A Di Đà Kinh Sớ
Sao Diễn Nghĩa
阿彌陀經疏鈔演義
Phần 79
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Minh Tiến, Huệ Trang và
Đức Phong
Tập
157
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn
Nghĩa Hội Bổn, trang ba trăm ba mươi chín:
(Sớ)
Xứng Lư, tắc tự tánh tự nghiêm, thị thịnh
hoa cúng dường nghĩa. Tự tánh tự biến, thị
thập vạn ức Phật nghĩa. Tự tánh tự
không, thị thực thời hoàn nghĩa. Tự tánh tự
trụ, thị bổn quốc nghĩa.
(疏) 稱 理,則 自 性 自 嚴,是
盛 華 供 養 義;自 性 自 遍,是
十 萬 億 佛 義;自 性 自 空,是
食 時 還 義;自 性 自 住,是
本 國 義。
(Sớ: Xứng Lư, tự
tánh tự trang nghiêm là ư nghĩa “đựng hoa cúng dường”.
Tự tánh tự trọn khắp là ư nghĩa “mười vạn
ức Phật”. Tự tánh tự không là ư nghĩa “trở về
trong khoảng bữa ăn”. Tự tánh tự trụ là ư
nghĩa “bổn quốc”).
Từ
đoạn này trở đi, Liên Tŕ đại sư bắt
đầu tiêu quy tự tánh, [tiêu quy tự tánh] là sự thọ
dụng chân thật do đọc kinh, và cũng là dung hội
ư nghĩa của kinh với tự tánh. Lư Sự giao ḥa, dung
hội. Tánh, Tướng bất nhị. Đấy mới
là thật sự đạt được thọ dụng!
(Diễn)
Phật chân Pháp Thân, do nhược hư không, thục thọ
cúng dường? Cố tự tánh tự nghiêm, thị thịnh
hoa cúng dường nghĩa.
(演) 佛 真 法 身,猶 若 虛
空,孰 受 供 養,故 自 性
自 嚴,是 盛 花 供 養 義。
(Diễn: Pháp Thân chân
thật của Phật ví như hư không, ai nhận cúng
dường? V́ thế, tự tánh tự trang nghiêm là ư
nghĩa “đựng hoa cúng dường”).
(Diễn)
Pháp Thân vô vi, bất đọa chư số, hà vân thập
vạn ức? Cố tự tánh tự biến, thị thập
vạn ức nghĩa.
(演) 法 身 無 為,不 墮 諸
數,何 云 十 萬 億,故 自
性 自 遍,是 十 萬 億 義。
(Diễn: Pháp Thân vô
vi, chẳng rớt vào các số, sao lại nói là “mười
vạn ức?” V́ thế, tự tánh tự trọn khắp
là ư nghĩa “mười vạn ức”).
“Mười vạn ức” được
nói ở đây chẳng phải là con số, mà có ư nghĩa
biểu thị pháp. “Mười
vạn ức” là tận hư không khắp pháp giới; Chân
Như bổn tánh là tận hư không khắp pháp giới. Hữu
vi thuộc về Số, “Số”
là số lượng. Trừ Phật và các đại Bồ
Tát ra, có thể nói là hết thảy đều thuộc vào
Số. Đọa trong Số, người khác sẽ có thể
dự đoán vận mạng. Cư sĩ Liễu Phàm được
Khổng tiên sinh đoán mạng chuẩn xác ngần ấy
là v́ lẽ nào? Ông ta đọa trong Số. V́ sao có số? Do
ông ta có vọng niệm, hữu vi; hữu vi chính là có tạo
tác. Trong tâm chúng ta một niệm sanh, một niệm diệt,
tức là tạo tác, suốt ngày từ sáng đến tối
đều tạo tác. Ngủ nghê nằm mộng vẫn là
tạo tác, tạo tác chưa hề ngừng, đó là “đọa trong số”. V́ thế,
chúng ta thường nói “con người có vận mạng”.
Con
người đáng quư nhất là biết vận mạng của
chính ḿnh. Biết vận mạng của chính ḿnh, liền thật
thà, liền an phận giữ nề nếp. Nói cách khác, tâm người
ấy đă định, chẳng suy tưởng lung tung. Kẻ
chẳng biết vận mạng, toan cạnh tranh cùng số
mạng, đó là chuyện rất oan uổng, con người
chẳng có cách nào tranh đua cùng số mạng! “Một hớp uống, một
miếng ăn, không ǵ chẳng phải là định sẵn”
là chuyện ngàn vạn phần xác thực. Nếu con người
tranh đua cùng số mạng, tai nạn sẽ xảy đến.
Nếu chư vị lắng ḷng quan sát, sẽ có thể nh́n
thấy [điều đó] ngay trong thế gian hiện tiền.
Rất nhiều kẻ nghĩ trọn mọi phương
pháp để kiếm tiền. Ở Đài Loan, hiện thời
kiếm tiền dễ dàng, nghe nói những thứ như lục
hợp thái[1] và cổ phiếu kiếm
tiền khá lắm. Quư vị hăy quan sát cẩn thận, không
sai! Có những người kiếm được tiền,
mạng cũng chẳng c̣n. Có những người kiếm
được tiền, mạng vẫn c̣n, nhưng hiện
thời thân thể đă bị hủy hoại, một thân
đầy bệnh tật! Cho thấy không thể đua
tranh cùng mạng! Quư vị chơi những thứ ấy để
kiếm tiền, nói thật thà, vẫn do trong mạng quư vị
có. Nếu trong mạng quư vị không có, cũng chẳng kiếm
được tiền! Trong mạng quư vị có tiền tài
suốt sáu mươi năm, nay ta kiếm được
[toàn bộ số tiền ấy] trong một lúc! Giống
như chúng ta đi làm lănh lương, quư vị lănh toàn bộ
tiền lương trong sáu mươi năm, nên bèn có một
món tiền to, nhưng đến tháng sau, chẳng có thâu nhập,
dùng hết sạch rồi, dùng hết là xong luôn! Vẫn chẳng
bằng lănh mỗi tháng th́ hơn! Cổ nhân có nói: “Lộc tận nhân vong” (lộc
hết, người chết). Lộc trong sáu mươi
năm, quư vị dùng hết trong một ngày, sau đó chẳng
c̣n ǵ nữa, chỉ có nước chết đói, đi vào
tử lộ! Trạng huống ấy xưa nay đều
có, mọi người hăy cẩn thận quan sát một chút
sẽ liễu giải ngay! Con người nhất định
phải an phận thủ thường!
Tâm
thanh tịnh, thanh tịnh đến cùng cực, sẽ chẳng
đọa trong số. V́ thế, xưa kia, những kẻ
xem tướng đoán mạng chẳng đoán cho người
xuất gia, chẳng đoán cho người học Phật,
v́ sao? Không chuẩn xác! Người học Phật tâm địa
dần dần thanh tịnh, chẳng đọa trong số.
Dẫu c̣n có số, nhưng số ấy đă khác với
số vốn có, đoán không ra! Do điều này có thể
biết: Vận mạng do chính ḿnh thao túng, chính ḿnh có thể
sáng tạo vận mạng, chính ḿnh có thể biến đổi
vận mạng của chính ḿnh. Nếu quư vị muốn sửa,
muốn sáng tạo, vậy th́ tôi khuyên quư vị, hăy đọc
Liễu Phàm Tứ Huấn. Phải đọc Liễu Phàm
Tứ Huấn tối thiểu ba trăm lần, quư vị mới
thật sự giác ngộ, thật sự hiểu cách sửa đổi vận mạng như
thế nào. Quư vị tin tưởng, đă có tín tâm đối
với chính ḿnh, sau đó dùng phương pháp để sửa
đổi, phương pháp rất nhiều, phương
pháp thù thắng nhất là niệm Phật. Có thể dùng tâm
thanh tịnh, tâm cung kính, tâm chân thành để niệm Phật,
tâm địa quư vị thanh tịnh, chân thành, cung kính, sẽ
dần dần rời khỏi các số, thật sự có
thể siêu phàm nhập thánh.
Vô
vi th́ đương nhiên chẳng rớt trong các số, rớt
trong các số là pháp hữu vi. Nếu chẳng rớt vào số
lượng, “mười vạn
ức” trọn chẳng có ư mảy may ư nghĩa ǵ! “Tự tánh tự biến”, [nghĩa
là] vốn trọn khắp pháp giới, trọn khắp pháp
giới là ư nghĩa “mười
vạn ức” như kinh đă nói. Mười vạn ức
biểu thị vô lượng vô biên, chẳng nhằm biểu
thị một con số!
(Diễn)
Tâm thể bất động, bổn tuyệt khứ lai,
hà vân thời hoàn, cố tự tánh tự không, thị thực
thời hoàn nghĩa.
(演) 心 體 不 動,本 絕 去
來,何 云 時 還,故 自 性
自 空,是 食 時 還 義。
(Diễn: Tâm thể bất
động, vốn trọn chẳng có đến, đi,
sao lại nói “trở về trong một thời?” Do đó,
tự tánh tự Không chính là ư nghĩa “trở về trong
khoảng một bữa ăn”).
Đây
chính là như kinh nói: “Tức
dĩ thực thời, hoàn đáo bổn quốc” (ngay
trong khoảng bữa ăn, trở về nước ḿnh),
“hoàn” (還) là trở về;
có đến, có đi. Bản thể của chân tâm trước
nay chẳng động. Hễ chẳng động, bèn chẳng
có tướng đến, đi, cảnh giới này chúng ta
chẳng dễ ǵ hiểu được! Nếu quư vị
có chút tâm đắc đối với kinh Lăng Nghiêm th́ lời
này chẳng khó hiểu. Không chỉ chư Phật Như
Lai là chẳng đến, chẳng đi, mà bản thân chúng
ta cũng là chẳng đến, chẳng đi. Quư vị nói:
“Không có đến, đi ư? Rơ ràng là tôi vừa từ nhà
đến Đồ Thư Quán, nghe kinh xong tôi lại trở
về, làm sao chẳng có đến, đi cho được?”
Vậy là chúng ta không hiểu chân tướng sự thật.
Chân tướng là ǵ? Kinh Lăng Nghiêm nói “đương xứ xuất sanh, đương xứ
diệt tận” (sanh ra từ đâu bèn diệt mất
ngay nơi đó), há có tướng đến, đi? Đức
Phật biết chân tướng này. Chúng ta chẳng hiểu
chân tướng sự thật vốn là chẳng đến,
chẳng đi, cứ ngỡ là có đến, có đi. Nói
thực tại là “không đến, không đi”. V́ thế,
trong đức hiệu của Phật có một danh hiệu
là Như Lai. Kinh Kim Cang nói: “Như
Lai giả, vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ” (Như
Lai là không từ đâu đến mà cũng chẳng đi
về đâu). Không đến, không đi, bèn gọi là Như
Lai. Kinh lại nói: “Như Lai giả,
chư pháp Như nghĩa” (Như Lai là nghĩa Như của
các pháp). Giảng rất hay! Nghĩa Như của các pháp chính
là Tánh và Tướng như một, là nghĩa lư “bách giới thiên như” do Thiên
Thai đại sư đă nói.
V́
thế, đối với Thật Tướng của các
pháp, lũ phàm phu chúng ta có rất nhiều quan niệm sai lầm.
V́ sao có sự nhận biết sai lầm? V́ chẳng hiểu
rơ Thật Tướng của các pháp. Không hiểu rơ là vô
minh, vô minh là chẳng liễu giải, chẳng hiểu rơ ràng.
Khi nào quư vị hiểu rơ, vô minh sẽ bị phá. Vô minh đă
phá, bèn hiểu rơ hết thảy các pháp. Sự hiểu rơ ấy
là tri kiến của Phật, kinh Pháp Hoa gọi [sự hiểu
biết ấy] là “ngộ nhập
Phật chi tri kiến”. Điều này nói rơ “tự tánh tự không”, trong ấy xác thực chẳng
có một vật nào, nhưng nêu tỏ các tướng trọn
chẳng có trở ngại ǵ! V́ sao không trở ngại? V́ các
tướng chẳng thật, là huyễn hữu, giả hữu,
trọn chẳng phải là thật có! Chúng ta cảm thấy
hết thảy các tướng đều là chân thật, nhưng
Phật, Bồ Tát biết hết thảy các tướng “đương Thể tức
không, liễu bất khả đắc” (ngay nơi bản
thể chính là Không, trọn chẳng thể được),
nên Phật, Bồ Tát chẳng chấp trước hết
thảy vạn tướng. Chúng ta tưởng lầm các
huyễn tướng là chân thật, nên chỗ nào cũng chấp
trước. Đó là tự chuốc khổ, chẳng chấp
trước sẽ đắc đại tự tại. Do đó,
phải hiểu: Tự tánh tự không, trong ấy vĩnh
viễn chẳng tồn tại một vật nào! Lục Tổ
nói hết sức có lư: “Vốn
chẳng có một vật”. Khi giác, vốn chẳng có một
vật; khi mê, vẫn là vốn chẳng có một vật,
tuyệt đối chẳng phải là khi ngộ th́ vốn
chẳng có một vật; lúc mê bèn chẳng vậy. Lúc mê, vẫn
là chẳng có một vật!
(Diễn)
Tâm thể biến châu, bổn vô đối đăi.
(演) 心 體 遍 周,本
無 對 待。
(Diễn: Tâm thể
trọn khắp, vốn chẳng có đối đăi).
Tận
hư không khắp pháp giới là một Thể. “Đối đăi” là
tương đối. Kinh Kim Cang nói “tứ tướng”, đó là tương đối.
“Ngă tướng, nhân tướng”:
Có cái tương đối với Ngă Tướng th́ mới
có Nhân Tướng, mới sanh ra các vọng tưởng
Chúng Sanh Tướng và Thọ Giả Tướng. Nếu
không có Ngă Tướng, lấy đâu ra Nhân Tướng?
Chúng Sanh và Thọ Giả cũng chẳng c̣n tồn tại!
V́ thế, trong chân tánh không có đối đăi. Phải ghi
nhớ mấy câu này: “Chân tâm vô
vi, chân tâm bất động, chân tâm không tịch, chân tâm trọn
khắp”. Nếu chúng ta có thể sử dụng cái tâm ấy,
thưa cùng quư vị, đó sẽ là Đại Bồ Đề
tâm, Vô Thượng Bồ Đề tâm. Quư vị dùng tâm ấy
niệm Phật, dùng tâm ấy trong cuộc sống, dùng tâm ấy
để xử sự, đăi người, tiếp vật,
nếu gọi quư vị là Bồ Tát tái lai, vẫn hiềm là
thiếu cung kính, [phải nên gọi] quư vị là “chư Phật
tái lai!” Thật vậy, chẳng giả! V́ Phật, Bồ
Tát và phàm phu dụng tâm khác nhau. Chúng ta dùng vọng tâm, họ
dùng chân tâm. Vọng tâm là như thế nào? Vọng tâm là phân
biệt, chấp trước, vọng tưởng, là
như vậy đó! Chân tâm là như thế nào? Chân tâm là không
tịch, bất động, trọn khắp. Kinh bảo
đó là tướng trạng của chân tâm. Dùng tâm ấy th́
phải là chư Phật, Bồ Tát tái lai, hoặc chư Phật,
Bồ Tát ứng hóa trên thế gian, học Phật là phải
học điều này.
Trong
tâm chúng ta c̣n có vọng niệm, c̣n có chấp trước, c̣n
bị động, dùng phương pháp ǵ? Thảy đều
quy vào một câu Phật hiệu. Do đó, pháp môn này vô cùng
nhiệm mầu! Dùng một niệm để thay thế hết
thảy vọng niệm. Niệm câu Phật hiệu này đến
mức thuần thục, tâm bất động, tất cả
hết thảy cảnh giới đều bất động.
Bắt đầu là học bất động, chúng ta xa
ĺa ngoại duyên, v́ chúng ta chưa thể làm chủ cái tâm, hễ
tiếp xúc cảnh giới bèn bị cảnh giới lôi kéo;
khi đó, làm như thế nào? Chúng ta xa ĺa ngoại duyên, rời
khỏi ngoại duyên, khiến cho cái tâm bất động.
Đến lúc chính ḿnh thật sự có công phu, giải và hạnh
tương ứng, dẫu tiếp xúc ngoại duyên cũng
bất động. Đó chính là cảnh giới của Hoa
Nghiêm và Tịnh Tông, Sự Sự vô ngại, đạt
đến vô ngại. Cũng phải hiểu rơ ràng, minh bạch
câu này, vô ngại là ǵ? Sáu căn của chúng ta tiếp xúc cảnh
giới sáu trần bên ngoài, quả thật tâm quư vị chẳng
động, không có phân biệt, không có chấp trước,
không có vọng tưởng, không có tham, sân, si, mạn, không
có những thứ ấy. Tiếp xúc cảnh giới bên
ngoài, trong tâm vẫn sạch làu làu, rành mạch, rơ ràng, đó
là Phật tri, Phật kiến, là chân tánh khởi tác dụng.
Quư vị dùng chân tâm, chẳng dùng vọng tâm. Quư vị dùng chân
tâm, bèn là Phật, là Bồ Tát; dùng vọng tâm bèn là phàm phu! Đoạn
văn kế tiếp nhằm giải thích tỉ mỉ, vẫn
[nhằm giải thích] bốn câu trên đây:
(Sao)
Tự nghiêm giả.
(鈔) 自
嚴 者。
(Sao: Tự trang
nghiêm).
Chân
tánh thứ ǵ cũng đều không có, cớ sao nó có thể
trang nghiêm chính ḿnh? Đích xác là nó trang nghiêm.
(Sao) Tâm bổn cụ hàm vạn
đức, hoàn dĩ vạn đức nghiêm tâm, đức
vô sở đức, nghiêm vô sở nghiêm, thị chân cúng
dường. Tư Ích kinh vân: “Thùy năng cúng dường
Phật? Thông đạt Vô Sanh giả”.
(鈔) 心 本 具 含 萬 德,還
以 萬 德 嚴 心,德 無 所 德,嚴
無 所 嚴,是 真 供 養。思
益 經 云:誰 能 供 養 佛,通
達 無 生 者。
(Sao: Tâm vốn sẵn
bao hàm vạn đức, lại c̣n dùng vạn đức
để trang nghiêm tâm, tuy là đức mà chẳng phải
là đức, tuy trang nghiêm, nhưng không có ǵ để trang
nghiêm, đó là cúng dường chân thật. Kinh Tư Ích nói:
“Ai có thể cúng dường Phật? Chính là người
thông đạt Vô Sanh”).
Người
nào có thể cúng dường Phật? Người thông
đạt Vô Sanh. Nói cách khác, chúng ta thường gọi người
“thông đạt Vô Sanh” là chứng
đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn.
(Sao)
Bảo Vũ kinh vân: “Như lư tư duy, tức thị cúng
dường Như Lai”, thị dă.
(鈔) 寶 雨 經 云:如 理 思
惟,即 是 供 養 如 來,是
也。
(Sao: Kinh Bảo Vũ[2] nói: “Tư duy
đúng lư chính là cúng dường Như Lai” chính là nói đến
ư này).
Câu
này có ư nghĩa giống như câu nói trong kinh Tư Ích.
(Diễn) Tâm bổn cụ hàm vạn đức, hoàn
dĩ vạn đức nghiêm tâm giả, sở vị tự
thể hữu đại trí huệ quang minh nghĩa, biến
chiếu pháp giới nghĩa, chân thật thức tri
nghĩa, thường, lạc, ngă, tịnh nghĩa đẳng,
tức dĩ sở hàm chi vạn đức, nghiêm ngă
năng hàm chi nhất tâm.
(演) 心 本 具 含 萬 德 還 以
萬 德 嚴 心 者,所 謂 自 體
有 大 智 慧 光 明 義、遍 照
法 界 義 、真 實 識 知 義、常
樂 我 淨 義 等,即 以 所 含
之 萬 德,嚴 我 能 含 之 一
心。
(Diễn: “Tâm vốn
sẵn bao hàm vạn đức, lại dùng vạn đức
để trang nghiêm tâm”, nghĩa là tự thể đă có
các ư nghĩa “đại trí huệ quang minh, chiếu trọn
khắp pháp giới, chân thật thức, thường, lạc,
ngă, tịnh” v.v… tức là dùng vạn đức là cái được
bao hàm để nghiêm tịnh nhất tâm là chủ thể
bao hàm [vạn đức] của ta).
Hăy
nên lănh hội những lời này. Lục Tổ đại
sư nói: “Nào ngờ tự tánh
vốn sẵn đủ”. Ở đây, đoạn này nói
tới “vốn sẵn trọn
đủ”, nêu ra mấy trường hợp để
nói. Trong Chân Như bổn tánh chẳng thiếu khuyết thứ
ǵ, thứ ǵ cũng trọn đủ, thứ ǵ cũng viên
măn. Lục Tổ lại nói rất hay: “Nào ngờ tự tánh có thể sanh ra vạn pháp”,
vạn pháp là ǵ? Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười
pháp giới thảy đều do tự tánh sanh ra. Ngoại
giáo chẳng biết, nên nói con người và chúng sanh do đâu
mà có? Thượng Đế tạo ra. Do đâu mà có Thượng
Đế? Không biết! Nói kiểu ấy chẳng suông! Tận
hư không khắp pháp giới, chẳng có thứ ǵ không do
tự tánh biến hiện. Nếu quư vị chẳng tin
tưởng, chính chúng ta có thể làm một thí nghiệm. Trong
Duy Thức chuyên môn nói đến thí nghiệm, có thể nói
[Duy Thức] là tâm lư học thực nghiệm.
Hai người
ngủ cùng một giường, mỗi người đều
nằm mộng, những giấc mộng ấy chẳng va
chạm nhau, cũng chẳng thể nói “không gian của ta bị
hắn chiếm đi”, chẳng có! V́ sao chẳng có hai hiện
tượng không gian bất đồng? V́ chúng nó là giả,
chẳng thật! Do lẽ đó, chúng ta mấy chục người,
mấy trăm người ngủ cùng một pḥng, mỗi người
đều nằm mộng, không gian vẫn to như vậy.
Mỗi người hiện một cảnh giới riêng ḿnh,
cảnh giới trùng điệp lẫn nhau, tuy trùng điệp
vẫn chẳng trở ngại, đều ở trong cùng một
không gian, trong cùng một pḥng, chẳng ra ngoài! Mỗi người
có trời đất của riêng ḿnh, đây kia chẳng trở
ngại lẫn nhau, điều này rất kỳ diệu! Thưa
quư vị, t́nh h́nh thực tế rất tương tự
chuyện này. Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới
cũng là như thế, giống như trong cảnh mộng.
Do đó, kinh Kim Cang nói: “Hết
thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”.
Thiên đạo, ngạ quỷ đạo, địa ngục
đạo ở chỗ nào? Ở cùng một chỗ với
chúng ta! Cổ đức thường nói “nhân quỷ tạp cư” (người và quỷ ở
lẫn lộn), ở cùng một chỗ, đôi bên chẳng
trở ngại nhau, người chẳng gặp quỷ, quỷ
cũng chẳng thấy người. Cùng sống một chỗ,
giống như hai người nằm mộng, đôi bên chẳng
trở ngại lẫn nhau!
Nói
thật ra, chư Phật, Bồ Tát, chư thiên và chúng ta cũng
là tạp cư cùng một chỗ, cơi này của chúng ta được
gọi là cơi Phàm Thánh Đồng Cư, tức là ở lẫn
lộn cùng một chỗ. Chuyện này có chứng cứ, chẳng
phải là tùy tiện nói bừa! Xưa kia, thiền sư
Pháp Chiếu, là tổ sư đời thứ tư của
Tịnh Độ Tông, tại Ngũ Đài Sơn gặp được
đạo tràng của Văn Thù và Phổ Hiền, tức Đại
Thánh Trúc Lâm Tự. Sư c̣n ở đó nghe Văn Thù Bồ
Tát giảng một thời kinh. Sau khi giảng xong, Sư thỉnh
giáo Văn Thù Bồ Tát: “Thời
kỳ Mạt Pháp, căn tánh của chúng sanh rất kém, tu
pháp môn ǵ sẽ thành tựu dễ dàng?” Văn Thù Bồ
Tát dạy Sư tu pháp môn Niệm Phật. Sư thưa: “Niệm
vị Phật nào?” Văn Thù Bồ Tát dạy Sư niệm
A Di Đà Phật. Lạy c̣n niệm mấy tiếng để
làm mẫu, niệm mấy câu A Di Đà Phật cho Sư
nghe, Sư học được. Ngũ Hội Niệm Phật
được lưu truyền như vậy đó. Khi Sư
rời khỏi Trúc Lâm Tự, đă đánh dấu, để
lần sau trở lại chẳng lạc đường, Sư
nh́n lại, một giải núi hoang! Nghĩ lại, giống
như một giấc mộng, nhưng rành mạch, rơ ràng,
không phải là nằm mộng, mà đích xác là trông thấy.
Bồ Tát ở cùng một chỗ với chúng ta. Bồ Tát trụ
Tịnh Độ, chúng ta trụ trong uế độ. Cung
điện, lầu gác của Bồ Tát do bảy báu tạo
thành, chúng ta thấy đó là núi hoang, đồng vắng,
gai góc, cát, đá, mắt phàm phu thấy như vậy! Trong
Tam Muội Thủy Sám có nói quốc sư Ngộ Đạt
gặp tôn giả Ca Nặc Ca, đạo tràng của A La
Hán cũng giống như thế. Có thể thấy là Bồ
Tát và La Hán ở cùng một chỗ với chúng ta! Chúng ta chẳng
thấy đạo tràng của các Ngài, chẳng thấy các
Ngài, các Ngài cũng chẳng thấy chúng ta. Đó là tự tánh
công đức trang nghiêm, xác thực là sẵn có đầy
đủ trong tự tánh, có thể sanh ra vạn pháp, có thể
hiện vạn pháp. Tâm thanh tịnh, ắt hiện Tịnh
Độ; tâm nhiễm ô, ắt hiện uế độ. Đó
là chân tướng sự thật.
Hiểu rơ chân
tướng sự thật, chúng ta sẽ tự tại, v́
sao? Trong hết thảy các pháp, chẳng lấy, chẳng bỏ.
Chẳng lấy, chẳng bỏ, sẽ chẳng có lo âu, chẳng
có vướng mắc. Ĺa khỏi hết thảy ưu lự,
vướng mắc, tâm liền thanh tịnh; tâm đă định,
không có thứ ǵ phải bận ḷng, tự nhiên khôi phục
thanh tịnh, khôi phục tâm b́nh thường. Tâm b́nh thường
là chân tâm (B́nh là b́nh đẳng, Thường là vĩnh viễn
như vậy, chẳng biến đổi). Tự tánh trang
nghiêm là cảnh giới do quư vị biến hiện, giống
như nằm mộng. Tâm chúng ta rất thanh tịnh, trong tâm
thứ ǵ cũng đều chẳng có, nhưng mỗi tối
nằm mộng th́ cảnh mộng ấy chính là tự tánh
trang nghiêm, chính ḿnh biến hiện để trang nghiêm chính
ḿnh! Tận hư không khắp pháp giới, y báo và chánh báo
trong mười pháp giới là tự tánh trang nghiêm, chẳng
đến từ bên ngoài, là vật được biến
hiện bởi tự tánh. Ngài giảng rất hay: “Tức dĩ sở hàm chi vạn
đức, nghiêm ngă năng hàm chi nhất tâm” (dùng vạn
đức là cái được bao hàm để nghiêm tịnh
nhất tâm là chủ thể bao hàm [vạn đức] của
ta).
(Diễn)
Đức vô sở đức, nghiêm vô sở nghiêm giả,
dĩ đối hằng sa phiền năo, hiển hằng sa
Tánh Đức, tự tánh chi phiền năo bổn Không, đức
tùng hà lập, tắc đức vô sở đức. Kư
dĩ tức tâm chi đức, nghiêm thử tức đức
chi tâm, toàn tâm tức đức, tắc nghiêm vô sở
nghiêm. Tâm đức lưỡng vong, Năng Sở bất
lập, nhất niệm bất sanh, thị chân cúng dường
dă.
(演) 德 無 所 德 嚴 無 所 嚴
者,以 對 恆 沙 煩 惱,顯
恆 沙 性 德,自 性 之 煩 惱
本 空,德 從 何 立,則 德
無 所 德;既 以 即 心 之 德,嚴
此 即 德 之 心,全 心 即 德,則
嚴 無 所 嚴。心 德 兩 忘,能
所 不 立,一 念 不 生,是
真 供 養 也。
(Sao: “Tuy có đức
mà chẳng thấy là đức, tuy trang nghiêm mà chẳng có
ǵ để trang nghiêm”: Do đối ứng với phiền
năo nhiều như cát sông Hằng mà tỏ lộ Tánh Đức
nhiều như cát sông Hằng. Phiền năo trong tự tánh vốn
là Không, đức do đâu mà lập, nên “tuy có đức
mà chẳng thấy là đức”. Đă dùng cái đức
ngay trong tâm để trang nghiêm cái tâm của đức ấy,
toàn thể tâm chính là đức, nên “trang nghiêm mà chẳng có
ǵ để trang nghiêm”. Tâm và đức cùng mất, Năng
và Sở chẳng lập, một niệm chẳng sanh,
đó là cúng dường chân thật).
Giải
thích câu thứ hai trong lời Sao, tức câu “đức vô sở đức, nghiêm vô sở nghiêm, thị
chân cúng dường”. Đức Phật thuyết pháp, dựa
trên Nhị Đế để nói. Nhị Đế là tương
đối, tức là Chân Đế và Tục Đế. Nếu
chẳng thuận theo Nhị Đế, đức Phật
chẳng có cách nào nói được, “ngôn ngữ dứt bặt, tâm hành xứ diệt”,
chẳng thể nghĩ, chẳng thể bàn, đó là cảnh
giới chân thật. Nhưng cảnh giới ấy chỉ
có người triệt ngộ thấu hiểu. Người
triệt ngộ cũng nhập cảnh giới ấy, Phật
cũng là cảnh giới ấy. Chẳng cần nói câu nào,
chẳng cần dấy một niệm, mà biết rành mạch,
rơ ràng, nhưng phàm phu không biết! Phàm phu mê hoặc, điên
đảo, suốt ngày từ sáng đến tối dấy
vọng tưởng, làm sao biết được? Đức
Phật phải thuyết pháp cho các phàm phu ấy, bất đắc
dĩ phải dùng pháp phương tiện. Pháp phương
tiện được kiến lập trên Chân Tục Nhị
Đế trong tự tánh thanh tịnh tâm, nên [đức Phật]
có thể thuyết pháp; mà cũng có thể nói là từ tương
đối, hiển thị chân tướng của các pháp. V́
thế, đối với phiền năo của chúng sanh, đối
ứng với phiền năo nhằm hiển thị Tánh Đức.
Thí dụ như chúng sanh có tham, đối lập với
tham là vô tham, vô tham là Tánh Đức. Đối lập với
sân khuể là vô sân, vô sân là Tánh Đức, là chân tánh, là đức
dụng chân thật. Phiền năo vô lượng vô biên ví như
cát sông Hằng, chúng sanh có hằng sa phiền năo, đối
lập với mỗi một phiền năo là một Tánh
Đức; v́ thế, hiển lộ hằng sa Tánh Đức.
Phật phải nói ra! V́ thế, đức Phật nói suốt
bốn mươi chín năm, nói mỗi ngày, suốt bốn
mươi chín năm chẳng gián đoạn.
Các
kinh điển được phiên dịch thành tiếng Hán
hiện thời hoàn toàn chẳng phải là toàn bộ kinh Phật,
những kinh điển do đức Phật đă giảng
trong bốn mươi chín năm quá nhiều. Cao tăng Ấn
Độ đem [kinh điển] đến Trung Quốc,
hoặc pháp sư Trung Hoa đến Ấn Độ mang [kinh
điển] về đều rất hữu hạn, v́
trước kia, kinh điển chẳng được ấn
loát đẹp đẽ, gọn gàng như trong hiện tại:
[Hiện thời], một bộ Đại Tạng Kinh có
thể đem về cùng một lúc được! Xưa
kia, sách được chép trên lá cây Bối Đa La (Tāḷapatra), lá Bối dầy
như lá chuối, cắt thành từng phiến dài, trên mỗi
phiến viết chừng bốn hàng. Hai đầu phiến
lá xỏ lỗ, dùng dây buộc lại [cho khỏi thất
lạc]. Một bộ kinh là một đống lớn,
đừng nói kinh nào khác, một bộ Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh đại khái một
cỗ xe chở không hết, đó là sự thật. Quư vị
mới hiểu nỗi khó khăn khi chở những thứ
ấy từ Ấn Độ tới Trung Quốc! Thời
ấy dùng ngựa, mỗi bộ kinh phải dùng vài thớt
ngựa để chở. Những kinh điển do các pháp
sư mang đến Trung Quốc được chọn đi
chọn lại, chọn những bộ trọng yếu nhất
đem tới, những bộ ít quan trọng hơn bèn chẳng
cần đến, bỏ lại. Chẳng giống như
kỹ thuật ấn loát tinh vi, đẹp đẽ trong
hiện thời, một trang giấy mỏng tanh như thế,
mà mỗi trang có thể in nhiều hàng chữ như vậy.
Người thuở trước không có cách nào tưởng
tượng chuyện này. V́ thế, hiện thời, chúng
ta thấy kinh điển nhiều ngần ấy, nhưng
trọn chẳng phải là toàn bộ kinh điển của
Thích Ca Mâu Ni Phật, có thể là chưa được một
nửa, thế mà đă có lắm kinh ngần ấy!
Trong kinh Kim Cang, lăo nhân gia nói: “Nếu có ai nói đức Phật
thuyết pháp, tức là báng Phật”. Đức Phật
phủ định toàn bộ những ǵ Ngài đă giảng.
V́ sao phủ định? Chính là do
như ở đây đă nói: “Tự
tánh chi phiền năo bổn không, đức tùng hà lập”
(phiền năo trong tự tánh vốn là không, đức do
đâu mà lập), do đạo lư này. V́ lẽ đó, đức
Phật nói: “Nói mà chẳng nói,
chẳng nói mà nói”. “Nói” là Tục Đế, “chẳng nói”
là Chân Đế! Nói thật với quư vị, đức
Phật chẳng nói, suốt bốn mươi chín năm Ngài
chẳng nói một chữ nào. Nếu nói phương tiện
với quư vị, th́ trong bốn mươi chín năm, Thích
Ca Mâu Ni Phật đă giảng kinh hơn ba trăm hội,
nói rất nhiều. Nói chân thật cùng quư vị th́ một
chữ đức Phật cũng chẳng nói. Phải rất
chú tâm lănh hội điều này!
Quư
vị có thể thấu hiểu, chúng ta phải học tập.
Thấu hiểu là ta thật sự hiểu rơ, thông hiểu.
Hiểu được th́ chúng ta cũng phải học, ta
cũng phải học giống như Phật. Trong cuộc
sống hằng ngày, “nói mà không
nói, không nói mà nói”, “làm mà không
làm, không làm mà làm”, “Lư Sự
vô ngại, Sự Sự vô ngại”, vậy th́ quư vị
hoàn toàn nhập cảnh giới Hoa Nghiêm, chẳng khác Tây
Phương Tịnh Độ! Tây Phương Tịnh
Độ cũng là Sự Sự vô ngại. Thưa cùng quư
vị, cuộc sống ấy mới là chân thiện mỹ
huệ, mới là hạnh phúc mỹ măn chân chánh, chỉ có
sung sướng, chẳng có đau khổ! Nhập cảnh
giới ấy, hiện tiền là thế giới Cực Lạc,
chẳng khổ! Thế giới Tây Phương “vô hữu chúng khổ, đản
thọ chư lạc” (chẳng có các nỗi khổ, chỉ
hưởng các niềm vui). Quư vị chẳng nhập cảnh
giới ấy, khổ nhiều, vui ít. Vui là giả, khổ
là thật. Nhập cảnh giới ấy, vui là thật, khổ
chẳng có. Do đó, kết luận “tâm đức lưỡng vong, Năng Sở bất
lập, nhất niệm bất sanh” (tâm và đức
cùng mất, Năng và Sở chẳng lập, một niệm
chẳng sanh), đó là cúng dường thật sự, hoàn
toàn khế hợp, hoàn toàn tương ứng với sở
chứng của hết thảy chư Phật.
Chúng
ta đọc đoạn kinh này, ngàn muôn phần đừng
nghĩ “tâm ta chẳng tưởng ǵ hết th́ đó là cúng
dường thật sự”. Được rồi, mỗi
ngày chúng ta chẳng cần đối trước Phật
cúng hương, hoa, trái cây. Nghĩ vậy th́ quư vị đă
hoàn toàn sai lầm, đă đọa vào “ác thủ không” (chấp Không sai lầm). Phải
biết: Đó là Lư, chúng ta có làm được hay không? Chẳng
làm được! V́ trong tâm chúng ta c̣n có thị phi, nhân ngă,
c̣n có tham, sân, si, mạn, làm sao quư vị có thể làm được?
Đừng nói là cảnh giới ấy chúng ta chẳng làm được,
A La Hán, Bích Chi Phật, Quyền Giáo Bồ Tát đều làm
không được. Do đó, chúng ta lạy Phật, lạy
Bồ Tát, phải nên cúng dường như thế nào th́ vẫn
phải thật thà cúng dường như thế ấy. Lư
ở đây chẳng thể học, học không nổi! Tiếp
theo đây sẽ là phần giải thích câu nói trong kinh Tư
Ích: “Thùy năng cúng dường
Phật? Thông đạt Vô Sanh giả” (Ai có thể cúng
dường Phật? Người thông đạt Vô Sanh).
(Diễn) Phật giả, giác dă.
Giác thể vô sanh, bất đạt Vô Sanh, hà xứ mịch
Phật? Cố duy tịch diệt hiện tiền, năi
năng đồng Phật từ lực. Bất nhiên,
dĩ sanh diệt tâm, trước tướng mịch Phật,
tùy trục vọng duyên, phi chân cúng dường cố.
(演) 佛 者,覺 也。覺 體 無
生,不 達 無 生,何 處 覓
佛?故 唯 寂 滅 現 前,乃
能 同 佛 慈 力;不 然,以
生 滅 心,著 相 覓 佛,隨
逐 妄 緣,非 真 供 養 故。
(Diễn: Phật là
giác. Bản thể của Giác là vô sanh. Chẳng thông đạt
Vô Sanh, t́m Phật ở chỗ nào? V́ vậy, chỉ có tịch
diệt hiện tiền, bèn có thể giống như từ
lực của Phật. Nếu không như vậy, dùng cái
tâm sanh diệt, chấp tướng để t́m Phật,
theo đuổi vọng duyên, chẳng phải là cúng dường
chân thật).
Do đó, phải
hiểu Phật là ǵ? Phật là đại giác, Phật là giác
tâm. Trong hết thảy các pháp, tâm ấy hoàn toàn chẳng mê,
đó là Phật. Hễ có mảy may mê hoặc, sẽ chẳng
phải là Phật. Giác tâm là chân tâm, chân tâm bất động.
Bất động bèn chẳng có sanh diệt, sanh diệt
là động, nên giác thể là vô sanh. V́ sao tu hành trong Phật
pháp đặc biệt coi trọng Thiền Định?
Định là bất động. Thiền Định là mấu
chốt trong sự tu hành của Phật môn, cũng có thể
nói là chúng ta muốn khôi phục bổn tánh, khôi phục chân
tâm, dùng phương pháp ǵ? Dùng Định. Do vậy, Phật
pháp tuy có rất nhiều pháp môn, tám vạn bốn ngàn pháp
môn, vô lượng pháp môn, cho thấy phương pháp, đường
lối rất nhiều, tu ǵ vậy? Thảy đều là
tu Định, không có pháp môn nào chẳng tu Định. Tuyệt
đối chẳng phải là chỉ có Thiền Tông mới
tu Định. [Nếu chỉ nghĩ Thiền Tông là tu Định],
quư vị đă sai mất rồi. Giáo Hạ nói Chỉ Quán,
đó là Thiền Định. Người niệm Phật nói
“nhất tâm bất loạn”,
nhất tâm bất loạn là Thiền Định. Chư vị
phải hiểu, tên gọi khác nhau, nhưng đều là tu
Thiền Định. Định là tâm bất động; trong
cảnh giới, tâm chẳng bị cảnh giới xoay chuyển,
đó là Thiền Định thật sự, kinh Lăng
Nghiêm gọi [Định ấy] là Thủ Lăng Nghiêm
Đại Định.
Kinh
Lăng Nghiêm nói về phương pháp tu hành, hai mươi
lăm vị Bồ Tát, mỗi vị Bồ Tát đứng
ra báo cáo phương pháp tu hành của chính ḿnh, toàn bộ đều
là tu Lăng Nghiêm Đại Định, nhưng mỗi cá
nhân dùng phương pháp khác nhau. Đại Thế Chí Bồ
Tát dùng pháp môn Niệm Phật, tức là dùng pháp môn chấp
tŕ danh hiệu để tu Lăng Nghiêm Đại Định.
Quán Thế Âm Bồ Tát dùng phương pháp Thiền Quán để
tu Lăng Nghiêm Đại Định. Hai mươi lăm
vị Bồ Tát, nói thật ra là tám vạn bốn ngàn pháp
môn, vô lượng pháp môn được quy nạp thành hai
mươi lăm loại lớn, chẳng có pháp môn nào không
nhằm tu Thủ Lăng Nghiêm Đại Định. Pháp môn
Niệm Phật cũng không ra ngoài lệ ấy, cũng là tu
Thủ Lăng Nghiêm Đại Định, chư vị nhất
định phải biết điều này th́ mới biết
niệm Phật hiệu! Tương ứng với Thủ
Lăng Nghiêm Đại Định.
Trong
hết thảy cảnh giới, bất luận là thuận
cảnh hay nghịch cảnh, đều chẳng động
tâm. Người thế gian đối với thuận cảnh
sanh tâm tham ái, trong nghịch cảnh sanh tâm sân khuể. Tâm đă
động, đă động tâm. Động tâm th́ chính ḿnh
phải khởi lên cảnh giác, hễ tâm động bèn tạo
nghiệp, nghiệp chướng hiện tiền. Ta dấy
lên tham ái, dấy lên sân khuể, dấy lên tham, sân, si, mạn
nghi, dấy lên phân biệt, chấp trước, nghiệp
chướng hiện tiền, nên ngay lập tức bèn giác
ngộ “nghiệp chướng của ta lại hiện tiền”,
đó là cảnh giác. Quư vị có thể biết nghiệp
chướng của chính ḿnh hiện tiền, đó là giác
ngộ. Đă giác ngộ th́ phải dùng phương pháp ǵ để
đối trị? Tịnh Tông dùng một câu Phật hiệu
để đối trị, ngay lập tức “A Di Đà
Phật” nhằm b́nh ổn, dứt trừ vọng niệm
ấy. V́ lẽ đó, một câu A Di Đà Phật tiêu nghiệp
chướng hữu hiệu hơn bất cứ thứ ǵ
khác!
Trong
Phật môn, quư vị chỉ nói “bái sám để cầu tiêu
nghiệp chướng”, nhưng chẳng biết nghiệp
chướng ở chỗ nào? Cũng chẳng biết cách
tiêu như thế nào? Rốt cuộc, tiêu hay không, chính ḿnh cũng
chẳng biết, tu hành hồ đồ! Cổ nhân bảo
là “tu mù, luyện đui”! Nếu
trong cảnh giới sáu trần, cái tâm này thật sự chẳng
bị cảnh giới chuyển, tâm đạt được
thanh tịnh, tự ḿnh sẽ biết nghiệp chướng
của chính ḿnh đă tiêu. Trong cảnh giới, nếu tham,
sân, si, mạn thay đổi rất nhanh, đó là nghiệp
chướng vô cùng nặng nề! Trong hết thảy cảnh
giới, tâm dần dần b́nh lặng, yên tĩnh, dẫu có
tham, sân, ư niệm ấy rất mỏng nhẹ, chẳng
nghiêm trọng, vừa nhẹ nhàng khởi lên một câu Phật
hiệu, nó liền chẳng c̣n nữa, dùng Phật hiệu
để thay thế [vọng niệm], đó là t́nh trạng
nghiệp chướng tiêu trừ. Do đó, công phu của chính
ḿnh đă đến mức độ ra sao, có thành tựu
như thế nào, chính ḿnh hiểu rơ ràng, rành rẽ. Người
tu hành phải coi trọng chỗ này, mong được thành
tựu thật sự.
Định
đến mức công phu kha khá, nói theo pháp môn này, sẽ là “chẳng
bị ngoại cảnh lay động”. Đối với
ngũ dục, lục trần thế gian, ta bất động.
Đối với hết thảy các pháp môn trong Phật môn,
ta cũng chẳng hâm mộ, mà cũng chẳng động
tâm, cũng chẳng hủy báng, thật thà chiếu theo kinh
A Di Đà để tu hành. Trong hết thảy các kinh, ta chỉ
giữ lấy kinh này, tâm đă định. Đối với
pháp thế gian hay xuất thế gian, tâm đều định,
thưa cùng quư vị, cảnh giới ấy gọi là “công phu thành phiến”, quư vị
nắm chắc văng sanh, nắm chắc cơi Phàm Thánh Đồng
Cư.
Sau
khi tu đến một giai đoạn [nào đó], quả
nhiên quư vị tín nguyện thanh tịnh, kiên cố chẳng
đổi dời, chính ḿnh sẽ nắm chắc quyết
định văng sanh với mức độ rất lớn,
chẳng có tí ti hoài nghi nào. Nếu công phu của quư vị càng
sâu hơn nữa, có thể thật sự đoạn sạch
các vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, quư
vị bèn đạt được nhất tâm bất loạn.
Tịch diệt hiện tiền, đó là công phu định
lực sâu đến tột cùng, người niệm Phật
gọi [cảnh giới ấy] là Lư nhất tâm bất loạn.
Đạt đến Lư nhất tâm bất loạn, kinh nói
là “tịch diệt hiện tiền”;
khi ấy, tâm quư vị chẳng khác ǵ tâm chư Phật, nên
quư vị “đồng Phật
từ lực”, nghĩa là ḷng từ bi giống hệt
như Phật. Từ bi kiến lập trên cái tâm thật sự
thanh tịnh, b́nh đẳng, xuất sanh từ bi; v́ vậy,
đồng Phật từ lực! Hễ có phân biệt, bèn
khác Phật. Có phân biệt bèn sai khác. Phật là hết thảy
đều vô phân biệt, chẳng có phân biệt, chẳng
có chấp trước.
“Bất nhiên, dĩ sanh diệt
tâm, trước tướng mịch Phật” (nếu không
như vậy, dùng cái tâm sanh diệt, chấp tướng để
t́m Phật). Kinh Kim Cang nói: “Nếu
dùng sắc thân để thấy Như Lai” có cùng một
đạo lư “trước
tướng mịch Phật” (chấp tướng t́m Phật)
được nói ở đây. Kết quả là “tùy trục vọng duyên” (đuổi
theo vọng duyên), có thể thấy Phật hay không? Không thể!
V́ vậy,
người niệm Phật cầu ǵ? Kinh đă giảng rất
rành mạch, chúng ta chỉ cầu nhất tâm bất loạn,
chắc chắn sẽ không chuốc phải ma chướng.
Ta cũng chẳng cần thấy Phật, ta cũng chẳng
cần thấy quang minh, ta cũng chẳng cần thấy
những điều kỳ quái, chẳng cần những điều
ấy, tâm ta thanh tịnh. Ta chỉ tu tâm thanh tịnh, chỉ
cầu chính ḿnh nhất tâm bất loạn, chỉ cầu
lâm chung văng sanh Tịnh Độ, đó là đúng. Quư vị
có thể phát tâm niệm Phật như vậy, trong một
đời này, chắc chắn chẳng chuốc lấy ma
sự, ma đành bó tay! V́ ma chẳng nắm được
nhược điểm của quư vị, nên chẳng có chút
xíu biện pháp nào cả! V́ thế, kẻ ham chuộng thần
thông, thích thú những chuyện kỳ quái, những kẻ ấy
rất dễ bị ma dựa, ma có thể biến hiện
những tṛ huyễn hoặc, biến ra những chuyện
kỳ quái để hấp dẫn con người. Tiếp
theo đây là giải thích câu “như
lư tư duy, tức thị cúng dường Như Lai” (đúng
lư tư duy chính là cúng dường Như Lai) trong kinh Bảo
Vũ:
(Diễn)
Kim Cang kinh vân: “Như Lai giả, tức chư pháp Như
nghĩa”.
(演) 金 剛 經
云:如 來 者,即 諸 法 如
義。
(Diễn: Kinh Kim Cang nói: “Như Lai là nghĩa Như
của các pháp).
Trong
hết thảy các kinh, để giải thích hai chữ Như
Lai, bốn chữ này (“chư
pháp Như nghĩa”) của kinh Kim Cang đă thật sự
giải quyết. Một câu khác nữa là “Như Lai giả, vô sở tùng lai, diệc vô sở
khứ” (Như Lai là không từ đâu đến, mà cũng
chẳng đi về đâu), chỉ là một ư nghĩa của
Như Lai: Không đến, không đi. Ư nghĩa này chẳng
viên măn bằng ư nghĩa “chư
pháp Như nghĩa”. Chúng ta có “hết thảy các pháp”, Như
là ǵ? Vạn pháp đều là Không. “Như” là tánh, tánh là không tịch. Trước đó,
[lời Sao] đă nêu mấy tỷ dụ rất hay! Chúng ta
vừa mới đọc rồi đó, Pháp Thân giống
như hư không, vô vi, trọn khắp, bất động,
những điều ấy đều là nghĩa Như, chẳng
có một pháp nào không phải là như thế. Vạn pháp đều
Như, pháp nào cũng trọn khắp, pháp nào cũng đều
bất động, pháp nào cũng đều là Không, bản
thể chính là Không. V́ thế, bốn chữ này giảng thật
tuyệt diệu. Cũng có thể nói là hết thảy tướng
đều giống như tánh, tướng do đâu mà có?
Do tánh biến hiện. Giống như quốc sư Hiền
Thủ đă nói: “Dùng vàng làm
đồ vật, món nào cũng đều là vàng”. Bất
luận quư vị làm mấy ngàn thứ, mấy vạn thứ,
thảy đều là vàng, thể chất chẳng thay đổi,
là một! Do đó, pháp nào cũng đều là Như, pháp nào
cũng chẳng có chướng ngại. V́ sao chẳng có chướng
ngại? V́ bản thể chính là Không, chẳng có chướng
ngại.
Nay
chúng ta bị thua thiệt ở chỗ nào? Phân biệt, chấp
trước. Coi những hiện tượng ấy đều
là chân thật; hễ thấy chúng là chân thật, liền bị
chướng ngại. Ngày nào chúng ta thật sự thấy
thấu suốt, rời ĺa toàn bộ những vọng
tưởng, chấp trước ấy, sẽ chẳng có
chướng ngại, ngay cả vách tường cũng tự
do xuyên qua, v́ sao? Bản thể của thân ta chính là Không, bản
thể của vách tường cũng chính là Không, Không và Bất
Không chẳng trở ngại! Chúng ta gọi điều này
là thần thông! V́ sao hiện thời chúng ta chẳng thể
xuyên qua tường? V́ chấp trước thân ta là có, chẳng
trống rỗng, vách tường cũng là có, cũng chẳng
phải là trống không. Có và Có c̣n có chướng ngại, chẳng
xuyên qua được. Khi nào quư vị có thể quên mất
chuyện này, liền xuyên qua. Chuyện này cũng chẳng
phải là chuyện rất khó. Trong lời tựa [cho bộ
Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa], pháp sư Viên Anh có kể:
Có một ngày, Sư tĩnh tọa trong pḥng riêng, tâm rất
thanh tịnh. Khi Sư tĩnh tọa, đă gài chốt cửa,
đóng chặt lại. Chợt nghĩ đến vài chuyện
phải làm, Sư liền lập tức bước ra, quên
mất thân này, cửa pḥng cũng quên luôn, đi ra ngoài. Sau
khi ra ngoài, bỗng nhiên nghĩ: “Vừa rồi, ta không mở
cửa”. Sư có ấn tượng, “ta chẳng mở cửa,
làm sao đi ra được?” Quay lại đẩy cửa,
quả nhiên cửa đă gài chốt. Sư liền ngộ
nhập đạo lư ấy trong kinh Lăng Nghiêm.
V́
sao nay chúng ta có chướng ngại? Một niệm phân biệt
khởi. Sau khi Sư vừa ra khỏi, tâm phân biệt dấy
lên, khi quay trở lại xem, rốt cuộc chẳng vào được!
Ngay trong lúc Sư chẳng có một niệm phân biệt, Sư
ra được, xuyên qua được; hễ chẳng có
chướng ngại bèn xuyên qua được. Từ cửa
bước ra, có thể thấy Ngài vẫn cảm thấy
cửa thông suốt, chẳng theo tường vách để
ra. Tại Trung Quốc, có nhiều người tu hành có kinh
nghiệm này, có thể thấy chuyện này là thật, chẳng
giả. Chúng ta chấp trước thân là thật, chấp
trước hết thảy vạn vật cũng là thật,
liền nẩy sanh chướng ngại rất lớn. Cũng
là do chúng ta không biết nghĩa Như của các pháp. Thật
sự hiểu nghĩa Như của các pháp, quư vị
được gọi là Như Lai, bèn thành Phật.
(Diễn)
Bất tư Chân Như chi nghĩa, bất năng cúng dường
Như Lai cố.
(演) 不 思 真
如 之 義,不 能 供 養 如 來
故。
(Diễn: Chẳng
nghĩ nghĩa Chân Như, chẳng thể cúng dường
Như Lai).
Đây
là nói về “như lư tư duy”,
Lư là Chân Như Lư Thể. Chúng ta có thể tương ứng
Chân Như Lư Thể, bèn là cúng dường chân thật.
(Diễn) Chân Như phi hữu, bất dĩ hữu
tư. Chân Như phi vô, bất dĩ vô tư. Chân Như phi
diệc hữu diệc vô, bất dĩ song diệc tư.
Chân Như phi phi hữu phi vô, bất dĩ song phi tư. Ly
tứ cú, tuyệt bách phi tư, tư chí vô tư, tư tận
hoàn nguyên, phương danh thân cúng dường Như Lai dă.
(演) 真 如 非 有,不 以 有
思;真 如 非 無,不 以 無
思;真 如 非 亦 有 亦 無,不
以 雙 亦 思;真 如 非 非 有
非 無,不 以 雙 非 思。離
四 句,絕 百 非 思,思 至
無 思,思 盡 還 源,方 名
親 供 養 如 來 也。
(Diễn: Chân Như chẳng
phải là Có, chẳng nghĩ là Có. Chân Như chẳng phải
là Không, chẳng nghĩ là Không. Chân Như chẳng phải là
“cũng Có, cũng Không”, chẳng nghĩ “cả hai cùng có”.
Chân Như chẳng phải là “chẳng phải Có, chẳng
phải Không”, nên chẳng nghĩ “cả hai đều chẳng
có”. Mọi suy nghĩ ĺa tứ cú, tuyệt bách phi, suy nghĩ
đến mức chẳng c̣n ǵ để suy nghĩ. Suy
nghĩ đă hết liền trở về nguồn th́ mới
gọi là “đích thân cúng dường Như Lai”).
“Chân Như phi Hữu”, [Chân Như] chẳng có h́nh tướng,
nhưng tuyệt đối chẳng phải là Vô (không có ǵ).
Chẳng phải là Không Vô (rỗng tuếch, chẳng có ǵ),
nó thật sự Có. Tuy Có, nhưng chẳng có h́nh tướng,
nên nói nó “phi Hữu” (chẳng
phải là Có). [Nói Chân Như là] Phi Hữu v́ nó chẳng phải
là thứ ǵ. “Bất dĩ Hữu
tư”, [nghĩa là] quư vị không thể dùng Có để
suy tưởng nó, chẳng thể nghĩ được. Chân
Như giống như thứ ǵ? Màu sắc ra sao? To cỡ nào?
Dài cỡ nào? Ngắn cỡ nào? Quư vị chẳng thể tưởng
tượng được, nó chẳng phải là một vật
thể. Tận hư không khắp pháp giới đều do
nó biến hiện. Không chỉ hết thảy vạn vật
do nó biến hiện, ngay cả hư không cũng do nó biến
hiện. “Chân Như phi vô”,
nó cũng chẳng phải là không có, nên “bất dĩ Vô tư”, [tức là] nếu quư vị
nghĩ nó “trống rỗng, thứ ǵ cũng chẳng có” th́
cũng nghĩ không xuôi, v́ nó chẳng phải là Vô (không có ǵ).
V́ sao chẳng phải là Vô? Nó có thể biến hiện cảnh
giới nhiều ngần ấy! Giống
như chúng ta nằm mộng, đối với cái tâm ư thức
trong mộng, quư vị chẳng thể nói nó là Có, mà cũng
chẳng thể nói nó là Không. Nếu quư vị nói nó là Có,
trong tâm xác thực là chẳng có ǵ cả! Quư vị nói nó là
Không, nó có thể nằm mộng, nó có thể biến hiện
rất nhiều cảnh giới. Nó có thể nghĩ tưởng;
hễ nghĩ tưởng, bèn có tướng. Thí dụ như
chúng ta nghĩ tới trạm xe lửa Đài Bắc, ngay lập
tức quư vị nghĩ đến h́nh dạng của trạm
xe lửa Đài Bắc, tướng ấy bèn hiện ra. V́
thế, nó “phi Hữu, phi Vô, diệc
Hữu, diệc Vô” (chẳng Có, chẳng Không; cũng Có,
cũng Không), chẳng thể dùng Hữu để suy nghĩ,
mà cũng chẳng thể dùng Vô để suy nghĩ nó. “Chân Như phi diệc Hữu, diệc
Vô, bất dĩ song diệc tư” (Chân Như chẳng
phải là cũng Có, cũng Không, chẳng thể nghĩ nó
vừa là Có vừa là Không), chẳng thể lại nghĩ
nó vừa là Có vừa là Không. “Chân
Như phi phi Hữu phi Vô, bất dĩ song phi tư” (Chân
Như chẳng phải là chẳng phải Có, chẳng phải
Không, đừng nghĩ là nó cả hai đều không). Nói
cách khác, Chân Như là chẳng thể nghĩ tưởng. V́
thế, bảo là “ly tứ cú,
tuyệt bách phi tư, tư chí vô tư, tư tận hoàn
nguyên, phương danh thân cúng dường Như Lai dă” (mọi
suy nghĩ ĺa tứ cú, tuyệt bách phi, suy nghĩ đến
mức chẳng c̣n ǵ để suy nghĩ, suy nghĩ đă
hết liền trở về nguồn th́ mới gọi là
“đích thân cúng dường Như Lai”).
Đức
Phật dạy chúng sanh rất nhiều phương pháp xảo
diệu, có người thích suy tưởng, chuộng nghiên
cứu, đức Phật bèn dạy họ suy tưởng,
suy tưởng đến chỗ không c̣n ǵ để suy tưởng,
liền trở về nguồn cội. Những phương
pháp nào là Tưởng? Pháp Tướng Duy Thức Tông là Tưởng.
V́ thế, học Pháp Tướng Duy Thức là dạy quư vị
tưởng. Phải tưởng đến chỗ không c̣n
tưởng, quư vị mới có thể nhập môn. Nếu
quư vị chẳng thể đạt đến “tưởng tận, hoàn nguyên”,
sẽ chẳng thể vào được cửa. Phương
pháp của Thiền Tông là dạy quư vị thứ ǵ cũng
đều chớ nên tưởng, bảo quư vị ngay lập
tức buông xuống hết thảy, chẳng sanh một niệm,
dùng phương pháp này. V́ thế, trong phương pháp “bổng hát” (đánh và hét) của
thiền sư Thiền Tông, tay cầm sẵn gậy đánh người khác. Quư vị nghĩ tưởng
bèn đập, không nghĩ tưởng cũng đập,
chẳng nói lư do chi hết! Tưởng là ǵ? Vọng tưởng,
đáng nên đánh. Lúc quư vị chẳng nghĩ ǵ, vô minh
đấy nhé! Cũng đáng nên đánh! Lên tiếng,
ba mươi gậy; câm miệng, vẫn là ba mươi gậy!
Dùng phương pháp này.
Tịnh
Tông dùng phương pháp Niệm Phật, so với nhiều
phương pháp, Tịnh Tông thuận tiện hơn. Tịnh
Tông nói: Hết thảy đều chẳng nghĩ tới quá
khó. Nếu quư vị nghĩ quá nhiều, cũng rất nhọc
nhằn! Kinh luận của Duy Thức Tông đặc biệt
nhiều, kinh luận chủ yếu là sáu kinh, mười một
luận. Trong sáu kinh có Đại Phương Quảng Phật
Hoa Nghiêm Kinh, một bộ to dường ấy. Mười
một luận đáng nể lắm! Du Già Sư Địa
Luận gồm một trăm cuốn! Tưởng quá nhiều!
V́ thế, từ xưa tới nay, những vị học
Duy Thức, thọ mạng đều chẳng dài, thật
đấy! V́ sao? Suy nghĩ quá độ, c̣n chưa “hoàn
nguyên” (trở về nguồn) đă chết rồi, không đạt
đến cảnh giới ấy, thọ mạng đă không
c̣n, thôi rồi! Quư vị bèn biết Pháp Tướng rất
khó học!
Trong
các tông phái khác, vừa có nghĩ tưởng, vừa có tu Định,
giống như Thiên Thai, Hiền Thủ, Tam Luận, giải
hạnh tương ứng. Tu Chỉ Quán cũng phải
nghiên cứu kinh luận, nói chung là hao phí tinh thần quá nhiều!
Chúng ta là những kẻ chẳng muốn bận tâm quá nhiều,
chẳng muốn dùng đầu óc quá nhiều, vẫn là một
câu A Di Đà Phật đơn giản, vừa đơn
giản, lại vừa dễ dàng, lại ổn thỏa,
thích đáng, lại rất nhanh chóng, vẫn là pháp môn này tốt
đẹp. So đi, tính lại, pháp môn này vẫn thích hợp
nhất cho người có căn tánh như chúng ta tu học,
tức là những kẻ sợ tổn hại đầu óc,
tốt nhất là dùng phương pháp này. Ngày hôm nay chúng tôi
giảng tới chỗ này!
Tập
158
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa
Hội Bổn, trang ba trăm bốn mươi:
(Sao)
Tự biến giả, dĩ tâm biến nhất thiết xứ,
tức thị nhất nhất thừa sự, vô không quá giả.
Cố Duy Ma kinh ngôn: “Vô tiền, vô hậu, nhất thời
cúng dường”.
(鈔) 自 遍 者,以
心 遍 一 切 處,即 是 一 一
承 事,無 空 過 者,故 維
摩 經 言:無 前 無 後,一
時 供 養。
(Sao: “Tự trọn
khắp”: Do tâm trọn khắp hết thảy mọi
nơi, nên thừa sự mỗi một [vị Phật], chẳng
bỏ sót. V́ thế, kinh Duy Ma nói: “Chẳng trước, chẳng
sau, cúng dường cùng lúc”).
Đây
là giải thích câu “tự tánh tự
biến” trong lời Sớ. Lư luận này là sự thật.
Tự tánh là bổn tánh của chúng ta, mà cũng là chân tánh,
nó “biến nhất thiết xứ”
(trọn khắp hết thảy mọi nơi), có thể nói
hết thảy vạn pháp đều do tự tánh biến
hiện. V́ thế, pháp này và pháp nọ nhất định phải
dung thông, nhất định là giao ḥa, viên dung. Chúng ta động
một niệm, người khác có thể biết, Phật,
Bồ Tát thảy đều biết. Không chỉ là Phật,
Bồ Tát biết, mà người nào tâm thanh tịnh cũng
đều biết, nguyên lư là v́ “tâm là một”. Trong kinh Lăng
Nghiêm, đức Phật đă sánh ví tâm tánh của chúng ta như
biển cả, sánh ví mỗi chúng sanh như một bọt
nước trong biển. Biển là toàn thể, bọt
nước sanh từ biển. Bọt nước ví như
chúng sanh, phá tan bọt nước bèn thành Phật. Đă vỡ
tan, bèn cùng biển cả ḥa thành một Thể, mỗi bọt
nước trong biển cả đều là Thể của
quư vị! Nói cách khác, bọt nước ví như vọng
tưởng, chấp trước. Quư vị có vọng
tưởng, chấp trước, tức là kết thành một
bọt nước trong biển cả, ngỡ bọt nước
ấy là chính ḿnh, chẳng biết biển cả là chính
ḿnh. Ngày nào quư vị phá tan phân biệt, chấp trước,
giống như phá vỡ bọt nước, mới biết
toàn thể biển cả là chính ḿnh, nên chẳng có pháp nào
quư vị không hiểu rơ, không có tâm niệm của người
nào quư vị không biết. Đó là ư nghĩa “tự biến” được nói ở đây.
Do đó,
thật sự biết chân tướng sự thật, người
ta quyết định chẳng tạo ác! Biết chân
tướng sự thật, liền biết trạng huống
nhân quả trong mười pháp giới. Y báo và chánh báo trang
nghiêm trong mười pháp giới do đâu mà có? Đến
tột cùng là chuyện như thế nào? V́ sao có mười
pháp giới? V́ sao có lục đạo? V́ sao có thiện
đạo? V́ sao có ác đạo? Quư vị thảy đều
hiểu rơ ràng. Khi ấy, chúng ta khởi tâm động niệm,
hết thảy tạo tác, tự nhiên liền tương ứng
với Tánh Đức. Tánh Đức là thuần thiện,
chẳng ác, thiện ở đây không phải là thiện
trong “thiện, ác”. Thiện trong “thiện, ác” vẫn là ác, vẫn
chưa phải là thiện thật sự. Thiện thật
sự và pháp tánh hoàn toàn khế hợp, đấy mới là
thiện thật sự.
Trên
thực tế, “thừa sự”
(承事) chính là ba nguyện đầu trong mười nguyện
của kinh Hoa Nghiêm, tức là lễ kính, khen ngợi, cúng
dường, ba chuyện ấy. Ba nguyện ấy đều
là “thừa sự” ở nơi
đây. Hiểu đạo lư này, mới hiểu v́ sao đại
nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát có thể đầy
ắp pháp giới, đối tượng [của các nguyện
ấy] là hữu t́nh và vô t́nh tận hư không khắp pháp
giới, chẳng sót một ai. Do v́ tự tánh trọn khắp,
đạo lư là như vậy. Những lư được nói
ở đây, chúng ta là phàm phu, đừng nói là phàm phu, ngay cả
Thanh Văn, Duyên Giác, Quyền Giáo Bồ Tát đều làm
không được. Trong kinh Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Bồ
Tát nói văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới
th́ đại nguyện của Ngài mới viên măn. Do điều
này có thể biết, nếu không văng sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới, dẫu có mười đại
nguyện ấy, nhưng mười đại nguyện
không thể viên măn. Đạo lư ǵ vậy? Đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới, tự tánh mới
hoàn toàn hiển lộ, mới có thể tận tánh. Chẳng
đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, chẳng
làm được. V́ thế, trong hội Hoa Tạng, Đẳng
Giác Bồ Tát, Văn Thù, Phổ Hiền là Đẳng Giác Bồ
Tát, c̣n phải cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới. Bồ Tát đă nói lư do rất rơ ràng: Tới Tây
Phương Cực Lạc thế giới, mười
đại nguyện vương mới viên măn. Chẳng đến
Tây Phương Cực Lạc thế giới, ở trong thế
giới Hoa Tạng, mười đại nguyện
vương vẫn chưa viên măn. Thật sự là tán thán Tây
Phương Cực Lạc thế giới đến tột
cùng, chẳng c̣n ǵ hơn được nữa! Phổ Hiền
Bồ Tát tán thán, chứ chẳng phải ai khác!
“Duy Ma kinh ngôn: - Vô tiền, vô hậu,
nhất thời cúng dường” (Kinh Duy Ma nói: “Chẳng
có trước sau, cúng dường cùng một lúc”). Nói thật
ra, mười phương và ba đời đều chẳng
có, tận hư không khắp pháp giới là một Thể.
Kinh Hoa Nghiêm giảng về Nhất Chân pháp giới, nên quư vị
mới có thể cúng dường cùng một lúc. “Nhất thời” th́ đương
nhiên chẳng có trước hay sau!
(Diễn) Duy Ma kinh, Thiện Đức
trưởng giả ngôn: “Ức niệm ngă tích, tự
ư phụ xá, thiết đại thí hội, cúng dường
nhất thiết. Kỳ măn thất nhật, Duy Ma Cật
lai nhập hội trung, vị ngă ngôn: “Trưởng giả
tử! Phù đại thí hội, bất đương
như nhữ sở thiết, đương vi pháp thí chi hội,
hà dụng tài thí hội vi”. Ngă ngôn: “Cư sĩ! Hà vi pháp thí
chi hội?” Cật ngôn: “Pháp thí hội giả, vô tiền, vô
hậu, nhất thời cúng dường”.
(演) 維 摩 經 善 德 長 者 言,憶
念 我 昔,自 於 父 舍,設
大 施 會,供 養 一 切,期
滿 七 日 ,維 摩 詰 來 入
會 中,謂 我 言:長 者 子,夫
大 施 會,不 當 如 汝 所 設,當
為 法 施 之 會,何 用 財 施
會 為。我 言 居 士,何 為
法 施 之 會。詰 言 ,法 施
會 者,無 前 無 後,一 時
供 養。
(Diễn:
Trong kinh Duy Ma, trưởng giả Thiện Đức nói:
- Con nhớ xưa kia, ở nơi nhà cha con, lập hội
đại thí, cúng dường hết thảy. Măn bảy
ngày, ngài Duy Ma Cật vào trong hội, bảo con: “Này ông
trưởng giả! Phàm là hội đại thí, chớ
nên làm như ông, hăy nên làm hội pháp thí, sao lại dùng tiền
tài để làm hội đại thí?” Con nói: “Thưa
cư sĩ! Pháp thí hội nên làm như thế nào?” Ngài Duy
Ma Cật nói: “Pháp thí hội là không có trước, chẳng
có sau, cùng lúc cúng dường”).
Đối
với câu này, trích dẫn một câu chuyện xưa [để
giải thích], Phật môn gọi là “công án”. Trong kinh Duy Ma có nói trưởng giả Thiện
Đức, trưởng giả là tại gia cư sĩ,
tuổi cao, đức trọng, có địa vị, của
cải, lại có trí huệ, nên được tôn xưng
là trưởng giả. Đối với người tại
gia tu hành, hai chữ này (trưởng giả) là cách xưng
hô cung kính nhất. Ông ta nói: Trong quá khứ, con ở cùng một
chỗ với cha – “Phụ xá” là
nhà của cha – lập hội đại thí, để bố
thí, cúng dường. Bố thí, cúng dường là tài bố
thí, cúng dường hết thảy. Nói cách khác, ăn, mặc,
đi, ở, hết thảy vật chất cần dùng cho
cuộc sống, ông ta đều bố thí. Nếu quư vị
thiếu thốn, đến nơi đó, ông ta đều
cúng dường quư vị. Hội ấy kéo dài bảy ngày,
ông ta tu [bố thí] bảy ngày, suốt bảy ngày cúng dường
trọn khắp. Cư sĩ Duy Ma nghe ông ta lập đại
hội bố thí ở nơi đó, cũng đến.
Cư sĩ Duy Ma đến đó, chẳng phải v́ thiếu
thốn ǵ, mà cũng chẳng đ̣i hỏi ông ta phải
thí xả chút ǵ. Ngài Duy Ma chỉ dạy, nói: “Trưởng giả tử!”
Trưởng giả Thiện Đức khi đó ở cùng
một chỗ với cha, cha ông ta cũng là trưởng giả,
nên gọi ông ta là “trưởng
giả tử” (con ông trưởng giả). “Trưởng giả tử” ở
đây là trưởng giả Thiện Đức, đó là
một ư nghĩa. Ư nghĩa thứ hai là đối với
cổ nhân Trung Quốc, chữ Tử là cách xưng hô kính trọng một
nam nhân, giống như nay chúng ta nói là “tiên sinh”. Chúng ta gọi Khổng Tử, Mạnh Tử,
tức là Khổng tiên sinh, Mạnh tiên sinh, cũng có thể
giải thích [chữ “trưởng giả”] là “trưởng giả tiên sinh”, đó là lời lẽ
tôn kính. V́ vậy, từ ngữ này có hai ư nghĩa, đều
có thể nói xuôi tai, đều có thể nói rất viên măn.
Cư sĩ liền
bảo ông ta: “Đại thí hội”,
tức đại hội bố thí, “bất đương như nhữ sở thiết”
(chớ nên làm như ông đă làm). Ông cúng dường những
thứ vật chất như ăn, uống, đi, ở,
chẳng có ư nghĩa to lớn cho lắm. Ông đă phát tâm bố
thí, hăy nên tu Pháp Bố Thí, “đương
vi pháp thí chi hội, hà dụng tài thí hội vi” (hăy nên làm
pháp thí hội, sao lại làm hội tài thí). V́ sao ông muốn
thực hiện tài bố thí? V́ sao không hành Pháp Bố Thí? Dụng
ư rất sâu! Tài bố thí chỉ có thể giải quyết
nhu cầu cấp thiết trong một lúc. Nay tôi chẳng có
cơm ăn, quư vị cúng dường tôi một bữa ăn.
Tôi chẳng có quần áo để mặc, quư vị cúng
dường tôi một bộ quần áo. Đó là giải quyết
nhất thời, không thể giải quyết vĩnh cửu!
Pháp Bố Thí là dạy người ta khai trí huệ, dạy
người ta có năng lực mưu sinh. Quư vị cúng
dường tiền tài, chẳng bằng truyền dạy
họ kỹ thuật. Con người có một kỹ năng
sở trường, hơn hẳn có của cải rất
nhiều! Người ấy đi đến đâu cũng
có năng lực kiếm sống. Nói thực tại, của
cải có thể mất đi bất cứ lúc nào, hễ mất
đi th́ làm thế nào đây? Nguồn sống bị đoạn
tuyệt, nên chẳng bằng có trí huệ, có năng lực.
Trí huệ và năng lực đều thuộc về Pháp Bố
Thí. Do đó, Tài Bố Thí chẳng bằng Pháp Bố Thí. Quư
vị thấy kinh Kim Cang so sánh, “bố thí bảy báu khắp
tam thiên đại thiên thế giới” chẳng bằng “giải
nói bốn câu kệ Đại Thừa Phật pháp cho người
khác!” Kinh Kim Cang đă giảng về công đức, lợi
ích của Tài Bố Thí và Pháp Bố Thí hết sức thấu
triệt. Cư sĩ Duy Ma khuyên ông ta (trưởng giả
Thiện Đức) tu Pháp Bố Thí. Đề nghị ấy
hay lắm, ông ta cũng biết, nhưng nên thực hiện
như thế nào? Ông ta thỉnh giáo cư sĩ Duy Ma: “Ngă ngôn cư sĩ, hà vi pháp thí chi
hội” (con nói: “Thưa cư sĩ! Pháp thí hội làm như
thế nào?”), pháp thí hội hăy nên thực hiện ra sao? “Cật ngôn” nghĩa là cư sĩ
Duy Ma Cật liền nói: “Pháp thí
hội giả, vô tiền vô hậu, nhất thời cúng
dường” (Pháp thí hội là không có trước, sau, cúng
dường cùng một lúc). Mấy câu này trong kinh Duy Ma đă
được Liên Tŕ đại sư trích dẫn [trong lời
Sao].
(Diễn)
Thích viết: Phù dĩ phương hội nhân, bất khả
dĩ nhất tức kỳ, dĩ tài tế vật, bất
khả dĩ nhất thời châu, thị dĩ hội thông
vô ngung giả, di luân nhi bất lậu. Pháp trạch minh bị
giả, bất dịch thời nhi đồng phú, cố
năng tức vô cương vi nhất hội, nhi đạo
vô bất nhuận dă.
(演) 釋 曰:夫 以 方 會 人,不
可 以 一 息 期,以 財 濟 物,不
可 以 一 時 周,是 以 會 通
無 隅 者,彌 綸 而 不 漏;法
澤 冥 被 者,不 易 時 而 同
覆,故 能 即 無 疆 為 一 會,而
道 無 不 潤 也。
(Diễn: Giải thích
rằng: Phàm dùng phương tiện để giúp đỡ
người khác, không thể là một kỳ hạn rồi
thôi. Dùng tiền tài giúp muôn vật, chẳng thể chỉ
một lúc là trọn vẹn. Do vậy, bèn viên dung vô ngại,
bèn trọn khắp chẳng sót, pháp trạch ngầm gia bị,
luôn luôn cùng che chở, nên “chẳng có ngằn hạn” là một
hội, đạo không ǵ chẳng nhuần thấm).
“Dĩ phương hội nhân”: “Phương” (方) là phương
tiện, Phật môn thường nói: “Từ bi làm gốc, phương tiện là cửa”.
Nói chung, phải tạo phương tiện cho người
khác, tạo phương tiện cho người khác bất
cứ khi nào, bất cứ chỗ nào, không thể là một
kỳ hạn nhất định. Kỳ hạn cố định
th́ quư vị bố thí cũng chẳng thể nào rộng giúp
chúng sanh. Nhằm ngay lúc này, người ấy chẳng thể
đến; hoặc ngay trong lúc này, người ấy chẳng
thiếu thốn. Khi người ấy thiếu thốn, hội
của quư vị đă kết thúc, hoặc là hội bố
thí của quư vị c̣n chưa thực hiện, đều
chẳng thể giải quyết vấn đề. Do vậy,
nhất định phải hiểu phương tiện, bất
cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào, làm như vậy mới
viên măn, mới thật sự có thể lợi ích hết thảy
chúng sanh. Nhất là trong tông này, Tiểu Bổn và Đại
Bổn chỉ là nói rộng hay lược khác nhau, ư
nghĩa hoàn toàn như nhau. Pháp môn này do đức Như Lai
“huệ dĩ chúng sanh chân thật
chi lợi” (ban cho chúng sanh lợi ích chân thật); nếu
chẳng mở cửa phương tiện, nhất định
sẽ có lúc chẳng đạt được lợi ích.
Gần
đây nhất, có những đồng tu phát tâm, phát thanh bộ
kinh này trên đài truyền thanh, các đồng tu hỏi tôi:
“Giảng xong bộ kinh này, thầy lại giảng ǵ?” Vẫn
là giảng bộ kinh này. Hy vọng bộ kinh này được
phát thanh lặp đi lặp lại không ngừng, có lợi
ích rất lớn! Bộ kinh này hay lắm, chỉ giảng
một lần, sau khi nghe xong, những người sau này chẳng
có duyên này, đáng tiếc lắm! Phải hiểu kinh này là
kinh bậc nhất để mười phương ba đời
hết thảy chư Phật độ chúng sanh thành Phật
đạo, lưu chuyển vĩnh viễn không gián đoạn.
Tôi trọn chẳng bảo quư vị đem băng thâu âm lời
tôi giảng bộ kinh này phát thanh trên radio, mà là mong [hăy phát
thanh băng] đọc kinh, mỗi ngày đều có thể
[phát sóng tiếng] tụng kinh Vô Lượng Thọ một
lần trên đài phát thanh, khiến cho mỗi người khi
mở radio đều có thể nghe kinh Vô Lượng Thọ,
công đức ấy to lớn. Nhưng hiện thời giảng
kinh cũng được, trước hết, dạy họ
hiểu đạo lư, biết đến chỗ tốt đẹp
của kinh này. Tôi hy vọng kinh này sau khi được phát
thanh hai, ba lượt, chẳng cần phải nghe giảng
nữa, hăy niệm kinh cho nhiều!
Nếu
mọi người lại phát tâm, có tài lực, hăy thuê thời
gian [phát thanh] trên đài truyền thanh để chuyên niệm
Phật hiệu, niệm Nam-mô A Di Đà Phật suốt một
giờ, chuyên niệm Phật hiệu, không cần phải
giảng, là được rồi! Đúng là công đức
vô lượng, lợi ích thật sự vô cùng nhiều! Nếu
mọi người nghe, niệm kinh theo, nếu họ muốn
biết ư nghĩa của kinh, sẽ bảo họ, ở chỗ
nào chúng ta có băng thâu âm giảng kinh có thể tặng cho
họ, chính họ t́m băng thâu âm để nghe.
“Thị dĩ hội thông vô ngung”
(do vậy, bèn viên dung vô ngại), “ngung” là “phương
ngung” (方隅: bốn
phương và bốn góc, nghĩa rộng là “giới hạn”), “hội thông vô ngung” nghĩa là viên dung vô ngại. “Di luân nhi bất lậu, pháp trạch
minh bị giả” (trọn khắp
chẳng sót, pháp trạch ngầm gia bị) “pháp trạch” là Phật pháp, “minh” (冥: ngấm ngầm, âm thầm) là được
Phật pháp un đúc mà không hay không biết, đó là pháp lực
gia tŕ. “Bất dịch thời
nhi đồng phú” (luôn luôn cùng che chở), “phú” (覆) là giống
như ngày Hè nắng gắt, có một cây to rợp bóng mát rượi,
có ư nghĩa “che rợp”, mà cũng là gia tŕ, gia hộ. “Cố năng tức vô
cương vi nhất hội” (Cho nên có thể lấy
“không ngằn hạn” làm một hội), “vô cương” (無疆) là tận hư
không khắp pháp giới, một hội ấy tương ứng
với tâm tánh, như trong phần trước đă nói là “tâm biến nhất thiết xứ”
(tâm trọn khắp hết thảy các chỗ). Tâm trọn
khắp hết thảy các chỗ, hễ động một
thiện niệm, tận hư không khắp pháp giới, hết
thảy hữu t́nh chúng sanh bèn là thiện tương cảm
thiện; ác niệm cũng cảm ứng
giống như thế. Nghĩ đến chỗ này, rét
run, lông tóc dựng cả lên, thật đáng sợ! Nói thật
ra, chúng sanh mê hoặc, điên đảo, chẳng hiểu chân
tướng sự thật. Chúng tôi thường viện
dẫn Đại Kinh có nói những người trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới “Thiên Nhăn đỗng thị, Thiên Nhĩ triệt
thính, Tha Tâm biến tri” (Thiên Nhăn thấy thấu suốt,
Thiên Nhĩ nghe thông suốt, Tha Tâm biết trọn khắp),
nay chúng ta nhất cử, nhất động, khởi tâm động
niệm, chẳng có ǵ không biết. Đừng nói là Tây
Phương Cực Lạc thế giới, phàm là người
tâm thanh tịnh, cũng như người đắc Định
đều biết, v́ sao? V́ tâm Định chẳng có giới
hạn. Quư vị có phân biệt, chấp trước, sẽ
chẳng thể đắc Định. Ĺa khỏi hết
thảy phân biệt, chấp trước, cảnh giới ấy
liền hiện tiền, nên quư vị khởi tâm động
niệm người ta thảy đều biết hết,
không có ǵ chẳng biết!
Ở
đây, đức Phật dạy chúng ta dùng ǵ để cúng
dường? Phải dùng “tự
tánh tự nghiêm”, dùng điều này để cúng
dường. Mười phương chư Phật, Di Đà,
Thích Ca, không vị nào chẳng phải là vô lượng thọ,
vô lượng quang, quang thọ gia tŕ hết thảy chúng
sanh trong khắp pháp giới. Chúng ta chẳng thể cảm
nhận là v́ bản thân chúng ta nghiệp chướng quá nặng,
nghiệp của chính ḿnh ngăn trở Phật quang, nên chúng
ta chẳng thấy Phật quang. Nhưng tôi phải thưa
cùng quư vị, giáo pháp của Phật là
quang minh. Kinh điển ở chỗ nào, Phật quang chiếu
gội ở nơi ấy. Mỗi lần quư vị niệm
kinh này, Phật quang chiếu gội nơi thân tâm của
quư vị một lần. Quư vị niệm hai lần,
liền chiếu hai lần. Chiếu một hai lần, quư
vị vẫn chưa cảm nhận, v́ sao? Nghiệp
chướng của quư vị quá nặng. Nếu chiếu
một ngàn lần, hai ngàn lần, ba ngàn lần, thưa cùng
quư vị, quư vị liền cảm nhận được,
v́ sao? Nghiệp chướng của quư vị tiêu trừ.
Nhờ vào quang minh của Phật, dẫn phát quang minh trong
tự tánh, khi ấy, quang minh trong tự tánh của quư vị
và quang minh của chư Phật chẳng một, chẳng
khác, kết hợp thành một Thể, quang minh chiếu lẫn
nhau, dung nhập vào nhau viên dung. Phật quang ở trong tâm
quang của quư vị, tâm quang của quư vị ở trong Phật
quang, tâm quang của quư vị và Phật quang giao ḥa, dung hội
thành một Thể, quang minh ấy là trí huệ, lẽ nào
trí huệ của quư vị chẳng mở mang? Lẽ nào nghiệp
chướng không tiêu trừ? V́ sao phải khuyên chư vị
đồng tu đọc kinh là do đạo lư này!
Sau
khi nghe kinh, hiểu rơ đạo lư này, phải tu! Ta đă
hiểu đạo lư, ta đă biết Phật pháp; sau khi đă
biết, quư vị phải tu. Nếu quư vị không tu, vô dụng!
Dùng phương pháp ǵ để tu? Trong ba năm, niệm bộ
kinh này ba ngàn lượt, đó là tu hành. Trong ba năm, đừng
xem bất cứ kinh nào khác, thâu hồi cái tâm lại, trong
ba năm, quư vị tu ǵ? Tu tâm thanh tịnh. Tu Định
trong cuộc sống, tuyệt đối chẳng phải
là bảo quư vị mỗi ngày ngồi xếp bằng nh́n vào
vách, bảo quư vị tĩnh tọa mấy tiếng đồng
hồ, làm như vậy vô ích. Phải là trong cuộc sống,
trong xử sự, trong đăi người, tiếp vật,
tâm thanh tịnh, tâm địa chẳng nhiễm, lục
căn tiếp xúc ngũ dục, lục trần mà chẳng
nhiễm, đó là nhập Định chân thật. Chẳng
phải là không tiếp xúc, [mà là] tiếp xúc nhưng chẳng
nhiễm. Kinh Kim Cang nói: “Bất
thủ ư tướng, như như bất động”
(chẳng chấp lấy tướng, như như bất
động). “Chẳng giữ
lấy tướng” là ta tiếp xúc mà chẳng chấp
tướng: “Ngoài chẳng chấp
tướng, trong không động tâm”. Trong tâm chẳng
khởi tham, sân, si, mạn, trong tâm thanh tịnh, không dấy
lên phiền năo, ngoài chẳng chấp tướng, tu công phu
ấy.
Thực
hiện chẳng dễ dàng! V́ thế, tôi khuyên các đồng
tu đừng đọc báo, đừng xem TV, những thứ
ấy đều nhiễu loạn tâm chúng ta. Thậm chí bảo
quư vị chẳng cần đọc kinh, đọc kinh càng
nhiều, phân biệt, chấp trước càng nhiều, tâm
quư vị vẫn chẳng thanh tịnh. Tâm thật sự thanh
tịnh, niệm một quyển kinh, niệm một câu A
Di Đà Phật, tối thiểu ba năm; sau ba năm ấy,
quư vị lại đọc hết thảy các kinh. Trước
hết, quư vị định cái tâm trong ba năm, rồi
sau đó mới lại nói [chuyện khác]. Nếu tâm chẳng
định, vô dụng! Hôm qua, có một sinh viên từ Phật
Học Viện đến gặp tôi, anh ta nói đă học
trong Phật Học Viện ba năm, sắp tốt nghiệp.
Tôi hỏi anh ta: “Học những ǵ?” Học kinh này, luận
nọ, kể cho tôi nghe một đống lớn. Anh ta hỏi
tôi: “Thầy thấy sao?” Tôi nói: “Học quá nhiều! Tục
ngữ Trung Hoa có câu ‘tham nhiều,
nhai không nát’. Ở Phật Học Viện ba năm, trong
ba năm ấy, nếu học một bộ kinh, bèn rất
giỏi. Ba năm học mười bộ kinh th́ một bộ
cũng chẳng học hiểu”. Nếu ba năm học một
bộ kinh, sẽ thật sự được thọ dụng.
Nói thật ra, Phật pháp chẳng có bí quyết chi khác, chỉ
là chuyên nhất. Chỉ cần quư vị chuyên, tâm liền
thanh tịnh, tâm thanh tịnh bèn phóng quang!
“Quang minh chiếu khắp” của
chư Phật, Bồ Tát là tâm quang. Tâm của chính chúng ta
thanh tịnh th́ cũng phóng quang, chẳng
khác chư Phật, Bồ Tát. Đó là Pháp Cúng Dường. Quang
minh từ tâm địa của chúng ta và quang minh từ tâm
địa của Phật dung nhập lẫn nhau, đó là
chân thật cúng dường. Trong Pháp Cúng Dường, chuyện
này là tột đỉnh, mà cũng là “y giáo tu hành cúng
dường” như phẩm Hạnh Nguyện đă nói.
Ngài chỉ nói “y giáo phụng
hành”, c̣n ở đây là nói “y giáo tu hành đến viên măn
tột bậc”. Cúng dường viên măn là như vậy
đó.
(Sao)
Tự không giả.
(鈔) 自 空 者。
(Sao: Tự không là…)
Giải
thích câu “tự tánh tự không,
thị thực thời hoàn nghĩa” (tự tánh tự không
là ư nghĩa “trở về trong khoảng bữa ăn”).
(Sao)
Tâm thể bổn không, không vô lai văng.
(鈔) 心 體 本 空,空 無 來
往。
(Sao: Tâm thể vốn
là Không, Không th́ chẳng có qua lại).
Trong
Không, há có đến đi? Chẳng có đến hay đi!
Có đến đi bèn chẳng Không. Trong Không chẳng có
đến đi, chính là như Lục Tổ đă nói: “Vốn chẳng có một vật”.
“Có đến, có đi” bèn là hai vật, chẳng phải là
chân tâm; trong vọng niệm mới có đến, đi. Đến,
đi là pháp sanh diệt, tự tánh là bất sanh, bất diệt.
Tự tánh chẳng phải là pháp hữu vi; đến, đi
là pháp hữu vi. V́ thế, tự tánh vốn là Không. “Bổn Không” chẳng phải
là Không trong Không Hữu. Không trong Không Hữu vẫn là hai pháp,
trong Phật pháp nó được gọi là Ngoan Không, chẳng
phải là Bổn Không, v́ đối lập của nó là Có.
Nó (Ngoan Không) và Có được kiến lập tương
đối, nên chẳng phải là Bổn Không.
(Sao)
Thị cố dĩ thực thời hoàn, liêu đối thử
phương bạt thiệp nhĩ, thật tắc bất
việt sát-na, hoàn quốc dĩ cánh.
(鈔) 是 故 以 食 時 還,聊
對 此 方 跋 涉 耳,實 則 不
越 剎 那,還 國 已 竟。
(Sao: Do vậy, nói “trở
về trong bữa ăn” là nói dựa theo cơi này, chứ thật
ra là chẳng đầy một sát-na đă trở về nước
xong xuôi).
Điều khó nhất đối với
chúng ta là trong hiện thời, [chúng ta] đối với thân
thể này, đối với h́nh tướng này chấp trước
quá mức; v́ thế, chúng ta không có cách nào tiếp nhận các
kinh Đại Thừa, nhất là kinh điển Nhất
Thừa liễu nghĩa, nghe rồi không hiểu, làm sao có
thể “nhất thời châu biến”?
Thế nào là “bất việt
sát-na” (chưa đầy một sát-na)? Sát-na là thời
gian cực ngắn, làm sao có thể chưa đi đă trở
về? Đạo lư này chính là: Chẳng có đi, chẳng có
đến, không đến, không đi. V́ sao? Đi th́ chẳng
rời khỏi tâm của quư vị, mà đến cũng chẳng
rời khỏi tâm của quư vị. Giống như quư vị
nh́n vào màn h́nh TV, đến hay đi đều ở trong khuôn
khổ của cái màn h́nh; ngoài khuôn khổ ấy ra, há có đến,
đi? Đi đă ở nơi đây, mà đến cũng
ở nơi đây, ở cùng một chỗ! Thấy dường
như có đến, đi; thật ra, chẳng có đến,
đi. Thấy có xa, gần; trên thực tế, chẳng có
xa hay gần, đều ở trong màn h́nh. Ngàn dặm, vạn
dặm, không gian, quá khứ, hiện tại, tương
lai, thời gian, đều chẳng rời khỏi màn h́nh ấy.
Màn h́nh ấy siêu việt thời gian và không gian, mười
phương ba đời đều ở cùng một chỗ,
kinh Hoa Nghiêm gọi [cảnh giới ấy] là Nhất Chân pháp
giới. Nếu quư vị chẳng hiểu Nhất Chân pháp
giới là ǵ, hăy xem kỹ TV, tưởng tượng màn h́nh
TV là Nhất Chân pháp giới giống như kinh Hoa Nghiêm
đă nói. Nếu quư vị xem TV mà nhờ đó khai ngộ,
TV cũng thuyết pháp! Quư vị mới hiểu thời
gian và không gian như nhau, vạn pháp có cùng một Thể! Y
báo và chánh báo trang nghiêm của mười pháp giới trước
mắt chúng ta quả thật giống như những hiện
tượng này, do phàm phu chúng ta hư vọng, phân biệt,
chấp trước mà sanh ra rất nhiều cảm nhận
sai lầm!
(Diễn)
Tâm thể bổn không giả, dĩ tâm vô h́nh tướng,
thập phương cầu chi, chung bất khả đắc
cố.
(演) 心 體 本 空 者,以 心
無 形 相,十 方 求 之,終
不 可 得 故。
(Diễn: Tâm thể vốn Không, do tâm không có h́nh
tướng, nên mười phương cầu mà trọn
chẳng thể đạt được).
Tâm
tuy không có h́nh tướng, nhưng nó có thể biến hiện
h́nh tướng. Tuy biến hiện h́nh tướng, nhưng
h́nh tướng ấy chẳng thật, là giả tướng,
huyễn tướng, Tâm Kinh gọi [các h́nh tướng ấy]
là Sắc. “Sắc bất dị
Không, Không bất dị Sắc”. Không là tâm thể vô tướng,
Sắc là Tướng và Dụng (hiện tướng và tác
dụng) của tâm thể. Thể không có h́nh tướng, vốn
là Không; tướng và tác dụng của nó cũng vốn là
Không, dẫu có, vẫn là vốn Không. V́ thế, “Sắc chẳng khác Không, Không chẳng
khác Sắc, Sắc là Không, Không là Sắc”, là một,
không hai. Nếu chúng ta thay đổi một chữ, Pháp Tướng
Tông nói Tánh và Tướng, th́ Tánh được Tâm Kinh gọi
là Không, Tâm Kinh gọi Tướng là Sắc. “Tánh chẳng khác Tướng,
Tướng chẳng khác tánh. Tánh là Tướng, Tướng
là Tánh”, có cùng một ư nghĩa!
Nay chúng
ta chấp trước giả tướng quá mức, nên tương
phản với chân tướng của vũ trụ và nhân
sinh mà không biết, do mê mất, coi Giả là Chân, hoàn toàn mê
mất Chân. Đă mê mất chân tướng, bèn chuyên làm chuyện
giả. Lục đạo luân hồi là giả, đúng là
giả, nhưng nếu quư vị chẳng giác ngộ th́ vẫn
đau khổ thật sự trong cái giả ấy. Ví như
nằm mộng, mộng là giả, mỗi tối gặp ác
mộng, mỗi đêm khiếp sợ đến nỗi khắp
thân mướt mồ hôi lạnh, cuộc sống ấy cũng
chẳng dễ sống! Luân hồi trong lục đạo là
gặp ác mộng, quư vị tiếp tục gặp ác mộng,
vĩnh viễn chẳng thể tỉnh giấc, cũng là
chuyện rất đáng thương xót! Chư Phật, Bồ
Tát trông thấy, nói quư vị là “kẻ đáng thương
xót”. Nếu là thật, đức Phật chẳng thể
nói là “đáng thương xót”; do là giả, mà lại chịu
tội ấy trong cái giả ấy, hứng chịu sợ
hăi, nên rất đáng thương, là kẻ rất đáng
thương xót!
“Thập phương cầu chi,
chung bất khả đắc cố” (mười
phương cầu mà trọn chẳng thể được),
chúng ta đích thực phải giác ngộ điều này, tâm
bất khả đắc. Vừa mở đầu, kinh Lăng
Nghiêm liền nói sự thật này. Lại thưa cùng quư vị,
t́m tâm chẳng thấy, mà Sắc cũng chẳng t́m thấy,
tâm không thể được, Sắc cũng chẳng thể
được. Quư vị chớ có nghĩ sắc tướng
của hết thảy vật chất là có thể đạt
được; giả trất, chẳng thể được!
Nay quư vị có của cải, có hết thảy những thứ
vàng, bạc, vật báu trong thế gian này, vinh dự, địa
vị, quư vị nghĩ chính ḿnh đă đạt được.
Giả trất! Chẳng thật! Chẳng phải là sau khi
đă chết mới biết là giả, do chẳng thể mang
theo thứ ǵ! Đến khi ấy mới giác ngộ, đă
trễ quá rồi! Trên thực tế, mỗi đêm quư vị
đều chết một lần. Khi quư vị ngủ, chẳng
phải là giống như người đă chết hay sao?
Quư vị ngẫm xem, khi quư vị ngủ say, người
ta khiêng thân thể quư vị đi, quư vị cũng chẳng
biết! Khi ngủ say, thứ ǵ là quư vị? Quư vị vẫn
chẳng giác ngộ ư? Người chết bất quá là
ngủ không thể thức dậy đó thôi! Mỗi ngày
đều phải chết một lần, rất đáng sợ!
Trong Phật pháp có nói khai ngộ, ngộ ǵ vậy? Ngộ điều
này, thật sự hiểu chân tướng, giác ngộ sự
thật này. Hết thảy các pháp trong thế gian này, nếu
quư vị nói cái này là của ta, cái kia là
của ta, đức Phật trông thấy, sẽ quở “kẻ si nói chuyện trong mộng”.
Chẳng sai tí nào! Xác thực là nói mớ! Đừng
nói vật ngoài thân chẳng phải là của quư vị, thân
thể cũng chẳng phải! [Biết như vậy th́]
mới thật sự hiểu bốn câu trong Tâm Kinh đôi
chút, thân thể là sắc tướng, “Sắc chẳng khác Không”, chẳng khác ǵ Không! Sắc
là Không, chẳng thể được!
Biết
chân tướng sự thật này, chư vị phải biết,
phải giác ngộ: Ta chẳng dùng giả tướng này để
tạo tội nghiệp nữa, làm như vậy chẳng đáng!
Quư vị dùng giả tướng để tạo tội
nghiệp th́ nói cách khác, mỗi ngày quư vị đang làm ǵ? Tạo
nghiệp luân hồi trong lục đạo. Nay quư vị
đang làm ǵ? Nay đang tạo tác ba ác đạo, nay đang
tạo nghiệp luân hồi trong lục đạo, phàm phu hằng
ngày làm chuyện này. Người thật sự giác ngộ,
người triệt để giác ngộ, làm ǵ? Ta hôm nay làm
chuyện để sanh về Tây Phương Cực Lạc
thế giới, nay ta đánh điện báo tới A Di
Đà Phật, cùng Ngài giao tiếp qua lại. Quư vị niệm
một câu Phật hiệu, mỗi tiếng đều có cảm
ứng, khác hẳn! Một đằng là quyết định
văng sanh thành Phật, một đằng là quyết định
phải luân hồi trong tam đồ lục đạo, làm
sao giống nhau cho được? Phải thật sự giác
ngộ điều này! V́ thế, không chỉ là tâm thể chẳng
thể được, mà Tướng Phần của tâm và
tác dụng của tâm thảy đều chẳng thể được!
(Diễn)
Không vô lai văng giả, tất cánh không trung, vô h́nh, vô trụ,
vô xứ, vô trước, bất động, bất khởi
cố.
(演) 空 無 來 往 者,畢 竟
空 中,無 形 無 住,無 處
無 著 ,不 動 不 起 故。
(Diễn: “Không chẳng
có qua lại”: Trong rốt ráo không, chẳng có h́nh tướng,
chẳng có trụ, không có nơi chốn, không chấp
trước, chẳng động, chẳng khởi).
Phần “mười
phen hiển rơ tánh Thấy” trong kinh Lăng Nghiêm đă nói
rơ chân tướng sự thật này. Kinh văn đă nêu ra
sự tướng này rất rơ ràng: “Đương xứ xuất sanh, đương xứ
diệt tận” (sanh ra từ nơi đâu, sẽ diệt
mất từ nơi đó). Quư vị có thể thấu hiểu
ư nghĩa này th́ mới hiểu cái thân hiện tiền này bất
sanh, bất diệt, chẳng có sanh diệt, mà cũng là chẳng
có sanh tử! Quư vị bèn chẳng sợ hăi sanh tử, chẳng
sợ hăi tí nào, v́ sao? Không có, giả mà! Tâm Kinh có nói: Ĺa hết
thảy sợ hăi, ĺa hết thảy điên đảo!
(Sao)
Tự trụ giả.
(鈔) 自
住 者。
(Sao:
“Tự trụ” là…)
Giải
thích câu “tự tánh tự trụ,
thị bổn quốc nghĩa” (tự tánh tự trụ
là ư nghĩa của “nước ḿnh”).
(Sao)
Tâm nguyên trạm tịch, thường trụ bất thiên, thị
đương nhân cố hương điền địa,
an thân lập mạng xứ.
(鈔) 心 源 湛
寂,常 住 不 遷,是 當 人
故 鄉 田 地,安 身 立 命 處。
(Sao: Nguồn tâm trong lặng, thường trụ,
chẳng đổi dời, đó là ruộng đất
nơi quê nhà, là chỗ để an thân lập mạng).
Trong kinh Lăng
Nghiêm, đoạn này được đức Phật nói
là “thường trụ chân tâm”, mà cũng là “nên trụ vào đâu” như trong kinh Kim Cang đă nói.
Trong kinh Kim Cang, tôn giả Tu Bồ Đề đă hướng
về Thích Ca Mâu Ni Phật Phật nêu lên hai câu hỏi: “Vân hà hàng phục kỳ tâm? Ưng
vân hà trụ?” (Hàng phục cái tâm như thế nào? Nên trụ
như thế nào). Hàng phục cái tâm th́ tâm đó là vọng
tâm, nay chúng ta nói là “vọng tưởng, tạp niệm quá
nhiều”, dùng phương pháp ǵ để có thể hàng phục
nó, đoạn trừ nó? Đây là một vấn đề
lớn. Vấn đề thứ hai là ta phải đặt
tâm ở nơi đâu th́ mới thật sự yên ổn?
Phải t́m một trụ xứ. Trong bộ kinh Kim Cang, đức
Phật đă giải đáp hai vấn đề này. Quư vị
đều niệm kinh Kim Cang rất thuộc, hàng phục
vọng tâm như thế nào? Tâm trụ ở chỗ nào? Đều
chẳng biết! Như vậy là đă uổng công niệm
kinh ấy mất rồi! Nếu thật sự biết niệm
kinh ấy, sẽ kiếm được câu trả lời
cho hai vấn đề ấy. Ở đây, ngôn từ đơn
giản, nhưng ư nghĩa trọn khắp, văn tự chẳng
nhiều, nhưng giảng rất rơ ràng, mà cũng giảng
rất viên măn, có thể dùng làm chú giải cho kinh Kim Cang.
“Tâm nguyên trạm tịch, thường
trụ bất thiên”, tâm này là chân tâm. Lục Tổ đại
triệt đại ngộ, đă hiểu chân tướng
sự thật này, lăo nhân gia nói: “Nào
ngờ tự tánh vốn thanh tịnh”, ở đây tự
tánh được gọi là “tâm
nguyên” (nguồn tâm). Chân tâm là cội nguồn của hết
thảy vạn vật, vạn pháp; hết thảy vạn
sự vạn vật đều từ tâm này lưu hiện.
V́ thế, Ngài nói: “Nào ngờ tự
tánh có thể sanh ra vạn pháp”, có thể sanh ra vạn pháp th́ chính là nguồn cội
của vạn pháp, nên gọi là “tâm
nguyên”. Nó như thế nào? Trạm tịch, thường
trụ. Hai chữ “trạm tịch”
là h́nh dung từ. Trạm (湛) là thanh tịnh, thanh tịnh đến tột bậc,
giống như chúng ta nh́n vào một ao nước trong, chẳng
có tí ô nhiễm nào. Tuy ao rất sâu, nhưng nh́n từ trên mặt,
chúng ta liền thấy ngay đáy ao, thấy rơ những bùn
cát dưới đáy, đó là Trạm. Trạm là chân tâm chẳng
có nhiễm ô, quyết định chẳng bị nhiễm
ô. “Tịch” (寂) là bất động,
không lay động. “Trạm”
là thanh tịnh. “Trạm tịch”
là thanh tịnh, bất động, chân tâm chưa hề động.
Chư Phật, Bồ Tát là như thế, mà chân tâm chúng ta cũng
giống như vậy. Trong tâm chúng ta loạn cào cào, đó
là vọng tâm, chẳng phải là chân tâm. Chân tâm của quư vị
chưa hề động. Phật, Bồ Tát thấy chân tâm
của hết thảy chúng sanh, nên các Ngài mới nói: “Hết thảy chúng sanh vốn đă
thành Phật”, v́ sao? V́ chân
tâm của quư vị trạm tịch, thường trụ,
chẳng đổi dời, chẳng khác ǵ các Ngài. Động
là vọng tâm, chẳng phải là chân tâm. Phật, Bồ Tát
cao minh hơn chúng ta v́ các Ngài chẳng có vọng tâm, chân tâm
hoàn toàn hiển lộ.
Chân
tâm của chúng ta có hiển lộ hay không? Hiển lộ giống
hệt, chẳng khác ǵ chư Phật, Bồ Tát. Tuy hiển
lộ, nhưng trên ấy lại kèm theo một tầng vọng,
kinh Lăng Nghiêm gọi [điều ấy] là “đới vọng chi chân” (chân
kèm theo vọng), v́ vọng do chân khởi lên; không có chân, vọng
do đâu mà có? Giống như chúng ta dùng mắt để
thấy, mắt của chúng ta là Chân, tượng trưng
cho Chân Như bổn tánh, [hay c̣n gọi là] chân tâm, hoặc tâm
nguyên. Chân tâm dấy lên tác dụng, thấy những thứ
bên ngoài rành mạch. Vọng là ǵ? Ta đeo mắt kiếng
màu, đeo kính râm màu đen, thấy bên ngoài đều đen
x́, ai khởi tác dụng? Vẫn là chân tâm khởi tác dụng.
Chân tâm xuyên qua vọng, thấy sắc tướng bên ngoài
khác nhau. Phật, Bồ Tát không đeo mắt kiếng, mỗi
kẻ phàm phu chúng ta đều đeo mắt kiếng, do mắt
kiếng có màu sắc khác nhau, độ dầy cũng khác
nhau, bèn thấy mỗi thứ khác nhau, cho nên mọi người
mới tranh căi! Ta thấy là đen, kẻ khác nh́n: “Ta thấy
rơ ràng là đỏ”, hai người sẽ căi lẫy! Nếu
mọi người đều bỏ mắt kiếng ra, chẳng
c̣n căi lộn nữa, v́ sao? Thấy màu sắc như nhau! Mỗi
cá nhân có cách nh́n và cách nghĩ đối với vũ trụ
và nhân sinh khác nhau do mang mắt kiếng có màu khác nhau, cường
độ ánh sáng khác nhau, nên mới tạo thành lắm nỗi
phiền phức. Chuyện là như vậy đó.
(Diễn)
Tâm nguyên trạm tịch thường trụ bất thiên giả,
tâm nguyên, vị nhiễm tâm chi nguyên, tức tánh tịnh dă.
(演) 心 源 湛 寂 常 住 不 遷
者,心 源,謂 染 心 之 源,即
性 淨 也。
(Diễn: “Nguồn
tâm trong, lặng, thường trụ, chẳng dời”: Nguồn
tâm là cội nguồn của cái tâm ô nhiễm, chính là tánh
thanh tịnh).
“Tâm nguyên” chỉ cội nguồn
của vọng tâm, cũng là căn nguyên của hết thảy
vạn sự, vạn vật, căn nguyên là ǵ? “Tánh tịnh dă” (là tánh thanh tịnh),
cũng là chân tâm, là Chân Như bổn tánh.
(Diễn)
Hựu, thô tướng chi nguyên, tức sanh tướng dă.
(演)
又 粗 相 之 源,即 生 相 也。
(Diễn:
Lại nữa, cội nguồn của thô tướng chính
là sanh tướng).
“Sanh tướng” là nói đến
sanh tướng vô minh. Giải thích sanh tướng vô minh
như thế nào? Tướng là h́nh tướng của muôn
vật, là y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới,
sanh ra các tướng ấy. Nói thật ra, “sanh tướng” là nói đến chuyện này, cũng
chính là Sanh như Lục Tổ đă nói “có thể sanh ra vạn pháp”. Ở đây, gọi
là “sanh tướng”. Ngài nói “sanh ra vạn pháp”. Vạn pháp
sanh từ đâu? Sanh từ tự tánh. “Nào ngờ tự tánh có thể sanh ra vạn pháp”. Ở
chỗ này gọi nó là “tâm nguyên”,
vạn pháp do đâu sanh ra? Tướng sanh từ đâu?
Sanh từ tâm nguyên; tâm là căn nguyên, bổn nguyên của hết
thảy sanh tướng.
(Diễn)
Thử tại Phật địa, phương liễu kỳ
nguyên.
(演) 此
在 佛 地,方 了 其 源。
(Diễn:
Đạt đến địa vị Phật mới hiểu
thấu suốt cái nguồn cội ấy).
Do vậy,
thấu triệt nguồn pháp là ai? Phật mới có thể
làm được. Đẳng Giác Bồ Tát hăy c̣n một
phẩm sanh tướng vô minh chưa đoạn, nên vẫn
chưa thể thấu triệt nguồn pháp. Nói cách khác, Đẳng
Giác Bồ Tát c̣n chưa về nhà, vẫn chưa về đến
nhà, c̣n kém chút ít. Khi một phẩm sanh tướng vô minh đă
đoạn, bèn về tới nhà. Ở đây, gọi “nhà” là “bổn quốc”. “Hoàn
đáo bổn quốc” là trở về tận cội
nguồn, câu này và câu “bổn
lai diện mục trước khi cha mẹ sanh ra” như
Thiền Tông thường nói có cùng một ư nghĩa.
(Diễn)
Nhược Pháp Thân đại sĩ, giác vị chí nguyên, do
hữu sanh tướng.
(演) 若 法 身
大 士,覺 未 至 源,猶 有
生 相。
(Diễn: Nếu là
Pháp Thân đại sĩ th́ do chưa giác đến tận
nguồn, nên hăy c̣n có sanh tướng).
“Pháp Thân đại sĩ” ở
đây chẳng phải là nói những vị Pháp Thân đại
sĩ b́nh phàm. Kinh Hoa Nghiêm nói Pháp Thân đại sĩ có bốn
mươi mốt địa vị. Hoa Nghiêm là Viên Giáo, Sơ
Trụ Bồ Tát phá một phẩm vô minh, chứng một
phần Pháp Thân, bèn gọi là Pháp Thân đại sĩ, măi
cho đến Đẳng Giác Bồ Tát, Đẳng Giác Bồ
Tát đă phá bốn mươi phẩm vô minh, c̣n sót một
phẩm sanh tướng vô minh. Pháp Thân đại sĩ được
nói ở đây là Đẳng Giác Bồ Tát, “giác vị chí nguyên, do hữu sanh tướng”: Ngài
c̣n có một phẩm sanh tướng vô minh chưa đoạn,
nên có sanh tướng.
(Diễn)
Động bỉ tĩnh tâm, nghiệp thức khởi diệt,
cố bất vân thường trụ.
(演) 動 彼 靜
心,業 識 起 滅,故 不 云
常 住。
(Diễn: Do động
cái tâm tĩnh lặng ấy, nghiệp thức dấy lên,
diệt mất, nên chẳng nói là “thường trụ”).
Ngài
có một phẩm sanh tướng vô minh, tâm vẫn chưa thật
sự thanh tịnh, vẫn chưa hoàn toàn trạm tịch,
hăy c̣n động hết sức nhẹ nhàng. Do điều
này có thể biết, chẳng động tâm là chuyện rất
khó khăn, đă thành Phật mới là thật sự bất
động. Trong tâm Pháp Thân đại sĩ, lưu động
vô cùng vi tế, nhưng Thanh Văn, Duyên Giác, Quyền Giáo Bồ
Tát về căn bản chẳng có cách nào cảm nhận,
chẳng cảm nhận tâm Ngài (Pháp Thân đại sĩ) đang
động. Tâm ấy vi tế lắm, chỉ có Phật biết.
Người có công phu như vậy vẫn chưa gọi là
“thường trụ”.
(Diễn)
Chí sanh tướng đô tận, vô minh phong chỉ, tánh hải
lăng hiết, trạm nhiên, thường trụ dă.
(演) 至 生 相 都 盡,無 明
風 止,性 海 浪 歇,湛 然
常 住 也。
(Diễn: Tới khi
sanh tướng đă hết, gió vô minh ngừng thổi, biển
tánh sóng lặng, lặng trong, thường trụ).
Ư
nghĩa “thường trụ” sâu
lắm, phải chứng Phật quả trong Viên Giáo mới
là ư nghĩa “thường trụ,
chẳng dời, thường trụ chân tâm”, mới đạt
đến ư nghĩa này. Đó là “hoàn
đáo bổn quốc”, là Cực Lạc rốt ráo, mà cũng
là mục tiêu tối chung cực trong sự học Phật
của chúng ta. Nếu chúng ta muốn đạt tới mà ĺa
khỏi thế giới Cực Lạc, sẽ chẳng có cách
nào thực hiện được! Nếu ĺa khỏi thế
giới Cực Lạc mà có thể làm được, chư
vị ngẫm xem, Văn Thù Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ
Tát cần ǵ phải văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới? Ở trong thế giới Hoa Tạng, lẽ
ra các Ngài có thể làm được, v́ sao lại phải
cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới?
Nói theo lư luận, trong thế giới Hoa Tạng có thể
làm được, nhưng phải sợ tốn thời
gian rất dài, đến thế giới Cực Lạc liền
làm rất nhanh, nên các Ngài mới phải đến đó. Không
chỉ là hai người các Ngài, mà c̣n khuyên tất cả Pháp
Thân đại sĩ trong thế giới Hoa Tạng đều
đi. Quư vị nghĩ xem, các Ngài đến thế giới
Cực Lạc để làm ǵ? Là v́ chuyện này, v́ phá một
phẩm sanh tướng vô minh cuối cùng, đến đó
để chứng chân tâm thường trụ trạm tịch,
v́ những điều ấy mà văng sanh. Trừ những điều
này ra, nói thật thà, chẳng có lư do ǵ để các Ngài đến
Tây Phương Cực Lạc thế giới; lư do duy nhất
là như vậy.
(Diễn)
Nhiên thử thị ước sanh diệt môn thuyết.
(演) 然 此 是
約 生 滅 門 說。
(Diễn: Nhưng
đây là nói theo sanh diệt môn).
Trong
đoạn trên đây, nói theo kiểu ấy là nói theo ư nghĩa
sanh diệt, đó là ǵ? Nói theo kiến giải của phàm
phu và Nhị Thừa. Nói cách khác, nói theo phía người mê mất
tự tánh, đó là chân thật, chẳng dối!
(Diễn)
Nhược ước Chân Như môn, tắc tùng bổn
dĩ lai, ly chư danh tướng, vô hữu biến dị,
bất khả phá hoại, trạm nhiên thường trụ
dă.
(演) 若 約 真 如 門,則 從
本 以 來,離 諸 名 相,無
有 變 異,不 可 破 壞,湛
然 常 住 也。
(Diễn: Nếu
ước theo Chân Như môn, ắt từ đầu đến
nay, ĺa các danh tướng, chẳng có đổi khác, không
thể phá hoại, lặng trong, thường trụ).
Nói
theo Chân Như hoặc chân tánh, trước nay chưa hề
động. Nói theo Chân Như Môn là nh́n bằng kiến giải
của Phật, bèn thấy tất cả hết thảy
chúng sanh vốn sẵn thành Phật. Kinh Hoa Nghiêm và Viên Giác nói:
“Hết thảy chúng sanh vốn
thành Phật”, đó là nói
theo Chân Như môn. Nói quư vị
nay đang là sanh tử phàm phu, là kẻ đáng thương
xót, tức là nói theo Sanh Diệt Môn. Chân Như Môn là Chân Đế,
Sanh Diệt Môn là Tục Đế.
(Sao)
Kim Cang kinh hoàn chí bổn xứ, tức thử kinh hoàn
đáo bổn quốc dă, thử chi vị vụ bổn.
(Diễn)
Kim Cang bổn xứ, tức thử kinh bổn quốc giả.
(鈔) 金 剛 經
還 至 本 處,即 此 經 還 到
本 國 也,此 之 謂 務 本。
(演) 金 剛 本 處,即 此 經
本 國 者。
(Sao: “Về đến
chỗ ḿnh” trong kinh Kim Cang chính là “trở về nước
ḿnh” trong kinh này, đó là nói “chú trọng cái gốc”.
Diễn:
“Chỗ ḿnh” trong kinh Kim Cang chính là “nước ḿnh” trong kinh
này).
“Kim Cang bổn xứ”: Mở đầu
Tự Phần của kinh Kim Cang, Thích Ca Mâu Ni Phật thị
hiện đi khất thực trong nước Xá Vệ. Sau
khi khất thực xong, trở về chỗ ḿnh[3]. “Kim Cang bổn xứ, tức thử
kinh bổn quốc giả”: Thích Ca Mâu Ni Phật đi
[khất thực] xong, trở về chỗ Ngài trụ, thể
hiện ư nghĩa ǵ? Trở về chỗ tự tánh trạm
nhiên tịch diệt, có ư nghĩa này. Nếu quư vị chẳng
hiểu ư nghĩa này, [đọc kinh văn sẽ hiểu]
Thích Ca Mâu Ni Phật đi khất thực xong, quay về,
quay trở lại nơi đâu? Trở về Kỳ Thụ
Cấp Cô Độc Viên. Như vậy là quư vị hoàn toàn
chẳng hiểu ư nghĩa của Như Lai, hoàn toàn chẳng
hiểu ư nghĩa chân thật của Như Lai. Do đó, thuở
Thích Ca Mâu Ni Phật trụ thế, không chỉ là miệng
giảng kinh, thuyết pháp, mà mỗi cử chỉ, mỗi
động tác của Ngài đều nhằm giảng kinh, thuyết
pháp. Phật là thân, ngữ, ư ba nghiệp thuyết pháp, toàn
thân thuyết pháp, làm sao chúng ta có thể hiểu nghĩa chân
thật của Như Lai? Nay chúng ta xem kinh điển, do xem
chẳng hiểu, bèn tùy tiện phê b́nh, chỗ này trật,
chỗ kia chẳng hợp lư, phải nên sửa như thế
nào, hết cách nói!
Trong
các buổi giảng, chúng tôi thường cảnh tỉnh các
đồng tu, kinh Phật có ư nghĩa hay không? Chẳng có ư
nghĩa! V́ sao? V́ Phật chẳng thuyết pháp! Nếu Phật
có thuyết pháp, quư vị có thể phê b́nh, sửa sai Ngài. Đức
Phật chẳng thuyết pháp, một chữ cũng chẳng
nói, quư vị phê b́nh vào đâu? Quư vị sửa đổi
từ chỗ nào? Phải hiểu ư nghĩa sâu xa này, phải
hiểu mật nghĩa này, Phật là “nói mà không nói, không nói mà nói”, ư nghĩa ấy mới
sâu! Phải như thế nào th́ chúng ta mới có thể lănh
hội ư nghĩa chân chánh trong kinh điển? Nhất định
phải là “nghe mà không nghe, không
nghe mà nghe” th́ quư vị mới hiểu ư nghĩa của
Ngài. Ư nghĩa của Ngài hoàn toàn ở ngoài ngôn ngữ, ngoài
sự suy tưởng của quư vị, quư vị không thể
nghĩ tưởng. Do đó, chẳng thể nghĩ, chẳng
thể nói, chỉ lănh hội ư nghĩa. Khi quư vị lănh hội,
cũng chẳng thể thốt lên lời, cũng chẳng
có cách nào suy tưởng, quư vị thật sự nhờ vào
những lời lẽ của Như Lai để dẫn
khởi trí huệ và công đức trong tâm tánh của chính
ḿnh hiển lộ. Kinh Phật là như vậy mà thôi!
Do đó,
Phật có độ chúng sanh hay không? Chẳng độ! Chính
quư vị tự độ ḿnh! Kinh Kim Cang nói: “Độ vô lượng vô biên
chúng sanh, thật vô chúng sanh đắc độ giả”
(độ vô lượng vô biên chúng sanh, nhưng thật sự
chẳng có chúng sanh đắc độ), là đạo lư này!
V́ sao thật sự chẳng có chúng sanh? Mỗi người
đều là tự độ, tự chứng, Phật bất
quá làm Tăng Thượng Duyên cho chúng sanh mà thôi! Phật tánh
tỏa quang minh, tâm chúng ta không có quang minh, nhờ vào quang
minh của kinh điển để thắp sáng quang minh nơi
tâm tánh của chính ḿnh, chẳng khác ǵ Phật! Do đó, “bổn xứ” được
nói trong kinh Kim Cang có ư nghĩa sâu lắm!
(Diễn)
Như Khởi Tín ngôn Bổn Giác, Lăng Nghiêm ngôn Bổn Tâm,
Phạm Vơng ngôn Bổn Nguyên, Viên Giác ngôn Bổn Tế, giai
chỉ tự tánh nhi ngôn dă. Bổn xứ,
bổn quốc, hà độc bất nhiên?
(演) 如 起 信 言 本 覺,楞
嚴 言 本 心,梵 網 言 本 源,圓
覺 言 本 際,皆 指 自 性 而
言 也。本 處 本 國,何 獨
不 然 。
(Diễn:
Như luận Khởi Tín nói Bổn Giác, Lăng Nghiêm nói Bổn
Tâm, Phạm Vơng nói Bổn Nguyên, Viên Giác nói Bổn Tế, đều
là nói về tự tánh. Sao riêng bổn xứ
và bổn quốc lại chẳng phải là như vậy?)
Khởi Tín Luận nói Bổn Giác,
kinh Lăng Nghiêm nói Bổn Tâm, kinh Phạm Vơng nói Bổn Nguyên,
kinh Viên Giác nói Bổn Tế, danh từ khác nhau, nhưng đều
cùng nói về một chuyện, “giai
chỉ tự tánh nhi ngôn” (đều là nói về tự
tánh), tự tánh của đương nhân, tức là tự
tánh của chính chúng ta. Sau khi quư vị hiểu rơ, Tây
Phương Cực Lạc thế giới ở chỗ nào?
Thế giới Cực Lạc ở trong tâm tánh của chúng
ta, “tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh
Độ”, tự và tha như nhau, thân và cơi nước
như nhau. Thế giới Cực Lạc là cơi nước Cực
Lạc, thân chúng ta và thế giới là một, không hai, thân
và cơi nước như một. Kinh Hoa Nghiêm nói “t́nh và vô t́nh, đồng viên Chủng
Trí”, mang ư nghĩa này. “Bổn
xứ, bổn quốc, hà độc bất nhiên” (sao riêng
chỗ ḿnh và cơi ḿnh lại chẳng phải là như vậy).
Kinh Kim Cang nói bổn xứ, kinh Di Đà nói bổn quốc,
đều nhằm ư nghĩa này.
(Diễn)
Thử chi vị vụ bổn giả, Luận Ngữ vị:
“Quân tử vụ bổn”, nhiên bỉ dĩ hiếu đễ
vi bổn, vị chân vụ bổn dă.
(演) 此 之 謂 務 本 者,論
語 謂:君 子 務 本。然 彼
以 孝 悌 為 本,未 真 務 本
也。
(Diễn: “Đó gọi
là chú trọng cái gốc”. Luận Ngữ nói: “Quân tử chú
trọng cái gốc”, nhưng họ (Nho gia) coi hiếu đễ
là gốc, chưa phải là chú trọng cái gốc chân chánh).
“Thử chi vị vụ bổn
giả”, Khổng lăo phu tử có nói với mức độ
sâu như thế hay không, chẳng biết! Nhưng qua sự
giải thích của Phật pháp, Luận Ngữ của Khổng
lăo phu tử cũng trở thành giống như kinh Phật.
Không chỉ là kinh Phật, mà c̣n là kinh điển Đại
Thừa, kinh điển Nhất Thừa, đúng như
trong Phật môn đă nói: “Viên
nhân thuyết pháp, vô pháp bất viên” (người viên măn thuyết
pháp, không pháp nào chẳng viên). Khổng lăo phu tử nói: “Quân tử vụ bổn, bổn
lập nhi đạo sanh” (quân tử chú trọng cái gốc,
gốc đă lập th́ đạo sanh), nhưng các học
giả Nho gia trải các đời giải thích câu này rất
nông cạn, c̣n trong Phật môn chúng ta, rất tuyệt diệu,
giải thích vô cùng sâu xa. Luận Ngữ nói: “Quân tử vụ bổn, bổn lập nhi đạo
sanh”, Bổn là ǵ? Chính là Bổn Xứ trong kinh Kim Cang, là
Bổn Quốc trong kinh Di Đà, nói thực tại là Trạm
Tịch Tâm Nguyên. Nếu chúng ta hỏi, có phải là Khổng
lăo phu tử nói ư nghĩa này hay không? Nói thật ra, đúng là
ư nghĩa này, bất quá phu tử chẳng nói cặn kẽ,
chỉ nhắc đến mà thôi! V́ nếu chúng ta đối
chiếu những giáo huấn của Khổng lăo phu tử
với Đại Thừa Phật pháp th́ nói thật sự
đúng là như nhau!
Chẳng
hạn như Đại Thừa Phật pháp được
kiến lập trên cơ sở Bồ Đề tâm. Kinh Quán
Vô Lượng Thọ Phật giảng Bồ Đề tâm
là “chí thành tâm, thâm tâm, phát nguyện
hồi hướng tâm”, Khổng lăo phu tử giáo học
cũng dùng những điều này làm cơ sở. Trong phần
Tam Cương Bát Mục của sách Đại Học, Ngài
đă nói: “Cách vật, trí tri, thành
ư, chánh tâm”, thành ư là chí thành tâm, chánh tâm là thâm tâm, là đại
bi tâm. Đức Phật nói ba tâm, Khổng Tử nói hai tâm.
Thành ư là chân tâm, là bản thể của chân tâm. Chánh tâm là thành
ư khởi tác dụng, thành ư khởi tác dụng bèn là chánh tâm.
Đức Phật nói cặn kẽ hơn, chí thành tâm khởi
tác dụng, một là đối với chính ḿnh th́ là Tự
Thọ Dụng, tức thâm tâm. Một là đối đăi với
kẻ khác, tức Tha Thọ Dụng, là đại bi tâm, đối
đăi kẻ khác bằng đại từ đại bi. Khổng
lăo phu tử hợp thâm tâm và đại bi tâm thành một, gọi
là Chánh Tâm. “Cách vật” là đoạn
Phiền Năo Chướng, “trí
tri” là đoạn Sở Tri Chướng, trừ hai chướng
th́ ư mới thành! Có Nhị Chướng, ư làm sao có thể
thành cho được? Nhà Phật nói quư vị phải đoạn
Phiền Năo Chướng, phải phá Sở Tri Chướng,
Bồ Đề tâm mới hiện hành. Quư vị thấy có
khác ǵ Khổng lăo phu tử đă nói? Đúng là như nhau.
Nh́n từ chỗ này, “quân tử
vụ bổn” được nói trong chương Học
Nhi của sách Luận Ngữ xác thực là có cùng một ư
nghĩa, Bổn là thành ư, chánh tâm.
“Bổn lập nhi đạo
sanh” (gốc đă lập đạo bèn sanh), “đạo” là ǵ? Đạo là
quy luật của vạn pháp trong vũ trụ, là quá tŕnh và
tŕnh tự diễn biến, nó (vũ trụ) rất có trật
tự. Do đó, nếu con người thuận theo tŕnh tự
ấy của tự nhiên, sẽ tương ứng với
tự tánh, chẳng vi phạm. Nho gia nói Ngũ Luân, Thập
Nghĩa, đó là nhân đạo. Từ bi, phương tiện,
lục độ, vạn hạnh là Bồ Tát đạo!
Khuyên người ta niệm một câu A Di Đà Phật là đạo
thành Phật! Câu A Di Đà Phật chẳng phải là Bồ
Tát đạo, Bồ Tát đạo là lục độ, vạn
hạnh. Chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối niệm
câu A Di Đà Phật là Phật đạo, vô thượng chánh
đạo!
Quân
tử chú trọng cái gốc, “nhiên
bỉ dĩ hiếu đễ vi bổn, vị chân vụ
bổn dă” (nhưng họ lấy hiếu đễ làm gốc,
chưa phải là chú trọng cái gốc chân chánh), đây là
Khổng lăo phu tử nói nông cạn, lấy hiếu đễ
làm gốc. Tuy là nông cạn, vẫn giống như Phật
pháp đă giảng. Trong Tam Phước, Tam Phước là căn
bản tu hành, kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật đă giảng
rất rơ ràng, minh bạch. Câu đầu tiên trong Tam Phước
là “hiếu dưỡng phụ
mẫu, phụng sự sư trưởng”. Hiếu
đễ: Tu học Phật pháp cũng kiến lập trên
căn bản này.
(Diễn) Tất
dă liễu vạn pháp chi phi chân, đạt bổn nguyên chi
nhất trí, đăng sanh diệt chi vọng kế, hội
thường trụ chi chân tâm, phản bổn hoàn nguyên, vi
chân vụ bổn dă.
(演) 必 也 了
萬 法 之 非 真,達 本 源 之
一 致,蕩 生 滅 之 妄 計,會
常 住 之 真 心,返 本 還 源,為
真 務 本 也。
(Diễn: Ắt phải
là liễu giải vạn pháp chẳng thật, thấu
đạt nguồn cội vốn nhất trí, trừ sạch
so đo sanh diệt lầm lạc, thấu hiểu chân tâm thường
trụ, quay trở lại cội nguồn, đó là chú trọng
cái gốc chân chánh).
Đây
là nói đến căn bản “về
đến nhà”, bắt đầu từ nơi đâu?
Phải từ hiếu thảo cha mẹ, tôn trọng thầy,
từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện Nghiệp, phải
tiến hành từ Tam Quy, tŕ giới, phát Bồ Đề
tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại Thừa,
khuyến khích hành giả, bắt đầu từ chỗ
này. Gốc đă lập, đạo mới sanh! Đó là căn
bản, cái gốc đă lập; sau khi đă lập, Bồ
Tát đạo và Phật đạo tự nhiên thông đạt,
lúc nào, chỗ nào, tâm niệm cũng đều là Nhất
Thừa Phật đạo, sẽ chẳng lạc lối!
Hôm nay chúng tôi nói đến chỗ này!
A Di Đà Kinh Sớ Sao
Diễn Nghĩa
Phần 79 hết
[1] Lục Hợp Thái là một loại vé
số, thịnh hành ở Hương Cảng,
thường được biết dưới tên là Mark
Six, phát hành bởi tổ chức Hongkong Jockey Club
(Hương Cảng Trại Mă Hội, tức hội
đua ngựa Hương Cảng), trực thuộc
Hương Cảng Tưởng Khoán Quản Lư Cục
(giống như Sở Sổ Xố Kiến Thiết
của ta). Người chơi mua vé, điền sáu con
số họ dự đoán sẽ được thả ra
từ các lồng cầu quay số. Máy quay số gồm
các ống h́nh trụ chứa những quả cầu
được đánh số từ 1 đến 49.
[2] Bộ kinh này có tên đầy đủ
là Phật Thuyết Bảo Vũ Kinh, c̣n gọi là Hiển
Thọ Bất Thoái Chuyển Bồ Tát Kư, do ngài Đạt
Ma Lưu Chi dịch vào đời Đường. Trong kinh
này, đức Phật thọ kư Nguyệt Quang thiên tử
trong tương lai sẽ làm con gái của Chi Na quốc
vương, dùng chánh pháp để cai trị, giáo hóa.
Đến khi Di Lặc Phật ra đời, lại
được thọ kư. Tiếp đó, Chỉ Nhất
Thiết Cái Bồ Tát từ thế giới Liên Hoa Nhăn
ở phương Đông hỏi Phật mười pháp an
lạc, tạo lợi ích, thành tựu hết thảy chúng
sanh; nhân đó, đức Phật dạy hăy dùng
mười pháp Thí, Nhẫn, Tinh Tấn, Phương
Tiện, Bát Nhă v.v... để viên măn ư nguyện ấy.
[3] Kinh Kim Cang chép: “Như thị ngă
văn, nhất thời, Phật tại Xá Vệ quốc Kỳ
Thụ Cấp Cô Độc viên, dữ đại tỳ-kheo
chúng thiên nhị bách ngũ thập nhân câu. Nhĩ thời,
Thế Tôn thực thời, trước y tŕ bát, nhập Xá
Vệ đại thành khất thực. Ư kỳ thành
trung, thứ đệ khất dĩ, hoàn chí bổn xứ,
phạn thực ngật, thâu y bát, tẩy túc dĩ, phu ṭa
nhi tọa” (Ta nghe như thế này, một thời, đức
Phật ngự tại nước Xá Vệ, trong vườn
Kỳ Thụ Cấp Cô Độc, cùng với các vị
đại tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm
mươi người nhóm họp. Khi ấy, đức Thế
Tôn vào giờ ăn, đắp y, cầm bát, vào đại
thành Xá Vệ khất thực. Ở trong thành, Ngài lần
lượt khất thực, trở về chỗ ḿnh, dùng
cơm xong, cất y, bát, rửa chân xong xuôi, bèn trải ṭa
ngồi).