A Di Đà Kinh Sớ
Sao Diễn Nghĩa
阿彌陀經疏鈔演義
Phần 96
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Huệ Trang và Đức Phong
Tập
191
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn
Nghĩa Hội Bản, trang ba trăm chín mươi mốt:
(Diễn)
Hựu phi thọ giả, phi ứng đồng liên tŕ chi
thọ. Phi bất thọ giả, phi báo trí bất liên tŕ thọ.
Song phi nhị biên, minh trung pháp thể. Hựu thử thọ
phi trường lượng, diệc phi đoản lượng,
vô diên, vô xúc, vân phi thọ phi bất thọ dă.
(演) 又 非 壽 者,非 應 同 連 持 之 壽;非 不 壽 者,非 報 智 不 連 持 壽。雙 非 二 邊,冥 中 法 體。又 此 壽 非 長 量,亦 非 短 量,無 延 無 促,云 非 壽 非 不 壽 也。
(Diễn: Lại nữa,
“chẳng phải thọ” là chẳng giống với thọ
mạng do tướng duy tŕ liên tục. “Chẳng phải
là không thọ” v́ chẳng phải là thọ mạng của
Báo Thân Trí Huệ chẳng có tướng duy tŕ liên tục.
Đều chẳng thuộc vào hai loại ấy, ngầm
khế hợp pháp thể. Thọ mạng ấy lại chẳng
phải là số lượng dài, chẳng phải là số
lượng ngắn, không kéo dài, chẳng rút ngắn, nên nói
là “chẳng phải là thọ, chẳng phải là không thọ”).
Đoạn
này nói về Pháp Thân. Pháp Thân chẳng có khởi đầu,
chẳng có kết thúc, nên chẳng thể nói tới thọ
và “chẳng thọ” được! Chúng ta nói “thọ” th́
nói chung là nó có số lượng. Nếu đă là vượt
ngoài số lượng, sẽ chẳng thể hạn cuộc
trong ngôn từ hay suy lường! Đó là nói theo Pháp Thân, chứ
nói theo Ứng Thân và Báo Thân vừa được nhắc
đến trong phần trước th́ mới có cách nói
như vậy[1]. Nếu rời khỏi
Báo Thân và Ứng Hóa Thân, sẽ như nhà Thiền thường
nói: “Ngôn ngữ dứt bặt,
tâm hành xứ diệt”.
“Phi thọ giả, phi ứng
đồng liên tŕ chi thọ” (“chẳng phải thọ”
là chẳng ứng với thọ mạng do tướng tiếp
nối): Ứng Hóa Thân dùng tướng liên tục để
làm thọ mạng, Phật là như thế, chúng ta cũng
chẳng ra ngoài lệ ấy! Nói thật ra, thân thể chúng
ta sanh diệt trong từng sát-na, hiện tượng ấy
là tướng tiếp nối trong từng sát-na. Nếu thật
sự khế nhập Thật Tướng, sẽ hiểu
cái thân hiện tại của chúng ta cũng là bất sanh, bất
diệt. Vốn là chẳng sanh, lấy đâu ra diệt?
Đạo lư này hết sức sâu, rất khó hiểu! Dẫu
tỷ dụ, cũng chẳng có cách nào tỷ dụ rất
thích đáng! Tỷ dụ chỉ có thể sánh ví phảng
phất, phải từ sự phảng phất ấy mà thấu
hiểu.
Ví
như chúng ta xem phim, chư vị đều biết chuyện
thường thức này. Chúng ta thấy các h́nh ảnh trong
phim, [cứ tưởng] những tướng ấy dường
như là thật. Thật ra, các h́nh ảnh đó là một
loại tướng liên tục. Chúng ta nh́n vào cuộn phim
liền biết đó là h́nh ảnh trong từng tấm phim
một, tấm phim này được chiếu lên màn bạc,
ống kính [của máy chiếu phim] lập tức đóng lại
[rồi mở ra] chiếu tấm phim thứ hai. Do tốc
độ nhanh, chúng ta trông thấy những h́nh ảnh ấy
giống như thật. Bất quá tốc độ của
máy là một giây chiếu hai mươi bốn tấm phim,
tức là ống kính đóng mở hai mươi bốn lần.
Hai mươi bốn lần [đóng mở] mà đă lừa
được chúng ta, [khiến cho] chúng ta ngỡ là rất
giống như thật! Đức Phật bảo các hiện
tượng trong hiện tiền rất giống ống
kính của máy chiếu phim đóng mở, bất quá tốc
độ quá nhanh, nhanh đến nỗi chúng ta chẳng có
cách nào phân biệt! Đức Phật bảo: Trong một
cái khảy ngón tay có sáu mươi sát-na, một phần sáu
mươi của [thời gian] khảy ngón tay là một
sát-na, trong một sát-na có chín trăm lần sanh diệt. Một
giây chúng ta có thể khảy ngón tay bốn lần, bốn
nhân với sáu mươi lại nhân với chín trăm, tức
là trong một giây, “ống kính” nơi A Lại Da Thức của
quư vị đóng mở bao nhiêu lần? Vừa đúng hai lần
của mười vạn tám ngàn lần (hai mươi mốt
vạn sáu ngàn lần). [Ống kính của máy chiếu phim
đóng mở] hai mươi bốn lần mà chúng ta đă
chẳng có cách nào phân biệt nó là tướng liên tục,
huống hồ một giây là hai mươi mốt vạn
sáu ngàn lượt, chúng ta làm sao có thể biết những
hiện tượng ấy là giả! Kinh Lăng Nghiêm
đă nói rất hay: Tất cả hết thảy các tướng
cảnh giới, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười
pháp giới đều chẳng có ngoại lệ, “sanh ra từ nơi đâu, bèn diệt
từ nơi đó”. Đừng nên nghĩ chúng ta mới
vừa từ nhà đến đây, chẳng có chuyện ấy!
Chẳng đến, chẳng đi, sanh ra từ nơi
đâu, diệt mất ngay tại đó, đó mới là
chân tướng sự thật. Nh́n từ Tướng Phần
th́ tướng liên tục, tiếp nối được
gọi là “liên tŕ” (連持), [có nghĩa là] một hiện tượng
được duy tŕ liên tục, chúng ta gọi nó là thọ
mạng. Thọ mạng ấy có dài hay ngắn, đó là Ứng
Hóa Thân. Chỉ cần là Tướng Phần, sẽ đều
chẳng thể vượt ra ngoài nguyên lư này.
“Phi bất thọ giả, phi báo
trí bất liên tŕ thọ” (“chẳng phải là thọ” v́
chẳng phải là thọ mạng của Báo Thân trí huệ
không có tướng duy tŕ liên tục): Đây là nói tới
Báo Thân. Báo Thân dùng trí huệ làm thân. Nó chẳng phải là sắc
tướng, sắc tướng là tướng liên tục.
Do nó chẳng phải là sắc tướng, nên chẳng thể
nói tới chuyện liên tục. Báo Thân có khởi đầu,
chẳng có kết thúc. Sau khi quư vị chứng đắc,
[Báo Thân] sẽ không bị mất đi. Đây là nói về
trí huệ. Nay chúng ta chẳng có trí huệ, trí huệ đă
đi về đâu rồi? Trí huệ đều biến
thành phiền năo. Kinh Đại Thừa thường nói “phiền năo chính là Bồ Đề”,
trí huệ là Bồ Đề, nhưng nay chúng ta biến nó
thành phiền năo cả rồi! Do đó, phiền năo vô
lượng vô biên. Sau khi Bồ Tát tu học đến một
mức độ nào đó, chứng đắc Báo Thân. Biệt
Giáo gọi sự chứng đắc Báo Thân ấy là Sơ
Địa Bồ Tát, phá một phẩm vô minh, thấy một
phần Pháp Thân. Thấy một phần Pháp Thân cũng là chứng
đắc Báo Thân. Trong Viên Giáo, sẽ là từ Sơ Trụ
trở lên. Kinh Hoa Nghiêm nói [những vị Bồ Tát từ
Sơ Trụ trở lên thuộc về] bốn mươi
mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ, đấy
là [những người] chứng đắc Báo Thân. Báo Thân
có khởi đầu, không có kết thúc. Do đó, nó cũng
chẳng phải là thọ mạng của Báo Thân trí huệ,
không có tướng duy tŕ liên tục. Pháp Thân chẳng có khởi
đầu, không có kết thúc, Báo Thân có khởi đầu,
không có kết thúc, Ứng Thân có khởi đầu, có kết
thúc, nên “song phi nhị biên”
(đều chẳng thuộc về hai loại ấy), cả
hai bên đều chẳng phải. “Minh trung pháp thể” (ngầm khế hợp pháp thể): Minh (冥) là âm thầm, ngấm
ngầm, nó dung thông, khế hợp cùng bản thể của
các pháp, là bản thể của hết thảy các pháp.
“Thử thọ phi trường
lượng, diệc phi đoản lượng” (thọ
mạng ấy chẳng phải là số lượng dài, mà
cũng chẳng phải là số lượng ngắn). Pháp
Thân Lư thể đă là chẳng có khởi đầu, không có
kết thúc, nên chẳng thể nói số lượng của
nó là dài, cũng chẳng thể nói số lượng của
nó là ngắn. Dài và ngắn là “hai bên”, nó vượt thoát hai
bên. “Vô diên, vô xúc” (chẳng
kéo dài, chẳng rút ngắn), “diên”
(延) là thời gian lâu dài, “xúc” (促) là thời gian ngắn
ngủi. “Vân phi thọ, phi bất
thọ dă” (nói là “chẳng phải là thọ, chẳng phải
là không thọ”). Thọ và phi thọ cũng là hai bên, Pháp
Thân vĩnh viễn rời khỏi hai bên, chẳng thể
nghĩ bàn! Chúng ta hễ khởi tâm động niệm
đều rớt vào hai bên, chỉ có lúc chẳng khởi
tâm, không động niệm th́ mới có thể ngầm khế
hợp Trung Đạo, mới có chút tương ứng với
Pháp Thân. Đó là giải thích cho câu “phi thọ, phi bất thọ”.
(Diễn)
Nhiên thượng tam thọ, diệc thị tùy nghi cơ
giáo, phi viên đốn nghĩa dă.
(演) 然 上 三 壽,亦 是 隨 宜 機 教,非 圓 頓 義 也。
(Diễn:
Nhưng ba thứ thọ mạng trên đây cũng là giáo
nghĩa tùy thuận cơ nghi, chẳng phải là ư nghĩa
viên đốn).
Đức
Phật dạy thọ mạng của ba thân khác nhau, cách nói
ấy cũng là ứng cơ thuyết pháp, là phương
tiện thuyết pháp. Nói thật sự th́ như thế
nào? Thật sự th́ như trong đoạn kế tiếp
đă khải thị cho chúng ta đôi chút, đúng là chẳng
thể nói được, nhất định phải là
chính ḿnh tự thấu hiểu. “Phi
viên đốn nghĩa” (chẳng phải là ư nghĩa
viên đốn): Những điều vừa nói trên đây
chẳng phải là giáo nghĩa Viên Giáo, chẳng phải
giáo nghĩa Đốn Giáo. Trong phần trước, đức
Phật đă nói theo giáo nghĩa Tạng Giáo, giáo nghĩa
Thông Giáo, giáo nghĩa Biệt Giáo, nên nói như vậy. Giáo
nghĩa Đốn Giáo chẳng nói như thế.
(Diễn)
Nhược cứ Viên Giáo tánh cụ pháp môn, tam thân tánh cụ,
tam thân dung tức, tùng tánh khởi tu. Tánh kư tam thân, vô thỉ,
vô chung, Tu diệc tam thân, vô thỉ, vô chung. Tánh kư tam thân dung
tức, Tu diệc tam thân dung tức. Cử nhất tức
tam, ngôn tam tức nhất, bất khả tư nghị giả,
Viên Giáo thọ dă.
(演) 若 據 圓 教 性 具 法 門,三 身 性 具,三 身 融 即,從 性 起 修,性 既 三 身,無 始 無 終,修 亦 三 身,無 始 無 終。性 既 三 身 融 即,修 亦 三 身 融 即,舉 一 即 三,言 三 即 一,不 可 思 議 者,圓 教 壽 也。
(Diễn:
Nếu xét theo pháp môn “tánh trọn đủ” trong Viên Giáo th́
ba thân tánh trọn đủ. Ba thân dung thông, chính là lẫn
nhau, từ tánh khởi tu. Tánh đă là ba thân, không có khởi
đầu, chẳng có kết thúc, Tu cũng là ba thân, không
có khởi đầu, chẳng có kết thúc. Tánh đă là
“ba thân dung thông, chính là lẫn nhau”, nên Tu cũng là “ba thân
dung thông, chính là lẫn nhau”. Nêu ra một bèn chính là ba, nói
đến ba th́ chính là một, chẳng thể nghĩ bàn.
Đó là thọ mạng theo Viên Giáo).
Hai
ḍng rưỡi này toàn là lời chân thật, hoàn toàn là chân
tướng sự thật. Chư Phật, Bồ Tát là
như thế, mà mỗi người chúng ta cũng đều
như thế. Rất đáng tiếc là bản thân chúng ta
chẳng biết, đă mê! Tự ḿnh nghĩ là thọ mạng
của Phật, Bồ Tát rất dài, thọ mạng của
chúng ta rất ngắn. Phật, Bồ Tát đă chứng
đắc “ba thân một Thể”, c̣n chúng ta th́ Pháp Thân và Báo
Thân đều chưa chứng đắc. Nh́n từ phía
chư Phật, Bồ Tát, chúng ta chẳng khác các Ngài. V́ sao
chúng ta và Phật, Bồ Tát có cách nh́n khác nhau? Nguyên nhân chỉ
có một, phàm phu mê mất chính ḿnh, đó là nguyên nhân. V́ thế,
trong Phật môn nói đến mê và ngộ, mê là ǵ? Mê là chính
ḿnh. Ngộ là ǵ? Ngộ vẫn là chính ḿnh. V́ thế, nói mê
và ngộ chẳng hai! Mê và ngộ là một chuyện, chẳng
phải là hai chuyện. Nh́n từ tiêu chuẩn này, khi nào mới
giác ngộ? Ắt phải là khi đại khai viên giải
th́ mới thật sự khai ngộ. Chúng ta ai nấy đều
mong khai ngộ, nhưng chẳng thể ngộ. V́ sao chẳng
thể ngộ? Có chướng ngại, khiến cho ngộ
môn của quư vị bị chướng ngại. Chướng
ngại là ǵ? Đương nhiên chướng ngại rất
nhiều, Phật pháp quy nạp chúng thành Nhị Chướng
hoặc Tam Chướng. Nhị Chướng là Phiền
Năo Chướng và Sở Tri Chướng. Tam Chướng
là Hoặc Chướng, Nghiệp Chướng và Báo Chướng,
hoặc, nghiệp, khổ. Phải dùng phương pháp ǵ để
trừ bỏ các chướng ngại ấy? Trừ bỏ
sẽ khai ngộ; hễ trừ bỏ, ba thân bèn hiện tiền.
Muốn
trừ Tam Chướng, cũng chỉ có một cách là tu
Định. Trừ Định ra, chẳng có cách nào trừ
khử chướng ngại. Phật pháp tuy nói tám vạn bốn
ngàn pháp môn, hoặc vô lượng pháp môn, có pháp môn nào chẳng
phải là tu Định? Thảy đều là tu Định,
nhưng mỗi pháp môn tu Định khác nhau, cách thức tu
Định khác nhau. Tám vạn bốn ngàn hoặc vô lượng
[pháp môn] chính là cách thức, phương pháp khác nhau,
nhưng đều nhằm tu Thiền Định. Chúng ta dùng
cách niệm A Di Đà Phật. Kinh A Di Đà nói “nhất tâm bất loạn”,
nhất tâm bất loạn là Thiền Định. Chúng ta
thường nói tu tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh là Thiền
Định. Đối với chuyện này, tôi tin là các
đồng tu nghe cũng đă nhàm tai, chẳng biết
đă nghe nói bao nhiêu lần, có tác dụng ǵ hay không? Chẳng
có tác dụng chi hết! V́ sao biết là vô dụng? Quư vị
suốt ngày từ sáng đến tối vẫn là thị
phi, nhân ngă, tham, sân, si, mạn, trước nay chưa hề
thật sự dấy động ư niệm muốn tu Định.
V́ lẽ đó, tụng kinh cũng thế, lạy Phật
cũng thế, niệm Phật cũng vậy, tŕ chú
cũng vậy, công phu đều chẳng đắc lực,
đều chẳng thành tựu. Nhất định phải
hiểu: Trong hiện tiền, chúng ta phải tu đoạn
phiền năo nhằm trừ bỏ những chướng ngại
ấy.
Ngày
hôm qua, pháp sư Huệ Thiên ở chùa Tịnh Luật tại
Nam Đầu dẫn mấy vị đồng học
đến thăm tôi, họ mở một Phật học
viện bên đó. Sư dẫn năm học viên đă tốt
nghiệp trong khóa thứ nhất đến hỏi tôi: “Tu
học th́ phải tu theo cách nào?” Tôi bảo họ: “Tứ
Hoằng Thệ Nguyện đă dạy rơ ràng, rành rẽ
phương pháp, thứ tự và cương lănh trọng yếu
trong chuyện tu hành”. Trong Tứ Nguyện, chỉ có điều
thứ nhất là nguyện, “chúng
sanh vô biên thệ nguyện độ” là phát Bồ Đề
tâm, ba điều sau đều là hành. Đối với ba
điều ấy, chẳng thể đảo lộn thứ
tự, hăy từ đoạn phiền năo mà khởi tu. “Phiền năo vô biên thệ nguyện
đoạn”. Sau khi đă đoạn phiền năo th́ mới
có thể học pháp môn, “pháp
môn vô lượng thệ nguyện học”. Hiện thời,
mọi người tu hành chẳng thành công, càng tu càng
điên đảo, càng tu càng nhiều phiền năo, nguyên nhân
ở chỗ nào? Quư vị đă làm sai thứ tự. Trong
Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao, đối với phần giảng về
tựa đề kinh, Thanh Lương đại sư
đă nói hết sức rơ ràng: Chẳng đoạn phiền
năo th́ hết thảy các pháp môn đă học đều là
tăng trưởng tà kiến! Mỗi ngày đă có rất
nhiều tà kiến, mà lại c̣n tăng trưởng tà kiến
hằng ngày, làm sao có thể thành công cho được?
Kinh
Hoa Nghiêm đích xác là một bộ sách hay nhất. Trong quá
khứ, tiên sinh Phương Đông Mỹ đă suốt
đời tán thán [kinh Hoa Nghiêm], rất có lư! Trong Hoa Nghiêm,
Thiện Tài đồng tử đă nêu ra một khuôn phép:
Ngài bái Văn Thù Bồ Tát làm thầy. Trong hội của
Văn Thù Bồ Tát, Ngài đă học ǵ? Chư vị có thể
lật xem Tứ Thập Hoa Nghiêm, mà cũng có thể tra cứu
kinh điển. Văn Thù Bồ Tát chẳng dạy Ngài, chẳng
sai tí nào! Trong hội của Văn Thù Bồ Tát, Thiện
Tài đoạn phiền năo, thành tựu điều này: “Phiền năo vô tận thệ nguyện
đoạn”, đoạn sạch phiền năo trong hội
của Văn Thù Bồ Tát. Sau khi đă đoạn, Văn
Thù Bồ Tát bảo Thiện Tài đi tham học, tham học
là học ǵ? Tham học là “pháp
môn vô lượng thệ nguyện học”, năm
mươi ba lần tham học! Đến lần tham học
cuối cùng, gặp Phổ Hiền Bồ Tát, mười
đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc,
đó chính là nguyện cuối cùng “Phật đạo vô thượng thệ nguyện
thành”. Trong Tứ Thập Hoa Nghiêm, Tứ Hoằng Thệ
Nguyện đă được nói rơ ràng. Tứ Thập Hoa
Nghiêm giảng ǵ? Giảng Tứ Hoằng Thệ Nguyện.
V́ vậy, tu học chẳng thể luông tuồng, không tuân theo
thứ tự! Nay chúng ta tu học chẳng thành công, điều
kỵ nhất là chẳng đoạn phiền năo mà đă
khởi sự mong học pháp môn, [cứ tưởng] học
càng nhiều càng hay, vẫn muốn làm đại thông gia,
nhưng sở học và sở đắc đều là tà
tri tà kiến, đến khi nào th́ mới có thể thành tựu?
V́ lẽ đó, các đồng tu chúng ta phải thật thà
ghi nhớ giáo huấn này!
Các
đồng học hỏi tôi: “Thưa pháp sư! Nếu vừa
khởi đầu, thầy liền học pháp môn Tịnh
Độ, chẳng học hết thảy các pháp môn khác và
hết thảy kinh điển, thầy có thể đạt
thành tựu như ngày nay hay không?” Họ vẫn c̣n hoài nghi,
tôi bảo họ: “Nếu vừa bắt đầu học
Phật, tôi liền thật thà niệm Phật th́ bây giờ
tôi sẽ có thành tựu vượt trỗi tối thiểu
là từ mười lần trở lên so với hiện thời”.
Họ nghe nói đều sững sờ! Tôi bảo: “Tôi nói
thật đấy! Gấp mười lần trở lên
chính là sự ước đoán rất dè dặt. Tôi đă
đi theo một con đường oan uổng cả ba
mươi năm mới thật sự t́m được
một con đường như thế này, mới thật
sự hiểu rơ!” Tứ Hoằng Thệ Nguyện là một
bộ Tứ Thập Hoa Nghiêm, trong quá khứ, quư vị
đă từng nghe người khác nói như vậy hay
chưa? Phí thời gian hơn ba mươi năm mới
phát hiện, mới t́m được, nguyên lai một bộ
Tứ Thập Hoa Nghiêm nhằm giảng rơ ràng, cặn kẽ
Tứ Hoằng Thệ Nguyện! “Phật đạo vô thượng thệ nguyện
thành” vốn là mười đại nguyện
vương dẫn về Cực Lạc. Những thứ
trước đó chẳng cần tới nữa, tôi phải
chuyên học pháp môn này!
Chuyên
học pháp môn này, phải biết: Nay chúng ta niệm kinh Vô
Lượng Thọ, niệm kinh A Di Đà, niệm A Di
Đà Phật, trong giai đoạn hiện thời, nhắm
đến mục tiêu nào? Nhắm tới đoạn phiền
năo! Phải niệm sao cho trừ hết vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước, ưu lự, vướng
mắc, tâm thanh tịnh sẽ hiện tiền. Tâm thanh tịnh
hiện tiền chính là đoạn phiền năo, phiền năo
vô tận thệ nguyện đoạn, dùng phương pháp
này để đoạn phiền năo. Chẳng có phiền
năo, tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh khởi tác dụng là
trí huệ, tâm thanh tịnh xử sự, đăi người,
tiếp vật tức là năm mươi ba lần tham học.
Trong quá khứ, tôi giảng Hoa Nghiêm thường nói:
“Năm mươi ba lần tham học là suốt ngày từ
sáng đến tối ở trong xă hội, tiếp xúc các loại
nhân vật, v́ trong các vị thiện tri thức của
năm mươi ba lần tham học, mọi nghề nghiệp,
nam nữ già trẻ thảy đều có, đó chính là nói tới
xă hội hiện thực. Đến khi tâm địa quư vị
thanh tịnh, tiếp xúc xă hội hiện thực đều
khai trí huệ, giác chứ không mê, thành tựu vô lượng
trí huệ”. Như vậy th́ chúng ta mới thật sự
t́m được căn bản to lớn trong tu hành.
Hiện
thời có cần phải nghiêm túc nghiên cứu giáo lư hay
không? Phải nghiêm túc, nhưng chẳng phải là thực
hiện trong hiện thời. Yêu cầu trong hiện tại
là: Đoạn phiền năo là chuyện khẩn yếu!
Trước hết là cầu ǵ? Vô tri. Kinh Bát Nhă nói: “Bát Nhă vô tri, không ǵ chẳng biết”.
Vô tri là tâm thanh tịnh, không ǵ chẳng biết là tâm thanh tịnh
khởi tác dụng. Hiện thời, nếu quư vị muốn
cầu hiểu biết, đó là điên đảo, toàn là
tà tri tà kiến, làm sao có thể thực hiện được!
Bởi lẽ, hiện thời chúng ta phiền năo rất nặng,
thế gian này rất loạn, là cơi đời đại
loạn.
Nay
chúng ta muốn tu, chư vị nhất định phải
biết: Tu tâm thanh tịnh th́ đạo nghiệp mới
có thể thật sự thành tựu trong một đời
này. Tuy phương pháp tu học rất nhiều, vô lượng
pháp môn, quy nạp lại, chỉ có bốn loại lớn:
Thứ
nhất là tham Thiền. Giáo học Thiền Tông dùng ǵ để
dạy? Hương bản giáo học, tức là đánh!
Quư vị khởi tâm động niệm, hương bản
liền giáng xuống ḥng đập tan ư niệm của quư
vị. Đánh tới khi quư vị nói “chẳng có niệm
nào”, vẫn phải đánh! Cớ sao chẳng có ư niệm
mà vẫn đánh? Chẳng có ư niệm tức là vô minh, phải
đánh ḥng cảnh tỉnh quư vị. Có ư niệm th́ là vọng
niệm, chẳng có ư niệm bèn là vô minh, thảy đều
phải đánh. Nhưng trong hiện tại th́
phương pháp này của Thiền Tông không sử dụng
được, thời đại này khác với thời
đại trước kia. Trước đây, học tṛ bị
thầy đánh là chuyện rất b́nh thường, nay th́
không được. Bây giờ mà đánh liền ngay lập
tức đâm đơn kiện, phạm pháp, bó tay luôn! V́
thế, hiện thời, nói thật thà, Thiền Tông không thể
sử dụng được, chẳng thể dùng
hương bản được!
Giáo
Hạ là đọc kinh. Đọc kinh chỉ cần đọc
một bộ, bất luận bộ kinh nào. Quư vị thích
kinh điển nào, bèn chọn một bộ. Đă chọn
một bộ, đừng đổi sang bộ thứ hai.
V́ chúng ta đọc kinh chẳng nhằm hiểu nghĩa,
chẳng mong hiểu ư nghĩa trong kinh Phật; dùng phương
pháp niệm kinh để niệm cho hết sạch phân biệt,
chấp trước, có ư nghĩa này! V́ quư vị không niệm
kinh, bèn suy nghĩ lung tung. Niệm kinh sẽ chẳng suy
nghĩ lung tung, mục đích ở chỗ này, chẳng nhằm
hiểu ư nghĩa của kinh. Do vậy, kinh nào cũng đều
được, tùy thuộc thời gian của chính ḿnh. Nếu
quư vị rất rảnh rỗi, có thể chọn một
bộ kinh có phân lượng khá lớn, như kinh Pháp Hoa hoặc
kinh Lăng Nghiêm chẳng hạn, mỗi ngày niệm một
bộ. Công việc rất bận rộn, chẳng có nhiều
thời gian như vậy th́ kinh Vô Lượng Thọ rất
tiện, chẳng quá dài. Mỗi ngày niệm một bộ.
Sau khi đă niệm quen, ước chừng một giờ
là đủ rồi. Quư vị mỗi ngày niệm một giờ,
tức là tu hành một giờ, tu ǵ? Tu tâm thanh tịnh. Nếu
quư vị nghiên cứu ư nghĩa trong kinh điển, sai mất
rồi, chẳng đạt được cái tâm thanh tịnh!
Có hiểu ư nghĩa trong kinh Phật hay không? Căn bản
là chẳng hiểu, những ǵ quư vị đạt
được là tà tri tà kiến, hết sức đáng tiếc,
công sức đọc kinh hoàn toàn bị phá hoại. Do
đó, phải hiểu: Chúng ta đọc kinh là tu Định,
chẳng nhằm cầu hiểu nghĩa. Chúng ta đọc
kinh để cầu Căn Bản Trí, để cầu vô
tri, chẳng phải là cầu “không ǵ chẳng biết”.
Không ǵ chẳng biết sẽ cầu không được,
trước hết, hăy cầu vô tri. Mọi người nhất
định phải ghi nhớ kỹ càng đạo lư này,
nghiêm túc tu học. Tu dăm ba năm, tâm sẽ thanh tịnh.
Tâm đă thanh tịnh, phiền năo ít đi. Phiền năo giảm
ít, thưa cùng chư vị, sẽ ít nói lăng nhăng! V́
sao biết là có phiền năo? Mỗi ngày quư vị nói cả
đống lời lẽ nhảm nhí, người như vậy
phiền năo cũng rất nhiều. Lời lẽ nhảm
nhí ít đi, thị phi sẽ ít đi, tâm bèn thanh tịnh.
Tâm
sau khi đă thanh tịnh bèn nghiên cứu kinh điển,
nghiên cứu kinh điển là học pháp môn. Từ xưa
tới nay, Phật pháp ở Ấn Độ chẳng tính,
khi truyền sang Trung Hoa, trong hai ngàn năm, tổ sư
đại đức đời nào cũng truyền thừa
phương pháp cổ lỗ này. Chúng ta dùng phương
pháp này để tu học, nhất định có thành tựu.
Dùng phương pháp này để tu Tịnh Độ, mới
là “vạn người tu, vạn
người đến”, chớ nên không biết chuyện
này! Người khác hỏi ta về Phật pháp, chúng ta có
thể dạy họ nguyên tắc này, sẽ là công đức
vô lượng; đó là con đường chánh đáng. Ĺa
khỏi con đường chánh đáng này, sẽ là đường
tà! Người hiện thời vừa khởi đầu
bèn học rộng, nghe nhiều, Tứ Hoằng Thệ Nguyện
học tràn lan! Giống như dựng nhà, chẳng cần
tầng thứ nhất, muốn dựng ngay tầng thứ
hai, dựng như thế nào đây? Vĩnh viễn chẳng
thể thành tựu. Trong quá khứ, tại Trung Quốc,
pháp thế gian lẫn pháp xuất thế gian đều lấy
tu tâm thanh tịnh làm cơ sở, làm căn bản. Nếu
cơ sở này chẳng được thật sự
đặt vững, rất khó nói tới chuyện thành tựu!
Nho và Phật nói tới sư thừa, sư thừa
cũng là nói từ chỗ này. Đối với sư thừa,
không nhất định là phải kề cận thầy hằng
ngày, đó gọi là “một
ngày làm thầy, suốt đời là cha”. Thầy giảng
cho quư vị mấy câu, quư vị thật sự tiếp nhận,
suốt một đời y giáo phụng hành. Đó là truyền
pháp, “thầy
tṛ đạo hợp”, há có phải là mỗi ngày
đều theo sát thầy! Chẳng bắt buộc phải
như vậy!
V́
thế, chúng ta và Phật, Bồ Tát, cùng hết thảy
chúng sanh trong pháp giới, đúng là chẳng hai, chẳng
khác. “Tánh cụ pháp môn”: Bất
luận là Phật pháp hay pháp thế gian, hết thảy các
pháp môn thảy đều vốn trọn đủ trong tự
tánh. Lục Tổ nói: “Nào ngờ
tự tánh vốn trọn đủ”. Đó là “tánh cụ pháp môn”. Pháp Thân, Báo
Thân, Ứng Hóa Thân, “tam thân tánh
cụ, tam thân dung tức” (ba thân tánh trọn đủ,
ba thân chính là lẫn nhau, dung thông lẫn nhau), một tức
là ba, ba chính là một. Lời này rất khó hiểu, nói
như thế nào? Pháp Thân tận hư không khắp pháp giới,
c̣n Ứng Hóa Thân là một cái thân như thế đó, cái thân
này của ta làm sao có thể tận hư không khắp pháp
giới? Thật ra, cái thân này xác thực là tận hư
không khắp pháp giới, cảnh giới này đúng là chẳng
thể nghĩ bàn! Kinh Hoa Nghiêm nói “giới tử nạp Tu Di” (hạt cải chứa
đựng núi Tu Di), “giới tử”
(芥子) là hạt cải.
Hạt cải rất bé, núi Tu Di quá to. Bỏ núi Tu Di vào
trong hạt cải, núi Tu Di chẳng rút nhỏ, hạt cải
cũng chẳng ph́nh to; làm sao có thể bỏ vào được?
Tỷ dụ này vẫn chưa được coi là rốt
ráo. Nói rốt ráo th́ như trong kinh, đức Phật
đă nói: “Thập phương
Như Lai ư nhất mao đoan chuyển đại pháp
luân” (mười phương Như Lai chuyển đại
pháp luân trong một chót lông), “mao
đoan” (毛端) là chót đầu
của một sợi lông, c̣n bé hơn hạt cải nhiều.
Trong chót đầu một sợi lông, mười
phương Như Lai đều giảng kinh, thuyết
pháp tại đó. Vô lượng vô biên hằng sa thế giới
ở ngay trong đầu sợi lông. Điều này có
nghĩa là trong Pháp Tánh chẳng có lớn hay nhỏ, dung
thông lẫn nhau, trọn khắp lẫn nhau, chẳng thể
nghĩ bàn! Ví như ánh sáng của một ngọn nến
chiếu khắp giảng đường, giảng
đường dung nhập trong ánh sáng của nến,
đó là nhỏ mà chứa đựng lớn, nó được
bao gồm trong quang minh [của ngọn nến], cả giảng
đường được nến chiếu soi rơ ràng.
Thấy ánh sáng của nến trong giảng đường,
tức là lớn dung chứa nhỏ, chân tướng của
pháp giới là như thế. Thân thể này của chúng ta
rút đến mức nhỏ nhất, rút nhỏ đến
một sợi lông, đó là toàn thể pháp giới cô đọng,
là toàn thể của toàn bộ pháp giới, chẳng phải
là một bộ phận. Đấy chính là Thập Huyền
Môn, Tứ Vô Ngại, tức bốn thứ vô ngại Sự
vô ngại, Lư vô ngại, Lư Sự vô ngại, Sự Sự
vô ngại như kinh Hoa Nghiêm đă nói. Khi nào mới có thể
thật sự thấu hiểu Thập Huyền, Tứ Vô
Ngại? Phá một phẩm vô minh, cảnh giới ấy liền
hiện tiền. Vô minh chưa phá, cảnh giới vẫn ở
trước mặt, vẫn là ở ngay trước mặt
mà chính ḿnh chẳng biết! Phá vô minh, sẽ hoảng nhiên
đại ngộ cảnh giới trước mắt vốn
là [Tứ Vô Ngại, Thập Huyền Môn]! Cổ nhân nói: “Đạp phá thiết hài vô mịch
xứ, đắc lai toàn bất phí công phu” (giày sắt
đi ṃn, t́m chẳng thấy! Được rồi, chẳng
tốn chút công phu), [cái mà ta mải miết t́m kiếm] vốn
chính là nó, ở ngay trước mắt! V́ thế, xác thực
một chính là ba, ba chính là một. Chư Phật Như Lai
là như thế, chúng ta cũng là như thế. Chúng ta mê, bất
giác; Phật, Bồ Tát giác chứ không mê. “Tam thân dung tức”: Dung nhập lẫn nhau, chính là
lẫn nhau. Thân này là Ứng Thân, mà cũng là Báo Thân, cũng
là Pháp Thân. Trong Đàn Kinh, Lục Tổ đă nói đạo
lư này rất cặn kẽ, kinh Hoa Nghiêm càng nói thấu triệt
hơn!
“Tùng tánh khởi
tu, Tánh kư tam thân, vô thỉ, vô chung, Tu diệc tam thân, vô thỉ,
vô chung” (Từ tánh khởi tu. Tánh
đă là ba thân, không khởi đầu, chẳng kết
thúc. Tu cũng là ba thân, chẳng khởi đầu, chẳng
kết thúc). Cổ đức đă để lại khuôn
mẫu, dạy chúng ta phương pháp “tùng tánh khởi tu”, dạy quư vị trước
hết là đoạn phiền năo, tức là từ tánh khởi
tu. Tánh là ǵ? Tâm thanh tịnh, chân tâm! Chân tâm là bản tánh, phải
bắt đầu tu tập từ chỗ này. Chẳng phải
là khởi tu bằng nghiên cứu giáo lư. Nghiên cứu giáo lư
chẳng phải là khởi tu từ tánh, mà là khởi tu từ
sự tướng, phiền phức to lớn, phải
tới năm nào th́ mới có thể quay về tự tánh?
Tiểu Thừa Phật pháp khởi tu từ sự tướng,
cho nên để chứng A La Hán phải qua lại cơi trời
và nhân gian bảy lần! Nhân gian thọ mạng ngắn ngủi,
cơi trời thọ mạng lâu dài, bao nhiêu năm mới có thể
chứng A La Hán! Đại Thừa Phật pháp thông minh, khởi
tu từ tánh, mau chóng lắm! Khởi tu từ Tánh Đức
là khởi tu từ tâm thanh tịnh.
Tánh
đă là ba thân, chẳng có khởi đầu, không có kết
thúc, nên nay chúng ta cũng tu ba thân, cũng là chẳng có khởi
đầu, không có kết thúc. Trong các buổi giảng,
chúng tôi đă nói: Nếu quư vị thật sự là chân tâm,
dùng cái tâm chân thành để cầu sanh Tịnh Độ,
niệm câu A Di Đà Phật, trọn đủ ba điều
kiện Tín, Nguyện, Hạnh, hiện tại chúng ta là vô
lượng thọ! Chẳng cần phải đợi
sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới mới
gọi là vô lượng thọ, mà hiện tại đă là
vô lượng thọ! Chẳng cần phải đợi
tới văng sanh mới chứng trọn vẹn Tam Bất
Thoái, mà là hiện tiền đă viên chứng ba món Bất
Thoái. V́ sao? Ở đây, [sách Diễn Nghĩa] đă trả
lời: “Tùng tánh khởi tu, tánh
kư tam thân, vô thỉ, vô chung, tu diệc tam thân, vô thỉ, vô
chung” (từ tánh khởi tu, Tánh đă là ba thân, không có khởi
đầu, chẳng có kết thúc. Tu cũng là ba thân, chẳng
có khởi đầu, không có kết thúc) chính là đạo
lư này! Ở đây, lời tôi nói đă được ấn
chứng. Quư vị mới biết: Pháp môn Niệm Phật
thật sự chẳng thể nghĩ bàn! Điều cuối
cùng trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện là thành Phật
đạo, mười đại nguyện vương dẫn
về Cực Lạc chính là thành Phật đạo, từ
kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy điều này!
Hai
kinh Đại Bổn và Tiểu Bổn chuyên giảng về
y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Nói cách khác, hai bộ kinh này hoàn toàn nói về
cảnh giới công đức nơi quả địa
Như Lai. Chúng ta tu pháp môn này là khởi tu từ quả, chẳng
phải là khởi tu từ nhân, nhân quả đồng thời,
điều này chẳng thể nghĩ bàn! Kinh Hoa Nghiêm vẫn
là từ nhân đến quả. Pháp môn này khởi tu từ
quả, lấy quả làm nhân, trong hết thảy các pháp
môn khác chẳng t́m thấy điều này. Nhân tức là quả,
quả tức là nhân, nhân quả chẳng hai! Nếu không thể
lănh hội như vậy, quư vị sẽ chẳng thể
nhận ra sự nhiệm mầu trong pháp môn này, chẳng thể
lư giải sự thù thắng của pháp môn này, chẳng có
cách nào lư giải!
“Tánh kư tam thân dung tức, tu diệc
tam thân dung tức. Cử nhất tức tam, ngôn tam tức
nhất, bất khả tư nghị giả, Viên Giáo thọ
dă” (Tánh đă là ba thân dung nhập, chính là lẫn nhau. Tu
cũng là ba thân dung nhập, chính là lẫn nhau. Nêu ra một
chính là ba, nói là ba mà chính là một, chẳng thể nghĩ
bàn. Đó là thọ mạng theo Viên Giáo). Mấy câu này dễ
hiểu, thuộc về giáo nghĩa Viên Giáo, xác thực là
chẳng giống những giáo nghĩa khác. Cổ đức
tán thán kinh này viên nhất trong các pháp viên, đốn nhất
trong các pháp đốn. Trong kinh Vô Lượng Thọ, đức
Bổn Sư tán thán A Di Đà Phật: “Quang trung cực tôn, Phật trung chi vương”
(Quang minh tôn quư nhất, vua trong chư Phật). Bổn
Sư Thích Ca Mâu Ni Phật khuyên chúng ta tu học pháp môn này,
chỉ dạy, truyền trao pháp môn thành Phật của
chính Ngài, ân đức ấy quá lớn. Chúng ta có được
pháp môn này, sẽ ổn thỏa thành Phật trong một
đời này. Vấn đề là quư vị có tin tưởng
hay không, quư vị có chịu tiếp nhận hay không? Nếu
thật sự tin tưởng, thật sự chịu tiếp
nhận, từ nay về sau chẳng dấy vọng tưởng,
một bộ kinh, một câu Di Đà niệm đến
cùng, chắc chắn sẽ thành công! Ta c̣n mong học các pháp
môn khác, đó chính là vọng niệm, là đi vào ngơ rẽ,
là xen tạp. Cổ đức dạy chúng ta “tử tận thâu tâm” (chết
sạch tấm ḷng mong ngóng, chụp giật), phải vứt
bỏ những vọng niệm ấy, tuyệt đối
chẳng khởi lên niệm thứ hai.
Có lẽ
chư vị đồng tu sẽ nói: “Hiện
thời người học kinh Di Đà, kinh Vô Lượng
Thọ đông ngần ấy, ta chẳng cần phải học!”
Quư vị tính cho tôi xem thử, rốt cuộc có mấy
người? Trung Quốc Đại Lục to dường
ấy, có mười một ức dân cư, thế giới
phương Đông và phương Tây rộng lớn ngần
ấy, có [lèo tèo] mấy người chúng ta, có đủ dùng
hay chăng? Chẳng đủ dùng! Nói thật ra, kiểu suy nghĩ ấy là nghiệp
chướng, là tội chướng, chướng ngại
sự tu học của chính ḿnh. Trong thời kỳ Mạt
Pháp, muốn độ chúng sanh, thành Phật đạo, nói
thật thà, chỉ có pháp môn này. Có được pháp môn này
là may mắn, quá hên! Sau khi đă có được, hăy nghiêm
túc tu học, nỗ lực hoằng dương, như vậy
th́ mới có thể báo Phật ân. Trong hết thảy các
kinh, chúng ta chỉ tuyển chọn một bộ này, những
bộ khác đều chẳng màng tới! Người khác
muốn hoằng dương kinh điển nào đó, chúng
ta cũng tán thán, cũng hoan hỷ, cũng đừng
chướng ngại họ. Bản thân chúng ta chỉ học
bộ kinh này, chỉ hoằng dương bộ kinh này, con
đường này là chánh xác!
(Sao)
Hựu vị bỉ Phật thọ mạng, thật hữu
kỳ hạn, nhân thiên mạc sổ, thị hữu lượng
chi vô lượng dă.
(鈔) 又 謂 彼 佛 壽 命,實 有 期 限,人 天 莫 數,是 有量 之 無 量 也。
(Sao: Lại có kẻ
nói: “Thật ra thọ mạng của đức Phật ấy
thật sự có kỳ hạn, nhưng trời người
chẳng thể tính nổi số lượng, đó chính
là vô lượng trong hữu lượng”).
“Hựu vị” (又謂) [nghĩa là] lại
có kẻ nói. “Bỉ Phật”
là A Di Đà Phật. [Họ cho rằng] thọ mạng của
A Di Đà Phật nói thật ra là có kỳ hạn. Kinh
đă nói[2] rất rơ ràng: Trong
tương lai, A Di Đà Phật nhập Niết Bàn. A Di
Đà Phật buổi sáng nhập Bát Niết Bàn, buổi
chiều Quán Thế Âm Bồ Tát thị hiện thành Phật.
V́ vậy, Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng
có Tượng Pháp, Mạt Pháp và Chánh Pháp, luôn luôn có Phật
trụ thế. Trong tương lai, Quán Âm Bồ Tát nhập
Bát Niết Bàn, Đại Thế Chí Bồ Tát nối ngôi
thành Phật, từng vị nối tiếp nhau thành Phật.
Tây Phương Cực Lạc thế giới vĩnh viễn
có Phật trụ thế, chẳng phải là không có Phật
trụ thế.
Nói
thật ra là có kỳ hạn, nhưng kỳ hạn ấy
quá dài, “nhân thiên mạc sổ” (trời
người chẳng tính được), tính không ra! Trong
kinh Vô Lượng Thọ, Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói “giả sử”, tức là ví
như, chẳng phải là thật. “Thập phương thế giới chúng sanh”, chẳng
phải là một thế giới (một thế giới là
thế giới Sa Bà, tức là một đại thiên thế
giới), mà là mười phương thế giới, tất
cả chúng sanh trong vô lượng vô biên các cơi Phật khắp
mười phương thảy đều chứng quả
Bích Chi Phật. Bích Chi Phật c̣n cao hơn A La Hán một bậc,
tâm địa c̣n thanh tịnh hơn A La Hán. “Thần thông giai như Đại Mục Kiền
Liên” (thần thông đều như Đại Mục Kiền
Liên): Trong các đệ tử của Phật Thích Ca, ngài Mục
Kiền Liên thần thông bậc nhất. Ngài Mục Kiền
Liên có năng lực trong một ngày một đêm có thể
tính rơ số lượng tinh tú trên bầu trời. Những
người ấy đều thành Bích Chi Phật, thần
thông đều giống như Mục Kiền Liên, thọ
mạng của họ đều dùng kiếp số để
luận, dùng trọn hết tuổi thọ ấy để
chung sức tính toán thọ mạng của người trong
Tây Phương Cực Lạc thế giới, đều
tính chẳng ra, [đó chính là] “nhân
thiên mạc sổ” (người lẫn trời đều
chẳng tính được). Vô lượng thọ chẳng
phải là Vô Lượng trong mười con số lớn
của Ấn Độ. Con số Vô Lượng đó dễ
dàng tính ra. A-tăng-kỳ lần A-tăng-kỳ là một
Vô Lượng, Vô Lượng lần Vô Lượng là một
Vô Biên, dễ tính toán, người b́nh phàm đều có thể
tính ra. Thọ mạng ấy (thọ mạng của người
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới) trời
người chẳng thể tính toán được, tuy là hữu
lượng, chúng ta có thể nói nó thật sự là vô
lượng, chẳng có cách nào tính toán!
(Sao)
Việt Khê giải vân: “Thử kinh tuy vân vô lượng, năi
thị tam thập nhị tướng thường sở
kiến thân, phi Quán Kinh Thắng Ứng tôn đặc chi
thân”, diệc đồng thượng ư.
(鈔) 越 溪 解 云:此 經 雖 云 無 量,乃 是 三 十 二 相 常 所 見 身,非 觀 經 勝 應 尊 特 之 身,亦 同 上 意。
(Sao: Ngài Việt Khê giải
thích: “Tuy kinh này nói vô lượng, nhưng đó là thân ba
mươi hai tướng thường thấy, chẳng
phải là Thắng Ứng Thân đặc biệt tôn quư
trong Quán Kinh”, cũng có cùng ư nghĩa như trên đây).
Việt
Khê đại sư giải thích, ba mươi hai tướng
chính là Ứng Hóa Thân của Phật, thị hiện trong
cơi Phàm Thánh Đồng Cư. Thân to lớn nói trong kinh Quán
Vô Lượng Thọ Phật ngự trong cơi Thật Báo
Trang Nghiêm. Trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm là Báo Thân, có khởi
đầu, chẳng có kết thúc. V́ thế, nói tới thọ
lượng của Tây Phương Cực Lạc thế
giới A Di Đà Phật, nói thật ra là nói tới thọ
lượng của Ứng Thân Phật. Thọ lượng
của Ứng Thân quả thật có kỳ hạn, Báo Thân
đương nhiên chẳng cần nói tới. Đừng
nói là A Di Đà Phật, hết thảy chư Phật
Như Lai đều là vô lượng thọ. Bất quá là
thọ mạng của Ứng Thân trong Tây Phương Cực
Lạc thế giới A Di Đà Phật quá ư là dài. Chúng
ta văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, thọ
mạng sẽ giống như thọ lượng của
Phật. Trong hết thảy các thứ chân thật, điều
này là chân thật bậc nhất. Chẳng có thọ mạng,
hết thảy các thứ trang nghiêm khác đều rỗng
tuếch, ai sẽ hưởng thụ? Ắt phải là
trường thọ th́ mới có thể hưởng thụ,
hưởng thụ hết thảy y báo và chánh báo trang
nghiêm.
(Sao)
Kim vị tùy cơ sở kiến giả. Thử kinh Phật
thân vô định, tiền nghĩa lư trung dĩ biện, huống
kinh văn đản ngôn A Di Đà Phật hiện tại
kỳ tiền, vị tằng chỉ định hiện
hà đẳng thân, Việt Khê an đắc phán thuộc tam
thập nhị tướng, tất vị Liệt Ứng,
tắc liệt cơ tự kiến, phi thử kinh chuyên
dĩ Liệt Ứng nhi bị liệt cơ dă.
(鈔) 今 謂 隨 機 所 見 者,此 經 佛 身 無 定,前 義 理 中 已 辯,況 經 文 但 言 阿 彌 陀 佛 現 在 其 前,未 曾 指 定 現 何 等 身,越 溪 安 得 判 屬 三 十 二 相,必 謂 劣 應,則 劣 機 自 見,非 此 經 專 以 劣 應 而 被 劣 機 也。
(Sao: Nay tôi nói là “tùy
theo căn cơ mà thấy [khác biệt]”, thân Phật trong
kinh này chẳng nhất định, điều này đă
được biện định trong phần nghĩa lư
trên đây. Huống chi kinh văn chỉ nói “A Di Đà Phật
hiện ra trước mặt” [người sắp văng
sanh], chưa hề nói rơ hiện những thân nào, sao ngài Việt
Khê lại phán định [thân Phật trong kinh này] thuộc
về ba mươi hai tướng? Ắt là hễ nói tới
Liệt Ứng Thân th́ đó là thân được thấy bởi
kẻ căn cơ kém hèn, chứ không phải là kinh này
chuyên dùng thân Liệt Ứng để tiếp độ kẻ
căn cơ kém cỏi).
Trong
đoạn này, Liên Tŕ đại sư phê b́nh lời nhận
định của ngài Việt Khê. Ngài Việt Khê nói có lư,
mà trong đoạn này, Liên Tŕ đại sư cũng nói có
lư! V́ sao? Người văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới, mỗi người mang theo nghiệp khác
nhau, khi văng sanh sẽ thấy h́nh tượng Phật khác
nhau. Trong Quán Kinh đă nói rất rơ ràng, thượng phẩm
thượng sanh thấy tận hư không khắp pháp giới
đều là A Di Đà Phật, Quán Âm, Thế Chí. Phẩm vị
văng sanh thấp hơn sẽ chẳng thấy h́nh tượng
Phật thù thắng như vậy. Hạ phẩm hạ
sanh chỉ thấy Quán Âm và Thế Chí đến tiếp dẫn,
chẳng thấy A Di Đà Phật.
Tịnh
Tông nhất định phải lấy kinh Vô Lượng
Thọ làm kinh bậc nhất, lấy kinh ấy làm căn cứ
nguyên thủy. V́ sao? V́ trong kinh Vô Lượng Thọ có bốn
mươi tám nguyện, bốn mươi tám nguyện do
chính A Di Đà Phật tự nói, cho nên là chân thật nhất.
Thích Ca Mâu Ni Phật kể lại cho chúng ta biết, kể
lại tức là chẳng khác A Di Đà Phật tự nói! Bốn
mươi tám nguyện đă nói rơ ràng: Dẫu là hạ hạ
phẩm văng sanh, hễ sanh về Tây Phương Cực Lạc
thế giới, không chỉ là thọ mạng giống hệt
như Phật, mà tướng mạo cũng giống
như Phật, y báo và chánh báo trang nghiêm đều giống
như Phật. V́ vậy, thế giới ấy là thế
giới b́nh đẳng, chẳng thể nghĩ bàn! Do vậy
có thể biết: Khi chúng ta ở trong cơi này, muốn văng
sanh, c̣n chưa đến Tây Phương Cực Lạc thế
giới, lúc Phật đến tiếp dẫn th́ c̣n có chút
sai biệt, nhưng đến Tây Phương Cực Lạc
thế giới, bèn chẳng có sai biệt. Từ cơi này,
chúng ta đến Tây Phương Cực Lạc thế giới
phải mất bao lâu? Thời gian quả thật hết sức
ngắn ngủi, tạm bợ, tốc độ quá nhanh, trong
một cái khảy ngón tay! Dẫu là Liệt Ứng Thân, thời
gian cũng rất ngắn ngủi. Đến thế giới
Cực Lạc, bèn chứng pháp giới b́nh đẳng; từ
Đại Kinh, chúng ta đă có được sự thật
này.
Tiếp
đó, chúng ta hăy xem lời Liên Tŕ đại sư lăo nhân
gia nói: “Kim vị tùy cơ sở
kiến giả, thử kinh Phật thân vô định, tiền
nghĩa lư trung dĩ biện, huống kinh văn đản
ngôn A Di Đà Phật hiện tại kỳ tiền” (nay
nói là tùy theo căn cơ mà thấy [thân Phật sai khác]. Thân
Phật trong kinh này không nhất định, điều này
đă được biện định trong phần
nghĩa lư trên đây, huống chi kinh văn chỉ nói A Di
Đà Phật hiện trước mặt [người sắp
văng sanh]), trọn chẳng nói là Báo Thân hay Ứng Thân của
A Di Đà Phật, chỉ nói A Di Đà Phật hiện ra
trước mặt người ấy. Pháp sư Việt
Khê nói là ba mươi hai tướng và tám mươi thứ
hảo, đó là Liệt Ứng Thân, giống như thân
tướng do Thích Ca Mâu Ni Phật đă hiện trong thế
gian này. Chúng ta căn cơ hèn kém, Ngài liền thị hiện
Liệt Ứng Thân, [đó là] “liệt
cơ tự kiến” (do căn cơ của chúng sanh kém
cỏi, bèn tự thấy [thân Phật là Liệt Ứng
Thân]). Nói thật thà, chúng ta niệm Phật văng sanh, đại
khái thấy h́nh tượng Phật đều là thân này.
Ngài Việt Khê nói có lư, v́ sao? Nếu Báo Thân của Phật
hiện tiền, chúng ta chẳng trông thấy! “Bạch hào uyển chuyển
ngũ Tu Di, cám mục trừng thanh tứ đại hải”,
làm sao chúng ta có thể trông thấy được? Chẳng
thấy nổi! Do đó, đức Phật nhất định
phải hiện một tướng, tuy là thân to lớn,
cũng chẳng thể quá lớn, quá lớn th́ chúng ta chẳng
thấy rơ, sẽ chẳng thấy được!
Ví
như chúng ta là thân người, kiến chắc chắn chẳng
thấy vẻ mặt chúng ta, v́ sao? Nó quá nhỏ. Phật muốn
độ kiến, cũng phải hiện thân kiến, to
hơn nó một hai lần th́ nó mới thấy; quá lớn,
nó sẽ chẳng thấy. V́ thế, đến tiếp dẫn
chúng ta, ắt phải là thân ba mươi hai tướng,
tám mươi thứ hảo, [tức là] kim thân trượng
sáu, thân tướng to gấp đôi, gấp ba người
b́nh phàm đến tiếp dẫn, đó là hợp lư.
Nhưng phải biết: A Di Đà Phật tiếp dẫn
chúng sanh trong chín pháp giới. Bồ Tát văng sanh mà A Di Đà
Phật hiện thân tướng [trượng sáu] này, thân
tướng của Bồ Tát to như vậy, thân tướng
của Phật nhỏ chừng ấy, chẳng
tương xứng! Do đó, Phật nhất định
phải hiện đại thân.
Mười
phương vô lượng vô biên các cơi Phật, chẳng có
một vị Phật nào không khuyên chúng sanh niệm Phật
cầu sanh Tịnh Độ. Hằng ngày đều có Bồ
Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, lục đạo phàm phu cầu
sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, nên Phật
hiện thân cũng là tương ứng căn cơ,
đáng nên dùng thân ǵ để tiếp dẫn, đức
Phật tự nhiên hiện thân tướng ấy. Ứng
cơ thị hiện là chuyện hợp lư! Nhưng chư
vị phải ghi nhớ, tuyệt đối chẳng phải
chỉ có một Liệt Ứng Thân ba mươi hai tướng,
tám mươi thứ hảo. Nếu nghĩ như vậy
(tức là nghĩ chỉ có một Liệt Ứng Thân thị
hiện), sai mất rồi! Đối với thế giới
Sa Bà, đối với người trên địa cầu
niệm Phật văng sanh, [hiểu như vậy] th́ rất
chánh xác!
(Sao)
Đại Bổn Pháp Tạng nguyện vân: “Ngă tác Phật
thời, giả linh thập phương chúng sanh, giai tác
Duyên Giác, Thanh Văn, giai tọa Thiền nhất tâm, dục
kế ngă niên thọ kỷ thiên ức vạn kiếp, vô
năng tri giả”, khởi diệc thường sở kiến
thân chi vô lượng hồ?
(鈔) 大 本 法 藏 願 云:我 作 佛 時,假 令 十 方 眾 生,皆 作 緣 覺 聲 聞,皆 坐 禪 一 心,欲 計 我 年 壽 幾 千 億 萬 劫,無 能 知 者,豈 亦 常 所 見 身 之 無 量 乎。
(Sao: Trong kinh Đại
Bổn, ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Khi ta thành Phật,
giả sử mười phương chúng sanh đều
là Duyên Giác, Thanh Văn, đều tọa Thiền nhất
tâm, muốn tính xem ta thọ mấy ngàn ức vạn kiếp
đều chẳng thể biết”, há chẳng phải là
cái thân thường thấy cũng thọ vô lượng
ư?)
Đại
Bổn là kinh Vô Lượng Thọ. Ở đây, trích dẫn
bốn mươi tám nguyện nhằm chứng minh “A Di Đà Phật thọ vô
lượng” xác thực là vô lượng thọ. Dẫu
trong phần trên có nói là hữu lượng, nhưng trời
lẫn người đều chẳng tính được,
chẳng có cách nào tính toán.
(Sao)
Thị cố, nhập diệt Song Lâm, hoặc kiến Linh
Sơn vị tán, Xá Na thiên trượng, hoặc kiến
trượng lục kim thân, Phật bổn bất di,
cơ tự dị cố. Tắc vị bỉ Phật thọ
mạng, tức vô lượng chi vô lượng, diệc
hà bất khả? (鈔) 是 故 入 滅 雙 林,或 見 靈 山 未 散,舍 那 千 丈,或 見 丈 六 金 身,佛 本 不 移,機 自 異 故。則 謂 彼 佛 壽 命,即 無 量 之 無 量,亦 何 不 可。
(Sao: Do vậy, nhập
diệt chốn Song Lâm, hoặc thấy hội Linh Sơn
chưa giải tán, thân Lô Xá Na Phật cao ngàn trượng,
hoặc thấy thân vàng trượng sáu, Phật vốn chẳng
dời, do căn cơ mà thấy sai khác. Do vậy, nói thọ
mạng của đức Phật ấy chính là vô lượng
của vô lượng th́ cũng chẳng có ǵ là không
được!)
Đoạn
này viện dẫn Thích Ca Mâu Ni Phật làm tỷ dụ, Ngài
nhập diệt tại Song Lâm.
(Diễn)
Thị cố hạ, dẫn Thích Ca lệ Di Đà, nhập
diệt Song Lâm, năi Ứng Thân, bị phàm tiểu cơ.
Cơ tân kư tận, ứng hỏa tắc vong.
(演) 是 故 下,引 釋 迦 例 彌 陀,入 滅 雙 林,乃 應 身,被 凡 小 機,機 薪 既 盡,應 火 則 亡。
(Diễn: Từ chữ “do vậy” trở đi, dẫn
Phật Thích Ca để suy diễn Phật Di Đà. Nhập
diệt tại Song Lâm là Ứng Thân nhằm độ hàng
phàm phu tiểu cơ. Củi cơ duyên đă hết, lửa
ứng hóa bèn tắt).
Thích
Ca Mâu Ni Phật xuất hiện trong thế gian, giáng sanh tại
vương cung, ba mươi tuổi thị hiện thành
đạo, thuyết pháp bốn mươi chín năm, bảy
mươi chín tuổi “nhập
diệt Song Lâm”, [tức là] nhập diệt trong rừng
cây [Sa La] Song Thụ. Đấy là Ứng Thân của Thích Ca
Mâu Ni Phật. Ứng Thân có tác dụng ǵ? Giáo hóa phàm phu, giáo
hóa Tiểu Thừa. Đối tượng giáo học
đă hết, đức Phật bèn ra đi. Nói thật ra,
Ứng Thân của Phật thọ mạng dài ngắn tự
tại, chẳng giống như chúng ta. Thọ mạng của
chúng ta là nghiệp báo, mong kéo dài chẳng thể kéo dài, muốn
rút ngắn cũng chẳng thể rút ngắn, thân nghiệp
báo mà! Có người sống không nổi, bèn tự sát, tự
sát có giải quyết vấn đề hay chăng? Chẳng
giải quyết được! Tự sát c̣n khổ sở,
c̣n đáng sợ hơn là sống sót! V́ sao? Thọ mạng
của quư vị chưa hết, quư vị đoạn dứt
nó, phàm là kẻ tự sát đều phải t́m kẻ chết
thay, chẳng t́m kẻ thế thân, người ấy chẳng
có cách nào đi luân hồi, chẳng có cách nào đầu
thai, mới biết đó thật sự là khổ sở!
Chư
Phật, Bồ Tát nương theo nguyện trở lại,
nên thọ mạng dài ngắn tự tại. Các Ngài muốn
trụ trong thế gian này một trăm năm, hai trăm
năm, thậm chí trụ một ngàn năm, hai ngàn năm,
đều làm được! V́ sao các Ngài chẳng thường
trụ trong thế gian? Nói thật thà, thường trụ
trong thế gian chẳng có tác dụng, chẳng thể
độ chúng sanh. Chúng sanh thấy Thích Ca Mâu Ni Phật
đă sống ba ngàn năm, chúng con làm sao có thể sánh bằng
Ngài? Chẳng sánh bằng th́ chúng con chẳng có cách nào học
theo Ngài! V́ thế, để dạy bảo chúng ta, đức
Phật nhất định phải thị hiện hoàn toàn
giống như chúng ta, sau đó mới bảo: “Ta có thể
thành tựu, quư vị cũng có thể thành tựu!” Chúng ta
nghe nói gật đầu, có thể tin tưởng, có thể
tiếp nhận.
Những
chúng sanh hữu duyên đều đắc độ, thân thể
Ngài lưu lại thế gian vô dụng, đó là “cơ tân kư tận” (củi
cơ duyên đă hết), cơ (機) là cơ duyên, tức
là học tṛ. Các học tṛ có thể giáo hóa chẳng c̣n,
đều đă thành tựu, “ứng
hỏa tắc vong” (lửa ứng hóa bèn tắt), lửa
cần có củi đốt, củi chẳng c̣n nữa,
đương nhiên lửa cũng tắt, đó là đạo
lư nhất định. Học tṛ chẳng có, thầy
cũng chẳng có. Có học tṛ th́ mới có thầy. Chẳng
có học tṛ th́ thầy cũng chẳng c̣n! Đó là nói
đến Ứng Thân.
(Diễn)
Linh Sơn vị tán, năi Báo Thân, bị Bồ Tát cơ.
Cơ kư thường thời, Phật diệc thường
tại.
(演) 靈 山 未 散,乃 報 身,被 菩 薩 機,機 既 常 時,佛 亦 常 在。
(Diễn: Hội Linh Sơn chưa giải tán là nói
về Báo Thân nhằm độ Bồ Tát. Căn cơ
đă thường tồn tại, đức Phật
cũng thường tồn tại).
Đời
Tùy, Trí Giả đại sư thuộc tông Thiên Thai đọc
kinh Pháp Hoa, đọc đến phẩm Dược
Vương Bồ Tát, lăo nhân gia nhập Định. Trong
Định, Ngài tới núi Linh Thứu, Thích Ca Mâu Ni Phật
c̣n đang giảng kinh Pháp Hoa tại đó. Ngài ngồi nghe
một buổi, trở về xuất Định, bảo
mọi người: “Hội Linh Sơn nay vẫn chưa giải
tán!” Ngài Trí Giả cách Thích Ca Mâu Ni Phật hơn một
ngàn năm, Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh Pháp Hoa tại
núi Linh Thứu vẫn chưa giải tán, Trí Giả đại
sư đích thân trông thấy. Không chỉ là vào thời Trí
Giả đại sư hội ấy chưa giải tán,
mà thưa cùng chư vị, hiện thời cũng chẳng
giải tán! Rất đáng tiếc, quư vị đến Ấn
Độ lên núi bái Phật, thấy núi Linh Thứu, chẳng
thấy Thích Ca Mâu Ni Phật, mà cũng chẳng thấy Ngài
đang giảng kinh Pháp Hoa tại đó. Hội ấy thật
sự chưa tan. Điều này cũng chứng tỏ hết
thảy các pháp bất sanh bất diệt, tùy thuộc quư vị
có duyên phận hay không!
Nói
theo Lư, người nào chẳng có duyên phận? Ai nấy
đều có! Ai nấy đều có, cớ sao hiện tại
chẳng có? Hiện thời, duyên của quư vị tạm
thời gián đoạn, v́ sao gián đoạn? Do quư vị
có hai thứ chướng hoặc ba thứ chướng,
có vọng tưởng, chấp trước, nên quư vị
chẳng thấy. Ĺa khỏi hết thảy vọng tưởng,
chấp trước, sẽ trông thấy. Chư vị
nghĩ xem, muốn học kinh, muốn đọc kinh, cần
ǵ phải phiền phức như vậy? Hễ tâm địa
thanh tịnh, thứ ǵ cũng đều hiện thành, chẳng
cần phải kiếm chuyện phiền phức ấy!
Do đó, Phật pháp cầu ở nơi đâu? Cầu
trong tự tánh! Chẳng phải là ở ngoài tâm, cầu
pháp ngoài tâm là ngoại đạo. V́ thế, chính ḿnh học
Phật mà học thành ngoại đạo, vẫn chẳng
biết, oan uổng quá! Phật pháp phải học từ
trong tự tánh.
Trí
Giả đại sư là Bồ Tát, nên Ngài có thể trông
thấy. Nay chúng ta chẳng thấy, chúng ta chẳng phải
là Bồ Tát. Nhưng chư vị phải nhớ, nếu
quư vị thật sự phát Bồ Đề tâm, nhất
tâm chuyên niệm, quư vị là Bồ Tát. Đáng tiếc là hằng
ngày niệm kinh, kinh đă dạy như thế, trong các buổi
giảng chúng tôi cũng hằng ngày lớn tiếng kêu gào
như vậy, quư vị chẳng thể phát cái tâm Bồ
Đề! Đó là v́ chẳng chịu một mực chuyên
niệm, khi niệm Phật vẫn c̣n xen tạp! Trong Tây
Phương Xác Chỉ, Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát
đă bảo: “Pháp môn này kỵ
nhất là xen tạp”. Chúng ta khăng khăng muốn xen
tạp, làm cách nào đây? Cứ ngỡ chính ḿnh thông minh, tự
cho là đúng, lầm lỡ chính ḿnh!
(Diễn)
Xá Na thiên trượng, năi Bồ Đề tràng sở hiện
Báo Thân.
(演) 舍 那 千 丈,乃 菩 提 場 所 現 報 身。
(Diễn:
Lô Xá Na Phật thân cao ngàn trượng, chính là Báo Thân hiện
nơi Bồ Đề đạo tràng).
Đây
là Lô Xá Na Phật, là cảnh giới trong kinh Hoa Nghiêm. Tỳ
Lô Giá Na là Pháp Thân Như Lai, Lô Xá Na là Báo Thân Như Lai, Thiên
Bách Ức Hóa Thân là Thích Ca Như Lai, ba thân
là một nhưng là ba, tuy là ba mà một, kinh Hoa Nghiêm
nói như vậy.
(Diễn)
Trượng lục kim thân năi Lộc Dă Uyển sở hiện
Ứng Thân, nhị thỉ đồng thời, song thùy
lưỡng tướng dă.
(演) 丈 六 金 身 乃 鹿 野 苑 所 現 應 身,二 始 同 時,雙 垂 兩 相 也。
(Diễn:
Thân vàng trượng sáu chính là Ứng Thân đă hiện tại
Lộc Dă Uyển, hai thân ấy cùng đồng thời khởi
đầu, rủ ḷng thị hiện hai tướng).
Thích
Ca Mâu Ni Phật thị hiện thành đạo, bộ kinh
được giảng đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm. Giảng
kinh Hoa Nghiêm bèn hiện thân tướng cao lớn ngàn
trượng. Thân tướng ấy thị hiện trong
Định, phàm phu và Tiểu Thừa đều chẳng
thấy. Trong mười bốn ngày giảng Hoa Nghiêm, thính
chúng là bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân
đại sĩ, đó là khởi đầu. Sau khi đức
Phật giảng xong Hoa Nghiêm, xuất Định, tại Lộc
Dă Uyển độ năm vị tỳ-kheo bèn giảng
kinh A Hàm; đó là Ứng Thân, tức thân cao một trượng
sáu, phàm phu và Tiểu Thừa trông thấy thân ấy. “Nhị thỉ đồng thời”:
Nhị Thỉ (二始: hai thứ khởi
đầu), một là trong Định giảng Hoa Nghiêm, hai
là xuất Định, ở Lộc Dă Uyển, giảng A
Hàm cho năm vị tỳ-kheo. “Song
thùy lưỡng tướng” nghĩa là đồng thời
hiện hai loại thân tướng khác nhau. Năm vị tỳ-kheo
tại Lộc Dă Uyển thấy Ứng Thân, bốn
mươi mốt địa vị Pháp Thân đại
sĩ trong Định thấy Báo Thân, tức là Lô Xá Na Phật
cao ngàn trượng.
(Diễn)
Phật bổn bất di, cơ tự dị giả.
(演) 佛 本 不 移,機 自 異 者。
(Diễn:
Phật vốn chẳng đổi dời, do căn cơ
mà tự thấy khác biệt).
Phật
chẳng phải là hữu tâm hiện tướng, Phật
chẳng phải là cố ư. Hễ đức Phật hữu
tâm, hữu ư, sẽ là phàm phu. Phàm phu sở dĩ chẳng
giống Phật, Bồ Tát là do hữu tâm, hữu ư, có cách
nghĩ, có cách nh́n. Mỗi người có cách nghĩ và cách
nh́n của riêng họ, chư Phật, Bồ Tát chẳng có
cách nghĩ, mà cũng chẳng có cách nh́n của riêng ḿnh. V́
thế, tâm các Ngài thanh tịnh, chẳng sanh một niệm.
Hiện tướng là tự nhiên hiện, chẳng phải
là cố ư hiện. Chúng sanh có cảm, Phật bèn có ứng,
tự nhiên hiện thân, cảm ứng đạo giao. Dùng ǵ
để cảm? Dùng tâm để cảm. Tùy thuộc vào
mức độ của tâm thanh tịnh và chân thành trong tâm
quư vị, tùy thuộc mức độ nguyện lực và
công đức sâu hay cạn, dùng những điều ấy
để cảm, Phật tự nhiên ứng hiện. Mỗi
người chúng ta tâm địa thanh tịnh, tâm địa
chân thành, tâm địa cung kính, chân thành, công đức sâu
hay cạn khác nhau, nên Phật ứng hiện tướng
cũng khác nhau, đạo lư ở ngay chỗ này. Tiếp
đó, sách viết mấy câu rất thú vị:
(Diễn)
Pháp Thân khởi dụng, như không cốc truyền thanh.
(演) 法 身 起 用,如 空 谷 傳 聲。
(Diễn:
Pháp Thân khởi tác dụng, như hang trống dội lại
tiếng vọng).
“Không cốc” là sơn cốc
(hang núi). Chúng ta ở trong hang núi hét to một tiếng, ngay
lập tức có tiếng vọng. Âm thanh của quư vị
dài, tiếng vọng sẽ dài. Âm thanh ngắn, tiếng vọng
sẽ ngắn. Tiếng vọng tương ứng với
âm thanh mà quư vị đă hét. Sánh ví Pháp Thân như hang trống,
chúng ta ở đó hú dài, tức là cảm, tiếng vọng
là ứng. Chúng ta có tâm, tiếng vọng vô tâm, vô tâm mới
là thật sự b́nh đẳng. Tuy mọi người thấy
h́nh tướng khác nhau, nhưng nói theo phía Phật th́ b́nh
đẳng. Phật trọn chẳng hữu ư hiện [thân
tướng nào]. Hữu ư sẽ là bất b́nh đẳng.
Nói thật thà, chúng ta xử sự, đăi người, tiếp
vật, hữu tâm sẽ chẳng b́nh đẳng, vô tâm bèn
b́nh đẳng. Chúng ta hăy nên học tập điều này.
Hôm nay đă hết thời gian rồi!
Tập
192
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn
Nghĩa Hội Bản, trang ba trăm chín mươi hai:
(Diễn)
Phật bổn bất di, cơ tự dị giả, Pháp
Thân khởi dụng, như không cốc truyền thanh, minh
kính tả ảnh, tùy thanh cao hạ, tùy tướng nghiên
xi, động nhược hành vân, chỉ do cốc thần,
vân vân tự bỉ, ư ngă hà vi da?
(演) 佛 本 不 移,機 自 異 者,法 身 起 用,如 空 谷 傳 聲,明 鏡 寫 影,隨 聲 高 下,隨 相 妍 媸,動 若 行 雲,止 猶 谷 神,紜 紜 自 彼,於 我 何 為 耶。
(Diễn: Phật vốn
chẳng đổi dời, do căn cơ mà tự thấy
sai khác. Pháp Thân khởi tác dụng như hang trống dội
lại tiếng vọng, gương sáng in h́nh ảnh, tùy
theo âm thanh cao hay thấp, tùy theo h́nh tướng đẹp
hay xấu, động th́ như mây bay, ngưng lặng th́
giống như chính giữa hang núi, lăng xăng tự
nó, can dự ǵ đến ta?)
Đoạn này tổng
kết thân tướng do Phật đă hiện, thân tướng
xác thực là có khác biệt, nhưng sở dĩ Phật hiện
tướng là v́ chúng sanh có cảm, Phật tự nhiên ứng
hiện Tướng Phần. Hoàn toàn chẳng phải là Phật
cố ư muốn hiện các thứ tướng, mà thật
ra là do chúng sanh có các thứ tâm, nên Phật tự nhiên hiện
các thứ tướng. Tuy ở đây nói đến Phật
Thích Ca và Phật Di Đà để làm thí dụ; thật
ra, Tướng Phần do mỗi người chúng ta đă
hiện cũng là do cảm ứng đạo giao. Chúng ta
đọc kinh, ắt cần phải chú ư điều này,
v́ những điều được nói trong kinh chính là cảnh
giới hiện tiền của bản thân chúng ta, mà
cũng là chuyện thuộc về bổn phận của
chính ḿnh. Nói tới Phật là nói đến tự tánh, nói tới
Pháp Thân, nói tới bản thể, chúng sanh và Phật chẳng
hai! Mười pháp giới hiện tướng khác nhau,
đó là v́ bản tánh tùy duyên khác nhau, chúng ta gọi duyên ấy
là “cơ duyên”.
“Phật bổn bất di” (Phật
vốn chẳng đổi dời), câu này nói về Chân
Như bản tánh. Chúng sanh và Phật chẳng khác, nói tới
Phật Thích Ca, nói đến Phật Di Đà, hay nói đến
chư Phật là nói về chính ḿnh. “Cơ tự dị giả” (do căn cơ mà tự
sai khác), cơ cảm không giống nhau. Cũng có lẽ
chúng ta lư giải chuyện “trong tâm chúng sanh có cảm, Phật
tự nhiên có ứng” khá dễ dàng; c̣n đối với
Chân Như bản tánh của chính chúng ta, làm sao chính ḿnh có thể
cảm ứng đạo giao cùng chính ḿnh? Nói thật ra,
chính ḿnh cảm ứng chân tánh bằng ư niệm. Chúng ta một
niệm niệm Phật bèn tương ứng với Phật,
một niệm niệm Bồ Tát bèn tương ứng với
Bồ Tát. Chúng ta từ sáng đến tối khởi tâm
động niệm chẳng giống nhau, tướng
được biến hiện sẽ khác nhau. Tương
đối dễ nhận biết là ví như hôm nay có chuyện
rất vui vẻ, quư vị sẽ hiện tướng vui
sướng, ngày hôm nay gặp chuyện trái ư, quư vị sẽ
hiện tướng rất khó coi. Chẳng phải là
tướng biến đổi theo tâm ư? Trọn chẳng
khó hiểu! Thầy bói xem tướng nói: “Tướng chuyển theo tâm”, tâm ấy là khởi
tâm động niệm, khởi tâm động niệm là
cơ cảm. Hiện các thứ tướng bất đồng,
đó là Phật ứng, Phật ở đây là Tự Tánh
Phật. Nếu hiểu rơ đạo lư này, quư vị sẽ
biết chúng sanh thành Phật chẳng khó, khẩn yếu là
quư vị niệm niệm trong tâm nghĩ tới Phật,
tâm giống như tâm Phật, đương nhiên [tướng
sẽ] giống như Phật tướng. Đó là đạo
lư nhất định.
Cổ
nhân nói: Sau bốn mươi tuổi, tướng mạo
phải do chính ḿnh chịu trách nhiệm, từ bốn
mươi tuổi trở về trước là tướng
có được khi thần thức đầu thai. V́ sao
con cái giống cha mẹ? Chúng nh́n thấy tướng của
cha mẹ, ưa thích tướng ấy, bèn biến thành
tướng tương tự như họ. Chuyện này
chẳng phải là di truyền, mà trong một sát-na đầu
thai đă giữ lấy tướng đó. Giữ lấy
tướng đó chính là tiên thiên, nhưng tướng mạo
hậu thiên[3] sẽ biến đổi
theo tâm hạnh của quư vị trong một đời. Nếu
suốt đời tâm địa hết sức thiện
lương, đối xử trung hậu với người
khác, sau khi đă thành niên, ba mươi, bốn mươi,
người ấy bèn có tướng trung hậu, lăo thành,
tướng mạo đă biến đổi. Lúc bốn
mươi tuổi, tướng mạo định h́nh, chẳng
dễ ǵ biến đổi, khi ấy, chính ḿnh phải chịu
trách nhiệm về tướng mạo.
“Pháp Thân khởi dụng”, y báo
và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới đều
do Pháp Thân khởi tác dụng. Trước mắt chúng ta,
chánh báo là thân thể của chúng ta, y báo là hoàn cảnh sống,
thảy đều là Pháp Thân khởi tác dụng. Mười
pháp giới chẳng có ngoại lệ, toàn là Pháp Thân khởi
tác dụng, Pháp Thân là chính ḿnh. Khởi tác dụng là ǵ? “Không cốc truyền thanh, minh
kính tả ảnh” (hang trống dội lại tiếng
vọng, gương sáng soi h́nh ảnh), “không cốc” (空谷) là hang núi. Chúng ta
ở trong hang núi hú dài, sẽ có tiếng vang dội lại,
[thân Phật ứng hiện theo căn cơ cảm ứng
của chúng sanh] giống như tiếng vọng. “Minh kính” (明鏡) là một tấm
gương sạch làu làu, soi rơ rệt hiện tượng
bên ngoài, đó gọi là “tả
ảnh” (寫影). Pháp Thân khởi
tác dụng xác thực là như vậy. V́ thế, kinh Kim
Cang có nói: “Hết thảy pháp hữu
vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng, như
sương, cũng như chớp, hăy nên quán như thế”.
Đúng là như vậy. Kinh Hoa Nghiêm nói Lư Sự vô ngại,
Lư là Pháp Thân, Sự là khởi tác dụng, vô ngại. Lư Sự
vô ngại, Sự Sự vô ngại. Quư vị thật sự
hiểu thấu triệt đạo lư này, sẽ vô ngại.
V́ sao vô ngại? V́ chẳng chấp trước; không chấp
trước bèn chẳng có ngăn ngại. Bọn phàm phu
chúng ta hiện thời v́ sao có ngăn ngại? Trong vô ngại,
sanh khởi chướng ngại. Nẩy sanh chướng
ngại là v́ chỗ nào cũng chấp trước, chỗ
nào cũng phân biệt, coi giả là thật. C̣n những ǵ
là thật, họ chẳng nhận biết!
“Phàm những ǵ có tướng đều là hư vọng”: Hang trống dội
lại tiếng vọng, chúng ta biết là hư vọng.
Chúng ta biết h́nh bóng trong gương là hư vọng,
nhưng chẳng biết thân thể này và thế giới
trước mắt là hư vọng. Trong kinh Đại Thừa,
đức Phật đă đôi ba lượt bảo chúng
ta: Cảnh giới hiện tại sanh diệt trong từng
sát-na. Kinh Lăng Nghiêm giảng thấu triệt, cảnh giới
“sanh ra từ nơi đâu sẽ
diệt mất từ nơi đó”, “thuận theo tâm chúng sanh mà ứng với khả
năng tiếp nhận của họ”, ứng theo tâm
lượng. Chúng ta đọc những câu kinh văn ấy,
ứng theo tâm lượng, “thuận
theo tâm chúng sanh, Phật, Bồ Tát ứng theo khả
năng nhận biết của họ”. Nếu quư vị
hiểu như vậy, đó chỉ là hiểu Phật pháp ở
mức nông cạn. Chân Như bản tánh thuận theo vọng
niệm của chúng ta mà hiện tướng, điều
đó gọi là “tùy tâm ứng
lượng”. Hết thảy các kinh do đức Phật
đă giảng có quan hệ rất mật thiết với
chúng ta, hết thảy các kinh luận vốn là chuyện của
chính bản thân ta. Ĺa khỏi bản thân chúng ta, nói thật
ra, chẳng có một pháp nào để có thể đạt
được. Đă là chẳng có một pháp nào để
có thể đạt được, c̣n có pháp ǵ để
có thể nói hay chăng? Phật là bản tánh của chính
ḿnh. Bồ Tát cũng là bản tánh của chính ḿnh. Y báo và
chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới vẫn là bản
tánh của chính ḿnh. Thiền Tông nói rất hay: “Nếu người hiểu biết
tâm, đại địa không tấc đất”. Tâm
[trong câu nói trên đây] chính là chân tâm. Nếu quư vị nhận
biết chân tâm, đại địa chẳng có tấc
đất nào, v́ sao? Hết thảy toàn là Tướng Phần
của tự tâm. Tánh, Tướng như nhau, Lư, Sự chẳng
hai, mới biết hoàn toàn là chính ḿnh.
Do
hang trống dội lại tiếng vọng, cho nên có “tùy thanh cao thấp”, [nghĩa
là] âm thanh của quư vị cao, tiếng vọng cũng cao.
Âm thanh của quư vị dài, tiếng vọng cũng kéo dài.
Gương sáng chiếu cảnh giới bên ngoài, chẳng hạn
như soi người ta th́ cổ nhân thường nói: “Hồ lai hiện Hồ, Hán lai
hiện Hán” (người Hồ đến soi,
gương bèn hiện bóng người Hồ. Người
Hán đến soi, gương bèn hiện bóng người
Hán). Người Hán soi gương, trong gương hiện
người Hán. Người Hồ là người ngoại
quốc, người ngoại quốc soi gương, trong
gương hiện h́nh người ngoại quốc, “tùy tướng nghiên xi” (tùy
theo tướng mà hiện h́nh bóng xấu đẹp). Nay
chúng ta thường tự trách tướng mạo của
chính ḿnh chẳng đẹp, tướng mạo đức
Phật đẹp nhất, mảy may khuyết hăm đều
chẳng có. Kinh thường tán thán mặt Phật như “măn nguyệt” (trăng tṛn), vầng
trăng ngày Rằm. Nếu chúng ta hiểu lầm ư nghĩa,
[cứ ngỡ] “măn nguyệt”
là tṛn xoe, đầu Phật tṛn quay, cũng rất khó coi! “Măn nguyệt” là chẳng có chỗ
nào khuyết hăm, mang ư nghĩa này. Ba mươi hai tướng
và tám mươi thứ hảo, quư vị chẳng t́m thấy
chỗ khuyết hăm nào trên thân tướng đức Phật,
quá đẹp đẽ! V́ sao có hảo tướng như
vậy? Kinh Đại Thừa đă nói rất rơ ràng:
Tướng thuộc về quả báo, mỗi tướng
đều có tu nhân (cái nhân để tu tập). Chẳng có
thiện nhân, lấy đâu ra thiện quả? Đối với
ba mươi hai tướng và tám mươi thứ hảo
của đức Phật, trong Kim Cang Kinh Giảng
Nghĩa, cư sĩ Giang Vị Nông đă trích lục nhân quả
rất rơ ràng. Nếu quư vị muốn tu tướng hảo,
hăy nên tu từ nơi nhân, quả sẽ tự nhiên chuyển
biến. Đó gọi là “tướng
tùy tâm chuyển” (tướng chuyển theo tâm). Do điều
này có thể biết, tướng Phật trang nghiêm như
vậy [là do] tâm Phật quá tốt đẹp! Tâm tốt
lành là nhân, tướng hảo là quả, phải biết
điều này!
“Động nhược hành vân”
(động th́ như mây bay): Trong kinh Phật, chữ Vân
được dùng rất nhiều, nhất là kinh Hoa Nghiêm.
Dùng chữ này với ư nghĩa ǵ? “Chẳng phải có, chẳng
phải không”. Chúng ta thấy áng mây thật sự là có,
nhưng đến gần th́ chẳng có. Đức Phật
nói: Chúng ta đều hăy nên quán hết thảy các pháp thế
gian và xuất thế gian như thế, chớ nên chấp
trước có, mà cũng đừng chấp trước
không! Quư vị nói nó không có, nó có! Quư vị nói nó là có, thật
sự nó là không. Đó mới là chân tướng sự thật.
Trước mắt chúng ta cũng là như thế, thân thể
chúng ta cũng là chẳng phải có, chẳng phải không,
giống như mây trôi. “Động”
là nói nó khởi tác dụng, Pháp Thân khởi tác dụng, hiển
hiện y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới,
chẳng phải có, chẳng phải không. V́ thế, chớ
nên chấp trước những thứ ấy. Phàm phu chấp
trước, cho nó là có. Hàng Nhị Thừa tưởng nó
là không. Phàm phu chấp trước có, Nhị Thừa chấp
trước không, đều là sai lầm. Bồ Tát bất
đắc dĩ, cưỡng gọi chuyện này là Trung
Đạo. Trung Đạo là chẳng chấp trước
có, mà cũng chẳng chấp trước không. Quư vị
nói “ta là Trung Đạo”, lại sai bét mất rồi! Quư vị
lại có chấp trước! Nói tóm lại, quyết định
chớ nên chấp trước, quư vị bèn tự tại.
Có chấp trước tức là bệnh. Hết thảy
đều chẳng chấp trước sẽ tự tại.
“Chỉ do cốc
thần” (ngưng lặng th́ như
hang núi), Lăo Tử nói: “Cốc
thần bất tử”, chính giữa hang núi gọi là “cốc thần” (谷神). Chính giữa sơn cốc
là vô h́nh, vô ảnh. Cả quả núi, sơn cốc thấp
nhất, tỷ dụ sự thấp hèn, h́nh dung sự an
tĩnh, bất động. Lăo Tử dùng ư nghĩa này để
dạy người. Xử thế, đăi người,
trong xă hội phải hạ ḿnh, khiêm hư, an tĩnh, chẳng
mê. Dùng chỗ chính giữa nơi đáy hang núi để
làm tỷ dụ nhằm sánh ví sự nhiệm mầu của
đạo. Nói thật ra, Đạo do Nho gia nói, Đạo
của Đạo gia nói và Đạo do Phật gia nói đều
hết sức gần gũi, đều là nói về tâm. Dụng
tâm phải khiêm hư, phải hạ ḿnh, phải an
tĩnh. Phật môn gọi “an tĩnh” là Thiền Định,
là “như như bất động”!
Tâm bất
động sẽ chẳng khởi bất cứ tác dụng
ǵ, nên là bất tử. Phật pháp gọi “bất tử” là bất sanh bất diệt, có ư
nghĩa này! Cổ đại đức Trung Quốc nói cảnh
giới của Lăo Trang là từ Thất Địa trở
lên. [Cảnh giới của] Nho và Đạo, nói thật
ra, xác thực là cảnh giới Bồ Tát trong Phật pháp.
Họ có phải là Phật, Bồ Tát hóa thân đến
Trung Quốc nhằm giáo hóa chúng sanh hay chăng? Nói theo Lư th́
thông suốt, nhưng xét theo Sự bèn chẳng có dấu
tích. “Chỉ do cốc thần”
(ngưng lặng th́ giống như đáy hang núi), đó là
đại định. Tự tánh vốn định, mang ư
nghĩa này.
“Vân vân tự bỉ, ư ngă hà vi
da” (lăng xăng tự nó, can dự ǵ đến ta),
hai câu này nói đến sâm la vạn tượng. Trong xă hội
hiện thời xao động bất an, cả thế giới
nguy cơ ẩn nấp bốn bề, giống như quả
bom đă cài giờ sẵn, chẳng biết sẽ nổ
tung lúc nào. Kinh nói là “ngũ
trược ác thế”, thật đấy, chẳng giả!
Nếu bản thân chúng ta có thể thật sự khế nhập
cảnh giới Như Lai, sự động loạn ấy
chẳng dính dáng ǵ đến ta! Chính ḿnh ở trong cảnh
giới ấy vẫn là động tĩnh như nhau, chẳng
hề dính dáng! Họ động, chúng ta bất động.
Người bất động sẽ thấy rơ ràng, rành rẽ
cảnh giới đang động. Tục ngữ thường
nói “kẻ trong th́ quáng, người
ngoài bèn sáng”. Kẻ bàng quan do chẳng có lợi hay có hại
ǵ đối với họ, cho nên họ nh́n thấy rất
rành rẽ. Hiện thời, thế giới này động
loạn, v́ sao mọi người chẳng thấy rơ ràng?
V́ tâm chính ḿnh đang bị động, chính ḿnh rất sợ
chết, trong tâm có [nỗi sợ] sanh tử!
Đoạn
kinh văn này đă nói: “Động
nhược hành vân, chỉ do cốc thần”, đó là bất
sanh bất diệt. Dùng cái tâm bất sanh bất diệt
để thấy cảnh giới được hiện
bởi cái tâm sanh diệt trong thế gian này, [sẽ thấy]
khác hẳn! Đó là chỗ khác
biệt, chúng ta phải học điều này, mong cầu
đạt được. Học Phật nhập môn từ
chỗ nào? Nhập môn từ tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh
là “cốc thần”, tuyệt
chẳng phải do niệm kinh điển bao nhiêu, nghiên cứu
bao nhiêu, hoặc là phải biết cỡ nào! Chẳng phải
do những điều ấy. Nói thật thà, tâm địa
thanh tịnh đến tột bậc th́ mới có tư
cách xem kinh, mới có tư cách đọc sách, mới có
tư cách nh́n vào thế giới này, nh́n vào nhân sinh. V́ sao?
Chính quư vị đă vượt thoát, đă thấy rơ ràng,
rành rẽ, mới biết khi nào, nhà Phật thường
nói là “thời tiết, nhân
duyên”, đối với người nào th́ phải nên
dùng phương pháp ǵ để giúp họ. Đó gọi là
“quán cơ thí giáo” (xem xét thời
cơ, để ban bố giáo pháp), giáo hóa chúng sanh, cơ cảm
tương ứng.
Nếu
tâm chính ḿnh vẫn chưa thanh tịnh, càng đọc, tri
kiến càng nhiều, quan sát xă hội càng nhiều, phiền
năo càng lắm. Sách Phật pháp hay sách thế gian càng đọc
nhiều, tà kiến càng nhiều. V́ sao người ấy
chẳng thể biến thành đại thánh đại hiền?
Do chẳng trừ bỏ phiền năo. Chẳng trừ bỏ
phiền năo th́ trong Phật môn, quư vị nghiên cứu kinh luận
ít sẽ tạo nghiệp cũng ít, chẳng có năng lực
tạo nghiệp. Đọc kinh sách càng nhiều, tạo
nghiệp cũng lớn! Quư vị có thể giảng, biết
lắm thứ, đó là cái học do hỏi han ghi nhớ, hết
sức rộng răi, có thể nói đến nỗi hoa trời
rơi tán loạn, có thể lừa hết thảy chúng
sanh, tạo tội nghiệp to đùng! Tăng trưởng
vô lượng tà tri tà kiến, làm thế nào được
nữa! Đó chẳng phải là hưng thịnh Phật
pháp, mà là hủy diệt Phật pháp. Do vậy, cổ đức
giáo học th́ trước hết là khởi sự bằng
đoạn phiền năo. Trước hết, chẳng bảo
quư vị đọc kinh, không cho phép quư vị xem kinh sách, chỉ
là chỉ định một quyển bảo quư vị
đọc tụng, chẳng giảng giải, [nhằm vào
mục đích] định cái tâm! Tu tâm thanh tịnh. Đến
khi tâm địa đă khá thanh tịnh, thầy chấp nhận,
khi ấy, mới có thể nghiên cứu kinh điển,
đọc rộng răi các kinh, mới có tư cách [làm chuyện
đó]. Khi đó, quư vị biết càng nhiều càng hay. Quư vị
có trí huệ, trong tương lai có thể giúp đỡ hết
thảy chúng sanh, thành tựu vô lượng công đức.
Tu học trong hiện thời, căn bệnh to lớn là
điên đảo thứ tự. V́ thế, đoạn kinh
văn này có ư nghĩa hết sức sâu xa!
(Sớ)
Cập kỳ nhân dân giả, xảo dụng đảo ngữ
cố. Ngôn nhân dân giả, Phật như vương cố.
A-tăng-kỳ, thử vân Vô Số, bội chi danh Vô Lượng,
Vô Biên. Nhân thọ hữu nhị: Nhất Phật bổn
nguyện lực cố, nhị tự công đức lực
cố.
(疏) 及 其 人 民 者,巧 用 倒 語 故。言 人 民 者,佛 如 王 故。阿 僧 祇,此 云 無 數,倍 之 名 無 量 無 邊。人 壽 有 二:一 佛 本 願 力 故,二 自 功 德 力 故。
(Sớ: “Cùng với
nhân dân”: Khéo sử dụng đảo ngữ. Nói “nhân dân” là
v́ Phật giống như vua. Cơi này dịch A-tăng-kỳ
là Vô Số. Những bội số của nó là Vô Lượng
và Vô Biên. Tuổi thọ của con người [trong cơi Cực
Lạc] có hai [yếu tố]: Một là do bổn nguyện
lực của Phật, hai là do sức công đức của
chính ḿnh).
Đoạn
này nhằm giải thích câu kinh văn “cập kỳ nhân dân vô lượng vô biên A-tăng-kỳ
kiếp”.
(Sao)
Đảo ngữ giả, chánh ngữ đương vân
“Phật cập nhân dân, thọ mạng vô lượng”.
(鈔) 倒 語 者,正 語 當 云 佛 及 人 民,壽 命 無 量。
(Sao:
“Đảo ngữ”: Nói thuận theo cú pháp th́ phải là “Phật
và nhân dân, thọ mạng vô lượng”).
Đây
là nói theo ngữ pháp tiếng Hán, ngữ pháp tiếng Phạn
có sai khác đôi chút. Họ nói là “bỉ
Phật thọ mạng, cập kỳ nhân dân”, theo cách
nói của người Hoa sẽ là “bỉ Phật cập kỳ nhân dân, thọ mạng
vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp”, nói theo cách
đó. Kinh văn nói đảo ngược, nên gọi là “đảo ngữ”.
“Phật như vương cố”
(do Phật giống như vua), văng sanh có nhân dân. Đây là tỷ
dụ. Chư vị phải hiểu, Tây Phương Cực
Lạc thế giới chẳng có vua, mà cũng chẳng có
nhân dân. V́ sao? Thế giới ấy b́nh đẳng. Người
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng
có họ tên. Nhà cửa họ ở chẳng có tên đường,
mà cũng chẳng có số nhà. Tây Phương Cực Lạc
thế giới là một thế giới như vậy
đó. H́nh dáng của mọi người lại đều
giống hệt như nhau, hoàn cảnh sống đều
giống nhau, thế giới b́nh đẳng mà! Chúng ta vừa
nghe lời này, ắt sẽ kinh hăi, đến đó,
Trương Tam hay Lư Tứ đều chẳng nhận biết,
vị nào là Phật, vị nào là Bồ Tát, chúng ta cũng chẳng
phân biệt rơ ràng! Kinh dạy: Sau khi đă đến bên
đó, thần thông và đạo lực của chúng ta thảy
đều khôi phục, chắc chắn chẳng nhận lầm
bất cứ một ai. Quư vị vừa thấy người
đó, không chỉ biết hiện thời người ấy
là ai, mà chuyện trong đời đời kiếp kiếp
quá khứ của người đó quư vị đều biết.
Người trong thế giới Tây Phương trọn
đủ sáu loại thần thông, gần như chẳng
khác A Di Đà Phật cho mấy. Thiên Nhăn thấy thấu suốt,
Thiên Nhĩ nghe thông suốt, Tha Tâm biết trọn khắp,
trong t́nh h́nh ấy, chẳng cần đến danh tự!
V́ thế, bên ấy chẳng có vua, mà cũng chẳng có nhân
dân. Cách thuyết pháp bên ấy chắc chắn chẳng giống
cách thuyết pháp ở nơi đây, v́ trong cơi này, phải
dùng ngôn ngữ, phải dùng phân biệt, chấp trước
để thuyết pháp, ở bên kia thảy đều chẳng
cần, chẳng có những thứ ấy!
(Sao)
Như Ba La Mật, vân Bỉ Ngạn Đáo,
đương thị Đáo Bỉ Ngạn nhĩ.
(鈔) 如 波 羅 密,云 彼 岸 到,當 是 到 彼 岸 耳。
(Sao: Như Ba La Mật,
nghĩa là Bờ Kia Đến, [hiểu theo cách hành văn
theo thứ tự thuận] phải là Đến Bờ
Kia).
Đây
là nêu một thí dụ. Ngữ pháp tiếng Ấn Độ
tương phản ngữ pháp tiếng Hán, như Ba La Mật (Pāramitā) là tiếng
Phạn,
dịch thẳng [từng chữ] sang tiếng Hán sẽ là
Bỉ Ngạn Đáo, nhưng theo ngữ pháp tiếng Hán
th́ phải là Đáo Bỉ Ngạn.
(Sao)
Dĩ ư hội chi, vô dĩ từ hại.
(鈔) 以 意 會 之,無 以 辭 害。
(Sao:
Phải hiểu theo ư nghĩa, chớ v́ từ mà hại ư).
Dạy
chúng ta phải hiểu ư nghĩa, chớ nên chấp trước
danh tướng, chính là “y
nghĩa, bất y ngữ” trong Tứ Y Pháp. Hiểu rơ ư
nghĩa là được rồi!
(Sao)
Phật như vương giả.
(鈔) 佛 如 王 者。
(Sao:
“Phật như vua”).
Đây
là tỷ dụ.
(Sao)
Bỉ quốc tuy vô quân thần phụ tử.
(鈔) 彼 國 雖 無 君 臣 父 子。
(Sao:
Tuy cơi ấy chẳng có vua, tôi, cha, con).
Phàm
là đi văng sanh đều là liên hoa hóa sanh. Do đó, Tây
Phương Cực Lạc thế giới chẳng có quan hệ
cha con, chẳng có quan hệ vua tôi.
(Sao)
Nhiên Phật vi pháp vương, hữu quân chủ nghĩa.
(鈔) 然 佛 為 法 王,有 君 主 義。
(Sao:
Nhưng Phật là pháp vương, nên có ư nghĩa quân chủ).
Nhưng
xác thực là có A Di Đà Phật ở trong thế giới
ấy giáo hóa chúng sanh, địa vị của đức
Phật là thầy. V́ thế, trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới có quan hệ thầy tṛ. Phật là thầy,
hết thảy Bồ Tát đều là học tṛ.
(Sao)
Sanh bỉ quốc giả, y Phật, học Phật, hữu
nhân dân nghĩa.
(鈔) 生 彼 國 者,依 佛 學 佛,有 人 民 義。
(Sao:
Người sanh về cơi ấy nương theo Phật, học
Phật, nên có ư nghĩa nhân dân).
Dùng
theo ư nghĩa này, có ư nghĩa này.
(Sao)
Phi như thử độ, bản tịch sở thống,
thật biên manh dă.
(鈔) 非 如 此 土,版 籍 所 統,實 編 氓 也。
(Sao:
Chẳng giống như cơi này, có sổ bộ, hộ tịch
thống kê, biên chép dân chúng).
Thế
gian này là xă hội Ngũ Luân, thật sự có tổ chức,
có sự thống hạt (cai quản, kiểm soát, quản
chế). Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng
có chuyện ấy. [Chỉ có một mối quan hệ] là
thầy tṛ. Nói thật ra là một trường học, thầy
và học tṛ địa vị b́nh đẳng.
(Sao) Tăng Kỳ giả nhập thập đại
số chi thủ.
(鈔) 僧 祇 者,入 十 大 數 之 首。
(Sao:
Tăng Kỳ thuộc con số đầu tiên trong mười
con số lớn).
Những
chữ số của Ấn Độ tính từ những số
cơ bản là đơn vị, mười, trăm, ngàn,
đại khái có một trăm năm mươi mấy chữ
số. A Tăng Kỳ (Asaṅkhya) là số đầu tiên trong
mười con số lớn cuối cùng[4].
(Sao)
Tùng bách Lạc Xoa, bội bội tích lũy nhi sanh.
(鈔) 從 百 洛 叉,倍 倍 積 累 而 生。
(Sao:
Từ một trăm Lạc Xoa[5] tính gấp bội
dần mà có những số đó).
Cơ
số của Ấn Độ được tính theo cách
tăng gấp mười, nhưng đến những con
số lớn chẳng tính theo cách tăng gấp mười,
mà là bội số của chính nó nhân lên, nên những con số
ấy hết sức to lớn.
(Sao)
Hựu Tăng Kỳ Tăng Kỳ vi nhất Vô Lượng.
(鈔) 又 僧 祇 僧 祇 為 一 無 量。
(Sao:
Lại nữa, Tăng Kỳ lần Tăng Kỳ là một
Vô Lượng).
A-tăng-kỳ
lần A-tăng-kỳ là một Vô Lượng.
(Sao)
Vô Lượng Vô Lượng vi nhất Vô Biên.
(鈔) 無 量 無 量 為 一 無 邊。
(Sao:
Vô Lượng lần Vô Lượng là một Vô Biên).
Vô
Lượng lần Vô Lượng là một Vô Biên.
(Sao)
Kim hợp ngôn giả, tự hữu nhị nghĩa.
(鈔) 今 合 言 者,自 有 二 義。
(Sao:
Nay nói gộp lại, là có hai ư nghĩa).
Nay
trong kinh văn nói là “vô lượng
vô biên A-tăng-kỳ kiếp”, ở đây có hai ư
nghĩa.
(Sao)
Nhất thị thật minh kỳ số, dĩ tăng kiếp
kế chi, hữu vô lượng vô biên Tăng Kỳ dă.
(鈔) 一 是 實 明 其 數,以 僧 劫 計 之,有 無 量 無 邊 僧 祇 也。
(Sao: Một là thật sự nói đến con số
ấy, dùng A Tăng Kỳ kiếp để tính toán bèn có
Vô Lượng Vô Biên Tăng Kỳ).
Nói
đến một con số thật sự.
(Sao)
Nhị thị cực tán kỳ đa, vô phục biên lượng,
vô phục cùng tận chi Tăng Kỳ dă.
(鈔) 二 是 極 讚 其 多,無 復 邊 量,無 復 窮 盡 之 僧 祇 也。
(Sao: Hai là tán thán số
ấy nhiều đến tột bậc, lại c̣n là chẳng
có bờ mé, số lượng, chẳng có cùng tận A
Tăng Kỳ vậy).
Chúng
ta đọc kinh Vô Lượng Thọ, biết trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới, thọ mạng
của Phật và chúng sanh dài lâu đương nhiên [phải
hiểu] theo ư nghĩa thứ hai, tuyệt đối chẳng
phải là ư nghĩa thứ nhất, v́ sao? Theo ư nghĩa thứ
nhất, Vô Lượng Vô Biên A-tăng-kỳ kiếp có thể
tính toán được. V́ thế, từ ngữ này (vô
lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp) thật sự
là từ ngữ h́nh dung, chẳng phải là một con số,
v́ Đại Kinh đă nói rất rơ ràng: “Giả sử chúng sanh trong mười phương
thế giới đều chứng đắc quả Bích
Chi Phật, thần thông đều như Mục Kiền
Liên, cùng nhau tính toán thọ mạng của A Di Đà Phật,
trọn hết tuổi thọ của họ để tính
toán, đều chẳng có cách nào tính toán được!”
Vậy th́ đương nhiên chẳng phải là vô lượng
vô biên A-tăng-kỳ kiếp [hiểu theo nghĩa một
con số cụ thể]. Nếu thật sự là [một
con số] vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp, một
ḿnh tôn giả Mục Kiền Liên đă tính ra, cần ǵ phải
có lắm người ngần ấy? V́ vậy, ư nghĩa
thứ hai là chánh xác.
(Sao) Phật lực
giả, Đại Bổn Pháp Tạng nguyện vân: “Ngă tác
Phật thời, ngă sát trung nhân, thọ mạng giai vô
ương số kiếp, vô hữu năng kế kỳ số
giả”, thị thừa Phật nguyện lực, hữu
thử thọ cố.
(鈔) 佛 力 者,大 本 法 藏 願 云:我 作 佛 時,我 剎 中 人,壽 命 皆 無 央 數 劫,無 有 能 計 其 數 者 ,是 承 佛 願 力,有 此 壽 故。
(Sao: Phật lực:
Trong kinh Đại Bổn, ngài Pháp Tạng nguyện rằng:
“Khi tôi thành Phật, người trong cơi tôi thọ mạng
đều là vô ương số kiếp, chẳng người
nào có thể tính được số ấy”. Đó là nhờ
vào nguyện lực của Phật mà có tuổi thọ ấy).
Giải
thích v́ sao người trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới thọ mạng dài như thế. Trong lời Sớ,
đă nêu ra hai nguyên nhân, thứ nhất là Phật lực,
do sức bổn nguyện của Phật gia tŕ. V́ Phật
đă từng phát ra bốn mươi tám nguyện. Nếu
người sanh về Tây Phương Cực Lạc thế
giới chẳng có thọ mạng dài như thế, đức
Phật đă trái nghịch bổn nguyện, chẳng thể
thành Phật. V́ lẽ đó, sanh về Tây Phương Cực
Lạc thế giới, nhất định là thọ mạng
dài lâu như đức Phật đă phát nguyện. Đây
là nêu nguyên văn trong bốn mươi tám nguyện để
nói. Pháp Tạng là tiền thân của A Di Đà Phật, Pháp
Tạng chính là pháp danh của A Di Đà Phật khi Ngài c̣n tu
nhân. “Ngă tác Phật thời”
(khi ta thành Phật), nay Ngài đă thành Phật, kinh Đại
Bổn và Tiểu Bổn đều nói rất rơ ràng, Ngài
thành Phật trong Tây Phương Cực Lạc thế giới
đến nay đă là mười kiếp. “Ngă sát trung nhân” (người trong cơi ta), [tức
là] người trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới, “thọ mạng giai vô
ương số kiếp” (thọ mạng đều là
vô ương số kiếp), Vô Ương[6] là
một con số lớn, “vô hữu
năng kế kỳ số giả” nghĩa là chẳng
có ai có thể tính toán con số ấy, đó là “thừa Phật nguyện lực”
(nương vào nguyện lực của Phật), nên người
văng sanh có thọ mạng dài như vậy, thọ mạng
giống như Phật. Nguyên nhân thứ hai là:
(Sao)
Tự lực giả.
(鈔) 自 力 者。
(Sao:
Sức của chính ḿnh).
Là sức
công đức của chính ḿnh, cũng chớ nên coi nhẹ!
(Sao)
Nhất tâm niệm Phật, tâm thanh tịnh cố.
(鈔) 一 心 念 佛,心 清 淨 故。
(Sao:
Do nhất tâm niệm Phật, nên tâm thanh tịnh).
Hai
câu này nói đến tự lực, hai câu này hết sức
quan trọng. V́ sao? Chẳng có tự lực, Phật lực
chẳng thể gia tŕ được! Do vậy có thể
biết, chúng ta tu học pháp môn này, quan trọng nhất là
nhất tâm niệm Phật, niệm cho đạt đến
tâm thanh tịnh. Tâm c̣n có thị phi, nhân ngă, c̣n có tham, sân, si,
mạn, tâm ấy chẳng thanh tịnh. Xưa kia, các vị
đại đức đă nói: Nếu muốn nhập Phật
môn, phải thấy thấu suốt, phải buông xuống.
Thấy thấu suốt là giác ngộ, buông xuống là công
phu. Nay v́ sao tâm chúng ta chẳng thanh tịnh? Không buông xuống
được! V́ sao không buông xuống được? Chẳng
thấy thấu suốt! Những ǵ đức Phật dạy,
chúng ta đều có thể ghi nhớ, chính ḿnh cũng có thể
nói “phàm những ǵ có h́nh tướng
đều là hư vọng”. Đều là hư vọng,
v́ sao quư vị không buông xuống? V́ sao phải chấp
trước tướng hư vọng ấy? Chấp
trước những tướng hư vọng ấy sẽ
tạo vô biên tội nghiệp, phải tạo tác lục
đạo luân hồi, vẫn phải tạo nghiệp, chịu
báo trong ấy, chẳng thể nào giải quyết xong, khổ
chẳng thể nói! V ́ thế,
Phật, Bồ Tát, tổ sư đại đức rát miệng
buốt ḷng khuyên dạy chúng ta: “Phải thấy thấu suốt,
phải buông xuống!” Nếu những hiện tướng
là thật, mà Phật, Bồ Tát dạy chúng ta “thấy thấu
suốt, buông xuống” th́ trật mất rồi! Do tất
cả hết thảy huyễn tướng đều là giả,
chẳng có ǵ là thật, nên bảo quư vị thấy thấu
suốt và buông xuống là tuyệt đối chánh xác. Chỉ
cần quư vị có thể thấy thấu suốt, buông xuống,
mới đắc đại tự tại trong hết thảy
cảnh giới. V́ lẽ đó, tâm thanh tịnh trọng yếu
hơn bất cứ ǵ khác.
Sở
dĩ pháp môn này thù thắng, có thể vượt trỗi hết
thảy các pháp môn, là do nó đơn giản, dễ dàng, ổn
thỏa, thích đáng, tức là nhất tâm niệm Phật,
trong tâm chỉ có ḿnh A Di Đà Phật. Trừ A Di Đà Phật
ra, thứ ǵ cũng chẳng có. Giống như Liên Tŕ đại
sư đă nói: “Tam Tạng
mười hai bộ để dạy người khác ngộ”,
tuyệt đối chẳng phải để dạy chính
ḿnh. Dạy chính ḿnh th́ một câu Nam-mô A Di Đà Phật
cũng đủ rồi, ngay cả kinh Di Đà, kinh Vô
Lượng Thọ đều là quá thừa, huống ǵ những
thứ khác! C̣n cần đến những kinh điển ấy
v́ chúng là công cụ để tiếp dẫn chúng sanh, tuyệt
đối chẳng phải là để chính ḿnh thọ dụng,
mà nhằm dành cho người khác thọ dụng. Quư vị
có thể hiểu rơ giới tuyến ở chỗ này, sẽ
không trở ngại sự. Hóa độ người khác,
chẳng trở ngại tâm chính ḿnh thanh tịnh; tự tâm
thanh tịnh cũng chẳng trở ngại giảng kinh,
thuyết pháp, giáo hóa chúng sanh, vô ngại! Lư Sự vô ngại,
Sự Sự vô ngại, nhất định phải hiểu
rơ ràng. Nhưng đối với tự lợi, lợi tha,
nhất định lấy tự lợi làm chủ, [bởi
lẽ] chính ḿnh chẳng thật sự đạt
được lợi ích, sẽ chẳng thể lợi
tha. Lợi tha th́ phải tự lợi trước. Tự
lợi được nói như thế nào? Chính ḿnh phải
đạt được cái tâm thanh tịnh trước
đă, đó là tự lợi.
(Sao)
Liên hoa hóa sanh, thanh hư chi thân, bất đồng chất
ngại nhục thân, hữu lăo bệnh tử. Thị tự
tinh tấn lực, hữu thử thọ cố.
(鈔) 蓮 華 化 生,清 虛 之 身,不 同 質 礙 肉 身,有 老 病 死,是 自 精 進 力,有 此 壽 故。
(Sao: “Liên hoa hóa sanh”:
Cái thân thanh hư, chẳng giống như nhục thân vật
chất ngăn ngại, có già, bệnh, chết. Đó là do
sức tinh tấn của chính ḿnh mà có thọ lượng ấy).
Sanh
về Tây Phương Cực Lạc thế giới là “liên hoa hóa sanh”. Nói cách khác, thân
thể chẳng giống thân thể loài người chúng ta
trong thế giới này! Nếu nói là khác nhau, th́ vẫn rất
khó nói, v́ sao? Nói theo lư luận th́ như nhau, chẳng khác ǵ
cả! Các nhà khoa học đă phân tích thân thể này, tách
thành nguyên tử, điện tử, hạt cơ bản.
Hoa sen phân tích ra cũng là những thứ đó, há có khác ǵ?
Hết thảy vạn pháp, pháp thế gian và xuất thế
gian phân tích đến cuối cùng, vật chất cơ bản
đều như nhau. Nếu nói là khác nhau th́ là do sự tổ
hợp khác nhau, công thức cấu tạo khác nhau. Rốt
cuộc là do ai sắp đặt? Ai tổ hợp chúng?
Thưa cùng chư vị, người sắp đặt và
tổ hợp chẳng phải là A Di Đà Phật, chẳng
phải là Phật, Bồ Tát. Nếu Phật, Bồ Tát có
năng lực tổ hợp, sắp đặt, chúng ta c̣n
phải tu chi nữa! Các Ngài giúp chúng ta tổ hợp là
được rồi! Hiện thời nói là “biến đổi thể chất”.
Nếu Phật, Bồ Tát có năng lực giúp chúng ta biến
đổi thể chất, các Ngài đại từ đại
bi đều giúp chúng ta biến đổi, chúng ta chẳng
cần tu hành! Chư vị nhất định phải biết,
trong sự tổ hợp, sắp xếp ấy, ai làm chủ
tể? Ư niệm làm chủ tể, niệm lực chẳng
thể nghĩ bàn! Trong kinh Phật thường nói: “Tâm, Phật, chúng sanh, ba thứ chẳng sai biệt”. Bản năng của tâm, năng lực của
Phật, và năng lực nghiệp duyên của chúng
sanh, ba sức mạnh ấy đều chẳng thể
nghĩ bàn!
Thân
người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới
do tâm thanh tịnh tổ hợp, tâm thanh tịnh tạo
thành công thức cấu tạo, chúng ta gọi [thân tâm ấy]
là Vô Lậu Ngũ Ấm. Ngũ Ấm như nhau, Sắc,
Thọ, Tưởng, Hành, Thức, nhưng chúng là vô lậu.
Vô lậu là tâm thanh tịnh, hữu lậu là tâm phiền
năo. Chúng ta do tâm phiền năo sắp đặt, tổ hợp,
nên biến thành hữu lậu Ngũ Ấm, khác hẳn, bất
đồng ở chỗ này. “Liên
hoa hóa sanh, thanh hư chi thân”, do tâm thanh tịnh sắp
đặt, tổ hợp; lại c̣n được Phật
lực gia tŕ, nên thân của họ là thân Kim Cang bất hoại.
“Thanh hư chi thân, vô cực chi
thể” (thân thanh hư, thể vô cực), do đó, thọ
mạng dài lâu, chẳng có già, bệnh, chết! Trong thế
gian này, chúng ta là thân hữu lậu Ngũ Uẩn. Hữu lậu
là do tâm phiền năo sắp đặt, tổ hợp thể
chất, nên có chướng ngại. V́ thế, có già, có bệnh,
có chết.
Thân
người trong thế giới Tây Phương và thân
người chúng ta khác nhau, điều này đáng để
chúng ta chú ư. Ví như vàng y và chén trà, vật chất cơ bản
hoàn toàn như nhau, nhưng công thức cấu tạo khác
nhau, một đằng là có thể ǵn giữ lâu dài, một
đằng chẳng thể ǵn giữ lâu dài. Ai sắp xếp?
Do tâm niệm sắp xếp. Trong tâm chẳng có vọng niệm,
sắp xếp, sẽ hoàn toàn phù hợp tự nhiên, tự
nhiên là bất sanh bất diệt. Do khởi tâm động
niệm sắp xếp, sẽ chẳng thể thuận theo
tự nhiên, bèn trở thành hữu sanh, hữu diệt. Hiện
thời đạo lư này đă được khoa học chứng
thực. V́ thế, chúng ta mong trường thọ, mong
được trẻ trung măi măi, quư vị phải biết
then chốt ở chỗ nào? Then chốt là tâm thanh tịnh.
Tuyệt đối chẳng phải do thuốc men, chẳng
do cầu thần, cầu quỷ, chẳng do sửa sắc
đẹp mà có thể đạt được, mà là do
trong tâm của chính quư vị biến đổi thể chất
của chính ḿnh. Hiện thời có người đề
ra uống thuốc ǵ, dùng phương pháp ǵ đó để
biến đổi, toàn là gạt người! Đó là trị
đằng ngọn, chẳng phải là trị tận gốc.
Quan trọng nhất để có thể biến đổi
thể chất là tâm niệm. Hiểu đạo lư này, chúng
ta mới chẳng bị kẻ khác lường gạt!
“Thị tự tinh tấn lực”
(do sức tinh tấn của chính ḿnh), Tinh (精) là thuần chứ chẳng tạp. Nhất tâm là
Tinh, niệm niệm tiếp nối là Tấn (進). Nay chúng ta có sức tinh tấn, thọ mạng trong
thế gian hiện thời cũng có thể lâu dài, cũng
chẳng phải là hạn lượng cố định,
mà có thể vượt khỏi hạn lượng đă
định sẵn. Nếu bản thân chúng ta chẳng biết
tu học, xác thực là thọ mạng có hạn lượng
nhất định. Như trong Liễu Phàm Tứ Huấn
đă nói, thọ mạng có [hạn lượng] nhất
định. Thọ mạng kéo dài hay rút ngắn do sự tu
học của chính quư vị. Quư vị tu tốt đẹp,
sẽ chẳng phải là hạn lượng cố định,
thọ mạng có thể kéo dài. Quư vị tạo nên oan nghiệt,
tạo tội quá nhiều, vốn là trường thọ
mà thọ mạng có thể bị rút ngắn. Do đó, tuy
có thọ mạng, nó cũng chẳng là một con số nhất
định, dài hay ngắn vẫn là do duyên, tùy thuộc bản
thân chúng ta thực hiện như thế nào. Trong đoạn
kế tiếp, đại sư đă giả lập một
đoạn vấn đáp:
(Sớ)
Vấn vân: Thử vô lượng diệc khả tức vô
lượng chi vô lượng giả, hoàn hữu chứng
phủ?
(疏) 問 云:此 無 量 亦 可 即 無 量 之 無 量 者,還 有 證 否?
(Sớ:
Hỏi: “Vô lượng” ở đây cũng có thể hiểu
là vô lượng trong vô lượng, c̣n có chứng cớ
ǵ chăng?)
Kinh
nói là “vô lượng vô biên
A-tăng-kỳ kiếp”, ở đây, Liên Tŕ đại
sư nêu ra hai ư nghĩa: Một là hữu lượng vô
lượng, hai là vô lượng vô lượng. Chúng ta chọn
thuyết sau. Chọn thuyết sau do ư nghĩa viên măn,
nhưng có những kẻ sẽ hoài nghi: “Quư vị nói kiểu
ấy có căn cứ hay không?” Kinh Vô Lượng Thọ là
căn cứ, chúng ta thật sự niệm kinh Vô Lượng
Thọ rất thuần thục, nên chẳng thấy có vấn
đề ǵ! Ở đây là giả thiết, thời Liên
Tŕ đại sư, kinh Vô Lượng Thọ lưu thông
chẳng rộng. Người tu Tịnh Độ quá nửa
thọ tŕ kinh A Di Đà, người niệm kinh Vô Lượng
Thọ chẳng có mấy ai, nhưng người niệm
kinh Hoa Nghiêm đông đảo, nên lăo nhân gia chỗ nào gặp
phải khó khăn đều dẫn kinh Hoa Nghiêm để
chứng minh, giải thích.
(Sớ)
Đáp: Lệ như Hoa Nghiêm trung thuyết.
(疏) 答:例 如 華 嚴 中 說。
(Sớ:
Đáp: Theo như trong kinh Hoa Nghiêm có nói).
Kinh Hoa Nghiêm nói ǵ? Trong phần chú
giải, lăo nhân gia đă nêu cặn kẽ:
(Sao) Thượng
dẫn Quán Sớ vân: “Thử vô lượng thị hữu
lượng chi vô lượng, nhi ngôn diệc khả tức
vô lượng chi vô lượng giả”, dĩ kim văn
chánh tự Hoa Nghiêm cố.
(鈔) 上 引 觀 疏 云:此 無 量 是 有 量 之 無 量,而 言 亦 可 即 無 量 之 無 量 者,以 今 文 正 似 華 嚴 故。
(Sao:
Trong phần trước đă trích dẫn Quán Kinh Sớ:
“Vô lượng ở đây là vô lượng trong hữu
lượng, mà cũng có thể nói là vô lượng trong vô
lượng”, nay phần kinh văn này giống như kinh
Hoa Nghiêm).
“Hữu lượng chi vô lượng”
là căn cứ theo kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật,
là điều được nói trong Thập Lục Quán
Kinh. Nói nó là vô lượng trong vô lượng, tức là nói
theo kinh Vô Lượng Thọ. Trong các kinh Hoa Nghiêm và Pháp Hoa
cũng có nói. Cổ đức gọi kinh Vô Lượng Thọ
là Trung Bổn Hoa Nghiêm, gọi kinh A Di Đà là Tiểu Bổn
Hoa Nghiêm, nói thật ra là có lư, v́ sao? Ư nghĩa hết sức
giống kinh Hoa Nghiêm. Ở đây, Ngài bèn trích dẫn:
(Sao)
Bỉ kinh Thập Hồi Hướng văn vân: “Vô lượng
A-tăng-kỳ”. Thích vân: “Thử phi số trung chi nhất,
đản thị vô số chi ngôn. Nhược định
thị số, tiện đương cục hạn”.
(鈔) 彼 經 十 回 向 文 云,無 量 阿 僧 祇,釋 云:此 非 數 中 之 一,但 是 無 數 之 言,若 定 是 數,便 當 局 限。
(Sao: Trong phần kinh
văn giảng về Thập Hồi Hướng có nói: “Vô
lượng A-tăng-kỳ”. [Ngài Thanh Lương] giải
thích: “Đây chẳng phải là một con số, chỉ là
do không thể tính đếm bèn nói như vậy. Nếu nhất
định coi nó là một con số, sẽ trở thành có
giới hạn”).
Chú giải phẩm
Thập Hồi Hướng của kinh Hoa Nghiêm, Thanh
Lương đại sư đă nói theo kiểu này.
(Sao)
Kim kinh diệc vân “vô lượng vô biên A-tăng-kỳ”.
(鈔) 今 經 亦 云 無 量 無 邊 阿 僧 祇。
(Sao:
Nay kinh này cũng nói “vô lượng vô biên A-tăng-kỳ”).
Rất
giống câu “vô lượng
A-tăng-kỳ kiếp” được nói trong kinh Hoa
Nghiêm. Nếu “vô lượng
A-tăng-kỳ kiếp” trong kinh Hoa Nghiêm đă được
Thanh Lương đại sư giải thích chẳng phải
là một con số, mà là một từ ngữ để
h́nh dung, đương nhiên ở đây cũng có thể
giải thích [vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp]
chẳng phải là một con số, mà là từ ngữ
để h́nh dung, nhằm h́nh dung thời gian lâu dài tột
bậc! Nói theo ư nghĩa trong Hoa Nghiêm, đây chẳng phải
là một con số hạn cuộc!
(Sao)
Nhị kinh văn thế, ư cực tương loại.
(鈔) 二 經 文 勢,意 極 相 類。
(Sao:
Ngữ mạch của lời văn trong hai kinh có ư
nghĩa hết sức giống nhau).
Câu
kinh Hoa Nghiêm và câu văn trong kinh này hết sức
tương tự.
(Sao)
Cố ngôn bỉ Phật thọ mạng, diệc khả tức
thị cánh vô hạn lượng chi vô lượng dă.
(鈔) 故 言 彼 佛 壽 命,亦 可 即 是 更 無 限 量 之 無 量 也。
(Sao:
Nên nói “thọ mạng của đức Phật ấy
cũng có thể hiểu là vô lượng theo nghĩa chẳng
có hạn lượng”).
Chúng
ta dùng lời nguyện trong phần bốn mươi tám
nguyện của kinh Vô Lượng Thọ và lời khai thị
của đức Thế Tôn th́ đều có thể chứng
minh lời giải thích của Liên Tŕ đại sư là
chánh xác.
(Sao)
Vấn: Hoa Nghiêm Thọ Lượng phẩm, vị Sa Bà thế
giới nhất kiếp vi Cực Lạc thế giới nhất
trú dạ. Cực Lạc thế giới nhất kiếp vi
Ca Sa Tràng thế giới nhất trú dạ, triển chuyển
kiếp nhật tương đối, năi chí bách vạn
A-tăng-kỳ thế giới, cực ư Thắng Liên
Hoa, tắc Cực Lạc cẩn thắng Sa Bà, liệt hậu
thù thậm, an đắc vi cánh vô hạn lượng chi vô
lượng hồ?
(鈔) 問:華 嚴 壽 量 品,謂 娑 婆 世 界 一 劫,為 極 樂 世 界 一 晝 夜,極 樂 世 界 一 劫,為 袈 裟 幢 世 界 一 晝 夜,輾 轉 劫 日 相 對,乃 至 百 萬 阿 僧 祇 世 界,極 於 勝 蓮 華,則 極 樂 僅 勝 娑 婆,劣 後 殊 甚,安 得 為 更 無 限 量 之 無 量 乎。
(Sao: Hỏi: Phẩm
Thọ Lượng trong kinh Hoa
Nghiêm nói một kiếp trong thế giới Sa Bà là một
ngày đêm trong thế giới Cực Lạc. Một kiếp
trong thế giới Cực Lạc là một ngày đêm trong
thế giới Ca Sa Tràng. Lần lượt so sánh giữa
kiếp và ngày như vậy, cho đến trăm vạn
A-tăng-kỳ thế giới, tột bậc là thế giới
Thắng Liên Hoa. Như vậy th́ Cực Lạc chỉ trỗi
hơn Sa Bà, thua kém quá mức, lẽ nào là vô lượng
theo ư nghĩa chẳng có số lượng cho được?)
Lời
hỏi này hay lắm! Kinh Hoa Nghiêm thật sự có một
đoạn kinh văn như vậy. V́ thế, quư vị niệm
kinh Hoa Nghiêm đến đoạn này, [ắt sẽ
nghĩ] thế giới Cực Lạc trọn chẳng có
ǵ là tuyệt diệu, bất quá tốt đẹp hơn
thế giới Sa Bà một chút, c̣n kém xa những thế giới
ở phương khác! Gặp phải câu hỏi này, làm
như thế nào đây? Vẫn phải dùng giáo nghĩa Hoa
Nghiêm để giải thích:
(Sao)
Đáp: Bỉ sao thích vân, tam thân kư dung, tam thọ vô ngại.
(鈔) 答:彼 鈔 釋 云,三 身 既 融,三 壽 無 礙。
(Sao:
Đáp: Trong lời Sao cho kinh ấy, [ngài Thanh Lương]
đă giải thích: “Ba thân đă dung thông th́ ba loại thọ
mạng chẳng ngăn ngại”).
Lời Sớ và Sao của kinh Hoa
Nghiêm đều do Thanh Lương đại sư soạn.
Thanh Lương đại sư đă v́ chúng ta giải
thích vấn đề này, Ngài nói rất hay: “Tam thân kư dung” (ba thân đă dung thông), ba thân là Pháp
Thân, Báo Thân, và Ứng Thân. Kinh Hoa Nghiêm nói ba thân th́ một
chính là ba, ba chính là một. Nói thật ra, nhục thân hiện
tại của chúng ta xác thực là tương dung,
tương tức cùng hư không pháp giới. Nếu chẳng
dung thông, làm sao mắt chúng ta có thể thấy được?
Nếu nói thân chỉ có to đôi chút như thế, v́ sao mắt
quư vị có thể nh́n xa ngần ấy? Mắt quư vị
có thể nh́n thấy là v́ thân lượng đạt tới.
Phạm vi tai có thể nghe cũng là do thân lượng
đạt đến. Nhưng nay chúng ta mê mất tự
tánh, năng lực của sáu căn rất hữu hạn.
Thật sự giác ngộ, sẽ giống như kinh
Lăng Nghiêm nói “sáu căn dùng lẫn
cho nhau”. Kinh Vô Lượng Thọ nói Thiên Nhăn thấy thấu
suốt, tận hư không khắp pháp giới đều
có thể thấy rơ ràng. Chúng ta ngồi ở nơi đây,
bất động, thấy Tây Phương Cực Lạc
thế giới giống như ở ngay trước mặt.
Thân của chúng ta há chẳng phải là hợp làm một với
toàn thể hư không pháp giới? Đó là Pháp Thân và nhục
thân của chúng ta dung thông, to như nhau, chẳng có lớn
hay nhỏ! Khi ấy, mới giống như kinh Hoa Nghiêm
đă nói: “Phá một vi trần,
lấy ra quyển kinh to bằng đại thiên thế giới”,
hoặc “ngồi trong vi trần,
chuyển đại pháp luân”, là cảnh giới ấy.
Nói thật ra, cảnh giới này ở ngay trước mắt
chúng ta, nhưng chúng ta tự ḿnh mê muội, bất giác,
chính ḿnh ràng buộc chính ḿnh! Do tâm lượng của chúng
ta nhỏ nhoi như thế, nên thân nhỏ nhoi ngần ấy,
chính ḿnh đă hạn cuộc chính ḿnh!
Phải
biết: Ba thân của Phật dung thông lẫn nhau, mà ba thân
của chúng ta vẫn dung thông. Tuyệt đối chẳng
phải là đến khi thành Phật th́ ba thân mới dung
thông, chẳng phải vậy. Hết thảy chư Phật
lúc thành Phật, chẳng tăng, chẳng giảm. Thành Phật
chẳng hề tăng thêm chút nào, mà tại địa vị
phàm phu, chẳng hề giảm bớt chút nào, chỉ là giác
và mê khác biệt! Phật là giác ngộ, đă phát sanh sự
giác ngộ: Thân tâm và pháp giới xác thực hợp thành một.
Khi mê, chẳng biết chính ḿnh và pháp giới hợp nhất.
Thật ra, [vẫn là] hợp thành một, khi mê bèn bất
giác, khi giác sẽ không mê, then chốt ở ngay chỗ này. Nếu
ba thân dung thông, ba thọ liền vô ngại. Chúng ta nói vô
lượng trong vô lượng, tức là Pháp Thân thọ.
Nói vô lượng trong hữu lượng th́ là Ứng Thân
thọ. Nói kiểu nào cũng đều suông, đều chẳng
bị chướng ngại.
(Sao)
Tức trường năng đoản, tức đoản
hằng trường, vô trường, vô đoản,
trường đoản tồn yên!
(鈔) 即 長 能 短,即 短 恆 長,無 長 無 短,長 短 存 焉。
(Sao:
Tức là dài mà có thể rút ngắn, chính là ngắn mà luôn
dài, chẳng dài, chẳng ngắn, dài ngắn cùng tồn tại
vậy).
Nói
dài hay ngắn là do phàm phu phân biệt, chấp trước.
Chư vị hăy suy nghĩ: Nếu thật sự niệm
Phật đến nhất tâm bất loạn, nhất tâm
là chẳng có vọng tưởng. Chẳng có vọng
tưởng th́ lấy đâu ra dài hay ngắn? Nói dài là vọng
tưởng; nói ngắn, vẫn là vọng tưởng,
đều biến thành vọng tưởng. Chỉ cần
đạt đến nhất tâm, tâm thanh tịnh hiện
tiền, dài lẫn ngắn đều chẳng có. Khi đạt
đến nhất tâm bất loạn, mới bảo quư vị:
Các vị xem Tam Tạng mười hai bộ, nghe Thích Ca Mâu
Ni Phật thuyết pháp cho chúng sanh, quư vị ở bên cạnh
nghe, [sẽ thấy] Thích Ca Mâu Ni Phật đang gạt gẫm
trẻ nít, dỗ dành trẻ nít! Sẽ cảm thấy quả
thật Ngài đang dỗ dành trẻ nhỏ, lá vàng dỗ
trẻ thôi khóc! Hết thảy các pháp đă nói đều
chẳng có thật nghĩa! Có ư nghĩa thật sự hay
không? Chẳng có. V́ sao? Ư nghĩa thật sự chẳng thể
nói được! Ư nghĩa thật sự chẳng thể
suy tưởng được. Ư nghĩa thật sự là “ngôn ngữ dứt bặt, tâm
hành xứ diệt”. Đức Phật nói lời thật
cùng chúng ta: Phàm những ǵ được nói ra đều
chẳng có thật nghĩa. Chính quư vị phải ngộ
thật nghĩa, chẳng thể diễn tả được.
Thật nghĩa thật sự có, vô lượng vô biên, là
chân thật, chẳng thể nói được, mà cũng
chẳng thể tưởng tượng. Khi nào tâm quư vị
thanh tịnh, Thật Tướng ở ngay trước mặt.
Quư vị có thể thấu hiểu thật nghĩa, sẽ
có thể thấy Thật Tướng, quư vị bèn thành Phật,
tối thiểu cũng là Viên Giáo Sơ Trụ Bồ Tát trở
lên, thuộc địa vị Phần Chứng Phật.
Đó là điều đức Phật kỳ vọng
nơi chúng ta. Chúng ta cứ khăng khăng t́m ṭi trong ngôn
ngữ, kinh điển, đó là chuyện rất oan uổng.
Đấy gọi là “y theo kinh
văn để hiểu nghĩa, ba đời Phật
đều oan uổng”. Ba đời chư Phật, quá
khứ, hiện tại, vị lai, hết thảy chư Phật
đều kêu oan uổng! Coi chuyện dỗ dành trẻ nít
là chân thật, oan uổng quá! V́ lẽ đó, thọ mạng
dài hay ngắn tự tại chính là thuận theo niệm mà
hiện tướng.
(Sao)
Nhất nhất viên dung, ngôn tư tư tuyệt.
(鈔) 一 一 圓 融,言 思 斯 絕。
(Sao:
Mỗi mỗi đều viên dung, ngôn ngữ lẫn tư
duy đều dứt bặt).
Đây là nói chân thật
cùng quư vị. “Nhất nhất
viên dung” là pháp nào cũng đều viên dung, chẳng có một
pháp nào không viên dung. V́ thế, pháp giới là Nhất Chân pháp
giới. Mê th́ gọi là mười pháp giới, “mười” chẳng phải
là một con số cố định, mà nhằm biểu thị
sự vô lượng. Mê, Nhất Chân bèn biến thành vô
lượng pháp giới; ngộ, vô lượng pháp giới
là Nhất Chân pháp giới. Một là thật, hai là vọng,
chẳng thật. Một th́ chứng từ nơi đâu?
Tâm! Nhất tâm là chân, nhị tâm là hư vọng. Chúng ta dùng
nhất tâm, tận hư không khắp pháp giới sẽ là
chân thật. Chúng ta dùng nhị tâm, thảy đều là
hư vọng, quư vị quyết định chẳng thấy
chân thật. Nay tâm chúng ta không chỉ là nhị tâm, chẳng
biết là có bao nhiêu tâm, làm sao quư vị có thể thấy Nhất
Chân pháp giới?
(Sao)
Kỳ nghĩa tự minh, bất lao cánh biện.
(鈔) 其 義 自 明,不 勞 更 辯。
(Sao:
Nghĩa này tự rơ, chẳng cần nhọc sức biện
định).
Liễu
giải ư nghĩa này, chẳng cần biện luận nữa!
(Diễn)
Tức trường năng đoản, tức Báo tức Ứng
dă.
(演) 即 長 能 短,即 報 即 應 也。
(Diễn:
Tức là dài mà có thể rút ngắn, Báo Thân chính là Ứng
Thân).
Nói
đến Báo Thân và Ứng Thân.
(Diễn)
Tức đoản hằng trường, tức Ứng tức
Báo dă.
(演) 即 短 恆 長,即 應 即 報 也。
(Diễn:
Chính là ngắn mà luôn dài, Ứng Thân chính là Báo Thân vậy).
Ứng
Thân là Báo Thân, Ứng Thân ngắn ngủi, Báo Thân dài. Ứng
Thân và Báo Thân là một, đương nhiên dài ngắn đều
tự tại.
(Diễn)
Vô trường, vô đoản, Báo, Ứng tức Pháp dă.
(演) 無 長 無 短,報 應 即 法 也。
(Diễn:
Chẳng dài, chẳng ngắn, Báo Thân và Ứng Thân chính là Pháp
Thân).
Báo
Thân và Ứng Thân đều do Pháp Thân biến hiện.
(Diễn)
Trường đoản tồn yên, Pháp tức Báo Ứng
dă.
(演) 長 短 存 焉,法 即 報 應 也。
(Diễn:
Dài ngắn cùng tồn tại th́ Pháp Thân chính là Báo Thân và Ứng
Thân).
Pháp
Thân là Báo Thân và Ứng Thân, tuy một mà ba, tuy ba mà một.
(Diễn)
Nhất nhất viên dung, ngôn tư tư tuyệt giả, tức
trường năng đoản, bất khả dĩ Báo
ngôn.
(演) 一 一 圓 融,言 思 斯 絕 者,即 長 能 短,不 可 以 報 言。
(Diễn:
Mỗi mỗi viên dung, ngôn ngữ lẫn tư duy đều
dứt bặt: Chính là dài mà có thể rút ngắn th́ chẳng
thể nói là Báo Thân).
“Bất khả dĩ Báo ngôn”
nghĩa là chẳng thể chấp trước có Báo Thân.
Nói là Báo Thân, Pháp Thân hay Ứng Thân đều là “thuận theo tâm chúng sanh, ứng
với sự nhận biết của họ”. Trong tâm Phật
thanh tịnh, chẳng có ba chữ ấy. Nếu trong tâm Phật
c̣n có Pháp Thân, Báo Thân, và Ứng Thân, tâm Phật bị nhiễm
bẩn. Lục Tổ nói “vốn
chẳng có một vật”, Ngài chẳng có một vật
như thế nào? Ngài c̣n có Báo Thân, c̣n có Pháp Thân th́ sẽ có
chẳng ít vật trong ấy. Vốn chẳng có một vật
là tâm thanh tịnh! Tuy nói với quư vị nhiều ngần ấy,
một câu đức Phật cũng chẳng nói! Tâm Phật
vĩnh viễn thanh tịnh, Ngài nói là thuận theo ư niệm
của chúng sanh mà nói, chẳng phải là theo phía Ngài, [thuận
theo phía Ngài], Ngài sẽ chẳng nói chi hết! Thuận theo
chúng sanh bèn có nói, tùy thuận chính ḿnh, chẳng nói! “Nói mà chẳng nói”, đối
với người khác bèn có nói, chính ḿnh chẳng nói, “chẳng nói mà nói”. Ư nghĩa
này sâu xa, chúng ta làm sao hiểu được? Chúng ta tưởng
Phật giống như chúng ta, nói là có nói, không nói là không
nói, há có biết Phật, Bồ Tát hoàn toàn khác chúng ta.
Chúng
ta phải học chỗ này, cũng phải học “nói mà không nói, không nói mà nói”,
đó là tu hành, cho đến thân thể chúng ta “làm mà không làm, không làm mà làm”,
khi ăn cơm bèn “ăn mà chẳng
ăn, chẳng ăn mà ăn”. Trong cuộc sống, mặc
quần áo, ăn cơm, xử sự, đăi người,
tiếp vật, chẳng có chuyện ǵ không phải là tu
hành. Trong kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử tham học
năm mươi ba lần là tu như thế đó, đó
gọi là “trải qua sự việc
để luyện tâm”. Trải qua sự việc là Hữu,
luyện tâm, tâm thanh tịnh, bất luận chuyện ǵ
đều chẳng ĺa tâm thanh tịnh. Trong hết thảy
sự, rèn luyện tâm càng thanh tịnh, người ấy
bèn thành tựu. Nhất tâm bất loạn, tu từ chỗ
nào? Thành tựu từ năm mươi ba lần tham học.
Ĺa khỏi hết thảy cảnh duyên, làm sao quư vị biết
chính ḿnh đă đắc nhất tâm bất loạn? Chẳng
trải qua khảo nghiệm! [Tu luyện trong ấy] bèn gọi
là công phu chân chánh, hy vọng mọi người phải
lưu ư, ư nghĩa này hết sức sâu xa!
(Diễn)
Tức đoản hằng trường, bất khả
dĩ Ứng ngôn, năi chí trường đoản tồn
yên, bất khả dĩ Pháp ngôn. Dĩ ngôn lệ tư, diệc
phục như thị.
(演) 即 短 恆 長,不 可 以 應 言,乃 至 長 短 存 焉,不 可 以 法 言,以 言 例 思,亦 復 如 是。
(Diễn:
Chính là ngắn mà luôn dài, chẳng thể nói là Ứng Thân.
Cho đến dài và ngắn cùng tồn tại, chẳng thể
nói là Pháp Thân. Dựa theo cách giải thích về “nói năng”
mà có thể suy ra ư nghĩa của Tư (suy nghĩ) cũng
giống như thế).
Chỗ
này dễ hiểu. Đoạn này đă giới thiệu thọ
mạng xong, phần tiếp theo lại nói về quang minh,
v́ Ngài là vô lượng thọ, vô lượng quang. Hôm nay
chúng tôi giảng tới chỗ này!
Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn
Nghĩa
Phần 96
hết
[1] Câu này hơi khó hiểu, nên chúng tôi mạn phép ghi thêm như sau: Ḥa Thượng có ư nói, nếu nói đến Báo Thân và Ứng Thân th́ mới có khái niệm thọ lượng, v́ chúng c̣n thuộc trong ṿng ngôn ngữ và suy lường. Nếu nói về Pháp Thân th́ không thể nào nói đến thọ hay chẳng thọ, v́ nói kiểu nào cũng rơi vào đối đăi nhị biên; bởi lẽ, Pháp Thân là Lư Thể, là Chân Như. Lư Thể Chân Như đă vượt ngoài suy lường, ngôn ngữ.
[2] Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Thọ Kư (do ngài Đàm Vô Kiệt dịch sang chữ Hán) và Phật Thuyết Như Huyễn Tam Ma Địa Vô Lượng Ấn Pháp Môn (do ngài Thi Hộ dịch).
[3] Khái niệm tiên thiên và hậu thiên khá phức tạp, nhưng có thể tạm hiểu thô thiển như sau: Tiên Thiên là bẩm sanh, là những ǵ được thừa hưởng từ cha mẹ, h́nh thành từ ngay lúc thụ thai cho đến khi lọt ḷng, c̣n Hậu Thiên là những ǵ do nuôi nấng, chăm sóc, bồi bổ, huấn luyện, giáo dục, cũng như do sự tự rèn luyện hoặc tàn phá thân thể của chính cá nhân.
[4] Mười con số lớn cuối cùng là 1) A Tăng Kỳ, 2) Vô Lượng, 3) Vô Biên, 4) Vô Đẳng, 5) Bất Khả Số, 6) Bất Khả Xưng, 7) Bất Khả Tư, 8) Bất Khả Lượng, 9) Bất Khả Thuyết, 10) Bất Khả Thuyết Bất Khả Thuyết.
[5] Lạc Xoa (Lakṣá) là một trăm ngàn.
[6] Vô Ương là dịch nghĩa của chữ A Tăng Kỳ. Ở đây, xin chú ư là Ḥa Thượng không nói thẳng là A Tăng Kỳ (v́ A Tăng Kỳ tuy lớn, vẫn là hữu hạn. Một A Tăng Kỳ là mười lũy thừa 140, tức là sau số một có một trăm bốn mươi con số không, tuy lớn, vẫn là tính đếm được). Vô Ương được dùng theo nghĩa phiếm chỉ là không có hạn lượng, chẳng thể tính toán được.