A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa

阿彌陀經疏鈔演義

Phần 91

Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Huệ Trang và Đức Phong

 

Tập 181

 

      Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang ba trăm bảy mươi tám:

      

(Sao) Nhất kích vong sở tri, cánh bất giả tu tŕ, động dung dương cổ lộ, bất đọa tiễu nhiên cơ.

() ,更 持,動 路,不 機。

(Sao: Vừa đụng bèn quên sạch sở tri, chẳng c̣n nhọc sức phải tu tŕ, hành vi, vẻ mặt phô đường cũ, chẳng đọa vào trong nẻo tịch vi).

 

      Đây là bài kệ do Ngài (thiền sư Hương Nham) đă nói khi khai ngộ, trong Thiền Tông gọi là “cơ phong” (機鋒). Khi công phu thành thục, gặp cơ duyên, đó là đại triệt đại ngộ. Từ chỗ này, chúng ta cũng hiểu: Ắt phải phá hai thứ chướng th́ mới thật sự triệt ngộ. Nếu Ngài vẫn c̣n có Sở Tri Chướng, sẽ chẳng có cách nào ngộ. Nói cách khác, trước kia, Ngài chẳng ngộ là v́ có Sở Tri Chướng. Hai thứ Phiền Năo Chướng và Sở Tri Chướng đều là đại chướng ngại, ắt phải ĺa bỏ hai thứ ấy. Phải phá Sở Tri Chướng như thế nào? Bí quyết là một chữ Vong (), quư vị có thể quên sạch những ǵ đă biết, đúng như kinh Bát Nhă đă nói là Vô Tri. Vô Tri bèn phá Sở Tri Chướng; Vô Đắc phá Phiền Năo Chướng. Tâm Kinh đến cuối cùng bèn nói “vô trí mà cũng vô đắc”, hai chướng ấy đều phá, nên liền chứng đắc viên măn Bát Nhă Ba La Mật. Nay chúng ta dụng công cách nào cũng chẳng thể nhập cảnh giới ấy là do chưa phá hai chướng. Không chỉ chẳng phá, mà hai chướng ấy đều tăng thêm theo thời gian. Đây là chuyện phiền phức to lớn, người tu hành hăy nên chú ư điều này. Dù là Tịnh Độ đới nghiệp văng sanh, hai thứ chướng ấy càng ít càng hay, đến Tây Phương sẽ tăng cao phẩm vị. Sau khi đă phá hai chướng, phương pháp dụng công sẽ hoàn toàn chẳng giống như chúng ta trong hiện thời. Chúng ta dụng công trong hiện tại là hữu tu, hữu chứng. Sau khi đă phá hai thứ chướng, bèn là vô tu, vô chứng. Chẳng chứng mà chứng, chứng mà chẳng chứng, chẳng tu mà tu, tu mà chẳng tu, nên “cánh bất giả tu tŕ” (chẳng c̣n nhọc sức phải tu tŕ).

 

      (Diễn) Cánh bất giả tu tŕ.

      () 持。

(Diễn: Chẳng c̣n nhọc sức phải tu tŕ).

 

      Không cần phải cậy vào tu tŕ nữa, tu hay chẳng tu? Vẫn tu y như cũ! Đại Thế Chí Bồ Tát đă đạt tới địa vị Đẳng Giác, cao minh hơn Hương Nham rất nhiều. Cảnh giới của Hương Nham là Sơ Trụ trong Viên Giáo, vừa mới nhập lưu (dự vào địa vị Pháp Thân đại sĩ), được gọi là “phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân”, ngài Hương Nham vừa mới đạt đến cảnh giới này. Đại Thế Chí Bồ Tát là Đẳng Giác Bồ Tát, cao hơn Sư (ngài Hương Nham) bốn mươi cấp bậc, Đại Thế Chí Bồ Tát có tu hay không? Vẫn là “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm nối tiếp”. Mỗi ngày, Ngài vẫn niệm một câu A Di Đà Phật, chẳng phải là không niệm. Tuy niệm câu A Di Đà Phật, Ngài niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm. V́ thế, “chẳng c̣n nhọc sức phải tu tŕ”.

 

      (Diễn) Sở vị: Tu chứng tức bất vô, nhiễm ô tức bất đắc.

() 無,染 得。

(Diễn: Đó gọi là: Chẳng phải là không có tu chứng, nhưng chẳng bị nhiễm ô).

 

      Hai câu này do thiền sư Hoài Nhượng thưa với Lục Tổ. Lục Tổ hỏi Sư: “Ông có c̣n tu hay không?” Có! “Tu chứng tức bất vô”, [ư nói] con c̣n có tu. Tuy tu, nhưng “nhiễm ô tức bất đắc”, đó là vô tu, chẳng giữ lại ấn tượng, tâm địa thanh tịnh. Nh́n từ bề ngoài, Sư có tu, nhưng nói theo bên trong, thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần, đúng là “vốn chẳng có một vật”. Thiền sư Hoài Nhượng nói lời ấy, Lục Tổ liền ấn chứng: “Như thị, như thị” (đúng như thế đấy), ông tu theo cách ấy, mà ta cũng tu theo cách ấy.

 

       (Diễn) Hựu tức sở vị, đoạn trừ vọng tưởng trùng tăng bệnh, thú hướng Chân Như diệc thị tà.

() 謂,斷 邪。

(Diễn: Lại chính là như thường nói: “Đoạn trừ vọng tưởng càng thêm bệnh, tiến đến Chân Như cũng vẫn tà”).

 

      Chư vị phải biết: Đă đạt tới cảnh giới ấy th́ mới có thể thốt lời này. Nếu chưa đạt đến cảnh giới ấy, quư vị muốn học theo kiểu này, sẽ chẳng được! Khi ấy, Kiến Tư phiền năo đều đoạn; nếu vẫn c̣n phải đoạn phiền năo th́ chẳng phải là có bệnh rồi sao? Giống như quư vị bị bệnh phải uống thuốc, đó là đúng. Bệnh đă lành mà lại uống thuốc, há chẳng phải là lại sanh bệnh ư? Chẳng có bệnh, uống thuốc vào, sẽ đổ bệnh ra, có ư nghĩa này! Nay chúng ta đang bị bệnh, cần phải uống thuốc; họ đă lành bệnh, nên chẳng cần uống thuốc, cảnh giới chẳng giống chúng ta! V́ thế, họ chẳng đoạn vọng tưởng, mà cũng chẳng cần cầu Chân! V́ sao? Đă thật sự chứng đắc. Đă chứng đắc Chân, mà c̣n lại cầu Chân, tức là trên cái Chân lại chồng thêm một cái Chân nữa, sai mất rồi! V́ thế, bậc Bồ Tát từ hàng kiến tánh trở lên, nếu thật sự c̣n có tu, c̣n có chứng, tức là sai lầm quá đỗi! Cảnh giới của các Ngài là vô trí mà cũng vô đắc, vô tu, vô chứng, đó là thật sự chứng đắc.

 

      (Diễn) Hựu tức sở vị, tùng kim dĩ hậu, bất nghi thiên, bất nghi địa dă.

       () 謂,從 也。

(Diễn: Lại chính là nói: “Từ nay trở đi, chẳng ngờ trời, chẳng ngờ đất”).

 

      Vạn pháp như nhau, vĩnh viễn đoạn nghi căn, đối với hết thảy các pháp đều chẳng hoài nghi. Không chỉ chẳng hoài nghi pháp thế gian, mà Phật pháp cũng không hoài nghi. Đối với hết thảy các kinh luận do hết thảy Như Lai đă nói, vô lượng pháp môn, rất nhiều tông phái, đều chẳng hoài nghi, v́ sao? Hiểu chúng vốn là một chuyện, thật sự dung thông, đă nhập cảnh giới ấy. Khi chưa nhập cảnh giới ấy, đích xác là có phiền năo, có chấp trước, có phân biệt. Đạt đến cảnh giới ấy, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thảy đều chẳng có, thật sự đắc đại tự tại.

 

      (Diễn) Động dung dương cổ lộ, động dung, tức động dung chu toàn, dương cổ lộ, vị phát huy diệu tánh, tức sở vị “tả hữu phùng nguyên”, bất tri thủ chi, vũ chi, túc chi, đạo chi dă.

() 路,動 容,即 旋,揚 路,謂 性;即 源,不 也。

(Diễn: “Động dung dương cổ lộ”. Động dung là hành động lẫn dung mạo đều trọn vẹn. “Dương cổ lộ” ư nói phát huy diệu tánh, tức là “đâu đâu cũng gặp nguồn”, chẳng biết hễ giơ tay lên múa th́ chân cũng nhịp bước theo).

 

      Đây là cuộc sống sau khi đă khai ngộ. Trước khi khai ngộ, cuộc sống rất khổ năo. Sau khi đă ngộ, cuộc sống khác hẳn. [Xét về] vũ trụ quan và nhân sinh quan, dẫu trong cuộc sống phải thù tiếp rất nhiều, luôn luôn là hết sức vui sướng. “Động” () là động tác, “dung” () là dung mạo, biểu hiện trong cuộc sống. “Dương” () là triển khai, nói như hiện thời là cởi mở. “Cổ lộ” (古路) là tỷ dụ, thường gọi là “cổ đạo” (古道: đường cũ), “cổ đạo” là ǵ? Từ quá khứ vô lượng kiếp đến nay, chư Phật, Bồ Tát đi theo con đường này, đó cũng là phương cách sống của chư Phật, Bồ Tát. Sư (ngài Hương Nham) cũng đă đạt được, chẳng khác ǵ cổ Phật thị hiện trong thế gian này, đó gọi là “du hư thần thông”. Nói kiểu này dễ hiểu, Ngài du hư thần thông trong thế gian này.

      Đây cũng là nói, trước khi ngộ, ngài Hương Nham là thân nghiệp báo giống hệt như chúng ta. Bị Quy Sơn đại sư hỏi vặn một câu, từ đầu đến cuối chẳng đáp được; đó là phàm phu. Ngài thiện căn, phước đức sâu dầy, nhân duyên lại tốt đẹp, gặp gỡ thiện tri thức thật sự, Ngài cũng thật sự chịu phát phẫn, thật sự chịu y giáo phụng hành, nên mới có ngày triệt ngộ. Những lư luận và phương pháp này, chẳng ít đồng tu đă biết, nhưng hiện thời khiếm khuyết công phu! Công phu khổ hạnh của ngài Hương Nham là một nhân tố khiến cho Ngài khai ngộ; nay chúng ta c̣n thiếu sót loại công phu ấy. Công phu ấy chính là thật sự hành, hành đến mức vong ngă, hành đến mức quên cảnh, Tịnh Tông thường nói là “thân, tâm, thế giới, hết thảy buông xuống”. Chẳng phải là bảo quư vị chẳng cần đến thân thể, chẳng cần đến thế giới. Chẳng phải vậy! [Mà là] trong tâm đừng nên vướng mắc thân, tâm, thế giới nữa! Đến khi quư vị chẳng có mảy may vướng mắc, khôi phục “vốn chẳng có một vật” như Lục Tổ đă nói th́ đúng, đó là cảnh giới của ngài Hương Nham. Vốn chẳng có một vật th́ Phiền Năo Chướng chẳng có, Sở Tri Chướng cũng chẳng có. Phiền Năo Chướng cũng là một vật, Sở Tri Chướng cũng là một vật. Thị phi, nhân ngă, hết thảy cảnh giới đều ở trong tâm, đều là một vật, thảy đều buông những thứ ấy xuống; sau đấy, quư vị mới xử sự, đăi người, tiếp vật sẽ là pháp hỷ sung măn, từ nội tâm sanh ra hỷ duyệt.

      Ở đây, nhắc tới cách nói của Thiền Tông: “Tả hữu phùng nguyên, đầu đầu thị đạo” (phải trái đều gặp nguồn, chuyện ǵ cũng là đạo)[1]. Chân Như bản tánh ở chỗ nào? Những cái được tiếp xúc bởi lục căn không ǵ chẳng phải là chân tánh, thấy Thể, Tướng, Dụng của chân tánh bày ra trước mặt chúng ta. Mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, thân thể tiếp xúc, toàn là Chân Như bản tánh, đó gọi là “minh tâm kiến tánh”. Người niệm Phật chúng ta gọi cảnh giới ấy là Lư nhất tâm bất loạn. Sự nhất tâm bất loạn là đắc Định, tức là những vọng tưởng, chấp trước ấy chẳng dấy lên hiện hành, chẳng khởi tác dụng, nhưng hoàn toàn chưa đoạn. Đạt đến Lư nhất tâm bất loạn, xác thực là chẳng có phiền năo, vọng tưởng, chấp trước hoàn toàn chẳng có, cũng chính là “nhất kích vong sở tri” (vừa đụng bèn quên sạch sở tri) như đang nói ở đây, chẳng có! Khi ấy, “tay múa, chân giẫm theo nhịp”, h́nh dung sự sung sướng, pháp hỷ sung măn.

 

      (Diễn) “Bất đọa tiễu nhiên cơ”: “Tiễu nhiên cơ”, vị hư vô tịch diệt, trạm nhập hợp trạm đẳng.

() 機,悄 機,謂 滅,湛 等。

(Diễn: “Bất đọa tiễu nhiên cơ”: “Tiễu nhiên cơ” là hư vô tịch diệt, lặng trong ứng hợp với lặng trong v.v…).

 

      Trong kinh luận Đại Thừa, đức Phật thường nói chuyện này. Chẳng hiểu, sẽ chấp trước các danh tướng do đức Phật đă nói, đọa lạc trong danh tướng. Ví như Tịnh Tông nói Lư nhất tâm bất loạn, quư vị [nghe nói như vậy], hằng ngày niệm Phật, vừa niệm vừa nghĩ măi đến Lư nhất tâm bất loạn: “Ta phải làm sao ḥng chứng đắc Lư nhất tâm bất loạn?” Đấy chính là quư vị đọa lạc trong danh tướng của Lư nhất tâm bất loạn, có thể đắc nhất tâm hay không? Chẳng thể! V́ quư vị có chướng ngại.

 

       (Diễn) Kim ư Niết Bàn thiên, dĩ đại minh ngộ, thập phương thế giới, cập dữ thân tâm như phệ lưu ly, nội ngoại minh triệt, cố bất đọa dă.

() 天,已 悟,十 界,及 心,如 璃,內 徹,故 也。

(Diễn: Nay đối với Niết Bàn thiên đă hiểu rất rơ ràng, mười phương thế giới và thân tâm như ngọc Phệ Lưu Ly[2], trong ngoài sáng tỏ, thấu suốt, nên chẳng đọa).

 

      Đây là thật sự khế nhập, cũng chính là như Khởi Tín Luận đă nói: “Ĺa tướng ngôn thuyết, ĺa tướng danh tự, ĺa tướng tâm duyên”. Tâm địa thật sự đạt đến thanh tịnh, hợp thành một với hết thảy vạn pháp. Giống như các ḍng nước từ sông ng̣i đổ vào biển cả, cùng với nước của trăm sông hợp thành một, đó mới là thật sự khế nhập. Nay chúng ta học Phật, chướng ngại lớn nhất là giới hạn. Vốn chẳng có giới hạn, giới hạn là do chính ḿnh vọng tưởng, chấp trước. Chính ḿnh nhất định phân biệt thị phi trong ấy, phân biệt ta và người, vạch ra lắm thứ giới hạn, tự kéo kén trói buộc ḿnh. Chẳng có ai trói buộc quư vị, mà do chính quư vị tạo tác. Chính quư vị chẳng phá tan giới hạn ấy, bất cứ ai cũng chẳng có cách nào giúp đỡ quư vị. Chư Phật, Bồ Tát không thể giúp chúng ta đoạn phiền năo, không thể giúp chúng ta phá chấp trước. Phá hết thảy phân biệt, vọng tưởng, chấp trước là chuyện thuộc về bổn phận của chính ḿnh. Người biết dụng công, sẽ dụng công nơi này; kẻ chẳng biết dụng công, sẽ dụng công nơi danh tướng hoặc dụng công nơi giáo điều, vô ích, chẳng có thành tựu! Thật sự có thành tựu th́ phải dụng công nơi tâm địa.

      Trong công phu nơi tâm địa, chúng ta là người tu Tịnh Tông, tôi đặc biệt nhắc nhở các đồng tu: Tâm thanh tịnh. Bất luận lúc nào, chỗ nào, thuận cảnh, nghịch cảnh, làm thế nào để có thể giữ cho tâm địa của chính ḿnh thanh tịnh, đó là đúng. Tâm địa mỗi năm một thanh tịnh hơn, mỗi tháng một thanh tịnh hơn, đó là “tiệm tu” (漸修: tu tập dần dần), dần dần đi theo phương hướng minh tâm kiến tánh, đi theo con đường ấy. Nếu tâm chúng ta chẳng thanh tịnh, chính ḿnh phải nghiêm túc phản tỉnh. Sở dĩ ông Viên Liễu Phàm vô cùng lỗi lạc, đáng cho kẻ khác tôn kính, là v́ ông ta thật sự chịu phản tỉnh. Ông ta biết khuyết điểm của bản thân, có thể sửa lỗi đổi mới, nên sửa đổi vận mạng có thành tích rơ rệt như vậy. Bản thân chúng ta có khuyết điểm mà không biết, người khác nói ra, chính ḿnh c̣n bào chữa, che giấu, rất tệ! Kinh Phật gọi hạng người như vậy là Nhất Xiển Đề. Nhất Xiển Đề là chẳng có thiện căn, tối thiểu là chẳng thể cứu trong một đời này. V́ thế, hổ thẹn là thiện căn chân thật trong Phật môn. Trong lời Sao, đại sư đă dùng lư luận ấy để suy luận.

 

      (Sao) Tắc diêm tiền thước táo.

      () 噪。

      (Sao: Chim khách hót trước mái hiên).

 

      “Diêm” () là mái hiên, “thước” là hỷ thước (喜鵲: chim khách), chim khách kêu trước mái hiên.

 

      (Sao) Dă ngoại tùng thanh, nhất văn, nhất dăng, nhất thảo, nhất diệp, mạc bất diễn dương diệu pháp, cổ phát đạo tâm, huống thanh tịnh Phật độ hồ?

() 野 外 松 聲,一 蚊 一 蠅,一 草 一 葉,莫 不 演 揚 妙 法,鼓 發 道 心,況 清 淨 佛 土 乎。

(Sao: Tiếng tùng ngoài đồng, một con muỗi, một con ruồi, một nhánh cỏ, một phiến lá, không ǵ chẳng diễn dương diệu pháp, cổ vũ, phát khởi đạo tâm, huống là cơi Phật thanh tịnh ư?)

 

      Bất cứ loại căn tánh rất nhạy bén nào, tu học đúng lư, đúng pháp ở trong thế giới này, cũng [sẽ thấy] lục trần thuyết pháp, huống hồ Tây Phương Cực Lạc thế giới! Trong đoạn dưới đây, đại sư giả lập một đoạn vấn đáp:

 

(Sao) Vấn: Giáo trung thánh thuyết pháp, thánh mặc nhiên, nhị bất thiên phế. Kim thủy, điểu, thụ lâm diễn pháp vô dĩ, tắc hữu động vô tĩnh.

() 問:教 法,聖 然,二 廢,今 已,則 靜。

(Sao: Hỏi: Trong giáo, [có khi] thánh nhân (Phật Thích Ca) thuyết pháp, [có lúc] thánh nhân im lặng, đối với cả hai điều ấy (thuyết pháp hoặc im lặng), Ngài chẳng riêng bỏ một điều nào! Nay nước, chim, rừng cây diễn pháp không ngớt, tức là [cơi Cực Lạc] luôn động, chẳng tĩnh).

 

      Giả thiết là có người nêu ra [câu hỏi] như vậy. Thuyết pháp, suốt ngày từ sáng đến tối đều thuyết như vậy, khi nghe cũng cảm thấy phiền. Tây Phương Cực Lạc thế giới thuyết pháp chưa hề gián đoạn, ngày đêm đều thuyết, lục trần đều thuyết, Phật cũng thuyết, Bồ Tát thuyết, hết thảy đều thuyết, đến chỗ ấy có đôi chút chẳng thể chịu đựng! V́ thế, nghĩ đến trong thế giới này, khi Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, có lúc Ngài thuyết pháp, có lúc Ngài im lặng, tức là có lúc chẳng nói, có lúc ngưng nghỉ, Ngài trọn chẳng phế bỏ riêng một điều nào trong hai t́nh trạng ấy. Nay thế giới Tây Phương thuyết pháp không ngừng nghỉ, chúng ta tới đó mong yên tĩnh một chút cũng chẳng được!

 

       (Sao) Đáp: Đại Bổn vân, “kỳ dục văn giả, triếp độc văn chi. Kỳ bất dục văn giả, triếp độc bất văn dă”. Tắc tịch dụng tùy tâm, tức động, tức tĩnh.

() 答:大 云,其 者,輒 之;其 者,輒 也。則 心,即 靜。

(Sao: Đáp: Kinh Đại Bổn nói: “Người muốn nghe liền lập tức nghe thấy. Kẻ chẳng muốn nghe bèn lập tức chẳng nghe”. Tức là tịch tĩnh hay động dụng tùy tâm, [do cái tâm của mỗi người] mà là động hay tĩnh).

 

      Kinh Vô Lượng Thọ nói rất rơ ràng. Do vậy có thể biết: Tây Phương Cực Lạc thế giới thuyết pháp giống như đài vô tuyến truyền thanh trong cơi này. Quư vị muốn nghe, bất cứ lúc nào vặn đúng băng tần sẽ nghe thấy. Chẳng muốn nghe, tắt đi là được rồi. Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng cần phải mở, tắt, bất cứ lúc nào muốn nghe kinh ǵ bèn có thể nghe kinh đó. Nghe mệt rồi, chẳng muốn nghe nữa, mong yên tĩnh, âm thanh ấy bèn chẳng có nữa. Khi nào lại muốn nghe, âm thanh lại đưa đến, khéo tiếp tục vừa đúng [chỗ đă ngưng lại] trong lần trước, chẳng sót đoạn nào. Mầu nhiệm thay! Thế giới ấy mới là một thế giới thật sự tốt đẹp.

 

      (Sớ) Xứng Lư, tắc tự tánh lư trí giao dung, thị phong thụ nghĩa.

      (Sao) Lư hàm vạn pháp như thụ, Trí châu pháp giới như phong. Trí dữ Lư minh, Lư tùy Trí hiển, nhiên nhi phong thụ các bất tương tri. Lư Trí nguyên vô nhị bổn, bách thiên chủng nhạc, bất thị phong tác, bất thị thụ tác, nhân giả tâm tác.

      (Diễn) Lư hàm vạn pháp như thụ giả, thụ hữu hàm tàng nghĩa, năng hàm chi diệp hoa quả cố. Lư hàm hằng sa công đức diệc nhiên, cố vân “đạo thụ” dă.

      () 理,則 融,是 義。

() 樹,智 風,智 冥,理 顯,然 知,理 本,百 樂,不 作,不 作,仁 作。

() 理 含 萬 法 如 樹 者,樹 有 含 藏 義,能 含 枝 葉 花 果 故,理 含 恆 沙 功 德 亦 然,故 云 道 樹 也。

      (Sớ: Xứng Lư th́ Lư và Trí trong tự tánh dung thông lẫn nhau, là ư nghĩa của gió và cây.

      Sao: Lư bao hàm vạn pháp như cây, Trí trọn khắp pháp giới như gió. Trí và Lư ngầm hợp, Lư nhờ Trí mà hiển lộ, nhưng gió và cây trọn chẳng biết nhau. Lư và Trí vốn chẳng có hai gốc, trăm ngàn thứ nhạc, chẳng phải do gió tấu lên, chẳng phải do cây phát ra tiếng, mà là do cái tâm của nhân giả tạo tác!

      Diễn: “Lư bao hàm vạn pháp như cây”: Cây có ư nghĩa bao hàm v́ có thể bao hàm cành, lá, hoa, quả. Lư bao hàm hằng sa công đức cũng giống như thế, v́ vậy nói là “cây đạo”).

 

      V́ cây có cành, nhánh, lá, hoa, quả, nên nói đến “cây” liền bao gồm cành, lá, hoa, quả. Sánh ví cây như Lư Thể, tức Chân Như lư thể. “Lư hàm hằng sa công đức diệc nhiên” (cũng giống như vậy, Lư bao hàm hằng sa công đức), giống hệt như cây. Trong Chân Như bản tánh, bao hàm vô lượng vô biên Tánh Đức, cây tuyệt đối chẳng thể sánh bằng, ngay cả cây nơi đạo tràng trong Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng chẳng thể sánh ví, chỉ có thể tỷ dụ phảng phất. “Cố vân đạo thụ dă” (nên nói là đạo thụ).

 

      (Diễn) Trí châu pháp giới như phong giả, phong hữu châu biến nghĩa, vô xứ bất đáo, cố vân: “Sắc vô biên cố, Bát Nhă diệc vô biên”.

() 者,風 義,無 到,故 邊。

(Diễn: Trí trọn khắp pháp giới như gió. Gió có ư nghĩa trọn khắp, không chỗ nào chẳng đến. V́ thế nói: “Do sắc vô biên, nên Bát Nhă cũng vô biên”).

 

      Lỗ hổng dù nhỏ tới đâu đi nữa, gió cũng có thể thổi lọt qua. Ở Đại Lục, kể từ mạn Bắc của Trường Giang trở lên, mùa Đông gió rất mạnh, “châm đại đích nhăn, đấu đại đích phong” (mắt to bằng cái kim, gió to bằng cái đấu). Trong quá khứ, nhà cửa tại Trung Quốc Đại Lục, cửa sổ chỉ dùng giấy để phất, chẳng có thủy tinh. Đâm thủng một lỗ nhỏ nơi giấy phất cửa sổ, gió rất mạnh liền thổi lọt qua. Gió được gọi là “không lỗ nào chẳng lọt”, không chỗ nào nó chẳng đến, nên có ư nghĩa trọn khắp. “Cố vân sắc vô biên, cố Bát Nhă diệc vô biên” (V́ vậy, nói: “Do Sắc vô biên, nên Bát Nhă cũng vô biên”). Sắc là nói đến sắc tướng, sắc tướng vô biên. Vô lượng vô biên cơi nước trong hư không pháp giới, đă có quốc độ, tất nhiên có gió. Gió do đâu mà có? Do tâm động mà có! Nếu tâm tưởng của chư vị chẳng động, sẽ chẳng có gió. Hễ động bèn có gió, nên động bèn gọi là gió.

 

      (Diễn) Trí dữ Lư minh giả, Như Trí khế Như Lư, như phong chi xuy thụ nhi vô tích.

() 者,如 ,如 蹟。

(Diễn: Trí và Lư ngầm hợp, Như Trí khế hợp Như Lư, như gió thổi cây chẳng có dấu vết).

 

      “Trí dữ Lư minh giả”, “minh” () có nghĩa là tương ứng, tương khế (khế hợp). “Như Trí khế Như Lư”: Trí như như khế hợp Lư như như. Lư và Trí là một không hai, giống như nước và sữa ḥa lẫn, chẳng thể tách rời đâu là sữa, đâu là nước. Nói thật ra, Lư là nói theo Thể, Trí là tác dụng của Thể. Nếu mê mất bản thể, nó sẽ khởi tác dụng là vọng tưởng, chấp trước, tức là chính ḿnh đă mê mất bản thể. Khi ngộ, nó có tác dụng là Trí như như. Trí như như là trí huệ Bát Nhă. Kế đó là tỷ dụ: “Như phong chi xuy thụ nhi vô tích” (như gió thổi qua cây chẳng có dấu vết). Chẳng có dấu vết, chẳng t́m thấy dấu vết.

 

      (Diễn) Lư tùy Trí hiển giả, như như Lư, nhân như như Trí phương hiển.

() 者,如 理,因 顯。

(Diễn: Lư do Trí mà hiển, Lư như như do Trí như như mới hiển lộ).

 

      Lư như như là Chân Như bản tánh. Nếu chẳng có Trí như như th́ Lư ấy, tức Chân Như bản tánh ở chỗ nào? Quư vị không biết, t́m không thấy. Có Trí như như, điều ǵ cũng là đạo, đâu đâu cũng gặp nguồn, chẳng có ǵ không phải [là đạo]. Chẳng nhập cảnh giới ấy, chắc chắn sẽ không thấy. Đối với người ta, thứ ǵ cũng là đạo, đối với chúng ta, thứ ǵ cũng chẳng phải là đạo. Người ta là đâu đâu đều gặp nguồn (thuận lợi), chúng ta là thứ ǵ cũng bị chướng ngại. Ngộ nhập sẽ là [cảnh giới] Lư Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại của Hoa Nghiêm. Chẳng ngộ nhập, chỗ nào cũng trở thành chướng ngại. Lục căn của chúng ta tiếp xúc cảnh giới bên ngoài, vừa tiếp xúc bèn sanh chướng ngại. Do đă mê bèn có chướng ngại, nẩy sanh phiền năo; hễ ngộ, vừa tiếp xúc bèn sanh trí huệ. Trong cuộc sống hằng ngày, trong tâm chúng ta thường sanh phiền năo. Lục Tổ thưa với Ngũ Tổ: “Trong tâm đệ tử thường sanh trí huệ”. Chúng ta thấy câu ấy rất hổ thẹn, chúng ta thường sanh phiền năo, người ta thường sanh trí huệ, lục căn tiếp xúc cảnh giới lục trần bèn sanh trí huệ. Cũng có nghĩa là, Ngài thật sự đạt đến “đâu đâu cũng gặp nguồn, chuyện ǵ cũng là đạo”. V́ thế, Lư như như nhờ vào Trí như như th́ mới có thể hiển lộ.

      

(Diễn) Như thụ chi nhân phong nhi hữu thanh, nhiên nhi phong bất tri thụ, thụ bất tri phong, phong thụ các trụ tự vị, sở vị “các các bất tương đáo, các các bất tương tri”.

() 如 樹 之 因 風 而 有 聲,然 而 風 不 知 樹,樹 不 知 風,風 樹 各 住 自 位,所 謂 各 各 不 相 到,各 各 不 相 知。

(Diễn: Như cây do gió mà có tiếng, nhưng gió chẳng biết cây, cây chẳng biết gió. Gió và cây mỗi thứ đều trụ trong vị trí của chính ḿnh, tức là mỗi thứ đều chẳng đến với nhau, đều chẳng biết tới nhau).

 

      Trong Pháp Hoa và Tam Luận, đức Phật đều nói đến ư nghĩa này.

 

      (Diễn) Hoa Nghiêm vân: “Thí như trường phong khởi, ngộ vật hàm cổ phiến, các các bất tương tri, nhất thiết pháp như thị”.

       () 云:譬 起,遇 扇,各 知,一 是。

      (Diễn: Kinh Hoa Nghiêm nói: “Ví như gió mạnh trỗi, gặp vật đều khua động, mỗi thứ chẳng biết nhau, hết thảy pháp như vậy”).

 

      “Cổ phiến” (鼓扇) là gió thổi đến nó, nó cũng có thể phát ra âm thanh. “Các các bất tương tri, nhất thiết pháp như thị” cũng chính là “chư pháp trụ pháp vị” như kinh Pháp Hoa đă nói, “chư pháp” là hết thảy các pháp, ai nấy đều tự ở đúng vị trí của ḿnh th́ gọi là “chư pháp trụ pháp vị”. “Thế gian tướng bất diệt”, [nghĩa là] tướng thế gian chẳng hoại, chẳng diệt. V́ sao? “Các các bất tương đáo, các các bất tương tri” (Các pháp chẳng đến nhau, các pháp chẳng biết nhau), hoàn toàn do trong Chân Như bản tánh biến hiện, tự tánh khởi tác dụng. Nếu chư vị nghe mà không hiểu rơ ư nghĩa này, chúng tôi nêu một tỷ dụ để quư vị hiểu đôi chút chân tướng này. Nay chúng ta xem TV, h́nh ảnh trên TV do từng đốm rất nhỏ (pixel) hợp thành h́nh tượng. Trong h́nh ảnh ấy, mỗi đốm sáng có vị trí riêng của nó, đốm sáng này chẳng lấn sang đốm sáng kia, đốm sáng kia cũng chẳng lấn sang đốm sáng này. “Các các bất tương tri” (mỗi mỗi đều chẳng biết): Bất luận h́nh ảnh biến như thế nào, chúng (các đốm sáng) vẫn chẳng biết đến nhau, mỗi đốm đều ở đúng vị trí của chính ḿnh, mà cũng chẳng có biến động tí nào, t́nh h́nh từa tựa như thế đó. Tận hư không khắp pháp giới, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới, sâm la vạn tượng hoàn toàn giống như nguyên lư này.

      Do đó, kinh nói “bất lai, bất khứ” (chẳng đến, chẳng đi) là thật, quư vị nghĩ “ta từ nhà đến giảng đường”, há có chuyện ấy! Quư vị ngỡ chính ḿnh từ nhà đến giảng đường, đó là mê, chẳng giác ngộ. Nếu quư vị giác ngộ, từ trong nhà cũng chẳng ra khỏi cửa, cũng chẳng rời khỏi giảng đường này, mầu nhiệm thay! Chân tướng là ǵ? Kinh Lăng Nghiêm đă dạy: “Đương xứ xuất sanh, tùy xứ diệt tận” (sanh ra từ nơi đâu, bèn diệt mất ngay nơi đó). Nếu quư vị chẳng thể thấu hiểu, hăy lại nghĩ đến màn h́nh trong máy TV, những h́nh ảnh đó “đương xứ xuất sanh, tùy xứ diệt tận”, “các các bất tương đáo, các các bất tương tri”, chuyện là như vậy đó. Quư vị có trí huệ th́ mới có thể thấy chân tướng. Chân tướng là bất sanh, bất diệt, chẳng đến, chẳng đi, chẳng nhơ, chẳng tịnh, nói toạc chân tướng của nhân sinh và vũ trụ. Toàn thể là diệu dụng của tự tánh, tận hư không khắp pháp giới là diệu dụng của tự tánh; v́ thế, mầu nhiệm đến tột bậc! Tạo ra một cái màn h́nh nho nhỏ, chúng ta đă thấy đẹp đẽ khôn xiết, vô cùng yêu thích. Tạo thành toàn thể vũ trụ to tát, há chẳng phải là càng kỳ diệu hơn ư? Chân tướng sự thật xác thực là như thế.

 

      (Diễn) Lư Trí diệc nhiên, Lư ngoại vô Trí, Trí ngoại vô Lư, Lư Trí diệc vô nhị bổn.

() 然,理 智,智 ,理 本。

(Diễn: Lư và Trí cũng thế, ngoài Lư chẳng có Trí, ngoài Trí chẳng có Lư. Lư và Trí cũng chẳng có hai gốc).

 

      “Lư Trí cũng chẳng có hai gốc”, là một, không hai. “Ngoài Lư không có Trí, ngoài Trí chẳng có Lư”, là một, không hai. Một là chân thật, nên gọi là Nhất Chân pháp giới. Khế nhập như thế nào? Khi nào quư vị niệm Phật đến mức Lư nhất tâm bất loạn sẽ nhập cảnh giới này, cảnh giới này là diệu cảnh do quư vị đích thân chứng nhập. Tuy đích thân chứng nhập, diệu cảnh vẫn ở trước mắt, trọn chẳng phải là ĺa khỏi trước mắt bèn có một cảnh giới khác xuất hiện, chẳng phải vậy! V́ thế, sau khi khế nhập, thấy núi vẫn là núi, thấy nước vẫn là nước. Nhưng khi ấy, sự thọ dụng trong tâm sai khác rất lớn, trước kia, thấy núi là núi, thấy nước là nước, nhưng có chướng ngại, chẳng tự tại, nay thấy núi là núi, thấy nước là nước, nhưng đắc đại tự tại, chẳng có chướng ngại mảy may.

 

      (Diễn) Nhiên các bất tương tri, phi thị ngôn kỳ nhị bổn, năi ngôn kỳ tự nhiên giao dung dă, hữu bất giả tạo tác, thiên nhiên dung hội ư.

() 知,非 本,乃 也,有 作,天 意。

(Diễn: Nhưng mỗi pháp chẳng biết nhau, chẳng phải là chúng có hai gốc [khác biệt], mà là nói chúng tự nhiên dung thông, chẳng cậy vào tạo tác, tức là nói theo ư nghĩa tự nhiên dung hội).

 

      Tuy mỗi pháp chẳng biết nhau, chẳng phải là nói chúng vốn là hai, v́ chúng vốn là một, không hai. “Năi ngôn kỳ tự nhiên giao dung dă, hữu bất giả tạo tác, thiên nhiên dung hội ư”, câu này rất quan trọng! Hiện thời, rất nhiều người tu hành gượng ép cho chúng dung thông, nhưng chẳng có cách nào, chẳng thể dung thông được! Nhất định phải xuất phát từ tự nhiên. Nay chúng ta nói thành lập một tăng đoàn, từ bốn người trở lên cùng tu Lục Ḥa Kính, miễn cưỡng ghép lại, đó là chẳng tự nhiên. Khi nào sẽ tự nhiên? Mọi người đều đạt được tâm thanh tịnh th́ sẽ tự nhiên; trong tâm chẳng có phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, đó là tự nhiên. C̣n có chấp trước, c̣n có phân biệt, sẽ là miễn cưỡng tụ hợp. Dẫu ở chung một chỗ, bản thân mỗi người đều phải kiềm chế chính ḿnh, chẳng tự nhiên. Nếu chư vị hiểu đạo lư này, mới hiểu v́ sao một tăng đoàn được chư Phật Như Lai hộ niệm, long thiên thiện thần ủng hộ? Bốn người ở chung với nhau [tâm thanh tịnh, cùng tu Lục Ḥa Kính], sẽ chẳng phải là phàm phu, mà là thánh nhân! Trong tâm ĺa khỏi hết thảy vọng tưởng, chấp trước, sẽ là thánh nhân, chẳng phải là phàm phu. V́ thế, trên là cảm ứng với chư Phật, Bồ Tát, dưới th́ cũng khởi cảm ứng với hết thảy rồng, trời, quỷ thần, đạo lư là như vậy đó. Miễn cưỡng học, sẽ học chẳng được!

      Phải học như thế nào? Phải học từ trong nội tâm, công phu nơi tâm địa. Ngay cả Liễu Phàm Tứ Huấn nói về chuyện sửa đổi vận mạng đều là cầu từ tâm địa. Cầu từ trong nội tâm, thật sự là trong ngoài đều đắc, chẳng có ǵ không đạt được. Trong cửa nhà Phật, có cầu ắt ứng. Cứ một mực hướng ra ngoài rong ruổi cầu t́m, sẽ chẳng t́m được. Dẫu có cầu được, cũng là do trong mạng đă có. Trong mạng chẳng có, cầu cách nào cũng chẳng cầu được. Người hiểu lư, người biết cầu, quyết định sẽ không cầu từ bên ngoài. Ngay cả tiếng tăm, lợi dưỡng, hưởng thụ ngũ dục lục trần trong thế gian, như thường nói “cầu phú quư được phú quư, cầu con cái được con cái”, đều phải cầu từ nội tâm, chẳng phải là cầu từ bên ngoài. Nguyên lư là Thể, Tướng, Dụng tuy ba mà một, là một chuyện, một mà ba, ba mà một, cho nên nó “tự nhiên giao dung, bất giả tạo tác” (tự nhiên dung thông, chẳng cần phải tạo tác).

 

      (Diễn) Như thử thuyết, phương dữ hạ cú “nguyên vô nhị bổn” hợp, “bách thiên chủng nhạc” hạ, hội quy nhất tâm.

() 說,方 合。百 下,會

(Diễn: Nói như vậy th́ mới phù hợp với câu “vốn chẳng có hai gốc” trong đoạn sau. Từ câu “trăm ngàn thứ nhạc” trở đi là gom về nhất tâm).

 

      “Lư Trí nguyên vô nhị bổn, bách thiên chủng nhạc, bất thị phong tác, bất thị thụ tác, nhân giả tâm tác” (Lư và Trí vốn chẳng có hai gốc, trăm ngàn loại nhạc chẳng phải do gió tấu, chẳng phải do cây phát ra, mà do cái tâm của nhân giả tạo tác). Thuở ấy, Lục Tổ đại sư ở chùa Quang Hiếu, gặp lúc ngài Ấn Tông đang giảng kinh Niết Bàn, gió thổi động lá phan. Có hai người đang tranh luận tại đó, một người nói là phan động, người kia nói là gió động, Tổ nghe xong liền bảo: “Chẳng phải là gió động, cũng chẳng phải là phan động, mà do tâm nhân giả động”. Do vậy có thể biết: Người khác thấy tướng, Lục Tổ thấy tánh. Theo tướng, sẽ chẳng thể giải quyết vấn đề, chỉ có xét theo tánh th́ mới có thể giải quyết vấn đề triệt để.

      Hiện thời, cả thế giới động loạn… Ai cũng đều chẳng có cách khống chế cục diện này, ổn định nó. Nói theo Phật pháp th́ đó là do “cộng nghiệp” của chúng sanh [cảm vời], Phật pháp có năng lực ổn định cục diện ấy hay không? Có! Tuy có, nhưng người ta chẳng tin tưởng th́ chẳng có cách nào cả! Chúng ta sống trong thời đại này, hiểu đạo lư Phật pháp, trước hết hăy ổn định chính ḿnh. Tâm mọi người đều động, tâm ta bất động. Bất động sẽ thấy rành rẽ tất cả các tướng động. Quư vị hiểu trong thời đại này, chính ḿnh phải nên sống như thế nào, tu hành ra sao, đối với cá nhân chúng ta mà nói, quyết định chẳng nẩy sanh chướng ngại. Đó là cái hay của Phật pháp. Nếu quư vị chẳng có năng lực này, toàn thể xă hội biến động sẽ gây trở ngại cho quư vị. Quư vị thật sự có công phu này, sẽ chẳng bị trở ngại.

      Lăo cư sĩ Vương Thiên Dân từng làm đoàn trưởng của Đài Bắc Liên Hữu Niệm Phật Đoàn. Cụ là trung tướng giải ngũ, là tham mưu trưởng của tư lệnh binh đoàn vào cuối thời kỳ Kháng Chiến, địa vị khá cao. Cụ kể với tôi một câu chuyện: Tại nơi họ đóng quân, có một lăo đạo sĩ có thần thông. Có lần, lăo đạo sĩ bảo bọn họ là ông ta thấy ở một nơi rất xa, có một cuộc chiến rất lớn, rất đáng sợ. Ông ta chỉ ra phương vị, khoảng cách bao xa, ông ta thấy được mà! Bọn họ là tướng lănh cao cấp, hiểu khá rơ t́nh h́nh chiến tranh trên cả thế giới, nghĩ không ra v́ sao nơi ấy có chiến tranh. Chẳng bao lâu sau, người Nhật đánh úp Trân Châu Cảng (Pearl Harbor), bọn họ mới vỡ lẽ: Trước khi chiến sự bộc phát tại Trân Châu Cảng ba tuần, lăo đạo sĩ đă trông thấy, chỉ ra phương vị, chỉ ra khoảng cách, thật sự có thần thông! C̣n có một lần, lăo đạo sĩ bảo họ: “Các Ngài hăy ngay lập tức chuyển chỗ, ba ngày sau, chỗ này sẽ bị lụt lớn”. Rất nhiều người không tin, chẳng có dấu hiệu chi hết, tiết trời trong trẻo, chẳng có mưa, làm sao có lụt to cho được? Kết quả là họ liền sai người theo dơi lăo đạo sĩ, v́ miếu của lăo đạo sĩ cách chỗ họ chẳng xa cho mấy. Họ thấy lăo đạo sĩ dọn đến chỗ cao hơn, họ cảm thấy cũng có lư đôi chút, bèn chuyển chỗ đóng quân. Tới ngày thứ ba, mưa to, lũ lụt bất ngờ bộc phát, chỗ ấy quả nhiên bị nước nhấn ch́m. Đưa ra cảnh cáo trước ba ngày, đích xác là có thần thông.

      Khi chánh phủ [Trung Hoa Dân Quốc] dời sang Đài Loan, lăo đạo sĩ khuyên họ: “Chỗ này sẽ có động loạn, các vị hăy qua Đài Loan”. Vương tiên sinh hỏi: “Ông có muốn đi theo chúng tôi hay không?” Lăo đạo sĩ đáp: “Tôi không cần đi, tôi ở đây không sao cả!” Thần thông, năng lực của vị đạo sĩ ấy từ trong Thiền Định mà có. Định có thể sanh ra thần thông, có phải do tu thành hay không? Chẳng phải do tu? Chẳng phải do tu, tâm địa thanh tịnh đạt đến một mức độ kha khá, năng lực ấy sẽ tự nhiên khôi phục, sẽ tự nhiên có. Thần thông hiện tiền, đích xác là có thể hướng lành, tránh dữ. Khi tai nạn xảy đến, bèn biết trước để có thể tránh né, tự nhiên người ấy có năng lực đó, phàm phu chúng ta chẳng thể biết.

 

      Tam, tổng kết nhị nghiêm.

     

      (Ba là tổng kết hai thứ trang nghiêm).

 

      Y báo và chánh báo, đó là hai thứ trang nghiêm.

 

      (Kinh) Xá Lợi Phất! Kỳ Phật quốc độ, thành tựu như thị công đức trang nghiêm.

      (Sớ) Kết thượng hóa cầm, phong thụ nhị chủng trang nghiêm.

       () 弗。其 土。成 嚴。

() 嚴。

      (Kinh: Này Xá Lợi Phất! Cơi nước Phật ấy thành tựu công đức trang nghiêm như thế.

      Sớ: Tổng kết hai thứ trang nghiêm là chim biến hóa và gió thổi qua cây báu được nói trong phần trước).

 

      Câu kinh văn này tổng kết [sự việc] chim biến hóa và gió thổi qua cây được nói trong phần trước. Hữu t́nh và vô t́nh thuyết pháp, hai thứ trang nghiêm.

 

       (Sớ) Giai bỉ Phật nhân địa nguyện hạnh công đức sở thành tựu dă; hựu biến hóa công đức, Đại Thừa công đức đẳng, tứ chủng thành tựu, như Luận trung thuyết tiền hậu công đức, phồn bất các hệ điều hạ.

() 也;又 德,大 等,四 就,如 德,繁 下。

      (Sớ: Đều do công đức nơi nguyện và hạnh của đức Phật khi tu nhân mà thành tựu. Lại do công đức biến hóa, công đức Đại Thừa v.v… bốn thứ [công đức] thành tựu, c̣n như trong [Văng Sanh] Luận đă nói các công đức trước và sau [bốn thứ công đức ấy], do rườm rà nên chẳng nêu rơ điều nào tương ứng với đoạn kinh văn nào).

 

      “Luận” là Văng Sanh Luận. Trước hết phải nói đến đại nguyện và đại hạnh của Phật Di Đà trong khi tu nhân. “Nguyện” là bốn mươi tám nguyện, “hạnh” là tu hành trong năm kiếp, chúng ta đă đọc những điều này từ kinh Vô Lượng Thọ.

 

      (Diễn) Tiền hậu công đức, phồn bất các hệ điều hạ giả, Thiên Thân tác Văng Sanh Luận dĩ thích thử kinh.

() 者,天 經。

(Diễn: “Các công đức trước và sau [bốn thứ công đức ấy], do rườm rà nên chẳng nêu rơ điều nào tương ứng với đoạn kinh văn nào”, ngài Thiên Thân soạn Văng Sanh Luận để giải thích kinh này).

 

       Văng Sanh Luận giải thích kinh A Di Đà và kinh Vô Lượng Thọ, v́ hai kinh ấy vốn là cùng một bổn. Ngài chú giải rất đơn giản, lời văn chẳng dài lắm, phần trước là kệ tụng, phần sau là trường hàng, “ngôn giản ư cai” ( 簡意賅), [tức là] ngôn ngữ đơn giản, ư nghĩa hết sức viên măn, nhưng người sơ học đọc Văng Sanh Luận vẫn thấy khá khó khăn. Dù xem bản Chú Giải của Đàm Loan đại sư, văn tự cũng khá sâu. Hiện thời, đối với kinh luận Tịnh Độ Tông, khế cơ nhất không ǵ bằng bản hội tập kinh Vô Lượng Thọ của cư sĩ Hạ Liên Cư. Văng Sanh Luận là báo cáo tâm đắc trong tu học của chính Thiên Thân Bồ Tát.

 

      (Diễn) Bỉ luận tụng trung, hữu thập thất chủng công đức thích thử kinh công đức trang nghiêm.

() 中,有 嚴。

(Diễn: Trong phần kệ tụng của luận tụng ấy, có nêu ra mười bảy thứ công đức để giải thích công đức trang nghiêm của kinh này).

 

      Từ hai kinh Đại Bổn và Tiểu Bổn, Ngài đă quy nạp vạn đức trang nghiêm của Tây Phương Cực Lạc thế giới thành mười bảy loại.

 

      (Diễn) Dĩ tụng đối kinh, tiền hậu giai minh hiển khả tri, cố bất phồn dẫn.

       () 經,前 知,故 引。

      (Diễn: Đem bài kệ tụng ấy đối chiếu với kinh th́ trước sau đều có thể nhận biết rơ ràng, nên chẳng cần trích dẫn rườm rà).

 

      Ở đây, Liên Tŕ đại sư tỉnh lược, chẳng đối chiếu từng điều trong mười bảy thứ công đức được nói trong Văng Sanh Luận với kinh này. Trong chú giải kinh Vô Lượng Thọ, lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ đă đem toàn bộ mười bảy thứ công đức trong Văng Sanh Luận đối chiếu với kinh, đối chiếu từng điều một.

 

       (Diễn) Độc thử kinh hóa cầm phong thụ nhị chủng trang nghiêm, dẫn đối bỉ tụng, biến hóa Đại Thừa đẳng tứ chủng công đức giả, dĩ bỉ tụng trung, khuyết Phật hóa tác cập vô ác đạo nhị nghĩa, cố kim đặc dẫn dĩ phát minh chi.

() 嚴,引 頌。變 者,以 中,缺 義,故 之。

      (Diễn: Chỉ riêng đối với hai thứ trang nghiêm trong kinh này là chim biến hóa và gió thổi qua cây là dẫn phần kệ tụng trong luận ấy để đối chiếu, [nhằm chỉ ra hai thứ trang nghiêm được nói ở đây] tương ứng với bốn thứ công đức như biến hóa, Đại Thừa v.v.., v́ luận ấy thiếu phần luận định về hai ư nghĩa “Phật biến hóa” và “chẳng có ác đạo”, nên nay đặc biệt dẫn ra để nêu rơ).

 

      Chúng ta xem đoạn Sao tiếp theo, sẽ thấy rất rơ ràng.

 

      (Sao) Nguyện sở thành giả, Đại Bổn Pháp Tạng nguyện vân: “Ngă tác Phật thời, ngă sát trung nhân, tùy kỳ chí nguyện sở dục văn giả, tự nhiên đắc văn”, cố điểu thụ giai thành diệu pháp âm dă.

() 者,大 云:我 時,我 人,隨 者,自 聞,故 也。

(Sao: “Do nguyện mà thành tựu”: Trong kinh Đại Bổn, ngài Pháp Tạng đă nguyện: “Khi tôi thành Phật, người trong cơi tôi, tùy theo chí nguyện muốn được nghe, sẽ tự nhiên được nghe”. V́ thế, chim và cây đều phát ra pháp âm mầu nhiệm).

 

      Nói rơ các loài chim, gió và cây trong Tây Phương Cực Lạc thế giới đều diễn pháp, là do công đức từ bổn nguyện của A Di Đà Phật tạo thành, phần kinh văn bốn mươi tám nguyện là căn cứ [cho nhận định này].

 

      (Sao) Hạnh sở thành giả, Đại Bổn nguyện hậu tu hành, như vân: “Thường dĩ ḥa nhan ái ngữ, nhiêu ích chúng sanh”.

       () 行 所 成 者,大 本 願 後 修 行,如 云:常 以 和 顏 愛 語,饒 益 眾 生。

(Sao: “Do hạnh mà thành tựu”: Theo kinh Đại Bổn, sau khi phát nguyện, [ngài Pháp Tạng] tu hành, kinh chép: “Thường dùng vẻ mặt hiền ḥa, lời nói mềm mỏng để tạo lợi ích cho chúng sanh”).

 

      Cổ nhân h́nh dung “ḥa nhan ái ngữ” như gió Xuân, như được hưởng gió Xuân. Gặp một vị thiện tri thức, hoặc một vị thầy tốt, thân cận họ, nghe họ giảng giải, dạy bảo, sẽ có cảm nhận như đang hưởng gió Xuân, có ư nghĩa ấy, lợi lạc chúng sanh.

 

(Sao) Thị dĩ đắc thành phong xuy lâm thụ, giai xuất diệu âm cố. Như vân: Ư Phật, Pháp, Tăng, tín trọng, cung kính, thị dĩ đắc thành chúng sanh văn giả, hàm niệm Tam Bảo cố.

() 樹,皆 故。如 云:於 僧,信 敬,是 者,咸 故。

(Sao: Do vậy, thành ra gió thổi qua rừng cây đều phát ra âm thanh mầu nhiệm. Như nói: “Đối với Phật, Pháp, Tăng, tin tưởng, tôn trọng, cung kính”. Do vậy, được thành: Chúng sanh nghe xong đều niệm Tam Bảo).

 

      Đoạn này nói về công đức được thành tựu bởi đại hạnh của A Di Đà Phật. Nguyện và hạnh đều dựa trên kinh Vô Lượng Thọ để nói, [kinh ấy nói] tường tận hơn những điều được nêu ra ở đây.

 

      (Sao) Biến hóa công đức giả, như Luận tụng vân.

       () 變 化 功 德 者,如 論 頌 云。

(Sao: “Biến hóa công đức” là như bài tụng trong Văng Sanh Luận đă nói).

 

      Trong Luận đă nêu ra mười bảy loại công đức, trong ấy có câu này (“biến hóa công đức”). Kệ tụng trong Văng Sanh Luận có nói:

 

      (Sao) Chủng chủng tạp sắc điểu, các các xuất nhă âm, văn giả niệm Tam Bảo, vong tướng nhập nhất tâm.

      () 鳥,各 音,聞 寶,忘 心。

      (Sao: Các thứ chim nhiều màu, đều hót tiếng ḥa nhă, người nghe niệm Tam Bảo, quên tướng, nhập nhất tâm).

 

      Những loài chim này do A Di Đà Phật biến hóa tạo ra. Luận nói như vậy là có căn cứ. Kinh Vô Lượng Thọ và kinh A Di Đà đều nói rất rơ ràng: Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có chim thật sự. Chim [b́nh phàm] thuộc về súc sanh đạo, c̣n những con chim này là do “A Di Đà Phật muốn cho pháp âm được tuyên lưu, nên biến tạo ra”. V́ thế, các con chim thuyết pháp chính là A Di Đà Phật thuyết pháp.

 

      (Sao) Đại Thừa công đức giả, như Luận tụng vân: “Đại Thừa thiện căn giới, đẳng vô cơ hiềm danh, nữ nhân cập căn khuyết, Nhị Thừa chủng bất sanh”, thị dă. Đẳng giả, đẳng hư không cập tánh dă.

() 者,如 云:大 界,等 名,女 缺,二 生,是 也;等 者,等 也。

 (Sao: “Công đức Đại Thừa”: Như bài kệ tụng trong Văng Sanh Luận có nói: “Giới thiện căn Đại Thừa, b́nh đẳng, không tên xấu, nữ nhân, và thiếu căn, tánh Nhị Thừa chẳng sanh” là ư này. “Đẳng” nghĩa là tánh như hư không).

 

      Văng Sanh Luận cũng có nói như vậy. “Đại Thừa thiện căn giới”. Chữ “đẳng” [trong câu “đẳng vô cơ hiềm danh”] có nghĩa là b́nh đẳng. Chẳng có những danh xưng đáng chê bai, ghét bỏ, “cơ hiềm danh” (譏嫌名: danh xưng đáng chê trách, bị ghét bỏ) chính là danh xưng ác đạo. Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh là những danh xưng ấy. Nghe danh xưng ấy, chúng ta đều chán ghét, không ưa thích. Thế giới Cực Lạc không chỉ chẳng có ba ác đạo, mà danh xưng ba ác đạo cũng chẳng có. “Nữ nhân cập căn khuyết” (nữ nhân và căn thiếu), “căn khuyết” là tàn tật. Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có nữ nhân, chẳng có kẻ tàn tật, cũng chẳng có Nhị Thừa (Thanh Văn, Duyên Giác). Câu này rất trọng yếu! Nói rơ Tây Phương Cực Lạc thế giới là một pháp giới thuần nhất Bồ Tát. Trừ phi quư vị chẳng văng sanh, chứ đă văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, đều là Bồ Tát. Chúng ta đă thấy kinh Vô Lượng Thọ nhiều lần đề cập, trong bốn mươi tám nguyện cũng nói rơ ràng, thế giới ấy xác thực là Nhất Chân pháp giới. Kinh lại c̣n nhiều lượt nói rơ, người bên ấy “hàm cộng tuân tu Phổ Hiền đại sĩ chi đức” (đều cùng tuân hành tu tập đức của Phổ Hiền đại sĩ). Nói cách khác, trong thế giới Cực Lạc, toàn bộ đều là Phổ Hiền Bồ Tát. Phổ Hiền Bồ Tát rất đông, có địa vị Sơ Tín, địa vị Nhị Tín, cho đến Đẳng Giác. Từ địa vị Sơ Tín đến địa vị Đẳng Giác có năm mươi mốt cấp bậc, toàn bộ đều là Phổ Hiền Bồ Tát, đều tu đức của Phổ Hiền đại sĩ. Kinh Hoa Nghiêm gọi đức của Phổ Hiền đại sĩ là Thập Đại Nguyện Vương.

Do vậy, các đồng tu cầu sanh Tịnh Độ, chớ nên không biết “Phổ Hiền đại sĩ chi đức”. Tốt nhất là hăy nên tu học, v́ tu học [hạnh nguyện Phổ Hiền] th́ mới đồng tâm, đồng nguyện, đồng hạnh với các vị thượng thiện nhân trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, nguyện tương đồng là điều rất trọng yếu. V́ lẽ đó, cư sĩ Ngụy Nguyên đă ghép phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện vào sau ba kinh, gọi là Tịnh Độ Tứ Kinh. Tổ Ấn Quang lại thêm Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương của kinh Lăng Nghiêm vào sau bốn kinh Tịnh Độ, biến thành Tịnh Độ Ngũ Kinh, do vậy mà có ngũ kinh. Năm kinh một luận là kinh điển Tịnh Tông đầy đủ nhất, sau này chẳng cần thêm vào nữa, đă viên măn rồi! Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương gồm hai trăm bốn mươi chữ là Tâm Kinh của Tịnh Độ. Chư vị phải biết: Tịnh Tông là tinh hoa trong giáo pháp suốt một đời đức Phật. Đă là Tâm Kinh của Tịnh Độ Tông th́ phải là Tâm Kinh của toàn thể Phật pháp, chẳng biết công đức lớn hơn Bát Nhă Tâm Kinh bao nhiêu lần. Người b́nh phàm chẳng biết điều này. Nếu thật sự hiểu rơ, v́ lợi ích thiết thân trong sự tu học của chúng sanh trong hiện thời, trong khóa tụng hoặc trong pháp hội, hăy nên đổi Tâm Kinh thành Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương th́ mới là đúng. Tâm Kinh là tinh hoa của Đại Bát Nhă, Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương là tinh hoa của toàn thể Đại Tạng Kinh, [Tâm Kinh] chẳng thể sánh bằng! Nghi thức khóa tụng do cổ nhân định ra nhằm khế hợp căn tánh chúng sanh trong thời đại ấy. Họ tu Bát Nhă, tu Pháp Tướng có thể đạt được một chút thành tựu. Họ định ra công khóa ấy, nay chúng ta tu, chẳng đạt được hiệu quả, nếu chính ḿnh phản tỉnh, kiểm điểm chuyện này, sẽ phát hiện và cũng thừa nhận.

      Chúng ta niệm kinh Kim Cang, niệm Tâm Kinh, có mấy ai có thể làm được “Sắc tức là Không, Không tức là Sắc”? Quư vị chẳng Không được, chẳng làm nổi! Kinh Kim Cang nói: “Hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”, quư vị có thể làm được hay không? Kinh chẳng sai lầm, chỉ là chẳng khế hợp căn tánh của người hiện thời. Người hiện thời vọng tưởng, chấp trước tăng trưởng hơn người trong quá khứ ngàn vạn lần! Trước kia, xă hội đơn thuần, chẳng suy nghĩ loạn xạ; xă hội hiện tại quá phức tạp, bất cứ chuyện nhỏ nhặt nào xảy ra ở bất cứ đâu trên toàn thể thế giới, TV, báo chí đều loan tải, quư vị biết ngay lập tức. Xưa kia, nơi xa xôi xảy ra chuyện, mấy tháng sau c̣n chưa biết. Do không biết, tâm thanh tịnh! Khi biết chuyện ít, phiền năo sẽ ít. Biết nhiều người, lắm nỗi thị phi! Trước kia, giao thông chẳng thuận tiện, chẳng quen biết nhiều người cho lắm, sống ở nơi này, ở chỗ quanh đây mấy dặm đường th́ biết, hễ xa hơn một chút sẽ không biết. Chẳng có phương tiện giao thông, phải đi bộ, rất vất vả, mỗi ngày đi được ba bốn chục dặm [là cùng]! V́ thế, chẳng có chuyện ǵ cần thiết, họ cũng chẳng đi xa, thôn trang này và thôn trang kia cho đến già chết chẳng qua lại với nhau, tâm họ thanh tịnh lắm! Hiện thời, giao thông thuận tiện, nhanh chóng, đi lung tung khắp nơi trên toàn thế giới, thấy rất nhiều, nghe rất nhiều, thị phi phiền năo quá nhiều, quả thật chẳng bằng trước kia!

      Đối với thế giới Tây Phương, chúng sanh trong chín pháp giới chỉ cần trọn đủ ba điều kiện Tín, Nguyện, Hạnh, chẳng có ai không văng sanh. Thế giới Tây Phương là thế giới b́nh đẳng, sau khi sanh về nơi ấy, đều là thân sắc vàng, tướng mạo giống hệt như Phật, cư trụ, ăn uống, quần áo, hưởng thụ cũng tương đồng, chẳng có điều ǵ khác biệt. Trong hết thảy các cơi Phật khắp mười phương, chẳng có chuyện này. Mười phương các cơi Phật gần giống như cơi Sa Bà, sự hưởng thụ vật chất và tinh thần tùy thuộc sự tu tŕ của quư vị mà đạt được, bất b́nh đẳng. [Chỗ bất b́nh đẳng trong] Tây Phương Cực Lạc thế giới là công phu đoạn chứng bất b́nh đẳng, công phu nội chứng từ địa vị Sơ Tín cho đến địa vị Đẳng Giác là năm mươi mốt cấp bậc, đó là bất b́nh đẳng, nhưng bên ngoài hoàn toàn b́nh đẳng, chẳng thể nghĩ bàn, là pháp khó tin! “Đẳng hư không cập tánh” (tánh b́nh đẳng, như hư không).

      

(Diễn) Hư không công đức giả, tụng vân: “Vô lượng bảo giao lạc, la vơng hư không trung, chủng chủng linh phát hưởng, tuyên thổ diệu pháp âm”. Tánh công đức giả, chánh đạo đại từ bi, xuất sanh thiện căn cố.

() 者,頌 云:無 絡,羅 中,種 響,宣 音。性 者,正 悲,出 故。

(Diễn: “Hư không công đức”: Bài kệ [trong Văng Sanh Luận] có đoạn: “Vô lượng báu giăng xen, lưới mành phủ hư không, các thứ linh vang tiếng, tuyên nói diệu pháp âm”. “Tánh công đức” là chánh đạo đại từ bi, xuất sanh các căn lành).

 

      Bài kệ trên đây nói về công đức trên hư không, lưới mành giao xen trên không trung, ở mỗi chỗ mành lưới giao tiếp, buộc một cái linh báu. Gió thổi linh báu phát ra âm thanh cũng là diệu âm thuyết pháp. “Chánh đạo đại từ bi, xuất sanh thiện căn cố” (chánh đạo đại từ bi, xuất sanh các căn lành), đó là tánh công đức, tức Chân Như bản tánh. Những điều này nhằm bổ sung những chỗ đại sư chưa trích dẫn đầy đủ trong phần trước để chúng ta có thể thấy ư nghĩa hoàn chỉnh. Hôm nay chúng tôi giảng tới đây!

 

Tập 182

 

      Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang ba trăm tám mươi mốt:

 

(Sao) Tiền hậu như thị công đức trang nghiêm hạ, bất các hệ luận tụng, dĩ kim tụng nhất khuyết hóa tác, nhị khuyết ác đạo, cố đặc minh chi. Ngôn chúng điểu xuất âm, nhược phi Phật tác, yên năng thính giả vong tướng nhất tâm dă.

() 下,不 頌,以 作,二 道,故 之。言 音,若 作,焉 也。

(Sao: Từ câu “các công đức trước và sau hai thứ trang nghiêm như thế, chẳng đối chiếu với bài tụng trong Văng Sanh Luận [để tŕnh bày từng điều]” v́ bài tụng một là thiếu ư [các loài chim ấy do đức Phật] hóa thành, hai là thiếu ư [chúng không thuộc về] ác đạo, nên đặc biệt giảng rơ. Nói các loài chim phát ra âm thanh, nếu chẳng phải là do Phật biến hóa th́ làm sao có thể khiến cho người nghe quên tướng, nhất tâm được?)

 

      Đoạn này nhằm giải thích câu “như luận trung thuyết tiền hậu công đức, phồn bất các hệ” (như đối với các thứ công đức trước và sau bốn thứ công đức (biến hóa, Đại Thừa, hư không, và tánh công đức) [được nói trong luận Văng Sanh], do rườm rà nên chẳng đối chiếu từng điều [với chánh kinh] để giải thích những sự trang nghiêm). “Chúng điểu xuất âm” (các loài chim phát ra âm thanh), ở đây bổ sung thêm một câu: Nếu chúng chẳng do A Di Đà Phật biến hóa tạo ra, sẽ chẳng có năng lực nhiếp thọ rất lớn. Chim thuyết pháp, chúng ta nghe xong, có thể khế nhập chân tánh, tự nhiên nẩy sanh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, có sức mạnh nhiếp thọ to lớn dường ấy, nhất định chúng là do A Di Đà Phật biến hóa tạo ra. V́ người văng sanh, địa vị là Đẳng Giác Bồ Tát cao cả, hăy nghĩ xem ai có tư cách thuyết pháp cho Đẳng Giác Bồ Tát? Đương nhiên là A Di Đà Phật! Chúng ta phàm phu văng sanh chẳng kể vào đâu, nhưng người từ mười phương thế giới văng sanh, có không ít vị là Đẳng Giác Bồ Tát, số lượng chúng sanh trong chín pháp giới văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới đều là vô lượng vô biên.

 

      (Sao) Bất vân ác đạo, dĩ nhân trung thượng vô nữ nhân, thánh trung thượng vô tiểu thánh .

() 道,以 人,聖 聖。

(Sao: Chẳng nói tới ác đạo, v́ trong loài người [nơi cơi Cực Lạc] c̣n không có nữ nhân, trong các vị thánh [bên cơi ấy] c̣n chẳng có hàng tiểu thánh).

 

      “Tiểu thánh” là nói về Thanh Văn và Duyên Giác. Nữ nhân đau khổ, nhiều nỗi thống khổ hơn nam nhân, nhất là những người sống trong thời đại Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện, chẳng phải là thời đại hiện tại. Trong kinh có nhiều cách nói, đức Phật ứng cơ thuyết pháp. Trong thời đại ấy, quyền hạn của nam giới vượt xa nữ quyền, nữ nhân chẳng thể ra khỏi cửa, không như hiện thời nam nữ b́nh đẳng, nữ nhân cũng làm Tổng Thống, trong quá khứ chẳng thể nào! Trạng huống xă hội khác nhau, đức Phật thuyết pháp cũng khác. Nói tóm lại, xă hội quá khứ đề cao nam quyền, địa vị của nữ nhân khá thấp, chịu nhiều bó buộc, cho thấy đau khổ vô hạn! V́ thế, kinh thường nói người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có nữ nhân, trong các vị thánh, chẳng có hàng tiểu thánh, lấy đâu ra ác đạo? Đương nhiên là sẽ chẳng có ác đạo.

 

      (Sao) Tiền hậu minh hiển khả tri, cố bất phồn hệ.

      () 知,故 係。

      (Sao: Trước sau đều rơ ràng có thể biết, nên chẳng rườm lời dẫn chứng).

     

      Trong kinh Vô Lượng Thọ và kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, những chuyện này đều [được nói] rất rơ ràng.

 

      (Sao) Hựu chánh báo nhị công đức, tại “như thị trang nghiêm” điều ngoại, cố diệc bất hệ.

(Diễn) Chánh báo nhị công đức, vị thượng thủ công đức, đại chúng công đức.

       () 德,在 外,故 係。

      () 德,謂 德、大 德。

      (Sao: Lại nữa, hai thứ công đức nơi chánh báo do nằm ngoài phạm vi của câu “trang nghiêm như thế” ở đây, nên cũng chẳng trích dẫn Văng Sanh Luận để đối chiếu, tŕnh bày.

Diễn: Hai thứ công đức nơi chánh báo là công đức của bậc thượng thủ và công đức của đại chúng).

           

      Hai thứ công đức này được nói trong phần trước của kinh này.

 

      (Sớ) Xứng Lư, tắc tự tánh Bát Nhă châu biến pháp giới, thị điểu thụ thuyết pháp nghĩa.

       () 理,則 界,是 義。

      (Sớ: Xứng Lư th́ tự tánh Bát Nhă trọn khắp pháp giới là ư nghĩa chim và cây thuyết pháp).

 

      Đoạn kế tiếp là tiêu quy tự tánh, nói xứng tánh.

 

      (Sao) Thủ Lăng Nghiêm Sao vân: “Nhược năng chuyển vật, tức đồng Như Lai, dĩ tâm ngoại vô vật, vật tức thị tâm, đản tâm ly phân biệt, tức thị chánh trí Bát Nhă, châu biến pháp giới, vô hữu chướng ngại”.

   (Diễn) “Nhược năng chuyển vật” nhị cú, thị Lăng Nghiêm kinh văn. Văn vân: “Nhất thiết chúng sanh, mê kỷ vị vật, vị vật sở chuyển. Thị cố ư trung, quán đại, quán tiểu, nhược năng chuyển vật, tức đồng Như Lai”.

() 云:若 物,即 來。以 物,物 心,但 別,即 若,周 界,無

() 句,是 文。文 生,迷 物,為 轉,是 中,觀 小,若 物,即 來。

(Sao: Thủ Lăng Nghiêm Sao[3] giảng: “Nếu có thể chuyển vật, liền giống như Như Lai, là v́ ngoài tâm chẳng có vật, vật chính là tâm, nhưng tâm ĺa phân biệt, chính là chánh trí Bát Nhă, trọn khắp pháp giới, chẳng có chướng ngại”.

      Diễn: Hai câu “nếu có thể chuyển vật…” chính là kinh văn trong Lăng Nghiêm. Kinh văn như sau: “Hết thảy chúng sanh do mê mất chính ḿnh, ngỡ là vật, bị vật xoay chuyển. Do vậy, thấy lớn, thấy nhỏ. Nếu có thể chuyển vật, sẽ giống như Như Lai”).

 

      Các đạo lư và sự tướng này trong các buổi giảng, chúng tôi cũng thường nhắc tới, nhưng người có thể lănh ngộ rốt cuộc vẫn là thiểu số. Kinh Lăng Nghiêm nói lời chân thật. Cổ đức Trung Hoa rất tán thán kinh Lăng Nghiêm: “Khai huệ Lăng Nghiêm, thành Phật Pháp Hoa”. V́ sao nói kinh Lăng Nghiêm khai trí huệ? Kinh Lăng Nghiêm từ đầu tới cuối đều là các đệ tử cùng Thích Ca Mâu Ni Phật biện luận, chẳng phải là hàng đệ tử nêu ra nghi vấn rồi Thích Ca Mâu Ni Phật giải đáp, mà là Thích Ca Mâu Ni Phật nêu vấn đề hỏi học tṛ. Chúng ta nghe các Ngài một hỏi, một đáp, sẽ có thể khai trí huệ. Hỏi rất cao minh, đáp càng mầu nhiệm.

      V́ sao nói “thành Phật Pháp Hoa”? V́ trong các kinh Đại Thừa thông thường luôn nói “Nhất Xiển Đề không thể thành Phật”. Nhất Xiển Đề là “chẳng có thiện căn”. Cách nói này có nghĩa là thành Phật phải có điều kiện: Nếu là Nhất Xiển Đề, người ấy chẳng có tư cách thành Phật. Đó là trong quá khứ, khi giáo học, đức Phật đă nói quyền biến, nói phương tiện như vậy, cũng nhằm khích lệ đại chúng. Đến hội Pháp Hoa, đức Phật hoàn toàn nói lời thật, chẳng giấu diếm mảy may; v́ thế, Ngài nói: “Nhất Xiển Đề cũng có thể thành Phật”, như vậy th́ Phật pháp mới viên măn. Dùng kinh Pháp Hoa để ấn chứng kinh điển Tịnh Độ, ư nghĩa chân thật được triệt để hiển lộ, tín tâm của chúng ta được hoàn toàn kiến lập, chẳng có mảy may hoài nghi nào! Nhất Xiển Đề là hạng người nào? Ngũ Nghịch, Thập Ác, lâm chung một niệm hay mười niệm đều có thể văng sanh, hễ văng sanh vẫn là viên chứng ba món Bất Thoái, thành Phật trong một đời. Chư vị phải hiểu kinh Pháp Hoa nói Nhất Xiển Đề cũng có thể thành Phật, do dựa vào đâu? Dựa vào pháp môn Niệm Phật văng sanh này, nói đến hạng người thấp nhất. Kinh Hoa Nghiêm nói về hạng người cao nhất, tức là bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ, ngay cả Văn Thù, Phổ Hiền cũng đều niệm Phật cầu sanh về Tây Phương, đó là hạng tột đỉnh! Kinh Pháp Hoa nói về hạng Nhất Xiển Đề, thấp nhất! Từ cao nhất đến thấp nhất, đúng là thích hợp khắp cả ba căn, lợi căn lẫn độn căn đều được thâu gồm. Cổ nhân nói Hoa Nghiêm và Pháp Hoa dẫn đường cho kinh Vô Lượng Thọ, lời ấy hết sức hữu lư. Lăng Nghiêm là một bộ kinh điển thuần túy truy cầu chân lư vũ trụ và nhân sinh, nên kinh ấy là một bộ sách khai trí huệ của nhà Phật.

      Nói theo chân tướng sự thật, hết thảy vạn vật là chính ḿnh, hết thảy vạn vật đều là chính ḿnh. Nói thật ra, đối với cảnh giới trước mắt, chúng ta hoàn toàn chẳng nh́n thấy rất viên măn. Nếu đă có Thiên Nhăn th́ Thiên Nhăn vẫn chia thành các đẳng cấp. Thiên Nhăn của bậc A La Hán trở lên sẽ thấy ngoại cảnh khác với chúng ta. C̣n có nhiều cảnh giới chúng ta chẳng nh́n thấy, chẳng phát hiện, phạm vi quan sát bởi Thiên Nhăn của các Ngài lớn hơn chúng ta khá nhiều. Thông thường, một vị A La Hán có thể thấy một tiểu thiên thế giới. Vị Thiên Nhăn bậc nhất trong các A La Hán là ngài A Na Luật, Thiên Nhăn của Ngài có thể thấy tam thiên đại thiên thế giới. Ngài có năng lực như vậy; nhưng vẫn chưa phải là rốt ráo viên măn. Rốt ráo viên măn là [trông thấy] tận hư không khắp pháp giới vô lượng vô biên hằng sa cơi nước. Điều này do đâu mà có? Từ trong tâm của chính chúng ta biến hiện, chẳng đến từ bên ngoài. Tâm của chính ḿnh có thể biến, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới là cái được biến. Cái có thể biến (năng biến) là chủ nhân, cái được biến (sở biến) là vạn vật. Hiện thời, hết thảy chúng sanh mê hoặc, điên đảo, mê như thế nào? “Mê kỷ vị vật” (mê mất chính ḿnh, ngỡ là vật), nên bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển, chẳng biết hết thảy cảnh giới do chính ḿnh biến hiện. Giống như nằm mộng, trong mộng chẳng biết chính ḿnh đang nằm mơ, không biết cảnh giới trong mộng toàn là do chính ḿnh biến ra, vẫn bị người khác sắp đặt, bị cảnh giới xoay chuyển, rất oan uổng! Đức Phật dạy chúng ta phải nhận rơ chân tướng sự thật, thật sự hiểu rơ chân tướng: Vạn vật vốn là chính ḿnh, chính ḿnh là vạn vật, tận hư không khắp pháp giới và chính ḿnh là một.

      Nếu có thể khẳng định những điều trên đây, chẳng hoài nghi, trong Phật pháp gọi là “chứng đắc thanh tịnh Pháp Thân”. Pháp là vạn pháp, Thân là thân thể. Vạn pháp là cái thân của ta, thân ta là vạn pháp, đó gọi là “chứng đắc thanh tịnh Pháp Thân”. Hoàn toàn chẳng phải là nói thanh tịnh Pháp Thân Phật vẫn c̣n có h́nh tướng, [nếu hiểu Pháp Thân c̣n có h́nh tướng] th́ sai mất rồi! Hiện thời, chúng ta tạc tượng Tỳ Lô Giá Na Phật là Pháp Thân Phật, cũng là do chẳng có cách nào, đành tạc một bức tượng Phật bày ra đó. Thật ra, Pháp Thân là ǵ? Pháp Thân là tận hư không khắp pháp giới là một thân, cho nên Pháp Thân vô tướng, mà cũng chẳng phải là không có tướng. Tận hư không khắp pháp giới mới là tướng của Pháp Thân, tướng ấy tạc theo cách nào đây? Chẳng có cách nào tạc; bởi lẽ, Pháp Thân vô tướng. Báo Thân c̣n có tướng, Báo Thân là chứng đắc. Báo Thân và Ứng Hóa Thân có tướng. Pháp Thân chẳng có tướng, Pháp Thân là hư không pháp giới, là diện mạo vốn có của chính ḿnh. “Nếu có thể chuyển vật, tức giống như Như Lai”, đấy là mê và ngộ. Mê bèn bị vật xoay chuyển; đă ngộ bèn có thể chuyển vật.

 

      (Diễn) “Dĩ tâm ngoại vô vật” lục cú, thị Sao trung thích từ.

      () 句,是 辭。

      (Diễn: Sáu câu “do ngoài tâm chẳng có vật…” là lời giải thích trong [Lăng Nghiêm Kinh] Sao).

     

Sáu câu được trích dẫn ấy là lời giải thích trong Lăng Nghiêm Kinh Sao.

 

      (Diễn) Tâm ngoại vô vật, vật tức thị tâm, thị minh sắc tâm bất nhị.

       () 物,物 心,是 二。

      (Diễn: Ngoài tâm chẳng có vật, vật chính là tâm, nói rơ sắc và tâm chẳng hai).

 

      Sắc là Tướng Phần của tâm. Tâm là bản thể của sắc pháp. Đối với Sắc đang được nói ở đây, nay chúng ta nói là vật chất, nhưng vật chất vẫn chưa chắc đă có thể bao hàm [trọn vẹn ư nghĩa] của chữ này, v́ hiện thời c̣n có phi vật chất vẫn được bao gồm trong chữ Sắc của Phật pháp. Ví như lục trần, trong Phật pháp, lục trần đều được gọi là Sắc. Những cái mà mắt có thể thấy được th́ gọi là Sắc Trần, những ǵ tai có thể nghe được th́ gọi là âm thanh, âm thanh cũng dùng chữ Sắc này để bao quát. Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp, dùng một chữ Sắc để bao quát lục trần. Đối với chữ Sắc này, dùng từ ngữ “hết thảy vật chất” để nói, vẫn chưa thể bao quát trọn hết. Mũi chúng ta ngửi hương, thân thể đụng chạm, tức là nói tới nhiệt độ biến đổi: Luồng khí lạnh tràn tới, chúng ta cảm thấy lạnh; mùa hè nhiệt độ cao, chúng ta cảm thấy nóng. Lạnh và nóng thuộc về Xúc Trần, những điều này thường là mắt chẳng thấy, tai cũng chẳng nghe đến, thân thể chúng ta có cảm xúc nóng và lạnh, tất cả những điều này đều bao gồm trong một chữ Sắc. Tâm là cái có thể sanh (năng sanh), Sắc là cái được sanh (sở sanh), Sắc và Tâm là một, chẳng hai, là một. Sắc là Tâm, Tâm là Sắc. Cổ nhân dùng vàng và các món vật [bằng vàng] để tỷ dụ, thường nói là “dùng vàng làm đồ vật, món nào cũng là vàng”. Đồ vật là vàng, vàng là đồ vật. Dùng vàng ṛng làm thành rất nhiều ṿng đeo tay, ṿng đeo cổ, nhẫn, bất luận quư vị làm thứ ǵ, làm nhiều đến mấy đi nữa, chất liệu của chúng đều là vàng. Tuy lục trần vô lượng vô biên, chúng đều do tâm biến hiện. Do vậy, ngoài tâm chẳng có vật ư? Chẳng có! Ngoài vật cũng chẳng có tâm. V́ tâm là vật, vật là tâm; tận hư không khắp pháp giới và chính ḿnh là một. Ngoài chính ḿnh ra, chẳng t́m được thứ ǵ khác. Đó là chân tướng sự thật.

 

      (Diễn) Đản ly phân biệt, tức thị Bát Nhă.

      () 別,即 若。

      (Diễn: Chỉ ĺa phân biệt, tức là Bát Nhă).

 

      Phải như thế nào th́ mới có thể thấy chân tướng? Như thế nào th́ mới có thể t́m thấy chính ḿnh thật sự? Nhà Thiền nói là “diện mạo vốn có trước khi được cha mẹ sanh ra” (phụ mẫu vị sanh tiền bản lai diện mục) là nói về điều này. Như thế nào th́ mới có thể t́m được? Đức Phật dạy: Chỉ cần quư vị ĺa phân biệt. Trong phân biệt c̣n bao gồm vọng tưởng. Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đă nói rất rơ ràng: Sở dĩ hết thảy chúng sanh chẳng thể chứng đắc Thật Tướng (chẳng hiểu chân tướng sự thật) là v́ bị vọng tưởng, chấp trước chướng ngại. Ĺa phân biệt là ĺa vọng tưởng, chấp trước. Trừ bỏ vọng tưởng, chấp trước, sẽ khởi tác dụng là trí huệ Bát Nhă. Do vậy có thể biết: Vọng tưởng, chấp trước vẫn c̣n, chắc chắn quư vị chẳng có trí huệ thật sự. Trí huệ Bát Nhă là trí huệ lưu lộ từ chân tâm. Chẳng xả ĺa vọng tưởng, chấp trước, trí huệ của quư vị lưu xuất từ tâm ư thức, chẳng phải là trí huệ thật sự, kinh Phật gọi trí huệ ấy là Thế Trí Biện Thông. Trí huệ chân thật th́ nhất định phải là kiến tánh. Chẳng kiến tánh, sẽ chẳng có trí huệ!

      V́ lẽ đó, A La Hán chẳng có trí huệ, Bích Chi Phật chẳng có trí huệ, Quyền Giáo Bồ Tát cũng chẳng có trí huệ, v́ sao? Chưa kiến tánh. Tuy có Định, công phu định lực vẫn chẳng đủ, chỉ có thể tạm thời khuất phục vọng tưởng, chấp trước. Nếu công phu định lực sâu hơn một tầng, bèn khai trí huệ, khai trí huệ là minh tâm kiến tánh. Thiền gia nói là “minh tâm kiến tánh”, nhưng Giáo Hạ chẳng gọi là minh tâm kiến tánh, mà gọi là “đại khai viên giải”. Đại khai viên giải là khai trí huệ, có cùng một cảnh giới với minh tâm kiến tánh của Thiền gia và Lư nhất tâm bất loạn của Tịnh Độ Tông. Chỉ là cách nói khác nhau, danh từ khác nhau, nhưng thật ra cảnh giới hoàn toàn giống nhau. Sự nhất tâm bất loạn tương đương với A La Hán, Niệm Phật tam-muội là công phu định lực có thể chế phục phiền năo, nhưng chẳng khai huệ. Lư nhất tâm liền khai huệ, trí huệ Bát Nhă hiện tiền, hiểu rơ thông đạt chân tướng của vũ trụ và nhân sinh.

 

      (Diễn) Vô hữu chướng ngại, thị minh ly niệm tướng giả, đẳng hư không giới.

() 礙,是 者,等 界。

(Diễn: Chẳng có chướng ngại, là nói tướng của ly niệm bằng với hư không giới).

 

      Chẳng có chướng ngại, kinh Hoa Nghiêm nói bốn thứ vô ngại: Sự vô ngại, Lư vô ngại, Lư Sự vô ngại, và Sự Sự vô ngại. Đó mới là thật sự giải thoát, chân thật tự tại. Hàng Nhị Thừa (Thanh Văn, Duyên Giác) chỉ đạt được món thứ nhất trong bốn món vô ngại ấy, tức là Sự vô ngại. A La Hán và Bích Chi Phật vô ngại đối với Sự, nên các Ngài có thể phân thân, có thể biến hóa. Chúng ta xem Tây Du Kư, thấy Tôn Ngộ Không có bảy mươi hai phép biến hóa, nhưng thần thông biến hóa của A La Hán chẳng biết đă vượt trỗi Tôn Ngộ Không bao nhiêu lần! A La Hán có thể biến hóa, có thể phân thân, chẳng bị chướng ngại nơi Sự, nhưng c̣n bị chướng ngại nơi Lư, v́ sao? Các Ngài chưa kiến tánh, chẳng có trí huệ.

      Đại Thừa Bồ Tát đối với Lư chẳng bị chướng ngại, nhưng chướng ngại nơi Sự, đó là nói tới hàng Đại Thừa Quyền Giáo Bồ Tát chưa kiến tánh; hễ kiến tánh, đương nhiên sẽ chẳng bị chướng ngại nơi Sự. Ngài A Nan có trí huệ, trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật giảng đến cuốn thứ ba, Ngài liền nói kệ tán thán đức Phật, đă ngộ Lư. Tuy đă hiểu Lư, khai ngộ, nhưng về Sự th́ chưa thể đoạn phiền năo. Do tham, sân, si, mạn vẫn có, nên vẫn bị chướng ngại về Sự. Tôn giả Phú Lâu Na nghe ngài A Nan thuyết kệ tán Phật, [chứng tỏ ngài A Nan] đă khai ngộ, Ngài cũng rất nghi hoặc: “A Nan là Sơ Quả, ta đă chứng Tứ Quả, mà nghe chẳng hiểu, chẳng khai ngộ, cớ sao thầy ấy khai ngộ?” Đức Phật bảo ngài Phú Lâu Na: A Nan là kẻ Phiền Năo Chướng nặng nề, Sở Tri Chướng nhẹ nhàng, vừa nghe đức Phật thuyết pháp bèn khai ngộ. Tuy khai ngộ, nhưng thiếu công phu định lực, nên chẳng thể đoạn phiền năo, vẫn là Sơ Quả. Tôn giả Phú Lâu Na th́ Phiền Năo Chướng nhẹ nhàng, Sở Tri Chướng nặng nề, nên đức Phật dạy cho Ngài một phương pháp. Ngài tu Định có thể đoạn phiền năo, nhưng giảng đạo lư Đại Thừa Phật pháp cho Ngài nghe, Ngài không hiểu, chẳng thể khai ngộ. Chúng ta mới hiểu: Hết thảy chúng sanh thuộc các chủng loại mê hoặc khác nhau, cạn sâu khác biệt. Có những người nghe kinh, nghe rất hứng thú, nghe xong liền hiểu ngay, là do Sở Tri Chướng mỏng manh. Có những người tu rất khá, nhưng nghe kinh chẳng hiểu, giống như ngài Phú Lâu Na. Có những người nghe kinh liền hiểu, nghe xong rất hoan hỷ, nhưng bảo họ hăy nghiêm túc tu hành, họ gặp rất nhiều khó khăn, đó là do Phiền Năo Chướng nặng nề, Sở Tri Chướng nhẹ nhàng. Nh́n từ chỗ này, có thể thấy chúng ta có tập khí trong đời đời kiếp kiếp khác nhau. Sau khi kiến tánh, sẽ là Lư Sự vô ngại, tức là Đại Thừa Thật Giáo Bồ Tát. Sau khi đăng địa (chứng Sơ Địa) mới là Sự Sự vô ngại, tự tại chẳng khác Phật cho mấy. Bốn thứ vô ngại có tầng cấp, đẳng cấp như vậy, nếu muốn đạt tới cảnh giới ấy, đích xác chẳng phải là chuyện dễ dàng.

      Nhưng pháp môn Niệm Phật rất đặc biệt, niệm Phật cầu sanh Tây Phương, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới trong một đời này, lập tức chứng đắc Lư Sự vô ngại và Sự Sự vô ngại, lạ lùng thay! Do đó, pháp môn này được gọi là “pháp khó tin”. Khó tin mà dễ hành, nương theo phương pháp này, tu hành vô cùng dễ dàng, dễ hơn bất cứ pháp môn nào khác, thành tựu thù thắng khôn sánh, từ Đại Kinh chúng ta thấy được điều này. Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, thần thông và đạo lực chẳng khác A Di Đà Phật cho mấy, gần như bằng với A Di Đà Phật, chuyện này chẳng dễ khiến cho người ta tin tưởng. Nói theo phương diện Sự vô ngại, [thông thường là bậc Tu Đà Hoàn] bảy lần sanh tử trong cơi trời và nhân gian mới chứng quả A La Hán, mới chứng Sự vô ngại; quư vị niệm Phật vài ngày, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới bèn là Sự Sự vô ngại, khiến cho người ta nghe chuyện này, chẳng phục cho lắm. V́ thế, người không tin tưởng pháp môn này rất nhiều. Dường như là do đạt được quá dễ dàng, [nên họ chẳng tin tưởng], chẳng biết trong ấy có đạo lư rất sâu. Đối với lư luận của Tịnh Tông, trong kinh đức Phật đă nói: “Chỉ có Phật và Phật mới có thể thấu hiểu rốt ráo”, tuyệt đối chẳng phải là chúng sanh trong chín pháp giới cậy vào sức của chính ḿnh mà ḥng hiểu được! Chúng ta thấy điều này từ kinh Vô Lượng Thọ. Có thể tin tưởng, có thể tiếp nhận, đó là thiện căn và phước đức khôn sánh. Do đó, kẻ b́nh phàm không tin, chúng ta chớ nên trách móc họ. Hăy nên biết: Họ không tin tưởng, đó là một hiện tượng rất tự nhiên. Pháp khó tin mà ai nấy đều tin th́ làm sao gọi là pháp khó tin cho được? Bản thân chúng ta tin tưởng, [nguyên do là v́] thiện căn, phước đức, nhân duyên của chúng ta và họ khác nhau. V́ thế, kẻ b́nh phàm chẳng tin, những tông phái khác [chẳng tin pháp môn này], đó là chuyện đáng phải nên như vậy, là hiện tượng tất nhiên, mà cũng trọn chẳng kỳ quái tí nào!

Nhất định phải ĺa phân biệt, chấp trước, vọng tưởng th́ Bát Nhă mới có thể hiện tiền, mới chẳng bị chướng ngại. Phương pháp tu hành của Tịnh Tông quả thật đă tương ứng với nguyên tắc ấy, không mưu tính trước mà ngầm hợp. Tu học trong Tịnh Tông là dạy chúng ta “một bề chuyên niệm”, chuyên niệm A Di Đà Phật, chẳng c̣n phân biệt, vọng tưởng, chấp trước, tương ứng với nguyên tắc ấy. Niệm thành công, ắt sẽ đạt được quả báo “chẳng có chướng ngại”. V́ thế, sanh về Tây Phương chứng đắc pháp giới b́nh đẳng, chẳng phải là vô lư mà là có lư.

 

      (Diễn) Sao ư vị kinh sở vân “chuyển vật” giả, phi thị hữu vật khả chuyển, cái dĩ tâm ngoại tịnh vô hữu vật, nhất thiết vật giai tức thị tâm, nhi sở dĩ kiến hữu vật giả, dĩ tâm sanh phân biệt cố. Đản nhất niệm bất sanh, toàn thể tức tự hiển hiện. Sở dĩ kinh thuyết: “Nhược năng chuyển vật, tức đồng Như Lai” dă.

() 者,非 轉,蓋 物,一 心。而 者,以 故。但 生,全 。所 說, 物, 也。

(Diễn: Lời Sao có nghĩa là: Kinh nói “chuyển vật”, chẳng phải là có vật để có thể chuyển; bởi lẽ, ngoài tâm trọn chẳng có vật, hết thảy các vật đều chính là tâm. Sở dĩ thấy có vật là do tâm sanh phân biệt. Nhưng một niệm chẳng sanh, toàn thể bèn tự hiển hiện. Do đó, có thể nói: “Nếu có thể chuyển vật, ắt giống như Như Lai”).

 

      “Chuyển vật giả, phi thị hữu vật khả chuyển” (chuyển vật: Chẳng phải là có vật để có thể chuyển). Nói rất hay, có vật hay không? Chẳng có vật! Thật ra là chuyển ǵ? Chuyển đổi quan niệm của chúng ta. Chư vị phải hiểu đạo lư này, chẳng phải là thật sự chuyển vật, mà là chuyển ư niệm của chúng ta. “Tâm ngoại tịnh vô hữu vật” (ngoài tâm trọn chẳng có vật), người hiện thời rất khó lư giải câu này, mà cũng chẳng có cách nào tiếp nhận. Quư vị nói “ngoài tâm chẳng có vật”, vậy th́ những thứ này là ǵ? Những người này chẳng phải là vật ư? Bày rành rành trước mặt, cớ sao chẳng phải là vật? Lư này rất sâu, kẻ b́nh phàm chẳng thể hiểu rơ, ngoài thân xác thực là chẳng có vật. Những vật ấy là ǵ? Tuy kinh Kim Cang nói rất thấu triệt, chúng ta cũng đọc rất quen thuộc, nhưng vẫn như cũ, chẳng thể đích thân chứng cảnh giới ấy! Kinh Kim Cang nói: “Phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”. Lại nói: “Hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”. Chúng ta luôn thấy chúng là thật. Nói chân thật th́ hết thảy những tướng biến hiện trước mắt đúng là như mộng, huyễn, bọt, bóng, chẳng thật sự tồn tại. Các nhà khoa học hiện thời đă hiểu rơ, đă chứng thực, tuy vẫn chưa đạt tới cảnh giới như kinh Phật đă nói, nhưng đă dần dần tiếp cận.

      Trước đây, các nhà khoa học tưởng là thế gian này có vật chất, tất cả hết thảy tướng hiện ra đều do các vật chất cơ bản hợp thành nguyên tố. Từ nguyên tố hợp thành hết thảy các tướng vật chất. Đó là cách nói trước kia. Những năm gần đây, họ lại tiến một bước lớn, [nhận biết] sự quan sát trước kia vẫn là sai lầm, về căn bản chẳng có vật chất tồn tại. Vật chất là ǵ? Khoa học gia hiện thời nói đó là quang tử chấn động, dao động. Hiện thời, họ công nhận tất cả những tướng vật chất biến hiện đều là dao động, trên thực tế, chẳng có vật chất tồn tại, điều này rất gần với cách nói trong Phật pháp. Duy Thức nói: “Vô minh bất giác sanh ra ba tế tướng, cảnh giới làm duyên tăng trưởng sáu thô tướng”. Đối với Kiến Phần và Tướng Phần trong A Lại Da Thức, nay chúng ta gọi Kiến Phần là tâm, tức tâm pháp, Tướng Phần là sắc pháp, nay chúng ta nói là vật chất. Tâm pháp là tinh thần, tinh thần và vật chất là một, không hai. Tâm và vật có cùng một nguồn, cùng một Tự Chứng Phần, Tự Chứng Phần chính là chân tâm, bản thể. Vạn hữu trong vũ trụ chỉ có một bản thể, Phật pháp gọi bản thể ấy là Chân Như bản tánh, c̣n gọi là “chân tâm lư thể”, những thứ này đều là huyễn tướng được hiện ra [bởi bản thể ấy].

      V́ sao gọi là huyễn tướng? V́ các tướng ấy chẳng tồn tại vĩnh hằng. Nay chúng ta thấy rơ ràng những tướng ấy dường như tồn tại rất lâu, thật ra, chúng biến hóa trong từng sát-na, chẳng phải là bất biến. Nói thật ra, Tướng Phần do chúng ta trông thấy giống như Tướng Phần trên màn bạc trong điện ảnh. Tướng Phần ấy sanh diệt trong từng sát-na, nhưng chúng ta thấy sai lầm, v́ tướng của chúng là tướng liên tục dấy lên, [cho nên chúng ta cảm thấy] tợ hồ chúng tồn tại trong một khoảng thời gian, thật ra chẳng phải vậy. Kinh Lăng Nghiêm đă nêu ra chân tướng sự thật: “Sanh ra từ đâu, bèn diệt mất từ nơi đó”. Nếu đối với hai câu ấy, chúng ta chẳng [cảm thấy] dễ hiểu cho lắm, hăy nh́n các h́nh ảnh trên màn bạc của điện ảnh: Từng tấm phim được chiếu lên chính là “sanh ra ngay từ nơi đây”, ngay lập tức ống kính [của máy chiếu phim đóng lại], nó liền diệt mất ở ngay đây. Tấm phim thứ hai lại sanh ra [h́nh ảnh trên màn bạc] ngay tại nơi đây, [ống kính của máy chiếu phim đóng lại, bèn] diệt mất tại nơi đây. Tấm phim thứ ba, thứ tư cũng là sanh ra ngay tại nơi đây, diệt mất tại nơi đây. Chúng ta biết ống kính của máy chiếu phim đóng mở hai mươi bốn lần trong một giây, tức là một giây chiếu hai mươi bốn tấm phim. Hai mươi bốn tấm phim đă có thể khiến cho chúng ta nh́n sai, thấy chúng rất thật, ngỡ là thật.

      Tất cả hết thảy các tướng được hiện ra trước mắt chúng ta đều sanh diệt trong từng sát-na, chẳng thật. Lại c̣n sanh diệt với tốc độ nhanh hơn tốc độ chiếu phim rất nhiều. Trong kinh, đức Phật đă nói: “Một sát-na có chín trăm lần sanh diệt”, một sát-na là thời gian bao lâu? Một cái khảy ngón tay có sáu mươi sát-na, một sát-na là một phần sáu mươi [thời gian] khảy ngón tay. Thời gian ta khảy ngón tay bao lâu, chia thành sáu mươi phần, một phần trong sáu mươi phần ấy được gọi là một sát-na. Trong một sát-na có chín trăm lần sanh diệt. Trong một giây chúng ta có thể khảy bốn lần, bốn lần sáu mươi nhân với chín trăm, nên một giây có hai cái mười vạn tám ngàn lần sanh diệt[4], chúng ta chẳng cảm thấy tướng cảnh giới bên ngoài là giả tướng sanh diệt trong từng sát-na. Một giây, [ống kính của máy chiếu phim] đóng mở hai mươi bốn lần đă lừa được chúng ta nghĩ nó là thật. Một giây có hai mươi mốt vạn sáu ngàn lần sanh diệt, làm sao chúng ta biết là giả cho được? Chỉ có Phật và hàng đại Bồ Tát biết, tâm các Ngài vi tế nên thấy rất rơ ràng, tâm chúng ta quá hời hợt, thô tháp, nên chẳng thấy được.

      Chân tướng sự thật xác thực là như thế! Nếu quư vị biết chân tướng sự thật này, thưa cùng quư vị, tham, sân, si, mạn ǵ ǵ đi nữa đều chẳng có, v́ sao? Chúng là giả, chẳng thật! Trong tâm dấy lên ư niệm cũng là giả, sắc tướng bên ngoài cũng là giả, quư vị nói thử xem: C̣n có ǵ để làm nữa? Tự nhiên buông hết thảy thân tâm thế giới xuống. Buông xuống hết thảy th́ trong tâm chẳng c̣n vướng mắc, chẳng c̣n ghim những chuyện ấy trong ḷng, chẳng c̣n nữa, tâm thanh tịnh mới thật sự hiện tiền. Tâm thanh tịnh hiện tiền, liền chứng đắc Chân Như bản tánh, chính ḿnh mới thật sự thấy được chân tướng của vũ trụ và nhân sinh, thật sự chứng đắc.

      Do vậy có thể biết, khá nhiều lời đức Phật dạy trong kinh, quư vị nhất định phải hiểu ư nghĩa ngoài từ ngữ. Ở đây, [Liên Tŕ đại sư] nhắc nhở chúng ta: “Chuyển vật giả, phi thị hữu vật khả chuyển, cái dĩ tâm ngoại tịnh vô hữu vật, nhất thiết vật giai tức thị tâm, nhi sở dĩ kiến hữu vật giả, dĩ tâm sanh phân biệt cố” (Chuyển vật chẳng phải là có vật để có thể chuyển; bởi lẽ, ngoài tâm trọn chẳng có vật, hết thảy mọi vật đều chính là tâm. Nhưng sở dĩ thấy có vật là v́ tâm sanh phân biệt), y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới do đâu mà có? Do phân biệt mà có. Nếu quư vị chẳng phân biệt, sẽ chẳng có. Do phân biệt mà có, có phải là thật sự có hay không? Chẳng thật sự có! Nói theo kiểu hiện thời, tuyệt đối chẳng phải là thật, mà chính là v́ quư vị c̣n có phân biệt, thật ra là do chính ḿnh tưởng những khái niệm trừu tượng là có, tự cho là đúng, đó là mê, chẳng phải là thật sự có. Hễ ta phân biệt th́ chúng thật sự có, đức Phật cũng rất bội phục quư vị. Phân biệt kiểu nào th́ cũng chẳng phải là thật sự có, cái Có ấy là giả có, huyễn hữu, chẳng phải là chân thật.    

Đản nhất niệm bất sanh, toàn thể tức tự hiển hiện. Sở dĩ kinh thuyết: Nhược năng chuyển vật, tức đồng Như Lai” (Chỉ là một niệm chẳng sanh, toàn thể bèn tự hiển hiện. V́ thế, kinh nói: “Nếu có thể chuyển vật, liền giống như Như Lai”). Có thể thấy “chuyển” là chuyển như thế nào? Chuyển phân biệt thành nhất niệm bất sanh, chuyển ở ngay chỗ này. Tuyệt đối chẳng phải là chuyển nơi cảnh bên ngoài, nên sẽ giống như Như Lai. Có thể chuyển từ chỗ này, thưa cùng chư vị, vấn đề ǵ cũng đều được giải quyết, giải quyết viên măn. V́ sao? Hễ chuyển th́ không chỉ hết thảy vạn pháp chuyển, mà sanh tử chuyển, luân hồi chuyển, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới đều chuyển. Sau khi đă chuyển, sẽ biến thành ǵ? Chẳng có cách nào diễn tả, không nói được, bất đắc dĩ gọi nó là Nhất Chân pháp giới. Nhất Chân pháp giới do đâu mà có? Do một niệm bất sanh. Một niệm bất sanh th́ pháp giới ấy được gọi là Nhất Chân pháp giới. Hễ khởi phân biệt, chấp trước, pháp giới ấy sẽ là mười pháp giới, trăm pháp giới, ngàn pháp giới, vô lượng vô biên pháp giới. Nhưng phải thưa cùng chư vị, “một” th́ là chân pháp giới; nhưng vô lượng vô biên sẽ chẳng phải là thật. Mười pháp giới chẳng thật! Mười pháp giới là ǵ? “Phàm những ǵ có tướng đều là hư vọng”, là “mộng, huyễn, bọt, bóng”, chẳng thật. “Thật” th́ chỉ có Nhất Chân pháp giới. Do vậy có thể biết, quư vị sử dụng nhất tâm, nhất niệm, sẽ chứng Nhất Chân pháp giới.

Tịnh Độ Tông dạy chúng ta trực tiếp cầu Nhất Chân pháp giới, v́ phương pháp tu hành vô cùng đơn giản, tức là “nhất niệm”, bốn chữ A Di Đà Phật, “bất sanh” là vọng niệm chẳng sanh. “Nhưng một niệm bất sanh” th́ một niệm là một niệm, bất sanh là bất sanh, chẳng phải là một niệm chẳng sanh! Phải hiểu rơ điều này! Nếu quư vị đọc sai câu này, nói một niệm chẳng sanh ư? Được thôi! Một niệm chẳng sanh là ǵ? Vô Tưởng Định! Quả báo của Vô Tưởng Định là trong tương lai sanh về Vô Tưởng Thiên, biến thành ngoại đạo. Nếu thật sự một niệm không sanh, thưa cùng chư vị, cái bàn chẳng sanh một niệm, cục đá chẳng sanh một niệm, khi nào quư vị có thể tu giống hệt như chúng? Thật sự tu thành công, bất quá quư vị cũng biến thành khối gỗ hay cục đá mà thôi! Do lẽ đó, phải hiểu rơ những câu giống như vậy. Chúng ta tu Tịnh Tông, “nhất niệm” là một câu A Di Đà Phật, “bất sanh” là tất cả hết thảy vọng niệm đều chẳng sanh. Không chỉ là đến Tây Phương Cực Lạc thế giới mới hiển hiện toàn thể, mà chưa đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, ở ngay nơi đây, cũng có bao giờ chẳng phải là toàn thể hiển hiện? V́ thế mới nói cùng quư vị: “Một niệm tương ứng một niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm Niệm Phật”. Tương ứng là ǵ? Chẳng sanh vọng niệm là tương ứng. Vừa niệm A Di Đà Phật, mà vẫn vừa khởi vọng tưởng, sẽ không tương ứng, v́ sao? Một niệm là sanh, chẳng phải là không sanh, trong một niệm c̣n có rất nhiều vọng niệm, không được rồi! Nhất định phải là một niệm chẳng sanh ra hết thảy vọng niệm th́ toàn thể tự tánh mới hiện tiền. Do lẽ này, kinh nói: “Nếu có thể chuyển vật, tức giống như Như Lai”, then chốt của việc chuyển là ở chỗ này, đấy là cách chuyển.

Trong quá khứ, khi tôi giảng kinh Lăng Nghiêm, chẳng giảng hai câu này. Thuở ấy, cảnh giới của chính ḿnh cũng chưa đạt được, rất nhiều chỗ chẳng hiểu thấu triệt ư nghĩa. V́ thế, nghe kinh th́ người nghe tôi giảng hiện thời có phước báo, người nghe trước kia chẳng có phước báo, v́ sao? Văn lẫn nghĩa đều chẳng thấu triệt. Không chỉ là nói [so sánh] giữa kinh được giảng trong quá khứ và trong hiện tại, nếu quư vị nghe băng thâu âm để so sánh, sẽ nhận thấy: Dù là cùng một bộ kinh, bộ kinh ấy đă được giảng một trăm tám mươi hai lần, một trăm lượt giảng trước kia chẳng giống một trăm lượt giảng về sau. Cảnh giới mỗi năm khác nhau, mỗi tháng khác nhau. V́ thế, cùng một bộ kinh, giảng suốt một đời vẫn hoan hỷ, v́ sao? Mỗi lượt đều khác nhau. Giảng lần trước chưa thấu triệt, có nhiều chỗ chẳng giảng, do chính tôi không biết, chưa thấy được! Đến lần sau, mới nh́n thấy chỗ ấy. V́ thế nói là giảng lần nào cũng đều có ngộ xứ. Đọc kinh cũng như vậy, mỗi lần đọc một lượt đều khác nhau, mỗi lượt đều có ngộ xứ. Sự ngộ ấy chẳng phải do nghiên cứu, chẳng cần nghĩ tới ư nghĩa, [hễ nghĩ tưởng] th́ sai mất rồi! Quư vị chỉ một mực niệm, tự nhiên ư nghĩa hiện tiền, đó gọi là ngộ xứ. Nếu hữu ư t́m cầu, quyết ư t́m cầu, đó chẳng phải là ngộ xứ. Quyết định chẳng thể cầu, chớ nên cầu hiểu, sẽ tự nhiên có ngộ xứ. Rơ ràng là Phật pháp đúng là chẳng giống với pháp thế gian.

      Thật ra, há có Phật pháp hay pháp thế gian? Phật pháp và pháp thế gian đều do chúng sanh hư vọng phân biệt, chấp trước. Trong pháp thế gian, nếu quư vị dùng nguyên tắc và nguyên lư của Phật pháp để tu học, sẽ khai ngộ giống hệt! Do đó, Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh và sách giáo khoa của học sinh Tiểu Học chẳng khác ǵ nhau! Dùng vàng làm đồ vật, tượng Phật là hoàng kim, mà chén trà cũng là hoàng kim, chẳng khác ǵ nhau! Thế gian và xuất thế gian, đích xác là một, không hai. Quư vị mê bèn gọi là thế gian; đă ngộ, bèn gọi là xuất thế gian. Giới hạn giữa mê và ngộ ở chỗ nào? Chẳng t́m thấy. V́ thế, nói lời chân thật cùng quư vị, mê và ngộ chẳng hai, Tánh và Tướng như nhau.

      “Chuyển” là chuyển biến quan niệm, chuyển từ tâm địa, chuyển biến cái tâm dấy vọng tưởng hằng ngày thành tâm thanh tịnh, chuyển từ chỗ này. Hễ chuyển điều này, hết thảy vạn pháp đều chuyển.

 

      (Diễn) Dĩ thử quán chi, khả kiến tự tánh Bát Nhă châu biến pháp giới, nhi Tây Phương thủy, điểu, thụ lâm, tự tất giai thuyết pháp dă.

      () 之,可 界,而 西 林,自 也。

      (Diễn: Xét theo điều này, có thể thấy là tự tánh Bát Nhă trọn khắp pháp giới, mà nước, chim, rừng cây trong Tây Phương đều tự nói pháp).

 

      Đây là cảnh giới “Lư Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại”. Nói là A Di Đà Phật biến hóa tạo tác, chẳng bằng nói tự tánh biến hóa tạo tác, v́ tự tánh và Di Đà chẳng hai. Cổ đức nói: “Duy tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà”. Do Tây Phương Cực Lạc thế giới cho đến A Di Đà Phật vẫn là do tự tâm biến hóa tạo ra, là những thứ thuộc trong Chân Như bản tánh của chính ḿnh. Lục Tổ nói: “Nào ngờ tự tánh vốn trọn đủ”. Tây Phương Cực Lạc thế giới là tự tánh vốn trọn đủ, A Di Đà Phật cũng là tự tánh vốn trọn đủ. A Di Đà Phật là ai? Là chính ḿnh, Tây Phương Cực Lạc thế giới vẫn là chính ḿnh. Chính ḿnh biến hiện thế giới Cực Lạc, há lẽ nào chính ḿnh chẳng thể văng sanh? Chẳng có lẽ ấy! Văng sanh là như Sanh Vô Sanh Luận[5] đă nói: “Sanh th́ quyết định sanh, đi th́ thật sự chẳng đi”. Tự tánh biến hiện, quư vị đi bằng cách nào? Xác thực là như thế. Thật giống như chúng ta xem TV, h́nh ảnh hiện thời là h́nh ảnh của thành phố Đài Bắc, lát sau, phần tin tức bèn chiếu cảnh Bạch Cung (ṭa Bạch Ốc) của Mỹ, có đi hay không? Chẳng đi, rơ ràng là ở cùng một chỗ, nhưng xác thực là hai nơi, chẳng sai. Do vậy có thể biết: Tây Phương Cực Lạc thế giới tuy nói [cách xa Sa Bà] mười vạn ức cơi Phật, trong một niệm liền đạt đến, [giống như xem TV] trong khoảng một niệm, h́nh ảnh liền chuyển biến. Đừng nghĩ cơi ấy quá xa, chẳng dễ đến, đó đều là chấp trước nơi mặt sự tướng, mê rất sâu, chẳng biết chân tướng sự thật.

 

      (Sao) Khởi Tín vân: “Ly niệm tướng giả, đẳng hư không giới”. Thị cố, hư không giới trung, phổ giai thuyết pháp.

      () 云:離 者,等 界。是 中,普 法。

      (Sao: Luận Khởi Tín nói: “Tướng ly niệm bằng với hư không giới”. V́ thế, trong hư không giới, đều thuyết pháp trọn khắp).

 

      Câu này trích dẫn từ luận Khởi Tín.

 

      (Diễn) Ly niệm tướng giả, đẳng hư không giới giả, Luận văn vân: “Sở ngôn giác nghĩa giả, vị tâm thể ly niệm. Ly niệm tướng giả, đẳng hư không giới, vô sở bất biến. Pháp giới nhất tướng, tức thị Như Lai b́nh đẳng Pháp Thân”.

       () 者,等 者,論 :所 者,謂 念。離 者,等 界,無 遍。法 相,即 身。

      (Diễn: “Tướng ly niệm bằng với hư không giới”. Luận [Khởi Tín] có nói: “Nói đến nghĩa Giác là nói tâm thể ly niệm. Tướng ly niệm bằng với hư không giới, không đâu chẳng trọn khắp. Pháp giới một tướng chính là Pháp Thân b́nh đẳng của Như Lai”).

 

       Khởi Tín Luận do Mă Minh Bồ Tát soạn. Đoạn văn này cũng nhằm bảo chúng ta Pháp Thân là ǵ. Chứng đắc Pháp Thân, người ấy bèn thành Phật, cũng có nghĩa là thành Chánh Đẳng Chánh Giác. Tuy chẳng phải là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nhưng người ấy thật sự là bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. Chánh Đẳng Chánh Giác là Phật, nói theo Viên Giáo sẽ là Bồ Tát từ Sơ Trụ trở lên. Bồ Tát từ Sơ Trụ trở lên là Phần Chứng Phật, có năng lực hiện ra ba mươi hai tướng, tám mươi thứ [tùy h́nh] hảo, giống như trong phẩm Phổ Môn đă nói: “Nên dùng thân Phật để đắc độ, bèn hiện thân Phật để thuyết pháp”, Ngài có năng lực ấy.

      Đoạn văn này rất quan trọng. “Sở ngôn giác nghĩa giả” (Nói đến nghĩa giác), giác là ǵ? Bất giác là ǵ? Giác và bất giác có giới hạn ở chỗ nào? Ở đây đă nói rất rơ ràng: “Tâm thể ly niệm” là giác, tâm thể có niệm là bất giác. Chư vị phải biết: Giác tâm bất động, tâm động là bất giác. Hễ tâm chúng ta động là mê, là bất giác, giác tâm và chân tâm bất động. Do nó bất động, nên mới trọn khắp hư không pháp giới. Hễ bất động liền trọn khắp. Bất động bèn chẳng có giới hạn, hễ động th́ c̣n có giới hạn. Chúng ta thấy nước trong ao chuôm, khi nước chẳng động bèn chẳng có giới hạn. Ao chuôm to bao nhiêu, nước to bấy nhiêu. Nếu chúng ta ném một viên đá nhỏ vào đó, liền động, nước ngay lập tức xuất hiện từng ṿng xoáy, đă có giới hạn. V́ vậy, hễ động bèn có mười pháp giới; bất động là Nhất Chân pháp giới. Bất động là thật, động là giả. V́ hễ là động, dẫu có giới hạn, nhưng giới hạn ấy thường biến hóa, chẳng phải là bất biến. Tâm động bèn biến hóa trong từng sát-na, tâm chẳng động sẽ vĩnh viễn bất biến.

      Khi nào chư vị thật sự chứng đắc cái tâm của chính ḿnh bất động, sẽ chẳng già, dáng vẻ sẽ vĩnh viễn chẳng biến đổi. Mười tám tuổi chứng đắc, quư vị mỗi năm đều là mười tám. Hai mươi tuổi chứng đắc, bèn mỗi năm đều là hai mươi! Bất động sẽ chẳng biến hóa. Quư vị c̣n bị già nua, nói cách khác, cái tâm của quư vị c̣n bị động. Hiểu đạo lư này, đích xác là quư vị có thể khống chế vạn vật trong vũ trụ, chẳng bị xoay chuyển bởi vạn vật trong vũ trụ. Đây là như đoạn trước đă nói: Có thể chuyển vật, chẳng bị vật chuyển. Có thể thấy “chuyển vật, không bị vật chuyển” th́ mấu chốt là tâm địa. Cái công tắc là nơi tâm địa, chẳng ở bên ngoài, bên ngoài t́m chẳng thấy. Các nhà khoa học, triết gia, tôn giáo gia t́m cách nào cũng t́m chẳng thấy, v́ sao? Họ t́m bên ngoài, chẳng biết t́m trong nội tâm. Đức Phật bảo chúng ta: Cái mấu chốt ấy ở trong nội tâm, chẳng ở bên ngoài, bên ngoài th́ t́m cách nào cũng chẳng thấy.

      Nói ra Lư ấy, tiếp đó là Sự. Trong phần trước là Tánh Đức, kế đó là nói về Tu Đức, Tu Đức từ “ly niệm tướng”. Trong pháp Bồ Tát của Đại Thừa, cương mục tu hành của Bồ Tát rất nhiều, quy nạp lại th́ chỉ có sáu điều, gọi là Lục Độ. Nếu lại quy nạp Lục Độ, quy nạp đến cuối cùng, sẽ thành chỉ c̣n một điều là Bố Thí. Quư vị nghĩ xem: Tŕ Giới và Nhẫn Nhục là Vô Úy Bố Thí. Ta tŕ giới, người ta chẳng sợ hăi ta, v́ sao? Dẫu để lộ tài vật, “người ấy giữ giới ‘không ăn trộm’, sẽ chẳng tước đoạt của ta. Ta để những thứ ấy ở đây rất an toàn, quyết định sẽ chẳng bị mất đi, cũng chẳng cần phải đề pḥng”, tâm người ấy an ổn. “Người ấy tŕ giới chẳng sát sanh, ta xử tệ với người ấy cỡ nào, người ấy cũng chẳng hại ta”, tâm người ta càng thêm yên ổn, nên gọi là Vô Úy. V́ thế, Tŕ Giới và Nhẫn Nhục là Vô Úy Bố Thí, c̣n Tinh Tấn, Thiền Định, và Bát Nhă là Pháp Bố Thí. Trong Bố Thí gồm có Tài Bố Thí, Pháp Bố Thí, và Vô Úy Bố Thí. Toàn thể quy nạp lại, sẽ biến thành một điều là Bố Thí.

      Bố Thí là ǵ? Là xả, là ĺa. Phương pháp tu hành của Bồ Tát từ sơ phát tâm cho đến thành Phật, là xả, là ĺa mà thôi. Hết thảy các pháp xả ĺa sạch sành sanh, thảy đều bỏ đi, sẽ thành Phật. Đẳng Giác Bồ Tát th́ những thứ khác đều bỏ sạch, hăy c̣n một phẩm sanh tướng vô minh chưa bỏ, cho nên vẫn gọi là Bồ Tát, không gọi là Phật. Chư vị phải biết: Tu hành trong Đại Thừa Phật pháp là xả, chẳng có ǵ không xả, thứ ǵ cũng đều phải xả. Bên trong là tư tưởng, kiến giải, các thứ cách nghĩ, cách nh́n đều phải bỏ, tâm bèn thanh tịnh. Bên ngoài là thân, tâm, thế giới, hết thảy đều có thể bỏ, chẳng bị vật chuyển. V́ sao hiện thời quư vị bị vật chuyển? Quư vị chẳng bỏ được, chẳng chịu bỏ, nên quư vị mới bị chúng nó chuyển. Nếu quư vị bỏ được, chúng nó làm sao xoay chuyển, ảnh hưởng quư vị cho được? Chẳng thể có chuyện ấy! Nay quư vị chẳng thể bỏ tài, trong tâm luôn nghĩ ta c̣n có bao nhiêu tiền, làm thế nào để kiếm tiền, lại sợ tiền bạc mất giá, lại sợ kinh tế chẳng khấm khá, phiền năo thảy đều ùa đến! Nếu quư vị có thể bỏ sạch, há có những nỗi ưu lự, phiền năo ấy? Thứ ǵ cũng đều chẳng có, tâm thanh tịnh lắm, tự tại lắm! Hễ có thứ ǵ mà quư vị chẳng bỏ được, sẽ bị rắc rối ngay, khiến cho quư vị bận ḷng! Hễ quư vị bận ḷng, sẽ bị phiền phức oan uổng, v́ sao? Đến cuối cùng đều rỗng tuếch! Không chỉ là mai sau rỗng tuếch, mà ngay lúc này cũng là rỗng tuếch tuềnh toang!

      Nếu dùng phương pháp của Thiền Tông, cái này ta không buông xuống được, cái kia chẳng buông xuống được, bèn quay lại t́m xem không buông xuống được ở chỗ nào. Quư vị đi t́m, t́m xem chỗ nào chẳng buông xuống được, đến cuối cùng, t́m chẳng thấy! V́ lẽ đó, Nhị Tổ Huệ Khả thưa: “Tâm con bất an”, cầu Đạt Ma Tổ Sư an tâm cho Ngài. Đạt Ma Tổ Sư x̣e tay ra: “Ông lấy cái tâm ra, ta sẽ an nó cho ông”. Huệ Khả lại quay lại t́m, cuối cùng thưa với Tổ: “Con t́m tâm trọn chẳng thể được”, con không biết tâm ở chỗ nào? Chẳng biết tâm ở chỗ nào, c̣n ǵ mà an với chẳng an? Tâm ở chỗ nào, t́m không thấy! Tổ nói: “Ta đă an cái tâm cho ông rồi!” (dữ nhữ an tâm cánh). Nghe câu ấy, Nhị Tổ bèn khai ngộ.

      Nếu quư vị có ưu lự, có phiền năo, quư vị cũng dùng phương pháp ấy, quay lại xét xem: “Ta ưu lự ở chỗ nào?”. Hăy đi t́m, ưu lự ở chỗ nào? Phiền năo ở chỗ nào? T́m đến cuối cùng, chẳng thể được. Không thể được, nói cách khác, căn bản là quư vị chẳng có ưu lự, căn bản là chẳng có phiền năo, đó là mê! Hễ quư vị quay đầu, quay đầu liền giác ngộ, mới hiểu vốn là rỗng tuếch! Kinh Kim Cang nói chẳng sai: “Phàm những ǵ có tướng, đều là hư vọng”, bất luận là sắc tướng hay tâm tướng, trong tâm tưởng thứ ǵ sẽ bèn có tâm tướng (h́nh tướng của thứ ấy hiện bóng trong tâm). Tâm hễ tưởng, bèn có tướng. Người Hoa tạo văn tự rất cao minh: “Tưởng” () là trong Tâm () có Tướng (). “Tư” () là trong tâm có giới hạn, chữ Điền () là vạch giới hạn [như từng ô ruộng]. Tưởng chỉ là dấy vọng tưởng, c̣n chưa có phân biệt, chấp trước, c̣n chưa có giới hạn. Tư nghiêm trọng hơn Tưởng, v́ sao? Tưởng chẳng có thiện ác, không tạo nghiệp. Trong Tư có giới hạn, bèn tạo nghiệp. Quư vị hồi quang phản chiếu, sẽ biết quả thật ngay trong lúc này là bất khả đắc, há c̣n nói ǵ đến tương lai, rỗng tuếch! [Chờ đến] tương lai [mới cảm nhận nó là] rỗng tuếch tức là đă mê rất sâu rồi. Ngay trong hiện tại đây đă là rỗng không, chẳng cần đợi đến tương lai! Người học Phật hiểu đạo lư này, chẳng có một ai không là thân tâm tự tại, sung sướng, pháp hỷ sung măn, thật sự đạt được thọ dụng trong Phật pháp. Học Phật mà học đến nỗi mỗi ngày mặt ủ mày chau, chắc chắn là đă trái nghịch Phật pháp, học sai lầm mất rồi! Phật pháp thật sự là phá mê khai ngộ, nhất định là thân tâm khỏe mạnh, sung sướng, tự tại, đó là học Phật bèn ngay lập tức đạt được điều tốt đẹp!

      Tâm lượng “đẳng hư không giới” (bằng với hư không giới), v́ sao? Hư không pháp giới là vật được biến hiện bởi tâm lượng của chính ḿnh, lẽ đâu chẳng bằng? Đương nhiên là bằng. “Vô sở bất biến” (không đâu chẳng trọn khắp), trí huệ trọn khắp hết thảy các pháp giới. Đối với năng lực của lục căn, tánh Thấy trọn khắp hết thảy các pháp giới; do đó, hết thảy các pháp giới không đâu chẳng thấy. Tánh Nghe trọn khắp hết thảy các pháp giới, âm thanh trong hết thảy các pháp giới chẳng có ǵ không nghe, thứ ǵ cũng đều trọn khắp hết thảy các pháp giới. V́ lẽ đó, lẽ nào thuyết pháp lại chẳng trọn khắp các pháp giới?

      “Pháp giới nhất tướng”, đó là Nhất Chân, “tức thị Như Lai b́nh đẳng Pháp Thân” (chính là Pháp Thân b́nh đẳng của Như Lai), Như Lai là tự tánh, là danh hiệu của tự tánh. “Như” là hết thảy đều Như, chẳng có pháp nào không Như. “Hậu Phật như đồng cổ Phật chi tái lai” (vị Phật sau giống như cổ Phật trở lại). Do đó, sau khi chứng nhập, chẳng có trước sau. Có nhiều người hỏi: “Phật nào lớn nhất?” Chẳng có Phật nào lớn nhất. Nói vị Phật nào lớn nhất, sẽ c̣n có vị Phật nhỏ nhất, đó là sai lầm. Vị Phật nào thành Phật trước, vị Phật nào thành Phật sau? Chẳng có, thành Phật chẳng có trước sau. Ví như các ḍng nước đổ vào biển cả, quư vị nói xem: Nước nào là ḍng trước, nước nào là của ḍng sau? Chẳng có, ḥa lẫn một chỗ. Ví như những cái đèn này, khi chúng ta bật đèn th́ có trước sau, nhưng khi đă bật hết cả rồi, quư vị nói xem ánh sáng nào là trước, ánh sáng nào là sau, chẳng có. Nói trước sau, hoặc lớn nhỏ, đều là vọng tưởng, chấp trước của kẻ mê! Sự thật là chẳng có, quyết định chẳng có trước hay sau, chẳng có lớn hay nhỏ!

      V́ thế, Tây Phương Cực Lạc thế giới mới là thật sự b́nh đẳng, Pháp Thân b́nh đẳng. Khi mê, nói xưa, nay, lớn, nhỏ với quư vị, đó là lừa quư vị, Phật lừa quư vị, Phật cũng nói lời thật. Đức Phật giảng kinh, thuyết pháp nhằm hướng dẫn quư vị, Ngài có nêu tỷ dụ: “Hoàng diệp chỉ đề” (黃葉止啼: Lá vàng dỗ trẻ thôi khóc). “Hoàng diệp chỉ đề” là lừa quư vị. Trẻ nhỏ khóc nhè, làm cách nào đây? Muốn cho nó thôi khóc, nhặt một chiếc lá vàng rụng xuống trong mùa Thu, bảo đứa bé: “Chiếc lá này là vàng, rất đáng giá, con có thể đem mua kẹo ăn”. Đứa trẻ nghe xong, rất hoan hỷ, thôi khóc, đă đạt được mục đích, chủ yếu là dỗ cho nó khỏi khóc. C̣n nó có thể đổi thành tiền hay không là chuyện khác. Đức Phật giảng kinh thuyết pháp cho quư vị, đó là “hoàng diệp chỉ đề”, quư vị phải thật sự khai ngộ từ chỗ này! Ai độ quư vị? Tự ḿnh độ chính ḿnh, đức Phật chẳng độ chúng sanh. Đức Phật chỉ dùng lá vàng dỗ trẻ thôi khóc mà thôi! Từ chỗ này, chúng ta mới có thể thật sự tiến nhập nghĩa chân thật của Phật. Hôm nay chúng tôi giảng tới chỗ này!

A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa

Phần 91 hết

 

 



[1] “Tả hữu phùng nguyên” (左右逢源) là một thành ngữ xuất phát từ thiên Lâu Lan Hạ trong sách Mạnh Tử. Câu nói này nguyên gốc là “tư chi thâm, tắc thủ chi tả hữu phùng nguyên”. Theo các nhà chú giải, Nguyên là nguồn nước, “tả hữu phùng nguyên” nghĩa là đến nơi đâu cũng đều t́m được nguồn nước sung túc, nên rất thoải mái. Do đó, nếu hiểu theo nghĩa bóng, câu nói ấy nhằm diễn tả ư nghĩa: Công phu đă đạt đến mức độ sâu chắc, mọi việc đều thuận theo ḷng muốn mà hành xử, nghĩ đâu làm đúng đó, chẳng gặp trở ngại ǵ. Nhà Thiền dùng thành ngữ này nhằm diễn tả cảnh giới của bậc đă chứng nhập, đối với bất cứ pháp nào cũng đều thấu hiểu thể tánh của nó, vận dụng vô ngại, pháp nào vào trong tay họ cũng đều là phương tiện để phô diễn Chân Như chẳng trở ngại.

[2] Phệ Lưu Ly là cách phiên âm khác của chữ Tỳ Lưu Ly (Vaidūrya), chữ này c̣n được phiên âm là Bệ Đầu Lê, Bệ Trù Lê Dạ, hoặc gọi tắt là Lưu Ly, là một loại ngọc trong suốt, có màu xanh thẫm, được xếp vào trong thất bảo.

[3] Bộ sách này có tên gọi đầy đủ là Lăng Nghiêm Kinh Nghĩa Sớ Thích Yếu Sao, gồm sáu quyển, do ngài Hoài Viễn viết vào đời Tống.

[4] Ở đây, 4x60x900=216.000, tức là hai mươi mốt vạn sáu ngàn lần, hai cái mười vạn tám ngàn lần là hai mươi mốt vạn sáu ngàn lần.

[5] Bộ luận này có tên gọi đầy đủ là Tịnh Độ Sanh Vô Sanh Luận do ngài U Khê Truyền Đăng soạn vào đời Minh, xiển minh giáo nghĩa “sanh mà vô sanh, vô sanh mà sanh” trong Tịnh Độ. Cùng với các bộ Tịnh Độ Thập Nghi Luận và Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận, được gọi chung là Tịnh Độ Tam Luận, rất được coi trọng.