tượng trưng cho tự tánh.

 

      (Diễn) Thần linh thông đạt diệc phục như thị giả, dĩ thập pháp giới y, chánh, sắc, tâm, tuần nghiệp phát hiện, vô chủ tŕ giả, vô tạo tác giả, vô phân tích giả, giai tự tánh nhậm vận, bất tư nghị chi vô tác diệu dụng như thị dă.

() 神 靈 通 達 亦 復 如 是 者,以 十 法 界 依 正 色 心,循 業 發 現,無 主 持 者、無 造 作 者、無 分 析 者,皆 自 性 任 運,不 思 議 之 無 作 妙 用 如 是 也。

(Diễn: “Thần linh thông đạt cũng giống như thế”: Do y báo, chánh báo, sắc, tâm của mười pháp giới thuận theo nghiệp mà hiện ra, chẳng có kẻ chủ tŕ, chẳng có kẻ tạo tác, chẳng có kẻ chia chẻ, đều là do diệu dụng tùy ư vô tác chẳng thể nghĩ bàn của tự tánh là như thế đó).

 

      Trong hai bộ kinh Lăng Nghiêm và Viên Giác, đức Phật đă giảng đạo lư này rất cặn kẽ. Do “tuần nghiệp phát hiện” (theo nghiệp mà phát khởi, hiện ra), nên hết thảy muôn pháp không có người chủ tŕ, không có người tạo nghiệp, không có người chia chẻ, quư vị nghiên cứu tu học, sẽ phí uổng công phu! Hằng ngày quư vị đều đọc tụng, nghiên cứu, có thể đạt được ǵ? Đạt được tà tri tà kiến. Phật pháp cầu ǵ? Cầu tự tánh khai phát, hết thảy thông đạt; bất luận tông nào hay phương pháp nào, đều tuân theo nguyên lư này. Người hiện thời học Phật dùng phương pháp học vấn của thế gian để nghiên cứu Phật học, nên đă đọc kinh điển như [đọc các sách vở thuộc] học vấn thế gian. Cổ nhân chẳng làm như vậy, cổ nhân dùng kinh Phật để tu Giới, Định, Huệ, nên chỉ có đọc tụng, chẳng giải thích. Trong các buổi giảng, tôi đă nói với quư vị rất nhiều lần: Đọc kinh là Tam Học Giới, Định, Huệ hoàn thành cùng một lượt, cổ nhân dùng phương pháp này. Hiện thời, chúng ta coi Phật pháp như học vấn thế gian, hoặc triết học để nghiên cứu, suốt một đời học pháp thế gian, chẳng phải là Phật pháp, đi ngược đường lối với Phật pháp, chúng ta nhất định phải hiểu rơ điều này. Hôm nay chúng tôi giảng tới chỗ này.

 

Tập 156

 

      Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bổn, trang ba trăm ba mươi sáu:

 

      Nhị, tŕ dĩ cúng Phật.

      (Kinh) Kỳ độ chúng sanh, thường dĩ thanh đán, các dĩ y kích, thịnh chúng diệu hoa, cúng dường tha phương thập vạn ức Phật, tức dĩ thực thời, hoàn đáo bổn quốc.

      二、持 以 供 佛。

  () 其 土 眾 生。常 以 清 旦。各 以 衣 裓。盛 眾 妙 華。供 養 他 方 十 萬 億 佛。即 以 食 時。還 到 本 國。

      (Hai, cầm hoa cúng Phật.

Kinh: Chúng sanh cơi ấy thường vào sáng sớm, mỗi người dùng lẵng đựng hoa, chứa các hoa mầu nhiệm, cúng dường mười vạn ức Phật ở phương khác, liền ngay trong khoảng bữa ăn, trở về nước ḿnh).

 

      Đoạn nhỏ này là “tŕ dĩ cúng Phật”, tức là dùng hoa trời cúng dường chư Phật ở phương khác. Kinh nói Tây Phương Cực Lạc thế giới cách thế giới Sa Bà mười vạn ức cơi Phật; ở đây, Thích Ca Mâu Ni Phật đặc biệt nói rơ với chúng ta “cúng dường tha phương thập vạn ức Phật” (cúng dường mười vạn ức Phật ở phương khác). Con số “mười vạn” bằng đúng khoảng cách [giữa Cực Lạc và Sa Bà], hàm nghĩa quư vị sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, mỗi ngày đều có thể trở về nh́n lại Sa Bà. “Thường dĩ” (thường lấy) là không gián đoạn, quư vị có thể thường xuyên trở về nh́n lại. Đó là phương tiện quyền xảo thuyết pháp. Trên thực tế, năng lực thần thông của chúng sanh trong Tây Phương Cực Lạc thế giới không chỉ là mười vạn ức! Nói “mười vạn ức” tương ứng với mười vạn ức cơi Phật, dụng ư ở chỗ này. Thần thông và đạo lực của họ thật sự quá lớn, từ kinh Vô Lượng Thọ, chúng ta đă thấy: Dẫu là những kẻ hạ hạ phẩm văng sanh, năng lực thần thông của họ đều rất gần với A Di Đà Phật, cũng có thể nói là gần như bằng với Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Thế Chí. Trong tầm mắt của họ, mười vạn ức quá nhỏ bé!

 

      (Diễn) Tiền kinh văn vân “quá thập vạn ức Phật độ”, kim kinh văn diệc vân “cúng dường tha phương thập vạn ức Phật”, tắc tri thập vạn ức giả, thị biểu số chi cực đa, do Hoa Nghiêm chi dĩ thập biểu vô tận dă.

() 前 經 文 云:過 十 萬 億 佛 土,今 經 文 亦 云:供 養 他 方 十 萬 億 佛。則 知 十 萬 億 者,是 表 數 之 極 多,猶 華 嚴 之 以 十 表 無 盡 也。

 (Diễn: Kinh văn trong phần trước đă nói “qua mười vạn ức cơi Phật”, kinh văn ở đây cũng nói “cúng dường mười vạn ức Phật ở phương khác”, nên biết “mười vạn ức” biểu thị số lượng nhiều đến tột cùng, giống như kinh Hoa Nghiêm dùng “mười” để biểu thị vô tận).

 

      Ư nghĩa này cũng được giảng hết sức hay!

 

      (Sớ) Thử ngôn thiên sở vũ hoa, chúng sanh tŕ thủ cúng Phật dă. Chúng sanh giả, trừ Phật nhi ngôn dă. Thanh đán giả, lục thời chi nhất dă. Y kích giả, thịnh hoa chi khí dă. Cúng tất hoàn quốc, do tại thực thời, dĩ Thần Túc cố.

() 此 言 天 所 雨 華,眾 生 持 取 供 佛 也。眾 生 者,除 佛 而 言 也。清 旦 者,六 時 之 一 也 。衣 裓 者,盛 華 之 器 也。供 畢 還 國,猶 在 食 時,以 神 足 故。

(Sớ: Ở đây là nói hoa mưa xuống từ cơi trời, chúng sanh lấy hoa ấy cúng Phật. “Chúng sanh” là nói tới những người trừ Phật ra. “Sáng sớm” là thời đầu tiên trong sáu thời. “Y kích” là đồ đựng hoa. Cúng xong trở về nước, vẫn thuộc trong thời gian một bữa ăn, là do Thần Túc Thông vậy).

 

      Trong phần trước đă nói tới hoa trời, đại chúng trong thế giới Cực Lạc dùng hoa trời ấy để cúng dường chư Phật. Thời gian cúng dường vào lúc sáng sớm. Sáng sớm là lúc tốt nhất để lễ Phật, thỉnh an, nghe pháp. Tại Tây Phương Cực Lạc thế giới, vào mỗi sáng sớm, mọi người ở đó đều đến mười phương thế giới lạy Phật. Chúng ta trong thế gian này, phước rất mỏng, chẳng gặp được một vị Phật nào, người trong cơi kia phước báo quá lớn, mỗi ngày đều có thể lạy rất nhiều vị Phật. Chúng ta hằng năm, hiện thời rất nhiều đạo tràng lạy Vạn Phật Sám [vào dịp đầu năm], chỉ có hơn một vạn hai ngàn danh hiệu Phật, cũng chẳng qua là xướng niệm mà thôi, một vị Phật cũng chẳng thấy! Quư vị đến Tây Phương thế giới, mỗi ngày, kinh nói con số tối thiểu là mười vạn ức Phật! Mười vạn ức Phật gặp gỡ họ mỗi ngày, quư vị nghĩ xem, phước báo nhiều ngần ấy! Lạy Phật xong, trở về nhằm đúng lúc ăn sáng. Quư vị nghĩ xem, thời gian rất ngắn, họ có thần thông to dường ấy! Có lẽ chúng ta hoài nghi, mười vạn ức Phật? Được rồi! [Cứ tính là lạy] một vị Phật mất một giây, thôi rồi, phải mất nhiều năm! Chư vị hăy nên biết: Người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới có thuật phân thân, trong khoảng một sát-na, đồng thời phân thành mười vạn ức thân, trước mỗi vị Phật đều có họ, họ có năng lực chẳng thể nghĩ bàn! Ở nơi đây, chúng ta chẳng có thuật phân thân, nên chúng ta muốn đến lạy, bèn lạy từng vị một, mệt chết luôn! C̣n họ đến lễ bái đồng thời, phước báo to tát! Nếu chúng ta mong đạt được phước báo ấy, nói thật ra, chẳng khó, trong một đời này quyết định có thể thành tựu, nhưng nhất định phải chuyên tu, phải y giáo phụng hành.

 

      (Sao) Trừ Phật giả, duy Phật nhất nhân độc xưng Đại Giác.

      () 除 佛 者,唯 佛 一 人 獨 稱 大 覺。

(Sao: “Trừ Phật ra”: Chỉ riêng một ḿnh đức Phật được gọi là Đại Giác).

 

      Nói “chúng sanh” th́ chẳng bao gồm Phật, v́ sao? Phật là đại giác rốt ráo. Nói đến “chúng sanh” th́ Bồ Tát đều có thể gọi là chúng sanh, v́ Bồ Tát tuy giác, nhưng giác chưa viên măn. Chúng ta thường nói “cửu pháp giới chúng sanh”. “Chín pháp giới” bao gồm Bồ Tát pháp giới. Chín pháp giới th́ dưới là lục đạo, trên là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát. Đẳng Giác Bồ Tát vẫn thuộc về chúng sanh, đến lúc thành Phật mới chẳng gọi là “chúng sanh”.

 

      (Sao) Dĩ chí văng sanh bỉ quốc sơ tâm phàm phu, giai danh chúng sanh dă, dĩ sanh Phật tương đối cố.

() 以 至 往 生 彼 國 初 心 凡 夫,皆 名 眾 生 也,以 生 佛 相 對 故。

(Sao: Cho đến sơ tâm phàm phu văng sanh cơi ấy đều gọi là “chúng sanh”, do đối ứng giữa chúng sanh và Phật).

 

      Chúng sanh và Phật là danh xưng được kiến lập tương đối.

 

(Sao) Lục thời chi nhất giả, thanh đán, ư trú thời vi tối tiên.

  () 六 時 之 一 者,清 旦,於 晝 時 為 最 先。

(Sao: “Thứ nhất trong sáu thời”: Sáng sớm là lúc đầu tiên vào ban ngày).

 

      Đây là lúc sớm mai, sáng sớm cúng Phật là cung kính nhất. V́ sáng sớm thức dậy, thân tâm thanh tịnh, dùng tâm thanh tịnh lễ Phật, cúng dường Phật. V́ thế, đối với khóa tụng của chúng ta, khóa sáng hết sức trọng yếu. Đối với khóa sáng của các đồng tu tại gia, nếu quư vị chẳng phải là phụ nữ có nghề nghiệp, chức trách, không cần đi làm, khóa sáng của quư vị dài một chút không sao! Nếu công việc rất bận rộn, khóa sáng ngắn một chút, chớ nên quá dài. Điều khẩn yếu là đừng thiếu ngày nào, điều này trọng yếu, mới phù hợp với điều kinh đă dạy: “Một mực chuyên niệm”. Nếu ấn định công khóa dài, do thực hiện không được bèn thiếu sót, tức là chẳng hợp với ư kinh! Khóa tụng sáng tối đơn giản nhất là pháp Thập Niệm. Quyết định chớ nên coi rẻ Thập Niệm, từ xưa tới nay, người tu pháp Thập Niệm văng sanh rất đông; do đó, người công việc bận rộn dùng phương pháp này hết sức thuận lợi. Trừ mười niệm, tức là ngoài khóa niệm sáng tối đă ấn định ra, những lúc b́nh thường được gọi là “tán khóa”. Tán khóa không cần đếm số, ít hoặc nhiều chẳng sao cả. Hễ có chuyện ǵ bèn buông xuống, chuyên tâm làm việc. Làm xong chuyện, lại dấy lên Phật hiệu, như vậy là tốt đẹp! Nói chung là đừng để gián đoạn.

      Đọc kinh tốt nhất là thâm nhập một môn, đọc một bộ kinh. Tâm chuyên th́ mới dễ dàng niệm đến mức công phu thành phiến, niệm đến mức nhất tâm bất loạn. Quư vị hành hai ba thứ, chắc chắn là phân tâm, chắc chắn gây chướng ngại cho nhất tâm. Do đó, người chuyên tu niệm, khóa tụng sáng tối chẳng cần dùng sách khóa tụng thông thường trong nhà chùa, vừa niệm kinh, vừa xướng tán, vừa niệm chú. Lại c̣n phải niệm rất nhiều loại chú, tối thiểu là chú Đại Bi, chú Lăng Nghiêm, mười chú nhỏ, niệm nhiều như thế chẳng có tác dụng, không bằng chuyên niệm kinh A Di Đà, chuyên niệm A Di Đà Phật. Trong Tây Phương Xác Chỉ, Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát đă dạy chúng ta một phương pháp thực dụng nhất, mà cũng khẩn yếu nhất. Phương pháp của Ngài cũng [thích hợp] cho những kẻ b́nh phàm chúng ta có thời gian để tu học. Một buổi tụng niệm như Ngài dạy là một cây hương, một quyển kinh A Di Đà, ba biến chú Văng Sanh, niệm Phật một ngàn câu, sau đó là hồi hướng, hết sức đơn giản.

      Trong khóa tụng sáng tối th́ kinh Di Đà tốt hơn kinh Vô Lượng Thọ, ngắn mà! Mọi người niệm rất thuộc. B́nh thường đọc kinh th́ mong là đọc kinh Vô Lượng Thọ mỗi ngày một lần, c̣n kinh Di Đà dùng như công khóa sáng tối, hai bộ kinh này là đồng bộ, tức là Đại Bổn và Tiểu Bổn. V́ sao bảo quư vị mỗi ngày niệm kinh Vô Lượng Thọ một lần? Khiến cho quư vị hiểu rơ Tây Phương Cực Lạc thế giới, tín tâm kiên cố, chí nguyện chẳng dời, có quá nhiều lợi lạc. V́ kinh Di Đà nói ngắn gọn, có nhiều chỗ chẳng giảng cặn kẽ, nên người tu Tịnh Độ thường là tu vài chục năm, đến cuối cùng thay đổi chủ ư, quay sang học thứ khác, rất đáng tiếc. V́ sao họ thay đổi chủ ư? Do nhận thức Tịnh Độ chẳng thấu triệt, đó cũng là như cư sĩ Mai Quang Hy đă nói: “Do v́ không đọc Đại Kinh”. Kinh Vô Lượng Thọ giảng giải cặn kẽ, nhưng họ chẳng đọc, nên không biết, một nguyên nhân là như vậy đó! V́ thế, đối với Tây Phương Cực Lạc thế giới, quư vị càng liễu giải nhiều, càng nhận thức rơ ràng, trong tâm quư vị càng hoan hỷ, nguyện càng khẩn thiết, tín tâm càng thanh tịnh, càng kiên cố, lẽ nào chẳng văng sanh? Quyết định văng sanh! V́ thế, khóa tụng sớm tối hết sức quan trọng.

 

      (Sao) Hựu đán thị dạ khí thanh minh chi tế.

      () 又 旦 是 夜 氣 清 明 之 際。

(Sao: “Đán” lại có nghĩa là trời đêm tĩnh lặng, trong trẻo).

                                                                                           

      Những lời này đều để nói với chúng ta. Trên thực tế, Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có ngày hay đêm.

 

      (Sao) Thanh đán cúng Phật, thủ tâm tịnh dă. Bỉ quốc chúng sanh, tuy trú dạ nhất tâm, cố vô thanh trược, nhi vị đăng Phật địa, do hữu vô minh, xúc sự thiệp duyên, bất vô thiểu động, diệc dĩ b́nh đán hiệu thanh minh tâm, diệc khả tùy thuận thử phương ngôn thanh đán dă.

() 清 旦 供 佛,取 心 淨 也。彼 國 眾 生,雖 晝 夜 一 心,固 無 清 濁,而 未 登 佛 地,猶 有 無 明,觸 事 涉 緣,不 無 少 動,亦 以 平 旦 號 清 明 心,亦 可 隨 順 此 方 言 清 旦 也。

(Sao: “Sáng sớm cúng Phật”, cốt yếu là tâm tịnh. Chúng sanh trong cơi ấy, tuy ngày đêm đều nhất tâm, nên chẳng có thanh hay trược, nhưng do chưa đạt đến địa vị Phật, vẫn c̣n có vô minh, gặp sự chạm duyên, chưa thể chẳng có chút động tâm nào, nên cũng dùng chữ “rạng sáng” để mệnh danh cái tâm thanh tịnh, mà cũng có thể là do tùy thuận phương này mà nói là “sáng sớm”).

 

      Hai ư nghĩa này đều có. Chúng tôi vừa mới nói với quư vị, do tùy thuận chúng ta ở phương này, có ư nghĩa đặc biệt thiên trọng giáo huấn chúng ta. Văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, trí huệ và phước báo gần như bằng Phật, đều là do thần lực của A Di Đà Phật gia tŕ, trọn chẳng phải do công phu của chính ḿnh đạt được, chư vị phải hiểu điều này! Bản thân quư vị là đới nghiệp văng sanh, đến bên đó có chín phẩm hay không? Đúng là có chín phẩm. Tuy có chín phẩm, nhưng trong chín phẩm, trọn chẳng có giới hạn, cuộc sống ḥa hợp như một. Xét theo phương diện cuộc sống th́ chẳng chia ra cửu phẩm, nhưng trong nội tâm của chính ḿnh, vô minh nhẹ hay nặng đích xác là khác hẳn. Tuy là hạ hạ phẩm văng sanh, nhưng đến Tây Phương Cực Lạc thế giới có thể cùng đứng, cùng ngồi với Quán Thế Âm Bồ Tát, nhưng rốt cuộc Quán Âm Bồ Tát chỉ có một phẩm sanh tướng vô minh chưa phá, c̣n chúng ta là bốn mươi mốt phẩm vô minh, Trần Sa, Kiến Tư, một phẩm vẫn chưa đoạn. Nghiệp chướng nặng nề dường ấy, sang bên ấy cũng c̣n một chút tâm t́nh, t́nh cảm có lúc cao, lúc thấp. Khi cao trào giống như buổi sáng, lúc thoái trào bèn giống như đêm thâu. Tuy có cao, thấp, nhưng cao, thấp hết sức nhẹ, trọn chẳng rất nặng, đó là do thần lực gia tŕ. Phật lực gia tŕ quư vị, c̣n có chư đại Bồ Tát, chư thượng thiện nhân cùng nhóm lại một chỗ. Tâm t́nh tuy [có lúc] xuống thấp, nhưng ít khi xuống thấp, người bên ấy lại c̣n giúp đỡ, nhắc nhở quư vị, đó là một nhân tố trọng yếu nhất khiến cho người trong thế giới Tây Phương chứng trọn vẹn ba món Bất Thoái.

      Ở bên đó, sáu trần thuyết pháp, các vị thượng thiện nhân đều nhóm họp một chỗ, những điều này đều là những nhân tố trọng yếu khiến cho [hành nhân trong Cực Lạc] chẳng thoái chuyển. Trong thế giới này, chúng ta trong có phiền năo, ngoài có ác duyên, lui sụt rất nhanh! Tiến rất khó khăn, lùi rất nhanh chóng. Chúng ta thấy có rất nhiều người tu hành rất khá, nhưng ngă ḷng, chúng ta cảm thấy hết sức tiếc hận, v́ sao lại ngă ḷng? Rất đơn giản, người ấy chẳng thể khuất phục phiền năo trong nội tâm, công phu niệm Phật của người ấy chẳng thể khuất phục phiền năo! Niệm Phật mà chẳng thể khuất phục phiền năo th́ thưa cùng quư vị, những phương pháp khác càng chẳng thể trông cậy, chư vị phải biết điều này! Kinh nói “niệm Phật bèn có hai mươi lăm vị Bồ Tát ngày đêm bảo hộ quư vị”, mà quư vị vẫn chẳng thể khuất phục phiền năo! Quư vị tu pháp môn khác, chẳng có công đức to lớn ngần ấy!

      Nếu chúng ta suy xét sâu hơn một tầng nữa, v́ sao người ấy chẳng thể khuất phục phiền năo? Thưa cùng quư vị, người ấy thiếu tâm cung kính, tâm học đạo không chân thành, chẳng cung kính. Nếu thật sự chân thành, cung kính, cảnh duyên bên ngoài chẳng dễ ǵ lay động kẻ ấy, chính người ấy có năng lực khống chế cảnh duyên. V́ thế, do tâm chúng ta không chân thành, thiếu ư cung kính. Kinh thường nhắc đi nhắc lại “hết thảy cung kính”, điều này rất có lư! Sách Lễ Kư của Nho gia có câu: “Khúc Lễ viết: Vô bất kính” (Khúc Lễ nói: “Không ǵ chẳng cung kính”), “kính” rất trọng yếu. Điều thứ nhất trong mười đại nguyện vương là “lễ kính chư Phật”. Người nếu giữ ḷng thành kính, sẽ không chỉ chẳng vọng động, mà c̣n chẳng dấy một ác niệm, [v́ nếu] dấy lên một niệm sẽ chẳng kính, đă đánh mất ḷng cung kính. Nh́n từ chỗ này, bất luận người nghiên cứu Phật học sâu cỡ nào, uyên bác cỡ nào, giảng hay cỡ nào, tu nhiều cỡ nào, nếu vẫn bị cảnh giới bên ngoài lay động, vừa bị khảo thí liền chẳng đạt tiêu chuẩn, như vậy là vô dụng, không qua nổi khảo thí! Đó là mấu chốt quan trọng quyết định sự thành bại trong một đời của chúng ta.

      V́ vậy, nói đúng ra, những người trong Tây Phương thế giới chưa đăng địa (chưa chứng nhập Sơ Địa), cũng tức là những người chưa phá vô minh, “xúc sự thiệp duyên, bất vô thiểu động” (gặp chuyện chạm duyên, không thể chẳng có chút lay động nào), c̣n bị dao động đôi chút. Dao động đôi chút đừng sợ, ngoại duyên trong Tây Phương Cực Lạc thế giới tốt đẹp. Ở cơi này, chúng ta dao động th́ không được rồi! Ngoại duyên rất tệ, quư vị vừa dao động, ngoại duyên sẽ khiến cho quư vị bị chấn động trên một mức độ lớn. Trong thế giới Tây Phương, tâm quư vị vừa động, các vị Bồ Tát đều biết, biết tâm quư vị bị động, ngay lập tức thuyết pháp, đến an ủi quư vị, khiến cho quư vị lập tức khôi phục b́nh lặng, an tĩnh, có ư nghĩa này. Người ấy khôi phục tâm b́nh lặng, an tĩnh, đó là tâm thanh tịnh; khi ấy, sẽ giống như trời rạng sáng, “rạng sáng” có ư nghĩa này!

 

      (Sao) Thường giả, nhật nhật hằng nhiên, vô b́ yếm cố.

       () 常 者,日 日 恆 然,不 疲 厭 故。

      (Sao: “Thường” là mỗi ngày đều như thế, v́ chẳng chán mệt).

 

      “Thường” là mỗi ngày đều như thế. Bởi lẽ, thế giới Tây Phương là thế giới hết sức cởi mở, chắc chắn A Di Đà Phật chẳng nói: “Quư vị đến thế giới của ta, chỉ có thể nghe ḿnh ta thuyết pháp, chẳng được phép nghe ai khác thuyết pháp! A Di Đà Phật chẳng như vậy! A Di Đà Phật cởi mở, quư vị đến chỗ ta, đến ngày hôm nay th́ ngày mai có thể đi thăm viếng thế giới phương khác, chúng ta thấy điều này trong kinh. Trong kinh trọn chẳng nói sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ bị hạn chế phải ở nơi đó bao lâu rồi mới có thể đi ra ngoài tham học. Chẳng nói! Nói cách khác, quư vị đến ngày hôm nay th́ ngày mai bèn có thể giống như các đồng tu đi cúng dường mười vạn ức Phật ở phương khác, có năng lực ấy. Hạ hạ phẩm văng sanh cũng có năng lực ấy.

      Nhưng chư vị phải biết: Quư vị đến tham phỏng mười phương chư Phật, mười phương chư Phật sẽ thuyết pháp ǵ cho quư vị? Đều là dạy pháp môn Niệm Phật! Thật vậy, chẳng giả! V́ sao? Tới Tây Phương Cực Lạc thế giới là chân thật nhất trong các thứ chân thật, là Nhất Chân pháp giới của các Nhất Chân pháp giới, là liễu nghĩa của liễu nghĩa, là pháp giới rốt ráo nhất, triệt để nhất, viên măn nhất. Học điều ǵ trong pháp giới ấy? Pháp môn Niệm Phật. Từ thế giới này đến các phương khác tham phỏng chư Phật, đương nhiên chư Phật giảng cho quư vị pháp môn bậc nhất thù thắng nhất trong hết thảy các pháp, pháp môn bậc nhất là ǵ? Là kinh A Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ, niệm Phật thành Phật, giảng cho quư vị pháp môn này. Nếu quư vị không tin tưởng, đọc kinh Hoa Nghiêm sẽ thấy nói “Thập Địa Bồ Tát từ đầu tới cuối chẳng ĺa niệm Phật”, mới biết pháp môn này được hết thảy chư Phật tán thán, hết thảy chư Phật hoằng dương. Đối với các pháp môn khác, kinh điển chẳng nói như vậy! Nói cách khác, quư vị đến tham phỏng mười phương hết thảy chư Phật, sẽ nghe pháp hoàn toàn giống như A Di Đà Phật đă giảng, c̣n có hoài nghi chi nữa? Một tí hoài nghi cũng không có! Quư vị đến tham phỏng đức Phật khác, đức Phật khác dạy: “Niệm Phật vẫn chưa được, tham Thiền vẫn là khẩn yếu hơn!” Phật chẳng khuyên quư vị như vậy, Phật vẫn khuyên quư vị niệm Phật! Hết thảy chư Phật khác miệng cùng lời khuyên quư vị niệm Phật thành Phật, đó là “tin sâu nhân quả” trong Tam Phước của Quán Kinh. Tin sâu nhân quả: Niệm Phật là nhân, thành Phật là quả, mới biết pháp môn này thù thắng bậc nhất.

      Tôi bảo quư vị, đời này chúng ta gặp được pháp này đúng là may mắn to lớn. Có cần các kinh điển khác nữa hay không? Từ bỏ! Một bộ kinh này là đủ rồi. Bộ kinh này là vô thượng đại pháp. Bộ kinh này là tinh hoa của hết thảy các kinh. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Một chính là hết thảy, hết thảy chính là một”, tức là nói đến bộ kinh này. Thân cận mười phương ba đời hết thảy chư Phật, ngày nào cũng đều như thế! Chẳng phải là rất lâu mới có một lần, mà ngày nào cũng thế. “Vô b́ yếm cố” (v́ không chán mệt), trên là cúng chư Phật, dưới là hóa độ chúng sanh.

 

      (Sao) Các giả, nhân nhân giai nhiên, vô cần nọa cố.

      () 各 者,人 人 皆 然,無 勤 惰 故。

      (Sao: “Các” [có nghĩa là] ai nấy đều như vậy, chẳng có siêng hay lười).

 

      Mỗi cá nhân trong Tây Phương Cực Lạc thế giới đều là như vậy, đều có năng lực ấy, đều có trí huệ và thần thông ấy. Dưới đây là giải thích về “y kích”.

 

      (Sao) “Thịnh hoa khí” giả, Chân Đế vị y kích vi ngoại quốc thịnh hoa chi khí.

       () 盛 華 器 者,真 諦 謂 衣 裓 為 外 國 盛 華 之 器。

      (Sao: “Lẵng đựng hoa”: Ngài Chân Đế nói “y kích” là cái lẵng đựng hoa của ngoại quốc).  

 

      “Chân Đế” là pháp sư Chân Đế[2], Ngài giải thích lẵng đựng hoa của Cổ Ấn Độ gọi là “y kích”.

 

      (Sao) Hoặc ngôn y khâm, diệc dĩ khâm thịnh hoa dă.

       () 或 言 衣 襟,亦 以 襟 盛 華 也。

      (Sao: Hoặc nói là vạt áo, cũng dùng vạt áo đựng hoa).

 

      Điều này cũng chẳng có cách giảng nhất định. Chúng ta mặc y phục dài, xốc áo lên đựng hoa cũng được, nói như vậy cũng xuôi tai! Nói chung là quư vị ôm hoa đi cúng dường. Nói chung, thứ để đựng hoa được gọi là “y kích”.

 

      (Sao) Tha phương, tự bổn quốc nhi tha phương dă. Bất ngôn bổn quốc, văn tỉnh dă.

() 他 方,自 本 國 而 他 方 也。不 言 本 國 者,文 省 也。

      (Sao: “Phương khác” là từ nước ḿnh cho đến nước khác. Chẳng nói tới nước ḿnh là v́ kinh văn nói gọn vậy).

 

      Đương nhiên, mỗi ngày cúng dường mười vạn ức Phật phương khác, há lẽ nào chẳng cúng dường Bổn Sư A Di Đà Phật? Đương nhiên là nhất định trước hết cúng Bổn Sư, rồi mới cúng dường chư Phật phương khác. Đây là đạo lư nhất định. Kinh không nói tới Bổn Sư v́ tỉnh lược.

 

      (Sao) Thập vạn ức Phật, nhất Phật nhất đại thiên độ, ngôn quảng viễn dă.

       () 十 萬 億 佛,一 佛 一 大 千 土,言 廣 遠 也。

      (Sao: Mười vạn ức Phật, cơi nước của một vị Phật là một tam thiên đại thiên thế giới, ư nói rộng xa).

 

      Khu vực giáo hóa của một vị Phật là một tam thiên đại thiên thế giới. “Mười vạn ức” là nói khoảng cách xa xôi! Mười vạn ức hoàn toàn tương ứng với khoảng cách giữa hai thế giới Sa Bà và Cực Lạc. Có rất nhiều người rất lưu luyến thế giới Sa Bà: “Ta đi xa như vậy, ở đây có thân thích bạn bè nhiều ngần ấy, khi nào ta mới có thể gặp lại?” Nói thật ra, tới Tây Phương Cực Lạc thế giới là gặp mặt mỗi ngày. Chẳng đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, thưa cùng quư vị, vĩnh viễn chẳng thể gặp mặt. Hiện thời, quư vị sống trên đời, bất luận quư vị cảm t́nh tốt đẹp thế nào đi nữa, sau khi đă chết, ai nấy đều có tương lai riêng. Hễ luân hồi trong lục đạo, ai đi đường nấy, sau này mong gặp gỡ lần nữa, chẳng biết là đời nào, kiếp nào? Có lẽ vô lượng kiếp sau mới gặp mặt, đó là thật. Nếu quư vị đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, thưa cùng quư vị, sẽ là mỗi ngày gặp mặt người nhà, quyến thuộc. V́ thế, nếu muốn thường gặp mặt, chẳng thể nào không đến nơi ấy (Cực Lạc)! Lại c̣n phải khuyên bảo thân nhân: “Không nỡ chia ly, vĩnh viễn muốn ở cùng một chỗ th́ làm như thế nào?” Cùng đến Tây Phương, sẽ vĩnh viễn ở cùng một chỗ. Chẳng đến Tây Phương, vĩnh viễn chẳng thể ở cùng một chỗ. Chỉ có đến Tây Phương th́ mới có thể vĩnh viễn ở cùng một chỗ.

 

      (Sao) Thực thời, thần trai thời dă.

       () 食 時,晨 齋 時 也。

      (Sao: “Thực thời” là lúc thọ trai buổi sáng).

 

      Lúc ăn sáng.

 

      (Sao) Thanh đán chí ư thần trai, vi thời chí thiểu.

       () 清 旦 至 於 晨 齋,為 時 至 少。

      (Sao: Từ sáng sớm cho đến lúc ăn sáng, tức là thời gian ít nhất).

 

      Lúc ăn sáng [là lúc] họ đi cúng dường mười vạn ức Phật trở về. Trở về rồi mới ăn sáng, h́nh dung thời gian ngắn ngủi. “Chí thiểu” là ít nhất, [“thời chí thiểu”] là thời gian rất ít.

 

      (Sao) Dĩ chí thiểu thời, cúng chí đa Phật, minh kỳ tốc dă.   

      () 以 至 少 時,供 至 多 佛,明 其 速 也。

      (Sao: Trong thời gian ít nhất, cúng Phật nhiều nhất, tỏ rơ sự nhanh chóng).

 

      Trong thời gian rất ít như vậy, cúng dường Phật nhiều ngần ấy, nêu rơ tốc độ nhanh chóng.

 

      (Sao) Như Đại Bổn ngôn: “Chư đại Bồ Tát, thừa Phật oai thần, nhất thực chi khoảnh, biến chí thập phương vô lượng thế giới, cúng dường chư Phật”.

() 如 大 本 言:諸 大 菩 薩,承 佛 威 神,一 食 之 頃,遍 至 十 方 無 量 世 界,供 養 諸 佛。

(Sao: Như kinh Đại Bổn nói: “Các vị đại Bồ Tát nương vào oai thần của Phật, trong khoảng một bữa ăn, đến khắp mười phương vô lượng thế giới, cúng dường chư Phật”).

 

      Kinh Vô Lượng Thọ nói như vậy, nói rơ ràng. Đối với “mười vạn ức” ở đây, con số mười vạn ức chẳng lớn, thực tại là vô lượng thế giới, vô lượng chư Phật Như Lai. V́ nói “mười vạn ức” chúng ta nghe sẽ cảm thấy thân thiết! Mười vạn ức, trở về ngay lập tức, bao gồm cả thế giới của chúng ta trong đó, bèn biết là mỗi ngày đều có thể quay về.

 

(Sao) Cúng dường chư Phật, hoa, hương, kỹ nhạc, y, cái, tràng, phan, vô số cúng cụ. Nhược dục hiến hoa, tắc ư không trung hóa thành hoa cái, châu tứ thập lư, năi chí lục bách, bát bách lư, các tùy đại tiểu, đ́nh ư không trung, thế giai hạ hướng (hoa giai hướng hạ), dĩ thành cúng dường, phục dĩ diệu âm, ca thán Phật đức, thính thọ kinh pháp, kư cúng dường dĩ, hốt nhiên khinh cử, hoàn đáo bổn quốc, do vi vị thực chi tiền.

() 供 養 諸 佛,華 香 伎 樂,衣 蓋 幢 旛,無 數 供 具,若 欲 獻 華,則 於 空 中 化 成 華 蓋,周 四 十 里,乃 至 六 百 八 百 里,各 隨 大 小,停 於 空 中,勢 皆 下 向(華 皆 向 下)。以 成 供 養,復 以 妙 音,歌 歎 佛 德,聽 受 經 法,既 供 養 已,忽 然 輕 舉,還 到 本 國,猶 為 未 食 之 前。

(Sao: Cúng dường chư Phật, hoa, hương, kỹ nhạc, y phục, lọng, tràng, phan, vô số vật cúng. Nếu muốn dâng hoa, bèn trong hư không hóa thành lọng hoa, tṛn trặn bốn mươi dặm, cho đến sáu trăm hoặc tám trăm dặm, mỗi lọng tùy theo lớn hay nhỏ mà dừng trên không trung, thảy đều hướng xuống dưới (hoa đều hướng xuống phía dưới), để trở thành vật cúng dường. Lại dùng âm thanh vi diệu, ca ngợi Phật đức, nghe, nhận kinh pháp. Đă cúng dường xong, bỗng thân h́nh nhẹ bốc lên cao, trở về nước ḿnh, vẫn chưa đến giờ ăn).

 

      Đoạn văn này là trích dẫn kinh Vô Lượng Thọ. Kinh văn của kinh Vô Lượng Thọ được Liên Tŕ đại sư trích dẫn trong bản chú giải này đa số đều chọn từ bản hội tập của cư sĩ Vương Long Thư. Hiện thời, trong sách Ngũ Kinh Độc Bản của chúng ta, chín phiên bản ấy đều có, chư vị so sánh cẩn thận một phen mới biết bản hội tập của lăo cư sĩ Hạ Liên Cư hay vô cùng. Đối với thầy Hạ, tôi biết một chút tin tức, có thể lăo nhân gia là bậc tái lai. Chẳng phải là bậc tái lai th́ hết sức khó có, cụ niệm Phật xác thực đạt tới mức Lư nhất tâm bất loạn, nên tuyệt đối chẳng phải là kẻ b́nh phàm. Cư sĩ Mai Quang Hy là một vị đại đức lỗi lạc, cụ Mai là thầy của lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam, lúc tuổi già bèn quy y thầy Hạ, tôn cư sĩ Hạ Liên Cư làm thầy, theo học với cụ, quư vị liền biết sự thành tựu của cụ Hạ. Chúng tôi rất muốn công khai lưu truyền những sự tích trong đời cụ Hạ, nên liên lạc với cư sĩ Hoàng Niệm Tổ. Hoàng lăo cư sĩ cho rằng: “Hiện tại, thời cơ vẫn chưa chín muồi. Nếu nói ra, người khác chẳng tin tưởng, sợ người ta hủy báng, tạo khẩu nghiệp”. Tôi vốn muốn xin cụ viết tiểu sử cư sĩ Hạ Liên Cư để in kèm vào kinh này ḥng lưu thông. Cụ Hoàng trả lời: “Thời cơ chưa chín muồi”. Cụ nói: “Xác thực là thầy Hạ đă đắc Lư nhất tâm bất loạn”. Lư nhất tâm bất loạn, trong Viên Giáo là từ địa vị Sơ Trụ trở lên. Nếu nói theo Thiền Tông th́ địa vị ngang hàng với Lục Tổ, tuyệt đối chẳng kém Lục Tổ. Lục Tổ cũng vậy, nói theo Tịnh Độ Tông sẽ là người đắc Lư nhất tâm bất loạn, Thiền Tông nói [người như vậy] là bậc “minh tâm kiến tánh, đại triệt đại ngộ”. Do đó, hội tập đúng là chẳng dễ dàng! Bản hội tập của cụ Hạ vượt trỗi các bản hội tập của Vương Long Thư, Bành Tế Thanh, và Ngụy Nguyên, những bản ấy đều chẳng bằng. Đoạn kinh văn này chẳng cần phải giảng kỹ, v́ kinh Vô Lượng Thọ chúng ta đều đă đọc qua hết rồi!

 

      (Sao) Cứ thử, tắc hữu chủng chủng chư cúng dường cụ, hựu hóa hoa thành cái, hựu cúng tất thính pháp. Kim chỉ ngôn dĩ hoa cúng dường, giai văn tỉnh dă.

() 據 此,則 有 種 種 諸 供 養 具,又 化 華 成 蓋,又 供 畢 聽 法。今 止 言 以 華 供 養,皆 文 省 也。

(Sao: Xét theo đó, ắt có các thứ vật cúng dường, lại hóa hoa thành lọng, lại c̣n cúng xong, nghe pháp. Nay chỉ nói “dùng hoa để cúng dường” th́ đều là nói tỉnh lược).

 

       Trong kinh Vô Lượng Thọ, đoạn này được giảng khá tỉ mỉ, c̣n ở đây văn tự rất đơn giản.

 

(Sao) Thần Túc giả, như Đại Bổn, Pháp Tạng nguyện vân: “Ngă tác Phật thời, ngă sát trung nhân, giai đắc Thần Túc, như nhất niệm khoảnh, quá bách thiên vạn ức na-do-tha thế giới”.

() 神 足 者,如 大 本 法 藏 願 云:我 作 佛 時,我 剎 中 人,皆 得 神 足,如 一 念 頃,過 百 千 萬 億 那 由 他 世 界 。

(Sao: Thần Túc: Như trong kinh Đại Bổn, ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Khi ta thành Phật, người trong nước ta đều đắc Thần Túc, như trong khoảng một niệm, đi qua trăm ngàn vạn ức na-do-tha thế giới”).

 

      Đây là Thần Túc Thông. Trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, dẫu là hạ hạ phẩm văng sanh cũng có năng lực ấy. “Nhất niệm” là thời gian vô cùng ngắn ngủi. Trong thời gian một niệm ngắn ngủi như thế, người ấy có thể đạt đến “trăm ngàn vạn ức na-do-tha thế giới”. Một “thế giới” là một đại thiên thế giới, không chỉ là mười vạn ức! Trăm ức, ngàn ức, vạn ức na-do-tha thế giới. “Na-do-tha” là Vô Ương Số, tức là một con số rất lớn[3]. Phía sau con số trăm ngàn vạn ức là na-do-tha, [đă nói] na-do-tha th́ không chỉ là mười vạn. Có thể thấy họ có thần thông to lớn, tốc độ cực nhanh, trong khoảng một niệm trọn khắp pháp giới.

 

      (Sao) Hựu nguyện vân: “Tức đắc Túc Mạng”, hựu vân Thiên Nhăn, hựu vân Thiên Nhĩ, hựu vân Tha Tâm.

() 又 願 云:即 得 宿 命,又 云 天 眼,又 云 天 耳,又 云 他 心。

(Sao: Lại nguyện rằng: “Liền đắc Túc Mạng”, lại nói Thiên Nhăn, lại nói Thiên Nhĩ, lại nói Tha Tâm).

 

      Đây là phần kinh văn bốn mươi tám nguyện được nói trong kinh Vô Lượng Thọ. Người trong Tây Phương thế giới thiên nhăn thấy thấu suốt, thiên nhĩ nghe thông suốt tận hư không khắp pháp giới. Chúng ta khởi tâm động niệm, nhất cử, nhất động, chẳng thể lừa dối Phật và Bồ Tát trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Phàm là người văng sanh, [dẫu là] kẻ hạ hạ phẩm văng sanh, chúng ta đều chẳng có cách nào dối gạt họ, v́ sao? Người ta đều nh́n thấy. Chúng ta ở nơi đây nói khe khẽ, họ đều nghe được, chẳng thể lừa người khác! Do đó, quư vị đọc kinh Vô Lượng Thọ nhiều lượt, sẽ chẳng dám làm chuyện xấu! Làm chuyện xấu, làm sao có thể văng sanh cho được? Mong đến nơi ấy, nhưng những vị thượng thiện nhân nói: “Quư vị làm sao có thể văng sanh? Suốt ngày từ sáng đến tối đều khởi lên ư niệm xấu, chẳng đủ tư cách văng sanh!” Nhất định phải niệm câu Phật hiệu cho ra cái tâm thanh tịnh; tâm tịnh, ắt cơi tịnh, khi ấy, mới có thể ra đi! Chỉ niệm Phật hiệu suông, tâm không thanh tịnh, vô dụng! Cổ nhân nói là “niệm toác cổ họng vẫn uổng công”, chẳng văng sanh được! Tâm phải thanh tịnh; Phật hiệu là phương tiện, dùng câu Phật hiệu này để đạt tới tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh th́ mới có thể văng sanh cơi ấy.

      Nếu quư vị nhớ kỹ những đoạn kinh văn này, làm sao chúng ta có thể dấy lên một ác niệm cho được? Khởi tâm động niệm, chúng ta liền nghĩ đến A Di Đà Phật, chúng ta có thể nào có lỗi đối với Ngài hay không? Khởi tâm động niệm nghĩ tới số lượng người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới là vô lượng vô biên, chẳng có cách nào tính toán. Trong kinh có nêu một tỷ dụ: Tất cả hết thảy các chúng sanh trong mười phương thế giới đều chứng quả Bích Chi Phật, thần thông đều như Mục Kiền Liên, cùng nhau tính toán, tính toán bao lâu? Ngàn ức năm, vẫn tính chẳng ra số lượng người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Người đông như thế, mắt nhiều như thế, tai nhiều như thế, thấy, nghe quư vị, chúng ta c̣n muốn làm chuyện xấu mà không ai biết ư? Ai nấy đều biết! Huống hồ họ c̣n có Tha Tâm Thông. Tâm chúng ta vừa dấy niệm, họ đều biết, Tha Tâm Thông biết trọn vẹn. Điều này thật sự đáng để chúng ta cảnh giác, chẳng phải là nói giỡn chơi! Chúng ta thật sự mong văng sanh trong một đời này, quư vị phải tin tưởng chuyện này, là thật, chẳng giả! Quư vị phải thời thời khắc khắc cảnh giác, khởi tâm động niệm quyết định chẳng hại người, quyết định chẳng làm chuyện sái quấy! Tâm ta thanh tịnh, thân thanh tịnh, hạnh thanh tịnh, chẳng có ǵ không thanh tịnh, niệm niệm cảm ứng đạo giao cùng Tây Phương Tịnh Độ, được như vậy th́ sẽ có thể vỗ ngực: “Đời này, ta quyết định văng sanh!” Đảm bảo, thật sự đáng tin cậy, chẳng giả chút nào! Cậy vào đâu để văng sanh? Cậy vào điều này, tức là hoàn toàn tương ứng với kinh.

 

      (Sao) Tắc sanh bỉ quốc giả, lục thông tự tại, bất chỉ phi hành. Kim bất ngôn giả, diệc văn tỉnh dă.

() 則 生 彼 國 者,六 通 自 在,不 止 飛 行。今 不 言 者,亦 文 省 也。

(Sao: Sanh về cơi đó, lục thông tự tại, không chỉ là phi hành [tự tại]. Nay chẳng nói [đến lục thông], cũng là do kinh văn tỉnh lược vậy).

 

      Đây là Thần Túc Thông, tức là phi hành biến hóa. Người sanh về cơi ấy, không chỉ là sáu thứ thần thông trọn đủ, mà c̣n ứng dụng tự tại. Kinh này chẳng nói tỉ mỉ, cũng là tỉnh lược.

 

      (Sớ) Án thử Thần Túc, Trụ vị, Hạnh vị Bồ Tát sở hữu, như Hoa Nghiêm trung thuyết.

       () 按 此 神 足,住 位、行 位 菩 薩 所 有,如 華 嚴 中 說。

      (Sớ: Xét ra, hàng Bồ Tát thuộc các địa vị Thập Trụ và Thập Hạnh có loại Thần Túc này, như trong kinh Hoa Nghiêm đă nói).

 

      Nói rơ người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới thần thông to lớn, đạt tới mức độ như thế nào, nêu ra kinh Hoa Nghiêm để nói. Do cư sĩ Bành Tế Thanh đă gọi kinh Vô Lượng Thọ là Trung Bổn Hoa Nghiêm; Bành Tế Thanh là một vị đại cư sĩ lỗi lạc, sống vào thời Càn Long nhà Thanh, Hoa Nghiêm Niệm Phật Tam Muội Luận do ông ta trước tác. Vị này thông Tông, thông Giáo, tuổi già chuyên tu, chuyên hoằng dương Tịnh Độ Tông. Ông ta có soạn tiết bản (bản trích lục những chỗ trọng yếu) cho kinh Vô Lượng Thọ. Bộ Vô Lượng Thọ Khởi Tín Luận được lưu thông ở Đài Loan do ông Bành soạn. Gần đây, chúng tôi có lưu thông bài giảng cuốn Hoa Nghiêm Niệm Phật Luận của cư sĩ Hoàng Niệm Tổ. Người tu Tịnh Độ nhất định phải nghe lời khai thị ấy của lăo cư sĩ, giảng rất hay! Ông Bành đă phơi bày trọn vẹn phương pháp tu hành trong kinh Hoa Nghiêm.

      Kinh Hoa Nghiêm là “mười đại nguyện vương, dẫn về Cực Lạc”, những người đó dùng phương pháp ǵ để niệm Phật văng sanh Tịnh Độ? Đó là điều được tŕnh bày trong Hoa Nghiêm Niệm Phật Tam Muội Luận. Bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ trong thế giới Hoa Tạng đă dùng phương pháp ǵ để niệm Phật? Chúng ta chẳng học được, nhưng chúng ta phải biết, đó là Thật Tướng Niệm Phật trong bốn loại Niệm Phật. Từ xưa tới nay, chú giải Thật Tướng Niệm Phật chẳng dễ dàng, giảng lại càng khó khăn hơn! V́ sao? Chẳng nhập cảnh giới ấy, sẽ chẳng thể nói nổi! Nhập cảnh giới ấy, nói ra, người khác nghe cũng không hiểu. Ông Bành Tế Thanh và cụ Hoàng Niệm Tổ khó có lắm! Thâm nhập nhưng nêu bày đại lược, có thể diễn đạt các nghĩa thú ấy, khá chẳng dễ dàng! Ở đây, Liên Tŕ đại sư trích dẫn kinh Hoa Nghiêm để giải thích:

 

      (Sao) Hoa Nghiêm kinh vân: “Bát Trụ Bồ Tát, nhất sát-na khoảnh, du hành vô số thế giới”.

       () 華 嚴 經 云:八 住 菩 薩,一 剎 那 頃,遊 行 無 數 世 界。

      (Sao: Kinh Hoa Nghiêm chép: “Bát Trụ Bồ Tát trong khoảng một sát-na du hành vô số thế giới”).

 

      Có thể thấy [người trong cơi Cực Lạc] chẳng phải là phàm nhân! Văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, hạ hạ phẩm văng sanh tối thiểu bằng Bát Trụ Bồ Tát trong thế giới Hoa Tạng, v́ sao? Họ có năng lực này: Trong một sát-na dạo khắp vô lượng cơi Phật. Theo kinh Hoa Nghiêm, Bát Trụ Bồ Tát mới có năng lực ấy. Hễ văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, tuy là hạ hạ phẩm, cũng có năng lực ấy, tuyệt diệu thay! Bát Trụ Bồ Tát: Hoa Nghiêm là Viên Giáo, phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân là Sơ Trụ; Bát Trụ tức là đối với bốn mươi mốt phẩm vô minh, họ đă phá tám phẩm. Do vậy, có thể biết thế giới Cực Lạc thù thắng đúng như kinh đă nói: “Thắng quá chư Phật sát độ” (vượt trỗi các cơi Phật), hết thảy các cơi Phật đều chẳng sánh bằng!

 

      (Sao) Hựu Thập Hạnh tụng vân: “Phật sát vô biên vô hữu số, vô lượng chư Phật tại kỳ trung, Bồ Tát ư bỉ tất hiện tiền, thân cận cúng dường sanh tôn trọng”. Tắc kim chi Thần Túc, khởi dị cập tai!

() 又 十 行 頌 云:佛 剎 無 邊 無 有 數,無 量 諸 佛 在 其 中,菩 薩 於 彼 悉 現 前,親 近 供 養 生 尊 重。則 今 之 神 足,豈 易 及 哉。

(Sao: Lại nữa, kệ tụng trong phẩm Thập Hạnh có nói: “Cơi Phật vô biên, chẳng số lượng, vô lượng chư Phật ngự ở trong, Bồ Tát đều hiện trước mặt Phật, thân cận, cúng dường, sanh tôn trọng”. Như vậy th́ Thần Túc đang nói ở đây há có khác biệt ư?)

 

      Địa vị Thập Hạnh càng cao hơn. Từ Bát Trụ, lại đạt đến Cửu Trụ, Thập Trụ, lại đạt đến địa vị Sơ Hạnh Bồ Tát, địa vị ấy càng cao hơn. Nói cách khác, địa vị thấp nhất là Bát Trụ Bồ Tát mới có năng lực như vậy, trong khoảng một sát-na có thể trọn khắp các cơi Phật ở phương khác, cúng Phật, nghe pháp, lúc trở về, vẫn chưa hết thời gian một bữa ăn. Dưới đây, đại sư có lập một cuộc vấn đáp giả thiết.

 

      (Sao) Vấn: Thử ư tam chủng Ư Sanh Thân, đương thuộc hà đẳng? Đáp: Lăng Già tam chủng, phân thuộc Thanh Văn, Bồ Tát, đại thánh, tắc sanh bỉ quốc giả, tùy kỳ sở tu, các hữu sở chứng, như cửu phẩm lệ.

() : 此 於 三 種 意 生 身,當 屬 何 等。答:楞 伽 三 種,分 屬 聲 聞 菩 薩 大 聖,則 生 彼 國 者,隨 其 所 修,各 有 所 證,如 九 品 例。

(Sao: Hỏi: Vậy th́ trong ba loại Ư Sanh Thân, sẽ thuộc về loại nào? Đáp: Ba loại [Ư Sanh Thân] như kinh Lăng Già đă nói, chia ra sẽ [lần lượt] thuộc về Thanh Văn, Bồ Tát, đại thánh, nên người sanh về nước ấy, tùy theo những ǵ đă tu mà ai nấy có sở chứng, giống như trong chín phẩm văng sanh).

 

      Giải thích rất viên măn. Nếu chúng ta chẳng có khái niệm kha khá về Duy Thức, đại sư giảng cách này chúng ta nghe vẫn không hiểu. Cũng may là trong sách Diễn Nghĩa có giải thích.

 

      (Diễn) Tam chủng Ư Sanh Thân giả, nhất, nhập tam-muội nhạo ư sanh thân, thuộc Thanh Văn.

       () 三 種 意 生 身 者,一、入 三 昧 樂 意 生 身,屬 聲 聞。

      (Diễn: Ba thứ Ư Sanh Thân: Một là nhập tam-muội nhạo ư sanh thân, thuộc về Thanh Văn).

 

      Ư Sanh Thân, nói theo cách hiện thời th́ gọi là Linh. Hiện thời, có rất nhiều người biết Khí Công, tuy người ấy đang ngồi, nhưng linh hồn có thể đi du sơn ngoạn thủy, đó là Ư Sanh Thân. Đạo giáo gọi điều này là “linh hồn xuất khiếu”, chữ “khiếu” ()[4] chỉ cái thân của chúng ta, [xuất khiếu là] người ấy có thể rời khỏi thân. Trong Tạng Mật (Mật giáo Tây Tạng), gọi là “linh thể xuất du”, [nghĩa là linh hồn] thoát ra khỏi thân để du ngoạn. Tuy thoát ra du ngoạn, linh thể (astral body) và thân thể của họ có mối liên hệ, họ gọi mối liên hệ ấy là “ngân đới” (đai bạc). Có một sợi dây đai mầu bạc nối liền, bất luận quư vị đi chơi xa cỡ nào, luôn có một sợi dây nối liền không dứt. Thân thể này chưa hoại, người ấy c̣n có thể trở về. Nếu sợi dây ấy bị đứt, người ấy sẽ chết, v́ sao? Chẳng thể trở về nữa! Đó là linh hồn xuất ra du ngoạn, là Ư Sanh Thân trong Định. Giống như chúng ta nằm mộng, trong mộng có thân thể của chính ḿnh, cái thân trong mộng ấy cũng là Ư Sanh Thân, do đâu mà có? Do ư thức của quư vị biến hiện, nên gọi là Ư Thân, xác thực là có h́nh tướng. Người ấy thật sự có thể đi du lịch, thật sự thấy rất nhiều sự tướng chân thật. Người ấy ngồi yên chẳng động trong nhà, nhưng chuyện trong cả thế giới người ấy đều biết. Quư vị thấy người ấy nhập định đả tọa, [thần thức] ra ngoài chơi, đến khắp nơi quan sát, thứ ǵ cũng đều rơ ràng, thứ ǵ cũng hiểu rơ. Loại thứ nhất này, công phu tương đối nhỏ một chút, là nhập Định. Tam-muội là nhập Định, trong Định có năng lực ấy. Loại này thuộc về Tiểu Thừa, Sơ Quả Tu Đà Hoàn đều có năng lực này, A La Hán, Bích Chi Phật đều có năng lực này.

      V́ thế, có những người tu hành những điều này, hoặc là trong xă hội có những người có công năng đặc dị, nói họ trông thấy Khí hoặc Quang của người khác, chuyện ấy là thật, chẳng giả. Hiện thời, người như vậy rất nhiều! Quư vị muốn học cũng chẳng khó, nhưng chẳng học vẫn là hay hơn! V́ sao? Không học, quư vị ít biết bí mật của người khác. Sau khi đă học, nh́n thấy người này, người nọ, bèn dấy lên phân biệt, chấp trước. Trong cảnh giới, quư vị khởi tâm hoan hỷ, dấy tâm sân hận, đâm ra dẫn khởi phiền năo. V́ lẽ đó, người học Phật chẳng bắt buộc phải học pháp này! Lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ c̣n nhấn mạnh: Không cần phải học thứ này! Có điều ấy hay không? Có, thật sự là có, tuyệt đối chẳng giả! Nhưng người học Phật chúng ta tu nhất tâm bất loạn, cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, mong thấy A Di Đà Phật. Chúng ta cũng chẳng mong thấy người khác là bạch quang, hoàng quang, hay hắc quang, chúng ta chẳng mong thấy những điều ấy, chẳng có ư nghĩa chi hết! Loại thứ hai:

 

      (Diễn) Nhị, giác pháp tự tánh tánh ư sanh thân, thuộc Bồ Tát.

      () 二、覺 法 自 性 性 意 生 身,屬 菩 薩。

      (Diễn: Hai là giác pháp tự tánh tánh ư sanh thân, thuộc về hàng Bồ Tát).

 

      Loại này cao hơn loại trước rất nhiều, họ là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo trở lên, đă minh tâm kiến tánh. A La Hán, Bích Chi Phật, và Quyền Giáo Bồ Tát đều chưa kiến tánh, nên Ư Sanh Thân của họ là nhập tam-muội nhạo ư sanh thân như đă nói trong đoạn trước. Ư Sanh Thân là thân biến hóa thuận theo ḷng mong muốn. Chúng ta đọc tiểu thuyết, thấy Tôn Ngộ Không có bảy mươi hai phép biến hóa, thuộc loại Ư Sanh Thân, đích xác là hắn có thể biến hóa, có thể phân thân, có thể phân thành vô lượng thân. Chuyện này trong Cao Tăng Truyện có [ghi chép] rất nhiều. Các vị cao tăng thời cổ, lúc sắp phải ra đi, đều thị hiện một phen. Theo Cao Tăng Truyện ghi chép, có một vị cao tăng Tây Vực hoằng pháp tại Trung Quốc, phải trở về, rất nhiều vị cư sĩ mong được tiễn hành, mời pháp sư dùng cơm. Họ đều ước hẹn trưa ngày hôm sau, pháp sư đều gật đầu nhận lời. Đến ngày hôm sau, mỗi nhà chuẩn bị tiệc chay, quả nhiên pháp sư đến dự. V́ thế, ai nấy đều rất hoan hỷ: “Nhiều người thỉnh pháp sư như vậy, mà thầy đến nhà của ta”. Ngày hôm sau đến cái đ́nh mười dặm[5] ở Trường An để tiễn chân, có vài trăm người, ai nấy đều nói: “Hôm qua pháp sư ở chỗ tôi”, kẻ khác nói: “Thầy nhận lời cúng dường tại nhà tôi”. Do đó mới biết tối thiểu pháp sư phân thành năm trăm thân, Ngài có năng lực ấy. Khi Ngài đă thị hiện năng lực ấy, Ngài chẳng thể ở nơi này nữa, đă đi rồi. Khi Ngài ở nơi đây, chưa hề thị hiện, nên mọi người không biết. Lúc ra đi, biểu diễn một chiêu này, biểu diễn xong th́ Ngài đă đi mất rồi, đó là đúng. Nếu thường xuyên hiện thần thông, nói thông tục là “lời lẽ quái đản, mê hoặc đại chúng”, chẳng thể được! Lúc sắp đi th́ có thể, lưu lại một kỷ niệm, vĩnh viễn không gặp lại nữa. Trong lịch sử, chúng ta thường thấy điều này, thật sự có thuật phân thân, đều thuộc loại Ư Sanh Thân. Sau khi minh tâm kiến tánh, loại Ư Sanh Thân này là của Bồ Tát. Loại thứ ba…

 

      (Diễn) Tam, chủng loại câu sanh vô hành tác ư sanh thân, thuộc Phật.

       () 三、種 類 俱 生 無 行 作 意 生 身,屬 佛。

      (Diễn: Thứ ba là chủng loại câu sanh vô hành tác ư sanh thân, thuộc địa vị Phật).

 

      Cảnh giới này cao lắm.

 

      (Diễn) Vị chi Ư Sanh giả, dụ như ư khứ, tốc tật vô ngại dă.

      () 謂 之 意 生 者,喻 如 意 去,速 疾 無 礙 也。

      (Diễn: Nói Ư Sanh là ví như đến nơi tùy ư, nhanh chóng, chẳng bị trở ngại).

 

      Đây là giải thích đơn giản, có thể vừa ư quư vị. Chính quư vị muốn hiện thân ǵ, bèn hiện thân ấy, nghĩ đến nơi đâu, trong một niệm bèn đến đó. Dẫu vô lượng vô biên cơi nước, trong một niệm đều có thể đạt đến, giống như ba mươi hai ứng thân của Quán Thế Âm Bồ Tát được nói trong phẩm Phổ Môn, nên dùng thân ǵ đắc độ, Ngài bèn hiện thân ấy. Do đó, nếu quư vị hỏi rốt cuộc Quán Thế Âm Bồ Tát có h́nh dạng ra sao ư? Quán Âm Bồ Tát không có dáng vẻ, Ngài thuận theo tâm tưởng của quư vị mà biến hiện, há Ngài có h́nh dạng nào! Nếu quư vị hỏi Ngài có h́nh dạng thật sự là ǵ ư? H́nh dạng của Ngài là ba mươi hai tướng và tám mươi thứ hảo, hoàn toàn giống như Phật. Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, mỗi cá nhân đều có h́nh dáng giống như A Di Đà Phật, chẳng khác biệt, chúng ta đă thấy điều này được nói trong kinh Vô Lượng Thọ. Tây Phương Cực Lạc thế giới là b́nh đẳng nhất tướng, chẳng có sai biệt, không có hai thứ tướng. Nhưng các vị Bồ Tát tùy loại hóa thân trong mười phương thế giới, có rất nhiều h́nh dạng, chẳng có cách nào nói kể được. Đó là “như ư”, tức là đúng như ư muốn của chúng sanh, cũng theo đúng ư ḿnh mà hiện ra thân tướng ấy.

 

      (Diễn) Nhập tam-muội nhạo giả, vị tùng tam tam-muội trung, phát khởi thần thông chi dụng.

      () 入 三 昧 樂 者,謂 從 三 三 昧 中 ,發 起 神 通 之 用。

       (Diễn: Nhập tam-muội nhạo là từ trong ba thứ tam-muội, phát khởi tác dụng thần thông).

 

      Người ấy đắc Định, Định do A La Hán chứng là Cửu Thứ Đệ Định (Đệ Cửu Định). Kinh Lăng Nghiêm đă giảng rất rơ ràng, chứng đắc định ấy, vượt trỗi tam giới. Trong tam giới, Sắc Giới Thiên là Tứ Thiền, Vô Sắc Giới Thiên là Tứ Định. Chúng ta nói là Tứ Thiền Bát Định, Bát Định là bao gồm Tứ Thiền, tức là bốn món Thiền Định trong Sắc Giới. Tám thứ Định trong Sắc và Vô Sắc Giới đều vượt thoát, nên [Định của] A La Hán được gọi là Đệ Cửu Định. Đệ Cửu Định thoát tam giới, chứ Bát Định đều chẳng thoát khỏi tam giới. V́ thế, Định này là sở chứng của A La Hán, Bích Chi Phật, và Quyền Giáo Bồ Tát. Họ có thần thông và đức dụng ấy.

 

      (Diễn) Giác pháp tự tánh giả, giác chư pháp tự tánh, tùng thử tự tánh, phát khởi diệu dụng, tức danh Ư Sanh Thân.

      () 覺 法 自 性 者,覺 諸 法 自 性,從 此 自 性 發 起 妙 用,即 名 意 生 身。

      (Diễn: “Giác pháp tự tánh”: Giác tự tánh của các pháp, từ tự tánh ấy phát khởi diệu dụng, nên gọi là Ư Sanh Thân).

 

      Bồ Tát minh tâm kiến tánh. Đối với Sơ Trụ trong Viên Giáo và Sơ Địa trong Biệt Giáo trở lên, Ư Sanh Thân từ Chân Như bản tánh biến hiện. Ư Sanh Thân là diệu dụng của bản tánh.

 

      (Diễn) Chủng loại giả, thập pháp giới y, chánh, sắc, tâm, câu tại ngă nhất niệm tâm trung hiển hiện, bổn vô thiên lưu chi hành, diệc vô hữu vi chi tác.

() 類 者,十 法 界 依 正 色 心,俱 在 我 一 念 心 中 顯 現,本 無 遷 流 之 行,亦 無 有 為 之 作。

(Diễn: Chủng loại là y báo, chánh báo, sắc, tâm trong mười pháp giới đều do một niệm tâm của ta hiển hiện, vốn chẳng có đổi dời, lưu chuyển, mà cũng chẳng có việc làm hữu vi).

 

      Loại Ư Sanh Thân này cao nhất, là sự biến hiện nơi quả vị Như Lai. Ư Sanh Thân biến hiện bởi Bồ Tát là ba mươi hai ứng thân như trong phẩm Phổ Môn đă nói, mà đă là chẳng thể nghĩ bàn, huống hồ sự biến hiện nơi quả địa Như Lai. Lời chú giải tuy đơn giản, nhưng ư nghĩa rất rơ ràng. Đây là nêu rơ thần thông rộng lớn của tam thừa thánh nhân.

      Trong thế gian hiện thời, chúng ta thấy những người có công năng đặc dị, đó là tiểu thông (thần thông nhỏ bé), rất nhỏ, vặt vănh không đáng kể, nhưng chúng ta tôn sùng họ như thần minh, nghĩ họ phi phàm, đó là sai lầm! Nếu quư vị muốn đạt được loại thần thông ấy, hăy mau chóng niệm Phật đến Tây Phương Cực Lạc thế giới. Hễ đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, thần thông của quư vị thuộc loại thần thông của Bồ Tát, tức là “giác pháp tự tánh tánh ư sanh thân”, A La Hán, Bích Chi Phật, và Quyền Giáo Bồ Tát đều thua quư vị, trong một đời chúng ta thật sự có thể đạt được điều này! Cớ sao chẳng làm? V́ lẽ đó, thấy những ǵ lạ lùng, chớ nên kinh ngạc, sững sờ, chẳng cần phải hâm mộ. Hiện thời, bao nhiêu kẻ học Phật, hễ nghe nói người nào đó có thần thông, lại tỏa ánh sáng, ngồi trên hư không cách mặt đất ba thước, bèn vội vă sùng bái người ấy như thần minh, vứt bỏ, chẳng cần Phật pháp nữa! Thật sự đáng tiếc! V́ sao? Năng lực vặt vănh ấy ma cũng có. Kinh Lăng Nghiêm nói năm mươi thứ Ấm Ma đều có năng lực ấy. V́ sao gọi là Ma? Dùng năng lực ấy dẫn dụ quư vị, khiến cho quư vị vứt bỏ chánh pháp, học theo chúng nó, học tà pháp. Chúng nó phá hoại sự tu hành của quư vị, phá hoại sự thành tựu trong một đời này, khiến cho quư vị chẳng thể thoát khỏi tam giới, đời sau vẫn phải sanh tử luân hồi, làm đồ tử, đồ tôn của chúng nó, nên gọi là Ma. Ma là vùi dập, chướng ngại.

      Hễ bị những kẻ ấy dụ dỗ, mê hoặc, nói cách khác, tâm kẻ [bị dụ dỗ mê hoặc ấy] chẳng thanh tịnh, học Phật chẳng có thành ư! Cảnh giới bên ngoài vừa động, tâm ngay lập tức thay đổi, đánh mất chủ ư, bèn rong ruổi, làm sao có thể thành tựu cho được? Chuyện kỳ lạ, quái dị ǵ đi nữa, chúng ta cứ hành một câu A Di Đà Phật, như như bất động, như vậy th́ mới có thể thành tựu. Gặp cảnh giới này cũng là đang khảo nghiệm xem tâm chúng ta có thanh tịnh hay không? Niệm có phải là chuyên nhất hay không? Tâm thật sự thanh tịnh, niệm thật sự chuyên nhất, gặp bất cứ cảnh giới nào cũng đều là cảnh giới tốt đẹp. V́ sao? Chúng đến khảo thí, ta vượt qua được! Ở trong cảnh giới, ta không khởi tâm, không động niệm, không bị chúng hấp dẫn, điều này chứng tỏ ta niệm Phật c̣n có một chút công phu, công phu đắc lực. Người công phu không đắc lực sẽ chẳng chịu nổi dụ dỗ, mê hoặc.

      Công phu thật sự đắc lực, sẽ thấy mà như chẳng thấy, nghe dường như chẳng nghe, tâm thanh tịnh quyết định chẳng bị ảnh hưởng, sự nhất hướng chuyên niệm của người ấy chẳng bị ảnh hưởng, nguyện vọng cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng bị chuyển dời, chẳng bị biến đổi. [Nếu quư vị] thật sự có thể có công phu như vậy, ma cũng tôn kính quư vị, ma như thế nào? Chẳng thể dụ dỗ, mê hoặc quư vị, nó quay lại rất tôn kính quư vị: Quư vị rất lỗi lạc, chẳng phải là kẻ tầm thường, ma tôn kính quư vị. Nếu quư vị bị ma lay động, đi theo ma, nói thật thà là ma xem thường quư vị, quư vị chẳng có công phu: “Các ngươi thấy đó! Ta vừa mới diễn tṛ ảo thuật một chút, biến ra một tí ảo thuật, đă ngay lập tức khiến các ngươi động tâm, chuyển biến ư niệm của các ngươi!” Không chịu nổi khảo nghiệm, ma sẽ chẳng để kẻ ấy vào mắt, chẳng coi trọng quư vị! Ngày hôm nay chúng tôi giảng đến chỗ này.

A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa

Phần 78 hết

 

 

 

 



[1] Từ (, c̣n viết là ) là một thể loại văn chương, đôi khi c̣n gọi là Khúc Tử Từ, Thi Dư, Trường Đoản Cú hoặc Nhạc Phủ. Thể loại này xuất hiện dưới đời Đường (tuy có thuyết cho rằng có thể sớm hơn), đạt đến đỉnh cao nhất vào thời Tống. Thoạt đầu, Từ thường được dùng để phổ nhạc hoặc hát, về sau trở thành một thể loại văn chương độc lập. Có thể coi Từ như một thể loại thi ca, tuy có quy luật, nhưng không quá bó buộc, cứng ngắc như Đường Thi nên được giới văn nhân rất ưa chuộng v́ có thể diễn tả ư tưởng phóng khoáng hơn. Đặc điểm của Từ là câu dài ngắn không đều, nhưng gieo vần nghiêm ngặt, Nếu căn cứ theo số chữ th́ có ba loại lớn là Tiểu Lệnh (trong ṿng 58 chữ), Trung Điệu (59-90 chữ), Trường Điệu (từ 91 chữ trở lên). Nếu căn cứ theo từng đoạn th́ có Đơn Điệu (chỉ có một đoạn), Song Điệu, Tam Điệp (ba đoạn) và Tứ Điệp (bốn đoạn). Nếu căn cứ trên nhạc điệu th́ lại chia thành Lệnh, Dẫn, Man, Tam Thai, Tự Tử, Pháp Khúc, Đại Khúc, Triền Lệnh, Chư Cung Điệu. Mỗi một Điệu như vậy có nhạc khúc nhất định, khi gieo vần dùng chữ phải tuân theo quy cách để có thể hát lên được.

[2] Chân Đế (Paramārtha, 469-569) là một vị pháp sư dịch kinh lừng danh vào thế kỷ thứ năm, thứ sáu. Đôi khi Ngài c̣n được gọi là Câu La Na Đà (Kulanātha), là người xứ Ưu Thiền Ni (Ujjainī), Bắc Ấn, thuộc ḍng dơi Bà La Môn. Pháp sư thông minh, mẫn tiệp, nhớ dai, quán thông Tam Tạng, thấu hiểu sâu xa nghĩa lư Đại Thừa. Ngài theo đường biển đến Trung Hoa nhằm năm Đại Đồng nguyên niên (546) đời Lương. Năm Thái Thanh thứ hai (548), Ngài đến kinh đô Kiến Nghiệp (Nam Kinh hiện thời) yết kiến Lương Vũ Đế, nhưng loạn Hầu Cảnh nổ ra, Ngài bèn về phương Nam ẩn thân, lần lượt trải qua nhiều nơi như Giang, Chiết, Tô, Cám, Mân, Quảng v.v… Tuy phải trôi giạt nhiều nơi, không được đế vương hộ tŕ, Ngài vẫn dịch rất nhiều kinh luận. Do chiến cuộc, số lượng kinh luận Ngài dịch hơn sáu mươi bốn bộ, nhưng hiện thời chỉ c̣n giữ được ba mươi bộ, và toàn là những bộ kinh luận trọng yếu trong Phật giáo Đại Thừa. V́ thế, Ngài cùng với các vị Cưu Ma La Thập, Huyền Trang và Nghĩa Tịnh được tôn xưng là Tứ Đại Phiên Dịch Gia. Các bộ kinh luận do Ngài dịch được biết đến nhiều nhất là Chuyển Thức Luận, Đại Thừa Duy Thức Luận, Kim Quang Minh Kinh, Nhiếp Đại Thừa Luận, Nhiếp Đại Thừa Luận Thích, Trung Biên Phân Biệt Luận, Câu Xá Luận Thích, Đại Thừa Khởi Tín Luận, Luật Nhị Thập Nhị Minh Liễu Luận v.v… Trong số đó, hai bộ Nhị Thừa Đại Thừa Luận và Nhiếp Đại Thừa Luận Thích được coi là kinh điển bắt buộc phải học của Pháp Tướng. V́ thế, Ngài c̣n được tôn là tổ của Nhiếp Luận Tông Trung Hoa.

[3] Na-do-tha (Nayuta) là một con số rất lớn, bằng 10 lũy thừa 112, tức là sau số 1 có 112 con số 0.

[4] “Khiếu” có nghĩa gốc là những lỗ hở trên thân thể, thường gọi là Thất Khiếu, như mắt, tai, mũi, miệng v.v… Do Đạo giáo quan niệm linh hồn thoát ra khỏi thể xác qua các Khiếu nên gọi là Linh Hồn Xuất Khiếu.

[5] Nguyên văn “thập lư trường đ́nh”. Đây là một kiến trúc được thiết lập từ thời Tần - Hán. Theo đó, trên các trục lộ chính, cứ mười dặm đường lập một cái đ́nh để khách bộ hành nghỉ chân. Đ́nh là một kiến trúc thường là h́nh bát giác, có mái, nhưng không có vách, bên trong thường là bàn ghế đá. Thoạt đầu, Tần Thủy Hoàng quy định cứ ba mươi dặm là một Chuyển (nơi thay ngựa, thay phu trạm chuyển vận thư), cứ mười dặm là một Đ́nh (để phu trạm nghỉ chân). Sang thời Hán, Đ́nh trở thành nơi nghỉ chân của khách bộ hành hoặc tiễn biệt. Đưa nhau đi xa, bạn bè sẽ đưa chân đến mười dặm, rồi mới quay lại. Về sau, “thập lư trường đ́nh” được dùng như một từ ngữ phiếm chỉ nơi tiễn chân, chia tay, chứ không nhất thiết phải tiễn nhau đến mười dặm!