A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa
阿彌陀經疏鈔演義
Phần 99
Chủ giảng:
Lăo pháp sư Tịnh Không năm 1984
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh:
Minh Tiến, Huệ Trang và Đức Phong
Tập
197
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn
Nghĩa Hội Bản, trang ba trăm chín mươi chín:
(Diễn)
Kiến Hoặc hữu bát thập bát Sử, dĩ Ngũ
Độn Ngũ Lợi Thập Sử, lịch tam giới
Tứ Đế hạ, tăng giảm bất đồng,
thành bát thập bát. Tư Hoặc hữu bát thập nhất
phẩm, vị tam giới phân vi cửu địa, Dục
Giới hợp vi nhất địa, Tứ Thiền, Tứ
Không vi bát, cộng vi cửu địa. Dục Giới nhất
địa trung, hữu cửu phẩm tham, sân, si, mạn,
thượng bát địa các hữu cửu phẩm, trừ
Sân Sử, cố thành bát thập nhất dă. Thượng
lai Kiến Tư bất đồng, tổng thị Tạng
Giáo, thật hữu Tập Đế.
(演) 見 惑 有 八 十 八 使,以 五 鈍 五 利 十 使,歷 三 界 四 諦 下,增 減 不 同,成 八 十 八;思 惑 有 八 十 一 品,謂 三 界 分為 九 地,欲 界 合 為 一 地,四 禪 四 空 為 八,共 為 九 地。欲 界 一 地 中,有 九 品 貪 瞋 痴 慢,上 八 地 各 有 九 品,除 瞋 使,故 成 八 十 一 也。上 來 見 思 不 同,總 是 藏 教,實 有 集 諦。
(Diễn: Kiến Hoặc
có tám mươi tám Sử, do mười Sử gồm
Ngũ Độn và Ngũ Lợi trải khắp Tứ
Đế trong tam giới, do tăng giảm khác nhau mà thành
tám mươi tám phẩm. Tư Hoặc có tám mươi mốt
phẩm, tức là tam giới chia thành chín địa: Dục
Giới hợp thành một địa, Tứ Thiền Thiên
và Tứ Không Thiên là tám địa, cộng thành chín địa.
Trong một địa của Dục Giới có chín phẩm
tham, sân, si, mạn. Đối với tám địa trên
đó (tám địa của Tứ Không Thiên và Tứ Thiền
Thiên), mỗi địa có chín phẩm, ngoại trừ Sân
Sử, nên thành tám mươi mốt phẩm. Kiến Tư
[được phân định] sai khác như trên đây nói
chung là Tạng Giáo, [trong cách thấy của họ] thật
sự có Tập Đế).
Những
điều giải thích ở chỗ này đều dựa
theo Tạng Giáo, chúng ta cũng thường nói là Tiểu Thừa.
Phần trước nói về Khổ Đế của Tạng
Giáo, đoạn này giảng về Tập Đế của
Tạng Giáo. Trong lần trước, tôi đă giảng
đại lược ư nghĩa.
(Diễn)
Tam, Diệt Đế giả.
(演) 三、滅 諦 者。
(Diễn: Ba, Diệt
Đế là…).
“Tập” (集) là nói đến
cái nhân. Đă tạo nhân, bèn có quả báo, bèn có lục đạo
luân hồi. Hai Đế sau nói tới pháp xuất thế
gian. Pháp xuất thế gian Tiểu
Thừa cũng là nói quả trước rồi mới nói
tới nhân. Trước hết là nói về Diệt Đế:
(Diễn)
Diệt tiền Khổ Tập.
(演) 滅 前 苦 集。
(Diễn:
Diệt Khổ và Tập trước đó).
Diệt
ǵ? Diệt sanh tử, diệt luân hồi, diệt phiền
năo.
(Diễn)
Hiển Thiên Chân lư, nhân Diệt hội Chân, Diệt phi Chân
Đế.
(演) 顯 偏 真 理,因 滅 會 真,滅 非 真 諦。
(Diễn:
Hiển lộ lư Thiên Chân, do Diệt mà thấu hiểu Chân,
Diệt [trong Tạng Giáo] chưa phải là Chân Đế).
Đây
là Thiên Chân Niết Bàn do hàng Tiểu Thừa chứng đắc.
Chân (真) là chẳng sai lầm. V́ sao gọi
là Thiên Chân? Thiên (偏: lệch lạc)
là chẳng viên, tức là chẳng viên măn, lệch về một
bên. Phàm phu lệch về Hữu, Tiểu Thừa lệch về
Không, tức Chân Không; Hữu là huyễn hữu. Luôn chấp
trước, ngỡ [điều ḿnh thiên chấp] là chân thật,
nên gọi là Thiên. Do sự thiên chấp này, phàm phu chịu khổ
rất lớn, ngỡ huyễn hữu là chân hữu; do
đó, tạo thành lục đạo luân hồi, khổ
khôn kể xiết! Hàng Tiểu Thừa cũng ngỡ Không
là chân thật, nhưng bị hại nhẹ hơn chúng ta
nhiều, họ bị hại là “bản tánh bị chướng
ngại”. V́ lẽ đó, hàng Tiểu Thừa chẳng thể
kiến tánh là do họ chấp trước Chân Không, tưởng
cái Không ấy là thật, [cứ ngỡ là] thật sự
có chuyện như vậy. V́ hai thứ chấp trước
ấy nên đều chẳng thể kiến tánh. “Diệt” c̣n gọi là Niết
Bàn, cũng gọi là Viên Tịch, có rất nhiều tên gọi
khác nhau, nhưng thực tế đều là nói đến
một chuyện. Nói là Viên Tịch th́ Viên (圓) là nói đến sự viên măn, Tịch (寂) là tịch diệt. Các danh xưng Niết Bàn và Viên Tịch
đều dùng chung cho cả Đại Thừa lẫn Tiểu
Thừa. Tứ Đế và Diệt Đế cũng
được sử dụng chung cho cả Đại Thừa
lẫn Tiểu Thừa; ở đây là nói đến Diệt
Đế của Tạng Giáo. Quả báo đang được
nói đến ở đây đương nhiên là điều
mong cầu, hy vọng đạt được của mỗi
người học Phật chúng ta. Hy vọng liễu sanh tử,
hy vọng vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, vượt
thoát tam giới, phải như thế nào th́ mới có thể
thực hiện được? Dưới đây bèn nói tới
phương pháp, tức là nói tới Đạo.
(Diễn)
Tứ, Đạo Đế giả, lược tắc Giới,
Định, Huệ, quảng tắc tam thập thất
Đạo Phẩm.
(演) 四、道 諦 者,略 則 戒 定 慧,廣 則 三 十 七 道 品。
(Diễn: Bốn là
Đạo Đế, đại lược th́ là Giới,
Định, Huệ, nói rộng th́ là ba mươi bảy
Đạo Phẩm).
Ba
mươi bảy Đạo Phẩm sẽ được
nói đến trong kinh này.
(Diễn)
Thử tam thập thất hợp vi thất khoa.
(演) 此 三 十 七 合 為 七 科。
(Diễn:
Ba mươi bảy phẩm ấy hợp thành bảy
khoa).
“Khoa” là khoa loại (科類: chia thành từng loại tổng quát), ba mươi
bảy phẩm có thể chia thành bảy loại lớn. Bảy
loại lớn [chính là]…
(Diễn)
Nhất, Tứ Niệm Xứ, nhị, Tứ Chánh Cần,
tam, Tứ Như Ư Túc, tứ, Ngũ Căn, ngũ, Ngũ Lực,
lục, Thất Giác Chi, thất, Bát Chánh Đạo.
(演) 一、四 念 處,二、四 正 勤,三、四 如 意 足,四、五 根,五、五 力,六、七 覺 支,七、八 正 道。
(Diễn:
Một là Tứ Niệm Xứ, hai là Tứ Chánh Cần, ba
là Tứ Như Ư Túc, bốn là Ngũ Căn, năm là
Ngũ Lực, sáu là Thất Giác Chi, bảy là Bát Thánh Đạo).
Tới
phần sau sẽ nói cặn kẽ, trong kinh văn có nói.
(Diễn)
Dĩ thượng thất khoa, tức thị Tạng Giáo
Sanh Diệt Đạo Đế, nhiên Tứ Đế chi
trung, phân thế xuất thế.
(演) 已 上 七 科,即 是 藏 教 生 滅 道 諦,然 四 諦 之 中 分 世 出 世。
(Diễn: Bảy khoa
trên đây, chính là Sanh Diệt Đạo Đế của
Tạng Giáo, nhưng trong Tứ Đế có chia thành thế
gian và xuất thế gian).
“Thế” là thế gian, “xuất thế” là xuất thế
gian.
(Diễn)
Tiền nhị Đế vi thế gian nhân quả.
(演) 前 二 諦 為 世 間 因 果。
(Diễn: Hai Đế
trước là nhân quả thế gian).
Tức
là Khổ và Tập.
(Diễn)
Hậu nhị Đế vi xuất thế gian nhân quả,
giai tiền quả hậu nhân giả, linh tri Khổ, đoạn
Tập, mộ Diệt, tu Đạo dă.
(演) 後 二 諦 為 出 世 間 因 果。皆 前 果 後 因 者,令 知 苦 斷 集 慕 滅 修 道 也。
(Diễn: Hai Đế
sau là nhân quả xuất thế gian, đều là quả
trước, nhân sau, ngơ hầu [người nghe] sẽ biết
Khổ, đoạn Tập, hâm mộ Diệt, tu Đạo).
Đây
là sự thiện xảo trong cách thuyết pháp của đức
Phật, đều là nói đến cái quả trước,
nói cái nhân sau, khiến cho chúng ta thật sự biết khổ,
biết tam giới khổ sở th́ mới chịu đoạn
phiền năo. Người thế gian, kẻ b́nh phàm th́ chẳng
nói, chứ nói về phía kẻ tu đạo, đặc biệt
là kẻ học Phật đạo, cớ sao kẻ đă
học Phật đạo chẳng chịu đoạn phiền
năo? Nói thật ra, [nguyên nhân là v́ kẻ ấy] vẫn
chưa nhận biết rơ ràng nỗi khổ trong thế
gian! Thật sự nhận biết nỗi khổ trong thế
gian, đạo tâm của người ấy sẽ khác hẳn.
Phàm là những kẻ chẳng phát đạo tâm là do chẳng
nhận thức rơ ràng nỗi khổ trong thế gian, sống
trong sự khổ sở mà chẳng biết khổ. Chúng ta
thường nói là “chai ĺ, bất nhân”, chẳng biết thế
gian khổ sở, chẳng biết luân hồi đáng sợ.
Cơi trời và cơi người c̣n hơi tốt đẹp một
chút, chứ ba ác đạo đáng kinh hăi lắm! Trong ba ác
đạo, địa ngục đạo và ngạ quỷ
đạo th́ chúng ta chẳng thấy, chứ súc sanh đạo
th́ thường xuyên trông thấy. Nghĩ tới t́nh cảnh
của súc sanh, chúng ta có bằng ḷng làm súc sanh hay chăng? Quỷ
đạo c̣n thua súc sanh, địa ngục đạo c̣n
chẳng bằng ngạ quỷ đạo. Trong lục
đạo, khổ nhất là địa ngục đạo.
Chúng ta mong làm súc sanh, địa ngục, ngạ quỷ
ư? Đương nhiên là chẳng có ai muốn làm! Tuy chẳng
muốn làm, nhưng hằng ngày chúng ta đang tạo cái
nhân, vậy th́ chẳng được rồi! Nếu quư vị
đă tạo nhân, lẽ đâu chẳng hứng chịu quả
báo? Đoạn này vừa mở đầu liền nói: Quư
vị phải biết khổ, biết khổ th́ mới chịu
đoạn phiền năo. Thật sự nhận biết, thật
sự lư giải Phật đạo th́ mới có thể
sanh tâm ngưỡng mộ, mới chịu nghiêm túc tu đạo.
“Đạo” là ǵ? “Lược tắc Giới,
Định, Huệ” nghĩa là nói đơn giản:
Đạo là Tam Vô Lậu Học Giới, Định, Huệ,
tŕ Giới, tu Định, khai Huệ. Tam Học Giới,
Định, Huệ là tổng cương lănh của Phật
pháp, thực hiện từ chỗ nào? Tiểu Thừa giáo
(Thanh Văn giáo) thực hiện từ Tứ Niệm Xứ
và Tứ Chánh Cần. Tứ Niệm Xứ là Quán Huệ, là
trí huệ, là giác ngộ. Điều thứ nhất là “quán thân bất tịnh”, thân
là cội khổ. Không chỉ là Phật, Bồ Tát biết,
mà người thế gian chúng ta cũng hiểu. Lăo Tử
nói: “Ta có nỗi họa hoạn
to lớn là do ta có thân”; đó là khi Phật pháp chưa
truyền đến Trung Hoa, Đạo gia đă giác ngộ
cái thân là cội khổ! Hàng phàm phu bậc cao trong lục
đạo chẳng cần đến thân thể, họ
sanh trong Vô Sắc Giới. Sắc Giới tuy đă đoạn
Ngũ Dục, vẫn c̣n có thân thể. V́ thế, hàng phàm
phu thông minh nhất bèn chẳng cần thân thể nữa,
đó là hạng phàm phu bậc cao. Đó là trí huệ! Có trí
huệ quan sát, thật sự giác ngộ th́ mới chịu
nghiêm túc tu học. Tu học bắt đầu từ chỗ
nào? Từ Tứ Chánh Cần. Tứ Chánh Cần th́ một
đằng là thiện, một đằng là ác. Ác th́ phải
nghiêm túc đoạn, thiện th́ phải phát tâm tu tập.
Đề
mục của ba mươi bảy phẩm như nhau,
nhưng ư nghĩa trong Đại Thừa và Tiểu Thừa
khác nhau. Đối với Tam Học và ba mươi bảy
Đạo Phẩm, tông Thiên Thai nói có Tạng, Thông, Biệt,
Viên. Những điều được nói ở đây thuộc
về Tạng Giáo, thuộc về Tiểu Thừa, chỉ
là vượt thoát sự luân hồi trong tam giới mà thôi.
Đấy là bậc A La Hán trong Tiểu Thừa. Kinh nói
trong các đệ tử đức Phật, có nhiều vị
là A La Hán.
(Diễn)
A La Hán giản phi tiền tam giả.
(演) 阿 羅 漢 揀 非 前 三 者。
(Diễn:
[Nói] A La Hán nhằm chỉ rơ: Chẳng thuộc về ba quả
vị trước).
Ba địa vị trước đó là Tu Đà Hoàn (Srotāpanna), Tư Đà Hàm (Sakridāgāmi), và A Na Hàm (Anāgāmi), đều là quả vị Tiểu
Thừa, chúng ta gọi [các quả vị ấy] là Sơ Quả, Nhị Quả, và Tam Quả. Kinh nói đến Tứ
Quả, tức là A La Hán (Arhat), chẳng
phải là ba loại trước.
(Diễn)
Nhất, Tu Đà Hoàn, thử vân Dự Lưu.
(演) 一、須 陀 洹,此 云 預 流。
(Diễn:
Một là Tu Đà Hoàn, cơi này dịch là Dự Lưu).
Dự
Lưu (預流) là nhập
lưu (入流), tức là dự
vào hàng thánh nhân, v́ Ngài đă chứng đắc Vị Bất
Thoái. Vị Bất Thoái sẽ tuyệt đối chẳng
lui sụt xuống phàm phu, tuyệt đối chẳng
đọa trong ba ác đạo. Ngài có tiến, có lùi, bảy
phen sanh tử trong nhân gian hay cơi trời. Tuy có tiến, lùi
như vậy, Ngài vẫn thuộc vào hàng thánh nhân, cho nên
Ngài thoái chuyển có chừng hạn. Nếu chẳng chứng
đắc Tu Đà Hoàn, trước khi đạt đến
Tứ Gia Hạnh[1] th́ mới có thể
lui sụt xuống địa ngục, mức độ thấp
nhất là A Tỳ địa ngục. Chứng đắc
Tiểu Thừa Sơ Quả, ngằn hạn [lui sụt
đến mức] thấp nhất sẽ là Sơ Quả,
chẳng thể lùi xuống phàm phu, lại càng chẳng thể
đọa lạc ba ác đạo. Nhất định phải
hiểu điều này! Đối với sự tiến,
lùi, chúng ta thường nói “Thất
Địa Bồ Tát c̣n có thoái chuyển”, Thất Địa
Bồ Tát lui sụt đến chỗ nào? Chúng ta nói theo Viên
Giáo th́ Ngài sẽ lui sụt đến Sơ Trụ. Sơ
Trụ là phá một phẩm vô minh, thấy một phần
chân tánh, tiến tiến lùi lùi đến mức độ
thấp nhất là Sơ Trụ Bồ Tát của Viên Giáo, chẳng
lui sụt đến Tiểu Thừa, chẳng thể lui sụt
đến A La Hán, Bích Chi Phật, mà cũng chẳng thể
lui sụt đến Quyền Giáo Bồ Tát. V́ thế, mỗi
lần lui sụt, Ngài đều có chừng hạn. Đạt
đến Bát Địa, sẽ là Bất Thoái. Bát Địa
thật sự viên măn ba thứ Bất Thoái.
(Diễn)
Thử vị.
(演) 此 位。
(Diễn:
Địa vị này).
Địa
vị này là Tu Đà Hoàn, tức Tiểu Thừa Sơ Quả.
(Diễn)
Đoạn tam giới bát thập bát Sử Kiến Hoặc,
kiến Chân Đế, cố danh vi Kiến Đạo.
(演) 斷 三 界 八 十 八 使 見 惑,見 真 諦,故 名 為 見 道。
(Diễn: Đoạn
tám mươi tám Sử thuộc Kiến Hoặc trong tam giới,
thấy Chân Đế, nên gọi là Kiến Đạo).
Đây
là Kiến Đạo trong Tiểu Thừa: Đoạn sạch
tám mươi tám Sử thuộc Kiến Hoặc, chứng
đắc Tiểu Thừa Sơ Quả. Nếu người
ấy là căn tánh viên đốn th́ phải là hàng Bồ
Tát thuộc địa vị Sơ Tín trong Viên Giáo. Sơ
Tín của Viên Giáo bằng với Sơ Quả của Tiểu
Thừa. Nói theo phương diện đoạn chứng, sẽ
bằng với Tu Đà Hoàn của Tiểu Thừa, đều
là đoạn tám mươi tám Sử; nhưng nói theo
phương diện trí huệ và công đức, A La Hán chẳng
sánh bằng. Do vậy có thể biết, căn cơ viên
đốn đáng quư.
(Diễn)
Nhị, Tư Đà Hàm, thử vân Nhất Lai.
(演) 二、斯 陀 含,此 云 一 來。
(Diễn:
Hai là Tư Đà Hàm, cơi này dịch là Nhất Lai).
Đây
là Nhị Quả trong Tiểu Thừa, Nhất Lai nghĩa
là ǵ? Ngài c̣n phải sanh trong nhân gian một lần, sau đấy
có thể chẳng cần sanh trong nhân gian nữa.
(Diễn)
Thử vị đoạn Dục Giới cửu phẩm
Tư trung, đoạn tiền lục phẩm tận, hậu
tam phẩm do tại, cố cánh nhất lai.
(演) 此 位 斷 欲 界 九 品 思 中,斷 前 六 品 盡,後 三 品 猶 在,故 更 一 來。
(Diễn: Địa
vị này đă đoạn sáu phẩm trước trong chín
phẩm Tư Hoặc thuộc Dục Giới, do hăy c̣n ba
phẩm sau [chưa đoạn] nên phải trở lại lần
nữa).
Dục
Giới có tất cả chín phẩm Tư Hoặc, Ngài
đă đoạn sạch sáu phẩm trước, c̣n sót lại
ba phẩm, nên vẫn phải trở lại một lần
nữa; do đó gọi là Nhất Lai quả. Nhị Quả
c̣n phải sanh trong nhân gian một lần, Tam Quả chẳng
tái sanh nữa.
(Diễn)
Tam, A Na Hàm, thử vân Bất Lai.
(演) 三、阿 那 含,此 云 不 來。
(Diễn:
Ba là A Na Hàm, cơi này dịch là Bất Lai).
A là
Vô, Na Hàm là Lai. Vô Lai chính là Bất Lai, [ư nói] chẳng đến
(chẳng sanh trong) Dục Giới nữa!
(Diễn)
Thử vị đoạn dục tàn Tư tận.
(演) 此 位 斷 欲 殘 思 盡。
(Diễn:
Địa vị này đoạn sạch mọi Tư Hoặc
c̣n sót lại trong Dục Giới).
“Tàn” (殘) là tàn dư. Ngài
đoạn sạch ba phẩm c̣n thừa sót, chẳng trở
lại [nhân gian] nữa. Trong chín địa của tam giới,
Dục Giới là một địa, trong mỗi địa
có chín phẩm, Ngài đă đoạn hết chín phẩm Hoặc.
Ngài đến nơi đâu để tu hành? Ngài tiến tiến
lùi lùi trong Sắc Giới từ Sơ Thiền cho đến
Tứ Thiền, nếu đọa lạc th́ cũng bất
quá đọa xuống Sơ Thiền [là hết mức], chẳng
thể đọa xuống các cơi thấp hơn cơi Sơ
Thiền. Tiến lên trên là Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ
Thiền, tiến tiến lùi lùi trong các chỗ ấy, chẳng
thể đọa xuống Dục Giới. V́ thế, gọi
là Bất Lai, c̣n gọi là Bất Hoàn Quả.
(Diễn)
Tấn đoạn thượng bát địa Tư.
(演) 進 斷 上 八 地 思。
(Diễn:
Tiến cao hơn là đoạn Tư Hoặc trong tám địa
phía trên).
“Tư” là Tư Hoặc. Phía
trên đó c̣n tám địa, tức là [các phẩm Tư Hoặc]
thuộc về Tứ Thiền Thiên và Tứ Không Thiên.
(Diễn)
Tứ, A La Hán, thử vân Vô Học.
(演) 四、阿 羅 漢,此 云 無 學。
(Diễn:
Bốn là A La Hán, cơi này dịch là Vô Học).
A La
Hán là Vô Học. A là Vô, La Hán là Học. Vô Học là đă tốt
nghiệp.
(Diễn)
Hựu vân Vô Sanh.
(演) 又 云 無 生。
(Diễn:
Lại dịch là Vô Sanh).
Vô
Sanh là ǵ? Ngài chẳng c̣n đến thọ sanh trong tam giới
lục đạo, đă thoát khỏi tam giới.
(Diễn)
Hựu vân Sát Tặc.
(演) 又 云 殺 賊。
(Diễn:
Lại c̣n dịch là Sát Tặc).
Có rất nhiều người chẳng hiểu
rơ Phật giáo cho lắm, thấy A La Hán c̣n gọi là Sát Tặc,
[bèn dè bỉu]: “Nhà Phật chẳng sát sanh! Quư vị
thấy [La Hán] c̣n giết giặc, đă khai sát giới rồi!”
Đó là hiểu lầm! Chữ “tặc”
(賊) chỉ Kiến Tư phiền năo.
Đoạn sạch Kiến Tư phiền năo, giống
như đă giết sạch giặc Kiến Tư phiền
năo, có ư nghĩa này, chẳng phải là thật sự sát
sanh, mà nhằm tỷ dụ sự đoạn trừ phiền
năo. Ở đây là giặc phiền năo, chẳng phải là
giặc nào khác!
(Diễn)
Hựu vân Ứng Cúng.
(演) 又 云 應 供。
(Diễn:
C̣n dịch là Ứng Cúng).
A La
Hán có công đức chân thật, đoạn sạch Kiến
Tư phiền năo là công đức chân chánh. Trời người
cúng dường A La Hán, phước báo ấy rất lớn.
Ngài xứng đáng tiếp nhận sự cúng dường
của trời người, nên được gọi là bậc
Ứng Cúng.
(Diễn)
Thử vị đoạn Kiến Tư câu tận.
(演) 此 位 斷 見 思 俱 盡。
(Diễn:
Địa vị này, Kiến Hoặc và Tư Hoặc đều
đoạn hết sạch).
Tám
mươi tám sử Kiến Hoặc và tám mươi mốt
phẩm Tư Hoặc thảy đều đoạn sạch.
(Diễn)
Tử
phược dĩ đoạn, quả phược do tồn, danh Hữu
Dư Niết Bàn.
(演) 子 縛 已 斷,果 縛 猶 存,名 有 餘 涅 槃。
(Diễn: Triền
phược thô đă đoạn, triền phược vi tế
hăy c̣n, nên gọi là Hữu Dư Niết Bàn).
“Tử phược” (子縛) là phiền năo thô. Đoạn sạch phiền năo
thô, hăy c̣n phiền năo vi tế chưa đoạn. Phiền
năo vi tế là Quả Phược, Phược (縛) là trói buộc. Ba loại phiền năo lớn là Kiến
Tư phiền năo, Trần Sa phiền năo, và Vô Minh phiền
năo. A La Hán chỉ đoạn Kiến Tư, chứ Trần
Sa và Vô Minh đều chưa đoạn,
nên Niết Bàn do Ngài đă chứng được gọi
là Hữu Dư Niết Bàn (Sa-upādisesa-nibbānadhātu), v́ c̣n thừa
sót Trần Sa, c̣n sót lại Vô Minh. Hai loại này vẫn c̣n,
nhưng Ngài đă thoát khỏi tam giới. Trần Sa Hoặc và Vô Minh Hoặc
sẽ đoạn sau khi thoát khỏi tam giới. Đấy
là giải thích về A La Hán.
(Sao)
Văn Tứ Đế giả, Thế Tôn vị Kiều Trần
Như đẳng ngũ nhân, chuyển Khổ, Tập, Diệt,
Đạo pháp luân, sơ thị, nhị khuyến, chí tam tắc
chứng. Chư lậu dĩ tận, thành A La Hán. Nhân
văn thanh giáo dĩ đắc khai minh, cố danh Thanh
Văn. Thanh Văn chi hiệu, thông tiền tam quả, kim Tứ
Quả dă.
(鈔) 聞 四 諦 者,世 尊 為 憍 陳 如 等 五 人,轉 苦 集 滅 道 法 輪,初 示、二 勸,至 三 則 證。諸 漏 已 盡,成 阿 羅 漢。因 聞 聲 教 以 得 開 明,故 名 聲 聞。聲 聞 之 號,通 前 三 果,今 四 果 也。
(Sao: “Nghe Tứ Đế”: Đức Thế Tôn v́
nhóm năm người của ngài Kiều Trần Như
chuyển pháp luân Khổ Tập Diệt Đạo, đầu
tiên là chỉ bày, hai là khuyên lơn, cho đến điều
thứ ba là chứng nhập. Các lậu đă hết, thành
A La Hán. Do nghe thanh giáo bèn được khai minh, nên gọi
là Thanh Văn. Danh hiệu Thanh Văn bao gồm cả ba quả
trước, ở đây là Tứ Quả).
Thanh
Văn (Śrāvaka) là hiệu chung của
Tiểu Thừa. Từ Sơ Quả đến Tứ Quả
A La Hán đều gọi là Thanh Văn. Các Ngài do nghe đức
Phật thuyết pháp mà ngộ đạo, nên được
gọi là Thanh Văn. Chúng ta xem phần chú giải dưới
đây.
(Diễn)
Thế Tôn vị Kiều Trần Như đẳng ngũ
nhân giả.
(演) 世 尊 為 憍 陳 如 等 五 人 者。
(Diễn:
Đức Thế Tôn v́ nhóm năm người Kiều Trần
Như).
Đây
là nói đến một đoạn nhân duyên Phật thuyết
pháp độ chúng sanh đầu tiên. Thích Ca Mâu Ni Phật
thị hiện trong thế gian này, sau khi thành đạo,
trong mười bốn ngày tuyên nói kinh Hoa Nghiêm, kinh Hoa Nghiêm
được đức Phật giảng trong Định.
Đức Phật ngồi dưới cội Bồ Đề,
ban đêm thấy sao Hôm, bèn hoát nhiên đại ngộ. Sau
khi đă ngộ, Ngài vẫn ngồi dưới cội Bồ
Đề. Lũ phàm phu chúng ta thấy Phật tĩnh tọa
tại đó, chẳng biết Ngài đang giảng kinh Hoa
Nghiêm trong Định. Pháp hội náo nhiệt dường ấy,
nhưng bọn phàm phu chúng ta đâu có biết! Chờ đến
sau khi Ngài xuất Định, gặp năm người ấy
tại Lộc Dă Uyển, v́ năm người ấy thuyết
pháp, năm người ấy khai ngộ. Lũ phàm phu chúng
ta thấy thoạt tiên Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp ǵ? Thuyết
pháp Tứ Đế, thuyết cho năm người ấy.
V́ lẽ đó, người Tiểu Thừa chẳng thừa
nhận kinh Hoa Nghiêm do đức Phật nói. V́ sao? Chẳng
thấy! Hiện tại, người phương Tây nói
đến khảo cứu, nói đến lịch sử,
cũng chẳng thừa nhận Đại Thừa, cho rằng
kinh Hoa Nghiêm đại khái do chính Long Thọ Bồ Tát (Nāgārjuna) tự soạn, đội tên
Thích Ca Mâu Ni Phật. Đây chính là dùng tâm lượng phàm
phu để suy lường thánh nhân! Nhưng người
Hoa có cách nh́n chẳng giống như vậy, người
Hoa thừa nhận [kinh Hoa Nghiêm và Đại Thừa].
Đây là chỗ khác biệt giữa Đại Thừa và
Tiểu Thừa. Hiện thời nói đến Phật giáo
nguyên thủy là nói tới Tứ A Hàm, tức là những
pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật giảng cho các vị thuộc
nhóm Kiều Trần Như. Chúng ta cũng phải hiểu
chuyện này, nhưng quyết định đừng bị
mê hoặc bởi các luận thuyết rối ren! [Hễ bị
mê hoặc] th́ là sai lầm mất rồi! Trong pháp Đại
Thừa có nói “đức Phật
không có pháp nhất định để có thể nói”,
đức Phật chẳng có pháp nào để có thể
nói. Đức Phật lại chưa hề nói một câu
pháp nào! Năm người ấy do đâu mà có? Ở
đây, [sách Diễn Nghĩa] giới thiệu đơn giản.
(Diễn)
Phật sơ xuất gia nhập sơn tu đạo, phụ
vương tư niệm, mạng Trần Như, Mă Thắng
đẳng ngũ nhân tùy thị.
(演) 佛 初 出 家 入 山 修 道,父 王 思 念,命 陳 如 馬 勝 等 五 人 隨 侍。
(Diễn: Lúc đức
Phật mới xuất gia, vào núi tu đạo, phụ
vương lo nghĩ, bèn sai nhóm năm người như
Trần Như, Mă Thắng v.v… theo hầu).
Năm
người ấy[2] vốn là do phụ
thân của Thích Ca Mâu Ni Phật sai đến chăm sóc
Ngài. Đức Phật vào núi tu đạo, cha Ngài chẳng
an ḷng, sai năm người đi theo chăm sóc Ngài. [Sở
dĩ] có năm người ấy là như vậy đó.
(Diễn) Ngũ nhân bất thắng kỳ khổ,
thoái cư Lộc Uyển.
(演) 五 人 不 勝 其 苦,退 居 鹿 苑。
(Diễn:
Năm người không chịu khổ nổi, bèn lui về
ở trong Lộc Uyển).
Năm
người ấy cũng rất có đạo tâm, nhưng
họ thật sự chẳng kham nổi sự khổ hạnh
của Thích Ca Mâu Ni Phật, thật sự chịu không nổi,
bèn bỏ đi, chẳng ở cùng một chỗ với
Ngài. Năm người ấy đến Lộc Dă Uyển,
là một nơi nuôi nai, đến ở chỗ đó để
tự tu hành.
(Diễn)
Phật thành đạo dĩ, quán ngũ nhân nghi tối tiên
đắc độ, cố Phật chí Lộc Uyển,
thuyết pháp độ chi.
(演) 佛 成 道 已,觀 五 人 宜 最 先 得 度,故 佛 至 鹿 苑,說 法 度 之。
(Diễn: Đức Phật đă thành đạo,
quán thấy năm người ấy đáng nên đắc
độ trước tiên, nên đức Phật đến
Lộc Uyển thuyết pháp độ họ).
Thích
Ca Mâu Ni thị hiện thành đạo, quán xem người
nào khế cơ nhất, người nào đắc độ
đầu tiên? Đến Lộc Dă Uyển, Ngài nh́n thấy
năm người ấy, thấy Kiều Trần Như
cơ duyên đă chín muồi, liền thuyết pháp cho các vị
ấy. Vừa thuyết pháp, tôn giả Kiều Trần
Như khai ngộ đầu tiên, chứng quả A La Hán,
nên Ngài là đệ tử thứ nhất. Chúng ta đọc
kinh Vô Lượng Thọ, thấy Ngài được nêu
tên đầu tiên, v́ Ngài là người đầu tiên đắc
độ khi Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện thành Phật độ chúng sanh. Kinh
Kim Cang nói: Đời trước, vị này chính là vua Ca Lợi
(Kaliṅga-rāja), c̣n Thích
Ca Mâu Ni Phật là tiên nhân Nhẫn Nhục (Kṣānti-ṛṣi). Đời
trước các Ngài có sự hiểu lầm rất lớn.
Tiên nhân Nhẫn Nhục bị vua Ca Lợi cắt chặt thân thể,
trọn chẳng sanh tâm sân khuể, lại c̣n phát nguyện
trong tương lai thành Phật, sẽ độ nhà vua
đầu tiên. V́ thế, Thích Ca Mâu Ni Phật thành Phật,
quả nhiên người được độ đầu
tiên là tôn giả.
Do vậy có thể
biết, đức Phật độ hết thảy chúng
sanh đều có nhân duyên rất sâu. Chẳng có nhân duyên, chẳng
thể đắc độ. Giống như nay chúng ta ở
trong thời kỳ Mạt Pháp của đức Phật,
có nhân duyên nghe bộ kinh điển này, từ bộ kinh
điển này sanh khởi tín tâm, phát nguyện cầu sanh Tịnh
Độ, thật thà niệm Phật, đó cũng là có
nhân duyên rất sâu. Nếu chẳng có duyên với A Di Đà
Phật, chẳng có duyên với Thích Ca Mâu Ni Phật, suốt
một đời này, quư vị chẳng nghe pháp môn này, dẫu
có nghe cũng chẳng tin tưởng. V́ thế, phàm là
người có thể văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới, sẽ giống như nhóm các vị Kiều
Trần Như, thiện căn, phước đức,
nhân duyên đă gieo trong nhiều đời nhiều kiếp
đến lúc ấy bèn chín muồi đó thôi!
Khi
Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện thành Phật, [nhân duyên của]
nhóm người Kiều Trần Như đă chín muồi,
bèn đắc độ đầu tiên. Đức Phật
giảng cho các Ngài nghe pháp Khổ Tập Diệt Đạo.
Phương pháp giảng giải của đức Phật
gồm có chỉ dạy, khuyên lơn, làm chứng; đó gọi
là “tam chuyển pháp luân”, là kỹ
xảo thuyết pháp. Chúng ta xem chú giải.
(Diễn)
Tam chuyển pháp luân giả, nhất, thị tướng
chuyển.
(演) 三 轉 法 輪 者, 一、示 相 轉。
(Diễn:
Tam chuyển pháp luân: Một là chuyển bằng cách chỉ
bày các tướng).
Dưới
đây là nêu ra ví dụ để nói.
(Diễn)
Thử thị khổ, bức bách tánh.
(演) 此 是 苦,逼 迫 性。
(Diễn:
Đây là khổ v́ có tánh chất bức bách).
Phạm
vi của chữ “thử”
(này) hết sức rộng răi, bảo quư vị: Đây là
khổ! Sanh là khổ, già cũng khổ, bệnh cũng khổ,
chết cũng khổ, cầu chẳng được
cũng khổ, yêu thương phải chia ĺa cũng khổ,
oán ghét mà cứ phải gặp gỡ cũng khổ.
Thường nói là ba khổ hoặc tám khổ, những
điều ấy là khổ. Đó gọi là “thị tướng chuyển”.
V́ sao khổ? “Bức bách tánh”,
[nghĩa là] chúng nó có tánh chất bức ép khiến cho quư vị
thân tâm chẳng thể yên ổn, đó là khổ! Khổ
đang ép bức quư vị, nên dạy con người hăy
giác ngộ các nỗi khổ trong thế gian. Đối với
Khổ Đế, nêu lên một thí dụ để nói. Tiếp
theo đây là nói tới Tập Đế, [nhằm giải
thích] Khổ do đâu mà có?
(Diễn)
Thử thị Tập, chiêu cảm tánh.
(演) 此 是 集,招 感 性。
(Diễn:
Đây là Tập, có tánh chất chiêu cảm).
Nếu
quư vị hỏi những sự khổ ấy do đâu mà
có ư? Khổ do chính quư vị chuốc lấy, chiêu tập
nó. Nếu quư vị chẳng t́m kiếm nó, lấy đâu ra
khổ? Chẳng có khổ! Chèo kéo khổ bằng cách nào? Khởi
Hoặc, tạo nghiệp! Cái nhân là mê hoặc, chẳng hiểu
rơ chân tướng sự thật, mê mất rồi! Duyên là
tạo nghiệp, tạo đủ thứ nghiệp. V́ sao
tạo nghiệp? V́ mê hoặc. Do mê hoặc tạo nghiệp
nên mới chịu báo. Quả báo là Khổ, [là kết quả
của] những điều trước; nên nói là Hoặc,
Nghiệp, Khổ. Đó là Tập, Tập là “chiêu cảm tánh”. Tạo nghiệp:
Tạo thiện nghiệp sẽ thọ báo trong ba thiện
đạo. Tạo ác nghiệp, thọ báo trong ba ác đạo.
Lục đạo phàm phu chẳng có ai không tạo nghiệp.
Luân hồi: Chúng ta tạo nghiệp rất nhiều, có thể
nói là mỗi cá nhân đều đang tạo nghiệp trong
mười pháp giới. Tạo nghiệp phức tạp
như vậy, sẽ thọ báo của nghiệp nhân nào
trước? Tùy thuộc nghiệp lực nào lớn mạnh,
nghiệp lực nào mạnh mẽ! Nghiệp mạnh sẽ
lôi trước, lôi đi trước th́ sẽ “ưu tiên”
thọ báo [của nghiệp ấy]. Hiểu sự thật
này, chúng ta sẽ giác ngộ. Suốt ngày từ sáng đến
tối, vọng niệm nào của chúng ta có sức mạnh
lớn nhất, phải giác ngộ điều này! Nếu
ư niệm tham ái mạnh nhất, chắc chắn sẽ vào
ngạ quỷ đạo, đời sau làm quỷ. Tham là
tham ǵ? Tham danh, tham lợi, tham tài, tham sắc, tham Phật
pháp, đều là tham. Tham Phật pháp cũng phải đi
vào ngạ quỷ đạo, v́ quư vị chịu báo do cái
tâm tham, chẳng cần biết quư vị tham điều
ǵ! Nếu đoạn sạch tâm tham, chẳng tham ái hết
thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, quư vị sẽ
chẳng đọa làm ngạ quỷ.
Lại
thưa cùng quư vị, ngoại lệ duy nhất là quư vị
có thể yêu mến A Di Đà Phật, điều này chẳng
sao hết! [Do yêu mến A Di Đà Phật], sẽ đến
Tây Phương Cực Lạc thế giới, chứ [tham
ái những điều khác] chẳng được đâu
nhé! [Tham ái] những điều khác th́ đều vào trong ngạ
quỷ đạo! Nói thật thà, quư vị yêu mến Thích
Ca Mâu Ni Phật cũng không được, vẫn phải
vào trong ngạ quỷ đạo, chẳng có cách nào thành tựu.
Niệm A Di Đà Phật là một pháp môn đặc biệt,
quư vị chỉ cần đặt A Di Đà Phật trong
tâm, sẽ thành công, những điều khác đều buông
xuống hết, như vậy th́ mới có thể văng sanh!
Do đó, một mực chuyên niệm A Di Đà Phật. Nếu
quư vị hỏi “do nguyên nhân nào” ư? Kinh này và kinh Vô Lượng
Thọ đă nói rành mạch, v́ sao niệm đức Phật
khác không được, nhưng niệm Ngài (A Di Đà Phật)
th́ được? Niệm Ngài là đới nghiệp văng
sanh. Mang theo nghiệp ǵ vậy? [Chính là] nghiệp yêu mến
A Di Đà Phật, có thể mang theo nghiệp ấy văng
sanh, [mang theo] những nghiệp khác th́ không được.
Trong hết thảy các Tịnh Độ khác của chư
Phật, chẳng có đới nghiệp văng sanh, chỉ
riêng pháp môn này là có thể đới nghiệp văng sanh.
Trong
mỗi niệm đều là nóng giận, ganh ghét, nhất
định phải đọa địa ngục, chúng ta
thường có cái tâm ấy hay không? Có ư niệm ấy hay
không? Ngạo mạn, kiêu căng, ngă mạn là A Tu La. Thị
phi, thiện ác chẳng hiểu rơ ràng, mê hoặc, điên
đảo, sẽ là súc sanh đạo. Nói thật thà, chúng
ta mỗi ngày tạo nghiệp ǵ? Tạo ba ác đạo,
quá đáng sợ, thật sự là khổ! Khởi Hoặc,
tạo nghiệp, đấy là Tập Đế. Hai câu trên
đây nói về nhân quả thế gian; hai câu sau sẽ nói
đến nhân quả xuất thế gian.
(Diễn)
Thử thị Diệt, khả chứng tánh.
(演) 此 是 滅,可 證 性。
(Diễn:
Đây là Diệt, tánh có thể chứng).
Tánh
chất của nó là có thể chứng đắc. Diệt
là diệt hết thảy khổ, diệt hết thảy
mê hoặc tạo tác, có thể diệt những điều
ấy. Nói cách khác, nó có thể diệt sanh tử, có thể
diệt luân hồi, có thể diệt phiền năo; những
thứ ấy hư vọng, chẳng chân thật, quyết
định có thể diệt trừ. Cách diệt như thế
nào? Phải nói đến Đạo.
(Diễn)
Thử thị Đạo, khả tu tánh.
(演) 此 是 道,可 修 性。
(Diễn:
Đây là Đạo, tánh có thể tu).
Có
thể tu học. Đối với Đạo, Tiểu Thừa
nói ba mươi bảy Đạo Phẩm, c̣n đối với
Đại Thừa sẽ là lục độ vạn hạnh.
Lục độ vạn hạnh cũng chẳng ra ngoài ba
mươi bảy Đạo Phẩm. Ba mươi bảy
khoa mục ấy quy nạp lại sẽ là Tam Học Giới,
Định, Huệ. Vô lượng vô biên pháp môn đều
chẳng ĺa khỏi Tam Học, dùng Tam Học sẽ bao gồm
toàn bộ.
Nói
theo kiểu này, Thị Tướng chính là khai thị. Nói
theo phía người căn cơ nhạy bén, hễ vừa
nói, họ liền giác ngộ. Căn tánh con người có
ba hạng, đối với người bậc thượng,
đức Phật chỉ cần nêu ra, chỉ bày, họ
liền giác ngộ, quay đầu. Đối với
người căn tánh bậc trung, tuy chỉ bày, họ vẫn
luôn cảm thấy chẳng liên quan ǵ tới ḿnh cho lắm,
chẳng thấu hiểu sâu đậm như vậy. Đức
Phật lại dùng phương pháp khuyên dạy, “khuyên” là trực tiếp nói với
quư vị.
(Diễn)
Nhị, khuyến tu chuyển. Thử thị Khổ nhữ
ưng tri, thử thị Tập nhữ ưng đoạn,
thử thị Diệt nhữ ưng chứng, thử thị
Đạo nhữ ưng tu.
(演) 二、勸 修 轉。此 是 苦 汝 應 知,此 是 集 汝 應 斷,此 是 滅 汝 應 證,此 是 道 汝 應 修。
(Diễn: Hai là khuyến
tu chuyển. Đây là Khổ ngươi nên biết. Đây
là Tập ngươi nên đoạn. Đây là Diệt
ngươi nên chứng. Đây là Đạo ngươi nên
tu).
Đây
là nói thẳng, chỉ dạy quư vị, c̣n trong trường
hợp trước, chẳng chỉ dạy quư vị trực
tiếp, mà nói với đại chúng. Quư vị hăy nên thấu
hiểu, đây là chỉ dạy thẳng thừng, quư vị
hăy nên biết điều này! “Khuyến”
[có nghĩa là] quư vị phải nên làm theo cách nào! Sau khi
đă được khuyên, căn tánh bậc trung sẽ
giác ngộ. Kẻ căn tánh bậc hạ sau khi được
khuyên vẫn chưa tin tưởng: “Quư vị nói những
lời này là thật ư?” Nửa tin nửa ngờ! Bất
đắc dĩ, lại làm chứng cho kẻ đó. Nói
theo cách hiện thời là phải “nêu ra chứng cớ”.
Đức Phật lấy ngay chính ḿnh làm thí dụ.
(Diễn)
Tam, tác chứng chuyển, thử thị Khổ, ngă dĩ
tri.
(演) 三、作 證 轉,此 是 苦 我 已 知。
(Diễn: Ba là tác chứng
chuyển, đây là khổ, ta đă biết).
Ta
có thể chứng minh cho quư vị, ta đă biết.
(Diễn)
Thử thị Tập, ngă dĩ đoạn.
(演) 此 是 集 我 已 斷。
(Diễn:
Đây là Tập, ta đă đoạn).
Quư vị có mê hoặc,
có tạo nghiệp, ta chẳng mê hoặc, cũng chẳng
tạo nghiệp. Ta chẳng mê hoặc, tức là duyên
đă đoạn. Ta chẳng tạo nghiệp, nhân đă
đoạn. Nhân và duyên đều đă đoạn,
đương nhiên quả báo sẽ đoạn.
(Diễn)
Thử thị Diệt, ngă dĩ chứng. Thử thị
Đạo, ngă dĩ tu.
(演) 此 是 滅 我 已 證,此 是 道 我 已 修。
(Diễn:
Đây là Diệt, ta đă chứng. Đây là Đạo, ta
đă tu).
“Tôi
nói với quư vị, câu nào cũng đều là lời chân
thật”, đây là đức Phật hiện thân thuyết
pháp, v́ mọi người làm chứng. Đó gọi là Tác
Chứng Chuyển. Đấy là Tam Chuyển Pháp Luân. Câu
văn Tam Chuyển Pháp Luân này giống như công thức
toán học, chúng ta hăy nên học tập điều này. Nhất
là hoằng pháp, luôn luôn chẳng rời khỏi nguyên tắc
này, bất luận ở chỗ nào, gặp kẻ nào hỏi
pháp, quư vị giữ vững nguyên tắc này, chắc chắn
sẽ không phạm sai lầm. Thị chuyển, khuyến
chuyển, tác chứng chuyển! Lại xem đoạn kế
tiếp:
(Sao) Duyên Giác nhiếp
giả.
(鈔) 緣 覺 攝 者。
(Sao:
[Nói Thanh Văn] là đă bao gồm Duyên Giác).
Kinh
này chẳng nhắc tới Duyên Giác, Duyên Giác được
bao gồm trong Thanh Văn, tỉnh lược!
(Sao)
Duyên Giác quán Thập Nhị Nhân Duyên nhi đắc khai ngộ,
tuy thập nhị chi, nhi thúc chi bất xuất Tứ Đế.
(鈔) 緣 覺 觀 十 二 因 緣 而 得 開 悟,雖 十 二 支,而 束 之 不 出 四 諦。
(Sao: Duyên Giác quán Thập
Nhị Nhân Duyên nên khai ngộ. Tuy gồm mười hai chi,
nhưng tóm lại, chẳng ra ngoài Tứ Đế).
“Thập nhị chi” cũng là
mười hai khoa mục. “Thúc”
(束) là quy nạp. Quy nạp lại th́
[Thập Nhị Nhân Duyên] cũng chẳng ra ngoài Tứ
Đế. V́ thế, trong pháp Tiểu Thừa, Tứ Đế
được gọi là căn bản pháp luân. Thập Nhị
Nhân Duyên bất quá là triển khai Tứ Đế để
nói tỉ mỉ, rơ ràng mà thôi!
(Sao)
Tuy hữu lợi sanh chi tâm, nhi diệc vị quảng, cố
nhiếp Thanh Văn trung dă.
(鈔) 雖 有 利 生 之 心,而 亦 未 廣,故 攝 聲 聞 中 也。
(Sao: Tuy có tâm lợi
sanh, nhưng cũng chưa rộng, nên gom vào hàng Thanh
Văn).
Tiếng
Phạn là Bích Chi Phật (Pratyeka-buddha), dịch sang tiếng Hán là Duyên
Giác; Ngài từ Thập Nhị Nhân Duyên (Dvādaśāga-pratītya Samutpāda
Aṅga)
mà khai ngộ. Hạng người này tuy cũng độ
chúng sanh, nhưng không chủ động, giống như A La
Hán. Quư vị đến t́m Ngài, Ngài thấy quư vị rất
có duyên phận với Ngài trong đời quá khứ, bèn
độ quư vị. Ngài có thể nhập Định quán
sát, [nếu thấy] trong đời quá khứ chẳng có
duyên với chính Ngài, bèn chẳng độ quư vị, v́ sao?
Nói ra, quư vị sẽ không tin tưởng, mà cũng chẳng
bằng ḷng nghe. Ta cũng đỡ tốn công nói, mà quư vị
cũng ít phiền năo. Ngài bảo quư vị hăy đi đi.
Bồ Tát tâm từ bi sâu nặng, chủ động giáo hóa
chúng sanh; A La Hán và Bích Chi Phật chẳng chủ động
dạy người khác; v́ thế, các Ngài thuộc về Tiểu
Thừa. Lời chú giải đơn giản dưới
đây giảng rơ Thập Nhị Nhân Duyên là ǵ. Điều
này cũng là thường thức trong Phật học.
(Diễn)
Duyên Giác quán Thập Nhị Nhân Duyên giả, nhất Vô Minh,
vị Phiền Năo Chướng, Phiền Năo Đạo.
(演) 緣 覺 觀 十 二 因 緣 者,一、無 明,謂 煩 惱 障 煩 惱 道。
(Diễn:
Duyên Giác quán Thập Nhị Nhân Duyên: Một là Vô Minh,
nghĩa là Phiền Năo Chướng, Phiền Năo Đạo).
Vô
Minh đang nói ở đây chính là Chi Mạt Vô Minh, chẳng
phải là Căn Bản Vô Minh (Mūlāvidyā). Phá một phẩm
Căn Bản Vô Minh sẽ là Viên Giáo Sơ Trụ Bồ
Tát, là Pháp Thân đại sĩ. A La Hán và Bích Chi Phật
cũng phá vô minh, nhưng phá Chi Mạt Vô Minh. Chi Mạt Vô
Minh là ǵ? Là Kiến Tư phiền năo. Trong Tứ Đế,
nó được gọi là Kiến Tư phiền năo, c̣n
trong Thập Nhị Nhân Duyên th́ là Vô Minh (Vidyā), Vô Minh là Kiến Tư phiền
năo, là mê hoặc, “Phiền Năo
Chướng, Phiền Năo Đạo” là như thế
đó. Phiền Năo Chướng là Kiến Hoặc, Phiền
Năo Đạo là Tư Hoặc, đó gọi là Kiến
Tư phiền năo, đấy là vô minh.
(Diễn)
Nhị, Hành.
(演) 二、行。
(Diễn:
Hai là Hành).
Quư
vị có Phiền Năo Chướng, có Phiền Năo Đạo,
tức là quư vị có Kiến Tư Vô Minh, nhất định
sẽ vọng động. Hành (Saṅkhāra) là tạo nghiệp.
(Diễn)
Nghiệp chướng, nghiệp đạo.
(演) 業 障 業 道。
(Diễn:
Nghiệp chướng, nghiệp đạo).
Đây
là tạo tác. Vô Minh là duyên, Hành là nhân. Vô Minh xa hơn, nghiệp
th́ gần hơn. Nếu lấy quan hệ ông cháu ba đời
để nói th́ Vô Minh là ông nội, Hành là cha, sanh ra con là Thức
trong phần kế tiếp. Thức là quả báo, năm
điều tiếp theo đây đều là quả báo. Quan
hệ hơi xa so với quả th́ gọi là duyên, quan hệ
mật thiết th́ là nhân. Do đó, Vô Minh là duyên, Hành là nhân;
có nhân, có duyên, sau đó là kết quả. Đó là “nghiệp chướng, nghiệp
đạo”, nay chúng ta thảy đều đang tạo
tác.
(Diễn)
Thử nhị chi thuộc quá khứ.
(演) 此 二 支 屬 過 去。
(Diễn: Hai chi này thuộc
về quá khứ).
Hai
điều này đều nói về quá khứ, v́ trong đời
quá khứ, quư vị mê hoặc, điên đảo, tạo
nghiệp, một đời này thọ báo, trở thành quả
báo của quư vị. Cách thức thọ báo như thế
nào? Trước hết là đến đầu thai. Trong lục
đạo, chúng ta nói đến nhân đạo, tuy nói một
đường này, nhưng năm đường kia đều
chẳng ra ngoài lệ ấy, đều giống như
nhau.
(Diễn)
Tam, Thức, thác thai nhất phần khí tức.
(演) 三、識,托 胎 一 分 氣 息。
(Diễn: Ba là Thức,
tức là một phần khí tức nương gá nơi
thai).
“Thức” (Vijñāna) là thần thức, tục ngữ
gọi nó là “linh hồn”. Linh hồn đến đầu
thai. Thần thức có tốc độ vô cùng lớn,
vượt thoát thời gian và không gian. Tuy Khổng lăo phu tử
chẳng nói rơ, nhưng từ văn chương của
Ngài cũng thấu lộ đôi chút tin tức. Trong phần
Hệ Từ Truyện của kinh Dịch, Ngài nói: “Du hồn vi biến” (Cái hồn
phiêu du biến hóa); thần thức chính là “du hồn” (遊魂), Khổng lăo phu tử gọi nó là “du hồn”. Nói là “du hồn”
th́ tuyệt đối chánh xác. V́ sao? Tốc độ chuyển
động của nó quá nhanh. “Du
hồn vi biến, tinh khí vi vật” (Cái hồn phiêu du biến
hóa, tinh khí hóa thành vật), hai câu này hoàn toàn giống với
vũ trụ quan và nhân sinh quan trong Phật pháp. “Vật” (物) là vật chất,
vật chất từ đâu mà có? Do Tinh Khí biến thành vật.
Có thể thấy Khổng lăo phu tử hoàn toàn chẳng thừa
nhận thật sự có vật chất tồn tại, vật
chất là tinh khí mà thôi! Các khoa học gia hiện thời chẳng
thừa nhận có vật chất, [họ nói] vật chất
là chấn động, là huyễn tướng do ánh sáng chấn
động, chẳng phải là thật sự có vật chất.
Kinh Dịch từ hai ngàn năm trăm năm trước
của Khổng lăo phu tử có thể tương ứng với
khoa học hiện đại. Các khoa học gia chẳng
đọc sách của Khổng Tử. Họ đọc
sách của Khổng Tử sẽ càng thông minh hơn, trong Phật
pháp càng nói cặn kẽ hơn nữa. Tinh Khí như Khổng
lăo phu tử đă nói chính là ǵ? Trong Duy Thức gọi chúng
là Kiến Phần. Vật là ǵ? Vật là Tướng Phần.
Kiến Phần và Tướng Phần có cùng cội nguồn,
Kiến Phần và Tướng Phần chẳng hai! Phật
pháp nói như vậy đó!
Có rất
nhiều người kết hôn nhưng suốt đời
chẳng có con, v́ sao? Chẳng có duyên! Con cái phải có duyên với
quư vị th́ chúng mới đầu thai vào nhà quư vị.
Chúng nó chẳng có duyên với quư vị, sẽ chẳng
đầu thai vào nhà quư vị. Nói cách khác, chúng nó đi
đầu thai, phải t́m đối tượng. Quư vị
mong cầu chúng nó, chưa chắc chúng nó đă để ư tới
quư vị! T́m đối tượng nào? Có mối quan hệ
trong đời quá khứ. Trong kinh, đức Phật
đă nói bốn loại nhân duyên:
1) Loại thứ
nhất là báo ân. Trong đời quá khứ, đôi bên có ân huệ
với nhau, lần này chúng nó lại thấy quư vị, bèn
đầu thai vào nhà quư vị, sẽ trở thành con hiếu,
cháu hiền, đến để báo ân.
2) Loại thứ
hai là báo oán. Trong đời quá khứ, quư vị kết cừu
hận với họ. Gặp gỡ lần này, họ đến
làm con cái quư vị, mai sau lớn lên sẽ thành đứa
con khiến cho gia đ́nh suy bại, khiến cho quư vị
nhà tan, người chết, nó đến để báo thù quư
vị! V́ thế, chớ nên kết oán cừu cùng kẻ
khác. Kẻ oán cừu bên ngoài có thể đề pḥng, chứ
họ đến đầu thai trong nhà quư vị, làm cách
nào đây? Quư vị hại chết kẻ đó, thần thức
kẻ ấy sẽ đến làm con cháu trong nhà quư vị.
Đó gọi là “con cháu ngỗ nghịch” khiến cho nhà tan,
người chết!
3) Loại thứ
ba là đ̣i nợ. Đời quá khứ, cha mẹ thiếu
nợ chúng nó, chúng nó đến đ̣i nợ. Nếu thiếu
nợ ít, nuôi hai, ba năm, con bèn chết. Nếu thiếu nợ
nhiều, đại khái là nuôi đến khi tốt nghiệp
đại học, sắp có thể làm việc bèn chết
mất. Nợ đă đ̣i xong, nó bèn ra đi.
4) Loại thứ
tư là trả nợ. Con cái thiếu nợ cha mẹ,
đời này gặp gỡ, nó phải trả nợ. Nó phải
nỗ lực làm lụng để nuôi nấng cha mẹ. Nếu
nó thiếu nợ cha mẹ rất nhiều, nó cung phụng
cha mẹ vật chất rất trọng hậu. Nếu
thiếu nợ rất ít, nó lo cho cuộc sống của
cha mẹ rất tệ bạc, miễn sao quư vị chẳng
chết đói là được rồi. Hạng người
này tuy có thể phụng dưỡng cha mẹ, nhưng thiếu
ḷng cung kính, chẳng có tâm hiếu thuận. Báo ân bèn có tâm hiếu
thuận, chứ trả nợ chẳng có tâm hiếu thuận.
Thậm chí trong ḷng chúng nó c̣n ghét bỏ, chán ngán cha mẹ,
nhưng vẫn cho quư vị tiền để sống, nhiều
hay ít là do xưa kia quư vị thiếu chúng nó nhiều hay ít.
Đức
Phật dạy rơ chân tướng sự thật, người
một nhà là do bốn loại quan hệ ấy mà tụ hợp.
Gia đ́nh là như thế, mà người trong một họ
cũng là như thế. Ân, oán, nợ nần nhiều, bèn
biến thành cha con, anh em một nhà. Ân oán, nợ nần ít
hơn th́ biến thành thân thích, bầu bạn. Do đó, giữa
người và người với nhau đều có duyên phận.
Quư vị đi đường, một kẻ xa lạ gật
đầu mỉm cười với quư vị cũng là do
duyên phận xưa kia. Thấy một kẻ xa lạ, vừa
thấy kẻ ấy liền cảm thấy gai mắt
cũng là do duyên phận trong quá khứ.
Phải
hiểu rơ chân tướng sự thật, chúng ta khởi
tâm động niệm chớ nên không cẩn thận, ngàn
muôn phần đừng kết oán cừu với hết thảy
chúng sanh, đừng nên có quan hệ nợ nần với hết
thảy chúng sanh. Thiếu nợ phải trả cho sạch
nợ, để đời sau khỏi phải đền
trả nữa. Chuyện này rất phiền toái! Giáo huấn
của thánh hiền Nho và Phật đều dạy chúng ta
phải hóa giải ân oán. [Hóa giải] sẽ là phương
pháp tốt lành nhất và viên măn nhất. Chỉ có Nho và Phật
mới có thể làm được, những thứ giáo dục
khác trong thế gian chẳng thể thực hiện
được! Điều này nhằm nói rơ đầu thai
chẳng phải là tùy tiện bèn trở thành người một
nhà, chẳng phải như vậy, mà là đă có quan hệ trong
đời quá khứ .
Khi
vừa đầu thai th́ lúc đó bèn gọi là Thức, do
chẳng thể đặt tên gọi cho nó, nó mới vừa
đầu thai mà! Mẹ hoài thai, tức là thần thức
đến đầu thai.
(Diễn)
Tứ, Danh Sắc.
(演) 四、名 色。
(Diễn:
Bốn là Danh Sắc).
Danh
Sắc (Nāmarūpa) là thai nhi c̣n
chưa phát triển thành h́nh dạng [con người], đại
khái là trong mười bốn ngày, chưa phát triển thành
h́nh thể rơ rệt, thứ ǵ cũng chẳng nhận ra
được, chỉ là một khối thịt, nhưng
trong khối thịt ấy có thần thức, nên gọi là
Danh Sắc. Danh là tâm, sống động, chẳng chết
cứng, Sắc là vật chất. [V́ thế], gọi [gộp
chung] là Danh Sắc.
(Diễn)
Ngũ, Lục Nhập.
(演) 五、六 入。
(Diễn: Năm là Lục
Nhập).
Lục
Nhập (Ṣaḍāyatana) là thai nhi thành
h́nh, mang dáng vẻ con người, sáu căn đă mọc
ra, khi đó sẽ gọi là Lục Nhập. Khi sáu căn
chưa lộ ra th́ gọi là Danh Sắc.
(Diễn)
Lục căn thành, thử thai trung.
(演) 六 根 成,此 胎 中。
(Diễn:
Sáu căn h́nh thành, những giai đoạn này đều ở
trong thai).
Thức,
Danh Sắc, Lục Nhập, ba chi này đều ở trong
thai.
(Diễn)
Lục, Xúc.
(演) 六、觸。
(Diễn:
Sáu là Xúc).
Xúc
(Sparśa) là xuất thai,
tiếp xúc cảnh giới bên ngoài, tức là được
sanh ra. Có thể nói là từ sanh ra cho đến khi già, chết,
luôn tiếp xúc cảnh giới bên ngoài. V́ thế, sau khi rời
khỏi thân mẹ đều gọi là Xúc, thời gian này hết
sức dài. V́ sao xếp nó vào chỗ này? Xếp nó vào [chỗ
này] là có đạo lư. Ví như đứa trẻ vừa mới
được sanh ra, tuy tiếp xúc [cảnh giới] bên
ngoài, nó vẫn chưa có cảm nhận, vẫn chưa thể
phân biệt.
(Diễn) Thất, Thọ, lănh nạp tiền
cảnh hảo ác đẳng sự.
(演) 七、受,領 納 前 境 好 惡 等 事。
(Diễn: Bảy là Thọ, lănh nhận những
chuyện ưa ghét thuộc tiền cảnh).
Trẻ
thơ [chưa đầy
năm] vẫn chưa có yêu ghét, chẳng có ǵ ham thích, chẳng
có ǵ chán ghét, mà cũng chẳng sợ hăi, ngay cả phân của
chính nó, nó cũng ăn. Lúc đó, nó điều ǵ cũng
chưa hiểu, tức là có Xúc, nhưng chẳng có Thọ
(Vedanā). Đợi cho
nó dần dần lớn lên, bèn có tâm yêu ghét. Trước khi
có Thọ, người Hoa thường nói là “thiên chân” (ngây thơ, ngờ
nghệch). Trong tâm nó thanh tịnh, hết sức vui sướng,
chẳng lo lắng, chẳng ưa ghét. Người thuở
trước, thời gian ngây thơ rất lâu, thông thường
là từ mười tuổi trở đi mới biết
đến ưa ghét, có ưa thích, có chán ghét, trước
khi mười tuổi th́ chẳng biết. Tuổi thơ
hạnh phúc quá! Trẻ nhỏ hiện thời đáng
thương lắm, một hai tuổi đă có ưa, ghét,
thời gian thơ ngây bị rút ngắn! Nó phải chịu
khổ, chịu vui trước tuổi, cớ sao biết
trước tuổi? Hằng ngày xem TV, TV dạy nó mỗi
ngày! V́ thế, trẻ hai ba tuổi đă biết nh́n sắc
mặt, nhận biết giọng điệu, biết
người lớn đang vui thích hay chán ghét, trong tâm nó bèn
toan tính, vận dụng tâm cơ! Trước kia, trong xă hội
nông thôn, trẻ mười một, mười hai tuổi,
chuyện ǵ cũng không biết, trừ chơi đùa ra, nó
chẳng hiểu chuyện, thời gian ngây thơ dài lâu, hiện
thời đă bị rút ngắn.
Đừng
sanh làm người hiện thời! Đến đầu
thai làm người, tôi không làm! Con người quá khổ!
Chẳng sung sướng như người thuở trước,
người hiện thời khổ hơn tiền nhân. Tuy
hiện thời khoa học kỹ thuật phát triển, thật
ra chẳng có ư vị như xưa kia. Ví dụ như
đèn điện soi rất sáng, rất nhanh chóng, tiện
lợi, bất quá chẳng có thi vị và t́nh điệu
như đèn nến. Hiện thời, chúng ta đến Mỹ,
ngồi máy bay khoảnh khắc bèn đến. Trước
kia, ngồi thuyền buồm, phải mất mấy tháng,
hoặc nửa năm, ư vị cũng khác hẳn! Cuộc
sống của người xưa quả thật là t́nh
thơ ư họa, hiện thời chẳng c̣n nữa. Người
hiện thời sống như một cỗ máy, hết sức
đáng thương! Ư vị làm người chẳng có, ư
nghĩa giá trị con người bị chôn vùi. Tôi thấy
nhân gian hiện thời chẳng thể coi là thiện đạo,
mà A Tu La cũng chẳng thể coi là thiện đạo.
V́ lẽ đó, Thọ là lănh nạp cảnh giới ưa
hay ghét.
Năm
loại quả báo này là quả báo trong đời này, Vô Minh
và Hành trong kiếp trước là duyên, là nhân. Có nhân duyên ấy
th́ mới có quả báo trong một đời này. Nếu
chư vị thật sự hiểu đạo lư trong Phật
pháp, nói “hiểu đạo lư trong Phật pháp” nghĩa là nhận
thức chân tướng của vũ trụ và nhân sinh.
Đời này chúng ta chịu khổ, hưởng vui, chớ
nên oán trời hờn người. V́ sao? Tự làm, tự
chịu. Khổ nạn chẳng phải do người khác
ban cho chúng ta, mà do chính ḿnh tạo tác! Làm sao có thể trách
móc kẻ khác cho được? Có thể nào oán trách ông trời
chẳng công bằng? Chẳng thể! Dấy lên ư niệm ấy
chính là lại tạo tội, tạo tội càng nặng
hơn! Phát tài hay trúng số đều do mạng. Chẳng
có vận mạng ấy, bèn hủy phá tượng Bồ
Tát, quỷ, thần, tạo tội nghiệp càng lớn
hơn nữa. Tôi nghe nói có kẻ chơi vé số Lục Hợp
Thái[3], lạy
lục Phật, Bồ Tát, cầu các Ngài phù hộ họ
trúng số. Không trúng số, hôm sau bèn chặt đầu
tượng Phật, Bồ Tát, đốt rụi, đó là
tạo nghiệp! Tội nghiệp oán trời hờn
người càng nặng! Thọ là có nhân quả. Ba điều
tiếp theo lại là sự tạo tác trong đời hiện
tại.
(Diễn)
Bát, Ái.
(演) 八、愛。
(Diễn:
Tám là Ái).
Ái (Tṛṣṇā) là tham ái.
(Diễn)
Ái nam, nữ, kim, ngân đẳng sự.
(演) 愛 男 女 金 銀 等 事。
(Diễn:
Yêu mến những thứ như nam, nữ, vàng, bạc
v.v…).
Phạm
vi của Ái quá nhiều, có chữ Đẳng (vân vân) là
đủ [diễn tả ư quá nhiều]. Ái là vô minh, là mê hoặc.
Đă ái, kẻ ấy c̣n có hành động, tạo tác; sau
khi đă có tạo tác bèn Thủ.
(Diễn)
Cửu, Thủ, phàm kiến nhất thiết cảnh giới
sanh thủ trước tâm.
(演) 九、取,凡 見 一 切 境 界 生 取 著 心。
(Diễn: Chín là Thủ,
hễ trông thấy hết thảy cảnh giới bèn sanh
tâm chấp giữ).
Tự
ḿnh yêu thích, đó là Ái. Muốn chiếm hữu nó, đó là
Thủ (Upādāna). Không ưa thích
nó, muốn ĺa khỏi nó, cũng là Thủ, đều là chấp
giữ, là tạo nghiệp, tạo tác. Khởi tâm động
niệm tạo tác đều bao gồm trong chữ [Thủ]
này. Sau tạo tác bèn Hữu.
(Diễn)
Thử nhị vị lai nhân, giai thuộc phiền năo,
như quá khứ vô minh.
(演) 此 二 未 來 因,皆 屬 煩 惱,如 過 去 無 明。
(Diễn: Hai điều
này đều là cái nhân của vị lai, đều thuộc
về phiền năo, giống như vô minh trong quá khứ).
Đây
là mê hoặc, mê hoặc tạo nghiệp! C̣n có nghiệp tập
chủng tử.
(Diễn)
Thập, Hữu. Nghiệp dĩ thành tựu, thị vị
lai nhân thuộc nghiệp đạo, như quá khứ Hành.
(演) 十、有。業 已 成 就,是 未 來 因 屬 業 道,如 過 去 行。
(Diễn: Mười
là Hữu, nghiệp đă thành tựu, là cái nhân của vị
lai, thuộc về nghiệp đạo, giống như
Hành trong quá khứ).
Hữu
(Bhava) là gieo chủng tử thiện ác trong A Lại Da Thức.
Hữu là có chủng tử. Có chủng tử th́ đời
sau lại phải thọ báo. Sự tạo tác của chúng
ta trong đời này là Ái, Thủ, Hữu.
(Diễn)
Thập nhất, Sanh, vị lai thọ sanh sự.
(演) 十 一、生,未 來 受 生 事。
(Diễn:
Mười một là Sanh, tức là chuyện thọ sanh
trong tương lai).
Đời
sau c̣n phải luân hồi, phải đi đầu thai.
(Diễn)
Thập nhị, lăo tử.
(演) 十 二、老 死。
(Diễn: Mười
hai là già chết).
Sau
khi đầu thai, lại phải làm những chuyện này,
vĩnh viễn luân chuyển, đó là luân hồi. V́ sao có
luân hồi? Hiện tượng luân hồi là ǵ? Thập Nhị
Nhân Duyên đă giải đáp vấn đề này cho quư vị.
Luân hồi do chính ḿnh tạo ra! Hiện tượng luân hồi
đáng sợ dường ấy, chúng ta phải giác ngộ
điều này. Sau khi giác ngộ, phải như thế nào
th́ mới có thể ĺa khỏi luân hồi? Ĺa khỏi luân hồi,
chẳng thể ĺa khỏi [luân hồi từ nơi] quả
báo được! Có người sống rất đau khổ,
cảm thấy cuộc đời chẳng có ư nghĩa ǵ,
bèn tự sát. Tự sát có thể giải quyết vấn
đề hay chăng? Chẳng thể giải quyết vấn
đề, [v́] chẳng thể giải quyết vấn
đề nơi quả báo! Để giải quyết vấn
đề th́ phải giải quyết từ nhân và duyên,
đoạn sạch nhân và duyên. Chúng ta biết Ái là duyên, quư
vị có thể chẳng yêu thích hết thảy, sanh tử
luân hồi sẽ bị đoạn. Đó là một
phương pháp rất thông minh. Nếu chưa thể, [hăy
thực hiện] từ Thủ, đoạn sạch Thủ
cũng được, cũng ĺa thoát luân hồi. Từ
Quyền Giáo trở xuống, tức là Quyền Giáo Bồ
Tát, Duyên Giác, và Thanh Văn đều thực hiện đoạn
trừ [luân hồi] từ hai điều này. Hàng Bồ Tát
lợi căn, Đại Thừa Bồ Tát, Thật Giáo Bồ
Tát thực hiện từ Hữu, đó là công phu thật sự.
Hữu là ǵ? Các Ngài chẳng đoạn Ái và Thủ,
nhưng trong tâm chẳng giữ ấn tượng, đó
là cao minh nhất. Mật Tông đoạn từ chỗ này,
chúng ta có bản lănh ấy hay chăng? Ái và Thủ chẳng
đoạn, tâm địa thanh tịnh chẳng giữ lại
ấn tượng, kẻ b́nh phàm sẽ chẳng thể
làm được chuyện ấy! Đối với kẻ
b́nh phàm, hai chữ trước sẽ dễ dàng, chữ sau
hết sức khó khăn! V́ lẽ đó, [người
đoạn trừ được Hữu] sẽ là Đại
Thừa Bồ Tát. Hễ làm được, bèn dạo
chơi trong nhân gian, thật sự đắc đại tự
tại. Người có Ái và Thủ, nhưng chẳng có Hữu,
sẽ chẳng đọa lạc luân hồi.
Chúng
ta chẳng làm được, chỉ đành niệm A Di
Đà Phật. Niệm A Di Đà Phật, chúng ta cũng có Hữu.
Ái, Thủ và Hữu đều có, chúng ta ái A Di Đà Phật,
thủ A Di Đà Phật, trong tâm có A Di Đà Phật,
như vậy là đới nghiệp văng sanh. V́ trong lục
đạo luân hồi chẳng t́m thấy A Di Đà Phật,
trong ba ác đạo chẳng có A Di Đà Phật, trong Tu La
cũng chẳng có A Di Đà Phật, trong cơi người
cũng chẳng có A Di Đà Phật, trong cơi trời
cũng chẳng có A Di Đà Phật. V́ thế, quư vị
ái, thủ, hữu A Di Đà Phật, sẽ chẳng có cách
nào thọ báo trong lục đạo, đành phải đến
Tây Phương Cực Lạc thế giới để thọ
báo, tuyệt diệu thay! Do vậy, tám vạn bốn ngàn
pháp môn, chẳng có pháp môn nào diệu bằng pháp môn này! Nay
chúng ta đối với ba thứ Ái, Thủ, Hữu đều
chẳng đoạn trừ, chỉ có cách thay đổi ư
niệm, đổi thành A Di Đà Phật. V́ vậy, tôi bảo
các vị đồng tu hằng ngày hăy nh́n ngắm tượng
Phật, mỗi ngày niệm A Di Đà Phật, mỗi ngày
niệm kinh Vô Lượng Thọ, niệm kinh A Di Đà, chớ
nên gián đoạn ngày nào, thật sự phải làm được
“phát Bồ Đề tâm, một
mực chuyên niệm”, như vậy là tốt đẹp!
(Diễn)
Thử tức thị Tứ Đế, sở dĩ trùng
khai giả.
(演) 此 即 是 四 諦,所 以 重 開 者。
(Diễn:
Đấy chính là Tứ Đế được mở rộng
ra).
Đây
chính là triển khai Tứ Đế thành Thập Nhị
Nhân Duyên.
(Diễn)
Dĩ Duyên Giác chi nhân, tiên quán Tập Đế.
(演) 以 緣 覺 之 人,先 觀 集 諦。
(Diễn:
V́ hàng Duyên Giác trước là quán Tập Đế).
Họ
chẳng giống Thanh Văn. Thanh Văn tu tập từ Khổ
Đế, c̣n Duyên Giác tu tập từ Tập Đế.
(Diễn) Sở vị
Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Thức, năi chí Sanh duyên Lăo Tử, thử
tắc sanh khởi.
(演) 所 謂 無 明 緣 行,行 緣 識,乃 至 生 緣 老 死,此 則 生 起。
(Diễn: Thường
nói là Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Thức, cho đến Sanh duyên
Lăo Tử. Đấy chính là sanh khởi).
Tùy
thuận Thập Nhị Nhân Duyên là sanh tử luân hồi. Nếu
muốn vượt thoát lục đạo luân hồi,
đi ngược lại Thập Nhị Nhân Duyên là
được.
(Diễn)
Nhược Diệt quán giả, Vô Minh diệt, tắc Hành
diệt, năi chí Sanh diệt, tắc Lăo Tử diệt.
(演) 若 滅 觀 者,無 明 滅,則 行 滅,乃 至 生 滅,則 老 死 滅。
(Diễn: Nếu quán
Diệt th́ Vô Minh diệt ắt Hành diệt, cho đến
Sanh diệt th́ Lăo và Tử đều diệt).
Quư
vị xem ngược trở lại th́ chính là trí huệ, sẽ
thấy thấu suốt vũ trụ và nhân sinh.
(Diễn)
Nhân quán Thập Nhị Nhân Duyên, giác Chân Đế lư, cố
ngôn Duyên Giác. Thử nhân đoạn tam giới Kiến
Tư, dữ Thanh Văn đồng.
(演) 因 觀 十 二 因 緣,覺 真 諦 理,故 言 緣 覺。此 人 斷 三 界 見 思,與 聲 聞 同。
(Diễn:
Do quán Thập Nhị Nhân Duyên, giác ngộ lư Chân Đế;
v́ thế nói là Duyên Giác. Người này đoạn Kiến
Tư Hoặc trong tam giới, giống như Thanh Văn).
Đoạn
chứng của Duyên Giác giống như Thanh Văn,
nhưng thông minh hơn Thanh Văn.
(Diễn)
Cánh xâm tập khí, cố cư Thanh Văn thượng.
(演) 更 侵 習 氣,故 居 聲 聞 上。
(Diễn:
Do đă đoạn trừ tập khí, nên cao hơn Thanh
Văn).
Thanh
Văn đoạn Kiến Tư phiền năo, chẳng
đoạn tập khí, c̣n Duyên Giác tập khí đoạn sạch,
nên công phu cao hơn A La Hán. Tập khí là ǵ? Kinh Phật có một
tỷ dụ: Ví như b́nh rượu dùng để đựng
rượu, nay quư vị đổ sạch rượu
đi, trong ấy xác thực là chẳng có rượu nữa.
Quư vị lại dùng khăn khô lau chùi sạch sẽ,
nhưng vẫn ngửi thấy mùi rượu, đó gọi
là tập khí.
Trong
các vị đệ tử của đức Phật, có rất
nhiều vị là con em nhà phú quư theo Phật xuất gia.
Người phú quư luôn có tập khí ngạo mạn, các Ngài
đă chứng quả A La Hán, xác thực đă đoạn
trừ ngạo mạn, thật sự chẳng có nữa,
nhưng đôi khi vẫn c̣n thái độ cao ngạo,
đó là tập khí. Có phải là thật sự có hay
chăng? Thật sự chẳng có, các Ngài cung kính người
khác, nhưng tập khí hăy c̣n! Phiền năo đoạn dễ
dàng, tập khí khó trừ! Tập khí thường khiến
cho kẻ khác hiểu lầm, chẳng chướng ngại
sự tu hành của chính ḿnh, nhưng gây trở ngại cho
việc giáo hóa chúng sanh; do đó, phải đặc biệt
chú ư tập khí. Làm người nhất định phải
học khiêm hư, cung kính, lễ độ, nhường
nhịn, học tập đoạn trừ những tập
khí ấy. Hôm nay, chúng tôi giảng tới chỗ này.
Tập
198
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn
Nghĩa Hội Bản, trang bốn trăm lẻ một,
phần này nói về Thập Nhị Nhân Duyên, tức là sự
tu chứng của bậc Duyên Giác.
(Diễn)
Thúc chi bất xuất Tứ Đế giả, nhược
Lưu Chuyển Môn, Vô Minh, Ái, Thủ tam chi thị Phiền
Năo Đạo, Hành, Hữu nhị chi thị Nghiệp Đạo,
thử ngũ chi vi Tập Đế, Thức, Danh Sắc
đẳng thất chi vi Khổ Đế.
(演) 束 之 不 出 四 諦 者,若 流 轉 門,無 明 愛 取 三 支 是 煩 惱 道,行 有 二 支 是 業 道,此 五 支 為 集 諦,識 名 色 等 七 支 為 苦 諦。
(Diễn: “Tóm lại,
chẳng ra ngoài Tứ Đế”: Nếu xét theo Lưu Chuyển
Môn, ba chi Vô Minh, Ái, Thủ là Phiền Năo Đạo, hai chi
Hành và Hữu là Nghiệp Đạo. Năm chi này là Tập
Đế, bảy chi Thức, Danh Sắc v.v… là Khổ
Đế).
Tuy
Thập Nhị Nhân Duyên nói khá tỉ mỉ, nhưng quy nạp
lại, vẫn chẳng ra ngoài Tứ Đế. Tứ
Đế là nói tới Khổ, Tập, Diệt, Đạo,
trong Tập Đế là khởi Hoặc, tạo nghiệp.
Vô Minh là phiền năo trong quá khứ, Ái và Thủ là phiền
năo trong hiện tại. Ba chi này đều thuộc về
phiền năo, nên quy nạp vào Hoặc, Nghiệp, Khổ th́
[ba chi ấy] là mê hoặc. Do mê hoặc nên mới có [quả
báo là Khổ]. Ở đây, chúng ta phải đặc biệt
ghi nhớ, Vô Minh là chuyện thuộc đời quá khứ,
chẳng thể làm ǵ được! Hiện thời, nếu
sanh ḷng tham ái hết thảy các pháp, nếu mong tưởng
chấp trước, giữ lấy, th́ chấp trước,
giữ lấy là chiếm hữu, phải giác ngộ! Những
điều ấy đều là mê hoặc, điên đảo.
Hành
là tạo nghiệp trong đời quá khứ, Hữu là hiện
tại, tức là tạo nghiệp trong một đời
này. Đă có nghiệp, đương nhiên sẽ có quả
báo. Hai chi Hành và Hữu là tạo nghiệp. Do vậy có thể
biết, chúng ta có dục vọng chiếm hữu, Phật
môn nói là tạo nghiệp. Thiện nghiệp có thiện báo,
ác nghiệp có ác báo, ác báo là trong ba ác đạo, thiện
nghiệp ở trong ba thiện đạo. Nói chung, chẳng
thoát khỏi lục đạo luân hồi; do đó, chớ
nên tạo nghiệp. Không tạo nghiệp, câu này nói dễ
dàng quá, thực hiện rất khó! V́ sao? Khởi tâm động
niệm đều đang tạo nghiệp, làm thế nào
được nữa!
Hết
thảy các pháp môn đều nhằm giúp chúng ta đoạn
Hoặc, tiêu nghiệp, xuất ly lục đạo luân hồi.
Trong hết thảy các pháp môn, đơn giản nhất, dễ
dàng nhất, nhanh chóng nhất, ổn thỏa, thích đáng
nhất, không ǵ hơn pháp môn Niệm Phật. Trong mười
hai thời, chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối,
trong tâm tưởng Phật, niệm Phật, hết thảy
thời, hết thảy chỗ đều chẳng quên mất
câu Phật hiệu này, đấy cũng là đang tạo
nghiệp, tạo nghiệp ǵ vậy? Tạo tịnh nghiệp,
tạo nghiệp niệm A Di Đà Phật, kể ra nghiệp
ấy cũng khá lắm, v́ sao? Trong tam giới lục đạo
chẳng có, [tức là] trong ba thiện đạo chẳng
có A Di Đà Phật, trong ba ác đạo cũng chẳng có
A Di Đà Phật, đó là tịnh nghiệp. Tạo tịnh
nghiệp, tương lai văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Trừ con đường này ra, thưa thật
cùng quư vị, chúng ta chẳng t́m thấy con đường
thứ hai nào dễ đi! Chúng ta phải tạo tịnh
nghiệp, nghiệp thiện và ác đều chớ nên tạo.
Không chỉ là chớ nên tạo ác nghiệp, mà thiện nghiệp
cũng chẳng làm; như vậy th́ mới có thể xuất
ly.
Vô
Minh, Ái, Thủ, Hành, Hữu, năm điều này là Tập
Đế. Trừ năm điều ấy ra, bảy
điều kia là Khổ Đế. Từ Thức đến
Thọ đều là quả báo trong một đời này.
Quá khứ tạo nhân, hiện tại lănh chịu quả.
Ái, Thủ, Hữu là tạo nhân hiện tại. Sanh, Lăo, Tử
là quả báo trong đời sau. Nếu quư vị hỏi lục
đạo luân hồi do đâu mà có, th́ Thập Nhị Nhân
Duyên đă giảng rành mạch, rơ ràng. Điều này
được gọi là Lưu Chuyển Môn. Lưu Chuyển
là đi theo thứ tự thuận, đó là tạo tác lục
đạo luân hồi. Nếu ngược lại th́…
(Diễn)
Nhược Hoàn Diệt Môn, diệt tiền Thập Nhị
Nhân Duyên chi trí vi Đạo Đế, chứng tịch diệt
lư vi Diệt Đế.
(演) 若 還 滅 門,滅 前 十 二 因 緣 之 智 為 道 諦,證 寂 滅 理 為 滅 諦。
(Diễn:
Nếu là Hoàn Diệt Môn, cái trí diệt mười hai nhân
duyên trên đây là Đạo Đế, chứng lư tịch
diệt là Diệt Đế).
Quư
vị hăy giác ngộ trong chốc lát, v́ sao con người
có già, chết? V́ có sanh. Chẳng có sanh, sẽ chẳng có
già, chết. Sanh có tốt đẹp ǵ? Hậu quả của
sanh là già, chết. V́ sao có sanh? V́ có Thủ. V́ sao có Thủ?
V́ có Ái! Quư vị truy ngược lại để t́m nguyên
nhân của chúng, đó là trí huệ. Đối với Thập
Nhị Nhân Duyên, chỉ cần đoạn một điều
trong mười hai điều, lục đạo luân hồi
chẳng c̣n nữa. Đoạn từ chỗ nào? Thưa
cùng chư vị, phải đoạn từ nhân và duyên, chứ
đoạn nơi quả chẳng được! Có những
kẻ ngu si, cảm thấy cuộc sống rất đau
khổ liền tự sát. Tự sát là đoạn nơi quả,
chẳng đoạn được. Đă tự sát, chẳng
đầy mấy ngày lại đầu thai, lại sanh ra,
vẫn phải luân hồi trong lục đạo! V́ vậy,
tự sát chẳng phải là hết chuyện, chẳng thể
giải quyết vấn đề. Không chỉ chẳng thể
giải quyết vấn đề, mà chỉ càng làm cho vấn
đề tệ hại hơn, đời sau chẳng biết
sẽ khổ hơn đời này bao nhiêu lần, đừng
làm như thế! Phải đoạn từ nơi nhân,
[đoạn] từ nơi nhân là đoạn nơi Tập
Đế, chứ Khổ Đế chẳng có cách nào
đoạn được, [bởi lẽ], Khổ là quả!
Đối với Tập, chúng ta biết Vô Minh và Hành thuộc
về đời quá khứ, đời quá khứ th́ làm sao
quư vị có thể đoạn được? Chỉ trong
đời hiện tại th́ xét trong Thập Nhị Nhân
Duyên, đời hiện tại chỉ có ba chi là Ái, Thủ,
Hữu. Trong ba chi Ái, Thủ, Hữu, có thể đoạn
một chi. Hoặc là quư vị đoạn trừ Ái, đoạn
trừ Thủ, đoạn trừ Hữu, đoạn một
chi trong ba chi ấy là được, sẽ thoát ĺa lục
đạo luân hồi. Đó gọi là Hoàn Diệt Môn. Quư vị
có trí huệ, biết chân tướng sự thật, biết
thực hiện từ chỗ nào, đó là Đạo Đế.
Đạo là phương pháp, cửa nẻo, quư vị
đă t́m được. Thật sự vượt thoát
luân hồi, liễu sanh tử, đó chính là Diệt Đế.
Chứng lư tịch diệt là Diệt Đế. Đây là
nói rơ Thập Nhị Nhân Duyên chẳng ra ngoài Tứ Đế.
Duyên
Giác tuy độ chúng sanh, nói thật ra, chẳng khác A La Hán
cho mấy! Ngài chẳng chủ động hóa độ
chúng sanh, vẫn là chúng sanh đến cầu Ngài, Ngài mới
chịu dạy. Chúng sanh chẳng cầu Ngài, Ngài sẽ chẳng
t́m người khác [để dạy bảo], chẳng giống
như Bồ Tát là “bạn chẳng
thỉnh”. V́ thế, Ngài độ chúng sanh chẳng nhiều,
mà cũng chẳng rộng. Duyên Giác và Thanh Văn được
gọi là Tiểu Thừa. Nếu nói thành ba thừa th́ Thanh
Văn là Tiểu Thừa, Duyên Giác là Trung Thừa, Bồ Tát
là Đại Thừa.
(Sao)
Toán số giả.
(鈔) 算 數 者。
(Sao:
Tính toán…).
Đoạn
này nhằm giải thích câu kinh “phi
thị toán số chi sở năng tri” (chẳng thể
tính toán để biết được). “Toán số” ở đây là một danh từ,
được giải thích đơn giản [như sau].
(Sao)
Thế gian toán số, tận ư Cửu Chương.
(鈔) 世 間 算 數,盡 於 九 章。
(Sao:
Phép tính toán trong thế gian đều xuất phát từ Cửu
Chương).
Cửu
Chương[4] là Toán Học cổ
đại của Trung Hoa. Toán Học hiện thời tiến
bộ hơn xưa kia rất nhiều.
(Sao)
Phật thuyết toán số, như A Tăng Kỳ phẩm,
tắc phi thế nhân tâm lực sở kế.
(鈔) 佛 說 算 數,如 阿 僧 祇 品,則 非 世 人 心 力 所 計。
(Sao:
Cách tính toán số lượng như đức Phật
đă nói phẩm A Tăng Kỳ th́ tâm lực của
người đời chẳng thể tính toán được).
“A Tăng Kỳ phẩm” là một
phẩm của kinh Hoa Nghiêm. Phẩm kinh này giảng về
Toán Học, [nói ra] những con số quá lớn, phàm phu chúng
ta chẳng có cách nào tính toán.
(Sao)
Kim vân toán số, thông thế xuất thế gian nhi ngôn dă.
Dĩ kỳ đa đa vô tận, siêu xuất toán số
chi ngoại, tuy Lạc Hoằng, Nhất Hạnh, vô sở
thi kỳ xảo giả dă.
(鈔) 今 云 算 數,通 世 出 世 間 而 言 也。以 其 多 多 無 盡,超 出 算 數 之 外,雖 洛 閎 一 行,無 所 施 其 巧 者 也。
(Sao: Nay nói đến
“toán số” là nói gồm trọn [các phương pháp tính
toán trong] thế gian và xuất thế gian. Do con số ấy
nhiều vô tận, vượt ngoài khả năng tính toán.
Dẫu là Lạc Hoằng hoặc Nhất Hạnh, cũng
chẳng có cách nào thi thố tài khéo được).
Ở
đây, kinh nói “toán số”
đă bao gồm tất cả những cách tính toán trong thế
gian và xuất thế gian. Nhưng những con số ấy
hết sức lớn, nếu chẳng phải là nhà Toán Học
rất cao minh, tuyệt đối chẳng phải là kẻ
tầm thường có thể tính toán nổi! “Lạc Hoằng, Nhất Hạnh”
là những nhà Toán Học vào thời xưa của Trung
Hoa. Liên Tŕ đại sư là người đời Minh;
đương nhiên là từ sau nhà Minh, do giao thông phát triển,
nhiều nhà toán học thuộc các quốc gia khác trên thế
giới vượt trỗi Trung Quốc. Vào thời cổ,
người Hoa vượt trội người ngoại quốc,
hiện thời có rất nhiều người ngoại quốc
chuyên tinh, suốt đời dốc sức nơi một
môn, thâm nhập một môn, nên xuất hiện chẳng ít
nhà Toán Học [lỗi lạc]. Những nhà Toán Học này
cũng chẳng có cách nào biết rơ những con số
được nói trong kinh Phật.
(Diễn)
Toán số Cửu Chương giả.
(演) 算 數 九 章 者。
(Diễn:
Toán số Cửu Chương…).
Cửu
Chương là ǵ? Ở đây là giải thích danh từ Cửu
Chương, nội dung chẳng thể nói chi tiết
được. Nói thật ra, [các thuật toán trong Cửu
Chương] cũng rất gần với Toán Học hiện
đại. Toán Học cận đại tiến bộ
hơn Toán Học Trung Hoa vào thời cổ rất nhiều.
(Diễn)
Nhất Phương Điền, nhị Túc Bố, tam Sai
Phân, tứ Thiếu Quảng, ngũ Thương Công, lục
Quân Thâu, thất Phương Tŕnh, bát Doanh Nục, cửu
Câu Cổ.
(演) 一 方 田,二 粟 布,三 差 分,四 少 廣,五 商 功,六 均 輸,七 方 程,八 盈 朒,九 勾 股。
(Diễn:
Một là Phương Điền, hai là Túc Bố, ba là Tu
Phân, bốn là Thiếu Quảng, năm là Thương Công,
sáu là Quân Thâu, bảy là Phương Tŕnh, tám là Doanh Nục,
chín là Câu Cổ).
Nay
chúng ta gọi “phương
tŕnh” là phương tŕnh[5], “câu cổ” nay được
gọi là rút căn bậc hai. Đây là những danh từ
toán học Trung Hoa từ xưa[6].
(Diễn)
“Lạc Hoằng, Nhất Hạnh” giả, Lạc Hoằng
Hán Vũ Đế thời nhân, tinh ư lịch số, Hán
thời cải Chánh Sóc kỳ sở định dă, toán châu
thiên số vân: “Hậu kỷ bách niên, đương hữu
sai ngoa, tất hữu thánh nhân xuất nhi chánh chi”.
(演) 洛 閎 一 行 者,洛 閎 漢 武 帝 時 人,精 於 曆 數,漢 時 改 正 朔,其 所 定 也。算 周 天 數 云:後 幾 百 年,當 有 差 訛,必 有 聖 人 出 而 正 之。
(Diễn: “Lạc Hoằng[7] , Nhất Hạnh”: Lạc Hoằng là người sống
vào thời Hán Vũ Đế, tinh thông lịch số. Việc
sửa đổi ngày mồng Một tháng Giêng vào thời
Hán là do ông ấn định. Khi ông tính toán số châu thiên
đă nói: “Mấy trăm năm sau, sẽ bị sai ngoa, ắt
có thánh nhân ra đời sửa đổi cho đúng”).
Lạc
Hoằng là một nhà Toán Học. Toán Học là mẹ của
khoa học! Số Lư[8] có thể suy diễn
vận mạng suốt đời của mỗi cá nhân, mở
rộng ra là quốc gia, thế giới, ngay cả sự vận
chuyển của các tinh cầu trong vũ trụ cũng
đều có thể tính toán. Rất nhiều tinh cầu
trong Thiên Văn Học, trước hết là do suy luận
Toán Học mà t́m ra, biết ở chỗ nào đó phải
có tinh cầu. Sau đấy lại t́m ṭi, quả nhiên t́m
được. Đó là nh́n vào sự vận hành của
tinh cầu, v́ sự vận hành của nó bị ảnh
hưởng bởi sức hấp dẫn giữa các vật
thể, từ đó suy diễn ra [kết quả]. Tuy
chưa phát hiện, nhưng biết là phải có [một
thiên thể ở nơi đó], nên mới có hiện tượng
ấy. Thiên Vương Tinh (Uranus) và Minh Vương Tinh
(Diêm Vương Tinh, sao Pluto) đều là trước hết
suy luận từ Số Lư, sau đấy mới t́m
được những tinh cầu ấy. Có rất nhiều
dự ngôn (lời tiên đoán) cũng được diễn
dịch dựa trên suy luận Số Lư, nhưng có khi phạm
sai sót, rất khó tránh khỏi, không nhất thiết là hoàn
toàn chánh xác! Nếu thấy trong Định, sẽ có thể
thấy chuyện thuộc ngàn vạn năm sau trong cơi này
hay phương khác. Đó là cảnh giới Hiện Lượng,
chẳng sai lầm tí nào! Ở đây, [sách Diễn Nghĩa
nói] ông ta tính toán con số châu thiên, nói theo thiên văn hiện
thời, [số châu thiên] chính là [tính toán] sự vận hành
của tinh cầu. Mấy trăm năm sau, tốc độ
vận hành và góc độ của các tinh cầu sẽ bị
sai lệch lớn hơn đôi chút, nên lịch pháp cần
phải tu chỉnh.
(Diễn)
Đường Huyền Tông thời, tăng Nhất Hạnh
quả xuất, phục định lịch số.
(演) 唐 玄 宗 時,僧 一 行 果 出,復 定 曆 數。
(Diễn:
Vào thời Đường Huyền Tông, quả nhiên sư
Nhất Hạnh[9] xuất hiện, lại ấn định lịch số).
Thời
Đường Huyền Tông (Đường Minh Hoàng), có một
vị xuất gia là pháp sư Nhất Hạnh tinh thông
Thiên Văn và Toán Học, Ngài cũng thông hiểu những
điều này. “Phục định
lịch số” là tu chỉnh lịch số một lần
nữa. Đó là Nông Lịch được sử dụng
tại Trung Hoa hiện thời, dựa trên tiêu chuẩn mặt
trăng xoay quanh địa cầu, c̣n gọi là Âm Lịch.
Lịch của người Tây Dương gọi là
Dương Lịch, dựa theo tiêu chuẩn trái đất
xoay quanh mặt trời để tính toán. Những nhà đại
toán học đối với các số lượng đă
nói trong kinh Phật cũng chẳng có cách nào suy luận!
(Sao) Thượng
ngôn vô lượng vô biên, thập đại số trung,
đương kỳ nhị tam.
(鈔) 上 言 無 量 無 邊,十 大 數 中 當 其 二 三。
(Sao:
Vô lượng và vô biên như đă nói trên đây đứng
vào hàng thứ hai và thứ ba trong mười con số lớn).
Mười
con số lớn được nói trong phẩm A Tăng Kỳ.
Đơn vị số đếm của cổ Ấn
Độ tính từ những số căn bản đến
con số cuối cùng gồm có hơn một trăm năm
mươi đơn vị (đơn vị số đếm
của Trung Hoa chỉ có hai mươi mấy loại), những
số về sau lại là nhân gấp bội của chính nó,
chẳng phải là tăng gấp mười. Mười
con số lớn sau cùng, chúng ta thường gọi là Thập
Đại Số. Đầu tiên là A-tăng-kỳ, thứ
hai là Vô Lượng. A-tăng-kỳ lần A-tăng-kỳ
là một Vô Lượng, nên Vô Lượng là danh từ chỉ
số đếm. Vô Lượng lần Vô Lượng là một
Vô Biên. Trong mười con số lớn, Vô Lượng là
thứ hai, Vô Biên là thứ ba, nên nói: “Thập đại số trung, đương kỳ
nhị tam”.
(Sao)
Thị hữu toán số, nhi kim ngôn “phi thị toán số sở
tri”.
(鈔) 是 有 算 數,而 今 言 非 是 算 數 所 知。
(Sao:
[Những con số ấy tuy lớn nhưng vẫn] là có thể
tính toán được, nhưng nay kinh nói “chẳng thể
tính toán để biết được”).
Nói
thật ra, Vô Lượng là vô lượng trong hữu
lượng, chẳng phải là vô lượng thật sự.
Vô Lượng là một đơn vị số đếm.
Kinh nói đến chữ này, rốt cuộc có phải là vô
lượng có hạn lượng hay là vô lượng theo
nghĩa vô lượng? Kinh Di Đà chẳng nói tỉ mỉ,
nhưng kinh Vô Lượng Thọ giảng rất cặn kẽ.
Quư vị nói nó là vô lượng có hạn lượng, vậy
th́ đức Phật đă nói: Giả sử mười
phương thế giới chúng sanh thảy đều chứng
quả Bích Chi Phật, thần thông đều giống
như Mục Kiền Liên, cùng nhau tính toán xem trong thế giới
Tây Phương có bao nhiêu người, họ tính chẳng
ra! Thọ mạng của A Di Đà Phật họ cũng
tính chẳng ra. Do vậy có thể biết, tuyệt đối
chẳng phải là vô lượng có hạn lượng
như đang nói ở đây. V́ sao? Đối với các
con số Vô Lượng và Vô Biên của Ấn Độ,
người khá Toán một chút trong bọn chúng ta vẫn có
thể tính toán được! Hiện thời, chúng ta chẳng
khá Toán cho lắm, nhưng lợi dụng máy tính điện
tử th́ vẫn có thể tính ra. Dùng kinh Vô Lượng Thọ
để quan sát, đức Thế Tôn giới thiệu sự
vô lượng trong Tây Phương Cực Lạc thế giới,
có thể nói đó là vô lượng thật sự. Dẫu
là có hạn lượng, đối với cảnh giới
của bọn phàm phu chúng ta, vẫn thật sự là vô lượng,
vẫn chẳng thể nào tính toán để biết
được!
(Sao) Cố tri vô
lượng, năi tán thán cực đa chi ngữ, vị khả
dĩ thường số nệ dă.
(鈔) 故 知 無 量,乃 讚 歎 極 多 之 語,未 可 以 常 數 泥 也。
(Sao: Cho nên biết “vô
lượng” chính là từ ngữ tán thán số lượng
cực nhiều, chớ nên câu nệ hiểu là những con
số thông thường).
Đặc
biệt nhắc nhở chúng ta, tuyệt đối chẳng
thể dùng những con số Ấn Độ để
suy lường, [chấp chặt vô lượng vô biên là các
con số đếm] th́ chúng ta sai lầm mất rồi!
(Sao)
Như Đại Bổn vân.
(鈔) 如 大 本 云。
(Sao:
Như kinh Đại Bổn có nói).
Đại
Bổn là kinh Vô Lượng Thọ. Trong Sớ Sao, Liên Tŕ
đại sư trích dẫn Đại Bổn, đại
đa số đều dựa theo kinh văn trong bản hội
tập của ông Vương Long Thư, tức là Đại
A Di Đà Kinh.
(Sao)
Giả sử tỳ-kheo măn ức na-do-tha bách thiên số
lượng, giai như Mục Liên thần thông, dục cộng
kế toán bỉ Phật sơ hội Thanh Văn, tận kỳ
thần lực, bách phần trung bất năng tri nhất,
năi chí Ổ-ba-nê-sát-đàm phần, diệc bất năng
tri nhất.
(鈔) 假 使 比 丘 滿 億 那 由 他 百 千 數 量,皆 如 目 連 神 通,欲 共 計 算 彼 佛 初 會 聲 聞,盡 其 神 力,百 分 中 不 能 知 一,乃 至 鄔 波 尼 殺 曇 分,亦 不 能 知 一。
(Sao: Giả sử tỳ-kheo
số lượng nhiều đến ức na-do-tha
trăm ngàn, đều có thần thông như ngài Mục
Liên, muốn cùng nhau tính toán số lượng Thanh Văn
trong hội đầu tiên của đức Phật ấy,
trọn hết thần lực của họ, vẫn chẳng
biết được một phần trăm, cho đến
một phần Ổ-ba-nê-sát-đàm cũng chẳng biết
được).
“Ổ-ba-nê-sát-đàm” (Upaniṣad)[10],
kinh Lăng Nghiêm nói (phiên âm) là Ưu-ba-ni-sa-đà, âm đọc
rất gần gũi, v́ là dịch âm tiếng Phạn [nên tùy
theo dịch giả mà phiên âm sai khác đôi chút], dịch sang
nghĩa tiếng Hán là Vi Tế Phần. Một phần của
Vi Tế mà c̣n chẳng thể biết, huống hồ toàn
thể!
(Sao)
Hựu vân, Phật cáo A Nan: “Giả sử hữu nhân, xuất
nhất thân mao, toái vi vi trần, dĩ nhất nhất trần,
đầu hải xuất thủy, mao trần thủy
đa? Hải trung thủy đa?” A Nan đáp ngôn: “Mao trần
thủy đa, bất cập bán cáp, hải thủy vô
lượng”.
(鈔) 又 云,佛 告 阿 難:假 使 有 人,出 一 身 毛,碎 為 微 塵,以 一 一 塵,投 海 出 水,毛 塵 水 多,海 中 水 多?阿 難 答 言:毛 塵 水 多,不 及 半 合,海 水 無 量。
(Sao: Kinh lại chép:
Đức Phật bảo A Nan: “Giả sử có người
nhổ một sợi lông trên thân, nghiền nát thành vi trần,
dùng mỗi một vi trần ấy để nhúng xuống
biển lấy nước th́ nước dính trên hạt bụi
của sợi lông ấy là nhiều hay nước trong biển
là nhiều?” A Nan đáp rằng: “Nước dính trên hạt
bụi của sợi lông nhiều lắm là chưa đầy
nửa lẻ[11], nước biển
vô lượng).
Một
hạt bụi của sợi lông chẻ ra chính là một phần
trăm. Sợi lông đă rất nhỏ, đem chẻ theo
chiều dọc, chẻ thành một trăm phần, quư vị
nghĩ xem một phần trăm của nó sẽ nhỏ
đến mức nào! Dùng nó để chấm một giọt
nước trong biển, đức Phật hỏi: “Nước
dính nơi hạt bụi từ sợi lông ấy là nhiều,
hay nước trong biển là nhiều?” Đây là sánh ví giống
như vừa mới nói [trong đoạn trước],
chúng sanh trong mười pháp giới đều chứng quả
Bích Chi Phật, thần thông đều giống như Mục
Kiền Liên, số lượng trong thế giới Cực
Lạc mà họ có thể biết được, chẳng
qua là lượng nước dính trên hạt bụi của
sợi lông mà thôi, chẳng biết lượng nước
trong biển cả. Điều này nhằm h́nh dung số
lượng tột bậc chẳng thể
nghĩ bàn. Thế giới Tây Phương chỉ có Phật
và Phật mới có thể thấu hiểu rốt ráo, Ngẫu
Ích đại sư nói như thế này: “Nếu chẳng do Phật lực gia tŕ, chúng sanh trong chín pháp giới tuyệt đối
chẳng thể nào cậy vào sức ḿnh mà ḥng lư giải
được!”
(Sớ)
Luận ngôn “Nhị Thừa bất sanh”, kim ngôn Thanh Văn
giả, dĩ quán tập Tiểu, bất cửu chứng
Đại, chung vô Tiểu cố. Như Quán Sớ thuyết:
“Nhược cứ biến hóa, Tiểu diệc vô ngại”.
(疏) 論 言 二 乘 不 生,今 言 聲 聞 者,以 慣 習 小,不 久 證 大,終 無 小 故。如 觀 疏 說:若 據 變 化,小 亦 無 礙。
(Sớ: Luận nói
“Nhị Thừa chẳng sanh”, nay [chánh kinh] nói đến
Thanh Văn, là do họ đă quen tu pháp Tiểu Thừa, chẳng
lâu sau sẽ chứng quả Đại Thừa, trọn chẳng
có quả Tiểu Thừa. Như Quán Kinh Sớ đă nói: “Nếu
xét theo sự biến hóa th́ Tiểu Thừa cũng chẳng
trở ngại ǵ”).
Văng Sanh Luận nói: “Nhị Thừa chủng bất sanh”, [nghĩa là]
chủng tánh Nhị Thừa chắc chắn chẳng thể
văng sanh Tịnh Độ. Tây Phương Tịnh Độ
thuần nhất chủng tánh Đại Thừa, là chủng
tánh Bồ Tát, chẳng có chủng tánh Nhị Thừa. Nay
kinh nói Tây Phương Cực Lạc thế giới có Thanh
Văn, đó là chuyện như thế nào? Ở đây,
đại sư giải thích, “dĩ
quán tập Tiểu” (do quen tu tập pháp Tiểu Thừa),
“quán” (慣) là thói quen.
Trước khi sanh về Tây Phương Cực Lạc thế
giới, giống như trong thế giới này của chúng
ta, họ đă tu pháp Tiểu Thừa rất lâu, nay nghe nói thế
giới Tây Phương, bèn hồi Tiểu hướng
Đại, niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ,
nên cũng có thể văng sanh. Tuy văng sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới, tập khí Tiểu Thừa rất nặng,
tập khí Tiểu Thừa vẫn chưa đoạn, chúng
ta gọi họ là Tiểu Thừa, tức là nói đến
thân phận Tiểu Thừa của họ trước khi
văng sanh. Trong kinh Vô Lượng Thọ, chúng ta cũng thấy
điều này. Lời giải thích của Liên Tŕ đại
sư chẳng phải là thiên kiến của chính Ngài, mà là
căn cứ trên Đại Kinh. “Chung
vô tiểu cố” (trọn chẳng có Tiểu Thừa):
Thế giới Cực Lạc tuyệt đối chẳng
có Tiểu Thừa.
(Sao)
Chung vô Tiểu giả, Quán Kinh Sớ vị tập Tiểu
chi nhân, bổn bất đắc sanh.
(鈔) 終 無 小 者,觀 經 疏 謂 習 小 之 人,本 不 得 生。
(Sao:
“Trọn chẳng có Tiểu Thừa”: Quán Kinh Sớ nói
người tu tập pháp Tiểu Thừa vốn chẳng
được văng sanh).
Người Tiểu
Thừa quả thật chẳng thể văng sanh Tịnh
Độ.
(Sao)
Diêu bỉ lâm chung, phát Đại Thừa tâm, diệc năi
đắc sanh.
(鈔) 繇 彼 臨 終,發 大 乘 心,亦 乃 得 生。
(Sao:
Do khi người ấy lâm chung, phát tâm Đại Thừa,
nên cũng được văng sanh).
Duyên
phận Tịnh Độ của người ấy
trước khi mạng chung mới chín muồi, lúc sắp
mạng chung, gặp thiện tri thức bảo ban sự
thù thắng của Tây Phương Cực Lạc thế giới,
nghe xong, đương nhiên là người ấy nhất
định đă có thiện căn trong đời quá khứ,
do thiện căn chín muồi nên có thể tin tưởng,
có thể phát nguyện, có thể niệm A Di Đà Phật
cầu sanh Tịnh Độ, quyết định văng sanh.
(Sao)
Dĩ quán tập Tiểu.
(鈔) 以 慣 習 小。
(Sao:
Do quen tu tập pháp Tiểu Thừa).
V́
người ấy tu Tiểu Thừa đă lâu, cũng là do
sức lực của chủng tử pháp Tứ Đế
rất mạnh, nên đến Tây Phương Cực Lạc
thế giới, nghe A Di Đà Phật [thuyết pháp]
cũng như nghe các pháp môn do y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tịnh
Độ đă nói, [sẽ nghe thành] toàn là giảng giải
pháp môn Tiểu Thừa. Nói thật thà, Tây Phương Cực
Lạc thế giới A Di Đà Phật có bao giờ [cố
ư] thuyết pháp? Tuy Phật chẳng thuyết pháp, nhưng ở
bên ấy, từ đầu đến cuối thuyết
pháp chẳng gián đoạn. Thuyết pháp là do chúng sanh có cảm,
Phật bèn có ứng. Quư vị mong nghe kinh ǵ, nghe pháp ǵ, quư
vị sẽ nghe âm thanh nói kinh pháp ấy. Những người
ấy tập khí Tiểu Thừa rất sâu,
đương nhiên là nghĩ tới kinh Tiểu Thừa,
v́ họ chưa từng tiếp xúc kinh Đại Thừa.
Đừng nói là chẳng hiểu ư nghĩa trong kinh, ngay cả
tựa đề kinh cũng chẳng hiểu. Trong tâm họ
luôn nghĩ tới kinh Tiểu Thừa, nên họ nghe A Di
Đà Phật giảng giải, hướng dẫn cũng
là pháp Tiểu Thừa.
(Sao)
Tài văn khổ, không, vô thường đẳng pháp, thuận
kỳ tiên tập, toại chứng tiểu quả.
(鈔) 纔 聞 苦 空 無 常 等 法,順 其 先 習,遂 證 小 果。
(Sao: Mới nghe các
pháp như khổ, không, vô thường v.v… hợp với
những ǵ đă tu tập trước kia bèn chứng tiểu quả).
Sau
khi người ấy nghe những pháp đó, bèn đoạn
Kiến Tư phiền năo. Đoạn Kiến Tư phiền
năo, sẽ bằng với chứng quả A La Hán. Thật
ra, trong Tây Phương Cực Lạc thế giới,
người ấy là Bồ Tát, tuyệt đối chẳng
phải là A La Hán. Chúng ta biết trong quả vị Bồ
Tát của Viên Giáo, đoạn hết Kiến Tư phiền
năo là địa vị Thất Tín, Thất Tín vị Bồ
Tát. Nhưng xét theo Đại Thừa Phật pháp, sự
huân tu đoạn chứng của người ấy bằng
với Tiểu Thừa. Trừ sự đoạn chứng
ra, đối với trí huệ, thần thông, đạo lực
của người ấy, chắc chắn là Thanh Văn và
Duyên Giác chẳng thể sánh bằng!
(Sao)
Nhi hướng Đại chi tâm dĩ thành, huống đắc
cận Phật, tự đương bất cửu chứng
Đại, an tại kỳ vi Thanh Văn hồ?
(鈔) 而 向 大 之 心 已 成,況 得 近 佛,自 當 不 久 證 大,安 在 其 為 聲 聞 乎?
(Sao: Nhưng cái tâm
hướng về Đại Thừa đă thành lập, huống
hồ được thân cận Phật, không lâu sau sẽ
tự chứng quả Đại Thừa, há thuộc vào
địa vị Thanh Văn ư?)
Đến
Tây Phương Cực Lạc thế giới, chẳng xa
ĺa A Di Đà Phật, thường thân cận A Di Đà Phật.
Có lẽ quư vị hoài nghi: Thế giới Tây Phương
to dường ấy, người đông như vậy,
làm sao ta có thể hằng ngày ở cùng một chỗ với
A Di Đà Phật? Đó là quan niệm của người
thế gian chúng ta. Thế gian này xác thực đúng là
như vậy. Chẳng cần nói quá to, chúng ta ở thành phố
Đài Bắc là một nơi rất nhỏ, mỗi
người chúng ta hằng ngày có trông thấy Lư Tổng Thống[12]
hay không? Bắt tay ông ta, cùng ông ta tṛ chuyện được
chăng? Chẳng thể nào! V́ sao chẳng thể? Ông ta chỉ
có một thân! A Di Đà Phật có vô lượng vô biên hóa
thân, nên mỗi người đều hằng ngày thấy
Phật, hằng ngày ở cùng một chỗ với Phật.
Nếu Lư tổng thống có hóa thân, thành phố Đài Bắc
có hai trăm vạn người, ông ta có hai trăm vạn
hóa thân, mỗi hóa thân bồi tiếp một người,
chẳng phải là hằng ngày ở cùng một chỗ
ư? Phật có hóa thân, Quán Âm Bồ Tát cũng có hóa thân,
Đại Thế Chí Bồ Tát cũng có hóa thân, chúng ta xem
Quán Kinh Sớ Sao sẽ biết. Không chỉ là Phật, Bồ
Tát có hóa thân; tới cơi ấy, chính chúng ta cũng có thể
hóa thân, tuyệt diệu chẳng thể nói nổi! Chính
ḿnh cũng hóa thân giống như Phật, hóa thân vô lượng
vô biên, hóa thân nhiều như thế để làm ǵ? Hằng
ngày đến thăm viếng mười phương
chư Phật, không chỉ là thân cận A Di Đà Phật,
mà mười phương ba đời hết thảy
chư Phật quư vị đều có thể thân cận hằng
ngày, quư vị nói xem thế giới Cực Lạc có tốt
đẹp hay không? Nếu quư vị chẳng sanh về thế
giới Tây Phương, sẽ chẳng đạt
được điều tốt đẹp ấy. Nếu
Bồ Tát muốn đạt được lợi ích
như vậy, phải là bậc đă đắc từ Thất
Địa trở lên! Khi nào quư vị có thể tu đến
Thất Địa của Viên Giáo trở lên th́ quư vị mới
có năng lực thân cận mười phương Như
Lai. Chỉ cần văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới, hạ hạ phẩm văng sanh đều đạt
được điều tốt đẹp này, là do thần
lực của A Di Đà Phật gia tŕ. Từ Quán Kinh và kinh
Vô Lượng Thọ, chúng ta đều nh́n thấy điều
này, thời thời khắc khắc đều có thể
thân cận Phật Di Đà. V́ lẽ đó, há có thể nói
họ là Thanh Văn ư?
(Sao)
Thị tắc kinh cử Thanh Văn, dĩ tạm hữu cố.
Luận minh Nhị Thừa bất sanh giả, dĩ chung vô
cố.
(鈔) 是 則 經 舉 聲 聞,以 暫 有 故。論 明 二 乘 不 生 者,以 終 無 故。
(Sao:
Do vậy, kinh nêu ra Thanh Văn là v́ tạm thời có. Văng
Sanh Luận bảo Nhị Thừa chẳng thể văng sanh
là nói “rốt cục, chẳng có Thanh Văn”).
Kinh
nói tới Thanh Văn là v́ có hai ư nghĩa, chúng ta đọc
được điều này từ kinh Vô Lượng Thọ:
1) Ư nghĩa thứ
nhất là nói Thanh Văn hoặc nói trời người,
chính là nói đến thân phận của họ trước
khi văng sanh: Họ từ Tiểu Thừa văng sanh, hoặc do
thân phận trời người mà văng sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới, nên gọi theo thân phận trước
đó.
2) Một cách nói
khác là xét theo sự đoạn Hoặc, đoạn phiền
năo của họ. Nếu quư vị vẫn chưa đoạn
Kiến Tư phiền năo, sẽ bằng với trời người
trong các thế giới khác. Đă đoạn Kiến Tư
phiền năo, nhưng Trần Sa và Vô Minh chưa đoạn,
sẽ bằng với Thanh Văn trong các thế giới
phương khác. Nói theo kiểu này!
Chỉ cần
sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, dẫu
là hạ hạ phẩm văng sanh, thảy đều là Bồ
Tát. Thế giới ấy là một pháp giới thuần nhất
Bồ Tát. Chúng ta lại c̣n đọc từ rất nhiều
kinh, hiểu sâu xa, họ đều là Phổ Hiền Bồ
Tát, chẳng phải là hàng Bồ Tát b́nh phàm. Chúng ta đọc
kinh Hoa Nghiêm, [sẽ thấy] chỉ có Phổ Hiền Bồ
Tát mới có thể thành Phật, các Bồ Tát khác chẳng
thể thành Phật. Nếu Bồ Tát nào muốn thành Phật,
nhất định phải tu Phổ Hiền hạnh, nhất
định phải biến chính ḿnh thành Phổ Hiền Bồ
Tát th́ mới có thể viên thành Phật đạo. Kinh Vô
Lượng Thọ và kinh Hoa Nghiêm “mười đại nguyện vương dẫn về
Cực Lạc” có mối quan hệ vô cùng mật thiết.
Đoạn kế tiếp nói càng hay hơn:
(Sao)
Tiểu diệc vô ngại giả.
(鈔) 小 亦 無 礙 者。
(Sao: Tiểu Thừa
th́ cũng chẳng trở ngại).
Câu
này nói viên măn, đích xác là cảnh giới Hoa Nghiêm, Lư Sự
vô ngại, Sự Sự vô ngại.
(Sao)
Tịnh Độ thượng dung chúng điểu, Thanh
Văn khởi bất điểu như?
(鈔) 淨 土 尚 容 眾 鳥,聲 聞 豈 不 鳥 如?
(Sao:
Tịnh Độ c̣n dung nạp các loài chim, Thanh Văn há chẳng
bằng chim ư?)
Lẽ
đâu Thanh Văn chẳng bằng các loài chim? C̣n thua kém
chúng ư?
(Sao)
Điểu kư biến hóa sở thành, Thanh Văn ninh độc
thật hữu?
(鈔) 鳥 既 變 化 所 成,聲 聞 寧 獨 實 有?
(Sao:
Chim đă là do biến hóa tạo thành, há riêng Thanh Văn là
thật sự có?)
Mấy
câu này nói quá hay, đích xác là viên dung đến tột bậc.
Há Tây Phương Cực Lạc thế giới có chim? Chim
là do A Di Đà Phật biến hóa tạo ra. Trời, người,
Thanh Văn trong Tây Phương Cực Lạc thế giới
cũng có thể là do A Di Đà Phật biến hóa tạo
tác. Nói theo cảnh giới Lư Sự vô ngại, Sự Sự
vô ngại của Hoa Nghiêm, xác thật là viên dung vô ngại.
Chúng ta chẳng cần hoài nghi chuyện này!
(Sao)
Túng sử bỉ quốc cửu hữu Thanh Văn, diệc
phục hà ngại?
(鈔) 縱 使 彼 國 久 有 聲 聞,亦 復 何 礙。
(Sao:
Hơn nữa, dẫu cơi ấy có Thanh Văn lâu ngày,
cũng có trở ngại ǵ?)
Nếu
thế giới ấy thật sự có người, trời,
có Thanh Văn, cũng có thể là do A Di Đà Phật biến
hóa tạo ra. Thần thông, đạo lực của Phật
Di Đà chẳng thể nghĩ bàn, chúng ta chẳng cần
phải hoài nghi. Kinh điển của Tịnh Độ
Tông để chúng ta y cứ là năm kinh, năm kinh quy nạp
lại sẽ là kinh Vô Lượng Thọ. Kinh Vô Lượng
Thọ là kinh bậc nhất trong Tịnh Tông. Kinh Vô Lượng
Thọ lại quy nạp sẽ thành bốn mươi tám
nguyện, bốn mươi tám nguyện do chính miệng A
Di Đà Phật nói ra, Thích Ca Mâu Ni Phật thuật lại
cho chúng ta biết. Đức Phật [Thích Ca Mâu Ni] kể lại
và chính A Di Đà Phật nói ra, chẳng khác ǵ nhau! Chúng ta phải
lấy điều ǵ làm căn cứ? Lấy bốn
mươi tám nguyện làm căn cứ. Bốn mươi
tám nguyện giống như hiến pháp, bất cứ pháp
nào trong hết thảy các pháp hễ mâu thuẫn với nó
th́ đều chẳng có hiệu quả! V́ lẽ đó, lấy
bốn mươi tám nguyện làm chủ.
Tôi
thường khuyên các đồng tu; nếu chẳng có thời
gian đọc trọn bộ kinh, người thật sự
tu Tịnh Độ trong khóa sáng hăy niệm chương thứ
sáu tức là bốn mươi tám nguyện trong kinh Vô
Lượng Thọ, chuyên tu Tịnh Độ, nhất tâm
nhất ư cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới, khóa tối niệm năm chương là ba
mươi ba, ba mươi bốn, ba mươi lăm, ba
mươi sáu, và ba mươi bảy, năm chương ấy
là tŕ giới niệm Phật. Dùng kinh văn của năm
chương ấy để phản tỉnh, sám hối, sửa
lỗi đổi mới. Chẳng thể đọc trọn
bộ kinh th́ đọc theo cách như vậy. Niệm xong,
lại niệm thêm kệ Hồi Hướng, Tam Quy Y,
như vậy th́ khóa sáng và khóa tối đều hết sức
viên măn, đó là chuyên tu Tịnh Tông. Thanh Văn chúng
được giới thiệu tới đây, kế tiếp
là giới thiệu Bồ Tát chúng.
Nhị,
Bồ Tát.
(Kinh)
Chư Bồ Tát chúng, diệc phục như thị.
二 菩 薩。
(經) 諸 菩 薩 眾。亦 復 如 是。
(Hai là Bồ Tát.
Kinh: Các vị Bồ Tát cũng giống như thế).
Thanh
Văn chúng nói cặn kẽ, đối với Bồ Tát
chúng, ngôn ngữ tỉnh lược khá nhiều, nhưng
chúng ta phải nhớ trong phần kinh văn trước
đó, đức Phật đă nói: “Bỉ Phật hữu vô lượng vô biên Thanh
Văn đệ tử” (đức Phật ấy có vô
lượng vô biên Thanh Văn đệ tử), ở
đây, chiếu theo thể lệ trong phần trước,
sẽ là “bỉ Phật hữu
vô lượng vô biên Bồ Tát đệ tử, phi thị
toán số chi sở năng tri” (đức Phật có vô
lượng vô biên Bồ Tát đệ tử, chẳng thể
tính toán để biết được số lượng).
(Sớ)
Thừa thượng, bất độc Tiểu Thừa.
(疏) 承 上 不 獨 小 乘。
(Sớ:
Nói tiếp ư kinh văn trong phần trên, không riêng ǵ Tiểu
Thừa).
Số
lượng trời, người và Thanh Văn trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới chẳng thể
nghĩ bàn.
(Sớ)
Chư Đại Thừa Bồ Tát vô bất sanh cố.
(疏) 諸 大 乘 菩 薩 無 不 生 故。
(Sớ:
Các vị Đại Thừa Bồ Tát, không vị nào chẳng
văng sanh).
V́ từ
kinh Hoa Nghiêm, chúng ta đă thấy, Thập Địa Bồ
Tát từ đầu đến cuối chẳng ĺa niệm
Phật. Bồ Tát tu hành đến mức đăng địa
(chứng Sơ Địa), sẽ biết pháp môn này thù thắng.
Nói cách khác, địa tiền Bồ Tát (Bồ Tát chưa
chứng Sơ Địa) chẳng biết pháp môn này, không
nhận biết pháp môn này. Sau khi đă đăng địa,
mới hiểu pháp môn này thù thắng, mới biết chỗ
tốt đẹp của pháp môn này, biết sự lợi
ích chân thật của pháp môn này, nên chẳng có vị nào
không tin. V́ lẽ đó, số lượng các vị đại
Bồ Tát trong thế giới Tây Phương không chỉ chẳng
thể ít hơn trời, người, Thanh Văn, mà c̣n
vượt trỗi quá nhiều. Hàng đại Bồ Tát
trong cơi kia đông lắm!
(Sớ)
Diệc phục giả, diệc vô lượng vô biên bất
khả toán số dă. Hựu phục cụ vô lượng
vô biên công đức, như Đại Bổn trung thuyết.
(疏) 亦 復 者,亦 無 量 無 邊 不 可 算 數 也。又 復 具 無 量 無 邊 功 德,如 大 本 中 說。
(Sớ:
“Cũng lại [giống như thế]”: Cũng là vô lượng
vô biên chẳng thể tính toán. Lại c̣n có đủ vô
lượng vô biên công đức như trong kinh Đại
Bổn đă nói).
Kinh
Vô Lượng Thọ nói các vị đại Bồ Tát
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới công đức
ṿi vọi, chư Phật chẳng thể tán thán trọn hết!
(Sao)
Bồ Tát giả, tự sơ tâm dĩ chí địa tận,
tiền như giáo khởi trung biện, hậu như Bổ
Xứ văn trung sở dẫn, thậm đa vô lượng,
hà khả sổ kế.
(鈔) 菩 薩 者,自 初 心 以 至 地 盡,前 如 教 起 中 辯,後 如 補 處 文 中 所 引,甚 多 無 量,何 可 數 計。
(Sao: Bồ Tát là từ sơ
tâm cho đến hết các địa vị thuộc Thập
Địa, trước th́ như trong phần Giáo Khởi
Nhân Duyên đă biện định, sau th́ như trong phần
kinh văn nói về Nhất Sanh Bổ Xứ sẽ dẫn
chứng, thật nhiều vô lượng, làm sao có thể
tính đếm cho được).
Trước
hết nói về số lượng, từ sơ phát tâm,
sơ phát tâm chính là lũ phàm phu chúng ta đới nghiệp
văng sanh. Trong một đời, chúng ta đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới sẽ là địa
vị Sơ Tín Bồ Tát trong Viên Giáo, chẳng dễ dàng! Bồ
Tát thuộc địa vị Sơ Tín trong Viên Giáo là hạng
người nào? Kinh Di Đà nói là nhất tâm bất loạn.
V́ thế, La Thập đại sư dịch là “nhất tâm bất loạn”, dịch
hay quá! Nhất tâm bất loạn cũng có ba bậc chín phẩm,
chúng ta là hạ hạ phẩm nhất tâm bất loạn. Hạ
hạ phẩm nhất tâm bất loạn là mức độ
nào? Đoạn Ngũ Lợi Sử, tức là đoạn
sạch tám mươi tám Sử thuộc Kiến Hoặc
trong tam giới. Nay chúng ta một phẩm cũng chẳng
đoạn, hễ văng sanh bèn đoạn, khi văng sanh bèn
được A Di Đà Phật đến tiếp dẫn,
Phật quang vừa chiếu th́ Thân Kiến, Biên Kiến, Giới
Thủ Kiến, Kiến Thủ Kiến, Tà Kiến đều
bị Phật quang chiếu rơi rụng, chẳng c̣n nữa,
văng sanh như vậy đó! Sanh về Tây Phương Cực
Lạc thế giới, bèn là địa vị Sơ Tín Bồ
Tát trong Viên Giáo, địa vị này bằng với quả
vị Tu Đà Hoàn trong Tiểu Thừa.
Pháp
môn này được gọi là pháp môn Nhị Lực, bản
thân chúng ta niệm Phật, niệm đến mức công
phu thành phiến, niệm đến mức dùng câu Phật
hiệu trừ sạch vọng tưởng, chấp
trước. [Nói là] “niệm trừ sạch” chẳng phải
là thật
sự đoạn hết mà là [niệm đến mức
khiến cho] vọng tưởng, chấp trước chẳng
thể khởi tác dụng. Ta niệm A Di Đà Phật, câu
nọ gối lên câu kia, vọng tưởng, chấp
trước chẳng xen vào được, đó là chẳng
xen tạp. V́ thế, công phu phải là chẳng xen tạp,
chẳng gián đoạn. Phiền năo có đoạn hay không,
chẳng cần quan tâm đến, không khẩn yếu, chỉ
cần chúng ta đạt được công phu chẳng
gián đoạn, không xen tạp là được rồi, những
món phiền năo như vậy chẳng thể khởi lên hiện
hành, khi văng sanh th́ mới nắm chắc. Phật đến
tiếp dẫn, Phật quang chiếu gội, đó là Phật
lực gia tŕ, nâng công phu chúng ta lên tới địa vị
Sơ Tín. Ba tư lương, thứ nhất là Tín, [tức
là Tín trong] Tín, Nguyện, Hạnh! Chẳng phải là hàng Bồ
Tát thuộc địa vị Sơ Tín, làm sao có thể văng
sanh cho được? Do đó, tín tâm phải thanh tịnh,
tín tâm phải kiên cố!
Tu
hành trong thế gian này, nhất là trong giai đoạn hiện
thời, rất khó khăn! Chính ḿnh nhất định phải
có chủ tể, phải nắm vững. Chủ tể là
ǵ? Chẳng bị kẻ khác lừa gạt! Hiện thời,
trong thế gian này, kẻ lừa gạt rất nhiều;
đúng là người hiện thời nghe lừa, chẳng
nghe khuyên, khuyên họ hăy siêng năng niệm Phật, họ
chẳng nghe. Lừa họ làm ǵ đó, họ lập tức
làm ngay! Đó là mê hoặc, điên đảo! Trong kinh luận,
đức Phật đă buốt ḷng rát miệng khuyên bảo
chúng ta, chúng ta chẳng nghe, cứ thích nghe những lời
đồn thổi bên ngoài, bó tay! Đó là nghiệp chướng
sâu nặng! Học Phật th́ phải ghi nhớ, hăy “y pháp,
bất y nhân”! Pháp là ǵ? Kinh điển. Trong hết thảy
các pháp, chúng ta chọn lựa kinh Vô Lượng Thọ và
kinh A Di Đà, kinh Di Đà có Sớ Sao và Yếu Giải, ba
bộ ấy là chỗ quy y chân thật của chúng ta. Một
đời này có thể dựa vào ba bộ ấy, chẳng
có ai không liễu sanh tử, chẳng có ai không văng sanh, chẳng
cần phải làm ǵ khác. Đó mới là thật sự trọn
đủ tín tâm, tín tâm thanh tịnh. Kinh Kim Cang nói: “Tín tâm thanh tịnh, tắc sanh Thật
Tướng” (Tín tâm thanh tịnh, bèn sanh Thật Tướng).
Thật Tướng là bản tánh, “tắc sanh Thật Tướng” là kiến tánh.
Tín tâm thanh tịnh bèn kiến tánh. Do vậy, đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới thảy đều
chứng quả. Tiểu Thừa là Sơ Quả, c̣n trong
pháp Đại Thừa sẽ là địa vị Sơ Tín
Bồ Tát trong Viên Giáo.
“Dĩ chí địa tận”
(cho đến hết các địa vị thuộc về
Thập Địa Bồ Tát), Địa (地) là Địa Thượng Bồ Tát (đă chứng
từ Sơ Địa trở lên). Đến hết các
địa vị thuộc Địa Thượng Bồ
Tát, sẽ là Đẳng Giác Bồ Tát. “Tùng sơ tâm dĩ chí địa tận” chính là
như Đại Thế Chí Bồ Tát đă nói trong kinh
Lăng Nghiêm: “Dữ ngũ thập
nhị đồng luân” (Cùng với những người
thuộc năm mươi hai địa vị cùng hàng), “đồng luân” (同倫)
là đồng chí, [tức là] chí đồng đạo hợp.
“Năm mươi hai” ở
đây là từ sơ tâm cho đến hết Thập Địa,
đạt đến Đẳng Giác là năm mươi mốt
địa vị, lại lên cao hơn là Diệu Giác, Diệu
Giác bèn thành Phật, gồm năm mươi hai địa
vị. “Năm mươi hai người ấy” chẳng
phải là chỉ có năm mươi hai người, mà là
năm mươi hai loại, đều nương theo
kinh Vô Lượng Thọ và kinh A Di Đà, đều niệm
một câu A Di Đà Phật mà thành tựu. “Bất giả phương tiện, tự đắc
tâm khai”, nghĩa là các Ngài chẳng cần đến những
pháp môn khác, chỉ trơ trọi một câu A Di Đà Phật,
từ sơ phát tâm cho đến viên thành Phật đạo,
chẳng cần dùng phương pháp thứ hai, nên Ngài là tổ
sư đời thứ nhất của Tịnh Độ
Tông! Chư vị phải ghi nhớ: Đại Thế Chí
Bồ Tát là tổ sư đời thứ nhất của
Tịnh Độ Tông là nói theo phương diện nào? Nói
theo toàn thể pháp giới. Tận hư không khắp pháp giới,
đối với pháp môn Niệm Phật, Ngài là bậc nhất,
chẳng ai vượt trội Ngài. Trong thế giới Sa
Bà, vị tổ sư đầu tiên đề xướng
pháp môn Niệm Phật là ai? Phổ Hiền Bồ Tát. Thích
Ca Mâu Ni Phật giảng kinh, bộ kinh được giảng
đầu tiên là Hoa Nghiêm. Hoa Nghiêm đến cuối cùng,
Phổ Hiền Bồ Tát dùng mười đại nguyện
vương dẫn về Cực Lạc. V́ thế, đề
xướng pháp môn Niệm Phật [trong thế giới Sa
Bà] là Phổ Hiền Bồ Tát. Tổ sư đời thứ
nhất của Tịnh Độ Tông trong thế giới
Sa Bà là Phổ Hiền Bồ Tát. Tại Trung Hoa, tổ
sư đời thứ nhất đề xướng niệm
Phật cầu sanh Tịnh Độ là Huệ Viễn
đại sư. Đối với tổ sư đời
thứ nhất, cả ba vị đều là đời thứ
nhất, một là đời thứ nhất trong pháp giới,
vị kia là đời thứ nhất trong Sa Bà, vị cuối
cùng là đời thứ nhất tại Trung Hoa.
Số
lượng nhiều đến nỗi chẳng có cách nào
tính toán, “tiền như giáo khởi
trung biện” [nghĩa là] trong phần Giáo Khởi Nhân
Duyên trước kia đă nói rất cặn kẽ, trong phần
sau đến đoạn Bổ Xứ Bồ Tát sẽ lại
giảng, sẽ lại thuật bày, giới thiệu những
vị Bồ Tát đó. “Thậm
đa vô lượng, hà khả sổ kế” (Rất nhiều
vô lượng, làm sao có thể tính đếm cho được).
Số lượng Bồ Tát nhiều quá, chẳng có cách nào
tính toán!
(Sao)
Công đức giả, Đại Bổn Phật tán bỉ
quốc Bồ Tát chủng chủng công đức, vi nhị
thập tam dụ.
(鈔) 功 德 者,大 本 佛 讚 彼 國 菩 薩 種 種 功 德,為 二 十 三 喻。
(Sao:
“Công đức” là như trong kinh Đại Bổn, để
tán thán các thứ công đức của hàng Bồ Tát cơi ấy,
đức Phật đă dùng hai mươi ba tỷ dụ).
Ở
đây nói là “hai mươi ba tỷ
dụ”, nhưng chương Chân Thật Công Đức
trong bản hội tập của lăo cư sĩ Hạ Liên
Cư chẳng có hai mươi ba tỷ dụ, chỉ có
mười mấy tỷ dụ. Hai mươi ba tỷ dụ
ở chỗ nào? Trong Đại A Di Đà Kinh của ông
Vương Long Thư! Xác thực là Liên Tŕ đại
sư đă trích dẫn từ bản của Vương
Long Thư. Trong chú giải kinh Vô Lượng Thọ, lăo
cư sĩ Hoàng Niệm Tổ nói: Trong Sớ Sao, [khi dẫn
kinh Đại Bổn], quá nửa là Liên Tŕ đại
sư đă trích dẫn từ bản của ông
Vương Long Thư, cụ nêu ra sự thật này
cũng nhằm chứng tỏ việc hội tập rất
quan trọng. V́ có những người có thành kiến đối
với chuyện hội tập, Liên Tŕ đại sư là
bậc tổ sư của cả một thế hệ,
trước tác Sớ Sao đă trích dẫn [bản hội
tập của Vương Long Thư] rất nhiều, có thể
thấy là Ngài hoàn toàn chẳng phản đối bản hội
tập. Ở đây, nêu đại lược mấy thứ,
chẳng hoàn toàn nêu trọn, nhằm tán thán công đức của
Bồ Tát. Thứ nhất…
(Sao)
Nhất, kiên cố bất động, như Tu Di sơn.
(鈔) 一、堅 固 不 動,如 須 彌 山。
(Sao:
Một là kiên cố bất động như núi Tu Di).
Nói
thật ra, các công đức do những vị Bồ Tát
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới đă
thành tựu cũng là thành tựu trong tương lai của
chúng ta. Chúng ta muốn tương lai đạt thành tựu,
mà nếu hiện tại chẳng tu, lấy đâu ra thành tựu?
Hiện tại phải tu, chẳng thể hoàn toàn dựa
vào sự gia tŕ của A Di Đà Phật. Nếu bản
thân quư vị chẳng có chút ǵ, A Di Đà Phật có muốn
gia tŕ cũng chẳng gia tŕ được! Quư vị phải
có đôi chút, A Di Đà Phật mới có thể gia tŕ. Trong
phần trước, chúng tôi cũng thường nhắc
nhở ư nghĩa này, Phật Di Đà gia tŕ là gia tŕ
tương đối, [nghĩa là] chúng ta có một phần
sức mạnh th́ Ngài gia tŕ cho chúng ta một phần, chúng
ta có hai phần sức mạnh th́ sẽ được
Ngài gia tŕ hai phần. Ví như chúng ta niệm Phật đến
mức công phu thành phiến, nếu chưa đến mức
ấy, A Di Đà Phật chẳng gia tŕ được, chẳng
gia tŕ sẽ không thể văng sanh. V́ lẽ đó, người
niệm Phật rất nhiều, một vạn người
niệm Phật, khó được dăm ba kẻ văng sanh,
do nguyên nhân nào? Do chính quư vị niệm Phật chẳng
đủ công phu, Phật lực chẳng thể gia tŕ
được! Ắt là quư vị phải đạt tới
một tiêu chuẩn th́ Ngài mới có thể gia tŕ. Bản
thân chúng ta niệm đến mức công phu thành phiến, tức
là một câu Phật hiệu thật sự có thể chế
phục phiền năo, khi Ngài đến tiếp dẫn, do Phật
lực gia tŕ, sẽ khiến cho công phu thành phiến
được nâng cao lên thành nhất tâm bất loạn.
La Thập đại sư dịch
kinh Di Đà chẳng sai! Quả thật là “nhất tâm bất
loạn”, nhưng chẳng phải là chúng ta chứng đắc
nhất tâm bất loạn trong một đời này, mà là
do thần lực của Phật Di Đà gia tŕ, khi văng sanh
xác thực là nhất tâm bất loạn. Nếu không, làm sao
có thể dự vào địa vị Bồ Tát? V́ quư vị
đến nơi đó, nhất định là địa vị
Sơ Tín Bồ Tát trong Viên Giáo. Chẳng thể nào không
đạt đến địa vị Sơ Tín! [Nếu
chẳng đạt], sẽ chẳng có tư cách đến
Tây Phương Cực Lạc thế giới. Sơ Tín vị
Bồ Tát là hạ phẩm nhất tâm bất loạn, v́ Tín
vị có tất cả mười địa vị, từ
Sơ Tín, Nhị Tín, Tam Tín cho đến địa vị
Thất Tín là Sự nhất tâm viên măn. Lên cao hơn, Sơ
Trụ là Lư nhất tâm bất loạn.
Do vậy
có thể biết, chúng ta niệm Phật, trong tâm chớ
nên dễ ngươi. Chẳng đạt đến công
phu thành phiến, chẳng thể văng sanh. Nhất định
phải đoạn phiền năo, nhất định phải
tu tập tích lũy công đức. Công đức là ǵ? Công
đức khác với phước đức. Nay chúng ta bỏ
ra tiền bạc đến khắp nơi bố thí, làm
chuyện tốt đẹp. Đó là tu phước, tu
phước chẳng thể văng sanh. Văng sanh cần đến
công đức, công đức là ǵ? Tâm thanh tịnh. Có phải
là phiền năo thật sự giảm bớt hay không? Vọng
niệm có ít đi hay không? Phiền năo vọng niệm mỗi
ngày ít hơn, đó là công đức. Nhớ Phật, niệm
Phật chẳng gián đoạn, đó là công đức. V́
thế, “chẳng gián đoạn, chẳng xen tạp” trọng
yếu hơn bất cứ điều ǵ khác. Gián đoạn
và xen tạp th́ lại phải luân hồi trong lục đạo,
quư vị nói c̣n làm sao được nữa!
Chúng ta liễu giải
chân tướng sự thật này, phải học theo Bồ
Tát “kiên cố bất động”.
Tín tâm kiên cố, nguyện tâm kiên cố, sẽ quyết
định có thể văng sanh. Không chỉ là pháp thế gian
phải buông xuống, mà pháp xuất thế gian cũng phải
buông xuống. Ngàn kinh vạn luận đều phải
buông xuống. Các kinh điển có tác dụng khiến cho kẻ
chẳng tin sẽ sanh khởi ḷng tin, nên họ dùng các kinh ấy.
Chúng ta là những kẻ đă tin, chẳng cần đến
nữa! Hiện thời, tại đạo
tràng do chúng tôi đă lập ở bên Mỹ, gần đây
nhất tôi mua bốn bộ Đại Tạng Kinh; ở
bên đó, chúng tôi đă có hai bộ. Ở giảng
đường bên đó, chính chúng tôi có in một bộ
Đại Tạng Kinh, cho nên có tất cả bảy
bộ Đại Tạng Kinh, phiên bản khác nhau, tôi vẫn
đang tiếp tục thâu thập. Không chỉ thâu thập
Đại Tạng Kinh, tôi c̣n thâu thập Tứ Khố Toàn
Thư, mua cả đống sách, rốt cuộc để
làm ǵ? Để làm cho kẻ khác giác ngộ, chẳng phải
là để cho chính ḿnh sử dụng! Nhường cho
người khác, nhưng họ lại chẳng ngộ
được, cho nên chúng ta vẫn phải giúp họ khai
ngộ, phải giới thiệu cặn kẽ những thứ
ấy với người ngoại quốc.
Chúng
tôi làm công tác này, trước hết là khiến cho người
ngoại quốc ngộ, khiến cho người ngoại
quốc hoan hỷ, sau đấy mới dần dần
đem những tài liệu giáo dục ấy chuyển đến
Đại Lục để độ người Trung Quốc,
đi một ṿng lớn như vậy, dạy người
ngoại quốc trước! V́ thế, toàn tâm toàn lực
làm công tác này. Công tác này là bỏ ḿnh v́ người, kinh
Địa Tạng có nói: “Ta chẳng
vào địa ngục, ai sẽ vào địa ngục?” Hy
sinh phẩm vị văng sanh của chính ḿnh để giúp
đỡ người khác, nhưng sự hy sinh ấy có hạn
độ, tức là hạ hạ phẩm văng sanh, là Sơ
Tín, chúng ta nhất định phải làm được
điều này. Chớ nên làm đến nỗi chính ḿnh chẳng
thể văng sanh, vậy là không được rồi, chớ
nên!
Trí
Giả đại sư suốt đời hoằng pháp lợi
sanh, Ngài là tổ sư của tông Thiên Thai. Khi văng sanh, học
tṛ hỏi Ngài thuộc phẩm vị nào, Ngài đáp: “Nếu ta chẳng lănh chúng,
cũng chẳng giảng kinh, thuyết pháp, chẳng làm những
chuyện phụ thuộc, xen tạp, sẽ là thượng
thượng phẩm văng sanh. V́ lănh chúng, hoằng pháp lợi
sanh, nên chỉ văng sanh trong địa vị Ngũ Phẩm”.
Đấy là hy sinh phẩm vị văng sanh của chính ḿnh!
Đáng giá lắm! V́ sao? Hy sinh phẩm vị văng sanh của
chính ḿnh để giúp nhiều người văng sanh. Do vậy,
Bồ Tát phát tâm lợi ích chúng sanh, chẳng nhằm cầu
lợi ích cho chính ḿnh, chỉ cần chính ḿnh có thể văng
sanh, hạ hạ phẩm là được rồi! V́ lẽ
đó, tín tâm, nguyện tâm và sự chấp tŕ danh hiệu của
chúng ta phải là kiên cố bất động như núi Tu
Di!
(Sao)
Nhị, trí huệ minh liễu, như minh nhật nguyệt.
(鈔) 二、智 慧 明 了,如 明 日 月。
(Sao: Hai là trí huệ
sáng tỏ, như mặt trời, mặt trăng chiếu
sáng).
Pháp
môn có thể nói là trí huệ bậc nhất. Cớ sao nói là
trí huệ bậc nhất? Trong hết thảy các vị Bồ
Tát, Văn Thù Bồ Tát trí huệ bậc nhất, Ngài tuyển
chọn pháp môn này. Phổ Hiền Bồ Tát đại hạnh
bậc nhất, nguyện hạnh bậc thứ nhất,
Ngài cũng tuyển chọn pháp môn này. Đối với
pháp môn được chọn lựa bởi đại trí,
đại nguyện, đại hạnh, nay chúng ta cũng
khăng khăng một dạ chọn lựa pháp môn này, quư
vị chẳng phải là trí huệ, đại nguyện,
đại hạnh th́ là ǵ? Quư vị là những nhân vật
bậc nhất như Văn Thù, Phổ Hiền, tuyệt vời
thay! Thật sự chẳng thể nghĩ bàn! Nếu chẳng
phải là đại trí huệ, sẽ chẳng thể tin
tưởng pháp môn này. V́ vậy, pháp môn này được
gọi là pháp khó tin. Trong sự biểu thị pháp của
kinh này, Tiểu Thừa là Xá Lợi Phất, Đại Thừa
là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, đều là trí huệ
bậc nhất th́ mới chọn lựa pháp môn này.
(Sao)
Tam, quảng đại như hải, xuất công đức
bảo cố.
(鈔) 三、廣 大 如 海,出 功 德 寶 故。
(Sao:
Ba là rộng lớn như biển v́ sanh ra của báu công
đức).
Trí
huệ tỷ dụ Văn Thù, “quảng
đại như hải” là tỷ dụ Phổ Hiền.
Phổ Hiền Bồ Tát đại nguyện đại hạnh,
“tâm bao thái hư, lượng
châu sa giới”, chúng ta phải học điều này. Tâm
lượng phải rộng lớn, phải biết thời
gian chúng ta ở trong thế gian này rất ngắn ngủi,
tạm bợ, phải biết trong thế gian này thứ ǵ
cũng đều là giả, thứ ǵ cũng chẳng mang
theo được! Người thật sự niệm Phật,
tùy duyên sống qua ngày trong thế gian này là được
rồi, chớ nên so đo, chớ nên tranh chấp, nhất
tâm nhất ư niệm Phật, vài hôm nữa chúng ta đến
thế giới Cực Lạc. Chẳng có tâm lượng
như vậy th́ cũng là chướng ngại rất lớn.
Trong thế gian này, trong tâm bỏ sạch hết thảy
các pháp. Hết thảy các pháp nhằm lợi ích chúng sanh,
giúp đỡ chúng sanh, giúp họ học Phật, giúp họ
niệm Phật, chúng ta có thể tận tâm tận lực
công đức viên măn.
Hiện
thời, đạo tràng của chúng ta tuy nhỏ, nhưng
công đức xác thực là niệm niệm viên măn, v́ sao?
Tâm và lực đều dốc trọn hết. Chúng ta có
mười phần năng lực, chỉ dùng chín phần,
đó là chẳng viên măn; nay chúng ta tâm lẫn lực thảy
đều trọn hết. Đó là đúng pháp, tâm địa
thanh tịnh. Có đồng tu nói với tôi, những đạo
tràng khác đều cậy tín đồ đi hóa duyên,
đi quyên mộ, làm đủ thứ chuyện tốt.
Thưa cùng chư vị, công đức ấy chẳng viên
măn, v́ sao? Quư vị hăy nghĩ tới Bàng cư sĩ thuở
trước. Bàng cư sĩ là bậc Bồ Tát tái lai, chẳng
phải là phàm nhân. Trong Lục Tổ Đàn Kinh có lời thọ
kư, nói sau này sẽ có hai vị đại Bồ Tát xuất
hiện trong thế gian này để chấn hưng Tông Môn
một lần nữa. Bàng cư sĩ là một trong hai vị
đại Bồ Tát ấy, Ngài dạy chúng ta một câu: “Chuyện tốt chẳng bằng
vô sự”. V́ sao thế giới hiện thời loạn
như thế? Người tốt quá nhiều, chuyện tốt
quá nhiều! Mỗi một người tốt đều
làm chuyện tốt, khiến cho thiên hạ đại loạn.
V́ thế, chuyện ǵ là chuyện tốt thật sự? Vô
sự là chuyện tốt. Có những đồng tu
đưa tiền đến đây, chúng ta chẳng có cách
nào khác, phải thay họ làm chuyện tốt. Nếu họ
không đưa tới, chúng ta chẳng làm, chẳng phải
là càng tốt hơn ư? Hai đạo tràng của chúng ta
đều tuân theo nguyên tắc này, Giản cư sĩ ở
bên đó đă một đôi lần nói chuyện thật
lâu với tôi, tôi bảo ông ta hăy vĩnh viễn giữ ǵn
một nguyên tắc: Mỗi tháng thâu vào nhiều liền làm
nhiều, thâu ít làm ít, không ai tặng tiền th́ không làm, tự
tại lắm! Tuyệt đối đừng nên đi hóa
duyên, tuyệt đối đừng hỏi xin tiền
người khác, đó là phan duyên, chẳng phải là tùy
duyên. Có người tặng tiền nhiều, chúng ta làm nhiều
chuyện tốt, chúng sanh có phước, chúng ta nhọc nhằn.
Không ai tặng tiền, chúng sanh chẳng có phước,
chúng ta tự tại thanh tịnh, chúng ta chẳng có chuyện
ǵ! V́ thế, tùy duyên, đừng phan duyên, thân tâm chẳng
có gánh nặng, sung sướng lắm! Thân tâm chẳng có
vướng mắc!
Ở
đây là xuất sanh vô lượng vô biên công đức bảo,
công đức bảo tạng sanh từ nơi đây. V́ thế,
tâm lượng phải rộng lớn, chớ nên có giới
hạn, chớ nên có phân biệt, chớ nên có chấp
trước, thanh tịnh, b́nh đẳng, giác chứ không
mê, chánh chứ không tà, tịnh mà chẳng nhiễm, giác,
chánh, tịnh, đó là Tam Bảo! Đấy là “xuất công đức bảo”,
Tam Bảo xuất sanh. Có Tam Bảo chính là sanh ra vô lượng
vô biên công đức bảo tạng. Của báu thật sự
chính là điều này, chư vị phải ghi nhớ. Trong
tựa đề kinh Vô Lượng Thọ có nói “thanh tịnh,
b́nh đẳng, giác”, đó là Tam Bảo! Trong cuộc sống,
chúng ta xử sự, đăi người, tiếp vật, tu
ǵ? Tu Tam Bảo. Nhưng tâm lượng nhỏ hẹp th́
Tam Bảo chẳng thể xuất hiện; dẫu có, chẳng
thể hiển lộ! Ắt phải là tâm lượng quảng
đại, bỏ sạch vọng tưởng, chấp
trước, Tự Tánh Tam Bảo sẽ hiển lộ. Hôm
nay chúng tôi giảng tới chỗ này.
A Di Đà Kinh Sớ
Sao Diễn Nghĩa
Phần 99 hết
[1] Theo Thành Duy Thức Luận, Tứ Gia Hạnh gồm bốn pháp là Noăn Pháp, Đảnh Pháp, Ấn Thuận Nhẫn Pháp và Thế Đệ Nhất Pháp.
[2] Năm vị ấy thường gọi là Ngũ Tỳ Kheo (Pancaka Bhadravargiya, Ngũ Hiền Giả) chính là Kiều Trần Như (Ājñātakauṇḍinya, dịch nghĩa là Liễu Bổn Tế), Bạt Đề (Bhaddiya, dịch nghĩa là Tiểu Hiền), Bạt Ba (Vappa, dịch nghĩa là Bá Chủng), Ma Ha Nam (Mahānāma, dịch nghĩa là Đại Danh), A Thuyết Thị (Assaji, dịch nghĩa là Mă Thắng). Tùy theo cách phiên âm sai khác mà danh hiệu các Ngài được ghi hơi khác nhau trong các kinh luận, như kinh Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả ghi là Kiều Trần Như, Bạt Đà La Xà, Ma Ha Na Ma, Bạt Ba, A Xá Bà Xà, luật Tứ Phần ghi là Kiều Trần Như, Bạt Đề, Ma Ha Na Nam, Bà Phu, A Thấp Tỵ v.v… Ngài Kiều Trần Như thuộc chủng tánh Bà La Môn, tinh thông Phạn điển ngay từ khi c̣n rất trẻ, nên được bổ làm quan cố vấn của Tịnh Phạn Vương. Tôn giả Phú Lâu Na là cháu gọi ngài Kiều Trần Như bằng cậu.
[3] Lục Hợp Thái là một loại vé số lưu hành tại Hương Cảng, thường được biết dưới tên tiếng Anh là Mark Six, do Hương Cảng Tưởng Khoán Quản Lư Cục (Cục quản lư xổ số của Hương Cảng) phát hành, do Hương Cảng Trại Mă Hội (hội đua ngựa Hương Cảng) chịu trách nhiệm chính. Vé được xổ vào chín giờ ba mươi tối hằng tuần, thường là thứ Ba, thứ Năm và Chủ Nhật. Người chơi đoán sáu số từ 1 đến 49.
[4] Toán Học cổ đại của Trung Hoa thường
được gọi là Cửu Chương v́ kiến thức
Toán Học đă được
hệ thống hóa và tổng hợp tương đối
hoàn chỉnh bởi tác phẩm Cửu Chương Toán Thuật
(tác phẩm này thường được coi là đă hoàn
thiện vào triều đại nhà Hán). Không rơ ai là tác giả
của tác phẩm này, chỉ biết người chỉnh
lư là Trương Thương và Cảnh Thọ
Xương. Tác phẩm này được chú giải rất
nhiều, nổi tiếng nhất là các bản chú giải của
Lưu Huy, Lư Thuần Phong, Giả Hiến, Dương Huy,
Lư Hoàng v.v... Do tác phẩm này được chia thành chín
chương, chép thành chín quyển, nên mới thường
gọi là Cửu Chương. Hiện thời, bản
lưu hành phổ biến nhất được dựa
theo bản in trong niên hiệu Gia Định đời Tống.
Bộ sách này gồm hai trăm bốn mươi sáu bài
toán, chia thành hai trăm lẻ hai thuật toán (algorithms), bao
gồm chín thể loại như sau:
1) Phương Điền (方田): Giảng về
cách tính toán diện tích ruộng đất và phân số.
2) Túc Mễ (粟米): Cách tính toán để hoán chuyển
các đơn vị đo lường lương thực,
và đề cập nhiều vấn đề thuộc về
tỷ lệ.
3) Suy Phân (衰分): Cách tính toán các
quy tắc tỷ lệ thuận, tỷ lệ nghịch,
tam suất v.v…
4) Thiếu Quảng (少廣): Cách rút căn
bậc hai và bậc ba.
5) Thương Công (商功): Cách tính thể tích, cách tính toán vật
liệu khi xây dựng các công tŕnh lớn.
6) Quân Thâu (均輸): Cách tính thuế
khóa và các vấn đề tỷ lệ phức tạp, lăi
đơn, lăi kép v.v...
7) Doanh Bất Túc (盈不足): Cách giải các hệ thống
phương tŕnh tuyến tính, đặc biệt liên quan
đến vấn đề thừa thiếu. Một bài toán
điển h́nh là: “Nhiều người cùng mua hàng, nếu
mỗi người trả bảy đồng th́ tổng số
tiền thiếu mất bốn đồng, mỗi người
trả tám đồng th́ tổng số tiền thừa ra
ba đồng. Hỏi có mấy người mua, tổng số
tiền phải trả là bao nhiêu?” (Đáp số là bảy
người mua và món tiền phải trả là năm
mươi ba đồng). Hiện thời, để giải
bài toán này, có thể đơn giản dùng hệ
phương tŕnh {7x = y - 4; 8x= y+3}, trong đó x là số
người mua, y là tổng số tiền phải trả,
nhưng đối với Toán Học Trung Hoa thời
đó, chưa có cách dùng ẩn số và các kư hiệu như
trong Toán Học Tây Phương, để giải bài toán
này, cổ nhân đă áp dụng thuật toán khá độc
đáo và hơi khó hiểu, nhưng giải quyết vấn
đề rất nhanh.
8) Phương Tŕnh (方程): Cách giải hệ
thống phương tŕnh bậc nhất và cách cộng trừ
các số âm và dương.
9) Câu Cổ (勾股): Các ứng dụng
của định lư Pythagore (trong một tam giác vuông, b́nh
phương cạnh huyền bằng tổng số của
b́nh phương hai cạnh c̣n lại, nghĩa là a2
+ b2= c2).
Thật ra, Toán Học cổ Trung Hoa có đến mười bộ sách toán (thường gọi là Toán Kinh Thập Thư) gồm Châu Bễ Toán Kinh, Cửu Chương Toán Thuật, Hải Đảo Toán Kinh, Tôn Tử Toán Kinh, Trương Khâu Kiến Toán Kinh, Ngũ Tào Toán Kinh, Ngũ Kinh Toán Thuật, Tập Cổ Toán Kinh, Số Thuật Kư Di và Hạ Hầu Dương Toán Kinh, nhưng Cửu Chương Toán Thuật nổi tiếng nhất, chi tiết nhất, có thuật toán và nội dung phong phú nhất, văn phong rành mạch, khúc chiết nhất, nên được coi là sách toán trọng yếu nhất. Sách này được truyền sang Đại Hàn và Nhật Bản, tạo ảnh hưởng to lớn và khơi gợi hứng thú cao độ trong việc nghiên cứu Toán Học tại hai quốc gia ấy. Sách này c̣n được dùng làm tài liệu giáo khoa chủ yếu cho các quan đảm nhiệm dạy Toán trong Quốc Tử Giám đời Đường.
[5] Hán ngữ hiện thời gọi Phương Tŕnh (Equation) là Phương Tŕnh Thức (方程式), nhưng chúng ta vẫn gọi là Phương Tŕnh.
[6] Tên gọi các chương của Cửu Chương trong sách Diễn Nghĩa hơi khác, có lẽ v́ chép sai, hoặc do sử dụng các bản in khác nhau, chẳng hạn Túc Mễ được sách Diễn Nghĩa chép thành Túc Bố, hoặc gọi bằng danh từ khác như Doanh Nục (có nghĩa là thừa thiếu, đồng nghĩa với Doanh Bất Túc). Ở đây, thật ra Thiếu Quảng mới là rút căn bậc hai (square root). Câu Cổ là c̣n gọi là Cao Thương hoặc Tất Thị Tam Nguyên Số (Tất Thị là phiên âm chữ Pythagore), chính là định lư b́nh phương cạnh huyền của một tam giác vuông bằng tổng số b́nh phương của hai cạnh kia. Mở rộng ra, những con số Câu Cổ là những số thỏa măn điều kiện ấy, chẳng hạn (3, 4, 5) hoặc (8, 5, 11) v.v…
[7] Lạc Hoằng (tên gọi đầy đủ là Lạc Hạ Hoằng, 156-87 trước Công Nguyên, Lạc Hạ là họ kép), tự là Trưởng Công, người xứ Lăng Trung, Ba Quận (Tứ Xuyên), sống vào thời Tây Hán, là một nhà thiên văn và toán học lừng lẫy. Thoạt đầu, ông không ra làm quan, chuyên tâm nghiên cứu Thiên Văn và Triết Học. Ông chế ra dụng cụ quan sát các tinh tú để tính lịch pháp gọi là Hỗn Thiên Nghi (Armillary sphere) có h́nh cầu, có nhiều ṿng đồng bao quanh để tính toán quỹ đạo của các tinh cầu. Vào năm Thái Sơ nguyên niên (104 trước Công Nguyên), Hán Vũ Đế nghe danh, xuống chiếu triệu ông đến Trường An để tu chỉnh lịch pháp. Ông hợp sức cùng với Đường Đô, Tư Mă Thiên, Tiên Ư Vọng v.v… soạn ra bộ lịch Thái Sơ, cải tiến cách tính lịch của Chuyên Húc đă lỗi thời của nhà Tần, tiến hành cải cách lịch pháp một cách hệ thống và hợp lư. Ông đề xướng nhiều cách tính lịch mới mẻ, chẳng hạn ông đề xướng bỏ quan niệm một năm gồm mười tháng trong lịch Chuyên Húc, chia một năm thành mười hai tháng và hai mươi bốn tiết Khí, ấn định bốn mùa theo đúng thứ tự và độ dài, quy định lại ngày đầu năm (Chánh Sóc), biến lịch Trung Hoa thành Âm Dương Lịch, giúp cho người dân chỉ coi lịch để tính toán thời điểm nông vụ, không cần phải tốn công quan sát thiên tượng để tiên đoán khí hậu như trước kia. Điểm đặc sắc của lịch Thái Sơ là ấn định một năm có 365 ngày, nhưng mỗi tháng tối đa chỉ có ba mươi ngày, nên mới sử dụng năm nhuần để hiệu chỉnh những sai lệch. Học thuyết Hỗn Thiên nhằm lư giải vũ trụ của ông (với quan điểm trái đất là trung tâm vũ trụ) về sau được Trương Hành hoàn thiện trở thành một học thuyết chánh yếu về vũ trụ quan của Trung Hoa măi cho tới đời Thanh.
[8] Số Lư ở đây là lư luận về số học, tức suy luận Toán Học thuần túy, không phải là Lư Số. Lư Số là thuật bói toán, tiên đoán vận mạng dựa trên Âm Dương và Ngũ Hành.
[9] Nhất Hạnh (638-727) là một nhà toán học và lịch pháp lừng danh của Trung Hoa, đồng thời là một vị tổ sư của Đông Mật Trung Hoa. Ngài tên thật là Trương Toại, pháp hiệu Kính Hiền, tôn hiệu là Đại Huệ thiền sư, người xứ Xương Lạc, Ngụy Châu (tỉnh Hà Nam hiện thời), c̣n được gọi là Nhất Hạnh A Xà Lê. Ngài xuất thân từ thế gia vọng tộc (ông cố chính là quan đại thần Trương Công Cẩn đời Đường Thái Tông, ông nội là Trương Đại Tố làm quan đến chức Môn Hạ Tỉnh Đông Đài Xá Nhân, cha là huyện lệnh huyện Vũ Công). Ngài tinh thông tiếng Phạn, Toán Học, lịch pháp, đặc biệt là Thiên Văn Học. Năm hai mươi mốt tuổi, khi cha mẹ đều khuất bóng, do nghe ngài Hoằng Cảnh thuộc tông Thiên Thai giảng pháp, bèn dấy lên ư niệm xuất gia, xin quy y, xuống tóc với ngài Phổ Tịch ở Tung Sơn. Do thâm nhập Nhất Hạnh tam-muội, nên c̣n có hiệu là Nhất Hạnh. Về sau, Ngài chuyên học tập kinh điển nhà Phật cũng như nghiên cứu Thiên Văn, Toán Học tại Tung Sơn và chùa Ngọc Tuyền. Năm Khai Nguyên thứ 5 (711), Đường Huyền Tông xuống chiếu triệu hồi Ngài về Trường An phụ tá ngài Thiện Vô Úy dịch kinh Đại Nhật. Ngài c̣n học Mật Pháp với ngài Kim Cang Trí, được đại sư truyền quán đảnh. Ngài lại làm Bút Thọ trong việc dịch thuật các bộ kinh trọng yếu của Kim Cang Giới Mạn Đà La như Kim Cang Tụng Niệm Pháp, Thất Câu Chi Đà La Ni… Sau đó lại cầu pháp với Bất Không đại sư, học kinh Kim Cang Đảnh. Có thể nói Ngài là người đầu tiên được truyền thừa đồng thời hai hệ thống Mật Pháp trong lịch sử Trung Hoa. Năm 713, Đường Huyền Tông sai Ngài cải cách lịch pháp, biên soạn bộ Đại Diễn Lịch với sự trợ giúp của Trương Thuyết, Trần Huyền Cảnh v.v... Ngài thiết kế nhiều dụng cụ thiên văn như Hoàng Đạo Du Nghi, Hỗn Tượng, Phục Củ v.v.. đo lường quỹ đạo các hằng tinh, sửa đổi hiệu chỉnh lịch pháp từ đời Hán cho khớp với vận hành của các tinh tú, phát hiện hiện tượng tuế sa (precession). Năm Khai Nguyên 12 (723), Ngài chủ tŕ công cuộc đo lường bóng mặt trời trên quy mô lớn, phía Bắc đến Thiết Lặc (vùng phụ cận kinh đô Ulan Bator của Mông Cổ hiện thời), phía Nam đến Giao Châu (miền Bắc Việt Nam), tính ra độ dài của kinh tuyến (nhằm có số lượng chánh xác về thiên văn để hiệu chỉnh lịch pháp). Riêng về Mật Tông, Ngài viết bộ Đại Nhật Kinh Sớ (ghi chép những lời giảng giải của đại sư Thiện Vô Úy) được coi là tác phẩm chú giải quan trọng nhất để hiểu giáo nghĩa Mật Tông, đặc biệt là Thai Tạng Giới Mạn Đà La.
[10] Theo Huệ Lâm Âm Nghĩa: “Ưu-ba-ni-sa-đà phần theo cách tính toán trong tiếng Phạn là số nhỏ nhất, Đại Luận giải thích là vi tế được phân chia tới cực hạn… Giảng nghĩa là Vi Tế, nhỏ đến gần bằng Hư Lân th́ gọi là Ổ-ba-ni-sát-đàm”. Hư Lân tức là Hư Lân Trần, là vi trần chia đến mức nhỏ nhất, nếu chia chẻ ra nữa sẽ thành hư không.
[11] Lẻ là một đơn vị đo lường, thường hiểu là tương đương với một decilitter (dl) trong đơn vị đo lường hiện thời. Khi chỉ đơn vị đo lường, chữ 合 phải đọc là Cáp (không đọc là Hợp hoặc Hiệp như trong cách đọc thông thường).
[12] Khi ấy, Tổng Thống Đài Loan là Lư Đăng Huy.