A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa

阿彌陀經疏鈔演義

Phần 96

Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Huệ Trang và Đức Phong

 

Tập 191

 

      Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang ba trăm chín mươi mốt:

 

      (Diễn) Hựu phi thọ giả, phi ứng đồng liên tŕ chi thọ. Phi bất thọ giả, phi báo trí bất liên tŕ thọ. Song phi nhị biên, minh trung pháp thể. Hựu thử thọ phi trường lượng, diệc phi đoản lượng, vô diên, vô xúc, vân phi thọ phi bất thọ dă.

() 者,非 壽;非 者,非 壽。雙 邊,冥 體。又 量,亦 量,無 促,云 也。

(Diễn: Lại nữa, “chẳng phải thọ” là chẳng giống với thọ mạng do tướng duy tŕ liên tục. “Chẳng phải là không thọ” v́ chẳng phải là thọ mạng của Báo Thân Trí Huệ chẳng có tướng duy tŕ liên tục. Đều chẳng thuộc vào hai loại ấy, ngầm khế hợp pháp thể. Thọ mạng ấy lại chẳng phải là số lượng dài, chẳng phải là số lượng ngắn, không kéo dài, chẳng rút ngắn, nên nói là “chẳng phải là thọ, chẳng phải là không thọ”).

 

      Đoạn này nói về Pháp Thân. Pháp Thân chẳng có khởi đầu, chẳng có kết thúc, nên chẳng thể nói tới thọ và “chẳng thọ” được! Chúng ta nói “thọ” th́ nói chung là nó có số lượng. Nếu đă là vượt ngoài số lượng, sẽ chẳng thể hạn cuộc trong ngôn từ hay suy lường! Đó là nói theo Pháp Thân, chứ nói theo Ứng Thân và Báo Thân vừa được nhắc đến trong phần trước th́ mới có cách nói như vậy[1]. Nếu rời khỏi Báo Thân và Ứng Hóa Thân, sẽ như nhà Thiền thường nói: “Ngôn ngữ dứt bặt, tâm hành xứ diệt”.

      “Phi thọ giả, phi ứng đồng liên tŕ chi thọ” (“chẳng phải thọ” là chẳng ứng với thọ mạng do tướng tiếp nối): Ứng Hóa Thân dùng tướng liên tục để làm thọ mạng, Phật là như thế, chúng ta cũng chẳng ra ngoài lệ ấy! Nói thật ra, thân thể chúng ta sanh diệt trong từng sát-na, hiện tượng ấy là tướng tiếp nối trong từng sát-na. Nếu thật sự khế nhập Thật Tướng, sẽ hiểu cái thân hiện tại của chúng ta cũng là bất sanh, bất diệt. Vốn là chẳng sanh, lấy đâu ra diệt? Đạo lư này hết sức sâu, rất khó hiểu! Dẫu tỷ dụ, cũng chẳng có cách nào tỷ dụ rất thích đáng! Tỷ dụ chỉ có thể sánh ví phảng phất, phải từ sự phảng phất ấy mà thấu hiểu.

      Ví như chúng ta xem phim, chư vị đều biết chuyện thường thức này. Chúng ta thấy các h́nh ảnh trong phim, [cứ tưởng] những tướng ấy dường như là thật. Thật ra, các h́nh ảnh đó là một loại tướng liên tục. Chúng ta nh́n vào cuộn phim liền biết đó là h́nh ảnh trong từng tấm phim một, tấm phim này được chiếu lên màn bạc, ống kính [của máy chiếu phim] lập tức đóng lại [rồi mở ra] chiếu tấm phim thứ hai. Do tốc độ nhanh, chúng ta trông thấy những h́nh ảnh ấy giống như thật. Bất quá tốc độ của máy là một giây chiếu hai mươi bốn tấm phim, tức là ống kính đóng mở hai mươi bốn lần. Hai mươi bốn lần [đóng mở] mà đă lừa được chúng ta, [khiến cho] chúng ta ngỡ là rất giống như thật! Đức Phật bảo các hiện tượng trong hiện tiền rất giống ống kính của máy chiếu phim đóng mở, bất quá tốc độ quá nhanh, nhanh đến nỗi chúng ta chẳng có cách nào phân biệt! Đức Phật bảo: Trong một cái khảy ngón tay có sáu mươi sát-na, một phần sáu mươi của [thời gian] khảy ngón tay là một sát-na, trong một sát-na có chín trăm lần sanh diệt. Một giây chúng ta có thể khảy ngón tay bốn lần, bốn nhân với sáu mươi lại nhân với chín trăm, tức là trong một giây, “ống kính” nơi A Lại Da Thức của quư vị đóng mở bao nhiêu lần? Vừa đúng hai lần của mười vạn tám ngàn lần (hai mươi mốt vạn sáu ngàn lần). [Ống kính của máy chiếu phim đóng mở] hai mươi bốn lần mà chúng ta đă chẳng có cách nào phân biệt nó là tướng liên tục, huống hồ một giây là hai mươi mốt vạn sáu ngàn lượt, chúng ta làm sao có thể biết những hiện tượng ấy là giả! Kinh Lăng Nghiêm đă nói rất hay: Tất cả hết thảy các tướng cảnh giới, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới đều chẳng có ngoại lệ, “sanh ra từ nơi đâu, bèn diệt từ nơi đó”. Đừng nên nghĩ chúng ta mới vừa từ nhà đến đây, chẳng có chuyện ấy! Chẳng đến, chẳng đi, sanh ra từ nơi đâu, diệt mất ngay tại đó, đó mới là chân tướng sự thật. Nh́n từ Tướng Phần th́ tướng liên tục, tiếp nối được gọi là “liên tŕ” (連持), [có nghĩa là] một hiện tượng được duy tŕ liên tục, chúng ta gọi nó là thọ mạng. Thọ mạng ấy có dài hay ngắn, đó là Ứng Hóa Thân. Chỉ cần là Tướng Phần, sẽ đều chẳng thể vượt ra ngoài nguyên lư này.

      “Phi bất thọ giả, phi báo trí bất liên tŕ thọ” (“chẳng phải là thọ” v́ chẳng phải là thọ mạng của Báo Thân trí huệ không có tướng duy tŕ liên tục): Đây là nói tới Báo Thân. Báo Thân dùng trí huệ làm thân. Nó chẳng phải là sắc tướng, sắc tướng là tướng liên tục. Do nó chẳng phải là sắc tướng, nên chẳng thể nói tới chuyện liên tục. Báo Thân có khởi đầu, chẳng có kết thúc. Sau khi quư vị chứng đắc, [Báo Thân] sẽ không bị mất đi. Đây là nói về trí huệ. Nay chúng ta chẳng có trí huệ, trí huệ đă đi về đâu rồi? Trí huệ đều biến thành phiền năo. Kinh Đại Thừa thường nói “phiền năo chính là Bồ Đề”, trí huệ là Bồ Đề, nhưng nay chúng ta biến nó thành phiền năo cả rồi! Do đó, phiền năo vô lượng vô biên. Sau khi Bồ Tát tu học đến một mức độ nào đó, chứng đắc Báo Thân. Biệt Giáo gọi sự chứng đắc Báo Thân ấy là Sơ Địa Bồ Tát, phá một phẩm vô minh, thấy một phần Pháp Thân. Thấy một phần Pháp Thân cũng là chứng đắc Báo Thân. Trong Viên Giáo, sẽ là từ Sơ Trụ trở lên. Kinh Hoa Nghiêm nói [những vị Bồ Tát từ Sơ Trụ trở lên thuộc về] bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ, đấy là [những người] chứng đắc Báo Thân. Báo Thân có khởi đầu, không có kết thúc. Do đó, nó cũng chẳng phải là thọ mạng của Báo Thân trí huệ, không có tướng duy tŕ liên tục. Pháp Thân chẳng có khởi đầu, không có kết thúc, Báo Thân có khởi đầu, không có kết thúc, Ứng Thân có khởi đầu, có kết thúc, nên “song phi nhị biên” (đều chẳng thuộc về hai loại ấy), cả hai bên đều chẳng phải. “Minh trung pháp thể” (ngầm khế hợp pháp thể): Minh () là âm thầm, ngấm ngầm, nó dung thông, khế hợp cùng bản thể của các pháp, là bản thể của hết thảy các pháp.

      “Thử thọ phi trường lượng, diệc phi đoản lượng” (thọ mạng ấy chẳng phải là số lượng dài, mà cũng chẳng phải là số lượng ngắn). Pháp Thân Lư thể đă là chẳng có khởi đầu, không có kết thúc, nên chẳng thể nói số lượng của nó là dài, cũng chẳng thể nói số lượng của nó là ngắn. Dài và ngắn là “hai bên”, nó vượt thoát hai bên. “Vô diên, vô xúc” (chẳng kéo dài, chẳng rút ngắn), “diên” () là thời gian lâu dài, “xúc” () là thời gian ngắn ngủi. “Vân phi thọ, phi bất thọ dă” (nói là “chẳng phải là thọ, chẳng phải là không thọ”). Thọ và phi thọ cũng là hai bên, Pháp Thân vĩnh viễn rời khỏi hai bên, chẳng thể nghĩ bàn! Chúng ta hễ khởi tâm động niệm đều rớt vào hai bên, chỉ có lúc chẳng khởi tâm, không động niệm th́ mới có thể ngầm khế hợp Trung Đạo, mới có chút tương ứng với Pháp Thân. Đó là giải thích cho câu “phi thọ, phi bất thọ”.

 

      (Diễn) Nhiên thượng tam thọ, diệc thị tùy nghi cơ giáo, phi viên đốn nghĩa dă.

     () 壽,亦 教,非 也。

      (Diễn: Nhưng ba thứ thọ mạng trên đây cũng là giáo nghĩa tùy thuận cơ nghi, chẳng phải là ư nghĩa viên đốn).

 

      Đức Phật dạy thọ mạng của ba thân khác nhau, cách nói ấy cũng là ứng cơ thuyết pháp, là phương tiện thuyết pháp. Nói thật sự th́ như thế nào? Thật sự th́ như trong đoạn kế tiếp đă khải thị cho chúng ta đôi chút, đúng là chẳng thể nói được, nhất định phải là chính ḿnh tự thấu hiểu. “Phi viên đốn nghĩa” (chẳng phải là ư nghĩa viên đốn): Những điều vừa nói trên đây chẳng phải là giáo nghĩa Viên Giáo, chẳng phải giáo nghĩa Đốn Giáo. Trong phần trước, đức Phật đă nói theo giáo nghĩa Tạng Giáo, giáo nghĩa Thông Giáo, giáo nghĩa Biệt Giáo, nên nói như vậy. Giáo nghĩa Đốn Giáo chẳng nói như thế.

 

      (Diễn) Nhược cứ Viên Giáo tánh cụ pháp môn, tam thân tánh cụ, tam thân dung tức, tùng tánh khởi tu. Tánh kư tam thân, vô thỉ, vô chung, Tu diệc tam thân, vô thỉ, vô chung. Tánh kư tam thân dung tức, Tu diệc tam thân dung tức. Cử nhất tức tam, ngôn tam tức nhất, bất khả tư nghị giả, Viên Giáo thọ dă.

      () 門,三 具,三 即,從 修,性 身,無 終,修 身,無 終。性 即,修 即,舉 三,言 一,不 者,圓 也。

      (Diễn: Nếu xét theo pháp môn “tánh trọn đủ” trong Viên Giáo th́ ba thân tánh trọn đủ. Ba thân dung thông, chính là lẫn nhau, từ tánh khởi tu. Tánh đă là ba thân, không có khởi đầu, chẳng có kết thúc, Tu cũng là ba thân, không có khởi đầu, chẳng có kết thúc. Tánh đă là “ba thân dung thông, chính là lẫn nhau”, nên Tu cũng là “ba thân dung thông, chính là lẫn nhau”. Nêu ra một bèn chính là ba, nói đến ba th́ chính là một, chẳng thể nghĩ bàn. Đó là thọ mạng theo Viên Giáo).

 

      Hai ḍng rưỡi này toàn là lời chân thật, hoàn toàn là chân tướng sự thật. Chư Phật, Bồ Tát là như thế, mà mỗi người chúng ta cũng đều như thế. Rất đáng tiếc là bản thân chúng ta chẳng biết, đă mê! Tự ḿnh nghĩ là thọ mạng của Phật, Bồ Tát rất dài, thọ mạng của chúng ta rất ngắn. Phật, Bồ Tát đă chứng đắc “ba thân một Thể”, c̣n chúng ta th́ Pháp Thân và Báo Thân đều chưa chứng đắc. Nh́n từ phía chư Phật, Bồ Tát, chúng ta chẳng khác các Ngài. V́ sao chúng ta và Phật, Bồ Tát có cách nh́n khác nhau? Nguyên nhân chỉ có một, phàm phu mê mất chính ḿnh, đó là nguyên nhân. V́ thế, trong Phật môn nói đến mê và ngộ, mê là ǵ? Mê là chính ḿnh. Ngộ là ǵ? Ngộ vẫn là chính ḿnh. V́ thế, nói mê và ngộ chẳng hai! Mê và ngộ là một chuyện, chẳng phải là hai chuyện. Nh́n từ tiêu chuẩn này, khi nào mới giác ngộ? Ắt phải là khi đại khai viên giải th́ mới thật sự khai ngộ. Chúng ta ai nấy đều mong khai ngộ, nhưng chẳng thể ngộ. V́ sao chẳng thể ngộ? Có chướng ngại, khiến cho ngộ môn của quư vị bị chướng ngại. Chướng ngại là ǵ? Đương nhiên chướng ngại rất nhiều, Phật pháp quy nạp chúng thành Nhị Chướng hoặc Tam Chướng. Nhị Chướng là Phiền Năo Chướng và Sở Tri Chướng. Tam Chướng là Hoặc Chướng, Nghiệp Chướng và Báo Chướng, hoặc, nghiệp, khổ. Phải dùng phương pháp ǵ để trừ bỏ các chướng ngại ấy? Trừ bỏ sẽ khai ngộ; hễ trừ bỏ, ba thân bèn hiện tiền.

      Muốn trừ Tam Chướng, cũng chỉ có một cách là tu Định. Trừ Định ra, chẳng có cách nào trừ khử chướng ngại. Phật pháp tuy nói tám vạn bốn ngàn pháp môn, hoặc vô lượng pháp môn, có pháp môn nào chẳng phải là tu Định? Thảy đều là tu Định, nhưng mỗi pháp môn tu Định khác nhau, cách thức tu Định khác nhau. Tám vạn bốn ngàn hoặc vô lượng [pháp môn] chính là cách thức, phương pháp khác nhau, nhưng đều nhằm tu Thiền Định. Chúng ta dùng cách niệm A Di Đà Phật. Kinh A Di Đà nói “nhất tâm bất loạn”, nhất tâm bất loạn là Thiền Định. Chúng ta thường nói tu tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh là Thiền Định. Đối với chuyện này, tôi tin là các đồng tu nghe cũng đă nhàm tai, chẳng biết đă nghe nói bao nhiêu lần, có tác dụng ǵ hay không? Chẳng có tác dụng chi hết! V́ sao biết là vô dụng? Quư vị suốt ngày từ sáng đến tối vẫn là thị phi, nhân ngă, tham, sân, si, mạn, trước nay chưa hề thật sự dấy động ư niệm muốn tu Định. V́ lẽ đó, tụng kinh cũng thế, lạy Phật cũng thế, niệm Phật cũng vậy, tŕ chú cũng vậy, công phu đều chẳng đắc lực, đều chẳng thành tựu. Nhất định phải hiểu: Trong hiện tiền, chúng ta phải tu đoạn phiền năo nhằm trừ bỏ những chướng ngại ấy.

      Ngày hôm qua, pháp sư Huệ Thiên ở chùa Tịnh Luật tại Nam Đầu dẫn mấy vị đồng học đến thăm tôi, họ mở một Phật học viện bên đó. Sư dẫn năm học viên đă tốt nghiệp trong khóa thứ nhất đến hỏi tôi: “Tu học th́ phải tu theo cách nào?” Tôi bảo họ: “Tứ Hoằng Thệ Nguyện đă dạy rơ ràng, rành rẽ phương pháp, thứ tự và cương lănh trọng yếu trong chuyện tu hành”. Trong Tứ Nguyện, chỉ có điều thứ nhất là nguyện, “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ” là phát Bồ Đề tâm, ba điều sau đều là hành. Đối với ba điều ấy, chẳng thể đảo lộn thứ tự, hăy từ đoạn phiền năo mà khởi tu. “Phiền năo vô biên thệ nguyện đoạn”. Sau khi đă đoạn phiền năo th́ mới có thể học pháp môn, “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”. Hiện thời, mọi người tu hành chẳng thành công, càng tu càng điên đảo, càng tu càng nhiều phiền năo, nguyên nhân ở chỗ nào? Quư vị đă làm sai thứ tự. Trong Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao, đối với phần giảng về tựa đề kinh, Thanh Lương đại sư đă nói hết sức rơ ràng: Chẳng đoạn phiền năo th́ hết thảy các pháp môn đă học đều là tăng trưởng tà kiến! Mỗi ngày đă có rất nhiều tà kiến, mà lại c̣n tăng trưởng tà kiến hằng ngày, làm sao có thể thành công cho được?

      Kinh Hoa Nghiêm đích xác là một bộ sách hay nhất. Trong quá khứ, tiên sinh Phương Đông Mỹ đă suốt đời tán thán [kinh Hoa Nghiêm], rất có lư! Trong Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử đă nêu ra một khuôn phép: Ngài bái Văn Thù Bồ Tát làm thầy. Trong hội của Văn Thù Bồ Tát, Ngài đă học ǵ? Chư vị có thể lật xem Tứ Thập Hoa Nghiêm, mà cũng có thể tra cứu kinh điển. Văn Thù Bồ Tát chẳng dạy Ngài, chẳng sai tí nào! Trong hội của Văn Thù Bồ Tát, Thiện Tài đoạn phiền năo, thành tựu điều này: “Phiền năo vô tận thệ nguyện đoạn”, đoạn sạch phiền năo trong hội của Văn Thù Bồ Tát. Sau khi đă đoạn, Văn Thù Bồ Tát bảo Thiện Tài đi tham học, tham học là học ǵ? Tham học là “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”, năm mươi ba lần tham học! Đến lần tham học cuối cùng, gặp Phổ Hiền Bồ Tát, mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc, đó chính là nguyện cuối cùng “Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”. Trong Tứ Thập Hoa Nghiêm, Tứ Hoằng Thệ Nguyện đă được nói rơ ràng. Tứ Thập Hoa Nghiêm giảng ǵ? Giảng Tứ Hoằng Thệ Nguyện. V́ vậy, tu học chẳng thể luông tuồng, không tuân theo thứ tự! Nay chúng ta tu học chẳng thành công, điều kỵ nhất là chẳng đoạn phiền năo mà đă khởi sự mong học pháp môn, [cứ tưởng] học càng nhiều càng hay, vẫn muốn làm đại thông gia, nhưng sở học và sở đắc đều là tà tri tà kiến, đến khi nào th́ mới có thể thành tựu? V́ lẽ đó, các đồng tu chúng ta phải thật thà ghi nhớ giáo huấn này!

      Các đồng học hỏi tôi: “Thưa pháp sư! Nếu vừa khởi đầu, thầy liền học pháp môn Tịnh Độ, chẳng học hết thảy các pháp môn khác và hết thảy kinh điển, thầy có thể đạt thành tựu như ngày nay hay không?” Họ vẫn c̣n hoài nghi, tôi bảo họ: “Nếu vừa bắt đầu học Phật, tôi liền thật thà niệm Phật th́ bây giờ tôi sẽ có thành tựu vượt trỗi tối thiểu là từ mười lần trở lên so với hiện thời”. Họ nghe nói đều sững sờ! Tôi bảo: “Tôi nói thật đấy! Gấp mười lần trở lên chính là sự ước đoán rất dè dặt. Tôi đă đi theo một con đường oan uổng cả ba mươi năm mới thật sự t́m được một con đường như thế này, mới thật sự hiểu rơ!” Tứ Hoằng Thệ Nguyện là một bộ Tứ Thập Hoa Nghiêm, trong quá khứ, quư vị đă từng nghe người khác nói như vậy hay chưa? Phí thời gian hơn ba mươi năm mới phát hiện, mới t́m được, nguyên lai một bộ Tứ Thập Hoa Nghiêm nhằm giảng rơ ràng, cặn kẽ Tứ Hoằng Thệ Nguyện! “Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành” vốn là mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc. Những thứ trước đó chẳng cần tới nữa, tôi phải chuyên học pháp môn này!

      Chuyên học pháp môn này, phải biết: Nay chúng ta niệm kinh Vô Lượng Thọ, niệm kinh A Di Đà, niệm A Di Đà Phật, trong giai đoạn hiện thời, nhắm đến mục tiêu nào? Nhắm tới đoạn phiền năo! Phải niệm sao cho trừ hết vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, ưu lự, vướng mắc, tâm thanh tịnh sẽ hiện tiền. Tâm thanh tịnh hiện tiền chính là đoạn phiền năo, phiền năo vô tận thệ nguyện đoạn, dùng phương pháp này để đoạn phiền năo. Chẳng có phiền năo, tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh khởi tác dụng là trí huệ, tâm thanh tịnh xử sự, đăi người, tiếp vật tức là năm mươi ba lần tham học. Trong quá khứ, tôi giảng Hoa Nghiêm thường nói: “Năm mươi ba lần tham học là suốt ngày từ sáng đến tối ở trong xă hội, tiếp xúc các loại nhân vật, v́ trong các vị thiện tri thức của năm mươi ba lần tham học, mọi nghề nghiệp, nam nữ già trẻ thảy đều có, đó chính là nói tới xă hội hiện thực. Đến khi tâm địa quư vị thanh tịnh, tiếp xúc xă hội hiện thực đều khai trí huệ, giác chứ không mê, thành tựu vô lượng trí huệ”. Như vậy th́ chúng ta mới thật sự t́m được căn bản to lớn trong tu hành.

      Hiện thời có cần phải nghiêm túc nghiên cứu giáo lư hay không? Phải nghiêm túc, nhưng chẳng phải là thực hiện trong hiện thời. Yêu cầu trong hiện tại là: Đoạn phiền năo là chuyện khẩn yếu! Trước hết là cầu ǵ? Vô tri. Kinh Bát Nhă nói: “Bát Nhă vô tri, không ǵ chẳng biết”. Vô tri là tâm thanh tịnh, không ǵ chẳng biết là tâm thanh tịnh khởi tác dụng. Hiện thời, nếu quư vị muốn cầu hiểu biết, đó là điên đảo, toàn là tà tri tà kiến, làm sao có thể thực hiện được! Bởi lẽ, hiện thời chúng ta phiền năo rất nặng, thế gian này rất loạn, là cơi đời đại loạn.

      Nay chúng ta muốn tu, chư vị nhất định phải biết: Tu tâm thanh tịnh th́ đạo nghiệp mới có thể thật sự thành tựu trong một đời này. Tuy phương pháp tu học rất nhiều, vô lượng pháp môn, quy nạp lại, chỉ có bốn loại lớn:

      Thứ nhất là tham Thiền. Giáo học Thiền Tông dùng ǵ để dạy? Hương bản giáo học, tức là đánh! Quư vị khởi tâm động niệm, hương bản liền giáng xuống ḥng đập tan ư niệm của quư vị. Đánh tới khi quư vị nói “chẳng có niệm nào”, vẫn phải đánh! Cớ sao chẳng có ư niệm mà vẫn đánh? Chẳng có ư niệm tức là vô minh, phải đánh ḥng cảnh tỉnh quư vị. Có ư niệm th́ là vọng niệm, chẳng có ư niệm bèn là vô minh, thảy đều phải đánh. Nhưng trong hiện tại th́ phương pháp này của Thiền Tông không sử dụng được, thời đại này khác với thời đại trước kia. Trước đây, học tṛ bị thầy đánh là chuyện rất b́nh thường, nay th́ không được. Bây giờ mà đánh liền ngay lập tức đâm đơn kiện, phạm pháp, bó tay luôn! V́ thế, hiện thời, nói thật thà, Thiền Tông không thể sử dụng được, chẳng thể dùng hương bản được!

      Giáo Hạ là đọc kinh. Đọc kinh chỉ cần đọc một bộ, bất luận bộ kinh nào. Quư vị thích kinh điển nào, bèn chọn một bộ. Đă chọn một bộ, đừng đổi sang bộ thứ hai. V́ chúng ta đọc kinh chẳng nhằm hiểu nghĩa, chẳng mong hiểu ư nghĩa trong kinh Phật; dùng phương pháp niệm kinh để niệm cho hết sạch phân biệt, chấp trước, có ư nghĩa này! V́ quư vị không niệm kinh, bèn suy nghĩ lung tung. Niệm kinh sẽ chẳng suy nghĩ lung tung, mục đích ở chỗ này, chẳng nhằm hiểu ư nghĩa của kinh. Do vậy, kinh nào cũng đều được, tùy thuộc thời gian của chính ḿnh. Nếu quư vị rất rảnh rỗi, có thể chọn một bộ kinh có phân lượng khá lớn, như kinh Pháp Hoa hoặc kinh Lăng Nghiêm chẳng hạn, mỗi ngày niệm một bộ. Công việc rất bận rộn, chẳng có nhiều thời gian như vậy th́ kinh Vô Lượng Thọ rất tiện, chẳng quá dài. Mỗi ngày niệm một bộ. Sau khi đă niệm quen, ước chừng một giờ là đủ rồi. Quư vị mỗi ngày niệm một giờ, tức là tu hành một giờ, tu ǵ? Tu tâm thanh tịnh. Nếu quư vị nghiên cứu ư nghĩa trong kinh điển, sai mất rồi, chẳng đạt được cái tâm thanh tịnh! Có hiểu ư nghĩa trong kinh Phật hay không? Căn bản là chẳng hiểu, những ǵ quư vị đạt được là tà tri tà kiến, hết sức đáng tiếc, công sức đọc kinh hoàn toàn bị phá hoại. Do đó, phải hiểu: Chúng ta đọc kinh là tu Định, chẳng nhằm cầu hiểu nghĩa. Chúng ta đọc kinh để cầu Căn Bản Trí, để cầu vô tri, chẳng phải là cầu “không ǵ chẳng biết”. Không ǵ chẳng biết sẽ cầu không được, trước hết, hăy cầu vô tri. Mọi người nhất định phải ghi nhớ kỹ càng đạo lư này, nghiêm túc tu học. Tu dăm ba năm, tâm sẽ thanh tịnh. Tâm đă thanh tịnh, phiền năo ít đi. Phiền năo giảm ít, thưa cùng chư vị, sẽ ít nói lăng nhăng! V́ sao biết là có phiền năo? Mỗi ngày quư vị nói cả đống lời lẽ nhảm nhí, người như vậy phiền năo cũng rất nhiều. Lời lẽ nhảm nhí ít đi, thị phi sẽ ít đi, tâm bèn thanh tịnh.

      Tâm sau khi đă thanh tịnh bèn nghiên cứu kinh điển, nghiên cứu kinh điển là học pháp môn. Từ xưa tới nay, Phật pháp ở Ấn Độ chẳng tính, khi truyền sang Trung Hoa, trong hai ngàn năm, tổ sư đại đức đời nào cũng truyền thừa phương pháp cổ lỗ này. Chúng ta dùng phương pháp này để tu học, nhất định có thành tựu. Dùng phương pháp này để tu Tịnh Độ, mới là “vạn người tu, vạn người đến”, chớ nên không biết chuyện này! Người khác hỏi ta về Phật pháp, chúng ta có thể dạy họ nguyên tắc này, sẽ là công đức vô lượng; đó là con đường chánh đáng. Ĺa khỏi con đường chánh đáng này, sẽ là đường tà! Người hiện thời vừa khởi đầu bèn học rộng, nghe nhiều, Tứ Hoằng Thệ Nguyện học tràn lan! Giống như dựng nhà, chẳng cần tầng thứ nhất, muốn dựng ngay tầng thứ hai, dựng như thế nào đây? Vĩnh viễn chẳng thể thành tựu. Trong quá khứ, tại Trung Quốc, pháp thế gian lẫn pháp xuất thế gian đều lấy tu tâm thanh tịnh làm cơ sở, làm căn bản. Nếu cơ sở này chẳng được thật sự đặt vững, rất khó nói tới chuyện thành tựu! Nho và Phật nói tới sư thừa, sư thừa cũng là nói từ chỗ này. Đối với sư thừa, không nhất định là phải kề cận thầy hằng ngày, đó gọi là “một ngày làm thầy, suốt đời là cha”. Thầy giảng cho quư vị mấy câu, quư vị thật sự tiếp nhận, suốt một đời y giáo phụng hành. Đó là truyền pháp, “thầy tṛ đạo hợp”, há có phải là mỗi ngày đều theo sát thầy! Chẳng bắt buộc phải như vậy!

      V́ thế, chúng ta và Phật, Bồ Tát, cùng hết thảy chúng sanh trong pháp giới, đúng là chẳng hai, chẳng khác. “Tánh cụ pháp môn”: Bất luận là Phật pháp hay pháp thế gian, hết thảy các pháp môn thảy đều vốn trọn đủ trong tự tánh. Lục Tổ nói: “Nào ngờ tự tánh vốn trọn đủ”. Đó là “tánh cụ pháp môn”. Pháp Thân, Báo Thân, Ứng Hóa Thân, “tam thân tánh cụ, tam thân dung tức” (ba thân tánh trọn đủ, ba thân chính là lẫn nhau, dung thông lẫn nhau), một tức là ba, ba chính là một. Lời này rất khó hiểu, nói như thế nào? Pháp Thân tận hư không khắp pháp giới, c̣n Ứng Hóa Thân là một cái thân như thế đó, cái thân này của ta làm sao có thể tận hư không khắp pháp giới? Thật ra, cái thân này xác thực là tận hư không khắp pháp giới, cảnh giới này đúng là chẳng thể nghĩ bàn! Kinh Hoa Nghiêm nói “giới tử nạp Tu Di” (hạt cải chứa đựng núi Tu Di), “giới tử” (芥子) là hạt cải. Hạt cải rất bé, núi Tu Di quá to. Bỏ núi Tu Di vào trong hạt cải, núi Tu Di chẳng rút nhỏ, hạt cải cũng chẳng ph́nh to; làm sao có thể bỏ vào được? Tỷ dụ này vẫn chưa được coi là rốt ráo. Nói rốt ráo th́ như trong kinh, đức Phật đă nói: “Thập phương Như Lai ư nhất mao đoan chuyển đại pháp luân” (mười phương Như Lai chuyển đại pháp luân trong một chót lông), “mao đoan” (毛端) là chót đầu của một sợi lông, c̣n bé hơn hạt cải nhiều. Trong chót đầu một sợi lông, mười phương Như Lai đều giảng kinh, thuyết pháp tại đó. Vô lượng vô biên hằng sa thế giới ở ngay trong đầu sợi lông. Điều này có nghĩa là trong Pháp Tánh chẳng có lớn hay nhỏ, dung thông lẫn nhau, trọn khắp lẫn nhau, chẳng thể nghĩ bàn! Ví như ánh sáng của một ngọn nến chiếu khắp giảng đường, giảng đường dung nhập trong ánh sáng của nến, đó là nhỏ mà chứa đựng lớn, nó được bao gồm trong quang minh [của ngọn nến], cả giảng đường được nến chiếu soi rơ ràng. Thấy ánh sáng của nến trong giảng đường, tức là lớn dung chứa nhỏ, chân tướng của pháp giới là như thế. Thân thể này của chúng ta rút đến mức nhỏ nhất, rút nhỏ đến một sợi lông, đó là toàn thể pháp giới cô đọng, là toàn thể của toàn bộ pháp giới, chẳng phải là một bộ phận. Đấy chính là Thập Huyền Môn, Tứ Vô Ngại, tức bốn thứ vô ngại Sự vô ngại, Lư vô ngại, Lư Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại như kinh Hoa Nghiêm đă nói. Khi nào mới có thể thật sự thấu hiểu Thập Huyền, Tứ Vô Ngại? Phá một phẩm vô minh, cảnh giới ấy liền hiện tiền. Vô minh chưa phá, cảnh giới vẫn ở trước mặt, vẫn là ở ngay trước mặt mà chính ḿnh chẳng biết! Phá vô minh, sẽ hoảng nhiên đại ngộ cảnh giới trước mắt vốn là [Tứ Vô Ngại, Thập Huyền Môn]! Cổ nhân nói: “Đạp phá thiết hài vô mịch xứ, đắc lai toàn bất phí công phu” (giày sắt đi ṃn, t́m chẳng thấy! Được rồi, chẳng tốn chút công phu), [cái mà ta mải miết t́m kiếm] vốn chính là nó, ở ngay trước mắt! V́ thế, xác thực một chính là ba, ba chính là một. Chư Phật Như Lai là như thế, chúng ta cũng là như thế. Chúng ta mê, bất giác; Phật, Bồ Tát giác chứ không mê. “Tam thân dung tức”: Dung nhập lẫn nhau, chính là lẫn nhau. Thân này là Ứng Thân, mà cũng là Báo Thân, cũng là Pháp Thân. Trong Đàn Kinh, Lục Tổ đă nói đạo lư này rất cặn kẽ, kinh Hoa Nghiêm càng nói thấu triệt hơn!

      “Tùng tánh khởi tu, Tánh kư tam thân, vô thỉ, vô chung, Tu diệc tam thân, vô thỉ, vô chung” (Từ tánh khởi tu. Tánh đă là ba thân, không khởi đầu, chẳng kết thúc. Tu cũng là ba thân, chẳng khởi đầu, chẳng kết thúc). Cổ đức đă để lại khuôn mẫu, dạy chúng ta phương pháp “tùng tánh khởi tu”, dạy quư vị trước hết là đoạn phiền năo, tức là từ tánh khởi tu. Tánh là ǵ? Tâm thanh tịnh, chân tâm! Chân tâm là bản tánh, phải bắt đầu tu tập từ chỗ này. Chẳng phải là khởi tu bằng nghiên cứu giáo lư. Nghiên cứu giáo lư chẳng phải là khởi tu từ tánh, mà là khởi tu từ sự tướng, phiền phức to lớn, phải tới năm nào th́ mới có thể quay về tự tánh? Tiểu Thừa Phật pháp khởi tu từ sự tướng, cho nên để chứng A La Hán phải qua lại cơi trời và nhân gian bảy lần! Nhân gian thọ mạng ngắn ngủi, cơi trời thọ mạng lâu dài, bao nhiêu năm mới có thể chứng A La Hán! Đại Thừa Phật pháp thông minh, khởi tu từ tánh, mau chóng lắm! Khởi tu từ Tánh Đức là khởi tu từ tâm thanh tịnh.

      Tánh đă là ba thân, chẳng có khởi đầu, không có kết thúc, nên nay chúng ta cũng tu ba thân, cũng là chẳng có khởi đầu, không có kết thúc. Trong các buổi giảng, chúng tôi đă nói: Nếu quư vị thật sự là chân tâm, dùng cái tâm chân thành để cầu sanh Tịnh Độ, niệm câu A Di Đà Phật, trọn đủ ba điều kiện Tín, Nguyện, Hạnh, hiện tại chúng ta là vô lượng thọ! Chẳng cần phải đợi sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới mới gọi là vô lượng thọ, mà hiện tại đă là vô lượng thọ! Chẳng cần phải đợi tới văng sanh mới chứng trọn vẹn Tam Bất Thoái, mà là hiện tiền đă viên chứng ba món Bất Thoái. V́ sao? Ở đây, [sách Diễn Nghĩa] đă trả lời: “Tùng tánh khởi tu, tánh kư tam thân, vô thỉ, vô chung, tu diệc tam thân, vô thỉ, vô chung” (từ tánh khởi tu, Tánh đă là ba thân, không có khởi đầu, chẳng có kết thúc. Tu cũng là ba thân, chẳng có khởi đầu, không có kết thúc) chính là đạo lư này! Ở đây, lời tôi nói đă được ấn chứng. Quư vị mới biết: Pháp môn Niệm Phật thật sự chẳng thể nghĩ bàn! Điều cuối cùng trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện là thành Phật đạo, mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc chính là thành Phật đạo, từ kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy điều này!

      Hai kinh Đại Bổn và Tiểu Bổn chuyên giảng về y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Nói cách khác, hai bộ kinh này hoàn toàn nói về cảnh giới công đức nơi quả địa Như Lai. Chúng ta tu pháp môn này là khởi tu từ quả, chẳng phải là khởi tu từ nhân, nhân quả đồng thời, điều này chẳng thể nghĩ bàn! Kinh Hoa Nghiêm vẫn là từ nhân đến quả. Pháp môn này khởi tu từ quả, lấy quả làm nhân, trong hết thảy các pháp môn khác chẳng t́m thấy điều này. Nhân tức là quả, quả tức là nhân, nhân quả chẳng hai! Nếu không thể lănh hội như vậy, quư vị sẽ chẳng thể nhận ra sự nhiệm mầu trong pháp môn này, chẳng thể lư giải sự thù thắng của pháp môn này, chẳng có cách nào lư giải!

      “Tánh kư tam thân dung tức, tu diệc tam thân dung tức. Cử nhất tức tam, ngôn tam tức nhất, bất khả tư nghị giả, Viên Giáo thọ dă” (Tánh đă là ba thân dung nhập, chính là lẫn nhau. Tu cũng là ba thân dung nhập, chính là lẫn nhau. Nêu ra một chính là ba, nói là ba mà chính là một, chẳng thể nghĩ bàn. Đó là thọ mạng theo Viên Giáo). Mấy câu này dễ hiểu, thuộc về giáo nghĩa Viên Giáo, xác thực là chẳng giống những giáo nghĩa khác. Cổ đức tán thán kinh này viên nhất trong các pháp viên, đốn nhất trong các pháp đốn. Trong kinh Vô Lượng Thọ, đức Bổn Sư tán thán A Di Đà Phật: “Quang trung cực tôn, Phật trung chi vương” (Quang minh tôn quư nhất, vua trong chư Phật). Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật khuyên chúng ta tu học pháp môn này, chỉ dạy, truyền trao pháp môn thành Phật của chính Ngài, ân đức ấy quá lớn. Chúng ta có được pháp môn này, sẽ ổn thỏa thành Phật trong một đời này. Vấn đề là quư vị có tin tưởng hay không, quư vị có chịu tiếp nhận hay không? Nếu thật sự tin tưởng, thật sự chịu tiếp nhận, từ nay về sau chẳng dấy vọng tưởng, một bộ kinh, một câu Di Đà niệm đến cùng, chắc chắn sẽ thành công! Ta c̣n mong học các pháp môn khác, đó chính là vọng niệm, là đi vào ngơ rẽ, là xen tạp. Cổ đức dạy chúng ta “tử tận thâu tâm” (chết sạch tấm ḷng mong ngóng, chụp giật), phải vứt bỏ những vọng niệm ấy, tuyệt đối chẳng khởi lên niệm thứ hai.

      Có lẽ chư vị đồng tu sẽ nói: “Hiện thời người học kinh Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ đông ngần ấy, ta chẳng cần phải học!” Quư vị tính cho tôi xem thử, rốt cuộc có mấy người? Trung Quốc Đại Lục to dường ấy, có mười một ức dân cư, thế giới phương Đông và phương Tây rộng lớn ngần ấy, có [lèo tèo] mấy người chúng ta, có đủ dùng hay chăng? Chẳng đủ dùng! Nói thật ra, kiểu suy nghĩ ấy là nghiệp chướng, là tội chướng, chướng ngại sự tu học của chính ḿnh. Trong thời kỳ Mạt Pháp, muốn độ chúng sanh, thành Phật đạo, nói thật thà, chỉ có pháp môn này. Có được pháp môn này là may mắn, quá hên! Sau khi đă có được, hăy nghiêm túc tu học, nỗ lực hoằng dương, như vậy th́ mới có thể báo Phật ân. Trong hết thảy các kinh, chúng ta chỉ tuyển chọn một bộ này, những bộ khác đều chẳng màng tới! Người khác muốn hoằng dương kinh điển nào đó, chúng ta cũng tán thán, cũng hoan hỷ, cũng đừng chướng ngại họ. Bản thân chúng ta chỉ học bộ kinh này, chỉ hoằng dương bộ kinh này, con đường này là chánh xác!

 

      (Sao) Hựu vị bỉ Phật thọ mạng, thật hữu kỳ hạn, nhân thiên mạc sổ, thị hữu lượng chi vô lượng dă.

() 命,實 限,人 數,是 有量 也。

(Sao: Lại có kẻ nói: “Thật ra thọ mạng của đức Phật ấy thật sự có kỳ hạn, nhưng trời người chẳng thể tính nổi số lượng, đó chính là vô lượng trong hữu lượng”).

 

Hựu vị” (又謂) [nghĩa là] lại có kẻ nói. “Bỉ Phật” là A Di Đà Phật. [Họ cho rằng] thọ mạng của A Di Đà Phật nói thật ra là có kỳ hạn. Kinh đă nói[2] rất rơ ràng: Trong tương lai, A Di Đà Phật nhập Niết Bàn. A Di Đà Phật buổi sáng nhập Bát Niết Bàn, buổi chiều Quán Thế Âm Bồ Tát thị hiện thành Phật. V́ vậy, Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có Tượng Pháp, Mạt Pháp và Chánh Pháp, luôn luôn có Phật trụ thế. Trong tương lai, Quán Âm Bồ Tát nhập Bát Niết Bàn, Đại Thế Chí Bồ Tát nối ngôi thành Phật, từng vị nối tiếp nhau thành Phật. Tây Phương Cực Lạc thế giới vĩnh viễn có Phật trụ thế, chẳng phải là không có Phật trụ thế.

      Nói thật ra là có kỳ hạn, nhưng kỳ hạn ấy quá dài, “nhân thiên mạc sổ” (trời người chẳng tính được), tính không ra! Trong kinh Vô Lượng Thọ, Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói “giả sử”, tức là ví như, chẳng phải là thật. “Thập phương thế giới chúng sanh”, chẳng phải là một thế giới (một thế giới là thế giới Sa Bà, tức là một đại thiên thế giới), mà là mười phương thế giới, tất cả chúng sanh trong vô lượng vô biên các cơi Phật khắp mười phương thảy đều chứng quả Bích Chi Phật. Bích Chi Phật c̣n cao hơn A La Hán một bậc, tâm địa c̣n thanh tịnh hơn A La Hán. “Thần thông giai như Đại Mục Kiền Liên” (thần thông đều như Đại Mục Kiền Liên): Trong các đệ tử của Phật Thích Ca, ngài Mục Kiền Liên thần thông bậc nhất. Ngài Mục Kiền Liên có năng lực trong một ngày một đêm có thể tính rơ số lượng tinh tú trên bầu trời. Những người ấy đều thành Bích Chi Phật, thần thông đều giống như Mục Kiền Liên, thọ mạng của họ đều dùng kiếp số để luận, dùng trọn hết tuổi thọ ấy để chung sức tính toán thọ mạng của người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, đều tính chẳng ra, [đó chính là] “nhân thiên mạc sổ” (người lẫn trời đều chẳng tính được). Vô lượng thọ chẳng phải là Vô Lượng trong mười con số lớn của Ấn Độ. Con số Vô Lượng đó dễ dàng tính ra. A-tăng-kỳ lần A-tăng-kỳ là một Vô Lượng, Vô Lượng lần Vô Lượng là một Vô Biên, dễ tính toán, người b́nh phàm đều có thể tính ra. Thọ mạng ấy (thọ mạng của người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới) trời người chẳng thể tính toán được, tuy là hữu lượng, chúng ta có thể nói nó thật sự là vô lượng, chẳng có cách nào tính toán!

 

      (Sao) Việt Khê giải vân: “Thử kinh tuy vân vô lượng, năi thị tam thập nhị tướng thường sở kiến thân, phi Quán Kinh Thắng Ứng tôn đặc chi thân”, diệc đồng thượng ư.

() 云:此 量,乃 身,非 身,亦 意。

(Sao: Ngài Việt Khê giải thích: “Tuy kinh này nói vô lượng, nhưng đó là thân ba mươi hai tướng thường thấy, chẳng phải là Thắng Ứng Thân đặc biệt tôn quư trong Quán Kinh”, cũng có cùng ư nghĩa như trên đây).

 

      Việt Khê đại sư giải thích, ba mươi hai tướng chính là Ứng Hóa Thân của Phật, thị hiện trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư. Thân to lớn nói trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật ngự trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm là Báo Thân, có khởi đầu, chẳng có kết thúc. V́ thế, nói tới thọ lượng của Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật, nói thật ra là nói tới thọ lượng của Ứng Thân Phật. Thọ lượng của Ứng Thân quả thật có kỳ hạn, Báo Thân đương nhiên chẳng cần nói tới. Đừng nói là A Di Đà Phật, hết thảy chư Phật Như Lai đều là vô lượng thọ. Bất quá là thọ mạng của Ứng Thân trong Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật quá ư là dài. Chúng ta văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, thọ mạng sẽ giống như thọ lượng của Phật. Trong hết thảy các thứ chân thật, điều này là chân thật bậc nhất. Chẳng có thọ mạng, hết thảy các thứ trang nghiêm khác đều rỗng tuếch, ai sẽ hưởng thụ? Ắt phải là trường thọ th́ mới có thể hưởng thụ, hưởng thụ hết thảy y báo và chánh báo trang nghiêm.

 

      (Sao) Kim vị tùy cơ sở kiến giả. Thử kinh Phật thân vô định, tiền nghĩa lư trung dĩ biện, huống kinh văn đản ngôn A Di Đà Phật hiện tại kỳ tiền, vị tằng chỉ định hiện hà đẳng thân, Việt Khê an đắc phán thuộc tam thập nhị tướng, tất vị Liệt Ứng, tắc liệt cơ tự kiến, phi thử kinh chuyên dĩ Liệt Ứng nhi bị liệt cơ dă.

() 者,此 定,前 辯,況 前,未 身,越 相,必 應,則 見,非 也。

(Sao: Nay tôi nói là “tùy theo căn cơ mà thấy [khác biệt]”, thân Phật trong kinh này chẳng nhất định, điều này đă được biện định trong phần nghĩa lư trên đây. Huống chi kinh văn chỉ nói “A Di Đà Phật hiện ra trước mặt” [người sắp văng sanh], chưa hề nói rơ hiện những thân nào, sao ngài Việt Khê lại phán định [thân Phật trong kinh này] thuộc về ba mươi hai tướng? Ắt là hễ nói tới Liệt Ứng Thân th́ đó là thân được thấy bởi kẻ căn cơ kém hèn, chứ không phải là kinh này chuyên dùng thân Liệt Ứng để tiếp độ kẻ căn cơ kém cỏi).

 

      Trong đoạn này, Liên Tŕ đại sư phê b́nh lời nhận định của ngài Việt Khê. Ngài Việt Khê nói có lư, mà trong đoạn này, Liên Tŕ đại sư cũng nói có lư! V́ sao? Người văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, mỗi người mang theo nghiệp khác nhau, khi văng sanh sẽ thấy h́nh tượng Phật khác nhau. Trong Quán Kinh đă nói rất rơ ràng, thượng phẩm thượng sanh thấy tận hư không khắp pháp giới đều là A Di Đà Phật, Quán Âm, Thế Chí. Phẩm vị văng sanh thấp hơn sẽ chẳng thấy h́nh tượng Phật thù thắng như vậy. Hạ phẩm hạ sanh chỉ thấy Quán Âm và Thế Chí đến tiếp dẫn, chẳng thấy A Di Đà Phật.

      Tịnh Tông nhất định phải lấy kinh Vô Lượng Thọ làm kinh bậc nhất, lấy kinh ấy làm căn cứ nguyên thủy. V́ sao? V́ trong kinh Vô Lượng Thọ có bốn mươi tám nguyện, bốn mươi tám nguyện do chính A Di Đà Phật tự nói, cho nên là chân thật nhất. Thích Ca Mâu Ni Phật kể lại cho chúng ta biết, kể lại tức là chẳng khác A Di Đà Phật tự nói! Bốn mươi tám nguyện đă nói rơ ràng: Dẫu là hạ hạ phẩm văng sanh, hễ sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, không chỉ là thọ mạng giống hệt như Phật, mà tướng mạo cũng giống như Phật, y báo và chánh báo trang nghiêm đều giống như Phật. V́ vậy, thế giới ấy là thế giới b́nh đẳng, chẳng thể nghĩ bàn! Do vậy có thể biết: Khi chúng ta ở trong cơi này, muốn văng sanh, c̣n chưa đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, lúc Phật đến tiếp dẫn th́ c̣n có chút sai biệt, nhưng đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, bèn chẳng có sai biệt. Từ cơi này, chúng ta đến Tây Phương Cực Lạc thế giới phải mất bao lâu? Thời gian quả thật hết sức ngắn ngủi, tạm bợ, tốc độ quá nhanh, trong một cái khảy ngón tay! Dẫu là Liệt Ứng Thân, thời gian cũng rất ngắn ngủi. Đến thế giới Cực Lạc, bèn chứng pháp giới b́nh đẳng; từ Đại Kinh, chúng ta đă có được sự thật này.

      Tiếp đó, chúng ta hăy xem lời Liên Tŕ đại sư lăo nhân gia nói: “Kim vị tùy cơ sở kiến giả, thử kinh Phật thân vô định, tiền nghĩa lư trung dĩ biện, huống kinh văn đản ngôn A Di Đà Phật hiện tại kỳ tiền” (nay nói là tùy theo căn cơ mà thấy [thân Phật sai khác]. Thân Phật trong kinh này không nhất định, điều này đă được biện định trong phần nghĩa lư trên đây, huống chi kinh văn chỉ nói A Di Đà Phật hiện trước mặt [người sắp văng sanh]), trọn chẳng nói là Báo Thân hay Ứng Thân của A Di Đà Phật, chỉ nói A Di Đà Phật hiện ra trước mặt người ấy. Pháp sư Việt Khê nói là ba mươi hai tướng và tám mươi thứ hảo, đó là Liệt Ứng Thân, giống như thân tướng do Thích Ca Mâu Ni Phật đă hiện trong thế gian này. Chúng ta căn cơ hèn kém, Ngài liền thị hiện Liệt Ứng Thân, [đó là] “liệt cơ tự kiến” (do căn cơ của chúng sanh kém cỏi, bèn tự thấy [thân Phật là Liệt Ứng Thân]). Nói thật thà, chúng ta niệm Phật văng sanh, đại khái thấy h́nh tượng Phật đều là thân này. Ngài Việt Khê nói có lư, v́ sao? Nếu Báo Thân của Phật hiện tiền, chúng ta chẳng trông thấy! “Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di, cám mục trừng thanh tứ đại hải”, làm sao chúng ta có thể trông thấy được? Chẳng thấy nổi! Do đó, đức Phật nhất định phải hiện một tướng, tuy là thân to lớn, cũng chẳng thể quá lớn, quá lớn th́ chúng ta chẳng thấy rơ, sẽ chẳng thấy được!

      Ví như chúng ta là thân người, kiến chắc chắn chẳng thấy vẻ mặt chúng ta, v́ sao? Nó quá nhỏ. Phật muốn độ kiến, cũng phải hiện thân kiến, to hơn nó một hai lần th́ nó mới thấy; quá lớn, nó sẽ chẳng thấy. V́ thế, đến tiếp dẫn chúng ta, ắt phải là thân ba mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo, [tức là] kim thân trượng sáu, thân tướng to gấp đôi, gấp ba người b́nh phàm đến tiếp dẫn, đó là hợp lư. Nhưng phải biết: A Di Đà Phật tiếp dẫn chúng sanh trong chín pháp giới. Bồ Tát văng sanh mà A Di Đà Phật hiện thân tướng [trượng sáu] này, thân tướng của Bồ Tát to như vậy, thân tướng của Phật nhỏ chừng ấy, chẳng tương xứng! Do đó, Phật nhất định phải hiện đại thân.

Mười phương vô lượng vô biên các cơi Phật, chẳng có một vị Phật nào không khuyên chúng sanh niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Hằng ngày đều có Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, lục đạo phàm phu cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, nên Phật hiện thân cũng là tương ứng căn cơ, đáng nên dùng thân ǵ để tiếp dẫn, đức Phật tự nhiên hiện thân tướng ấy. Ứng cơ thị hiện là chuyện hợp lư! Nhưng chư vị phải ghi nhớ, tuyệt đối chẳng phải chỉ có một Liệt Ứng Thân ba mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo. Nếu nghĩ như vậy (tức là nghĩ chỉ có một Liệt Ứng Thân thị hiện), sai mất rồi! Đối với thế giới Sa Bà, đối với người trên địa cầu niệm Phật văng sanh, [hiểu như vậy] th́ rất chánh xác!

 

      (Sao) Đại Bổn Pháp Tạng nguyện vân: “Ngă tác Phật thời, giả linh thập phương chúng sanh, giai tác Duyên Giác, Thanh Văn, giai tọa Thiền nhất tâm, dục kế ngă niên thọ kỷ thiên ức vạn kiếp, vô năng tri giả”, khởi diệc thường sở kiến thân chi vô lượng hồ?

() 云:我 時,假 生,皆 聞,皆 心,欲 劫,無 者,豈 乎。

 (Sao: Trong kinh Đại Bổn, ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Khi ta thành Phật, giả sử mười phương chúng sanh đều là Duyên Giác, Thanh Văn, đều tọa Thiền nhất tâm, muốn tính xem ta thọ mấy ngàn ức vạn kiếp đều chẳng thể biết”, há chẳng phải là cái thân thường thấy cũng thọ vô lượng ư?)

 

      Đại Bổn là kinh Vô Lượng Thọ. Ở đây, trích dẫn bốn mươi tám nguyện nhằm chứng minh “A Di Đà Phật thọ vô lượng” xác thực là vô lượng thọ. Dẫu trong phần trên có nói là hữu lượng, nhưng trời lẫn người đều chẳng tính được, chẳng có cách nào tính toán.

 

      (Sao) Thị cố, nhập diệt Song Lâm, hoặc kiến Linh Sơn vị tán, Xá Na thiên trượng, hoặc kiến trượng lục kim thân, Phật bổn bất di, cơ tự dị cố. Tắc vị bỉ Phật thọ mạng, tức vô lượng chi vô lượng, diệc hà bất khả?    () 林,或 散,舍 丈,或 身,佛 移,機 故。則 命,即 量,亦 可。

(Sao: Do vậy, nhập diệt chốn Song Lâm, hoặc thấy hội Linh Sơn chưa giải tán, thân Lô Xá Na Phật cao ngàn trượng, hoặc thấy thân vàng trượng sáu, Phật vốn chẳng dời, do căn cơ mà thấy sai khác. Do vậy, nói thọ mạng của đức Phật ấy chính là vô lượng của vô lượng th́ cũng chẳng có ǵ là không được!)

 

      Đoạn này viện dẫn Thích Ca Mâu Ni Phật làm tỷ dụ, Ngài nhập diệt tại Song Lâm.

 

      (Diễn) Thị cố hạ, dẫn Thích Ca lệ Di Đà, nhập diệt Song Lâm, năi Ứng Thân, bị phàm tiểu cơ. Cơ tân kư tận, ứng hỏa tắc vong.

() 下,引 陀,入 林,乃 身,被 機,機 盡,應

 (Diễn: Từ chữ “do vậy” trở đi, dẫn Phật Thích Ca để suy diễn Phật Di Đà. Nhập diệt tại Song Lâm là Ứng Thân nhằm độ hàng phàm phu tiểu cơ. Củi cơ duyên đă hết, lửa ứng hóa bèn tắt).

 

      Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện trong thế gian, giáng sanh tại vương cung, ba mươi tuổi thị hiện thành đạo, thuyết pháp bốn mươi chín năm, bảy mươi chín tuổi “nhập diệt Song Lâm”, [tức là] nhập diệt trong rừng cây [Sa La] Song Thụ. Đấy là Ứng Thân của Thích Ca Mâu Ni Phật. Ứng Thân có tác dụng ǵ? Giáo hóa phàm phu, giáo hóa Tiểu Thừa. Đối tượng giáo học đă hết, đức Phật bèn ra đi. Nói thật ra, Ứng Thân của Phật thọ mạng dài ngắn tự tại, chẳng giống như chúng ta. Thọ mạng của chúng ta là nghiệp báo, mong kéo dài chẳng thể kéo dài, muốn rút ngắn cũng chẳng thể rút ngắn, thân nghiệp báo mà! Có người sống không nổi, bèn tự sát, tự sát có giải quyết vấn đề hay chăng? Chẳng giải quyết được! Tự sát c̣n khổ sở, c̣n đáng sợ hơn là sống sót! V́ sao? Thọ mạng của quư vị chưa hết, quư vị đoạn dứt nó, phàm là kẻ tự sát đều phải t́m kẻ chết thay, chẳng t́m kẻ thế thân, người ấy chẳng có cách nào đi luân hồi, chẳng có cách nào đầu thai, mới biết đó thật sự là khổ sở!

      Chư Phật, Bồ Tát nương theo nguyện trở lại, nên thọ mạng dài ngắn tự tại. Các Ngài muốn trụ trong thế gian này một trăm năm, hai trăm năm, thậm chí trụ một ngàn năm, hai ngàn năm, đều làm được! V́ sao các Ngài chẳng thường trụ trong thế gian? Nói thật thà, thường trụ trong thế gian chẳng có tác dụng, chẳng thể độ chúng sanh. Chúng sanh thấy Thích Ca Mâu Ni Phật đă sống ba ngàn năm, chúng con làm sao có thể sánh bằng Ngài? Chẳng sánh bằng th́ chúng con chẳng có cách nào học theo Ngài! V́ thế, để dạy bảo chúng ta, đức Phật nhất định phải thị hiện hoàn toàn giống như chúng ta, sau đó mới bảo: “Ta có thể thành tựu, quư vị cũng có thể thành tựu!” Chúng ta nghe nói gật đầu, có thể tin tưởng, có thể tiếp nhận.

      Những chúng sanh hữu duyên đều đắc độ, thân thể Ngài lưu lại thế gian vô dụng, đó là “cơ tân kư tận” (củi cơ duyên đă hết), cơ () là cơ duyên, tức là học tṛ. Các học tṛ có thể giáo hóa chẳng c̣n, đều đă thành tựu, “ứng hỏa tắc vong” (lửa ứng hóa bèn tắt), lửa cần có củi đốt, củi chẳng c̣n nữa, đương nhiên lửa cũng tắt, đó là đạo lư nhất định. Học tṛ chẳng có, thầy cũng chẳng có. Có học tṛ th́ mới có thầy. Chẳng có học tṛ th́ thầy cũng chẳng c̣n! Đó là nói đến Ứng Thân.

 

      (Diễn) Linh Sơn vị tán, năi Báo Thân, bị Bồ Tát cơ. Cơ kư thường thời, Phật diệc thường tại.

() 散,乃 身,被 機,機 時,佛 在。

 (Diễn: Hội Linh Sơn chưa giải tán là nói về Báo Thân nhằm độ Bồ Tát. Căn cơ đă thường tồn tại, đức Phật cũng thường tồn tại).

 

      Đời Tùy, Trí Giả đại sư thuộc tông Thiên Thai đọc kinh Pháp Hoa, đọc đến phẩm Dược Vương Bồ Tát, lăo nhân gia nhập Định. Trong Định, Ngài tới núi Linh Thứu, Thích Ca Mâu Ni Phật c̣n đang giảng kinh Pháp Hoa tại đó. Ngài ngồi nghe một buổi, trở về xuất Định, bảo mọi người: “Hội Linh Sơn nay vẫn chưa giải tán!” Ngài Trí Giả cách Thích Ca Mâu Ni Phật hơn một ngàn năm, Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh Pháp Hoa tại núi Linh Thứu vẫn chưa giải tán, Trí Giả đại sư đích thân trông thấy. Không chỉ là vào thời Trí Giả đại sư hội ấy chưa giải tán, mà thưa cùng chư vị, hiện thời cũng chẳng giải tán! Rất đáng tiếc, quư vị đến Ấn Độ lên núi bái Phật, thấy núi Linh Thứu, chẳng thấy Thích Ca Mâu Ni Phật, mà cũng chẳng thấy Ngài đang giảng kinh Pháp Hoa tại đó. Hội ấy thật sự chưa tan. Điều này cũng chứng tỏ hết thảy các pháp bất sanh bất diệt, tùy thuộc quư vị có duyên phận hay không!

      Nói theo Lư, người nào chẳng có duyên phận? Ai nấy đều có! Ai nấy đều có, cớ sao hiện tại chẳng có? Hiện thời, duyên của quư vị tạm thời gián đoạn, v́ sao gián đoạn? Do quư vị có hai thứ chướng hoặc ba thứ chướng, có vọng tưởng, chấp trước, nên quư vị chẳng thấy. Ĺa khỏi hết thảy vọng tưởng, chấp trước, sẽ trông thấy. Chư vị nghĩ xem, muốn học kinh, muốn đọc kinh, cần ǵ phải phiền phức như vậy? Hễ tâm địa thanh tịnh, thứ ǵ cũng đều hiện thành, chẳng cần phải kiếm chuyện phiền phức ấy! Do đó, Phật pháp cầu ở nơi đâu? Cầu trong tự tánh! Chẳng phải là ở ngoài tâm, cầu pháp ngoài tâm là ngoại đạo. V́ thế, chính ḿnh học Phật mà học thành ngoại đạo, vẫn chẳng biết, oan uổng quá! Phật pháp phải học từ trong tự tánh.

      Trí Giả đại sư là Bồ Tát, nên Ngài có thể trông thấy. Nay chúng ta chẳng thấy, chúng ta chẳng phải là Bồ Tát. Nhưng chư vị phải nhớ, nếu quư vị thật sự phát Bồ Đề tâm, nhất tâm chuyên niệm, quư vị là Bồ Tát. Đáng tiếc là hằng ngày niệm kinh, kinh đă dạy như thế, trong các buổi giảng chúng tôi cũng hằng ngày lớn tiếng kêu gào như vậy, quư vị chẳng thể phát cái tâm Bồ Đề! Đó là v́ chẳng chịu một mực chuyên niệm, khi niệm Phật vẫn c̣n xen tạp! Trong Tây Phương Xác Chỉ, Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát đă bảo: “Pháp môn này kỵ nhất là xen tạp”. Chúng ta khăng khăng muốn xen tạp, làm cách nào đây? Cứ ngỡ chính ḿnh thông minh, tự cho là đúng, lầm lỡ chính ḿnh!

 

      (Diễn) Xá Na thiên trượng, năi Bồ Đề tràng sở hiện Báo Thân.

      () 丈,乃 身。

      (Diễn: Lô Xá Na Phật thân cao ngàn trượng, chính là Báo Thân hiện nơi Bồ Đề đạo tràng).

 

      Đây là Lô Xá Na Phật, là cảnh giới trong kinh Hoa Nghiêm. Tỳ Lô Giá Na là Pháp Thân Như Lai, Lô Xá Na là Báo Thân Như Lai, Thiên Bách Ức Hóa Thân là Thích Ca Như Lai, ba thân là một nhưng là ba, tuy là ba mà một, kinh Hoa Nghiêm nói như vậy.

 

      (Diễn) Trượng lục kim thân năi Lộc Dă Uyển sở hiện Ứng Thân, nhị thỉ đồng thời, song thùy lưỡng tướng dă.

      () 鹿 身,二 時,雙 也。

      (Diễn: Thân vàng trượng sáu chính là Ứng Thân đă hiện tại Lộc Dă Uyển, hai thân ấy cùng đồng thời khởi đầu, rủ ḷng thị hiện hai tướng).

 

      Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện thành đạo, bộ kinh được giảng đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm. Giảng kinh Hoa Nghiêm bèn hiện thân tướng cao lớn ngàn trượng. Thân tướng ấy thị hiện trong Định, phàm phu và Tiểu Thừa đều chẳng thấy. Trong mười bốn ngày giảng Hoa Nghiêm, thính chúng là bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ, đó là khởi đầu. Sau khi đức Phật giảng xong Hoa Nghiêm, xuất Định, tại Lộc Dă Uyển độ năm vị tỳ-kheo bèn giảng kinh A Hàm; đó là Ứng Thân, tức thân cao một trượng sáu, phàm phu và Tiểu Thừa trông thấy thân ấy. “Nhị thỉ đồng thời”: Nhị Thỉ (二始: hai thứ khởi đầu), một là trong Định giảng Hoa Nghiêm, hai là xuất Định, ở Lộc Dă Uyển, giảng A Hàm cho năm vị tỳ-kheo. “Song thùy lưỡng tướng” nghĩa là đồng thời hiện hai loại thân tướng khác nhau. Năm vị tỳ-kheo tại Lộc Dă Uyển thấy Ứng Thân, bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ trong Định thấy Báo Thân, tức là Lô Xá Na Phật cao ngàn trượng.

 

      (Diễn) Phật bổn bất di, cơ tự dị giả.

() 移,機 者。

      (Diễn: Phật vốn chẳng đổi dời, do căn cơ mà tự thấy khác biệt).

 

      Phật chẳng phải là hữu tâm hiện tướng, Phật chẳng phải là cố ư. Hễ đức Phật hữu tâm, hữu ư, sẽ là phàm phu. Phàm phu sở dĩ chẳng giống Phật, Bồ Tát là do hữu tâm, hữu ư, có cách nghĩ, có cách nh́n. Mỗi người có cách nghĩ và cách nh́n của riêng họ, chư Phật, Bồ Tát chẳng có cách nghĩ, mà cũng chẳng có cách nh́n của riêng ḿnh. V́ thế, tâm các Ngài thanh tịnh, chẳng sanh một niệm. Hiện tướng là tự nhiên hiện, chẳng phải là cố ư hiện. Chúng sanh có cảm, Phật bèn có ứng, tự nhiên hiện thân, cảm ứng đạo giao. Dùng ǵ để cảm? Dùng tâm để cảm. Tùy thuộc vào mức độ của tâm thanh tịnh và chân thành trong tâm quư vị, tùy thuộc mức độ nguyện lực và công đức sâu hay cạn, dùng những điều ấy để cảm, Phật tự nhiên ứng hiện. Mỗi người chúng ta tâm địa thanh tịnh, tâm địa chân thành, tâm địa cung kính, chân thành, công đức sâu hay cạn khác nhau, nên Phật ứng hiện tướng cũng khác nhau, đạo lư ở ngay chỗ này. Tiếp đó, sách viết mấy câu rất thú vị:

 

      (Diễn) Pháp Thân khởi dụng, như không cốc truyền thanh.

      () 用,如 聲。

      (Diễn: Pháp Thân khởi tác dụng, như hang trống dội lại tiếng vọng).

 

      “Không cốc” là sơn cốc (hang núi). Chúng ta ở trong hang núi hét to một tiếng, ngay lập tức có tiếng vọng. Âm thanh của quư vị dài, tiếng vọng sẽ dài. Âm thanh ngắn, tiếng vọng sẽ ngắn. Tiếng vọng tương ứng với âm thanh mà quư vị đă hét. Sánh ví Pháp Thân như hang trống, chúng ta ở đó hú dài, tức là cảm, tiếng vọng là ứng. Chúng ta có tâm, tiếng vọng vô tâm, vô tâm mới là thật sự b́nh đẳng. Tuy mọi người thấy h́nh tướng khác nhau, nhưng nói theo phía Phật th́ b́nh đẳng. Phật trọn chẳng hữu ư hiện [thân tướng nào]. Hữu ư sẽ là bất b́nh đẳng. Nói thật thà, chúng ta xử sự, đăi người, tiếp vật, hữu tâm sẽ chẳng b́nh đẳng, vô tâm bèn b́nh đẳng. Chúng ta hăy nên học tập điều này. Hôm nay đă hết thời gian rồi!

 

Tập 192

 

      Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang ba trăm chín mươi hai:

 

      (Diễn) Phật bổn bất di, cơ tự dị giả, Pháp Thân khởi dụng, như không cốc truyền thanh, minh kính tả ảnh, tùy thanh cao hạ, tùy tướng nghiên xi, động nhược hành vân, chỉ do cốc thần, vân vân tự bỉ, ư ngă hà vi da?

() 移,機 者,法 用,如 聲,明 影,隨 下,隨 媸,動 雲,止 神,紜 彼,於 耶。

(Diễn: Phật vốn chẳng đổi dời, do căn cơ mà tự thấy sai khác. Pháp Thân khởi tác dụng như hang trống dội lại tiếng vọng, gương sáng in h́nh ảnh, tùy theo âm thanh cao hay thấp, tùy theo h́nh tướng đẹp hay xấu, động th́ như mây bay, ngưng lặng th́ giống như chính giữa hang núi, lăng xăng tự nó, can dự ǵ đến ta?)

 

Đoạn này tổng kết thân tướng do Phật đă hiện, thân tướng xác thực là có khác biệt, nhưng sở dĩ Phật hiện tướng là v́ chúng sanh có cảm, Phật tự nhiên ứng hiện Tướng Phần. Hoàn toàn chẳng phải là Phật cố ư muốn hiện các thứ tướng, mà thật ra là do chúng sanh có các thứ tâm, nên Phật tự nhiên hiện các thứ tướng. Tuy ở đây nói đến Phật Thích Ca và Phật Di Đà để làm thí dụ; thật ra, Tướng Phần do mỗi người chúng ta đă hiện cũng là do cảm ứng đạo giao. Chúng ta đọc kinh, ắt cần phải chú ư điều này, v́ những điều được nói trong kinh chính là cảnh giới hiện tiền của bản thân chúng ta, mà cũng là chuyện thuộc về bổn phận của chính ḿnh. Nói tới Phật là nói đến tự tánh, nói tới Pháp Thân, nói tới bản thể, chúng sanh và Phật chẳng hai! Mười pháp giới hiện tướng khác nhau, đó là v́ bản tánh tùy duyên khác nhau, chúng ta gọi duyên ấy là “cơ duyên”.

      “Phật bổn bất di” (Phật vốn chẳng đổi dời), câu này nói về Chân Như bản tánh. Chúng sanh và Phật chẳng khác, nói tới Phật Thích Ca, nói đến Phật Di Đà, hay nói đến chư Phật là nói về chính ḿnh. “Cơ tự dị giả” (do căn cơ mà tự sai khác), cơ cảm không giống nhau. Cũng có lẽ chúng ta lư giải chuyện “trong tâm chúng sanh có cảm, Phật tự nhiên có ứng” khá dễ dàng; c̣n đối với Chân Như bản tánh của chính chúng ta, làm sao chính ḿnh có thể cảm ứng đạo giao cùng chính ḿnh? Nói thật ra, chính ḿnh cảm ứng chân tánh bằng ư niệm. Chúng ta một niệm niệm Phật bèn tương ứng với Phật, một niệm niệm Bồ Tát bèn tương ứng với Bồ Tát. Chúng ta từ sáng đến tối khởi tâm động niệm chẳng giống nhau, tướng được biến hiện sẽ khác nhau. Tương đối dễ nhận biết là ví như hôm nay có chuyện rất vui vẻ, quư vị sẽ hiện tướng vui sướng, ngày hôm nay gặp chuyện trái ư, quư vị sẽ hiện tướng rất khó coi. Chẳng phải là tướng biến đổi theo tâm ư? Trọn chẳng khó hiểu! Thầy bói xem tướng nói: “Tướng chuyển theo tâm”, tâm ấy là khởi tâm động niệm, khởi tâm động niệm là cơ cảm. Hiện các thứ tướng bất đồng, đó là Phật ứng, Phật ở đây là Tự Tánh Phật. Nếu hiểu rơ đạo lư này, quư vị sẽ biết chúng sanh thành Phật chẳng khó, khẩn yếu là quư vị niệm niệm trong tâm nghĩ tới Phật, tâm giống như tâm Phật, đương nhiên [tướng sẽ] giống như Phật tướng. Đó là đạo lư nhất định.

      Cổ nhân nói: Sau bốn mươi tuổi, tướng mạo phải do chính ḿnh chịu trách nhiệm, từ bốn mươi tuổi trở về trước là tướng có được khi thần thức đầu thai. V́ sao con cái giống cha mẹ? Chúng nh́n thấy tướng của cha mẹ, ưa thích tướng ấy, bèn biến thành tướng tương tự như họ. Chuyện này chẳng phải là di truyền, mà trong một sát-na đầu thai đă giữ lấy tướng đó. Giữ lấy tướng đó chính là tiên thiên, nhưng tướng mạo hậu thiên[3] sẽ biến đổi theo tâm hạnh của quư vị trong một đời. Nếu suốt đời tâm địa hết sức thiện lương, đối xử trung hậu với người khác, sau khi đă thành niên, ba mươi, bốn mươi, người ấy bèn có tướng trung hậu, lăo thành, tướng mạo đă biến đổi. Lúc bốn mươi tuổi, tướng mạo định h́nh, chẳng dễ ǵ biến đổi, khi ấy, chính ḿnh phải chịu trách nhiệm về tướng mạo.

      “Pháp Thân khởi dụng”, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới đều do Pháp Thân khởi tác dụng. Trước mắt chúng ta, chánh báo là thân thể của chúng ta, y báo là hoàn cảnh sống, thảy đều là Pháp Thân khởi tác dụng. Mười pháp giới chẳng có ngoại lệ, toàn là Pháp Thân khởi tác dụng, Pháp Thân là chính ḿnh. Khởi tác dụng là ǵ? “Không cốc truyền thanh, minh kính tả ảnh” (hang trống dội lại tiếng vọng, gương sáng soi h́nh ảnh), “không cốc” (空谷) là hang núi. Chúng ta ở trong hang núi hú dài, sẽ có tiếng vang dội lại, [thân Phật ứng hiện theo căn cơ cảm ứng của chúng sanh] giống như tiếng vọng. “Minh kính” (明鏡) là một tấm gương sạch làu làu, soi rơ rệt hiện tượng bên ngoài, đó gọi là “tả ảnh” (寫影). Pháp Thân khởi tác dụng xác thực là như vậy. V́ thế, kinh Kim Cang có nói: “Hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng, như sương, cũng như chớp, hăy nên quán như thế”. Đúng là như vậy. Kinh Hoa Nghiêm nói Lư Sự vô ngại, Lư là Pháp Thân, Sự là khởi tác dụng, vô ngại. Lư Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại. Quư vị thật sự hiểu thấu triệt đạo lư này, sẽ vô ngại. V́ sao vô ngại? V́ chẳng chấp trước; không chấp trước bèn chẳng có ngăn ngại. Bọn phàm phu chúng ta hiện thời v́ sao có ngăn ngại? Trong vô ngại, sanh khởi chướng ngại. Nẩy sanh chướng ngại là v́ chỗ nào cũng chấp trước, chỗ nào cũng phân biệt, coi giả là thật. C̣n những ǵ là thật, họ chẳng nhận biết!

Phàm những ǵ có tướng đều là hư vọng”: Hang trống dội lại tiếng vọng, chúng ta biết là hư vọng. Chúng ta biết h́nh bóng trong gương là hư vọng, nhưng chẳng biết thân thể này và thế giới trước mắt là hư vọng. Trong kinh Đại Thừa, đức Phật đă đôi ba lượt bảo chúng ta: Cảnh giới hiện tại sanh diệt trong từng sát-na. Kinh Lăng Nghiêm giảng thấu triệt, cảnh giới “sanh ra từ nơi đâu sẽ diệt mất từ nơi đó”, “thuận theo tâm chúng sanh mà ứng với khả năng tiếp nhận của họ”, ứng theo tâm lượng. Chúng ta đọc những câu kinh văn ấy, ứng theo tâm lượng, “thuận theo tâm chúng sanh, Phật, Bồ Tát ứng theo khả năng nhận biết của họ”. Nếu quư vị hiểu như vậy, đó chỉ là hiểu Phật pháp ở mức nông cạn. Chân Như bản tánh thuận theo vọng niệm của chúng ta mà hiện tướng, điều đó gọi là “tùy tâm ứng lượng”. Hết thảy các kinh do đức Phật đă giảng có quan hệ rất mật thiết với chúng ta, hết thảy các kinh luận vốn là chuyện của chính bản thân ta. Ĺa khỏi bản thân chúng ta, nói thật ra, chẳng có một pháp nào để có thể đạt được. Đă là chẳng có một pháp nào để có thể đạt được, c̣n có pháp ǵ để có thể nói hay chăng? Phật là bản tánh của chính ḿnh. Bồ Tát cũng là bản tánh của chính ḿnh. Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới vẫn là bản tánh của chính ḿnh. Thiền Tông nói rất hay: “Nếu người hiểu biết tâm, đại địa không tấc đất”. Tâm [trong câu nói trên đây] chính là chân tâm. Nếu quư vị nhận biết chân tâm, đại địa chẳng có tấc đất nào, v́ sao? Hết thảy toàn là Tướng Phần của tự tâm. Tánh, Tướng như nhau, Lư, Sự chẳng hai, mới biết hoàn toàn là chính ḿnh.

      Do hang trống dội lại tiếng vọng, cho nên có “tùy thanh cao thấp”, [nghĩa là] âm thanh của quư vị cao, tiếng vọng cũng cao. Âm thanh của quư vị dài, tiếng vọng cũng kéo dài. Gương sáng chiếu cảnh giới bên ngoài, chẳng hạn như soi người ta th́ cổ nhân thường nói: “Hồ lai hiện Hồ, Hán lai hiện Hán” (người Hồ đến soi, gương bèn hiện bóng người Hồ. Người Hán đến soi, gương bèn hiện bóng người Hán). Người Hán soi gương, trong gương hiện người Hán. Người Hồ là người ngoại quốc, người ngoại quốc soi gương, trong gương hiện h́nh người ngoại quốc, “tùy tướng nghiên xi” (tùy theo tướng mà hiện h́nh bóng xấu đẹp). Nay chúng ta thường tự trách tướng mạo của chính ḿnh chẳng đẹp, tướng mạo đức Phật đẹp nhất, mảy may khuyết hăm đều chẳng có. Kinh thường tán thán mặt Phật như “măn nguyệt” (trăng tṛn), vầng trăng ngày Rằm. Nếu chúng ta hiểu lầm ư nghĩa, [cứ ngỡ] “măn nguyệt” là tṛn xoe, đầu Phật tṛn quay, cũng rất khó coi! “Măn nguyệt” là chẳng có chỗ nào khuyết hăm, mang ư nghĩa này. Ba mươi hai tướng và tám mươi thứ hảo, quư vị chẳng t́m thấy chỗ khuyết hăm nào trên thân tướng đức Phật, quá đẹp đẽ! V́ sao có hảo tướng như vậy? Kinh Đại Thừa đă nói rất rơ ràng: Tướng thuộc về quả báo, mỗi tướng đều có tu nhân (cái nhân để tu tập). Chẳng có thiện nhân, lấy đâu ra thiện quả? Đối với ba mươi hai tướng và tám mươi thứ hảo của đức Phật, trong Kim Cang Kinh Giảng Nghĩa, cư sĩ Giang Vị Nông đă trích lục nhân quả rất rơ ràng. Nếu quư vị muốn tu tướng hảo, hăy nên tu từ nơi nhân, quả sẽ tự nhiên chuyển biến. Đó gọi là “tướng tùy tâm chuyển” (tướng chuyển theo tâm). Do điều này có thể biết, tướng Phật trang nghiêm như vậy [là do] tâm Phật quá tốt đẹp! Tâm tốt lành là nhân, tướng hảo là quả, phải biết điều này!

      “Động nhược hành vân” (động th́ như mây bay): Trong kinh Phật, chữ Vân được dùng rất nhiều, nhất là kinh Hoa Nghiêm. Dùng chữ này với ư nghĩa ǵ? “Chẳng phải có, chẳng phải không”. Chúng ta thấy áng mây thật sự là có, nhưng đến gần th́ chẳng có. Đức Phật nói: Chúng ta đều hăy nên quán hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian như thế, chớ nên chấp trước có, mà cũng đừng chấp trước không! Quư vị nói nó không có, nó có! Quư vị nói nó là có, thật sự nó là không. Đó mới là chân tướng sự thật. Trước mắt chúng ta cũng là như thế, thân thể chúng ta cũng là chẳng phải có, chẳng phải không, giống như mây trôi. “Động” là nói nó khởi tác dụng, Pháp Thân khởi tác dụng, hiển hiện y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới, chẳng phải có, chẳng phải không. V́ thế, chớ nên chấp trước những thứ ấy. Phàm phu chấp trước, cho nó là có. Hàng Nhị Thừa tưởng nó là không. Phàm phu chấp trước có, Nhị Thừa chấp trước không, đều là sai lầm. Bồ Tát bất đắc dĩ, cưỡng gọi chuyện này là Trung Đạo. Trung Đạo là chẳng chấp trước có, mà cũng chẳng chấp trước không. Quư vị nói “ta là Trung Đạo”, lại sai bét mất rồi! Quư vị lại có chấp trước! Nói tóm lại, quyết định chớ nên chấp trước, quư vị bèn tự tại. Có chấp trước tức là bệnh. Hết thảy đều chẳng chấp trước sẽ tự tại.

      “Chỉ do cốc thần” (ngưng lặng th́ như hang núi), Lăo Tử nói: “Cốc thần bất tử”, chính giữa hang núi gọi là “cốc thần” (谷神). Chính giữa sơn cốc là vô h́nh, vô ảnh. Cả quả núi, sơn cốc thấp nhất, tỷ dụ sự thấp hèn, h́nh dung sự an tĩnh, bất động. Lăo Tử dùng ư nghĩa này để dạy người. Xử thế, đăi người, trong xă hội phải hạ ḿnh, khiêm hư, an tĩnh, chẳng mê. Dùng chỗ chính giữa nơi đáy hang núi để làm tỷ dụ nhằm sánh ví sự nhiệm mầu của đạo. Nói thật ra, Đạo do Nho gia nói, Đạo của Đạo gia nói và Đạo do Phật gia nói đều hết sức gần gũi, đều là nói về tâm. Dụng tâm phải khiêm hư, phải hạ ḿnh, phải an tĩnh. Phật môn gọi “an tĩnh” là Thiền Định, là “như như bất động”! Tâm bất động sẽ chẳng khởi bất cứ tác dụng ǵ, nên là bất tử. Phật pháp gọi “bất tử” là bất sanh bất diệt, có ư nghĩa này! Cổ đại đức Trung Quốc nói cảnh giới của Lăo Trang là từ Thất Địa trở lên. [Cảnh giới của] Nho và Đạo, nói thật ra, xác thực là cảnh giới Bồ Tát trong Phật pháp. Họ có phải là Phật, Bồ Tát hóa thân đến Trung Quốc nhằm giáo hóa chúng sanh hay chăng? Nói theo Lư th́ thông suốt, nhưng xét theo Sự bèn chẳng có dấu tích. “Chỉ do cốc thần” (ngưng lặng th́ giống như đáy hang núi), đó là đại định. Tự tánh vốn định, mang ư nghĩa này.

      “Vân vân tự bỉ, ư ngă hà vi da” (lăng xăng tự nó, can dự ǵ đến ta), hai câu này nói đến sâm la vạn tượng. Trong xă hội hiện thời xao động bất an, cả thế giới nguy cơ ẩn nấp bốn bề, giống như quả bom đă cài giờ sẵn, chẳng biết sẽ nổ tung lúc nào. Kinh nói là “ngũ trược ác thế”, thật đấy, chẳng giả! Nếu bản thân chúng ta có thể thật sự khế nhập cảnh giới Như Lai, sự động loạn ấy chẳng dính dáng ǵ đến ta! Chính ḿnh ở trong cảnh giới ấy vẫn là động tĩnh như nhau, chẳng hề dính dáng! Họ động, chúng ta bất động. Người bất động sẽ thấy rơ ràng, rành rẽ cảnh giới đang động. Tục ngữ thường nói “kẻ trong th́ quáng, người ngoài bèn sáng”. Kẻ bàng quan do chẳng có lợi hay có hại ǵ đối với họ, cho nên họ nh́n thấy rất rành rẽ. Hiện thời, thế giới này động loạn, v́ sao mọi người chẳng thấy rơ ràng? V́ tâm chính ḿnh đang bị động, chính ḿnh rất sợ chết, trong tâm có [nỗi sợ] sanh tử!

      Đoạn kinh văn này đă nói: “Động nhược hành vân, chỉ do cốc thần”, đó là bất sanh bất diệt. Dùng cái tâm bất sanh bất diệt để thấy cảnh giới được hiện bởi cái tâm sanh diệt trong thế gian này, [sẽ thấy] khác hẳn! Đó là chỗ  khác biệt, chúng ta phải học điều này, mong cầu đạt được. Học Phật nhập môn từ chỗ nào? Nhập môn từ tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh là “cốc thần”, tuyệt chẳng phải do niệm kinh điển bao nhiêu, nghiên cứu bao nhiêu, hoặc là phải biết cỡ nào! Chẳng phải do những điều ấy. Nói thật thà, tâm địa thanh tịnh đến tột bậc th́ mới có tư cách xem kinh, mới có tư cách đọc sách, mới có tư cách nh́n vào thế giới này, nh́n vào nhân sinh. V́ sao? Chính quư vị đă vượt thoát, đă thấy rơ ràng, rành rẽ, mới biết khi nào, nhà Phật thường nói là “thời tiết, nhân duyên”, đối với người nào th́ phải nên dùng phương pháp ǵ để giúp họ. Đó gọi là “quán cơ thí giáo” (xem xét thời cơ, để ban bố giáo pháp), giáo hóa chúng sanh, cơ cảm tương ứng.

      Nếu tâm chính ḿnh vẫn chưa thanh tịnh, càng đọc, tri kiến càng nhiều, quan sát xă hội càng nhiều, phiền năo càng lắm. Sách Phật pháp hay sách thế gian càng đọc nhiều, tà kiến càng nhiều. V́ sao người ấy chẳng thể biến thành đại thánh đại hiền? Do chẳng trừ bỏ phiền năo. Chẳng trừ bỏ phiền năo th́ trong Phật môn, quư vị nghiên cứu kinh luận ít sẽ tạo nghiệp cũng ít, chẳng có năng lực tạo nghiệp. Đọc kinh sách càng nhiều, tạo nghiệp cũng lớn! Quư vị có thể giảng, biết lắm thứ, đó là cái học do hỏi han ghi nhớ, hết sức rộng răi, có thể nói đến nỗi hoa trời rơi tán loạn, có thể lừa hết thảy chúng sanh, tạo tội nghiệp to đùng! Tăng trưởng vô lượng tà tri tà kiến, làm thế nào được nữa! Đó chẳng phải là hưng thịnh Phật pháp, mà là hủy diệt Phật pháp. Do vậy, cổ đức giáo học th́ trước hết là khởi sự bằng đoạn phiền năo. Trước hết, chẳng bảo quư vị đọc kinh, không cho phép quư vị xem kinh sách, chỉ là chỉ định một quyển bảo quư vị đọc tụng, chẳng giảng giải, [nhằm vào mục đích] định cái tâm! Tu tâm thanh tịnh. Đến khi tâm địa đă khá thanh tịnh, thầy chấp nhận, khi ấy, mới có thể nghiên cứu kinh điển, đọc rộng răi các kinh, mới có tư cách [làm chuyện đó]. Khi đó, quư vị biết càng nhiều càng hay. Quư vị có trí huệ, trong tương lai có thể giúp đỡ hết thảy chúng sanh, thành tựu vô lượng công đức. Tu học trong hiện thời, căn bệnh to lớn là điên đảo thứ tự. V́ thế, đoạn kinh văn này có ư nghĩa hết sức sâu xa!

 

      (Sớ) Cập kỳ nhân dân giả, xảo dụng đảo ngữ cố. Ngôn nhân dân giả, Phật như vương cố. A-tăng-kỳ, thử vân Vô Số, bội chi danh Vô Lượng, Vô Biên. Nhân thọ hữu nhị: Nhất Phật bổn nguyện lực cố, nhị tự công đức lực cố.

() 者,巧 故。言 者,佛 故。阿 祇,此 數,倍 邊。人 二:一 故,二 故。

(Sớ: “Cùng với nhân dân”: Khéo sử dụng đảo ngữ. Nói “nhân dân” là v́ Phật giống như vua. Cơi này dịch A-tăng-kỳ là Vô Số. Những bội số của nó là Vô Lượng và Vô Biên. Tuổi thọ của con người [trong cơi Cực Lạc] có hai [yếu tố]: Một là do bổn nguyện lực của Phật, hai là do sức công đức của chính ḿnh).

 

      Đoạn này nhằm giải thích câu kinh văn “cập kỳ nhân dân vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp”.

 

      (Sao) Đảo ngữ giả, chánh ngữ đương vân “Phật cập nhân dân, thọ mạng vô lượng”.

      () 者,正 民,壽 量。

      (Sao: “Đảo ngữ”: Nói thuận theo cú pháp th́ phải là “Phật và nhân dân, thọ mạng vô lượng”).

 

      Đây là nói theo ngữ pháp tiếng Hán, ngữ pháp tiếng Phạn có sai khác đôi chút. Họ nói là “bỉ Phật thọ mạng, cập kỳ nhân dân”, theo cách nói của người Hoa sẽ là “bỉ Phật cập kỳ nhân dân, thọ mạng vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp”, nói theo cách đó. Kinh văn nói đảo ngược, nên gọi là “đảo ngữ”.

      “Phật như vương cố” (do Phật giống như vua), văng sanh có nhân dân. Đây là tỷ dụ. Chư vị phải hiểu, Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có vua, mà cũng chẳng có nhân dân. V́ sao? Thế giới ấy b́nh đẳng. Người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có họ tên. Nhà cửa họ ở chẳng có tên đường, mà cũng chẳng có số nhà. Tây Phương Cực Lạc thế giới là một thế giới như vậy đó. H́nh dáng của mọi người lại đều giống hệt như nhau, hoàn cảnh sống đều giống nhau, thế giới b́nh đẳng mà! Chúng ta vừa nghe lời này, ắt sẽ kinh hăi, đến đó, Trương Tam hay Lư Tứ đều chẳng nhận biết, vị nào là Phật, vị nào là Bồ Tát, chúng ta cũng chẳng phân biệt rơ ràng! Kinh dạy: Sau khi đă đến bên đó, thần thông và đạo lực của chúng ta thảy đều khôi phục, chắc chắn chẳng nhận lầm bất cứ một ai. Quư vị vừa thấy người đó, không chỉ biết hiện thời người ấy là ai, mà chuyện trong đời đời kiếp kiếp quá khứ của người đó quư vị đều biết. Người trong thế giới Tây Phương trọn đủ sáu loại thần thông, gần như chẳng khác A Di Đà Phật cho mấy. Thiên Nhăn thấy thấu suốt, Thiên Nhĩ nghe thông suốt, Tha Tâm biết trọn khắp, trong t́nh h́nh ấy, chẳng cần đến danh tự! V́ thế, bên ấy chẳng có vua, mà cũng chẳng có nhân dân. Cách thuyết pháp bên ấy chắc chắn chẳng giống cách thuyết pháp ở nơi đây, v́ trong cơi này, phải dùng ngôn ngữ, phải dùng phân biệt, chấp trước để thuyết pháp, ở bên kia thảy đều chẳng cần, chẳng có những thứ ấy!

 

      (Sao) Như Ba La Mật, vân Bỉ Ngạn Đáo, đương thị Đáo Bỉ Ngạn nhĩ.

      () 密,云 到,當 耳。

(Sao: Như Ba La Mật, nghĩa là Bờ Kia Đến, [hiểu theo cách hành văn theo thứ tự thuận] phải là Đến Bờ Kia).

 

      Đây là nêu một thí dụ. Ngữ pháp tiếng Ấn Độ tương phản ngữ pháp tiếng Hán, như Ba La Mật (Pāramitā) là tiếng Phạn, dịch thẳng [từng chữ] sang tiếng Hán sẽ là Bỉ Ngạn Đáo, nhưng theo ngữ pháp tiếng Hán th́ phải là Đáo Bỉ Ngạn.

 

      (Sao) Dĩ ư hội chi, vô dĩ từ hại.

      () 之,無 害。

      (Sao: Phải hiểu theo ư nghĩa, chớ v́ từ mà hại ư).

 

      Dạy chúng ta phải hiểu ư nghĩa, chớ nên chấp trước danh tướng, chính là “y nghĩa, bất y ngữ” trong Tứ Y Pháp. Hiểu rơ ư nghĩa là được rồi!

 

      (Sao) Phật như vương giả.

      () 者。

      (Sao: “Phật như vua”).

     

      Đây là tỷ dụ.

 

      (Sao) Bỉ quốc tuy vô quân thần phụ tử.

      () 子。

      (Sao: Tuy cơi ấy chẳng có vua, tôi, cha, con).

 

      Phàm là đi văng sanh đều là liên hoa hóa sanh. Do đó, Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có quan hệ cha con, chẳng có quan hệ vua tôi.

 

      (Sao) Nhiên Phật vi pháp vương, hữu quân chủ nghĩa.

      () 王,有 義。

      (Sao: Nhưng Phật là pháp vương, nên có ư nghĩa quân chủ).

 

      Nhưng xác thực là có A Di Đà Phật ở trong thế giới ấy giáo hóa chúng sanh, địa vị của đức Phật là thầy. V́ thế, trong Tây Phương Cực Lạc thế giới có quan hệ thầy tṛ. Phật là thầy, hết thảy Bồ Tát đều là học tṛ.

 

      (Sao) Sanh bỉ quốc giả, y Phật, học Phật, hữu nhân dân nghĩa.

      () 者,依 佛,有 義。

      (Sao: Người sanh về cơi ấy nương theo Phật, học Phật, nên có ư nghĩa nhân dân).

 

      Dùng theo ư nghĩa này, có ư nghĩa này.

 

      (Sao) Phi như thử độ, bản tịch sở thống, thật biên manh dă.

      () 土,版 統,實 也。

      (Sao: Chẳng giống như cơi này, có sổ bộ, hộ tịch thống kê, biên chép dân chúng).

 

      Thế gian này là xă hội Ngũ Luân, thật sự có tổ chức, có sự thống hạt (cai quản, kiểm soát, quản chế). Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có chuyện ấy. [Chỉ có một mối quan hệ] là thầy tṛ. Nói thật ra là một trường học, thầy và học tṛ địa vị b́nh đẳng.

 

      (Sao) Tăng Kỳ giả nhập thập đại số chi thủ.     

      () 者,入 首。

      (Sao: Tăng Kỳ thuộc con số đầu tiên trong mười con số lớn).

 

      Những chữ số của Ấn Độ tính từ những số cơ bản là đơn vị, mười, trăm, ngàn, đại khái có một trăm năm mươi mấy chữ số. A Tăng Kỳ (Asaṅkhya) là số đầu tiên trong mười con số lớn cuối cùng[4].

 

      (Sao) Tùng bách Lạc Xoa, bội bội tích lũy nhi sanh.

      () 叉,倍 生。

      (Sao: Từ một trăm Lạc Xoa[5] tính gấp bội dần mà có những số đó).

 

      Cơ số của Ấn Độ được tính theo cách tăng gấp mười, nhưng đến những con số lớn chẳng tính theo cách tăng gấp mười, mà là bội số của chính nó nhân lên, nên những con số ấy hết sức to lớn.

 

      (Sao) Hựu Tăng Kỳ Tăng Kỳ vi nhất Vô Lượng.

     () 量。

      (Sao: Lại nữa, Tăng Kỳ lần Tăng Kỳ là một Vô Lượng).

 

      A-tăng-kỳ lần A-tăng-kỳ là một Vô Lượng.

 

      (Sao) Vô Lượng Vô Lượng vi nhất Vô Biên.

      () 邊。

      (Sao: Vô Lượng lần Vô Lượng là một Vô Biên).

 

      Vô Lượng lần Vô Lượng là một Vô Biên.

 

      (Sao) Kim hợp ngôn giả, tự hữu nhị nghĩa.

      () 者,自 義。

      (Sao: Nay nói gộp lại, là có hai ư nghĩa).

 

      Nay trong kinh văn nói là “vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp”, ở đây có hai ư nghĩa.

 

      (Sao) Nhất thị thật minh kỳ số, dĩ tăng kiếp kế chi, hữu vô lượng vô biên Tăng Kỳ dă.

      () 數,以 之,有 也。

      (Sao: Một là thật sự nói đến con số ấy, dùng A Tăng Kỳ kiếp để tính toán bèn có Vô Lượng Vô Biên Tăng Kỳ).

 

      Nói đến một con số thật sự.

 

      (Sao) Nhị thị cực tán kỳ đa, vô phục biên lượng, vô phục cùng tận chi Tăng Kỳ dă.

() 多,無 量,無 也。

(Sao: Hai là tán thán số ấy nhiều đến tột bậc, lại c̣n là chẳng có bờ mé, số lượng, chẳng có cùng tận A Tăng Kỳ vậy).

 

      Chúng ta đọc kinh Vô Lượng Thọ, biết trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, thọ mạng của Phật và chúng sanh dài lâu đương nhiên [phải hiểu] theo ư nghĩa thứ hai, tuyệt đối chẳng phải là ư nghĩa thứ nhất, v́ sao? Theo ư nghĩa thứ nhất, Vô Lượng Vô Biên A-tăng-kỳ kiếp có thể tính toán được. V́ thế, từ ngữ này (vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp) thật sự là từ ngữ h́nh dung, chẳng phải là một con số, v́ Đại Kinh đă nói rất rơ ràng: “Giả sử chúng sanh trong mười phương thế giới đều chứng đắc quả Bích Chi Phật, thần thông đều như Mục Kiền Liên, cùng nhau tính toán thọ mạng của A Di Đà Phật, trọn hết tuổi thọ của họ để tính toán, đều chẳng có cách nào tính toán được!” Vậy th́ đương nhiên chẳng phải là vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp [hiểu theo nghĩa một con số cụ thể]. Nếu thật sự là [một con số] vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp, một ḿnh tôn giả Mục Kiền Liên đă tính ra, cần ǵ phải có lắm người ngần ấy? V́ vậy, ư nghĩa thứ hai là chánh xác.

 

(Sao) Phật lực giả, Đại Bổn Pháp Tạng nguyện vân: “Ngă tác Phật thời, ngă sát trung nhân, thọ mạng giai vô ương số kiếp, vô hữu năng kế kỳ số giả”, thị thừa Phật nguyện lực, hữu thử thọ cố.

() 者,大 云:我 時,我 人,壽 劫,無 ,是 力,有 故。

(Sao: Phật lực: Trong kinh Đại Bổn, ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Khi tôi thành Phật, người trong cơi tôi thọ mạng đều là vô ương số kiếp, chẳng người nào có thể tính được số ấy”. Đó là nhờ vào nguyện lực của Phật mà có tuổi thọ ấy).

 

      Giải thích v́ sao người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới thọ mạng dài như thế. Trong lời Sớ, đă nêu ra hai nguyên nhân, thứ nhất là Phật lực, do sức bổn nguyện của Phật gia tŕ. V́ Phật đă từng phát ra bốn mươi tám nguyện. Nếu người sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có thọ mạng dài như thế, đức Phật đă trái nghịch bổn nguyện, chẳng thể thành Phật. V́ lẽ đó, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, nhất định là thọ mạng dài lâu như đức Phật đă phát nguyện. Đây là nêu nguyên văn trong bốn mươi tám nguyện để nói. Pháp Tạng là tiền thân của A Di Đà Phật, Pháp Tạng chính là pháp danh của A Di Đà Phật khi Ngài c̣n tu nhân. “Ngă tác Phật thời” (khi ta thành Phật), nay Ngài đă thành Phật, kinh Đại Bổn và Tiểu Bổn đều nói rất rơ ràng, Ngài thành Phật trong Tây Phương Cực Lạc thế giới đến nay đă là mười kiếp. “Ngă sát trung nhân” (người trong cơi ta), [tức là] người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, “thọ mạng giai vô ương số kiếp” (thọ mạng đều là vô ương số kiếp), Vô Ương[6] là một con số lớn, “vô hữu năng kế kỳ số giả” nghĩa là chẳng có ai có thể tính toán con số ấy, đó là “thừa Phật nguyện lực” (nương vào nguyện lực của Phật), nên người văng sanh có thọ mạng dài như vậy, thọ mạng giống như Phật. Nguyên nhân thứ hai là:

 

      (Sao) Tự lực giả.

     ()

      (Sao: Sức của chính ḿnh).

 

      Là sức công đức của chính ḿnh, cũng chớ nên coi nhẹ!

 

      (Sao) Nhất tâm niệm Phật, tâm thanh tịnh cố.

      () 佛,心 故。

      (Sao: Do nhất tâm niệm Phật, nên tâm thanh tịnh).

 

      Hai câu này nói đến tự lực, hai câu này hết sức quan trọng. V́ sao? Chẳng có tự lực, Phật lực chẳng thể gia tŕ được! Do vậy có thể biết, chúng ta tu học pháp môn này, quan trọng nhất là nhất tâm niệm Phật, niệm cho đạt đến tâm thanh tịnh. Tâm c̣n có thị phi, nhân ngă, c̣n có tham, sân, si, mạn, tâm ấy chẳng thanh tịnh. Xưa kia, các vị đại đức đă nói: Nếu muốn nhập Phật môn, phải thấy thấu suốt, phải buông xuống. Thấy thấu suốt là giác ngộ, buông xuống là công phu. Nay v́ sao tâm chúng ta chẳng thanh tịnh? Không buông xuống được! V́ sao không buông xuống được? Chẳng thấy thấu suốt! Những ǵ đức Phật dạy, chúng ta đều có thể ghi nhớ, chính ḿnh cũng có thể nói “phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”. Đều là hư vọng, v́ sao quư vị không buông xuống? V́ sao phải chấp trước tướng hư vọng ấy? Chấp trước những tướng hư vọng ấy sẽ tạo vô biên tội nghiệp, phải tạo tác lục đạo luân hồi, vẫn phải tạo nghiệp, chịu báo trong ấy, chẳng thể nào giải quyết xong, khổ chẳng thể nói! V    ́ thế, Phật, Bồ Tát, tổ sư đại đức rát miệng buốt ḷng khuyên dạy chúng ta: “Phải thấy thấu suốt, phải buông xuống!” Nếu những hiện tướng là thật, mà Phật, Bồ Tát dạy chúng ta “thấy thấu suốt, buông xuống” th́ trật mất rồi! Do tất cả hết thảy huyễn tướng đều là giả, chẳng có ǵ là thật, nên bảo quư vị thấy thấu suốt và buông xuống là tuyệt đối chánh xác. Chỉ cần quư vị có thể thấy thấu suốt, buông xuống, mới đắc đại tự tại trong hết thảy cảnh giới. V́ lẽ đó, tâm thanh tịnh trọng yếu hơn bất cứ ǵ khác.

      Sở dĩ pháp môn này thù thắng, có thể vượt trỗi hết thảy các pháp môn, là do nó đơn giản, dễ dàng, ổn thỏa, thích đáng, tức là nhất tâm niệm Phật, trong tâm chỉ có ḿnh A Di Đà Phật. Trừ A Di Đà Phật ra, thứ ǵ cũng chẳng có. Giống như Liên Tŕ đại sư đă nói: “Tam Tạng mười hai bộ để dạy người khác ngộ”, tuyệt đối chẳng phải để dạy chính ḿnh. Dạy chính ḿnh th́ một câu Nam-mô A Di Đà Phật cũng đủ rồi, ngay cả kinh Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ đều là quá thừa, huống ǵ những thứ khác! C̣n cần đến những kinh điển ấy v́ chúng là công cụ để tiếp dẫn chúng sanh, tuyệt đối chẳng phải là để chính ḿnh thọ dụng, mà nhằm dành cho người khác thọ dụng. Quư vị có thể hiểu rơ giới tuyến ở chỗ này, sẽ không trở ngại sự. Hóa độ người khác, chẳng trở ngại tâm chính ḿnh thanh tịnh; tự tâm thanh tịnh cũng chẳng trở ngại giảng kinh, thuyết pháp, giáo hóa chúng sanh, vô ngại! Lư Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại, nhất định phải hiểu rơ ràng. Nhưng đối với tự lợi, lợi tha, nhất định lấy tự lợi làm chủ, [bởi lẽ] chính ḿnh chẳng thật sự đạt được lợi ích, sẽ chẳng thể lợi tha. Lợi tha th́ phải tự lợi trước. Tự lợi được nói như thế nào? Chính ḿnh phải đạt được cái tâm thanh tịnh trước đă, đó là tự lợi.

 

      (Sao) Liên hoa hóa sanh, thanh hư chi thân, bất đồng chất ngại nhục thân, hữu lăo bệnh tử. Thị tự tinh tấn lực, hữu thử thọ cố.

() 生,清 身,不 身,有 死,是 力,有 故。

(Sao: “Liên hoa hóa sanh”: Cái thân thanh hư, chẳng giống như nhục thân vật chất ngăn ngại, có già, bệnh, chết. Đó là do sức tinh tấn của chính ḿnh mà có thọ lượng ấy).

 

      Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới là “liên hoa hóa sanh”. Nói cách khác, thân thể chẳng giống thân thể loài người chúng ta trong thế giới này! Nếu nói là khác nhau, th́ vẫn rất khó nói, v́ sao? Nói theo lư luận th́ như nhau, chẳng khác ǵ cả! Các nhà khoa học đă phân tích thân thể này, tách thành nguyên tử, điện tử, hạt cơ bản. Hoa sen phân tích ra cũng là những thứ đó, há có khác ǵ? Hết thảy vạn pháp, pháp thế gian và xuất thế gian phân tích đến cuối cùng, vật chất cơ bản đều như nhau. Nếu nói là khác nhau th́ là do sự tổ hợp khác nhau, công thức cấu tạo khác nhau. Rốt cuộc là do ai sắp đặt? Ai tổ hợp chúng? Thưa cùng chư vị, người sắp đặt và tổ hợp chẳng phải là A Di Đà Phật, chẳng phải là Phật, Bồ Tát. Nếu Phật, Bồ Tát có năng lực tổ hợp, sắp đặt, chúng ta c̣n phải tu chi nữa! Các Ngài giúp chúng ta tổ hợp là được rồi! Hiện thời nói là “biến đổi thể chất”. Nếu Phật, Bồ Tát có năng lực giúp chúng ta biến đổi thể chất, các Ngài đại từ đại bi đều giúp chúng ta biến đổi, chúng ta chẳng cần tu hành! Chư vị nhất định phải biết, trong sự tổ hợp, sắp xếp ấy, ai làm chủ tể? Ư niệm làm chủ tể, niệm lực chẳng thể nghĩ bàn! Trong kinh Phật thường nói: “Tâm, Phật, chúng sanh, ba thứ chẳng sai biệt”. Bản năng của tâm, năng lực của Phật, và năng lực nghiệp duyên của chúng sanh, ba sức mạnh ấy đều chẳng thể nghĩ bàn!

      Thân người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới do tâm thanh tịnh tổ hợp, tâm thanh tịnh tạo thành công thức cấu tạo, chúng ta gọi [thân tâm ấy] là Vô Lậu Ngũ Ấm. Ngũ Ấm như nhau, Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, nhưng chúng là vô lậu. Vô lậu là tâm thanh tịnh, hữu lậu là tâm phiền năo. Chúng ta do tâm phiền năo sắp đặt, tổ hợp, nên biến thành hữu lậu Ngũ Ấm, khác hẳn, bất đồng ở chỗ này. “Liên hoa hóa sanh, thanh hư chi thân”, do tâm thanh tịnh sắp đặt, tổ hợp; lại c̣n được Phật lực gia tŕ, nên thân của họ là thân Kim Cang bất hoại. “Thanh hư chi thân, vô cực chi thể” (thân thanh hư, thể vô cực), do đó, thọ mạng dài lâu, chẳng có già, bệnh, chết! Trong thế gian này, chúng ta là thân hữu lậu Ngũ Uẩn. Hữu lậu là do tâm phiền năo sắp đặt, tổ hợp thể chất, nên có chướng ngại. V́ thế, có già, có bệnh, có chết.

      Thân người trong thế giới Tây Phương và thân người chúng ta khác nhau, điều này đáng để chúng ta chú ư. Ví như vàng y và chén trà, vật chất cơ bản hoàn toàn như nhau, nhưng công thức cấu tạo khác nhau, một đằng là có thể ǵn giữ lâu dài, một đằng chẳng thể ǵn giữ lâu dài. Ai sắp xếp? Do tâm niệm sắp xếp. Trong tâm chẳng có vọng niệm, sắp xếp, sẽ hoàn toàn phù hợp tự nhiên, tự nhiên là bất sanh bất diệt. Do khởi tâm động niệm sắp xếp, sẽ chẳng thể thuận theo tự nhiên, bèn trở thành hữu sanh, hữu diệt. Hiện thời đạo lư này đă được khoa học chứng thực. V́ thế, chúng ta mong trường thọ, mong được trẻ trung măi măi, quư vị phải biết then chốt ở chỗ nào? Then chốt là tâm thanh tịnh. Tuyệt đối chẳng phải do thuốc men, chẳng do cầu thần, cầu quỷ, chẳng do sửa sắc đẹp mà có thể đạt được, mà là do trong tâm của chính quư vị biến đổi thể chất của chính ḿnh. Hiện thời có người đề ra uống thuốc ǵ, dùng phương pháp ǵ đó để biến đổi, toàn là gạt người! Đó là trị đằng ngọn, chẳng phải là trị tận gốc. Quan trọng nhất để có thể biến đổi thể chất là tâm niệm. Hiểu đạo lư này, chúng ta mới chẳng bị kẻ khác lường gạt!

      “Thị tự tinh tấn lực” (do sức tinh tấn của chính ḿnh), Tinh () là thuần chứ chẳng tạp. Nhất tâm là Tinh, niệm niệm tiếp nối là Tấn (). Nay chúng ta có sức tinh tấn, thọ mạng trong thế gian hiện thời cũng có thể lâu dài, cũng chẳng phải là hạn lượng cố định, mà có thể vượt khỏi hạn lượng đă định sẵn. Nếu bản thân chúng ta chẳng biết tu học, xác thực là thọ mạng có hạn lượng nhất định. Như trong Liễu Phàm Tứ Huấn đă nói, thọ mạng có [hạn lượng] nhất định. Thọ mạng kéo dài hay rút ngắn do sự tu học của chính quư vị. Quư vị tu tốt đẹp, sẽ chẳng phải là hạn lượng cố định, thọ mạng có thể kéo dài. Quư vị tạo nên oan nghiệt, tạo tội quá nhiều, vốn là trường thọ mà thọ mạng có thể bị rút ngắn. Do đó, tuy có thọ mạng, nó cũng chẳng là một con số nhất định, dài hay ngắn vẫn là do duyên, tùy thuộc bản thân chúng ta thực hiện như thế nào. Trong đoạn kế tiếp, đại sư đă giả lập một đoạn vấn đáp:

 

      (Sớ) Vấn vân: Thử vô lượng diệc khả tức vô lượng chi vô lượng giả, hoàn hữu chứng phủ?

      () 云:此 者,還 否?

      (Sớ: Hỏi: “Vô lượng” ở đây cũng có thể hiểu là vô lượng trong vô lượng, c̣n có chứng cớ ǵ chăng?)

 

      Kinh nói là “vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp”, ở đây, Liên Tŕ đại sư nêu ra hai ư nghĩa: Một là hữu lượng vô lượng, hai là vô lượng vô lượng. Chúng ta chọn thuyết sau. Chọn thuyết sau do ư nghĩa viên măn, nhưng có những kẻ sẽ hoài nghi: “Quư vị nói kiểu ấy có căn cứ hay không?” Kinh Vô Lượng Thọ là căn cứ, chúng ta thật sự niệm kinh Vô Lượng Thọ rất thuần thục, nên chẳng thấy có vấn đề ǵ! Ở đây là giả thiết, thời Liên Tŕ đại sư, kinh Vô Lượng Thọ lưu thông chẳng rộng. Người tu Tịnh Độ quá nửa thọ tŕ kinh A Di Đà, người niệm kinh Vô Lượng Thọ chẳng có mấy ai, nhưng người niệm kinh Hoa Nghiêm đông đảo, nên lăo nhân gia chỗ nào gặp phải khó khăn đều dẫn kinh Hoa Nghiêm để chứng minh, giải thích.

 

      (Sớ) Đáp: Lệ như Hoa Nghiêm trung thuyết.

      () 答:例 說。

      (Sớ: Đáp: Theo như trong kinh Hoa Nghiêm có nói).

 

       Kinh Hoa Nghiêm nói ǵ? Trong phần chú giải, lăo nhân gia đă nêu cặn kẽ:

 

(Sao) Thượng dẫn Quán Sớ vân: “Thử vô lượng thị hữu lượng chi vô lượng, nhi ngôn diệc khả tức vô lượng chi vô lượng giả”, dĩ kim văn chánh tự Hoa Nghiêm cố.

() 云:此 量,而 者,以 故。

      (Sao: Trong phần trước đă trích dẫn Quán Kinh Sớ: “Vô lượng ở đây là vô lượng trong hữu lượng, mà cũng có thể nói là vô lượng trong vô lượng”, nay phần kinh văn này giống như kinh Hoa Nghiêm).

 

      “Hữu lượng chi vô lượng” là căn cứ theo kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, là điều được nói trong Thập Lục Quán Kinh. Nói nó là vô lượng trong vô lượng, tức là nói theo kinh Vô Lượng Thọ. Trong các kinh Hoa Nghiêm và Pháp Hoa cũng có nói. Cổ đức gọi kinh Vô Lượng Thọ là Trung Bổn Hoa Nghiêm, gọi kinh A Di Đà là Tiểu Bổn Hoa Nghiêm, nói thật ra là có lư, v́ sao? Ư nghĩa hết sức giống kinh Hoa Nghiêm. Ở đây, Ngài bèn trích dẫn:

 

      (Sao) Bỉ kinh Thập Hồi Hướng văn vân: “Vô lượng A-tăng-kỳ”. Thích vân: “Thử phi số trung chi nhất, đản thị vô số chi ngôn. Nhược định thị số, tiện đương cục hạn”.

() 云,無 祇,釋 云:此 一,但 言,若 數,便 限。

(Sao: Trong phần kinh văn giảng về Thập Hồi Hướng có nói: “Vô lượng A-tăng-kỳ”. [Ngài Thanh Lương] giải thích: “Đây chẳng phải là một con số, chỉ là do không thể tính đếm bèn nói như vậy. Nếu nhất định coi nó là một con số, sẽ trở thành có giới hạn”).

       

Chú giải phẩm Thập Hồi Hướng của kinh Hoa Nghiêm, Thanh Lương đại sư đă nói theo kiểu này.

 

      (Sao) Kim kinh diệc vân “vô lượng vô biên A-tăng-kỳ”.

      () 祇。

      (Sao: Nay kinh này cũng nói “vô lượng vô biên A-tăng-kỳ”).

 

      Rất giống câu “vô lượng A-tăng-kỳ kiếp” được nói trong kinh Hoa Nghiêm. Nếu “vô lượng A-tăng-kỳ kiếp” trong kinh Hoa Nghiêm đă được Thanh Lương đại sư giải thích chẳng phải là một con số, mà là một từ ngữ để h́nh dung, đương nhiên ở đây cũng có thể giải thích [vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp] chẳng phải là một con số, mà là từ ngữ để h́nh dung, nhằm h́nh dung thời gian lâu dài tột bậc! Nói theo ư nghĩa trong Hoa Nghiêm, đây chẳng phải là một con số hạn cuộc!

 

      (Sao) Nhị kinh văn thế, ư cực tương loại.

      () 勢,意 類。

      (Sao: Ngữ mạch của lời văn trong hai kinh có ư nghĩa hết sức giống nhau).

 

      Câu kinh Hoa Nghiêm và câu văn trong kinh này hết sức tương tự.

 

      (Sao) Cố ngôn bỉ Phật thọ mạng, diệc khả tức thị cánh vô hạn lượng chi vô lượng dă.

      () 命,亦 也。

      (Sao: Nên nói “thọ mạng của đức Phật ấy cũng có thể hiểu là vô lượng theo nghĩa chẳng có hạn lượng”).

 

      Chúng ta dùng lời nguyện trong phần bốn mươi tám nguyện của kinh Vô Lượng Thọ và lời khai thị của đức Thế Tôn th́ đều có thể chứng minh lời giải thích của Liên Tŕ đại sư là chánh xác.

 

      (Sao) Vấn: Hoa Nghiêm Thọ Lượng phẩm, vị Sa Bà thế giới nhất kiếp vi Cực Lạc thế giới nhất trú dạ. Cực Lạc thế giới nhất kiếp vi Ca Sa Tràng thế giới nhất trú dạ, triển chuyển kiếp nhật tương đối, năi chí bách vạn A-tăng-kỳ thế giới, cực ư Thắng Liên Hoa, tắc Cực Lạc cẩn thắng Sa Bà, liệt hậu thù thậm, an đắc vi cánh vô hạn lượng chi vô lượng hồ?

      () 問:華 品,謂 劫,為 夜,極 劫,為 夜,輾 對,乃 界,極 華,則 婆,劣 甚,安 乎。

       (Sao: Hỏi: Phẩm Thọ Lượng trong kinh Hoa Nghiêm nói một kiếp trong thế giới Sa Bà là một ngày đêm trong thế giới Cực Lạc. Một kiếp trong thế giới Cực Lạc là một ngày đêm trong thế giới Ca Sa Tràng. Lần lượt so sánh giữa kiếp và ngày như vậy, cho đến trăm vạn A-tăng-kỳ thế giới, tột bậc là thế giới Thắng Liên Hoa. Như vậy th́ Cực Lạc chỉ trỗi hơn Sa Bà, thua kém quá mức, lẽ nào là vô lượng theo ư nghĩa chẳng có số lượng cho được?)

 

      Lời hỏi này hay lắm! Kinh Hoa Nghiêm thật sự có một đoạn kinh văn như vậy. V́ thế, quư vị niệm kinh Hoa Nghiêm đến đoạn này, [ắt sẽ nghĩ] thế giới Cực Lạc trọn chẳng có ǵ là tuyệt diệu, bất quá tốt đẹp hơn thế giới Sa Bà một chút, c̣n kém xa những thế giới ở phương khác! Gặp phải câu hỏi này, làm như thế nào đây? Vẫn phải dùng giáo nghĩa Hoa Nghiêm để giải thích:

 

      (Sao) Đáp: Bỉ sao thích vân, tam thân kư dung, tam thọ vô ngại.

      () 答:彼 云,三 融,三 礙。

      (Sao: Đáp: Trong lời Sao cho kinh ấy, [ngài Thanh Lương] đă giải thích: “Ba thân đă dung thông th́ ba loại thọ mạng chẳng ngăn ngại”).

 

       Lời Sớ và Sao của kinh Hoa Nghiêm đều do Thanh Lương đại sư soạn. Thanh Lương đại sư đă v́ chúng ta giải thích vấn đề này, Ngài nói rất hay: “Tam thân kư dung” (ba thân đă dung thông), ba thân là Pháp Thân, Báo Thân, và Ứng Thân. Kinh Hoa Nghiêm nói ba thân th́ một chính là ba, ba chính là một. Nói thật ra, nhục thân hiện tại của chúng ta xác thực là tương dung, tương tức cùng hư không pháp giới. Nếu chẳng dung thông, làm sao mắt chúng ta có thể thấy được? Nếu nói thân chỉ có to đôi chút như thế, v́ sao mắt quư vị có thể nh́n xa ngần ấy? Mắt quư vị có thể nh́n thấy là v́ thân lượng đạt tới. Phạm vi tai có thể nghe cũng là do thân lượng đạt đến. Nhưng nay chúng ta mê mất tự tánh, năng lực của sáu căn rất hữu hạn. Thật sự giác ngộ, sẽ giống như kinh Lăng Nghiêm nói “sáu căn dùng lẫn cho nhau”. Kinh Vô Lượng Thọ nói Thiên Nhăn thấy thấu suốt, tận hư không khắp pháp giới đều có thể thấy rơ ràng. Chúng ta ngồi ở nơi đây, bất động, thấy Tây Phương Cực Lạc thế giới giống như ở ngay trước mặt. Thân của chúng ta há chẳng phải là hợp làm một với toàn thể hư không pháp giới? Đó là Pháp Thân và nhục thân của chúng ta dung thông, to như nhau, chẳng có lớn hay nhỏ! Khi ấy, mới giống như kinh Hoa Nghiêm đă nói: “Phá một vi trần, lấy ra quyển kinh to bằng đại thiên thế giới”, hoặc “ngồi trong vi trần, chuyển đại pháp luân”, là cảnh giới ấy. Nói thật ra, cảnh giới này ở ngay trước mắt chúng ta, nhưng chúng ta tự ḿnh mê muội, bất giác, chính ḿnh ràng buộc chính ḿnh! Do tâm lượng của chúng ta nhỏ nhoi như thế, nên thân nhỏ nhoi ngần ấy, chính ḿnh đă hạn cuộc chính ḿnh!

      Phải biết: Ba thân của Phật dung thông lẫn nhau, mà ba thân của chúng ta vẫn dung thông. Tuyệt đối chẳng phải là đến khi thành Phật th́ ba thân mới dung thông, chẳng phải vậy. Hết thảy chư Phật lúc thành Phật, chẳng tăng, chẳng giảm. Thành Phật chẳng hề tăng thêm chút nào, mà tại địa vị phàm phu, chẳng hề giảm bớt chút nào, chỉ là giác và mê khác biệt! Phật là giác ngộ, đă phát sanh sự giác ngộ: Thân tâm và pháp giới xác thực hợp thành một. Khi mê, chẳng biết chính ḿnh và pháp giới hợp nhất. Thật ra, [vẫn là] hợp thành một, khi mê bèn bất giác, khi giác sẽ không mê, then chốt ở ngay chỗ này. Nếu ba thân dung thông, ba thọ liền vô ngại. Chúng ta nói vô lượng trong vô lượng, tức là Pháp Thân thọ. Nói vô lượng trong hữu lượng th́ là Ứng Thân thọ. Nói kiểu nào cũng đều suông, đều chẳng bị chướng ngại.

 

      (Sao) Tức trường năng đoản, tức đoản hằng trường, vô trường, vô đoản, trường đoản tồn yên!

      () 短,即 長,無 短,長 焉。

      (Sao: Tức là dài mà có thể rút ngắn, chính là ngắn mà luôn dài, chẳng dài, chẳng ngắn, dài ngắn cùng tồn tại vậy).

 

      Nói dài hay ngắn là do phàm phu phân biệt, chấp trước. Chư vị hăy suy nghĩ: Nếu thật sự niệm Phật đến nhất tâm bất loạn, nhất tâm là chẳng có vọng tưởng. Chẳng có vọng tưởng th́ lấy đâu ra dài hay ngắn? Nói dài là vọng tưởng; nói ngắn, vẫn là vọng tưởng, đều biến thành vọng tưởng. Chỉ cần đạt đến nhất tâm, tâm thanh tịnh hiện tiền, dài lẫn ngắn đều chẳng có. Khi đạt đến nhất tâm bất loạn, mới bảo quư vị: Các vị xem Tam Tạng mười hai bộ, nghe Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết pháp cho chúng sanh, quư vị ở bên cạnh nghe, [sẽ thấy] Thích Ca Mâu Ni Phật đang gạt gẫm trẻ nít, dỗ dành trẻ nít! Sẽ cảm thấy quả thật Ngài đang dỗ dành trẻ nhỏ, lá vàng dỗ trẻ thôi khóc! Hết thảy các pháp đă nói đều chẳng có thật nghĩa! Có ư nghĩa thật sự hay không? Chẳng có. V́ sao? Ư nghĩa thật sự chẳng thể nói được! Ư nghĩa thật sự chẳng thể suy tưởng được. Ư nghĩa thật sự là “ngôn ngữ dứt bặt, tâm hành xứ diệt”. Đức Phật nói lời thật cùng chúng ta: Phàm những ǵ được nói ra đều chẳng có thật nghĩa. Chính quư vị phải ngộ thật nghĩa, chẳng thể diễn tả được. Thật nghĩa thật sự có, vô lượng vô biên, là chân thật, chẳng thể nói được, mà cũng chẳng thể tưởng tượng. Khi nào tâm quư vị thanh tịnh, Thật Tướng ở ngay trước mặt. Quư vị có thể thấu hiểu thật nghĩa, sẽ có thể thấy Thật Tướng, quư vị bèn thành Phật, tối thiểu cũng là Viên Giáo Sơ Trụ Bồ Tát trở lên, thuộc địa vị Phần Chứng Phật. Đó là điều đức Phật kỳ vọng nơi chúng ta. Chúng ta cứ khăng khăng t́m ṭi trong ngôn ngữ, kinh điển, đó là chuyện rất oan uổng. Đấy gọi là “y theo kinh văn để hiểu nghĩa, ba đời Phật đều oan uổng”. Ba đời chư Phật, quá khứ, hiện tại, vị lai, hết thảy chư Phật đều kêu oan uổng! Coi chuyện dỗ dành trẻ nít là chân thật, oan uổng quá! V́ lẽ đó, thọ mạng dài hay ngắn tự tại chính là thuận theo niệm mà hiện tướng.

 

      (Sao) Nhất nhất viên dung, ngôn tư tư tuyệt.

      () 融,言 絕。

      (Sao: Mỗi mỗi đều viên dung, ngôn ngữ lẫn tư duy đều dứt bặt).

 

Đây là nói chân thật cùng quư vị. “Nhất nhất viên dung” là pháp nào cũng đều viên dung, chẳng có một pháp nào không viên dung. V́ thế, pháp giới là Nhất Chân pháp giới. Mê th́ gọi là mười pháp giới, “mười” chẳng phải là một con số cố định, mà nhằm biểu thị sự vô lượng. Mê, Nhất Chân bèn biến thành vô lượng pháp giới; ngộ, vô lượng pháp giới là Nhất Chân pháp giới. Một là thật, hai là vọng, chẳng thật. Một th́ chứng từ nơi đâu? Tâm! Nhất tâm là chân, nhị tâm là hư vọng. Chúng ta dùng nhất tâm, tận hư không khắp pháp giới sẽ là chân thật. Chúng ta dùng nhị tâm, thảy đều là hư vọng, quư vị quyết định chẳng thấy chân thật. Nay tâm chúng ta không chỉ là nhị tâm, chẳng biết là có bao nhiêu tâm, làm sao quư vị có thể thấy Nhất Chân pháp giới?

 

      (Sao) Kỳ nghĩa tự minh, bất lao cánh biện.

      () 明,不 辯。

      (Sao: Nghĩa này tự rơ, chẳng cần nhọc sức biện định).

 

      Liễu giải ư nghĩa này, chẳng cần biện luận nữa!

 

      (Diễn) Tức trường năng đoản, tức Báo tức Ứng dă.

      () 短,即 也。

      (Diễn: Tức là dài mà có thể rút ngắn, Báo Thân chính là Ứng Thân).

 

      Nói đến Báo Thân và Ứng Thân.

 

      (Diễn) Tức đoản hằng trường, tức Ứng tức Báo dă.

      () 長,即 也。

      (Diễn: Chính là ngắn mà luôn dài, Ứng Thân chính là Báo Thân vậy).

 

      Ứng Thân là Báo Thân, Ứng Thân ngắn ngủi, Báo Thân dài. Ứng Thân và Báo Thân là một, đương nhiên dài ngắn đều tự tại.

 

      (Diễn) Vô trường, vô đoản, Báo, Ứng tức Pháp dă.

      () 短,報 也。

      (Diễn: Chẳng dài, chẳng ngắn, Báo Thân và Ứng Thân chính là Pháp Thân).

 

      Báo Thân và Ứng Thân đều do Pháp Thân biến hiện.

 

      (Diễn) Trường đoản tồn yên, Pháp tức Báo Ứng dă.

      () 焉,法 也。

      (Diễn: Dài ngắn cùng tồn tại th́ Pháp Thân chính là Báo Thân và Ứng Thân).

 

      Pháp Thân là Báo Thân và Ứng Thân, tuy một mà ba, tuy ba mà một.

 

      (Diễn) Nhất nhất viên dung, ngôn tư tư tuyệt giả, tức trường năng đoản, bất khả dĩ Báo ngôn.

      () 融,言 者,即 短,不 言。

      (Diễn: Mỗi mỗi viên dung, ngôn ngữ lẫn tư duy đều dứt bặt: Chính là dài mà có thể rút ngắn th́ chẳng thể nói là Báo Thân).

 

      “Bất khả dĩ Báo ngôn” nghĩa là chẳng thể chấp trước có Báo Thân. Nói là Báo Thân, Pháp Thân hay Ứng Thân đều là “thuận theo tâm chúng sanh, ứng với sự nhận biết của họ”. Trong tâm Phật thanh tịnh, chẳng có ba chữ ấy. Nếu trong tâm Phật c̣n có Pháp Thân, Báo Thân, và Ứng Thân, tâm Phật bị nhiễm bẩn. Lục Tổ nói “vốn chẳng có một vật”, Ngài chẳng có một vật như thế nào? Ngài c̣n có Báo Thân, c̣n có Pháp Thân th́ sẽ có chẳng ít vật trong ấy. Vốn chẳng có một vật là tâm thanh tịnh! Tuy nói với quư vị nhiều ngần ấy, một câu đức Phật cũng chẳng nói! Tâm Phật vĩnh viễn thanh tịnh, Ngài nói là thuận theo ư niệm của chúng sanh mà nói, chẳng phải là theo phía Ngài, [thuận theo phía Ngài], Ngài sẽ chẳng nói chi hết! Thuận theo chúng sanh bèn có nói, tùy thuận chính ḿnh, chẳng nói! “Nói mà chẳng nói”, đối với người khác bèn có nói, chính ḿnh chẳng nói, “chẳng nói mà nói”. Ư nghĩa này sâu xa, chúng ta làm sao hiểu được? Chúng ta tưởng Phật giống như chúng ta, nói là có nói, không nói là không nói, há có biết Phật, Bồ Tát hoàn toàn khác chúng ta.

      Chúng ta phải học chỗ này, cũng phải học “nói mà không nói, không nói mà nói”, đó là tu hành, cho đến thân thể chúng ta “làm mà không làm, không làm mà làm”, khi ăn cơm bèn “ăn mà chẳng ăn, chẳng ăn mà ăn”. Trong cuộc sống, mặc quần áo, ăn cơm, xử sự, đăi người, tiếp vật, chẳng có chuyện ǵ không phải là tu hành. Trong kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử tham học năm mươi ba lần là tu như thế đó, đó gọi là “trải qua sự việc để luyện tâm”. Trải qua sự việc là Hữu, luyện tâm, tâm thanh tịnh, bất luận chuyện ǵ đều chẳng ĺa tâm thanh tịnh. Trong hết thảy sự, rèn luyện tâm càng thanh tịnh, người ấy bèn thành tựu. Nhất tâm bất loạn, tu từ chỗ nào? Thành tựu từ năm mươi ba lần tham học. Ĺa khỏi hết thảy cảnh duyên, làm sao quư vị biết chính ḿnh đă đắc nhất tâm bất loạn? Chẳng trải qua khảo nghiệm! [Tu luyện trong ấy] bèn gọi là công phu chân chánh, hy vọng mọi người phải lưu ư, ư nghĩa này hết sức sâu xa!

 

      (Diễn) Tức đoản hằng trường, bất khả dĩ Ứng ngôn, năi chí trường đoản tồn yên, bất khả dĩ Pháp ngôn. Dĩ ngôn lệ tư, diệc phục như thị.

      () 長,不 言,乃 焉,不 言,以 思,亦 是。

      (Diễn: Chính là ngắn mà luôn dài, chẳng thể nói là Ứng Thân. Cho đến dài và ngắn cùng tồn tại, chẳng thể nói là Pháp Thân. Dựa theo cách giải thích về “nói năng” mà có thể suy ra ư nghĩa của Tư (suy nghĩ) cũng giống như thế).

 

      Chỗ này dễ hiểu. Đoạn này đă giới thiệu thọ mạng xong, phần tiếp theo lại nói về quang minh, v́ Ngài là vô lượng thọ, vô lượng quang. Hôm nay chúng tôi giảng tới chỗ này!

 Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa

Phần 96 hết

 

 



[1] Câu này hơi khó hiểu, nên chúng tôi mạn phép ghi thêm như sau: Ḥa Thượng có ư nói, nếu nói đến Báo Thân và Ứng Thân th́ mới có khái niệm thọ lượng, v́ chúng c̣n thuộc trong ṿng ngôn ngữ và suy lường. Nếu nói về Pháp Thân th́ không thể nào nói đến thọ hay chẳng thọ, v́ nói kiểu nào cũng rơi vào đối đăi nhị biên; bởi lẽ, Pháp Thân là Lư Thể, là Chân Như. Lư Thể Chân Như đă vượt ngoài suy lường, ngôn ngữ.

[2] Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Thọ Kư (do ngài Đàm Vô Kiệt dịch sang chữ Hán) và Phật Thuyết Như Huyễn Tam Ma Địa Vô Lượng Ấn Pháp Môn (do ngài Thi Hộ dịch).

[3] Khái niệm tiên thiên và hậu thiên khá phức tạp, nhưng có thể tạm hiểu thô thiển như sau: Tiên Thiên là bẩm sanh, là những ǵ được thừa hưởng từ cha mẹ, h́nh thành từ ngay lúc thụ thai cho đến khi lọt ḷng, c̣n Hậu Thiên là những ǵ do nuôi nấng, chăm sóc, bồi bổ, huấn luyện, giáo dục, cũng như do sự tự rèn luyện hoặc tàn phá thân thể của chính cá nhân.

[4] Mười con số lớn cuối cùng là 1) A Tăng Kỳ, 2) Vô Lượng, 3) Vô Biên, 4) Vô Đẳng, 5) Bất Khả Số, 6) Bất Khả Xưng, 7) Bất Khả Tư, 8) Bất Khả Lượng, 9) Bất Khả Thuyết, 10) Bất Khả Thuyết Bất Khả Thuyết.

[5] Lạc Xoa (Lakṣá) là một trăm ngàn.

[6] Vô Ương là dịch nghĩa của chữ A Tăng Kỳ. Ở đây, xin chú ư là Ḥa Thượng không nói thẳng là A Tăng Kỳ (v́ A Tăng Kỳ tuy lớn, vẫn là hữu hạn. Một A Tăng Kỳ là mười lũy thừa 140, tức là sau số một có một trăm bốn mươi con số không, tuy lớn, vẫn là tính đếm được). Vô Ương được dùng theo nghĩa phiếm chỉ là không có hạn lượng, chẳng thể tính toán được.