A Di Đà Kinh Sớ
Sao Diễn Nghĩa
阿彌陀經疏鈔演義
Phần 86
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Huệ Trang và Đức Phong
Tập
171
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn
Nghĩa Hội Bổn, trang ba trăm sáu mươi sáu:
(Sao)
Đồng Tướng giả, nhược ước
ngũ giáo, tắc nhất giả lập sự tựu
nghĩa môn.
(鈔) 同 相 者,若 約 五 教,則
一 者 立 事 就 義 門。
(Sao: Đồng Tướng là nếu ước theo
ngũ giáo, th́ môn thứ nhất là thiết lập sự
tướng để dẫn khởi ư nghĩa).
“Ngũ giáo” là năm môn. Đoạn
này vẫn tiếp tục giảng về Tam Bảo,
cũng nhằm giải thích phần kinh văn “niệm Phật, niệm Pháp, niệm
Tăng”. Trong phần trước đă giới thiệu
Biệt Tướng Tam Bảo, đối lập với
Biệt Tướng là Đồng Tướng. Trong phần
[giảng giải] Đồng Tướng [Tam Bảo], bộ
Sớ Sao của Liên Tŕ đại sư đă dựa trên
giáo nghĩa của tông Hiền Thủ để giải
thích. Ngài Hiền Thủ phán giáo đă phán định
ngũ giáo là Tiểu, Thỉ, Chung, Đốn, Viên. [Mỗi
giáo trong] ngũ giáo đều có Đồng Tướng
Tam Bảo. Chúng ta xem loại thứ nhất, loại thứ
nhất là Tiểu Giáo, “lập
sự tựu nghĩa môn”. Tiểu Giáo thiên trọng sự
tướng.
(Diễn)
Tam thập nhị tướng, trượng lục kim
thân, sự tướng Phật dă. Lập thử sự
tướng, dĩ tựu giác nghĩa. Dĩ Thích Ca khổ
hạnh thành đạo, thuyết pháp độ nhân, tự
giác giác tha, cố danh Phật Bảo.
(演) 三 十 二 相,丈 六 金 身,事 相 佛 也。立 此 事 相,以 就 覺 義。以 釋 迦 苦 行 成 道,說 法 度 人,自 覺 覺 他,故 名 佛 寶。
(Diễn: Ba
mươi hai tướng, thân vàng trượng sáu, là Phật
theo phương diện sự tướng. Lập ra những
tướng ấy, để dẫn khởi ư nghĩa
Giác. V́ Phật Thích Ca khổ hạnh thành đạo, thuyết
pháp độ người, tự giác, giác tha, nên gọi là
Phật Bảo).
Đức
Phật chẳng tại thế, chúng ta thờ tượng
Phật, đó là Phật Bảo trong Tam Bảo. Thờ
tượng Phật với dụng ư khơi gợi, phát khởi
trí huệ của chính ḿnh. Phật có nghĩa là giác, giác chứ
không mê. Thấy tượng Phật sẽ nhắc nhở
giác tâm và giác hạnh của chính ḿnh, phải giống
như Thích Ca Mâu Ni Phật, chẳng bị những thứ
huyễn giả trong thế gian mê hoặc. Pháp thế gian
đều chẳng thật, kinh Kim Cang đă nói rất minh
bạch: “Phàm những ǵ có h́nh
tướng đều là hư vọng”. Sở dĩ chúng
sanh khổ, Phật, Bồ Tát nói là “kẻ đáng thương xót”, rất đáng
thương; v́ sao nói họ đáng thương? Bị pháp
thế gian làm mê, mê trong các giả pháp, quên bẵng chân thật.
Chân thật th́ nói thật ra, hưởng thụ bất tận;
trong Chân Như bản tánh có vô lượng trí huệ, vô
lượng đức năng. Kinh văn trong mười
một cuốn rưỡi thuộc phần đầu kinh
Hoa Nghiêm nói về quả báo của Tỳ Lô Giá Na Như
Lai, Tỳ Lô Giá Na là ai? Là chính bản thân chúng ta. Phước
báo của chúng ta vốn to ngần ấy, nay lại thê thảm
dường ấy, là v́ lẽ nào? Mê muội bản tánh.
Toàn bộ trí huệ và phước đức vốn sẵn
có trong bản tánh đều bị mất đi; chẳng
phải là thật sự bị mất đi, mà là mê mất.
Ở ngoại quốc, tôi gặp nhiều đồng tu niệm
Phật rất tinh tấn, hễ gặp tôi đều
thưa hỏi Phật pháp, nhưng khi quay về Đài Loan,
chẳng thấy có ai! Phật cũng không học, mà kinh
cũng chẳng nghe. Nghe nói họ đều đến thị
trường chứng khoán cả rồi, bị những thứ
ấy mê hoặc. Mê mất tự tánh, đáng sợ quá!
Đó là “kẻ đáng
thương xót” như trong kinh điển thường
nói, những kẻ ấy đáng thương lắm thay!
Trong
nhà quư vị thờ tượng Phật, thường thấy
tượng Phật, nhằm nhắc nhở chính ḿnh đừng
mê, giác chứ không mê, có ư nghĩa ấy. Ngẫm lại,
Thích Ca Mâu Ni Phật là bậc đối với danh vọng,
lợi dưỡng thứ ǵ cũng đều chẳng
thiếu; c̣n kẻ mê hằng ngày suy tính, mong giành lấy, bậc
giác ngộ bỏ sạch những thứ đó, bỏ sạch
vinh hoa phú quư trong thế gian, khổ hạnh thành đạo,
làm cho chúng ta thấy. Cuộc sống vật chất tuy
gian khổ, nhưng cuộc sống tinh thần của họ
viên măn. Nói thật ra, khổ và lạc do lũ phàm phu mắt
thịt chúng ta thấy như vậy. Chúng ta cảm thấy
ăn uống trà thô, cơm nhạt là cuộc sống rất
khổ; trong tầm mắt của Phật, Bồ Tát, các
Ngài thấy quư vị mỗi ngày ăn cá to, thịt bự
rất khổ, rất đáng thương, v́ sao? Mỗi
ngày đều kết thù oán cùng chúng sanh, nợ nần ngày
càng nặng nề, làm sao quư vị có thể trả sạch
nợ trong một đời cho được? Quư vị
hăy chú tâm lắng ḷng quan sát đôi chút, rốt cuộc ai sống
đời tự tại? Ai sống khổ sở? V́ thế,
khổ và lạc chẳng phải là tiêu chuẩn tuyệt
đối. Chúng ta thấy người tu hành sống rất
khổ, người tu hành thấy người thế tục
rất khổ, rất đáng thương! Do vậy, phải
hiểu cuộc sống của Phật, Bồ Tát là chân thật,
rất đáng cho chúng ta học tập, làm theo. Lại xem
đoạn tiếp theo giảng về Pháp Bảo:
(Diễn)
Tứ A Hàm đẳng, bất đàm Thật Tướng,
duy thuyết Khổ, Không, thử sự tướng pháp dă.
Lập thử sự tướng, dĩ tựu quỹ tŕ
nghĩa. Dĩ Tứ Đế chi pháp, diệc năng quỹ
sanh vật giải, nhậm tŕ tự tánh, cố danh Pháp Bảo.
(演) 四 阿 含 等,不 談 實 相,唯 說 苦 空,此 事 相 法 也。立 此 事 相,以 就 軌 持 義。以 四 諦 之 法,亦 能 軌 生 物 解,任 持 自 性,故 名 法 寶。
(Diễn: Tứ A Hàm
v.v… chẳng giảng về Thật Tướng, chỉ
nói Khổ, Không, đó là Pháp thuộc về sự tướng.
Lập ra sự tướng này, nhằm dẫn khởi ư
nghĩa “quỹ tŕ” (pháp tắc, đường lối
để noi theo, vâng giữ). Bởi lẽ, pháp Tứ
Đế th́ cũng có thể dùng làm nguyên tắc hướng
dẫn khiến cho chúng sanh lư giải, tự nhiên ǵn giữ
tự tánh, nên gọi là Pháp Bảo).
“Dĩ tựu quỹ tŕ nghĩa”,
“quỹ tŕ” (軌持) là ư nghĩa được bao hàm trong Pháp Bảo của
Tam Bảo. Pháp, tiếng Phạn là Đạt Ma (Dharma),
Đạt Ma dịch sang tiếng Hán là Quỹ Tŕ. Quỹ (軌) có
nghĩa là “quỹ đạo”;
đi theo quỹ đạo, chắc chắn chẳng sai lầm,
giống như xe lửa chạy trên đường sắt.
“Quỹ” cũng là pháp tắc,
nay chúng ta nói là nguyên tắc. “Tŕ”
(持) là ǵn giữ, quư vị có thể
ǵn giữ nguyên tắc ấy sẽ chẳng phạm sai lầm,
nguyên tắc ấy là ǵ? Là các đạo lư và phương
pháp do đức Phật đă dạy trong kinh Tứ A Hàm.
Quư vị dùng những điều ấy để làm nguyên
tắc tu học sẽ không bị sai lầm. Đó là ư nghĩa
của Quỹ Tŕ.
“Dĩ Tứ Đế chi pháp”
(dùng pháp Tứ Đế), Tứ Đế chung cho cả
Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa. Tiểu Giáo Tứ
Đế là Sanh Diệt Tứ Đế, nói rất cạn,
và cũng hết sức dễ hiểu. “Diệc năng quỹ sanh vật giải” (cũng
có thể dùng làm nguyên tắc khiến cho chúng sanh lư giải),
“quỹ” [trong câu này] có cùng một
ư nghĩa với “quỹ tŕ”,
tức là nguyên tắc, có thể sử dụng nguyên tắc
ấy khiến cho hết thảy chúng sanh lư giải. “Vật” (物): Chẳng nói
người [mà nói Vật], v́ Vật có phạm vi lớn
hơn người. Nếu nói đến chuyện “có thể
sanh, có thể hiểu” th́ trong lục đạo, trừ
loài người ra, c̣n có thiên đạo, súc sanh, ngạ quỷ,
A Tu La cũng có thể nghe hiểu Phật pháp. “Phật dĩ nhất âm nhi thuyết
pháp, chúng sanh tùy loại các đắc giải” (Phật
dùng một âm thanh để thuyết pháp, chúng sanh tùy theo từng
loài đều hiểu). Đối với cách nói này trong Phật
pháp, nói thật ra, bọn phàm phu mắt thịt chúng ta chỉ
có thể nghe, chỉ có thể thấy những ǵ? Có không
ít người đang nghe ở đây. Nếu quư vị có
Thiên Nhăn, không chỉ thấy trong giảng đường
này có rất nhiều người, mà ở đây c̣n có rất
nhiều quỷ thần, nhưng chúng ta mắt thịt
không thấy. Thông thường, các vị đại đức
tại gia hay xuất gia giảng kinh đều có quỷ
thần đến nghe, huống hồ Phật, Bồ Tát!
V́ vậy, Ngài dùng chữ “vật”
rất hay, hết thảy hữu t́nh chúng sanh trong lục
đạo đều được bao gồm. Nếu Phật
giảng kinh, Bồ Tát cũng đến nghe, toàn bộ
chúng sanh trong chín pháp giới đều dùng chữ này (Vật)
để biểu thị. V́ thế, “quỹ sanh vật giải” là chiếu theo những
nguyên tắc do đức Phật đă nói mà đều có
thể lư giải.
“Nhậm tŕ tự tánh”: “Nhậm” (任) là tự nhiên. Phật
pháp bất luận là nói sâu hay cạn,
mục tiêu chung cực đều là minh tâm kiến tánh. Chớ
nên hiểu “nhậm tŕ tự
tánh” ở đây là “minh tâm
kiến tánh”, hăy nên hiểu theo cách này: Bất cứ một
pháp nào đều có thể tánh của nó, nó có thể giữ
ǵn thể tánh ấy chẳng để mất đi, nên gọi
là “nhậm tŕ tự tánh”. Như
quyển sách này có thể ǵn giữ h́nh dáng của một
quyển sách trong một khoảng thời gian khá dài, chẳng
bị biến đổi, đó là “nhậm tŕ tự tánh”. Quyển sách này cũng là một
pháp. Căn nhà đă xây dựng xong xuôi, cũng có thể tồn
tại trong một khoảng thời gian, nó cũng chẳng
bị biến đổi. Bàn, ghế, băng ghế, bất
cứ pháp nào đều có thể tự nhiên ǵn giữ tự
tánh của nó, có ư nghĩa này! Đây là nói đến Pháp Bảo
đều là nói theo phương diện sự tướng.
(Diễn)
Thế phát, nhiễm y, Lục Ḥa vô tránh, thử sự
tướng Tăng dă.
(演) 剃
髮 染 衣,六 和 無 諍,此
事 相 僧 也。
(Diễn:
Xuống tóc, áo nhuộm, Lục Ḥa chẳng tranh căi, đó
là Tăng về mặt sự tướng).
Thứ
ba là nói đến Tăng Bảo. Tăng Bảo là người
xuất gia. Theo chế độ xuất gia của Phật,
nhất định phải xuống tóc, mặc y nhuộm
[hoại sắc]. Nói thật ra, cái y mà người xuất
gia chúng ta đang đắp hiện thời đă hoàn toàn
trái nghịch chế độ của nhà Phật, dẫu
có làm ra dáng vẻ th́ cũng là một thứ mang ư nghĩa
kỷ niệm, chứ phương pháp chế tạo nguyên
thủy đă chẳng c̣n nữa. Thời cổ, đi khất
thực, người ta cúng dường quư vị một bữa
cơm dễ dàng, chứ cúng dường một tấm áo
khó lắm! Hiện tại, khoa học kỹ thuật phát
triển, từ lối canh cửi theo
thủ công đă tiến nhập cơ giới hóa, dễ
dàng có được một bộ áo. Trước đây,
dệt vải phải mất khá nhiều ngày mới dệt
thành một tấm vải. Y phục của người xuất
gia toàn là nhặt nhạnh những thứ người ta vứt
đi. Những thứ quần áo do người khác mặc
đă hư nát, vứt đi, chẳng cần nữa,
người xuất gia lượm lấy, những chỗ
rách nát tả tơi bèn cắt bỏ chẳng dùng, giữ lại
những miếng có thể dùng được, dần
dần tích lũy được nhiều, bèn chằm khíu lại,
may dính lại thành một miếng lớn. Nay chúng ta nói tấm
y của người xuất gia đắp là y bảy
điều hay y năm điều. Y năm điều là
các miếng vải kết lại to hơn một chút. Y hai
mươi lăm điều là do các miếng vải cắt
nhỏ, may chằm lại thành. Do chất liệu các mụn
vải khác nhau, màu sắc cũng khác biệt, cũ mới
cũng khác nhau, mặc vào cũng rất khó coi, đức
Phật dùng phương pháp ǵ? Nhuộm màu, đem nhuộm
đi, mặc y hoại sắc[2].
Hiện
nay đều là mua cả cuộn vải, quư vị thấy
quần áo của người xuất gia có nhuộm [hoại
sắc] hay không? Chẳng có! Chẳng có áo nhuộm [hoại
sắc]! Hiện nay tuy đắp y, y hai mươi lăm
điều, y bảy điều, hoặc y năm điều,
toàn là mua cả một cuộn vải mới, cắt nát
ra, may lại. Nói thật ra, thuở Phật tại thế,
chắc chắn sẽ không cắt nát ra! Bị cắt nát
ra là do nhặt từng miếng vải người ta không
cần dùng nữa, may chằm lại như thế, chẳng
phải là đem cả một tấm vải cắt vụn
ra. Nay chúng ta mua cả tấm vải, đem cắt vụn
ra, rồi may chằm từng miếng lại, đó là
“đa sự”, ư nghĩa thật sự đă bị mất
sạch! V́ vậy, hiện thời có những người
may y bằng cách may dằn thành những ô vuông trên mặt tấm
vải để kỷ niệm [ư nghĩa ban đầu],
tôi cảm thấy cách làm ấy rất có lư, chứ đem
toàn bộ cắt vụn ra rồi may chằm lại, tuy rất
giống với cái y của đức Phật xưa kia,
nhưng chẳng hợp lư, v́ vải may y thời đức
Phật được nhặt nhạnh từ bên ngoài, từng
miếng khác nhau, chắc chắn chẳng phải là trọn
cả xấp vải! Nếu là trọn cả xấp vải,
tôi tin là Phật sẽ tuyệt đối chẳng cắt
vụn ra. Đức Phật sống rất đơn giản,
sẽ chẳng tự ḿnh chuốc phiền, chúng ta phải
nên biết chuyện này!
Trong
cuộc sống vật chất, chúng ta hưởng thụ
vượt xa Thích Ca Mâu Ni Phật. Đối với
cơm ăn mỗi ngày, Thích Ca Mâu Ni Phật phải đi
ra ngoài khất thực, phải đi vài dặm đường.
Nay những món chúng ta ăn đă có sẵn; ăn, mặc, ở,
đi lại sung túc hơn các vị cao tăng đại
đức thời cổ quá nhiều; nhưng đạo hạnh
của chúng ta kém xa người ta quá nhiều. Người
ta thân tâm thanh tịnh, c̣n chúng ta suốt ngày từ sáng đến
tối suy nghĩ loạn xạ, nên tổ sư đại
đức thường răn nhắc chúng ta: “Hăy nên sanh
tâm hổ thẹn, hăy nên nghiêm túc nỗ lực”. Tuyệt
đối chẳng phải là chúng tôi bảo mọi người
hăy khôi phục cuộc sống kham khổ như xưa kia,
chẳng phải vậy! V́ nếu chúng ta sống cuộc
đời y như thuở đức Phật tại thế,
tôi nói cho quư vị biết, bản thân quư vị có thể
tu hành thành tựu, tuy quư vị thành tựu, nhưng Phật
pháp cũng bị tiêu diệt luôn! Cớ sao Phật pháp bị
tiêu diệt? Người thế gian vừa thấy học
Phật khổ như vậy, [bèn nghĩ]: “Chớ nên học
Phật! Chỉ có kẻ ngốc mới học Phật!” Mọi
người chẳng học Phật, Phật pháp sẽ bị
tiêu diệt. Phải thành tựu chính ḿnh, mà cũng phải
làm cho Phật pháp có thể hoằng dương trọn khắp.
Mức sống của chúng ta cũng phải đuổi kịp
thời đại, khiến cho mọi người nh́n vào,
[sẽ nghĩ]: “Chúng ta vẫn c̣n có thể học Phật
pháp”. Chẳng đến nỗi bài xích, chẳng đến
nỗi e sợ. Tuy có thể đuổi kịp thời
đại, chớ nên quá xa xỉ, như vậy là
được. Đại Thừa Phật pháp nói đến
Trung Đạo, chẳng giống như Tiểu Thừa,
Tiểu Thừa đích xác là lệch sang một bên. Tiểu
Thừa rất khổ hạnh.
“Lục Ḥa vô tránh”: Nhất
định phải tu Lục Ḥa Kính. Chư vị phải
biết: Nếu bất ḥa, tâm quư vị sẽ chẳng
b́nh. Trong Bát Đức của Trung Quốc có nói “ḥa b́nh”, ḥa là nhân, b́nh là quả.
Sau khi tâm đă b́nh th́ mới đẳng, đẳng (ngang
bằng) ǵ vậy? Bằng với Phật. Tâm Phật b́nh
đẳng. Tâm chúng ta mà b́nh, sẽ chẳng kém Phật cho
mấy. Đại Kinh có tựa đề là B́nh Đẳng
Giác Kinh, quư vị thấy rất trọng yếu! B́nh đẳng
sẽ giác, giác bèn b́nh đẳng. Ḥa là tiền
phương tiện của B́nh. Do đó có thể biết:
Giác th́ mới ḥa, ḥa là giác, bất ḥa là bất giác. Chư
vị phải hiểu: Chúng ta phải nên học tập
ḥa, b́nh đẳng, giác. Phải ḥa với bất luận
kẻ nào, phải ḥa với bất luận sự nào. Trong
ḥa chẳng có tranh, trong ḥa chẳng có giới hạn. Có giới
hạn th́ nhất định là có tranh chấp. V́ thế,
đó là phương tiện đầu tiên trong sự học
Phật. Trong Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh, đức
Thế Tôn trước khi nói phương pháp tu hành [để
văng sanh] Tây Phương Cực Lạc thế giới,
trước hết, Ngài nói về Tam Phước. Do điều
này có thể biết: Tam Phước là chỗ để tu
tập đầu tiên trong sự học Phật. Phước
thứ hai trong Tam Phước là “thọ
tŕ Tam Quy, trọn đủ các giới, chẳng phạm
oai nghi”, điều này trọn đủ Lục Ḥa, bởi
lẽ, Lục Ḥa hết sức trọng yếu. Bản
thân chúng ta tu học có thành tựu hay không, Chánh Pháp có thể
tồn tại lâu dài trên thế gian hay không? Then chốt
đều do Lục Ḥa.
V́
sao Tăng đoàn chẳng dễ dàng thành lập? T́m không ra
bốn người cùng một ḷng, cùng một nguyện. Mỗi
người giữ cứng ngắc cách nghĩ, cách nh́n,
cách làm của chính ḿnh, đó là phân biệt, chấp trước.
Mỗi người giữ chặt sự chấp trước
của chính ḿnh, không chịu bỏ, nên mọi người
xử sự với nhau là một khối bất ḥa. V́
căn bản của Lục Ḥa là Kiến Ḥa Đồng Giải,
chỉ cần làm được điều này, năm
điều kia sẽ dễ dàng. Hiện thời, chúng ta suy
nghĩ kỹ càng, [sẽ thấy] là thật khó. Đừng
nói chi bốn người, hai người cùng một ḷng
đă chẳng dễ rồi! Hai người mà mỗi
người giữ chặt chủ trương của chính
ḿnh, quư vị nghĩ xem: Hai kẻ đó c̣n chẳng thể
ḥa, t́m đâu ra bốn người nữa đây? T́m chẳng
được! Đây đúng là chuyện bi ai!
Chỉ
cần có một Tăng đoàn xuất hiện, nơi này
quyết định chẳng gặp nạn! Đáng tiếc
là ở nơi đây không có ai chịu hy sinh, không ai chịu
bỏ chấp trước của chính ḿnh. Chữ “Tăng đoàn” không nhất
định là nói về người xuất gia, mà tại
gia cũng thế. Chỉ cần bốn người ở
cùng một chỗ cùng tu, thật sự có thể tuân thủ
Lục Ḥa Kính th́ người tại gia cũng là Tăng
đoàn, chư Phật hộ niệm, long thiên ủng hộ.
Rất ư khó khăn! Thật sự chẳng dễ dàng!
Chúng ta chỉ hy vọng sâu xa rằng sẽ có một
đoàn thể như vậy xuất hiện trên thế
gian, người trong thế gian này sẽ có phước. Cận
đại, khi sinh tiền, Ấn Quang đại sư tự
xưng là Thường Tàm Quư Tăng (常慚愧僧: ông Tăng thường
hổ thẹn). Ngài hổ thẹn điều ǵ? Có thể
nói bản thân lăo nhân gia cả một đời tu tŕ viên
măn, chúng ta chẳng t́m thấy một chút khuyết hăm nào,
Ngài hổ thẹn v́ chẳng thể kiến lập một
Tăng đoàn, t́m chẳng được bốn người
đồng tâm, đồng đức!
Tuy
chúng ta học Phật, nhưng khởi tâm động niệm,
ư niệm thứ nhất là v́ chính ḿnh, chẳng thể hợp
tác với người khác. Ư niệm thứ nhất luôn v́
chính ḿnh, tự tư tự lợi, chúng ta khác với Phật,
Bồ Tát ở chỗ này! Nay chúng ta dấy lên ư niệm thứ
nhất là v́ chính ḿnh, vậy th́ chẳng có cách nào ḥa được
cả! Phật, Bồ Tát ḥa dễ dàng, do ư niệm thứ
nhất của các Ngài đều v́ cứu độ hết
thảy chúng sanh. Do điều này có thể biết, đến
khi nào Tiểu Thừa Giáo mới thật sự kiến lập
ḥa hợp? Sơ Quả Tu Đà Hoàn phá Thân Kiến, chẳng
c̣n suy nghĩ v́ chính ḿnh, sẽ ḥa hợp dễ dàng. Nay
chúng ta niệm niệm đều nghĩ v́ ḿnh, niệm niệm
mong bảo vệ chính ḿnh, niệm niệm mong v́ chính ḿnh, Kiến
Ḥa Đồng Giải chắc chắn chẳng thể kiến
lập. Hiện thời, đối với Lục Ḥa Kính,
chúng ta cũng chỉ là đọc đến, ngưỡng
mộ mà thôi, há có thể làm được ư?
(Diễn)
Lập thử sự tướng, dĩ tựu ḥa hợp
nghĩa, dĩ tuy bất đạt Thật Tướng, dữ
Lư ḥa hợp, nhi tại chúng vô tranh, hỗ tương ái
kính, Lục Ḥa vi lữ, như thủy nhũ hợp, cố
danh Tăng Bảo. Năi Tiểu Giáo chi Tam Bảo dă.
(演) 立 此 事 相,以 就 和 合 義,以 雖 不 達 實 相,與 理 和 合,而 在 眾 無 爭,互 相 愛 敬,六 和 為 侶,如 水 乳 合,故 名 僧 寶。乃 小 教 之 三 寶 也。
(Diễn: Lập ra sự
tướng này để dẫn khởi ư nghĩa Ḥa Hợp,
v́ tuy chẳng thấu đạt Thật Tướng, ḥa hợp
cùng Lư, nhưng chẳng tranh chấp với đại
chúng, kính yêu lẫn nhau, làm bè bạn Lục Ḥa, như
nước ḥa lẫn cùng sữa, nên gọi là Tăng Bảo.
Đó chính là Tam Bảo của Tiểu Giáo vậy).
Trong
Trụ Tŕ Tam Bảo của Tiểu Giáo, Tăng Bảo khá
đáng quư, hết sức khó có. Không có Lục Ḥa, dẫu
đạo tràng to đến mấy, nhân số đông
đến mấy, chẳng phải là Tăng đoàn! Nếu
đều có thể tu Lục Ḥa Kính, dẫu nơi đó
nhỏ đến mấy, ít người đến mấy,
bốn người bèn gọi là Chúng. Từ bốn người
trở lên tu Lục Ḥa Kính, lỗi lạc thay, rất
đáng để tôn kính!
(Sao)
Nhị giả, hội Sự quy Lư môn.
(鈔) 二 者 會 事 歸 理 門。
(Sao:
Hai là môn hội quy Sự về Lư).
Trên
đây chỉ là nói theo Sự, tức Tiểu Giáo Tam Bảo;
c̣n điều này là Đại Thừa Thỉ Giáo.
(Diễn)
Hội Sự quy Lư giả, phi tam thập nhị tướng
chi Phật vi Phật. Bát Nhă kinh vân: “Nhược dĩ sắc
kiến ngă, dĩ âm thanh cầu ngă, thị nhân hành tà đạo,
bất năng kiến Như Lai”. Hựu viết: “Nhược
kiến chư tướng phi tướng, tức kiến
Như Lai”. Hựu viết: “Như Lai giả, tức
chư pháp Như nghĩa”. Cố dĩ như Lư vi Phật
Bảo.
(演) 會 事 歸 理 者,非 三
十 二 相 之 佛 為 佛。般 若
經 云:若 以 色 見 我,以
音 聲 求 我,是 人 行 邪 道,不
能 見 如 來;又 曰:若 見
諸 相 非 相,即 見 如 來;又
曰:如 來 者,即 諸 法 如
義。故 以 如 理 為 佛 寶。
(Diễn: “Hội Sự quy Lư”: Chẳng phải vị Phật
có ba mươi hai tướng là Phật. Kinh Bát Nhă nói: “Nếu
dùng Sắc thấy ta, dùng âm thanh cầu ta, người ấy
hành tà đạo, chẳng thể thấy Như Lai”. Lại
nói: “Nếu thấy các tướng chẳng phải là
tướng, tức là thấy Như Lai”. Lại nói:
“Như Lai là nghĩa Như của các pháp”. V́ thế, lấy
như Lư làm Phật Bảo).
Đại
Thừa và Tiểu Thừa hoàn toàn khác nhau, Tiểu Thừa
luôn chấp tướng, Đại Thừa vừa khởi
đầu bèn ĺa hết thảy tướng, chẳng chấp
trước. Chẳng c̣n chấp tướng nữa! Chấp
tướng sẽ chẳng thể nhập Thật Tướng.
Trong pháp Tiểu Thừa, đức Thế Tôn chẳng giảng
Thật Tướng, trong Đại Thừa, đức Phật
giảng Thật Tướng. Ở đây, đại
sư trích dẫn kinh văn của kinh Kim Cang [để giảng
giải]. Thỉ Giáo, lấy như Lư làm Phật Bảo, Lư
là ǵ? Tự tánh giác. Nếu quư vị chấp tướng,
chấp tướng là mê, chấp tướng là bất
giác; không chấp tướng, quư vị mới có thể hiểu
Chân Lư, tức là Lư chân thật. Lư Thể ấy là Phật Bảo;
nhưng khởi đầu của Đại Thừa chẳng
dễ dàng, nhất là đại sư trích dẫn một
câu trong kinh Kim Cang: “Như Lai giả,
chư pháp Như nghĩa” (Như Lai là nghĩa Như của
các pháp). Câu này có ư nghĩa rất sâu, “chư pháp” là hết thảy các pháp, “Như” là ǵ? [Như là] giống
hệt như thế, có nghĩa là bất nhị, cũng
có thể nói là vạn pháp đều như nhau, pháp nào
cũng bất nhị. Chúng ta thấy hết thảy đều
có sai biệt, đều chẳng Như; v́ sao đức
Phật nói hết thảy các pháp đều là như nhau,
là bất nhị? Đức Phật nh́n từ Lư, chúng ta
nh́n từ Sự. Nh́n theo mặt Sự, mỗi pháp đều
khác nhau. Nếu nh́n theo Lư, về Lư th́ đều như
nhau. Trong quá khứ, Hiền Thủ quốc sư thuyết
pháp cho hoàng đế Thuận Tông (đời Đường)[3],
có một bài viết đặt tên là Kim Sư Tử
Chương. Nội dung trọng yếu nhất trong bài viết
ấy chính là “dùng vàng làm đồ
vật, món nào cũng là vàng”, dùng tỷ dụ ấy
để nói. Phàm phu chúng ta chấp tướng, quư vị
đến tiệm kim hoàn xem các món đồ bằng vàng, mỗi
món có kiểu dáng khác nhau, mấy vạn thứ. Nếu quư
vị chẳng chấp tướng, sẽ thấy vàng
đều giống như nhau, mấy vạn loại toàn
là vàng. Đừng chấp trước h́nh dáng, quư vị sẽ
thấy vàng, toàn bộ đều giống hệt như
nhau. Chấp tướng th́ không có ǵ giống nhau, chẳng
chấp tướng th́ món nào cũng đều giống hệt
như nhau.
Kinh Lăng Nghiêm đă giảng chân
tướng sự thật này hết sức thấu triệt,
y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới do
đâu mà có? “Thuận theo tâm
chúng sanh, ứng với khả năng nhận lănh của họ”.
Do đâu mà có pháp giới? Do tâm của chính chúng ta biến
hiện, nên tâm thanh tịnh, quốc độ liền thanh
tịnh. “Tâm tịnh, ắt cơi
nước tịnh”, chúng ta dùng câu nói ấy để
quan sát cặn kẽ thế giới hiện tiền này, xét
đoán cái tâm của mọi người. Bốn
mươi năm trước, Đài Loan vừa mới quang
phục[4]
không lâu, xă hội Đài Loan hết sức yên ổn, hết
sức đáng yêu, v́ sao? Tâm mọi người b́nh lặng,
yên tĩnh, không tranh giành, đầu óc chẳng nghĩ tới
danh vọng, lợi dưỡng, tài, sắc, tiếng tăm,
ăn uống, ngủ nghê, xă hội an định. Nay chúng
ta nh́n vào xă hội này, ai nấy đều dốc hết
tánh mạng tranh đoạt danh vọng, lợi dưỡng.
Xă hội hiện thời động loạn dường ấy,
do đâu mà ra? Do ḷng người tạo thành. Kẻ nào ra
tranh cử cũng đều nói: “Tôi muốn mưu cầu
phước lợi cho dân chúng”. Họ chẳng mưu cầu
phước lợi th́ chúng ta hăy c̣n b́nh an. Ai nấy đều
muốn tạo phước cho chúng ta th́ họ đấu đá
đến nỗi càn khôn đảo lộn! V́ thế,
đọc kinh Phật, xác thực là đức Phật nói
chẳng sai tí nào! Chúng ta chẳng tranh giành, tâm rất an. Nếu
quư vị muốn tranh giành, nay quư vị ra tranh cử, tâm
quư vị suốt ngày từ sáng đến tối chao đảo.
V́ thế, tâm thanh tịnh rất quan trọng.
Đại
Thừa Thỉ Giáo là quan sát từ Thể. Vạn pháp giống
hệt như nhau, đó là nghĩa Như của các pháp, tức
là Như Lai. Quư vị có thể thấy hết thảy các
pháp đều không hai, bèn thấy Phật; hễ thấy
Phật, quư vị bèn thành Phật. Nếu quư vị chẳng
thành Phật, làm sao có thể thấy Phật cho được?
Do đó, Phật thấy hết thảy chúng sanh đều
là Phật. Bồ Tát thấy hết thảy chúng sanh đều
là Bồ Tát. Phàm phu thấy Phật, Bồ Tát cũng là phàm
phu. Do điều này có thể biết, cảnh giới chẳng
phải là thật, là giả, biến đổi theo tâm.
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Hết thảy
các pháp, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới,
chỉ do tâm hiện, chỉ do thức biến”. Thức
là phân biệt, chấp trước. Mười pháp giới
là tướng được hiện bởi sự phân biệt,
chấp trước của chúng ta. Những tướng hiện
ra ấy chẳng chân thật, mà là huyễn tướng.
Kinh Kim Cang nói: “Phàm những ǵ
có h́nh tướng đều là hư vọng”. Nếu
quư vị chấp trước “ba
mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo”
là Phật, chấp tướng mất rồi! Kinh đă
nói rất rơ ràng: Nếu quư vị muốn kiến tánh, mà
phân biệt, chấp trước trong hết thảy các
tướng, sẽ chẳng kiến tánh; nhưng đối
với hết thảy hiện tướng, chẳng phân biệt,
không chấp trước, th́ hết thảy các hiện
tướng là Chân Như bản tánh. Do đó, đối với
nghĩa Như của các pháp, có pháp nào chẳng phải là tự
tánh? Pháp nào cũng đều là [tự tánh]! V́ thế,
người giác ngộ thường nói: “Đầu đầu thị đạo, tả hữu
phùng nguyên” (chuyện ǵ cũng là đạo, đâu
đâu cũng gặp nguồn). Không có ǵ được tiếp
xúc bởi lục căn mà chẳng phải là [tự tánh]!
Đây chính là coi kiến tánh là Phật Bảo, coi Chân
Như bản tánh là Phật Bảo.
(Diễn)
Pháp giả, phi dĩ văn tự vi Pháp. Kinh vân: “Hữu
pháp khả thuyết, danh vi báng pháp. Vô pháp khả thuyết,
thị vi thuyết pháp”. Sở vị vô thuyết, vô
văn, thị danh chân thuyết Bát Nhă. Thử dĩ như
lư danh Pháp Bảo.
(演) 法 者,非 以 文 字 為 法。經 云:有 法 可 說,名 為 謗 法;無 法 可 說,是 為 說 法;所 謂 無 說 無 聞,是 名 真 說 般 若。此 以 如 理 名 法 寶。
(Diễn: Pháp: Chẳng
coi văn tự là Pháp. Kinh dạy: “Có pháp để có thể
nói, th́ gọi là báng pháp. Không có pháp nào để có thể
nói, bèn là thuyết pháp”. Đó gọi là “không nói, không nghe,
bèn gọi là thật sự nói Bát Nhă”. Đấy là gọi
như Lư là Pháp Bảo).
Đại Thừa
Thỉ Giáo, Thỉ Giáo cũng là Không Tông, lấy tự tánh
làm Phật Bảo, lấy khế nhập tự tánh làm Pháp
Bảo. Dùng phương pháp ǵ để khế nhập tự
tánh? Nương theo văn tự sẽ chẳng thể khế
nhập tự tánh. Văn tự là kinh điển, nhưng
chư vị phải biết, cũng chẳng thể ĺa khỏi
văn tự. Thiền Tông Trung Quốc đề xướng
“chẳng lập văn tự,
chỉ thẳng vào tâm người”. Đó là tông chỉ
giáo học của Thiền Tông, mà cũng là nguyên tắc chỉ
đạo trong giáo học. Quư vị thấy trong Vạn Tục
Tạng, văn tự của Thiền Tông nhiều nhất!
Ngữ Lục của lịch đại tổ sư Thiền
Tông chiếm hết một nửa, bất cứ tông nào
cũng chẳng có văn tự nhiều bằng Thiền
Tông. Thiền Tông chẳng lập văn tự, mà có văn
tự nhiều hơn ai hết! Chư vị phải biết:
“Chẳng lập văn tự”
là nói không chấp trước văn tự; cũng
đừng chấp trước ngôn thuyết, ngôn thuyết
có hay không? Có! Đừng chấp trước! Đấy
chính là như thường nói: “Nghe
kinh phải hội quy tự tánh”. Hội quy tự tánh
là đừng chấp trước. Nếu quư vị chấp
trước, sẽ trái nghịch tự tánh. V́ sao? V́ trong tự
tánh, chẳng lập một pháp, tự tánh là tâm thanh tịnh.
Hễ quư vị có phân biệt, hễ có chấp trước,
tâm sẽ chẳng thanh tịnh, trong tâm sẽ nhuốm bụi
bặm. V́ thế, nói: “Pháp c̣n
nên bỏ, huống hồ phi pháp!”
Do vậy có thể
biết, giáo học Đại Thừa và giáo học Tiểu
Thừa đích xác là khác nhau. Tiểu Thừa dạy quư vị
phân biệt, chấp trước, Đại Thừa là ĺa
hết thảy phân biệt, chấp trước; nhưng
đúng là Đại Thừa tu học nhanh chóng, Tiểu Thừa
chẳng thể sánh bằng, [Đại Thừa] vượt
trỗi cảnh giới, thân tâm thanh tịnh. Tuy Đại
Thừa ở Trung Quốc chia thành tám tông phái, các tông các phái
có phương pháp tu học đều khác nhau, nhưng
nguyên lư như nhau, v́ có mục tiêu giống nhau, mục tiêu
đều là kiến tánh. Nguyên lư giống nhau, nhưng
phương pháp và cách thức thực hiện khác nhau, chúng
ta đều phải biết những điều này. Nếu
không biết, chúng ta chẳng thể nào có thành tựu trong một
đời này. V́ thế, hiện thời, người học
Phật đông đảo, nhưng người có thành tựu
ít ỏi, nguyên nhân ở chỗ nào? Không liễu giải
chân tướng sự thật này. Đại Thừa nhắm
đến mục tiêu kiến tánh, trong Chân Như bản
tánh chẳng lập một pháp. Lục Tổ kiến tánh,
câu đầu tiên bèn nói: “Nào ngờ
tự tánh, vốn tự thanh tịnh”. Câu này là câu đầu
tiên trong năm câu, câu đầu tiên là quan trọng nhất.
Bản tánh của quư vị vốn sẵn thanh tịnh. Nói
cách khác, nay chúng ta mê mất bản tánh; mê mất như thế
nào? Do tâm chẳng thanh tịnh. Nếu quư vị hiểu
nguyên lư này, chúng ta làm như thế nào th́ mới có thể
kiến tánh? Tâm thanh tịnh liền kiến tánh; tâm chẳng
thanh tịnh, quư vị chẳng thể nào kiến tánh.
Đọc
kinh có thể kiến tánh hay không? Đọc kinh mà không chấp
trước bèn kiến tánh. Nếu đọc kinh mà phân biệt
ư nghĩa trong kinh, sẽ chẳng thể kiến tánh. Quư vị
phân biệt ư nghĩa trong kinh, nói theo ở đây th́ là quư vị
cho rằng đức Phật có pháp để có thể
nói, đó gọi là “báng pháp”,
[v́ đă] hoàn toàn dùng ư nghĩ của chính ḿnh để suy
đoán ư nghĩa của Phật. Đức Phật có ư
nghĩ hay không? Nói thật ra, Phật không có ư nghĩ, chỉ
do quư vị suy đoán. Đức Phật thuyết pháp giống
như chúng ta gơ khánh. Hễ gơ khánh, ngay lập tức nó phát
ra tiếng. Quư vị nghe âm thanh ấy, bèn nghiên cứu rốt
cuộc là bước sóng âm thanh có độ dài bao nhiêu, âm
thanh dễ nghe cỡ nào, thời gian rung động bao lâu?
Đó là phân biệt hư vọng! Khi cái khánh ấy phát ra
tiếng, nó có phân biệt lắm thứ như vậy hay
không? Chẳng có! V́ thế, đức Phật nói kinh có
nghĩ ngợi ǵ hay không? Chẳng nghĩ ngợi ǵ! Đức
Phật nói kinh nhằm một mục đích quan trọng
nhất là đoạn tuyệt nghi hoặc và vọng tưởng
của quư vị. Nếu quư vị chẳng c̣n nghi hoặc,
vọng tưởng chẳng c̣n, Phật pháp cũng chẳng
có. Phật pháp được kiến lập tương
đối với quư vị. Ta có vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước th́ c̣n có Phật pháp. Ta không có
vọng tưởng, chấp trước, bèn chẳng có Phật
pháp. Phải hiểu điều này, đó là chân tướng
sự thật. Ta vĩnh viễn chấp trước có Phật,
có Pháp, được thôi! Quư vị vĩnh viễn là đối
lập, vĩnh viễn chẳng thể kiến tánh. Quư vị
có thành tựu, dẫu thành tựu cao đến mấy
đi nữa, cũng chẳng qua là Phật, Bồ Tát trong
Tiểu Giáo mà thôi.
Trong
Tiểu Giáo cũng có Phật, cũng có Bồ Tát, tông Thiên
Thai gọi [quả vị ấy] là Tạng Đầu Phật,
vị Phật ấy chưa kiến tánh. Vị Phật ấy
được gọi là Phật trong mười pháp giới,
[thuộc trong] mười pháp giới. Pháp Đại Thừa
vượt trỗi mười pháp giới, vượt thoát mười pháp giới.
Vượt thoát mười pháp giới là ǵ? Chẳng
có cách nào diễn tả, nên gọi là Nhất Chân pháp giới.
Nhất là thật, mười pháp giới là giả. Phật
trong mười pháp giới là giả, Bồ Tát [trong mười
pháp giới] cũng là giả, chẳng thật. Trong Nhất
Chân có Phật, Bồ Tát hay không? Chẳng có! Chẳng có Phật,
mà cũng chẳng có Bồ Tát. Không có Phật, chẳng có
chúng sanh, Nhất Chân mà! Trong Nhất Chân, thứ ǵ cũng
đều chẳng có, nó làm sao có thể kiến lập
được? Quư vị lập một pháp trong ấy là
sai mất rồi, chẳng thể lập một pháp! Do vậy
có thể biết, đích xác là Đại Thừa cao
hơn Tiểu Thừa rất nhiều! Tu học Đại
Thừa phải tu tập từ cái tâm thanh tịnh.
Trong thế hệ này, Phật môn chẳng có
bậc cao tăng đại đức xuất hiện, chẳng
bằng trước kia. Trước kia, đích xác là mỗi
đời thường có mấy vị. Thế hệ của
chúng ta chẳng có, nh́n về sau này càng thêm đau buồn,
nguyên nhân ở chỗ nào? Quan niệm phạm sai lầm! V́
hiện thời khoa học kỹ thuật phát triển, có
được các công cụ [để tra duyệt] kinh
điển rất dễ dàng. Nói thật ra, chuyện này
đă hại chết cả một thế hệ học Phật
trẻ tuổi. Trước đây, do thiếu thốn những
thứ ấy, thiếu thốn lại có lợi, họ có
được một bộ kinh rất khó khăn, nên suốt
đời có thể khăng khăng một mực học
một bộ kinh ấy. Hiện thời, rất dễ có
được Đại Tạng Kinh, họ mở miệng
liền nói “ta phát đại tâm, ta phải đọc Đại
Tạng!” Khi đọc Đại Tạng bèn coi phần
trước chẳng hiểu phần sau, coi phần sau quên
sạch phần trước, vừa coi vừa suy nghĩ
loạn xạ, vô dụng!
Trong quá
khứ, nhập Phật môn, phải học giới năm
năm. Học giới ǵ vậy? Trong năm năm tuân thủ
sự răn dạy của thầy. Bất luận tông nào
hay phái nào trong Đại Thừa, đều phải tuân thủ
điều này. Thầy dạy quư vị phương pháp, dạy
quư vị phải dụng công nơi phương pháp ấy
bao nhiêu năm, học tṛ thật sự nghe lời, sau khi
đổ công sức mấy năm bèn thật sự thành tựu.
Nếu chúng ta đọc kỹ các bộ ngữ lục
trong Thiền Tông, [sẽ thấy] tổ sư Thiền Tông
truyền pháp như thế nào? Dạy quư vị một
phương pháp tu hành, dạy quư vị tu bao nhiêu năm.
Người ấy tu thành công, hoát nhiên khai ngộ, xin thầy
ấn chứng. Thầy ấn chứng tức là truyền
pháp cho người ấy, truyền mà chẳng truyền,
chẳng truyền mà truyền! Nếu thầy hằng ngày
dạy quư vị th́ thôi rồi, dạy ǵ vậy? Những
ǵ quư vị hấp thụ, tiếp nhận là tri thức;
tri thức là những thứ ở trong cái tâm ư thức của
quư vị, chẳng liên quan đến Chân Như bản
tánh. Nói thật ra, dạy học kiểu đó sẽ
đoạn tuyệt Pháp Thân huệ mạng của chúng
sanh.
Mấy
năm gần đây mới có Phật Học Viện; vào
thời cổ, Trung Quốc không có Phật Học Viện.
Không có Phật Học Viện, bèn có thể xuất hiện
nhân tài thật sự. Có Phật Học Viện, bèn ngăn
lấp Pháp Thân huệ mạng của chúng sanh. V́ sao? Họ
dạy quư vị mỗi ngày sử dụng cái tâm ư thức,
dạy quư vị nghiên cứu hằng ngày, [tức là] dùng
tâm ư thức. Chẳng biết Đại Thừa Phật
pháp là ĺa tâm ư thức, sao lại có thể sử dụng
tâm ư thức? Quư vị xem Đại Thừa Khởi Tín Luận,
do chữ Đại Thừa Khởi Tín, bèn biết nó là Thỉ
Giáo, bắt đầu của Đại Thừa, dấy
lên ḷng tin. Khởi Tín Luận dạy chúng ta nghe pháp, đề
ra ba nguyên tắc: Ĺa tướng ngôn thuyết, ĺa tướng
văn tự, ĺa tướng tâm duyên. Ở đây, [sách Diễn
Nghĩa] đă nói hoàn toàn tương ứng [với ba
nguyên tắc ấy], chẳng dạy quư vị chấp
tướng! Nay chúng ta đọc kinh, nghiên cứu câu này
trong kinh giảng theo cách nào, đoạn này có ư nghĩa ǵ, tức
là trái nghịch cả ba điều kiện ấy, v́ sao?
Chấp tướng văn tự, chấp tướng ngôn
thuyết, lại c̣n chấp tướng tâm duyên. Tướng
tâm duyên là chính ḿnh nghiên cứu, suy nghĩ lung tung!
Giáo
học của Giáo Hạ trong thời cổ chẳng phải
thực hiện bằng cách nghe kinh! Giáo Hạ là trong
năm năm chẳng cho phép quư vị vào giảng
đường. Chưa đủ tư cách vào giảng
đường, sẽ chẳng cho phép quư vị nghe kinh.
Trước hết là đọc kinh, niệm suốt
năm năm. Niệm kinh suốt năm năm để
làm ǵ? Huấn luyện quư vị ĺa ngôn thuyết, ĺa văn
tự, ĺa tâm duyên. Nói cách khác, dùng phương pháp niệm
kinh để tu Định. Không niệm kinh, bèn dấy vọng
tưởng! Mỗi ngày, niệm kinh này từ đầu một
lượt. Trước đây, người ta chọn kinh
rất dài, v́ sao? Do thời gian [niệm kinh] dài, nên mỗi
ngày ít nhất có năm, sáu giờ không dấy vọng
tưởng, tâm định. Giáo Hạ dùng phương pháp
đọc kinh để tu Định, Thiền Tông dùng
phương pháp tham cứu, hoặc quán tâm để tu
Định, Mật Tông dùng phương pháp tŕ chú để
tu Định, Tịnh Độ Tông dùng phương pháp niệm
Phật để tu Định. Phương pháp khác nhau, mục
đích hoàn toàn giống nhau, đều là tu nhằm đạt
đến tâm thanh tịnh, đoạn trừ vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước. Dùng
phương pháp này nhằm mục đích đoạn trừ
hết thảy phân biệt, chấp trước, vọng
tưởng, khôi phục tâm thanh tịnh. Tâm địa
thanh tịnh bèn kiến tánh; hễ kiến tánh, bèn đột
nhiên xuyên suốt, Thiền Tông nói là “hoát nhiên đại ngộ”,
Giáo Hạ nói là “đại khai viên giải”, thông đạt
hết thảy các pháp. Có phải dạy hay không? Chẳng cần
dạy. Tam Tạng mười hai bộ kinh điển
thông đạt toàn bộ, v́ sao? V́ hết thảy các kinh do
đức Phật đă giảng đều do tự tánh
thanh tịnh tâm lưu lộ. Tâm chúng ta thanh tịnh giống
như tâm Phật, vô lượng vô biên pháp môn do Ngài đă
lưu lộ chính là tự tánh của chúng ta lưu lộ,
há có kinh nào chẳng hiểu mà c̣n phải nghiên cứu hay sao?
Chẳng cần nghiên cứu!
Tâm
Lục Tổ đại sư thanh tịnh, Ngài chưa từng
niệm kinh Pháp Hoa, nhưng thiền sư Pháp Đạt niệm
cho Ngài nghe. Kinh Pháp Hoa có tất cả hai mươi tám phẩm,
Sư niệm đến phẩm thứ hai, Lục Tổ
bảo: “Chẳng cần niệm nữa, ta đă biết
trọn vẹn rồi”. Bản lănh của Ngài quá lớn,
chẳng cần niệm, đă biết toàn bộ kinh ấy
rồi. Lại c̣n giảng giải cho Sư, Pháp Đạt
vừa nghe liền khai ngộ, nhờ vào đâu? Tâm thanh tịnh.
Những người học Phật hiện thời chẳng biết tu tâm thanh tịnh
là trọng yếu, coi nghiên cứu kinh điển là chuyện
trọng yếu; đó gọi là “gốc ngọn điên
đảo”, là kẻ đáng thương xót! Nhưng chúng
tôi khuyên họ, họ chẳng tin tưởng, nóng vội,
ham lợi, phạm phải căn bệnh ấy rất nặng!
Tịnh Độ Tông nói “nhất tâm bất loạn”, nhất
tâm là tâm thanh tịnh, nhất tâm là b́nh đẳng giác, thật
sự trọng yếu! V́ thế, phải thấu hiểu
kinh điển Phật pháp, chớ nên nghiên cứu. Thấu
hiểu là dùng cái tâm thanh tịnh, thấu hiểu, vừa
thấy liền hiểu rơ, vừa nghe liền hiểu rơ,
chẳng cần phải qua tư duy, chẳng cần phải
nghiên cứu. Đó là tự tánh của quư vị giác ngộ,
tự tánh khởi tác dụng. Hễ thông qua tư duy, liền
rớt vào thức thứ sáu, tức ư thức. Rớt vào
thức thứ sáu, tức ư thức, bèn là tà tri tà kiến.
Thanh
Lương đại sư nói: Niệm kinh Phật càng nhiều,
“tăng trưởng tà kiến”;
chẳng niệm, “tăng
trưởng vô minh”. Điều này có nghĩa là: Niệm
th́ vẫn phải niệm, nhưng phải biết
phương pháp, biết khiếu quyết[5].
Ngài Thanh Lương là tổ sư của tông Hoa Nghiêm, thuộc
về Giáo Hạ. Giáo Hạ dạy người ta niệm
kinh hằng ngày, nhưng niệm kinh chẳng mong hiểu
nghĩa, dùng phương pháp niệm kinh để tu cái tâm
thanh tịnh; đó là đúng. V́ thế, khi niệm kinh,
đă ĺa tà kiến, lại ĺa vô minh. Niệm kinh văn từ
đầu đến đuôi rành mạch, rơ ràng, từng chữ
phân minh, đó là phá vô minh. Tuy một mực niệm,
nhưng tâm địa thanh tịnh, chẳng có một vọng
niệm, đó là chẳng rớt vào tà kiến. Chẳng rớt
vào tà kiến, lại chẳng rơi vào vô minh; đó là tu
Trung Đạo, bí quyết đọc kinh là ở chỗ
này. V́ lẽ đó, đọc kinh là tu Định. Đọc
kinh là tu tâm thanh tịnh. Đọc kinh là tương ứng
với mười phương ba đời hết thảy
Như Lai, tâm tâm tương ứng với các Ngài. Trong ấy
có vô lượng vô biên công đức! Quư vị phải biết
đọc. Không biết đọc là hỏng, sẽ biến
việc đọc kinh thành nghiên cứu pháp thế gian.
“Vô pháp khả thuyết, thị
vi thuyết pháp. Sở vị vô thuyết, vô văn, thị
danh chân thuyết Bát Nhă” (Không có pháp nào để có thể
nói th́ là thuyết pháp. Đó gọi là không nói, không nghe bèn gọi
là thật sự nói Bát Nhă). “Vô
thuyết vô văn”: “Vô”
chẳng phải là không có. Ngài (đức Phật) thật
sự có nói, cũng có [các vị đệ tử] nghe,
nhưng đức Phật nói mà không nói, [các đệ tử]
nghe mà không nghe, không nghe mà nghe, hoàn toàn hội quy tự tánh,
trí huệ Bát Nhă hiện tiền. Nói thật ra, trong giảng
đường, giảng kinh và đọc kinh có nghĩa
thú tương đương. Chư vị nghe kinh ở
đây, nếu vận dụng ba nguyên tắc do Mă Minh Bồ
Tát đă nói trong Đại Thừa Khởi Tín Luận, tức
là quư vị tu hành trong một tiếng rưỡi này, tu ǵ?
Tu Bát Nhă, Bát Nhă chân chánh. Quư vị nghe kinh ở đây, chẳng
chấp trước tướng ngôn thuyết, chẳng chấp
trước tướng danh tự (danh từ, thuật ngữ),
chẳng chấp tướng tâm duyên, trong một tiếng
rưỡi đồng hồ ở đây, quư vị chẳng
khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt,
không chấp trước, đó gọi là “nghe mà không nghe”. Khi nghe như vậy, đôi khi ư
nghĩa bỗng dưng dâng trào, đó là ngộ xứ của
quư vị, quư vị trọn chẳng có phân biệt. Nghe kinh
và đọc kinh đều có ngộ xứ, chẳng phải
là ư nghĩ của chính chúng ta, mà ư nghĩa cứ tự
nhiên bật ra. Dẫu bật ra, cũng đừng quan tâm
tới, cũng chớ nên xét coi nó là chuyện như thế
nào, vẫn là quên nó đi, khôi phục tâm địa thanh tịnh.
Đôi khi nó dấy lên một bọt nước nhỏ, hoặc
cuộn sóng, mặc kệ nó, cứ khôi phục cái tâm thanh
tịnh như vậy. Đó là đúng! Đó gọi là
đạo tràng, là thật sự dụng công! Đó là thật
sự nói Bát Nhă, thật sự nghe Bát Nhă. Thỉ Giáo coi chuyện
này là Pháp Bảo.
(Diễn)
Tăng giả, phi dĩ thế phát vi Tăng. Kinh vân: “Tu
Đà Hoàn, danh vi Nhập Lưu, nhi vô sở nhập, năi chí
A La Hán, thật vô hữu pháp, danh A La Hán”. Diệc dĩ
như lư vi Tăng Bảo. Thỉ Giáo chi Tam Bảo dă.
(演) 僧 者,非 以 剃 髮 為
僧。經 云:須 陀 洹,名
為 入 流,而 無 所 入。乃
至 阿 羅 漢,實 無 有 法,名
阿 羅 漢。亦 以 如 理 為 僧
寶。始 教 之 三 寶 也。
(Diễn: Tăng: Chẳng
phải coi người cạo tóc bèn là Tăng. Kinh nói: “Tu
Đà Hoàn gọi là Nhập Lưu, nhưng không có ǵ để
nhập. Cho đến A La Hán, thật sự chẳng có
pháp, nên gọi là A La Hán”. Cũng lấy như Lư làm Tăng
Bảo. Đó là Tam Bảo của Thỉ Giáo).
Đại
Thừa Phật pháp nói đến Tăng Bảo th́ không nhất
định là người mang dáng vẻ xuống tóc bèn gọi
là Tăng Bảo. Nói cách khác, quư vị chẳng tương
ứng với lư Chân Như, sẽ chẳng thể gọi là
Tăng Bảo. Tương ứng với lư Chân Như, Lục
Ḥa sẽ viên măn, v́ sao? Lục Ḥa là Tánh Đức, người
đă kiến tánh th́ Lục Ḥa tự nhiên lưu lộ.
Chúng sanh chẳng ḥa với người ấy, nhưng
người ấy ḥa với chúng sanh. Chúng sanh vạch giới
hạn với người ấy, người ấy chẳng
vạch giới hạn cùng chúng sanh, người ấy ḥa.
Giống như bọt nước tan vỡ, mới biết
toàn thể biển cả là chính ḿnh. Người khác vạch
giới hạn, giống như trong nước biển trồi
lên một cái bọt nước, bọt nước ấy
là giới hạn. Người chẳng có bọt nước
có thể dung nạp kẻ ấy, nhưng kẻ ấy chẳng
thể dung nạp biển cả. Mười pháp giới
chưa chắc đă có thể ḥa với người ấy,
nhưng đối với mười pháp giới, người
ấy thảy đều có thể ḥa. Đó là Tăng Bảo
chân chánh.
Đức
Phật nói ra danh xưng của người khế nhập
cảnh giới này, th́ những danh xưng ấy đều
v́ chúng sanh có phân biệt, chấp trước mà nói, mà kiến
lập. Thánh nhân có chấp tướng hay không? Vị ấy
chứng quả Tu Đà Hoàn, có nghĩ chính ḿnh đă chứng
Sơ Quả hay không? Nếu Ngài nghĩ chính ḿnh đă chứng
Sơ Quả, chắc chắn là Ngài chẳng chứng. V́
sao? Chấp tướng! Tu Đà Hoàn đă phá Thân Kiến:
Nói cách khác, [hễ nghĩ] “ta chứng đắc Tu Đà
Hoàn”, tức là ta vẫn c̣n Thân Kiến, chưa phá! Tiểu
Thừa c̣n như thế, huống hồ Đại Thừa?
Trong pháp Đại Thừa, từ Sơ Trụ Bồ Tát
trở lên, hai thứ chấp trước Ngă và Pháp đều
đoạn, lấy đâu ra Bồ Tát, Phật, chúng sanh? Những
thứ ấy đều là tri kiến phàm phu, Ngài hoàn toàn
không có.
Các
Ngài đến nơi đây nhằm giáo hóa chúng sanh, tùy thuận
kiến giải của bọn phàm phu chúng ta mà kiến lập
những danh tướng sai biệt. Tuy kiến lập những
hiện tướng (tướng biến hiện) sai biệt
ấy, các Ngài có [những hiện tướng ấy] hay
không? Chẳng có! V́ thế, các Ngài chẳng nói mà nói. Quư vị
ngỡ là có nhiều tầng cấp như thế, nhưng
đối với các Ngài chẳng có tầng cấp. V́ không
có tầng cấp, nên gọi là Nhất Chân. Từ Viên Giáo
Sơ Trụ trở lên đều là Nhất Chân pháp giới,
chẳng có tầng cấp, chẳng có phân biệt, chấp
trước; nhưng xác thực là các Ngài c̣n có mức độ
cạn hay sâu. Tuy có cạn hay sâu, nhưng quyết định
là chẳng có chấp trước, nên pháp giới của
các Ngài được gọi là Nhất Chân, vượt lên
trên mười pháp giới. Nếu trong cuộc sống hằng
ngày, chúng ta có thể dần dần xem nhẹ những phân
biệt, chấp trước, sẽ khế nhập Nhất
Chân dễ dàng. V́ thế, chuyện ǵ cũng nên xem nhẹ một
chút th́ hơn, chớ nên quá riết róng! Phân biệt, chấp
trước càng nhạt càng hay, tâm địa càng thanh tịnh
càng tốt, tâm lượng càng lớn càng hay, v́ sao?
Tương ứng với tự tánh, càng gần gũi
hơn. Nếu nói nông cạn rơ ràng hơn, sẽ là: Càng gần
với tâm thanh tịnh th́ tâm càng thanh tịnh. Đó là Tam Bảo
của Thỉ Giáo.
Đối
với ngũ giáo, hôm nay chúng tôi giảng hai đoạn này,
[quư vị đă] thấy Đại Thừa và Tiểu Thừa
hiển nhiên khác nhau, một đằng là Không, một
đằng là Có. Ba loại tiếp theo sẽ dần dần
tiến đến viên dung. Viên dung th́ mới đắc
đại tự tại, Hoa Nghiêm là dung thông vô ngại, Tịnh
Độ cũng là dung thông vô ngại. Trong năm môn,
đó là một môn thù thắng nhất. Hôm nay chúng tôi giảng
tới chỗ này.
Tập
172
Xin xem A Di
Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bổn, trang ba
trăm sáu mươi sáu:
(Sao) Nhị giả hội Sự
quy Lư môn.
(鈔) 二 者 會 事 歸 理 門。
(Sao: Hai là môn quy Sự vào Lư).
Chúng
ta vẫn tiếp tục giới thiệu Biệt Tướng
trong Tam Bảo. Ước theo Ngũ Giáo để nói th́
môn thứ nhất là “lập sự
tựu nghĩa môn”. Hôm nay, chúng ta xem đoạn thứ
hai là Tam Bảo được nói theo “hội Sự quy Lư môn”.
(Diễn)
Phi tam thập nhị tướng chi Phật vi Phật. Bát
Nhă kinh vân: “Nhược dĩ sắc kiến ngă, dĩ âm
thanh cầu ngă, thị nhân hành tà đạo, bất năng
kiến Như Lai”. Hựu viết: “Nhược kiến
chư tướng phi tướng, tức kiến Như
Lai”. Hựu viết: “Như Lai giả, tức chư pháp
Như nghĩa”. Cố dĩ như Lư vi Phật Bảo.
(演) 非 三 十 二 相 之 佛 為
佛。般 若 經 云:若 以 色
見 我,以 音 聲 求 我,是
人 行 邪 道,不 能 見 如 來;又
曰:若 見 諸 相 非 相,即
見 如 來;又 曰:如 來 者,即
諸 法 如 義。故 以 如 理 為
佛 寶。
(Diễn: Chẳng phải vị Phật có ba mươi hai tướng
là Phật. Kinh Bát Nhă nói: “Nếu dùng Sắc thấy ta, dùng
âm thanh cầu ta, người ấy hành tà đạo, chẳng
thể thấy Như Lai”. Lại nói: “Nếu thấy các
tướng chẳng phải là tướng, tức là thấy
Như Lai”. Lại nói: “Như Lai là nghĩa Như của
các pháp”. V́ thế, lấy như Lư làm Phật Bảo).
Đoạn
trước là nói Tam Bảo theo phương diện sự
tướng, c̣n đoạn này hoàn toàn dựa theo Lư để
giảng về Tam Bảo. Xét theo Lư, Phật Bảo là tự
tánh giác, nên chẳng thể nh́n theo Tướng. Nhất
định phải ĺa tướng th́ mới có thể kiến
tánh, Tánh mới là Phật Bảo chân chánh. Kinh nói rất rơ
ràng, câu nào cũng đều nhằm dạy chúng ta ĺa
tướng: “Ly nhất thiết
tướng, tức nhất thiết pháp” (ĺa hết thảy
các tướng chính là hết thảy các pháp). Từ Sự
có thể hiểu rơ Lư được hiển thị bởi
Sự, đó là Phật Bảo, ở đây nói là Như Lư.
“Như” là Lư Thể của
Chân Như bản tánh.
(Diễn)
Pháp giả, phi dĩ văn tự vi Pháp. Kinh vân: “Hữu
pháp khả thuyết, danh vi báng pháp. Vô pháp khả thuyết,
thị vi thuyết pháp”. Sở vị vô thuyết, vô
văn, thị danh chân thuyết Bát Nhă. Thử dĩ như
Lư danh Pháp Bảo.
(演) 法 者,非 以 文 字 為 法。經 云:有 法 可 說,名 為 謗 法;無 法 可 說,是 為 說 法;所 謂 無 說 無 聞,是 名 真 說 般 若。此 以 如 理 名 法 寶。
(Diễn: Pháp: Chẳng
coi văn tự là Pháp. Kinh dạy: “Có pháp để có thể
nói th́ gọi là báng pháp. Không có pháp nào để có thể
nói bèn là thuyết pháp”. Đó gọi là không nói, không nghe bèn gọi
là thật sự nói Bát Nhă. Đấy là gọi như Lư là
Pháp Bảo).
Lư
là một. Nói theo Bổn Giác của Chân Như bản tánh,
nó (Bổn Giác) là Phật, Phật có nghĩa là Giác. Bổn
Giác là vốn sẵn giác ngộ. Pháp có nghĩa là “quỹ tŕ” (軌持), “quỹ” (軌) là quỹ đạo, “tŕ”
(持) là ǵn giữ. Nói theo cách hiện thời,
[Pháp] là quy luật. Tự tánh chẳng loạn, vốn sẵn
trọn đủ hết thảy các quy luật. V́ thế,
vũ trụ, cho đến lớn như thế giới,
nhỏ như vi trần, kết cấu của chúng đều
có quy luật. Hiện thời, khoa học kỹ thuật
phát triển, quan sát từ một vi trần, nó có bao nhiêu
điện tử, bao nhiêu hạt nhân đang vận hành
trong đó, đều có trật tự, chẳng lộn xộn.
Pháp là có trật tự, lớp lang, chẳng lộn xộn,
rối ren, lớn như các tinh cầu vận hành trong vũ
trụ cũng đều có quy tắc. Tự tánh vốn sẵn
có quy tắc, vốn chẳng rối loạn, những quy tắc
ấy được gọi là Pháp, đó là Pháp Bảo
trong tự tánh. Đức Phật nói hết thảy các
pháp, cũng đều phù hợp nguyên lư ấy. Đức
Phật nói bất luận nghĩa lư, hoặc sử dụng
ngôn ngữ và phương pháp cũng đều có thứ tự,
chẳng rối loạn. Trong tựa đề kinh, chúng ta
thường dùng chữ Kinh, nó có bốn ư nghĩa là Quán,
Nhiếp, Thường, Pháp. Nói theo cách hiện thời,
Quán, Nhiếp, Thường, Pháp hết sức phù hợp
điều kiện khoa học, nó có tầng lớp, có tŕnh
tự, quyết định chẳng rối loạn.
(Diễn)
Tăng giả, phi dĩ thế phát vi Tăng. Kinh vân: “Tu
Đà Hoàn, danh vi Nhập Lưu, nhi vô sở nhập, năi chí
A La Hán, thật vô hữu pháp, danh A La Hán”. Diệc dĩ
như Lư vi Tăng Bảo.
(演) 僧 者,非 以 剃 髮 為
僧。經 云:須 陀 洹,名
為 入 流,而 無 所 入。乃
至 阿 羅 漢,實 無 有 法,名
阿 羅 漢。亦 以 如 理 為 僧
寶。
(Diễn: Tăng: Chẳng
phải cạo tóc bèn là Tăng. Kinh nói: “Tu Đà Hoàn gọi
là Nhập Lưu, nhưng không có ǵ để nhập. Cho
đến A La Hán, thật sự chẳng có pháp nên gọi
là A La Hán”. Cũng lấy như Lư làm Tăng Bảo).
Tăng
Bảo, nói theo Lư là tự tánh ḥa hợp. Tự tánh vốn
ḥa hợp, vốn là thanh tịnh. Tăng có hai ư nghĩa, một
là thanh tịnh, hai là ư nghĩa ḥa hợp. Những điều
này đều vốn sẵn trọn đủ trong tự
tánh. Chúng ta thấy vạn pháp trong vũ trụ, nói như
hiện thời là “sinh thái tự nhiên”, sinh thái tự nhiên là
ḥa hợp. Hiện thời, sinh thái tự nhiên bị phá hoại,
do con người làm, chúng sanh phá hoại nó, nó vốn là ḥa
hợp. Từ Lư phát triển thành sự tướng, Sự
chẳng trái nghịch Lư, Lư chẳng trở ngại Sự,
Lư Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại. Chúng ta thường
thấy cục bộ, thấy một phần, chẳng thấy
toàn thể, nên cảm thấy chỗ nào cũng có trở
ngại, có chướng ngại, chẳng viên dung. Nếu
có thể thấy mười phương, thấy ba đời,
quư vị mới biết không có pháp nào chẳng viên dung, pháp
nào cũng đều viên dung. Tam Bảo xét theo Lư th́ đây
là Tam Bảo trong Thỉ Giáo. Thỉ Giáo là Đại Thừa
Không Tông. Đại Thừa khởi đầu bằng nhập
Không Môn.
(Sao)
Tam giả Lư Sự dung hiển môn.
(鈔) 三 者 理 事 融 顯 門。
(Sao:
Ba là môn Lư và Sự hiển lộ viên dung).
Cách
quan sát này thâm nhập hơn cách trước, càng sâu, càng gần
với chân tướng sự thật.
(Diễn)
Tuy vân sắc tướng bất thị Phật, âm thanh diệc
phục nhiên.
(演) 雖 云 色 相 不 是 佛,音 聲 亦 復 然。
(Diễn: Tuy nói “sắc
tướng chẳng phải là Phật”, âm thanh cũng giống như thế).
Sắc
tướng và âm thanh là lục căn, lục trần.
(Diễn)
Hựu vân: Diệc bất ly sắc thanh, kiến Phật
thần thông lực. Sở vị ư pháp bất thuyết
đoạn diệt tướng, danh viết Phật Bảo.
(演) 又 云:亦 不 離 色 聲,見 佛 神 通 力。所 謂 於 法 不 說 斷 滅 相,名 曰 佛 寶。
(Diễn: Lại nói:
“Cũng chẳng ĺa sắc, thanh, mà thấy sức thần
thông của Phật”. Đó gọi là đối với
pháp, chẳng nói đến tướng đoạn diệt,
nên gọi là Phật Bảo).
Trong
cách quan sát này, Lư và Sự đều có, v́ Lư chẳng thể
rời khỏi Sự để tồn tại độc
lập, Sự cũng chẳng thể rời khỏi Lư
để tồn tại đơn độc. Lư và Sự
là một chuyện, trọn chẳng phải là hai chuyện.
Hiện thời, chúng ta thường tăng thêm sự khó
khăn trong học tập, v́ đă tách rời Lư và Sự,
[cứ ngỡ] Lư chẳng phải là Sự, Sự chẳng
phải là Lư, phiền phức to lớn! Chẳng biết
Lư và Sự là một, không hai. Sự là Sự của Lư, là
tướng của Lư. Lư có h́nh trạng, h́nh trạng ấy
chính là tướng của Lư. Sự tướng đă là
tướng của Lư, Lư là Lư của Sự. Không có sự
tướng, chúng ta chẳng thấy Lư. Không có Lư, tuyệt
đối sẽ chẳng thể có sự tướng tồn
tại. V́ thế, chúng là cùng một chuyện, là hai mặt
trong và ngoài mà thôi. Do vậy, cũng chẳng thể tách rời
sắc tướng để thấy chân tánh. Chân Như bản
tánh ở chỗ nào? Chân Như bản tánh là sắc tướng.
Điều đáng tiếc là chúng ta đă tách rời Lư và Sự,
nên chẳng thấy Lư nơi tướng. Nếu ngày nào
đó, từ tướng mà thấy Lư, sẽ là “đại triệt đại
ngộ, minh tâm kiến tánh” như trong Phật môn đă
nói. “Kiến tánh” là thấy
được Tánh từ nơi Tướng. Cổ nhân có
tỷ dụ: Thấy vàng từ đồ vật, vàng ở
chỗ nào? Vàng là đồ vật, đồ vật là
vàng. Nếu nhất định nói: “Ta chẳng cần
đồ vật, ta muốn vàng”, đến đâu cũng
chẳng t́m thấy vàng! Cần vàng, chẳng cần đồ
vật cũng không được, mà cần đồ vật
chẳng cần vàng cũng không được luôn! Hai hạng
người trên đây, hạng thứ nhất thiên trọng
Sự, hạng thứ hai thiên trọng Lư, đều
chưa thể viên dung. Đến đây mới bắt
đầu viên dung, hiểu Lư và Sự là một, không hai. “Ư pháp bất thuyết đoạn
diệt tướng” (đối với pháp, chẳng
nói tướng đoạn diệt), xác thật là nó chỉ
có biến hóa, chẳng bị đoạn diệt.
(Diễn)
Tuy viết, văn tự tánh Không, danh tự diệc ly, hựu
bất ly văn tự, thuyết giải thoát tướng.
Dĩ văn tự tánh Không, tức Thật Tướng cố,
danh vi Pháp Bảo.
(演) 雖 曰,文 字 性 空,名
字 亦 離,又 不 離 文 字,說
解 脫 相。以 文 字 性 空,即
實 相 故,名 為 法 寶。
(Diễn: Tuy nói “tánh của
văn tự là Không, cũng ĺa danh tự”, lại chẳng
ĺa văn tự, nói tướng giải thoát. Do tánh của
văn tự là Không, tức là Thật Tướng, nên gọi
là Pháp Bảo).
“Danh tự” bao gồm ngôn ngữ,
văn tự. Nói thật ra, ngôn ngữ, văn tự là phù
hiệu. Nhất là văn tự tuy là phù hiệu, nhưng
tánh của nó vẫn là Chân Như bản tánh. Bất cứ
pháp nào cũng đều có thể tánh, tức là Chân Như
bản tánh, nên hết thảy vạn pháp có cùng một tánh
thể. Lục Tổ đại sư nói tánh thể ấy
“vốn chẳng có một vật,
chỗ nào nhuốm bụi bặm”. Tuy chẳng có một
vật, nó có thể biến hiện hết thảy vật
tướng (h́nh tướng của muôn vật). Tuy là “chẳng có một vật”, chẳng
thể nói nó là không có. Nói là nó không có, nó sẽ chẳng thể
biến hiện. Nó có thể biến, tuy là có thể biến,
cũng chẳng thể nói là Có. Nếu nói là Có, những thứ
nó biến ra đều chẳng tồn tại vĩnh hằng!
V́ lẽ đó, chúng ta nói là Diệu Hữu, [nghĩa là] giả
có, nhưng chẳng phải là thật sự có. Chân là Không,
Giả là Có. Chúng ta nói Diệu Hữu th́ Diệu Hữu là
giả hữu. Chân Không và Diệu Hữu là một, không
hai. Tuy nó biến hiện hết thảy sâm la vạn tượng,
nhưng bản thể của các tướng được
hiện ấy là Không. Nếu chư vị đọc kỹ
kinh Lăng Nghiêm, có thể lănh hội đôi chút nghĩa
thú, tất cả hết thảy vạn vật tuyệt
đối chẳng phải là chân thật. V́ sao? V́ chúng vô
ngại. Kinh Lăng Nghiêm hiển thị ư vị “Sự Sự
vô ngại” được nói trong kinh Hoa Nghiêm, Không và Có là một,
chẳng hai. Nếu là hai, chắc chắn có chướng
ngại. V́ chúng là một, nên chẳng có chướng ngại.
Nay
chúng ta thấy tất cả hết thảy vật tướng
đều chướng ngại, đích xác là do cảm nhận
sai lầm, trong Phật môn gọi điều này là “mê chứ
chẳng giác”, các khoa học gia hiện thời gọi [chuyện
này] là “cảm nhận sai lầm”. Nhiều đại khoa học
gia Tây phương cũng chứng minh chúng ta đă có cách nh́n
sai lầm đối với nhiều sự vật. Kinh
Lăng Nghiêm nói, cái mà chúng ta gọi là “vật thể”, giả
sử là có thật, th́ hiện thời, ở nơi
đây, nó nhất định phải chiếm hữu một
khoảng không gian. Chúng ta bỏ nó đi th́ không gian ở nơi
này đáng lẽ phải bị thiếu một khoảng,
v́ nó vừa mới chiếm hữu [khoảng không gian
đó], nay ta bỏ vật thể ấy đi, quư vị có
thấy không gian bị thiếu một khoảng hay không?
Hay là thấy một khoảng không gian khác dồn tới nơi
đây? Chẳng có! Nếu hiện tượng ấy chẳng
tồn tại, chứng tỏ Không và Có là một, không hai.
Nếu nó xác thực là Có, sau khi bỏ ra, hư không phải
nên thiếu mất một khoảng. Chúng ta bỏ một
thứ ǵ có thể tích vào nước, khi lấy ra, nó bị
thiếu một khoảng, nước chung quanh sẽ ùa vào
lấp đầy chỗ đó. Chúng ta dời vật thể
trên không trung th́ có thấy không gian bị lấp đầy
hay không? Có thấy bên này không gian bị ép dồn qua, bên kia
bị lấp đầy hay không? Chẳng có hiện tượng
ấy. Từ chỗ này chứng tỏ “Không chẳng khác Sắc, Sắc chẳng khác Không.
Không chính là Sắc, Sắc chính là Không” như Tâm Kinh
đă nói chính là sự thật ngàn vạn phần xác
đáng. Kinh Hoa Nghiêm nói “Lư Sự
vô ngại, Sự Sự vô ngại”, xác thực là như
thế. Nếu có thể thấu hiểu đạo lư này
đôi chút, sau này, nói đến thần thông diệu dụng
sẽ chẳng cảm thấy kỳ quái, [bởi lẽ], nói
theo Lư sẽ thông suốt.
(Diễn)
Tuy vân Dự Lưu phi Dự Lưu, La Hán phi La Hán, hựu bất
hoại tăng tướng. Thiện lai tỳ-kheo, tu phát tự
lạc, tức thành sa-môn, danh vi Tăng Bảo. Sự bất
ngại Lư, Lư bất ngại Sự, Sự Lư vô ngại, năi
Chung Giáo chi Tam Bảo dă.
(演) 雖 云 預 流 非 預 流,羅 漢 非 羅 漢,又 不 壞 僧 相。善 來 比 丘,鬚 髮 自 落,即 成 沙 門,名 為 僧 寶。事 不 礙 理,理 不 礙 事,事 理 無 礙,乃 終 教 之 三 寶 也。
(Diễn: Tuy nói Dự
Lưu chẳng phải là Dự Lưu, La Hán chẳng phải
là La Hán, lại chẳng hoại Tăng tướng. “Khéo
đến tỳ-kheo”, râu tóc tự rụng, liền thành
sa-môn th́ gọi là Tăng Bảo. Sự chẳng ngại
Lư, Lư chẳng ngại Sự, Lư Sự vô ngại, đó
chính là Tam Bảo trong Chung Giáo).
Đây
là giai đoạn cuối cùng trong Đại Thừa, minh
tâm kiến tánh. Không giống như Đại Thừa Thỉ
Giáo trong phần trên, [Chung Giáo] đă đạt đến
viên dung Trung Đạo tối hậu. V́ thế, Tam Bảo
sẽ được giải thích khác hẳn, Lư Sự vô
ngại. Bất luận là xét theo Sự hay Lư, Lư đă trọn
đủ giác, chánh, tịnh, Sự do Lư biến hiện, sự
tướng là Lư thể. Trên mặt sự tướng,
trong mỗi pháp, chẳng có một pháp nào chẳng trọn
đủ giác, chánh, tịnh, pháp nào cũng trọn đủ.
Lục Tổ nói: “Nào ngờ tự
tánh vốn trọn đủ”, chẳng có khiếm khuyết
mảy may! Tự tánh đă là trọn đủ, nơi hữu
t́nh chúng sanh [tự tánh] được gọi là Phật
Tánh, nơi vô t́nh chúng sanh được gọi là Pháp Tánh.
Phật Tánh và Pháp Tánh là một tánh, chẳng phải là hai
tánh. Phật Tánh trọn đủ giác, chánh, tịnh Tam Bảo,
lẽ đâu Pháp Tánh chẳng trọn đủ? Như vậy
th́ Lư và Sự mới có thể viên dung, Lư và Sự mới
có thể vô ngại. Nếu trong cuộc sống hằng
ngày, chúng ta có thể thời thời khắc khắc thấu
hiểu chỗ này, phiền năo, vọng tưởng nhất
định sẽ bị giảm thiểu. Tâm thanh tịnh,
giác tâm tất nhiên sẽ tăng trưởng. Giác tâm
tăng trưởng, chúng ta thường nói là “khai ngộ”,
thường có ngộ xứ, trong cuộc sống mới
có thể thật sự đạt đến sự vui
sướng chân thật, ĺa khổ được vui. Tất
cả hết thảy nỗi khổ đều sanh từ
mê hoặc, khổ chẳng phải là thật, lạc là thật.
Lạc ở đây chẳng phải là lạc trong khổ
lạc, lạc trong khổ lạc là từ khổ mà hiển
thị lạc, chẳng phải là lạc chân chánh, vẫn
là mê! Sau khi đă ngộ, bèn có chân lạc! Đoạn thứ
tư là Đốn Giáo Tam Bảo:
(Sao)
Tứ giả tuyệt tướng Lư thật môn.
(Diễn)
Nhất niệm bất sanh, tức danh Phật Bảo.
(鈔) 四 者 絕 相 理 實 門。
(演) 一 念 不 生,即 名 佛
寶。
(Sao:
Bốn là môn tuyệt tướng Lư thật.
Diễn:
Một niệm chẳng sanh bèn gọi là Phật Bảo).
Hoàn
toàn nói theo chân tánh Lư Thể. V́ sao “một niệm chẳng sanh” được gọi
là Phật Bảo? V́ một niệm chẳng sanh, Chánh Giác
hiện tiền. Chư vị phải hiểu: Niệm là
mê. Một niệm chẳng sanh là thuần giác, không mê. Hiện
thời, điều khó nhất đối với chúng ta là
chẳng thể ngừng vọng niệm được. Dẫu
chẳng có vọng niệm th́ thật ra vẫn là có một
vọng niệm, vọng niệm ǵ vậy? Chính là vọng
niệm “hết thảy vọng
niệm đều không có”, vọng niệm ấy là vô
minh, nên vẫn là bất giác. Giác tâm bất động! Phải
huấn luyện điều này; trong Phật môn, công phu huấn
luyện thường được nhắc đến nhất
chính là Thiền Định. Thiền Định chẳng
phải là trong tâm thứ ǵ cũng đều không có, chẳng
phải vậy! Thiền Định là hiểu rơ ràng,
nhưng như như bất động. Thiền Định
chẳng phải là nhắm mắt tham thiền, mà là mở
mắt tham thiền, nh́n thẳng xuống, [tầm nh́n
ngang] trái tai để tham, lục căn thấy cảnh giới
lục trần bên ngoài rành mạch. Thiền (Dhyana, Jhana) dịch
sang tiếng Hán là Tĩnh Lự, Lự (慮) có nghĩa là hiểu
rơ, thấy rơ ràng, nghe rơ ràng, lục căn tiếp xúc lục
trần, thứ ǵ cũng đều rơ ràng, nhưng như
như bất động. Ở trong cảnh giới,
người ấy chẳng khởi tâm, không động niệm,
chẳng phân biệt, không chấp trước, đó là
Định; gộp lại gọi là Thiền Định.
Kinh Kim Cang nói: “Bất thủ
ư tướng, như như bất động” (chẳng
giữ lấy tướng, như như chẳng động).
“Chẳng giữ lấy tướng”
là Thiền, “như như bất
động” là Định, nhất niệm bất sanh
là cảnh giới này. Thật sự đạt đến
một niệm chẳng sanh, không chỉ là hết thảy
các pháp trước mắt quư vị thảy đều hiểu
rơ, mà tận hư không khắp pháp giới, mười
phương, ba đời, không có ǵ chẳng hiểu rơ
ràng. V́ sao? Lục căn chẳng có chướng ngại, mắt
có thể thấy tận hư không khắp pháp giới,
không ǵ chẳng thấy, c̣n có thể thấy quá khứ, thấy
vị lai, thảy đều trông thấy, thời gian và
không gian bị phá tan. Hiện thời, thời gian và không
gian là chướng ngại rất lớn, chúng ta chẳng
thấy quá khứ, chẳng thấy vị lai. Thời gian
và không gian đều bị phá tan, hoàn toàn chẳng có
chướng ngại. Đối với năng lực nghe
của Nhĩ Căn, Chân Như bản tánh lớn cỡ
nào, năng lực của Nhĩ Căn to chừng ấy.
Năng lực ấy chẳng phải do tu được,
mà vốn sẵn là như vậy. Tự tánh của chúng ta
trọn hết hư không khắp pháp giới.
Kinh
Lăng Nghiêm nói: Hư không ở trong chân tâm của chúng ta
giống như một áng mây trong vũ trụ. Sánh ví vũ
trụ với Chân Như bản tánh, áng mây ví như hư
không. Chúng ta nói vạn hữu trong vũ trụ giống
như một áng mây, vũ trụ vốn được
bao gồm trong tâm chúng ta, có thể thấy tâm lượng
to cỡ nào! Kiến văn giác tri (thấy, nghe, hay, biết)
là tác dụng của tâm tánh, tác dụng ấy vốn to
như thế đó. Do điều này có thể biết, nay
năng lực ấy bị mất đi, tức là mê hoặc,
điên đảo. Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật
đă nói: “Chỉ v́ vọng
tưởng, chấp trước, mà chẳng thể chứng
đắc”. Do điều này có thể biết, đức
Phật dạy chúng ta tu học những ǵ? Đoạn vọng
tưởng, trừ chấp trước mà thôi. Ĺa khỏi
hết thảy vọng tưởng, chấp trước,
quư vị được gọi là Như Như Phật.
Như Như Phật tức là “quư vị vốn là Phật”.
Hiện thời, sở dĩ quư vị chẳng phải là
Phật, là v́ có vọng tưởng, chấp trước.
Cùng một đạo lư, nay chúng ta thứ ǵ cũng đều
bị chướng ngại, chướng ngại do đâu
mà có? Vọng tưởng, chấp trước. Ĺa khỏi
hết thảy vọng tưởng, chấp trước,
há có chướng ngại? Há chẳng phải là “Lư Sự vô ngại,
Sự Sự vô ngại” như
Hoa Nghiêm đă nói? Theo kinh Hoa Nghiêm, phương pháp tu hành của
Pháp Thân đại sĩ thường được gọi
là “lịch sự luyện tâm”
(trải qua sự việc để rèn luyện cái tâm), Sự
là ǵ? Cuộc sống! Năm mươi ba lần tham học
chính là nói đến cuộc sống, tức là luyện
ngay trong cuộc sống hằng ngày, luyện không chấp
tướng, luyện chẳng động tâm. Ngoài không chấp
tướng, trong chẳng động tâm. Năm
mươi ba lần tham học trong kinh Hoa Nghiêm nhằm luyện
những điều ấy. Trong hết thảy cảnh giới,
qua các buổi giảng, chúng tôi thường nói “tu điều
ǵ?” Tu tâm thanh tịnh, tu tâm b́nh đẳng, tu tâm từ bi. Trong cuộc sống hằng
ngày, qua xử sự, đăi người, tiếp vật, học
b́nh đẳng từ nơi tột bực bất b́nh
đẳng, tu thanh tịnh nơi tột bực bất
thanh tịnh, sau đấy, bèn tu tâm từ bi. Tâm từ bi
sanh từ nơi đâu? Từ bi sanh từ tâm thanh tịnh,
b́nh đẳng, bèn gọi là đại từ đại
bi, chẳng khác ǵ tâm của Phật, Bồ Tát. Từ Đại
Kinh, chúng ta thấy được chỗ trọng yếu
trong việc tu hành của người ta, [điều ấy]
đáng để chúng ta ghi nhớ, đáng cho chúng ta làm
theo. V́ thế, một niệm bất sanh là Chánh Giác hiện
tiền.
(Diễn)
Ngũ pháp tam tự tánh giai không, bát thức nhị vô ngă câu
khiển. Sở vị vô hữu Niết Bàn Phật, vô hữu
Phật Niết Bàn, nhược hữu, nhược vô, nhị
tất giai ly, năi Đốn Giáo chi Tam Bảo dă.
(演) 五 法 三 自 性 皆 空,八 識 二 無 我 俱 遣。所 謂 無 有 涅 槃 佛,無 有 佛 涅 槃,若 有 若 無,二 悉 皆 離,乃 頓 教 之 三 寶 也。
(Diễn: Năm pháp
và ba tự tánh đều là Không, tám thức và hai vô ngă[6] đều mất,
đó gọi là “chẳng có Phật nơi Niết Bàn, mà
cũng chẳng có Niết Bàn [được chứng
đắc] bởi Phật”. Dù có hay không, thảy đều
ĺa cả hai điều ấy, đó chính là Tam Bảo trong
Đốn Giáo vậy).
Mấy
câu này nhằm chú giải “nhất
niệm bất sanh”. Nhất niệm bất sanh là ǵ?
Không chỉ hết thảy vọng tưởng trong thế
gian này chẳng có, mà Phật pháp cũng không có. Có Phật
pháp th́ vẫn là có một niệm! Mới hiểu hết
thảy các pháp do đức Phật đă nói, “năm pháp, ba tự tánh, tám thức,
hai vô ngă” là nói đến toàn thể Phật pháp. Phật
pháp có thật hay không? Chẳng có thật! Phật pháp vốn
là giả hữu, v́ chúng sanh mê nên mới kiến lập.
Ngày nào chúng sanh đă giác ngộ, đă giác ngộ th́ chẳng
c̣n Phật pháp nữa! Đă giác ngộ mà vẫn c̣n chấp
trước có Phật pháp th́ lại mê mất rồi! Do
đó, pháp cũng chớ nên chấp trước. Kinh Kim
Cang nói rất hay: “Pháp thượng
ưng xả, hà huống phi pháp” (pháp c̣n nên bỏ, huống
ǵ phi pháp). “Pháp” là Phật
pháp, Phật pháp cũng chớ nên chấp trước.
Hiện
thời, có những kẻ học Phật rất khó
khăn, v́ sao? Họ có tập khí chấp trước quá nặng.
Pháp thế gian chẳng tốt, bảo người ấy
đừng chấp trước pháp thế gian. Bỏ pháp
thế gian, người ấy lại chấp trước
Phật pháp. Chẳng tham pháp thế gian, lại tham ái Phật
pháp. Quư vị nghĩ xem, tâm tham vẫn tăng trưởng
như cũ! Bất quá là thay đổi đề mục
mà thôi! Thay đổi đề mục có thể giải
quyết vấn đề hay không? Chẳng thể giải
quyết vấn đề! Tâm tham đọa trong ngạ quỷ
đạo, tham ái Phật pháp vẫn đọa trong ngạ
quỷ đạo. V́ tâm tham mà đọa ngạ quỷ, trọn
chẳng phải là nói quư vị tham ǵ! Trong ngạ quỷ
đạo, có đại phước đức quỷ, là
do tham Phật pháp mà bị như vậy. Trong loài quỷ,
có quỷ có phước báo to, cũng có quỷ có phước
báo nhỏ, tùy thuộc kẻ ấy tham điều ǵ? Kẻ
ấy tham hết thảy các ác pháp, bèn bị ác báo trong quỷ
đạo. Tham Phật pháp, bèn đắc thiện báo trong
quỷ đạo. Tuy đắc thiện báo, vẫn chẳng
ĺa khỏi thân quỷ, vẫn là quỷ, chư vị nhất
định phải hiểu rơ điều này! Chớ nên
tham ái Phật pháp. Chúng ta phải sử dụng Phật
pháp v́ chúng ta đang thuộc vào địa vị mê hoặc,
vẫn chưa khai ngộ, nhưng biết đấy là
công cụ giúp cho chúng ta vượt qua biển khổ đạt
tới bờ kia mà thôi. Công cụ th́ cần phải dùng, chớ
nên chấp trước, chớ nên tham luyến, điều
này rất khẩn yếu. Đoạn cuối cùng nói về
Viên Giáo:
(Sao) Ngũ giả, dung thông bất ngại
môn.
(鈔) 五 者 融 通 不 礙 門。
(Sao: Thứ năm là môn dung thông vô ngại).
Đây
là thật sự đắc đại tự tại, đắc
đại tự tại chân thật.
(Diễn)
Dĩ tiền tứ chủng, tiền thiển hậu thâm,
tiền bất nhiếp hậu, hậu bất nhiếp tiền.
(演) 以 前 四 種,前 淺 後 深,前 不 攝 後,後 不 攝 前。
(Diễn: Do trong bốn
loại trước, loại trước cạn, loại
sau sâu, nhưng loại trước chẳng nhiếp loại
sau, loại sau chẳng nhiếp loại trước).
Trong
bốn loại trước, loại thứ nhất nông cạn,
loại thứ hai khá sâu, loại thứ ba càng sâu hơn,
nên “tiền bất nhiếp hậu,
hậu bất nhiếp tiền”, có ư nghĩa sâu hay cạn
khác biệt, nhưng môn nào cũng đều chẳng viên
dung, chẳng nhiếp lẫn nhau. Viên Giáo chẳng phải
vậy. Viên Giáo th́ thứ lớp cạn sâu có thể dung hợp
cùng một chỗ, v́ sao? V́ những người [có căn
cơ tương ứng] với các loại trước
hăy c̣n có chấp trước. Loại người thuộc
môn thứ nhất chấp trước sự tướng.
Loại người thuộc môn thứ hai chấp trước
có Lư. Loại người thuộc môn thứ ba chấp
trước có Lư, có Sự. Lư và Sự chẳng thể viên
dung, chẳng thể vận dụng hết sức tự tại.
Đốn Giáo là đốn ngộ, vẫn là thiên chấp
nơi Không, thiên chấp Lư tánh, vẫn chưa thể viên
dung nơi Sự, nên chẳng thể vô ngại. Đến
Viên Giáo th́ mới là tự tại vô ngại.
(Diễn)
Kim tắc cử tiền kiêm hậu, cử hậu kiêm tiền.
(演) 今 則 舉 前 兼 後,舉 後 兼 前。
(Diễn:
Nay nêu lên địa vị trước bèn kiêm địa vị
sau, nêu lên địa vị sau bèn kiêm địa vị
trước).
Đây
là nghĩa thú dung thông, giáo nghĩa Hoa Nghiêm là như vậy.
Chứng đắc quả vị Sơ Trụ trong Viên
Giáo, trong pháp Đại Thừa gọi là Kiến Đạo
Vị, mới thấy Chân Như bản tánh. Vị ấy
có năng lực hiện thân tướng Phật để
độ hàng đại Bồ Tát. Trong kinh Lăng Nghiêm,
Quán Thế Âm Bồ Tát thị hiện làm Viên Giáo Sơ Trụ
Bồ Tát. Kinh văn chép: “Ưng
dĩ Phật thân nhi thuyết pháp giả, tựu hiện
Phật thân nhi độ thoát chi” (nên dùng thân Phật
để thuyết pháp bèn hiện thân Phật để
độ thoát). Nếu chẳng viên, làm sao có thể độ
được? Hiện thân Phật có thể độ
Đẳng Giác Bồ Tát, v́ sao Sơ Trụ Bồ Tát có thể
độ Đẳng Giác Bồ Tát? Địa vị thua
kém rất xa, nhưng Ngài chứng đắc địa vị
trước bèn lập tức kiêm những địa vị
sau đó. Chứng đắc Đẳng Giác th́ Đẳng
Giác vẫn tu pháp môn do Sơ Trụ Bồ Tát tu, trước
sau viên dung tự tại vô ngại! “Cử tiền kiêm hậu” (nêu địa vị
trước bèn kiêm địa vị sau), nêu lên Sơ Trụ
bèn kiêm [địa vị] Đẳng Giác ở đằng
sau. “Cử hậu kiêm tiền”,
[ư nói] nêu lên Đẳng Giác bèn kiêm Viên Giáo Sơ Trụ.
Không giống như trong những môn trước, địa
vị nào là địa vị nấy, chẳng thể kiêm
trước hay sau được. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Một chính là nhiều, nhiều
chính là một, một và nhiều vô ngại”. V́ thế, “một chứng, hết thảy
chứng; hết thảy chứng là một chứng”,
địa vị nào cũng đều là như thế.
Do vậy,
xét theo toàn thể những điều được nói
trong kinh Hoa Nghiêm, tuy trong đại kinh đă phân chia rất
rành mạch, có Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi
Hướng, Thập Địa, nhưng địa vị
nào cũng đều là trước sau dung nạp lẫn
nhau. Mỗi địa vị tuy nhấn mạnh tu một
pháp môn chủ yếu, nhưng trong pháp môn ấy đă nhiếp
trọn vẹn hết thảy các pháp môn. Ví như Viên Giáo
Sơ Trụ Bồ Tát, phàm là địa vị Sơ Trụ,
địa vị Sơ Hạnh, địa vị Sơ Hồi
Hướng, hay địa vị Sơ Địa, thảy
đều tu Bố Thí, bốn địa vị ấy
tương ứng với Thí Ba La Mật. Địa vị
thứ hai tu Tŕ Giới, địa vị thứ ba tu Nhẫn
Nhục, thảy đều là như vậy. Nhưng địa
vị nào cũng là trước sau dung nhiếp lẫn nhau,
trong Bố Thí có Tŕ Giới, có Nhẫn Nhục, cho đến
Nguyện, Lực, Trí [Ba La Mật] thảy đều có.
Đích xác là “một chính là hết
thảy, hết thảy chính là một”. Địa vị
nào cũng đều là như thế, từ kinh Hoa Nghiêm,
chúng ta thấy được cảnh giới này.
(Diễn)
Niêm nhất hành thảo tức trượng lục kim thân.
(演) 拈 一 莖 草 即 丈 六 金 身。
(Diễn: Nhón lấy
một nhánh cỏ chính là thân vàng trượng sáu).
Một
nhánh cỏ chẳng khác thân vàng trượng sáu, đó là
cách nh́n của Phật trong Viên Giáo. Kinh Hoa Nghiêm nói: “T́nh và vô t́nh, cùng viên măn Chủng
Trí”. Một nhánh cỏ là vô t́nh, thân vàng trượng sáu
là hữu t́nh, đều cùng viên măn Chủng Trí, có ǵ phân biệt?
“Lễ kính chư Phật”
trong mười đại nguyện vương được
thể hiện ở chỗ này. Dùng tâm chân thành cung kính
đối với Phật th́ đối với một
nhánh cỏ cũng là như thế. Sự lễ kính ấy,
kẻ b́nh phàm chẳng thể học được! Sự
lễ kính của Ngài là hết thảy cung kính, quyết
định chẳng có phân biệt, v́ t́nh và vô t́nh cùng viên
măn Chủng Trí. Kinh Hoa Nghiêm đă hiển thị: Người
tu hành chỉ có một ḿnh ta là học tṛ. Trừ ta ra, thảy
đều là chư Phật. Hữu t́nh là chư Phật,
mà vô t́nh vẫn là chư Phật. Phải dùng tâm thái ấy
để tu lễ kính, để tu xưng tán, để
tu cúng dường, cho đến hồi hướng trọn
khắp. Tâm hạnh của mười đại nguyện
Phổ Hiền là vô lượng vô biên, tuyệt đối
chẳng phải là phàm phu có thể làm được! Ở
đây, chúng ta lại thấy thuần túy là cảnh giới
Hoa Nghiêm.
(Diễn)
Phẫu nhất vi trần xuất đại thiên kinh quyển.
(演) 剖 一 微 塵 出 大 千 經 卷。
(Diễn:
Chẻ một vi trần để lấy ra kinh quyển
to bằng đại thiên thế giới).
Đây
là Pháp Bảo, phần trước là Phật Bảo. Pháp Bảo
cũng là chẳng có ngằn mé. Vi trần vô cùng bé, “đại thiên kinh quyển”
là kinh Hoa Nghiêm. V́ trong long cung, Long Thọ Bồ Tát thấy
kinh Hoa Nghiêm có phân lượng to cỡ nào? Mười tam
thiên đại thiên thế giới vi trần kệ, một
tứ thiên hạ vi trần phẩm. Nói thật ra, bộ
kinh ấy chính là kinh điển hoàn chỉnh do đức
Phật đă nói, nay ta gọi là Đại Tạng Kinh,
trong Phật pháp có danh xưng là Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh, đó chính là tổng đề mục,
hoặc tổng danh xưng của toàn thể các kinh. V́ thế,
nói hết thảy các kinh đều là quyến thuộc của
Hoa Nghiêm, đều là một phần nào đó của Hoa
Nghiêm, c̣n toàn thể là Đại Phương Quảng Phật
Hoa Nghiêm Kinh. Toàn thể Đại Tạng Kinh như chúng
ta thấy trong hiện thời c̣n thua kém quá xa, chẳng thể
sánh bằng! Kinh Tạng ở trong một vi trần, tức
là vô lượng vô biên kinh tạng do mười
phương Như Lai đă nói ở trong một vi trần.
(Diễn)
Phổ Hiền thân tướng nhược hư không.
(演) 普 賢 身 相 若 虛 空。
(Diễn:
Thân tướng của Phổ Hiền dường như hư
không).
Đây
là Tăng Bảo. Phật Bảo, Pháp Bảo, và Tăng Bảo
đều là tận hư không khắp pháp giới, Tam Bảo
đều xứng tánh, Lư Sự vô ngại, Sự Sự vô
ngại, Lư Sự bất nhị, Tánh Tướng bất nhị.
Đó là Tam Bảo nói theo Viên Giáo.
(Diễn)
Y chân nhi trụ phi quốc độ, nhất tức thị
đa, đa tức thị nhất, đầu đầu
thiệp nhập, sát sát viên thông, năi Viên Giáo chi Tam Bảo dă.
(演) 依 真 而 住 非 國 土,一 即 是 多,多 即 是 一,頭 頭 涉 入,剎 剎 圓 通,乃 圓 教 之 三 寶 也。
(Diễn: Nương
vào Chân mà trụ nơi chẳng phải là cơi nước, một
chính là nhiều, nhiều chính là một, pháp nào cũng tiến
nhập, cơi nước nào cũng viên thông, đấy chính
là Tam Bảo trong Viên Giáo vậy).
Nhà Phật thường nói: “Người căn cơ Viên Giáo thuyết pháp, chẳng
pháp nào không viên”. Phật pháp quyết định là b́nh
đẳng, v́ sao b́nh đẳng? Lư b́nh đẳng, tánh
b́nh đẳng, b́nh đẳng được kiến lập
ngay trên cơ sở này. Thật sự b́nh đẳng, v́
sao? Vốn chẳng có một vật, hễ có một vật
sẽ không b́nh đẳng. V́ nó chẳng có một vật,
nên b́nh đẳng. Thật sự chứng đắc b́nh
đẳng, nên mới gọi là “thành Phật”. Nói cách khác,
chia thành các cấp bậc Phật, Bồ Tát, La Hán v.v… là xét
theo mức độ tinh thuần về thanh tịnh
và sai biệt trong sự b́nh đẳng nơi cái tâm những
vị ấy. Tiếp cận cái tâm thanh tịnh, tâm b́nh
đẳng của Phật th́ là La Hán. Đă tiếp cận,
nhưng chưa thật sự b́nh đẳng, đă mấp
mé b́nh đẳng, bèn là La Hán, Bích Chi Phật. Thật sự
chứng đắc thanh tịnh, b́nh đẳng, nhưng
chưa đạt tới viên măn th́ là Bồ Tát. Thanh tịnh
b́nh đẳng đă đạt đến viên măn rốt
ráo th́ gọi là “thành Phật”.
Thành Phật th́ có Phật để có thể thành hay không?
Không có! V́ sao? Thiền Tông nói: Khôi phục bản lai diện
mục của quư vị mà thôi! Quư vị vốn sẵn là
Phật, c̣n thành vị Phật nào nữa? Vốn chẳng
phải là Phật th́ mới có thể thành Phật. Do vậy,
phải hiểu chân tướng sự thật này, v́ sao?
Sau khi đă hiểu, mới biết trong cuộc sống hằng
ngày, chúng ta tu bất luận pháp môn nào, bất luận sử
dụng công phu như thế nào, công phu sẽ đắc lực,
có thể tu pháp môn ấy chánh xác, chẳng bị lệch lạc,
quyết định là tu tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng,
tâm từ bi.
Vấn
đề quan trọng nhất trong tu học là quan niệm.
Có thể thường đọc tụng kinh điển
Đại Thừa viên đốn, rất hữu ích đối
với chúng ta. Nhà Phật thường nói năm loại
căn tánh: Tiểu, Thỉ, Chung, Đốn, Viên.
Đương nhiên, người căn tánh Viên Giáo là
đáng quư nhất, do đâu mà có người có căn tánh
viên đốn? Đương nhiên cũng do kinh điển
Viên Giáo huân tập mà có. Không hiểu những nguyên lư ấy,
quư vị sẽ tính toán, so đo chi ly nơi hết thảy
mọi sự, rất khổ! Quư vị hiểu nguyên lư ấy,
sẽ dần dần chẳng c̣n so đo. Tâm khai ư giải,
thật sự hữu ích to lớn cho sự tu học của
quư vị, dễ dàng trừ bỏ phân biệt, chấp
trước. Hiểu đạo lư này, biết chẳng phân
biệt, chẳng so đo là hợp lư. Có người
nghĩ “ta bị thua thiệt, bị kẻ khác chiếm tiện
nghi, ta chẳng cam ḷng”, v́ sao phải như vậy? Do kẻ
ấy chẳng hiểu những thứ chấp trước
là không hợp lư. Quư vị có thể bỏ sạch hết
thảy các vọng tưởng, chấp trước,
đó là thật sự hợp lư, tâm thanh tịnh là hợp
lư. Lư là tâm thanh tịnh, Lư là tâm b́nh đẳng. Hễ chẳng
thanh tịnh, chẳng b́nh đẳng, sẽ chẳng hợp
lư. Đó là lư viên thật nhất, lư chân thật nhất,
cũng là hoàn toàn dùng tiêu chuẩn tự tánh để nói.
(Sao)
Tuy tiền thiển hậu thâm.
(鈔) 雖 前 淺 後 深。
(Sao:
Tuy là trước cạn, sau sâu).
Giáo
nghĩa của ngũ giáo, tức Tiểu, Thỉ, Chung,
Đốn, Viên, những giáo trước là cạn, giáo sau
là sâu.
(Sao)
Nhi đồng quy nhất nguyên.
(鈔) 而 同 歸 一 原。
(Sao:
Nhưng cùng quy về một nguồn).
Một
nguồn là tự tánh. Thứ tự cạn hay sâu cũng tương
ứng với tự tánh mê, tương ứng với sự
chấp trước cạn hay sâu trong tự tánh mà phân
định, mà có sai biệt.
(Sao)
Quát kỳ đại ư, tắc tánh thể linh giác, chiếu
liễu chư pháp, danh vi Phật Bảo. Hằng sa Tánh
Đức, giai khả quỹ tŕ, danh vi Pháp Bảo. Tánh
Tướng bất nhị, minh hợp vô vi, danh vi Tăng Bảo,
tức xuất thế gian tối thượng Tam Bảo
dă.
(鈔) 括 其 大 意,則 性 體 靈 覺,照 了 諸 法,名 為 佛 寶。恆 沙 性 德,皆 可 軌 持,名 為 法 寶。性 相 不 二,冥 合 無 違,名 為 僧 寶。即 出 世 間 最 上 三 寶 也。
(Sao: Nói đại
lược bao quát th́ tánh thể linh giác, chiếu các pháp,
được gọi là Phật Bảo. Hằng sa Tánh
Đức, đều có thể giữ đúng nguyên lư, gọi
là Pháp Bảo. Tánh Tướng bất nhị, ngầm hợp
vô vi, gọi là Tăng Bảo. Đó chính là xuất thế
gian tối thượng Tam Bảo).
Đoạn
này gộp chung ngũ giáo trong các đoạn trước
để nói, thảy đều quy kết tự tánh, ở
đây giảng là Tự Tánh Tam Bảo. Chúng ta thường
nói “quy y Tam Bảo”, nhất
định phải lấy Tự Tánh Tam Bảo làm chỗ
quy y chân chánh. Ở đây, Tự Tánh Tam Bảo được
giảng rất đầy đủ, rất thấu triệt.
“Tánh thể linh giác, chiếu liễu
chư pháp”, hai câu này nói về Phật Bảo. Tiếp
đó, có chú giải.
(Diễn)
Phật giả giác dă. Chân tánh chi Thể linh linh bất muội,
liễu liễu thường tri, phổ chiếu chư
pháp, nhi vô Năng, Sở, tự tánh Phật dă.
(演) 佛 者 覺 也。真 性 之 體 靈 靈 不 昧,了 了 常 知,普 照 諸 法,而 無 能 所,自 性 佛 也。
(Diễn: Phật là giác. Thể của chân tánh linh thông, chẳng mê muội, thường biết rơ
rành rành, chiếu khắp các pháp, nhưng chẳng có Năng
và Sở. Đó là tự tánh Phật).
Cái
có thể biết (năng tri) và cái được biết
(sở tri) là một. Cái có thể chiếu (năng chiếu)
và cái được chiếu (sở chiếu) cũng là một.
Chuyện này rất khó hiểu, v́ trong quan niệm thông
thường: Cái có thể biết là tâm, cái được
biết là vật, tâm có biết, c̣n vật vô tri. Chúng ta
đối lập hữu tri và vô tri, năng tri và sở tri
là đối lập, vĩnh viễn chẳng thể hợp
thành một. Đó là chướng ngại, là mê. Từ
đầu đến cuối có Năng, Sở. Có Năng
và Sở là có đối lập, chẳng thể viên! Cảnh
giới không có Năng và Sở chẳng thể nghĩ bàn!
Chư vị nghĩ xem: Không có Năng và Sở, tận
hư không khắp giới và chính ḿnh biến thành một,
chính ḿnh và chính ḿnh sẽ chẳng có Năng, Sở, chính
ḿnh và người khác th́ c̣n có Năng, Sở. Chẳng biết
tận hư không khắp pháp giới là chính ḿnh! Chúng ta là kẻ
mê rất khó lănh hội điều này, từ vô lượng
kiếp tới nay mê trong cảnh giới này, làm sao biết
chân tướng sự thật này?
Chúng
tôi thường dùng mộng làm tỷ dụ, toàn thể cảnh
mộng có phải do một ḿnh ta biến ra hay không? Trong mộng
có chính ḿnh, mà cũng có người khác, cũng có hư
không, cũng có núi, sông, đại địa, toàn là do một
ḿnh ta biến ra. Nếu hoảng nhiên đại ngộ,
toàn thể cảnh mộng là chính ḿnh, tri kiến ấy liền
viên măn. Đức Phật dạy chân tướng sự thật
xác thực là như vậy, đó mới gọi là tự
giác chân chánh. V́ vậy, tận hư không khắp pháp giới
chẳng có ǵ không biết, không có ǵ chẳng giác ngộ, mới
thật sự hiểu rơ câu “t́nh
và vô t́nh, cùng viên măn Chủng Trí” trong kinh Hoa Nghiêm. Đó
là tánh thể linh giác. Thể là linh minh giác tri, cái được
hiện bởi Thể là hết thảy các h́nh tướng
muôn vật cũng là linh minh giác tri. Khi tâm địa của
chính ḿnh đạt đến “nhất niệm bất
sanh”, th́ trong tâm người khác khởi tâm động niệm
quư vị liền biết, v́ sao? Quư vị chẳng có
chướng ngại. Trong tâm người khác khởi tâm
động niệm, v́ sao ta biết? V́ người khác và
chính ḿnh là một, không hai, nguyên nhân là như thế đó!
Chính ta đă đạt nhất niệm bất sanh th́
người khác khởi tâm động niệm, làm sao ta có
thể biết chuyện của người ấy? Tự
và tha là một, chẳng hai. Chúng ta khởi tâm động
niệm ở đây, phàm phu không biết, tôi khởi ư niệm,
quư vị chẳng biết, quư vị khởi ư niệm, tôi
không biết, nhưng Phật, Bồ Tát đều biết.
V́ sao Phật, Bồ Tát đều biết? Giữa Phật,
Bồ Tát đă trừ chướng ngại, chẳng c̣n nữa.
Giữa chúng ta có chướng ngại, tôi chẳng phải
là quư vị, quư vị chẳng phải là tôi, đó là có
chướng ngại. Đă có chướng ngại, nên tôi
chẳng biết ư niệm của quư vị, quư vị chẳng
biết ư niệm của tôi. Khi chướng
ngại bị trừ khử, tận hư không khắp
pháp giới không có ǵ chẳng biết; không chỉ là ư niệm
của con người, ngay cả con kiến dấy lên một
niệm cũng biết, chẳng có chướng ngại;
đạo lư ở ngay chỗ này! Hiểu nguyên lư này, mới
biết Phật pháp chẳng phải là đàm huyền thuyết
diệu, chẳng có chuyện kỳ quái nào, mà xác thực là
có lư luận.
“Hằng sa Tánh Đức”: “Hằng sa” là tỷ dụ rất
nhiều, vô lượng vô biên. Đức là ǵ? Đức
là tác dụng, tức đức dụng, Chân Như bản
tánh khởi tác dụng, “giai khả
quỹ tŕ” (đều có thể vâng giữ đúng theo
nguyên lư). Chúng ta xem chú giải:
(Diễn)
Nhân phiên bỉ hằng sa phiền năo, hiển thử hằng
sa Tánh Đức, nhất nhất giai quỹ sanh vật giải,
nhậm tŕ tự tánh, tự tánh Pháp dă.
(演) 因 翻 彼 恆 沙 煩 惱,顯 此 恆 沙 性 德,一 一 皆 軌 生 物 解,任 持 自 性,自 性 法 也。
(Diễn: Do lật
đổ hằng sa phiền năo ấy, bèn hiển lộ hằng
sa Tánh Đức này, mỗi mỗi đều khiến cho
các chúng sanh có thể thấu hiểu các nguyên lư, tự nhiên
giữ ǵn tự tánh, đó là Tự Tánh Pháp).
Kinh
Đại Thừa thường nói “phiền năo tức Bồ Đề”. Bồ Đề
là Tánh Đức, phiền năo vẫn là Tánh Đức. Phiền
năo nhiều, chớ sợ, vấn đề ở chỗ
nào? Hễ chuyển được, [phiền năo] liền
biến thành Bồ Đề, Bồ Đề là trí huệ.
Có cần phải đoạn phiền năo hay không? Chẳng
cần đoạn! Nếu đoạn phiền năo, chẳng
phải là không c̣n Bồ Đề ư? Làm sao có thể
đoạn phiền năo cho được? Nói thật ra,
“đoạn phiền năo” là chuyển biến phiền năo,
biến phiền năo thành Bồ Đề, sau đó, chẳng
c̣n gọi là phiền năo nữa. Biến như thế nào?
Từ mê biến thành giác ngộ, đă giác bèn gọi là Bồ
Đề, c̣n mê th́ gọi là phiền năo. Khi mê, phiền năo
trùng trùng; lúc giác, trí huệ vô lượng, biến phiền
năo thành trí huệ. Có thể thấy là giữa mê và ngộ,
Phật pháp dạy chúng ta phá mê khai ngộ. Bất luận
quư vị đang ngộ hay mê, cho đến nói chi ly th́ mỗi
vọng niệm phát triển, đều có thứ lớp
và trật tự nhất định, chẳng bị rối
loạn.
Đức
Phật nói một niệm có sanh, trụ, dị, diệt; một
niệm hết sức ngắn ngủi, dẫu ngắn, nó
vẫn có bốn giai đoạn: Một niệm sanh ra,
ngưng trụ (tồn tại), biến hóa (dị), tiêu diệt,
có bốn hiện tượng ấy. Đó là “quỹ sanh vật giải”, (軌生物解), “quỹ”
là quỹ đạo, nay chúng ta nói là nguyên tắc, nó có phép tắc
nhất định, chúng ta có thể lư giải phép tắc ấy,
có thể hiểu rất rơ ràng, minh bạch. Ngài không dùng chữ
“nhân giải” (人解), mà dùng chữ “vật
giải” (物解). Nếu nói là “nhân”, sẽ là nhân đạo
trong mười pháp giới. Nói “vật”
th́ mười pháp giới đều bao gồm, kể cả
Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, Thiên, Tu La, Nhân, Ngạ
Quỷ, Địa Ngục, Súc Sanh, dùng một chữ Vật
bèn bao gồm trọn vẹn. “Vật”
có phạm vi to hơn Nhân, nay chúng ta nói là “sinh vật”. Hết
thảy sinh vật đều có thể lư giải, phạm
vi to lắm. “Nhậm tŕ tự
tánh” (任持自性),
Nhậm (任) là tự nhiên, [thường nói là]
“nhậm vận tự nhiên”
(任運自然), [“nhậm tŕ tự tánh” là] tự
nhiên giữ được phép tắc ấy. Đó là Pháp,
Pháp là có thứ tự, chẳng lộn xộn.
(Diễn)
Tánh tướng bất nhị, minh hợp vô vi giả, linh
giác chi Thể tức hằng sa Tánh Đức, hằng sa
Tánh Đức tức linh giác chi Thể, nhị nhi bất
nhị, tự tánh Tăng dă.
(演) 性 相 不 二、冥 合 無
違 者,靈 覺 之 體 即 恆 沙
性 德,恆 沙 性 德 即 靈 覺
之 體,二 而 不 二,自 性
僧 也。
(Diễn: “Tánh Tướng
bất nhị, ngầm hợp vô vi”: Thể của linh giác
chính là hằng sa Tánh Đức, hằng sa Tánh Đức tức
là Thể của linh giác, hai mà chẳng hai, chính là tự
tánh Tăng vậy).
Câu
này là nói quy nạp, tức là Tánh và Tướng bất nhị,
hoặc là Lư Sự bất nhị. Linh giác là Lư, Tánh Đức
là Sự, là Tướng. Tánh, Tướng, Lư, Sự là một,
chẳng hai, làm sao nó có thể xung đột cho được?
Quyết định là chẳng có xung đột, nhất
định là ḥa hợp. Biết nguyên lư này, chúng ta liền
biết vạn sự vạn pháp trong vũ trụ chẳng
bất ḥa. Nếu vạn pháp chẳng điều ḥa, quyết
định là mê mất tự tánh, nên mới chẳng
điều ḥa. Nếu chẳng mê tự tánh, mà giác tự
tánh, nhất định là điều ḥa. Căn cứ trên
quan niệm này, xác thực là có thể thống hợp vạn
pháp, có thể điều chỉnh những ǵ lệch khỏi
trật tự, Phật pháp được nói dựa trên
nguyên lư căn bản ấy. Giống như thế giới
hiện thời bị lạc mất thứ tự, nguyên
nhân ở chỗ nào? Trong thế gian tồn tại khá nhiều
thứ học thuyết và chủ nghĩa, những học
thuyết và chủ nghĩa ấy mâu thuẫn lẫn nhau,
chẳng thể điều ḥa, nên mới khiến cho thế
giới tranh chấp, đối lập, chiến tranh, thậm
chí hủy diệt, đều là do một niệm cảm
nhận sai lầm tạo thành. Chủ nghĩa Cộng Sản
và chủ nghĩa Tư Bản có thể điều ḥa hay
không? Quyết định là có thể, nói theo nguyên lư th́
được, xét theo Phật pháp, chúng có cùng một nguyên
lư, lẽ đâu chẳng thể điều ḥa! Chủ
nghĩa độc tài và chủ nghĩa dân chủ có thể
điều ḥa hay không? Quyết định là có thể
điều ḥa, không có lẽ nào chẳng thể điều
ḥa, hiểu rơ Lư sẽ dễ thực hiện. Phải làm
thế nào th́ sẽ có thể thể đạt đến
điều ḥa? Người Trung Quốc nói Trung, nói Ḥa, Phật
pháp nói Lục Ḥa Kính, vấn đề cốt lơi to lớn
là giáo dục, cũng là dạy dỗ. Nếu mọi
người hiểu đạo lư này, tự nhiên sẽ chẳnggiữ
chặt quan niệm như vậy,
sẽ chẳng chấp trước như vậy. Đă hiểu
rơ Lư, hiểu làm như vậy sẽ có lợi ích to lớn
cho chính ḿnh, mà cũng có lợi ích to lớn cho hết thảy
chúng sanh, tự lợi, lợi tha. Chấp trước kiên
cố là tự ḿnh diệt vong, mà cũng khiến cho kẻ
khác đau khổ.
Trong
quá khứ, đă có những ví dụ rất hiển nhiên.
Quân phiệt Nhật Bản, những người như Hy
Đặc Lặc (Hitler) của Đức, Mặc Tác Lư Ni
(Mussolini) [của phát-xít Ư] chấp trước kiên cố,
chẳng đầy mấy năm liền bại vong,
đem lại lắm nỗi tai nạn cho quốc gia lẫn
thế giới. Do nguyên nhân nào? Không hiểu rơ chân lư. Phật
pháp nói [họ phạm lỗi] “thiên
lậu chấp”, [nghĩa là] thiên kiến, thiển kiến
(tầm nh́n nông cạn, hẹp ḥi), cố chấp, căn bệnh
ở chỗ này. Do đó, Phật pháp là giáo dục, những
ǵ Khổng lăo phu tử đề xướng cũng là
giáo dục. Từ xưa tới nay, Trung Quốc đặc
biệt nhấn mạnh “kiến
quốc, quân dân, giáo học vi tiên” (xây dựng đất
nước, cai trị nhân dân, giáo dục làm đầu).
Giáo học khiến cho mọi người hiểu rơ Lư, hết
thảy mọi chuyện, hết thảy xung đột có
thể thương lượng, đều có thể
hướng đến Trung, Ḥa, đối xử ḥa thuận.
Những hiện tượng [nhiễu nhương] tại
Đài Loan trong hiện thời có gốc bệnh ở chỗ
nào? Vẫn do giáo dục gây ra. Tiên sinh Phương Đông Mỹ
đă nói về các hiện tượng xă hội, từ ba
mươi năm trước, cụ đă thấy rơ ràng,
cụ nói: “Chánh sách giáo dục của chúng ta sai lầm!” Thuở
ấy, chúng tôi nghe lăo nhân gia phân tích: Đài Loan là một
đảo quốc, tiểu đảo. Đất đai
chúng ta chỉ to ngần ấy, dân cư chỉ có chừng
ấy, chớ nên lập nhiều đại học như
thế. Theo quan niệm của lăo nhân gia, Đài Loan có hai
trường đại học là đủ rồi, v́
đại học nhằm bồi dưỡng người
tài năng, mà cũng là bồi dưỡng nhân tài quản
lư xă hội. Vị trí trong xă hội chỉ có chừng ấy,
mà ta bồi dưỡng người đông như thế,
mọi người lẽ nào chẳng tranh chấp! Mở
nhiều trường đại học, nhưng các vị
trí [quản trị trong xă hội] chỉ có chừng ấy,
bồi dưỡng cho cố vào, trong tương lai, mọi
người nhất định phải đánh nhau sứt
đầu vỡ trán, phải tranh chấp. Lăo nhân gia chủ
trương nên phát triển công nghiệp, hàng không, hàng hải,
khiến cho ai nấy đi theo con đường khoa học
kỹ thuật. Nếu thật sự giống như lư
tưởng của cụ, ba mươi năm sau, tức
hiện thời, chúng ta sẽ nổi trội trên thế giới,
là vương quốc về phi cơ trong ngành hàng không trên
toàn thế giới, chế tạo máy bay, tàu thủy, khiến
cho mọi người phát huy trí thông minh theo hướng
này, chẳng cần tranh chấp địa vị xă hội.
Tầm nh́n ấy rất tuyệt diệu, cho nên phải lập
ra nhiều trường dạy về hàng không, hàng hải,
chế tạo tàu thuyền, chế tạo máy bay, hướng
nghiệp kỹ thuật, phát triển công nghiệp. Do
đó, [mọi vấn đề hiện thời] vẫn là
do sự chỉ đạo sai lầm về mặt giáo dục.
Tinh túy của Phật pháp là chỉ dạy chánh xác, trong giáo
dục, đặc biệt nhấn mạnh giáo dục luân
lư. Mọi người đều có quan niệm luân lư, nhất
định là xă hội chẳng động loạn, ai nấy
yêu thương cha mẹ, yêu mến gia đ́nh, yêu mến
xóm giềng làng nước, sẽ v́ xă hội tạo
phước, tuyệt đối chẳng phá hoại xă hội.
V́ thế, giáo dục luân lư hết sức trọng yếu.
Đoạn dưới đây là nói đến sự tôn quư
[của Tam Bảo].
(Sao)
Tôn quư giả, Phật Lưỡng Túc Tôn, Pháp Ly Dục Tôn,
Tăng Chúng Trung Tôn, y chi tu hành tắc xuất tam giới,
thế gian trân trọng vô dữ vi ngũ, cố danh vi Bảo.
Thông Thư diệc vân, chí tôn giả đạo, chí quư giả
đức. Huống Tam Bảo đạo đức chi cực,
khởi bất xưng Bảo.
(鈔) 尊 貴 者,佛 兩 足 尊,法
離 欲 尊,僧 眾 中 尊,依
之 修 行 則 出 三 界,世 間
珍 重 無 與 為 伍,故 名 為
寶。通 書 亦 云,至 尊 者
道,至 貴 者 德。況 三 寶
道 德 之 極 ,豈 不 稱 寶。
(Sao: “Tôn quư”: Phật
là bậc Lưỡng Túc Tôn, Pháp là Ly Dục Tôn, Tăng là
Chúng Trung Tôn, nương theo đó tu hành ắt ra khỏi
tam giới. Thế gian trân trọng, không
có ǵ sánh bằng, nên gọi là Bảo. Sách Thông Thư
cũng nói: “Chí tôn là đạo, quư báu tột bậc là
đức”. Huống hồ Tam Bảo đạo đức
tột bậc, há chẳng đáng gọi là Bảo ư?)
“Bảo” (寶) có nghĩa là tôn quư. “Phật Lưỡng Túc Tôn”, Túc (足) là trọn đủ, Lưỡng (兩) chỉ trí huệ và phước đức. Như
Lai trí huệ viên măn, phước đức cũng viên măn,
nên gọi là Lưỡng Túc Tôn. “Pháp
Ly Dục Tôn”, Pháp là thanh lương, tự tại, Dục
(欲) là dục vọng. Tâm thanh tịnh,
tâm b́nh đẳng, tâm chuyên nhất, quyết định chẳng
có dục vọng. Đạo gia Trung Hoa nói: “Vô dục tắc cương” (không có dục vọng,
nên cao trỗi vượt bậc)[7]. “Tăng Chúng Trung Tôn”, trong hết
thảy các đoàn thể đại chúng, ḥa thuận là tôn
quư nhất. Cư xử trong đoàn thể phải ḥa, Nho
gia nói “lễ chi dụng, ḥa vi
quư” (vận dụng lễ tiết th́ điều quan trọng
nhất là phải ôn ḥa)[8]. Người và
người ở chung một chỗ, đối xử với
nhau, ḥa thuận là tôn quư nhất.
Tự
Tánh Tam Bảo, thật sự là nhằm dạy chúng ta,
đối với chính ḿnh bèn cầu trí huệ, cầu
phước đức, tu huệ, tu phước, thanh tịnh,
b́nh đẳng, đó mới là phước huệ chân
chánh. Người và người đối xử với
nhau ḥa thuận, chẳng tranh chấp, đó là Tự Tánh
Tam Bảo, đó là chỗ quy y thật sự của chúng
ta. “Y chi tu hành” [nghĩa là]
nương theo những điều này để tu sửa
hết thảy các hành tŕ sai lầm của chính ḿnh, lấy
những điều này làm tiêu chuẩn, uốn nắn những
hành vi sai lầm của chúng ta, như vậy th́ mới có
thể vượt thoát tam giới. “Thế gian trân trọng, vô dữ
vi ngũ”, [nghĩa là] trong pháp thế gian, không có ǵ thù thắng,
viên măn như vậy, nên mới gọi là Bảo.
Tiếp
đó, trích dẫn pháp thế gian để nói. Sách Thông
Thư[9]
trong pháp thế gian cũng nói: “Chí
tôn giả đạo, chí quư giả đức” (chí tôn là
đạo, quư báu tột bậc là đức), Tam Bảo
là đạo đức đạt tới tột đỉnh,
“khởi bất xưng Bảo”
(há chẳng gọi là Bảo)! “Bảo”
là tỷ dụ, là h́nh dung từ. Liên Tŕ đại sư giảng
đoạn này hết sức hay, chúng ta b́nh thường
nói đến Tam Bảo, rất ít ai giảng viên măn, thấu
triệt như vậy. Chúng ta thường nói “quy y”, rốt cuộc là dựa
vào ǵ? Nay mới hiểu được, trong cuộc sống
hằng ngày, chúng ta phải nương vào Tự Tánh Tam Bảo
của chính ḿnh để nghiêm túc tu học, hiển lộ
đức dụng của Tự Tánh Tam Bảo trong cuộc
sống hằng ngày của chính ḿnh, thật sự đạt
được sự thọ dụng do Tam Quy. Hôm nay chúng
tôi giảng tới chỗ này.
A Di Đà Kinh Sớ Sao
Diễn Nghĩa
Phần 86
hết
[1] Thật ra, trong Hán Tạng c̣n có một
loại A Hàm nữa, đôi khi được gọi là
Tiểu Bộ A Hàm (Kṣudraka Āgama). Trong bản
tiếng Hán, phần này được chia thành mười
lăm bản kinh (trong khi đó, theo truyền thống Nam
Tông, đây là mười lăm phần, tức là gồm
nhiều bản kinh hơn). Phần này tuy ngắn, nhưng
bao gồm các bản kinh khá nổi tiếng như Pháp Cú,
Nghĩa Thích, Bổn Sự, Bổn Sanh, Ngạ Quỷ
Sự, Thí Dụ Kinh, Phật Chủng Tánh Kinh, Sở Hành
Tạng Kinh v.v… Phật môn Trung Hoa do chịu ảnh
hưởng của Nhất Thiết Nghĩa Bộ
(Sarvāstivāda) chỉ công nhận Tứ A Hàm, coi
những kinh thuộc Tiểu Bộ là một phần
của Tăng Nhất A Hàm, trong khi các bộ phái như
Đàm Ma Cấp Đa Bộ (Pháp Tạng Bộ,
Dharmaguptaka), Hóa Địa Bộ (Mahīśāsaka)…
lại coi đây là một bộ loại riêng.
Trường phái Theravāda coi Tiểu Bộ A Hàm là
một phần A Hàm riêng biệt với danh xưng Khuddaka
Nikāya.
[2] “Hoại
sắc” tức là màu không thuộc về chánh sắc.
Chánh sắc là các màu đỏ, vàng, lam, trắng, đen.
Hoại sắc là các màu ấy được pha trộn
lẫn thành một màu hỗn hợp, không c̣n vẻ
tươi sáng ban đầu, hoặc thuần màu, chẳng
hạn y màu vàng bèn nhuộm thành màu vàng ủ dột,
giống như màu vàng nghệ xẫm hoặc đất
thó, không giữ vẻ tươi sáng như hiện
thời. Chính v́ vậy mà tăng nhân Trung Hoa thuở
trước thường mặc màu xám khói hương, màu
chàm, màu nâu, hoặc đen xẫm, ngay cả y vàng cũng
nhuộm xẫm vàng không ra vàng, đỏ không ra đỏ,
cam không ra cam.
[3] Thuận Tông là hoàng đế thứ
mười của nhà Đường, tên thật là Lư
Tụng (761-806), con trưởng của Đức Tông (Lư
Quát). Ông là người chăm lo việc nước,
tận lực trừ khử những tệ hại trong
thời Đức Tông, trọng dụng những vị
hiền thần như Liễu Tông Nguyên, Lưu Vũ Tích
v.v… giáng chức hoặc biếm truất các tham quan,
dẹp trừ bè phái hoạn quân, sử gọi công cuộc
cải cách này là Vĩnh Trinh Duy Tân. Tiếc rằng ông bị
trúng phong (stroke) á khẩu. Thừa dịp này bọn
hoạn quan quyền thần cầm đầu bởi Câu
Văn Trân cấu kết với các quyền thần và phiên
trấn bắt ông thoái vị, nhường ngôi cho thái Lư
Thuần (Đường Hiến Tông), đuổi các
hiền thần như Vương Hoài, Hàn Thái v.v… Ông mất
năm sau, có tin đồn ông bị bọn hoạn quan sát
hại.
[4] “Quang
phục” là từ ngữ thường được
dùng để chỉ thời điểm Trung Hoa thoát
khỏi ách xâm lược của Nhật Bản. Ở
đây, từ ngữ này được dùng để
chỉ thời điểm chính quyền Tưởng
Giới Thạch thất thủ Hoa Lục, chạy ra
Đài Loan, tái lập chính quyền Trung Hoa Dân Quốc
tại đó.
[5] Khiếu quyết: Bí quyết mấu
chốt của một việc ǵ đó.
[6] Ngũ Pháp là danh, tướng, phân
biệt, chánh trí và như như. Ba tự tánh là Biến
Kế Sở Chấp Tánh, Y Tha Khởi Tánh và Viên Thành
Thật Tánh. Hai vô ngă là Nhân Vô Ngă và Pháp Vô Ngă.
[7] Đây là một thành ngữ xuất phát
từ một đôi câu đối của Trịnh Bản
Kiều: “Hải nạp bách
xuyên, hữu dung năi đại. Bích lập thiên nhẫn, vô
dục tắc cương” (Biển dung nạp trăm
sông, do bao dung nên nó to lớn. Vách núi dựng ngàn dặm, do
chẳng có dục vọng nên nó cao chót
vót thành rặng). Sau này, từ ngữ “vô dục tắc cương” được
sử dụng với ư nghĩa: Người không có dục
vọng thế tục hèn kém th́ mới có thể đạt
đến tinh thần đại nghĩa lẫm liệt,
không ai sánh bằng.
[8] Chúng tôi dịch câu này theo lời
giảng của cụ Lư Bỉnh Nam trong Luận Ngữ
Giảng Yếu.
[9] Thông Thư (通書), c̣n gọi là Thông Thắng (通勝) là một loại
niên giám được xuất bản hằng năm
của người Hoa, nội dung chủ yếu là
liệt kê ngày tốt xấu Âm Lịch, sao hạn của
mỗi ngày, hành canh Thái Tuế, hướng tốt xấu,
những điều nên kiêng kỵ hằng ngày, cũng
như những điều nên làm như dọn nhà,
cưới hỏi, khai trương, mai táng, xuất hành,
nhận chức, cúng tế, may cắt, gọt tóc, xây
bếp, kê giường v.v… Thông Thư có nguồn gốc
từ Hoàng Lịch, và Thông Thư như hiện thời
dựa theo kiểu mẫu điển chế từ
đời Thanh. Đầu sách thường là Xuân Ngưu
Đồ (vẽ Mang Thần dẫn trâu, có ư nghĩa tiên
đoán mùa màng năm ấy), sao hạn Thái Tuế, cách tính
sao hạn, cách cúng sao hạn, giải mộng, giải
điềm như chim kêu vào lúc nào, máy mắt, bắp
thịt rung động v.v… (nghĩa là toàn thể những
tṛ bói toán mê tín của họ), đồng thời tập
hợp những cách ngôn, những phương thức bói
toán như cách tính hướng nhà, cách bói hương,
những thức ăn kỵ nhau v.v…