A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa

阿彌陀經疏鈔演義

Phần 99

Chủ giảng: Lăo pháp sư Tịnh Không năm 1984

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Minh Tiến, Huệ Trang và Đức Phong

 

Tập 197

 

      Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang ba trăm chín mươi chín:

 

      (Diễn) Kiến Hoặc hữu bát thập bát Sử, dĩ Ngũ Độn Ngũ Lợi Thập Sử, lịch tam giới Tứ Đế hạ, tăng giảm bất đồng, thành bát thập bát. Tư Hoặc hữu bát thập nhất phẩm, vị tam giới phân vi cửu địa, Dục Giới hợp vi nhất địa, Tứ Thiền, Tứ Không vi bát, cộng vi cửu địa. Dục Giới nhất địa trung, hữu cửu phẩm tham, sân, si, mạn, thượng bát địa các hữu cửu phẩm, trừ Sân Sử, cố thành bát thập nhất dă. Thượng lai Kiến Tư bất đồng, tổng thị Tạng Giáo, thật hữu Tập Đế.

() 使,以 使,歷 下,增 同,成 八;思 品,謂 分為 地,欲 地,四 八,共 地。欲 中,有 慢,上 品,除 使,故 也。上 同,總 教,實 諦。

(Diễn: Kiến Hoặc có tám mươi tám Sử, do mười Sử gồm Ngũ Độn và Ngũ Lợi trải khắp Tứ Đế trong tam giới, do tăng giảm khác nhau mà thành tám mươi tám phẩm. Tư Hoặc có tám mươi mốt phẩm, tức là tam giới chia thành chín địa: Dục Giới hợp thành một địa, Tứ Thiền Thiên và Tứ Không Thiên là tám địa, cộng thành chín địa. Trong một địa của Dục Giới có chín phẩm tham, sân, si, mạn. Đối với tám địa trên đó (tám địa của Tứ Không Thiên và Tứ Thiền Thiên), mỗi địa có chín phẩm, ngoại trừ Sân Sử, nên thành tám mươi mốt phẩm. Kiến Tư [được phân định] sai khác như trên đây nói chung là Tạng Giáo, [trong cách thấy của họ] thật sự có Tập Đế).

 

      Những điều giải thích ở chỗ này đều dựa theo Tạng Giáo, chúng ta cũng thường nói là Tiểu Thừa. Phần trước nói về Khổ Đế của Tạng Giáo, đoạn này giảng về Tập Đế của Tạng Giáo. Trong lần trước, tôi đă giảng đại lược ư nghĩa.

 

      (Diễn) Tam, Diệt Đế giả.

      () 三、滅 者。

(Diễn: Ba, Diệt Đế là…).

 

      “Tập” () là nói đến cái nhân. Đă tạo nhân, bèn có quả báo, bèn có lục đạo luân hồi. Hai Đế sau nói tới pháp xuất thế gian. Pháp xuất thế gian Tiểu Thừa cũng là nói quả trước rồi mới nói tới nhân. Trước hết là nói về Diệt Đế:

 

      (Diễn) Diệt tiền Khổ Tập.

      () 集。

      (Diễn: Diệt Khổ và Tập trước đó).

 

      Diệt ǵ? Diệt sanh tử, diệt luân hồi, diệt phiền năo.

 

      (Diễn) Hiển Thiên Chân lư, nhân Diệt hội Chân, Diệt phi Chân Đế.

      () 理,因 真,滅 諦。

      (Diễn: Hiển lộ lư Thiên Chân, do Diệt mà thấu hiểu Chân, Diệt [trong Tạng Giáo] chưa phải là Chân Đế).

 

      Đây là Thiên Chân Niết Bàn do hàng Tiểu Thừa chứng đắc. Chân () là chẳng sai lầm. V́ sao gọi là Thiên Chân? Thiên (: lệch lạc) là chẳng viên, tức là chẳng viên măn, lệch về một bên. Phàm phu lệch về Hữu, Tiểu Thừa lệch về Không, tức Chân Không; Hữu là huyễn hữu. Luôn chấp trước, ngỡ [điều ḿnh thiên chấp] là chân thật, nên gọi là Thiên. Do sự thiên chấp này, phàm phu chịu khổ rất lớn, ngỡ huyễn hữu là chân hữu; do đó, tạo thành lục đạo luân hồi, khổ khôn kể xiết! Hàng Tiểu Thừa cũng ngỡ Không là chân thật, nhưng bị hại nhẹ hơn chúng ta nhiều, họ bị hại là “bản tánh bị chướng ngại”. V́ lẽ đó, hàng Tiểu Thừa chẳng thể kiến tánh là do họ chấp trước Chân Không, tưởng cái Không ấy là thật, [cứ ngỡ là] thật sự có chuyện như vậy. V́ hai thứ chấp trước ấy nên đều chẳng thể kiến tánh. “Diệt” c̣n gọi là Niết Bàn, cũng gọi là Viên Tịch, có rất nhiều tên gọi khác nhau, nhưng thực tế đều là nói đến một chuyện. Nói là Viên Tịch th́ Viên () là nói đến sự viên măn, Tịch () là tịch diệt. Các danh xưng Niết Bàn và Viên Tịch đều dùng chung cho cả Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa. Tứ Đế và Diệt Đế cũng được sử dụng chung cho cả Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa; ở đây là nói đến Diệt Đế của Tạng Giáo. Quả báo đang được nói đến ở đây đương nhiên là điều mong cầu, hy vọng đạt được của mỗi người học Phật chúng ta. Hy vọng liễu sanh tử, hy vọng vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, vượt thoát tam giới, phải như thế nào th́ mới có thể thực hiện được? Dưới đây bèn nói tới phương pháp, tức là nói tới Đạo.

 

      (Diễn) Tứ, Đạo Đế giả, lược tắc Giới, Định, Huệ, quảng tắc tam thập thất Đạo Phẩm.

() 四、道 者,略 慧,廣 品。

(Diễn: Bốn là Đạo Đế, đại lược th́ là Giới, Định, Huệ, nói rộng th́ là ba mươi bảy Đạo Phẩm).

 

      Ba mươi bảy Đạo Phẩm sẽ được nói đến trong kinh này.

 

      (Diễn) Thử tam thập thất hợp vi thất khoa.

      () 科。

      (Diễn: Ba mươi bảy phẩm ấy hợp thành bảy khoa).

 

      “Khoa” là khoa loại (科類: chia thành từng loại tổng quát), ba mươi bảy phẩm có thể chia thành bảy loại lớn. Bảy loại lớn [chính là]…

 

      (Diễn) Nhất, Tứ Niệm Xứ, nhị, Tứ Chánh Cần, tam, Tứ Như Ư Túc, tứ, Ngũ Căn, ngũ, Ngũ Lực, lục, Thất Giác Chi, thất, Bát Chánh Đạo.

      () 一、四 處,二、四 勤,三、四 足,四、五 根,五、五 力,六、七 支,七、八 道。

      (Diễn: Một là Tứ Niệm Xứ, hai là Tứ Chánh Cần, ba là Tứ Như Ư Túc, bốn là Ngũ Căn, năm là Ngũ Lực, sáu là Thất Giác Chi, bảy là Bát Thánh Đạo).

 

      Tới phần sau sẽ nói cặn kẽ, trong kinh văn có nói.

 

      (Diễn) Dĩ thượng thất khoa, tức thị Tạng Giáo Sanh Diệt Đạo Đế, nhiên Tứ Đế chi trung, phân thế xuất thế.

      () 科,即 諦,然 世。

(Diễn: Bảy khoa trên đây, chính là Sanh Diệt Đạo Đế của Tạng Giáo, nhưng trong Tứ Đế có chia thành thế gian và xuất thế gian).

 

      “Thế” là thế gian, “xuất thế” là xuất thế gian.

 

      (Diễn) Tiền nhị Đế vi thế gian nhân quả.

      () 果。

(Diễn: Hai Đế trước là nhân quả thế gian).

 

      Tức là Khổ và Tập.

 

      (Diễn) Hậu nhị Đế vi xuất thế gian nhân quả, giai tiền quả hậu nhân giả, linh tri Khổ, đoạn Tập, mộ Diệt, tu Đạo dă.

() 果。皆 者,令 也。

(Diễn: Hai Đế sau là nhân quả xuất thế gian, đều là quả trước, nhân sau, ngơ hầu [người nghe] sẽ biết Khổ, đoạn Tập, hâm mộ Diệt, tu Đạo).

 

      Đây là sự thiện xảo trong cách thuyết pháp của đức Phật, đều là nói đến cái quả trước, nói cái nhân sau, khiến cho chúng ta thật sự biết khổ, biết tam giới khổ sở th́ mới chịu đoạn phiền năo. Người thế gian, kẻ b́nh phàm th́ chẳng nói, chứ nói về phía kẻ tu đạo, đặc biệt là kẻ học Phật đạo, cớ sao kẻ đă học Phật đạo chẳng chịu đoạn phiền năo? Nói thật ra, [nguyên nhân là v́ kẻ ấy] vẫn chưa nhận biết rơ ràng nỗi khổ trong thế gian! Thật sự nhận biết nỗi khổ trong thế gian, đạo tâm của người ấy sẽ khác hẳn. Phàm là những kẻ chẳng phát đạo tâm là do chẳng nhận thức rơ ràng nỗi khổ trong thế gian, sống trong sự khổ sở mà chẳng biết khổ. Chúng ta thường nói là “chai ĺ, bất nhân”, chẳng biết thế gian khổ sở, chẳng biết luân hồi đáng sợ. Cơi trời và cơi người c̣n hơi tốt đẹp một chút, chứ ba ác đạo đáng kinh hăi lắm! Trong ba ác đạo, địa ngục đạo và ngạ quỷ đạo th́ chúng ta chẳng thấy, chứ súc sanh đạo th́ thường xuyên trông thấy. Nghĩ tới t́nh cảnh của súc sanh, chúng ta có bằng ḷng làm súc sanh hay chăng? Quỷ đạo c̣n thua súc sanh, địa ngục đạo c̣n chẳng bằng ngạ quỷ đạo. Trong lục đạo, khổ nhất là địa ngục đạo. Chúng ta mong làm súc sanh, địa ngục, ngạ quỷ ư? Đương nhiên là chẳng có ai muốn làm! Tuy chẳng muốn làm, nhưng hằng ngày chúng ta đang tạo cái nhân, vậy th́ chẳng được rồi! Nếu quư vị đă tạo nhân, lẽ đâu chẳng hứng chịu quả báo? Đoạn này vừa mở đầu liền nói: Quư vị phải biết khổ, biết khổ th́ mới chịu đoạn phiền năo. Thật sự nhận biết, thật sự lư giải Phật đạo th́ mới có thể sanh tâm ngưỡng mộ, mới chịu nghiêm túc tu đạo.

      “Đạo” là ǵ? “Lược tắc Giới, Định, Huệ” nghĩa là nói đơn giản: Đạo là Tam Vô Lậu Học Giới, Định, Huệ, tŕ Giới, tu Định, khai Huệ. Tam Học Giới, Định, Huệ là tổng cương lănh của Phật pháp, thực hiện từ chỗ nào? Tiểu Thừa giáo (Thanh Văn giáo) thực hiện từ Tứ Niệm Xứ và Tứ Chánh Cần. Tứ Niệm Xứ là Quán Huệ, là trí huệ, là giác ngộ. Điều thứ nhất là “quán thân bất tịnh”, thân là cội khổ. Không chỉ là Phật, Bồ Tát biết, mà người thế gian chúng ta cũng hiểu. Lăo Tử nói: “Ta có nỗi họa hoạn to lớn là do ta có thân”; đó là khi Phật pháp chưa truyền đến Trung Hoa, Đạo gia đă giác ngộ cái thân là cội khổ! Hàng phàm phu bậc cao trong lục đạo chẳng cần đến thân thể, họ sanh trong Vô Sắc Giới. Sắc Giới tuy đă đoạn Ngũ Dục, vẫn c̣n có thân thể. V́ thế, hàng phàm phu thông minh nhất bèn chẳng cần thân thể nữa, đó là hạng phàm phu bậc cao. Đó là trí huệ! Có trí huệ quan sát, thật sự giác ngộ th́ mới chịu nghiêm túc tu học. Tu học bắt đầu từ chỗ nào? Từ Tứ Chánh Cần. Tứ Chánh Cần th́ một đằng là thiện, một đằng là ác. Ác th́ phải nghiêm túc đoạn, thiện th́ phải phát tâm tu tập.

      Đề mục của ba mươi bảy phẩm như nhau, nhưng ư nghĩa trong Đại Thừa và Tiểu Thừa khác nhau. Đối với Tam Học và ba mươi bảy Đạo Phẩm, tông Thiên Thai nói có Tạng, Thông, Biệt, Viên. Những điều được nói ở đây thuộc về Tạng Giáo, thuộc về Tiểu Thừa, chỉ là vượt thoát sự luân hồi trong tam giới mà thôi. Đấy là bậc A La Hán trong Tiểu Thừa. Kinh nói trong các đệ tử đức Phật, có nhiều vị là A La Hán.

 

      (Diễn) A La Hán giản phi tiền tam giả.

      () 者。

      (Diễn: [Nói] A La Hán nhằm chỉ rơ: Chẳng thuộc về ba quả vị trước).

 

      Ba địa v trước đó là Tu Đà Hoàn (Srotāpanna), Tư Đà Hàm (Sakridāgāmi), và A Na Hàm (Anāgāmi), đều là quả vị Tiểu Thừa, chúng ta gi [các quả vị ấy] là Sơ Quả, Nhị Quả, và Tam Quả. Kinh nói đến Tứ Quả, tức là A La Hán (Arhat), chẳng phải là ba loại trước.

 

      (Diễn) Nhất, Tu Đà Hoàn, thử vân Dự Lưu.

      () 一、須 洹,此 流。

      (Diễn: Một là Tu Đà Hoàn, cơi này dịch là Dự Lưu).

 

      Dự Lưu (預流) là nhập lưu (入流), tức là dự vào hàng thánh nhân, v́ Ngài đă chứng đắc Vị Bất Thoái. Vị Bất Thoái sẽ tuyệt đối chẳng lui sụt xuống phàm phu, tuyệt đối chẳng đọa trong ba ác đạo. Ngài có tiến, có lùi, bảy phen sanh tử trong nhân gian hay cơi trời. Tuy có tiến, lùi như vậy, Ngài vẫn thuộc vào hàng thánh nhân, cho nên Ngài thoái chuyển có chừng hạn. Nếu chẳng chứng đắc Tu Đà Hoàn, trước khi đạt đến Tứ Gia Hạnh[1] th́ mới có thể lui sụt xuống địa ngục, mức độ thấp nhất là A Tỳ địa ngục. Chứng đắc Tiểu Thừa Sơ Quả, ngằn hạn [lui sụt đến mức] thấp nhất sẽ là Sơ Quả, chẳng thể lùi xuống phàm phu, lại càng chẳng thể đọa lạc ba ác đạo. Nhất định phải hiểu điều này! Đối với sự tiến, lùi, chúng ta thường nói “Thất Địa Bồ Tát c̣n có thoái chuyển”, Thất Địa Bồ Tát lui sụt đến chỗ nào? Chúng ta nói theo Viên Giáo th́ Ngài sẽ lui sụt đến Sơ Trụ. Sơ Trụ là phá một phẩm vô minh, thấy một phần chân tánh, tiến tiến lùi lùi đến mức độ thấp nhất là Sơ Trụ Bồ Tát của Viên Giáo, chẳng lui sụt đến Tiểu Thừa, chẳng thể lui sụt đến A La Hán, Bích Chi Phật, mà cũng chẳng thể lui sụt đến Quyền Giáo Bồ Tát. V́ thế, mỗi lần lui sụt, Ngài đều có chừng hạn. Đạt đến Bát Địa, sẽ là Bất Thoái. Bát Địa thật sự viên măn ba thứ Bất Thoái.

 

      (Diễn) Thử vị.

      () 位。

      (Diễn: Địa vị này).

 

      Địa vị này là Tu Đà Hoàn, tức Tiểu Thừa Sơ Quả.

 

      (Diễn) Đoạn tam giới bát thập bát Sử Kiến Hoặc, kiến Chân Đế, cố danh vi Kiến Đạo.

     () 使 惑,見 諦,故 道。

(Diễn: Đoạn tám mươi tám Sử thuộc Kiến Hoặc trong tam giới, thấy Chân Đế, nên gọi là Kiến Đạo).

 

      Đây là Kiến Đạo trong Tiểu Thừa: Đoạn sạch tám mươi tám Sử thuộc Kiến Hoặc, chứng đắc Tiểu Thừa Sơ Quả. Nếu người ấy là căn tánh viên đốn th́ phải là hàng Bồ Tát thuộc địa vị Sơ Tín trong Viên Giáo. Sơ Tín của Viên Giáo bằng với Sơ Quả của Tiểu Thừa. Nói theo phương diện đoạn chứng, sẽ bằng với Tu Đà Hoàn của Tiểu Thừa, đều là đoạn tám mươi tám Sử; nhưng nói theo phương diện trí huệ và công đức, A La Hán chẳng sánh bằng. Do vậy có thể biết, căn cơ viên đốn đáng quư.

 

      (Diễn) Nhị, Tư Đà Hàm, thử vân Nhất Lai.

      () 二、斯 含,此 來。

      (Diễn: Hai là Tư Đà Hàm, cơi này dịch là Nhất Lai).

 

      Đây là Nhị Quả trong Tiểu Thừa, Nhất Lai nghĩa là ǵ? Ngài c̣n phải sanh trong nhân gian một lần, sau đấy có thể chẳng cần sanh trong nhân gian nữa.

 

      (Diễn) Thử vị đoạn Dục Giới cửu phẩm Tư trung, đoạn tiền lục phẩm tận, hậu tam phẩm do tại, cố cánh nhất lai.

() 中,斷 盡,後 在,故 來。

 (Diễn: Địa vị này đă đoạn sáu phẩm trước trong chín phẩm Tư Hoặc thuộc Dục Giới, do hăy c̣n ba phẩm sau [chưa đoạn] nên phải trở lại lần nữa).

 

      Dục Giới có tất cả chín phẩm Tư Hoặc, Ngài đă đoạn sạch sáu phẩm trước, c̣n sót lại ba phẩm, nên vẫn phải trở lại một lần nữa; do đó gọi là Nhất Lai quả. Nhị Quả c̣n phải sanh trong nhân gian một lần, Tam Quả chẳng tái sanh nữa.

 

      (Diễn) Tam, A Na Hàm, thử vân Bất Lai.

      () 三、阿 含,此 來。

      (Diễn: Ba là A Na Hàm, cơi này dịch là Bất Lai).

 

      A là Vô, Na Hàm là Lai. Vô Lai chính là Bất Lai, [ư nói] chẳng đến (chẳng sanh trong) Dục Giới nữa!

 

      (Diễn) Thử vị đoạn dục tàn Tư tận.

      () 盡。

      (Diễn: Địa vị này đoạn sạch mọi Tư Hoặc c̣n sót lại trong Dục Giới).

 

      “Tàn” () là tàn dư. Ngài đoạn sạch ba phẩm c̣n thừa sót, chẳng trở lại [nhân gian] nữa. Trong chín địa của tam giới, Dục Giới là một địa, trong mỗi địa có chín phẩm, Ngài đă đoạn hết chín phẩm Hoặc. Ngài đến nơi đâu để tu hành? Ngài tiến tiến lùi lùi trong Sắc Giới từ Sơ Thiền cho đến Tứ Thiền, nếu đọa lạc th́ cũng bất quá đọa xuống Sơ Thiền [là hết mức], chẳng thể đọa xuống các cơi thấp hơn cơi Sơ Thiền. Tiến lên trên là Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, tiến tiến lùi lùi trong các chỗ ấy, chẳng thể đọa xuống Dục Giới. V́ thế, gọi là Bất Lai, c̣n gọi là Bất Hoàn Quả.

 

      (Diễn) Tấn đoạn thượng bát địa Tư.

     () 思。

      (Diễn: Tiến cao hơn là đoạn Tư Hoặc trong tám địa phía trên).

 

      “Tư” là Tư Hoặc. Phía trên đó c̣n tám địa, tức là [các phẩm Tư Hoặc] thuộc về Tứ Thiền Thiên và Tứ Không Thiên.

 

      (Diễn) Tứ, A La Hán, thử vân Vô Học.

      () 四、阿 漢,此 學。

      (Diễn: Bốn là A La Hán, cơi này dịch là Vô Học).

 

      A La Hán là Vô Học. A là Vô, La Hán là Học. Vô Học là đă tốt nghiệp.

 

      (Diễn) Hựu vân Vô Sanh.

() 生。

      (Diễn: Lại dịch là Vô Sanh).

 

      Vô Sanh là ǵ? Ngài chẳng c̣n đến thọ sanh trong tam giới lục đạo, đă thoát khỏi tam giới.

 

      (Diễn) Hựu vân Sát Tặc.

      () 賊。

      (Diễn: Lại c̣n dịch là Sát Tặc).

 

      Có rất nhiều người chẳng hiểu rơ Phật giáo cho lắm, thấy A La Hán c̣n gọi là Sát Tặc, [bèn dè bỉu]: “Nhà Phật chẳng sát sanh! Quư vị thấy [La Hán] c̣n giết giặc, đă khai sát giới rồi!” Đó là hiểu lầm! Chữ “tặc” () chỉ Kiến Tư phiền năo. Đoạn sạch Kiến Tư phiền năo, giống như đă giết sạch giặc Kiến Tư phiền năo, có ư nghĩa này, chẳng phải là thật sự sát sanh, mà nhằm tỷ dụ sự đoạn trừ phiền năo. Ở đây là giặc phiền năo, chẳng phải là giặc nào khác!

 

      (Diễn) Hựu vân Ứng Cúng.

      () 供。

      (Diễn: C̣n dịch là Ứng Cúng).

 

      A La Hán có công đức chân thật, đoạn sạch Kiến Tư phiền năo là công đức chân chánh. Trời người cúng dường A La Hán, phước báo ấy rất lớn. Ngài xứng đáng tiếp nhận sự cúng dường của trời người, nên được gọi là bậc Ứng Cúng.

 

      (Diễn) Thử vị đoạn Kiến Tư câu tận.

      () 盡。

      (Diễn: Địa vị này, Kiến Hoặc và Tư Hoặc đều đoạn hết sạch).

 

      Tám mươi tám sử Kiến Hoặc và tám mươi mốt phẩm Tư Hoặc thảy đều đoạn sạch.

 

      (Diễn) Tử phược dĩ đoạn, quả phược do tồn, danh Hữu Dư Niết Bàn.

() 斷,果 存,名 槃。

(Diễn: Triền phược thô đă đoạn, triền phược vi tế hăy c̣n, nên gọi là Hữu Dư Niết Bàn).

 

      “Tử phược” (子縛) là phiền năo thô. Đoạn sạch phiền năo thô, hăy c̣n phiền năo vi tế chưa đoạn. Phiền năo vi tế là Quả Phược, Phược () là trói buộc. Ba loại phiền năo lớn là Kiến Tư phiền năo, Trần Sa phiền năo, và Vô Minh phiền năo. A La Hán chỉ đoạn Kiến Tư, chứ Trần Sa và Vô Minh đều chưa đoạn, nên Niết Bàn do Ngài đă chứng được gọi là Hữu Dư Niết Bàn (Sa-upādisesa-nibbānadhātu), v́ c̣n thừa sót Trần Sa, c̣n sót lại Vô Minh. Hai loại này vẫn c̣n, nhưng Ngài đă thoát khỏi tam giới. Trần Sa Hoặc và Vô Minh Hoặc sẽ đoạn sau khi thoát khỏi tam giới. Đấy là giải thích về A La Hán.

 

      (Sao) Văn Tứ Đế giả, Thế Tôn vị Kiều Trần Như đẳng ngũ nhân, chuyển Khổ, Tập, Diệt, Đạo pháp luân, sơ thị, nhị khuyến, chí tam tắc chứng. Chư lậu dĩ tận, thành A La Hán. Nhân văn thanh giáo dĩ đắc khai minh, cố danh Thanh Văn. Thanh Văn chi hiệu, thông tiền tam quả, kim Tứ Quả dă.

() 者,世 人,轉 輪,初 示、二 勸,至 證。諸 盡,成 漢。因 明,故 聞。聲 號,通 果,今 也。

 (Sao: “Nghe Tứ Đế”: Đức Thế Tôn v́ nhóm năm người của ngài Kiều Trần Như chuyển pháp luân Khổ Tập Diệt Đạo, đầu tiên là chỉ bày, hai là khuyên lơn, cho đến điều thứ ba là chứng nhập. Các lậu đă hết, thành A La Hán. Do nghe thanh giáo bèn được khai minh, nên gọi là Thanh Văn. Danh hiệu Thanh Văn bao gồm cả ba quả trước, ở đây là Tứ Quả).

 

      Thanh Văn (Śrāvaka) là hiệu chung của Tiểu Thừa. Từ Sơ Quả đến Tứ Quả A La Hán đều gọi là Thanh Văn. Các Ngài do nghe đức Phật thuyết pháp mà ngộ đạo, nên được gọi là Thanh Văn. Chúng ta xem phần chú giải dưới đây.

 

      (Diễn) Thế Tôn vị Kiều Trần Như đẳng ngũ nhân giả.

      () 者。

      (Diễn: Đức Thế Tôn v́ nhóm năm người Kiều Trần Như).

 

      Đây là nói đến một đoạn nhân duyên Phật thuyết pháp độ chúng sanh đầu tiên. Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện trong thế gian này, sau khi thành đạo, trong mười bốn ngày tuyên nói kinh Hoa Nghiêm, kinh Hoa Nghiêm được đức Phật giảng trong Định. Đức Phật ngồi dưới cội Bồ Đề, ban đêm thấy sao Hôm, bèn hoát nhiên đại ngộ. Sau khi đă ngộ, Ngài vẫn ngồi dưới cội Bồ Đề. Lũ phàm phu chúng ta thấy Phật tĩnh tọa tại đó, chẳng biết Ngài đang giảng kinh Hoa Nghiêm trong Định. Pháp hội náo nhiệt dường ấy, nhưng bọn phàm phu chúng ta đâu có biết! Chờ đến sau khi Ngài xuất Định, gặp năm người ấy tại Lộc Dă Uyển, v́ năm người ấy thuyết pháp, năm người ấy khai ngộ. Lũ phàm phu chúng ta thấy thoạt tiên Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp ǵ? Thuyết pháp Tứ Đế, thuyết cho năm người ấy. V́ lẽ đó, người Tiểu Thừa chẳng thừa nhận kinh Hoa Nghiêm do đức Phật nói. V́ sao? Chẳng thấy! Hiện tại, người phương Tây nói đến khảo cứu, nói đến lịch sử, cũng chẳng thừa nhận Đại Thừa, cho rằng kinh Hoa Nghiêm đại khái do chính Long Thọ Bồ Tát (Nāgārjuna) tự soạn, đội tên Thích Ca Mâu Ni Phật. Đây chính là dùng tâm lượng phàm phu để suy lường thánh nhân! Nhưng người Hoa có cách nh́n chẳng giống như vậy, người Hoa thừa nhận [kinh Hoa Nghiêm và Đại Thừa]. Đây là chỗ khác biệt giữa Đại Thừa và Tiểu Thừa. Hiện thời nói đến Phật giáo nguyên thủy là nói tới Tứ A Hàm, tức là những pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật giảng cho các vị thuộc nhóm Kiều Trần Như. Chúng ta cũng phải hiểu chuyện này, nhưng quyết định đừng bị mê hoặc bởi các luận thuyết rối ren! [Hễ bị mê hoặc] th́ là sai lầm mất rồi! Trong pháp Đại Thừa có nói “đức Phật không có pháp nhất định để có thể nói”, đức Phật chẳng có pháp nào để có thể nói. Đức Phật lại chưa hề nói một câu pháp nào! Năm người ấy do đâu mà có? Ở đây, [sách Diễn Nghĩa] giới thiệu đơn giản.

 

      (Diễn) Phật sơ xuất gia nhập sơn tu đạo, phụ vương tư niệm, mạng Trần Như, Mă Thắng đẳng ngũ nhân tùy thị.

() 道,父 念,命 侍。

(Diễn: Lúc đức Phật mới xuất gia, vào núi tu đạo, phụ vương lo nghĩ, bèn sai nhóm năm người như Trần Như, Mă Thắng v.v… theo hầu).

 

      Năm người ấy[2] vốn là do phụ thân của Thích Ca Mâu Ni Phật sai đến chăm sóc Ngài. Đức Phật vào núi tu đạo, cha Ngài chẳng an ḷng, sai năm người đi theo chăm sóc Ngài. [Sở dĩ] có năm người ấy là như vậy đó.

 

 

      (Diễn) Ngũ nhân bất thắng kỳ khổ, thoái cư Lộc Uyển.   

      () 苦,退 鹿 苑。

      (Diễn: Năm người không chịu khổ nổi, bèn lui về ở trong Lộc Uyển).

 

      Năm người ấy cũng rất có đạo tâm, nhưng họ thật sự chẳng kham nổi sự khổ hạnh của Thích Ca Mâu Ni Phật, thật sự chịu không nổi, bèn bỏ đi, chẳng ở cùng một chỗ với Ngài. Năm người ấy đến Lộc Dă Uyển, là một nơi nuôi nai, đến ở chỗ đó để tự tu hành.

 

      (Diễn) Phật thành đạo dĩ, quán ngũ nhân nghi tối tiên đắc độ, cố Phật chí Lộc Uyển, thuyết pháp độ chi.

() 已,觀 度,故 鹿 苑, 之。

 (Diễn: Đức Phật đă thành đạo, quán thấy năm người ấy đáng nên đắc độ trước tiên, nên đức Phật đến Lộc Uyển thuyết pháp độ họ).

 

      Thích Ca Mâu Ni thị hiện thành đạo, quán xem người nào khế cơ nhất, người nào đắc độ đầu tiên? Đến Lộc Dă Uyển, Ngài nh́n thấy năm người ấy, thấy Kiều Trần Như cơ duyên đă chín muồi, liền thuyết pháp cho các vị ấy. Vừa thuyết pháp, tôn giả Kiều Trần Như khai ngộ đầu tiên, chứng quả A La Hán, nên Ngài là đệ tử thứ nhất. Chúng ta đọc kinh Vô Lượng Thọ, thấy Ngài được nêu tên đầu tiên, v́ Ngài là người đầu tiên đắc độ khi Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện thành Phật độ chúng sanh. Kinh Kim Cang nói: Đời trước, vị này chính là vua Ca Lợi (Kaliṅga-rāja), c̣n Thích Ca Mâu Ni Phật là tiên nhân Nhẫn Nhục (Kṣānti-ṛṣi). Đời trước các Ngài có sự hiểu lầm rất lớn. Tiên nhân Nhẫn Nhục bị vua Ca Lợi cắt chặt thân thể, trọn chẳng sanh tâm sân khuể, lại c̣n phát nguyện trong tương lai thành Phật, sẽ độ nhà vua đầu tiên. V́ thế, Thích Ca Mâu Ni Phật thành Phật, quả nhiên người được độ đầu tiên là tôn giả.      

Do vậy có thể biết, đức Phật độ hết thảy chúng sanh đều có nhân duyên rất sâu. Chẳng có nhân duyên, chẳng thể đắc độ. Giống như nay chúng ta ở trong thời kỳ Mạt Pháp của đức Phật, có nhân duyên nghe bộ kinh điển này, từ bộ kinh điển này sanh khởi tín tâm, phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thật thà niệm Phật, đó cũng là có nhân duyên rất sâu. Nếu chẳng có duyên với A Di Đà Phật, chẳng có duyên với Thích Ca Mâu Ni Phật, suốt một đời này, quư vị chẳng nghe pháp môn này, dẫu có nghe cũng chẳng tin tưởng. V́ thế, phàm là người có thể văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, sẽ giống như nhóm các vị Kiều Trần Như, thiện căn, phước đức, nhân duyên đă gieo trong nhiều đời nhiều kiếp đến lúc ấy bèn chín muồi đó thôi!

      Khi Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện thành Phật, [nhân duyên của] nhóm người Kiều Trần Như đă chín muồi, bèn đắc độ đầu tiên. Đức Phật giảng cho các Ngài nghe pháp Khổ Tập Diệt Đạo. Phương pháp giảng giải của đức Phật gồm có chỉ dạy, khuyên lơn, làm chứng; đó gọi là “tam chuyển pháp luân”, là kỹ xảo thuyết pháp. Chúng ta xem chú giải.

 

      (Diễn) Tam chuyển pháp luân giả, nhất, thị tướng chuyển.

      () 者, 一、示 轉。

      (Diễn: Tam chuyển pháp luân: Một là chuyển bằng cách chỉ bày các tướng).

 

      Dưới đây là nêu ra ví dụ để nói.

 

      (Diễn) Thử thị khổ, bức bách tánh.

     () 苦,逼 性。

      (Diễn: Đây là khổ v́ có tánh chất bức bách).

 

      Phạm vi của chữ “thử” (này) hết sức rộng răi, bảo quư vị: Đây là khổ! Sanh là khổ, già cũng khổ, bệnh cũng khổ, chết cũng khổ, cầu chẳng được cũng khổ, yêu thương phải chia ĺa cũng khổ, oán ghét mà cứ phải gặp gỡ cũng khổ. Thường nói là ba khổ hoặc tám khổ, những điều ấy là khổ. Đó gọi là “thị tướng chuyển”. V́ sao khổ? “Bức bách tánh”, [nghĩa là] chúng nó có tánh chất bức ép khiến cho quư vị thân tâm chẳng thể yên ổn, đó là khổ! Khổ đang ép bức quư vị, nên dạy con người hăy giác ngộ các nỗi khổ trong thế gian. Đối với Khổ Đế, nêu lên một thí dụ để nói. Tiếp theo đây là nói tới Tập Đế, [nhằm giải thích] Khổ do đâu mà có?

 

      (Diễn) Thử thị Tập, chiêu cảm tánh.

      () 集,招 性。

      (Diễn: Đây là Tập, có tánh chất chiêu cảm).

 

      Nếu quư vị hỏi những sự khổ ấy do đâu mà có ư? Khổ do chính quư vị chuốc lấy, chiêu tập nó. Nếu quư vị chẳng t́m kiếm nó, lấy đâu ra khổ? Chẳng có khổ! Chèo kéo khổ bằng cách nào? Khởi Hoặc, tạo nghiệp! Cái nhân là mê hoặc, chẳng hiểu rơ chân tướng sự thật, mê mất rồi! Duyên là tạo nghiệp, tạo đủ thứ nghiệp. V́ sao tạo nghiệp? V́ mê hoặc. Do mê hoặc tạo nghiệp nên mới chịu báo. Quả báo là Khổ, [là kết quả của] những điều trước; nên nói là Hoặc, Nghiệp, Khổ. Đó là Tập, Tập là “chiêu cảm tánh”. Tạo nghiệp: Tạo thiện nghiệp sẽ thọ báo trong ba thiện đạo. Tạo ác nghiệp, thọ báo trong ba ác đạo. Lục đạo phàm phu chẳng có ai không tạo nghiệp. Luân hồi: Chúng ta tạo nghiệp rất nhiều, có thể nói là mỗi cá nhân đều đang tạo nghiệp trong mười pháp giới. Tạo nghiệp phức tạp như vậy, sẽ thọ báo của nghiệp nhân nào trước? Tùy thuộc nghiệp lực nào lớn mạnh, nghiệp lực nào mạnh mẽ! Nghiệp mạnh sẽ lôi trước, lôi đi trước th́ sẽ “ưu tiên” thọ báo [của nghiệp ấy]. Hiểu sự thật này, chúng ta sẽ giác ngộ. Suốt ngày từ sáng đến tối, vọng niệm nào của chúng ta có sức mạnh lớn nhất, phải giác ngộ điều này! Nếu ư niệm tham ái mạnh nhất, chắc chắn sẽ vào ngạ quỷ đạo, đời sau làm quỷ. Tham là tham ǵ? Tham danh, tham lợi, tham tài, tham sắc, tham Phật pháp, đều là tham. Tham Phật pháp cũng phải đi vào ngạ quỷ đạo, v́ quư vị chịu báo do cái tâm tham, chẳng cần biết quư vị tham điều ǵ! Nếu đoạn sạch tâm tham, chẳng tham ái hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, quư vị sẽ chẳng đọa làm ngạ quỷ.

      Lại thưa cùng quư vị, ngoại lệ duy nhất là quư vị có thể yêu mến A Di Đà Phật, điều này chẳng sao hết! [Do yêu mến A Di Đà Phật], sẽ đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, chứ [tham ái những điều khác] chẳng được đâu nhé! [Tham ái] những điều khác th́ đều vào trong ngạ quỷ đạo! Nói thật thà, quư vị yêu mến Thích Ca Mâu Ni Phật cũng không được, vẫn phải vào trong ngạ quỷ đạo, chẳng có cách nào thành tựu. Niệm A Di Đà Phật là một pháp môn đặc biệt, quư vị chỉ cần đặt A Di Đà Phật trong tâm, sẽ thành công, những điều khác đều buông xuống hết, như vậy th́ mới có thể văng sanh! Do đó, một mực chuyên niệm A Di Đà Phật. Nếu quư vị hỏi “do nguyên nhân nào” ư? Kinh này và kinh Vô Lượng Thọ đă nói rành mạch, v́ sao niệm đức Phật khác không được, nhưng niệm Ngài (A Di Đà Phật) th́ được? Niệm Ngài là đới nghiệp văng sanh. Mang theo nghiệp ǵ vậy? [Chính là] nghiệp yêu mến A Di Đà Phật, có thể mang theo nghiệp ấy văng sanh, [mang theo] những nghiệp khác th́ không được. Trong hết thảy các Tịnh Độ khác của chư Phật, chẳng có đới nghiệp văng sanh, chỉ riêng pháp môn này là có thể đới nghiệp văng sanh.

      Trong mỗi niệm đều là nóng giận, ganh ghét, nhất định phải đọa địa ngục, chúng ta thường có cái tâm ấy hay không? Có ư niệm ấy hay không? Ngạo mạn, kiêu căng, ngă mạn là A Tu La. Thị phi, thiện ác chẳng hiểu rơ ràng, mê hoặc, điên đảo, sẽ là súc sanh đạo. Nói thật thà, chúng ta mỗi ngày tạo nghiệp ǵ? Tạo ba ác đạo, quá đáng sợ, thật sự là khổ! Khởi Hoặc, tạo nghiệp, đấy là Tập Đế. Hai câu trên đây nói về nhân quả thế gian; hai câu sau sẽ nói đến nhân quả xuất thế gian.

 

      (Diễn) Thử thị Diệt, khả chứng tánh.

      () 滅,可 性。

      (Diễn: Đây là Diệt, tánh có thể chứng).

 

      Tánh chất của nó là có thể chứng đắc. Diệt là diệt hết thảy khổ, diệt hết thảy mê hoặc tạo tác, có thể diệt những điều ấy. Nói cách khác, nó có thể diệt sanh tử, có thể diệt luân hồi, có thể diệt phiền năo; những thứ ấy hư vọng, chẳng chân thật, quyết định có thể diệt trừ. Cách diệt như thế nào? Phải nói đến Đạo.

 

      (Diễn) Thử thị Đạo, khả tu tánh.

      () 道,可 性。

      (Diễn: Đây là Đạo, tánh có thể tu).

 

      Có thể tu học. Đối với Đạo, Tiểu Thừa nói ba mươi bảy Đạo Phẩm, c̣n đối với Đại Thừa sẽ là lục độ vạn hạnh. Lục độ vạn hạnh cũng chẳng ra ngoài ba mươi bảy Đạo Phẩm. Ba mươi bảy khoa mục ấy quy nạp lại sẽ là Tam Học Giới, Định, Huệ. Vô lượng vô biên pháp môn đều chẳng ĺa khỏi Tam Học, dùng Tam Học sẽ bao gồm toàn bộ.

      Nói theo kiểu này, Thị Tướng chính là khai thị. Nói theo phía người căn cơ nhạy bén, hễ vừa nói, họ liền giác ngộ. Căn tánh con người có ba hạng, đối với người bậc thượng, đức Phật chỉ cần nêu ra, chỉ bày, họ liền giác ngộ, quay đầu. Đối với người căn tánh bậc trung, tuy chỉ bày, họ vẫn luôn cảm thấy chẳng liên quan ǵ tới ḿnh cho lắm, chẳng thấu hiểu sâu đậm như vậy. Đức Phật lại dùng phương pháp khuyên dạy, “khuyên” là trực tiếp nói với quư vị.

 

      (Diễn) Nhị, khuyến tu chuyển. Thử thị Khổ nhữ ưng tri, thử thị Tập nhữ ưng đoạn, thử thị Diệt nhữ ưng chứng, thử thị Đạo nhữ ưng tu.

() 二、勸 轉。此 知,此 斷,此 證,此 修。

(Diễn: Hai là khuyến tu chuyển. Đây là Khổ ngươi nên biết. Đây là Tập ngươi nên đoạn. Đây là Diệt ngươi nên chứng. Đây là Đạo ngươi nên tu).

 

      Đây là nói thẳng, chỉ dạy quư vị, c̣n trong trường hợp trước, chẳng chỉ dạy quư vị trực tiếp, mà nói với đại chúng. Quư vị hăy nên thấu hiểu, đây là chỉ dạy thẳng thừng, quư vị hăy nên biết điều này! “Khuyến” [có nghĩa là] quư vị phải nên làm theo cách nào! Sau khi đă được khuyên, căn tánh bậc trung sẽ giác ngộ. Kẻ căn tánh bậc hạ sau khi được khuyên vẫn chưa tin tưởng: “Quư vị nói những lời này là thật ư?” Nửa tin nửa ngờ! Bất đắc dĩ, lại làm chứng cho kẻ đó. Nói theo cách hiện thời là phải “nêu ra chứng cớ”. Đức Phật lấy ngay chính ḿnh làm thí dụ.

 

      (Diễn) Tam, tác chứng chuyển, thử thị Khổ, ngă dĩ tri.

      () 三、作 轉,此 知。

(Diễn: Ba là tác chứng chuyển, đây là khổ, ta đă biết).

 

      Ta có thể chứng minh cho quư vị, ta đă biết.

 

      (Diễn) Thử thị Tập, ngă dĩ đoạn.

      () 斷。

      (Diễn: Đây là Tập, ta đă đoạn).

 

Quư vị có mê hoặc, có tạo nghiệp, ta chẳng mê hoặc, cũng chẳng tạo nghiệp. Ta chẳng mê hoặc, tức là duyên đă đoạn. Ta chẳng tạo nghiệp, nhân đă đoạn. Nhân và duyên đều đă đoạn, đương nhiên quả báo sẽ đoạn.

 

      (Diễn) Thử thị Diệt, ngă dĩ chứng. Thử thị Đạo, ngă dĩ tu.

      () 證,此 修。

      (Diễn: Đây là Diệt, ta đă chứng. Đây là Đạo, ta đă tu).

 

      “Tôi nói với quư vị, câu nào cũng đều là lời chân thật”, đây là đức Phật hiện thân thuyết pháp, v́ mọi người làm chứng. Đó gọi là Tác Chứng Chuyển. Đấy là Tam Chuyển Pháp Luân. Câu văn Tam Chuyển Pháp Luân này giống như công thức toán học, chúng ta hăy nên học tập điều này. Nhất là hoằng pháp, luôn luôn chẳng rời khỏi nguyên tắc này, bất luận ở chỗ nào, gặp kẻ nào hỏi pháp, quư vị giữ vững nguyên tắc này, chắc chắn sẽ không phạm sai lầm. Thị chuyển, khuyến chuyển, tác chứng chuyển! Lại xem đoạn kế tiếp:

 

(Sao) Duyên Giác nhiếp giả.

() 者。

      (Sao: [Nói Thanh Văn] là đă bao gồm Duyên Giác).

 

      Kinh này chẳng nhắc tới Duyên Giác, Duyên Giác được bao gồm trong Thanh Văn, tỉnh lược!

 

      (Sao) Duyên Giác quán Thập Nhị Nhân Duyên nhi đắc khai ngộ, tuy thập nhị chi, nhi thúc chi bất xuất Tứ Đế.

      () 悟,雖 支,而 諦。

(Sao: Duyên Giác quán Thập Nhị Nhân Duyên nên khai ngộ. Tuy gồm mười hai chi, nhưng tóm lại, chẳng ra ngoài Tứ Đế).

 

      “Thập nhị chi” cũng là mười hai khoa mục. “Thúc” () là quy nạp. Quy nạp lại th́ [Thập Nhị Nhân Duyên] cũng chẳng ra ngoài Tứ Đế. V́ thế, trong pháp Tiểu Thừa, Tứ Đế được gọi là căn bản pháp luân. Thập Nhị Nhân Duyên bất quá là triển khai Tứ Đế để nói tỉ mỉ, rơ ràng mà thôi!

 

      (Sao) Tuy hữu lợi sanh chi tâm, nhi diệc vị quảng, cố nhiếp Thanh Văn trung dă.

() 心,而 廣,故 也。

(Sao: Tuy có tâm lợi sanh, nhưng cũng chưa rộng, nên gom vào hàng Thanh Văn).

 

      Tiếng Phạn là Bích Chi Phật (Pratyeka-buddha), dịch sang tiếng Hán là Duyên Giác; Ngài từ Thập Nhị Nhân Duyên (Dvādaśāga-pratītya Samutpāda Aṅga) mà khai ngộ. Hạng người này tuy cũng độ chúng sanh, nhưng không chủ động, giống như A La Hán. Quư vị đến t́m Ngài, Ngài thấy quư vị rất có duyên phận với Ngài trong đời quá khứ, bèn độ quư vị. Ngài có thể nhập Định quán sát, [nếu thấy] trong đời quá khứ chẳng có duyên với chính Ngài, bèn chẳng độ quư vị, v́ sao? Nói ra, quư vị sẽ không tin tưởng, mà cũng chẳng bằng ḷng nghe. Ta cũng đỡ tốn công nói, mà quư vị cũng ít phiền năo. Ngài bảo quư vị hăy đi đi. Bồ Tát tâm từ bi sâu nặng, chủ động giáo hóa chúng sanh; A La Hán và Bích Chi Phật chẳng chủ động dạy người khác; v́ thế, các Ngài thuộc về Tiểu Thừa. Lời chú giải đơn giản dưới đây giảng rơ Thập Nhị Nhân Duyên là ǵ. Điều này cũng là thường thức trong Phật học.

 

      (Diễn) Duyên Giác quán Thập Nhị Nhân Duyên giả, nhất Vô Minh, vị Phiền Năo Chướng, Phiền Năo Đạo.

      () 者,一、無 明,謂 道。

      (Diễn: Duyên Giác quán Thập Nhị Nhân Duyên: Một là Vô Minh, nghĩa là Phiền Năo Chướng, Phiền Năo Đạo).

 

      Vô Minh đang nói ở đây chính là Chi Mạt Vô Minh, chẳng phải là Căn Bản Vô Minh (Mūlāvidyā). Phá một phẩm Căn Bản Vô Minh sẽ là Viên Giáo Sơ Trụ Bồ Tát, là Pháp Thân đại sĩ. A La Hán và Bích Chi Phật cũng phá vô minh, nhưng phá Chi Mạt Vô Minh. Chi Mạt Vô Minh là ǵ? Là Kiến Tư phiền năo. Trong Tứ Đế, nó được gọi là Kiến Tư phiền năo, c̣n trong Thập Nhị Nhân Duyên th́ là Vô Minh (Vidyā), Vô Minh là Kiến Tư phiền năo, là mê hoặc, “Phiền Năo Chướng, Phiền Năo Đạo” là như thế đó. Phiền Năo Chướng là Kiến Hoặc, Phiền Năo Đạo là Tư Hoặc, đó gọi là Kiến Tư phiền năo, đấy là vô minh.

 

      (Diễn) Nhị, Hành.

      () 二、行。

      (Diễn: Hai là Hành).

 

      Quư vị có Phiền Năo Chướng, có Phiền Năo Đạo, tức là quư vị có Kiến Tư Vô Minh, nhất định sẽ vọng động. Hành (Saṅkhāra) là tạo nghiệp.

 

      (Diễn) Nghiệp chướng, nghiệp đạo.

      () 道。

      (Diễn: Nghiệp chướng, nghiệp đạo).

 

      Đây là tạo tác. Vô Minh là duyên, Hành là nhân. Vô Minh xa hơn, nghiệp th́ gần hơn. Nếu lấy quan hệ ông cháu ba đời để nói th́ Vô Minh là ông nội, Hành là cha, sanh ra con là Thức trong phần kế tiếp. Thức là quả báo, năm điều tiếp theo đây đều là quả báo. Quan hệ hơi xa so với quả th́ gọi là duyên, quan hệ mật thiết th́ là nhân. Do đó, Vô Minh là duyên, Hành là nhân; có nhân, có duyên, sau đó là kết quả. Đó là “nghiệp chướng, nghiệp đạo”, nay chúng ta thảy đều đang tạo tác.

 

      (Diễn) Thử nhị chi thuộc quá khứ.

     () 去。

(Diễn: Hai chi này thuộc về quá khứ).

 

      Hai điều này đều nói về quá khứ, v́ trong đời quá khứ, quư vị mê hoặc, điên đảo, tạo nghiệp, một đời này thọ báo, trở thành quả báo của quư vị. Cách thức thọ báo như thế nào? Trước hết là đến đầu thai. Trong lục đạo, chúng ta nói đến nhân đạo, tuy nói một đường này, nhưng năm đường kia đều chẳng ra ngoài lệ ấy, đều giống như nhau.

 

      (Diễn) Tam, Thức, thác thai nhất phần khí tức.

      () 三、識,托 息。

(Diễn: Ba là Thức, tức là một phần khí tức nương gá nơi thai).

 

      “Thức” (Vijñāna) là thần thức, tục ngữ gọi nó là “linh hồn”. Linh hồn đến đầu thai. Thần thức có tốc độ vô cùng lớn, vượt thoát thời gian và không gian. Tuy Khổng lăo phu tử chẳng nói rơ, nhưng từ văn chương của Ngài cũng thấu lộ đôi chút tin tức. Trong phần Hệ Từ Truyện của kinh Dịch, Ngài nói: “Du hồn vi biến” (Cái hồn phiêu du biến hóa); thần thức chính là “du hồn” (遊魂), Khổng lăo phu tử gọi nó là “du hồn”. Nói là “du hồn” th́ tuyệt đối chánh xác. V́ sao? Tốc độ chuyển động của nó quá nhanh. “Du hồn vi biến, tinh khí vi vật” (Cái hồn phiêu du biến hóa, tinh khí hóa thành vật), hai câu này hoàn toàn giống với vũ trụ quan và nhân sinh quan trong Phật pháp. “Vật” () là vật chất, vật chất từ đâu mà có? Do Tinh Khí biến thành vật. Có thể thấy Khổng lăo phu tử hoàn toàn chẳng thừa nhận thật sự có vật chất tồn tại, vật chất là tinh khí mà thôi! Các khoa học gia hiện thời chẳng thừa nhận có vật chất, [họ nói] vật chất là chấn động, là huyễn tướng do ánh sáng chấn động, chẳng phải là thật sự có vật chất. Kinh Dịch từ hai ngàn năm trăm năm trước của Khổng lăo phu tử có thể tương ứng với khoa học hiện đại. Các khoa học gia chẳng đọc sách của Khổng Tử. Họ đọc sách của Khổng Tử sẽ càng thông minh hơn, trong Phật pháp càng nói cặn kẽ hơn nữa. Tinh Khí như Khổng lăo phu tử đă nói chính là ǵ? Trong Duy Thức gọi chúng là Kiến Phần. Vật là ǵ? Vật là Tướng Phần. Kiến Phần và Tướng Phần có cùng cội nguồn, Kiến Phần và Tướng Phần chẳng hai! Phật pháp nói như vậy đó!

      Có rất nhiều người kết hôn nhưng suốt đời chẳng có con, v́ sao? Chẳng có duyên! Con cái phải có duyên với quư vị th́ chúng mới đầu thai vào nhà quư vị. Chúng nó chẳng có duyên với quư vị, sẽ chẳng đầu thai vào nhà quư vị. Nói cách khác, chúng nó đi đầu thai, phải t́m đối tượng. Quư vị mong cầu chúng nó, chưa chắc chúng nó đă để ư tới quư vị! T́m đối tượng nào? Có mối quan hệ trong đời quá khứ. Trong kinh, đức Phật đă nói bốn loại nhân duyên:

1) Loại thứ nhất là báo ân. Trong đời quá khứ, đôi bên có ân huệ với nhau, lần này chúng nó lại thấy quư vị, bèn đầu thai vào nhà quư vị, sẽ trở thành con hiếu, cháu hiền, đến để báo ân.

2) Loại thứ hai là báo oán. Trong đời quá khứ, quư vị kết cừu hận với họ. Gặp gỡ lần này, họ đến làm con cái quư vị, mai sau lớn lên sẽ thành đứa con khiến cho gia đ́nh suy bại, khiến cho quư vị nhà tan, người chết, nó đến để báo thù quư vị! V́ thế, chớ nên kết oán cừu cùng kẻ khác. Kẻ oán cừu bên ngoài có thể đề pḥng, chứ họ đến đầu thai trong nhà quư vị, làm cách nào đây? Quư vị hại chết kẻ đó, thần thức kẻ ấy sẽ đến làm con cháu trong nhà quư vị. Đó gọi là “con cháu ngỗ nghịch” khiến cho nhà tan, người chết!

3) Loại thứ ba là đ̣i nợ. Đời quá khứ, cha mẹ thiếu nợ chúng nó, chúng nó đến đ̣i nợ. Nếu thiếu nợ ít, nuôi hai, ba năm, con bèn chết. Nếu thiếu nợ nhiều, đại khái là nuôi đến khi tốt nghiệp đại học, sắp có thể làm việc bèn chết mất. Nợ đă đ̣i xong, nó bèn ra đi.

4) Loại thứ tư là trả nợ. Con cái thiếu nợ cha mẹ, đời này gặp gỡ, nó phải trả nợ. Nó phải nỗ lực làm lụng để nuôi nấng cha mẹ. Nếu nó thiếu nợ cha mẹ rất nhiều, nó cung phụng cha mẹ vật chất rất trọng hậu. Nếu thiếu nợ rất ít, nó lo cho cuộc sống của cha mẹ rất tệ bạc, miễn sao quư vị chẳng chết đói là được rồi. Hạng người này tuy có thể phụng dưỡng cha mẹ, nhưng thiếu ḷng cung kính, chẳng có tâm hiếu thuận. Báo ân bèn có tâm hiếu thuận, chứ trả nợ chẳng có tâm hiếu thuận. Thậm chí trong ḷng chúng nó c̣n ghét bỏ, chán ngán cha mẹ, nhưng vẫn cho quư vị tiền để sống, nhiều hay ít là do xưa kia quư vị thiếu chúng nó nhiều hay ít.

      Đức Phật dạy rơ chân tướng sự thật, người một nhà là do bốn loại quan hệ ấy mà tụ hợp. Gia đ́nh là như thế, mà người trong một họ cũng là như thế. Ân, oán, nợ nần nhiều, bèn biến thành cha con, anh em một nhà. Ân oán, nợ nần ít hơn th́ biến thành thân thích, bầu bạn. Do đó, giữa người và người với nhau đều có duyên phận. Quư vị đi đường, một kẻ xa lạ gật đầu mỉm cười với quư vị cũng là do duyên phận xưa kia. Thấy một kẻ xa lạ, vừa thấy kẻ ấy liền cảm thấy gai mắt cũng là do duyên phận trong quá khứ.

      Phải hiểu rơ chân tướng sự thật, chúng ta khởi tâm động niệm chớ nên không cẩn thận, ngàn muôn phần đừng kết oán cừu với hết thảy chúng sanh, đừng nên có quan hệ nợ nần với hết thảy chúng sanh. Thiếu nợ phải trả cho sạch nợ, để đời sau khỏi phải đền trả nữa. Chuyện này rất phiền toái! Giáo huấn của thánh hiền Nho và Phật đều dạy chúng ta phải hóa giải ân oán. [Hóa giải] sẽ là phương pháp tốt lành nhất và viên măn nhất. Chỉ có Nho và Phật mới có thể làm được, những thứ giáo dục khác trong thế gian chẳng thể thực hiện được! Điều này nhằm nói rơ đầu thai chẳng phải là tùy tiện bèn trở thành người một nhà, chẳng phải như vậy, mà là đă có quan hệ trong đời quá khứ .

      Khi vừa đầu thai th́ lúc đó bèn gọi là Thức, do chẳng thể đặt tên gọi cho nó, nó mới vừa đầu thai mà! Mẹ hoài thai, tức là thần thức đến đầu thai.

 

      (Diễn) Tứ, Danh Sắc.

      () 四、名 色。

      (Diễn: Bốn là Danh Sắc).

 

      Danh Sắc (Nāmarūpa) là thai nhi c̣n chưa phát triển thành h́nh dạng [con người], đại khái là trong mười bốn ngày, chưa phát triển thành h́nh thể rơ rệt, thứ ǵ cũng chẳng nhận ra được, chỉ là một khối thịt, nhưng trong khối thịt ấy có thần thức, nên gọi là Danh Sắc. Danh là tâm, sống động, chẳng chết cứng, Sắc là vật chất. [V́ thế], gọi [gộp chung] là Danh Sắc.

 

      (Diễn) Ngũ, Lục Nhập.

     () 五、六 入。

(Diễn: Năm là Lục Nhập).

 

      Lục Nhập (Ṣaḍāyatana) là thai nhi thành h́nh, mang dáng vẻ con người, sáu căn đă mọc ra, khi đó sẽ gọi là Lục Nhập. Khi sáu căn chưa lộ ra th́ gọi là Danh Sắc.

 

      (Diễn) Lục căn thành, thử thai trung.

      () 成,此 中。

      (Diễn: Sáu căn h́nh thành, những giai đoạn này đều ở trong thai).

 

      Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, ba chi này đều ở trong thai.

 

      (Diễn) Lục, Xúc.

      () 六、觸。

      (Diễn: Sáu là Xúc).

 

      Xúc (Sparśa) là xuất thai, tiếp xúc cảnh giới bên ngoài, tức là được sanh ra. Có thể nói là từ sanh ra cho đến khi già, chết, luôn tiếp xúc cảnh giới bên ngoài. V́ thế, sau khi rời khỏi thân mẹ đều gọi là Xúc, thời gian này hết sức dài. V́ sao xếp nó vào chỗ này? Xếp nó vào [chỗ này] là có đạo lư. Ví như đứa trẻ vừa mới được sanh ra, tuy tiếp xúc [cảnh giới] bên ngoài, nó vẫn chưa có cảm nhận, vẫn chưa thể phân biệt.

 

      (Diễn) Thất, Thọ, lănh nạp tiền cảnh hảo ác đẳng sự.

      () 七、受,領 事。

      (Diễn: Bảy là Thọ, lănh nhận những chuyện ưa ghét thuộc tiền cảnh).

 

      Trẻ thơ [chưa đầy năm] vẫn chưa có yêu ghét, chẳng có ǵ ham thích, chẳng có ǵ chán ghét, mà cũng chẳng sợ hăi, ngay cả phân của chính nó, nó cũng ăn. Lúc đó, nó điều ǵ cũng chưa hiểu, tức là có Xúc, nhưng chẳng có Thọ (Vedanā). Đợi cho nó dần dần lớn lên, bèn có tâm yêu ghét. Trước khi có Thọ, người Hoa thường nói là “thiên chân” (ngây thơ, ngờ nghệch). Trong tâm nó thanh tịnh, hết sức vui sướng, chẳng lo lắng, chẳng ưa ghét. Người thuở trước, thời gian ngây thơ rất lâu, thông thường là từ mười tuổi trở đi mới biết đến ưa ghét, có ưa thích, có chán ghét, trước khi mười tuổi th́ chẳng biết. Tuổi thơ hạnh phúc quá! Trẻ nhỏ hiện thời đáng thương lắm, một hai tuổi đă có ưa, ghét, thời gian thơ ngây bị rút ngắn! Nó phải chịu khổ, chịu vui trước tuổi, cớ sao biết trước tuổi? Hằng ngày xem TV, TV dạy nó mỗi ngày! V́ thế, trẻ hai ba tuổi đă biết nh́n sắc mặt, nhận biết giọng điệu, biết người lớn đang vui thích hay chán ghét, trong tâm nó bèn toan tính, vận dụng tâm cơ! Trước kia, trong xă hội nông thôn, trẻ mười một, mười hai tuổi, chuyện ǵ cũng không biết, trừ chơi đùa ra, nó chẳng hiểu chuyện, thời gian ngây thơ dài lâu, hiện thời đă bị rút ngắn.

      Đừng sanh làm người hiện thời! Đến đầu thai làm người, tôi không làm! Con người quá khổ! Chẳng sung sướng như người thuở trước, người hiện thời khổ hơn tiền nhân. Tuy hiện thời khoa học kỹ thuật phát triển, thật ra chẳng có ư vị như xưa kia. Ví dụ như đèn điện soi rất sáng, rất nhanh chóng, tiện lợi, bất quá chẳng có thi vị và t́nh điệu như đèn nến. Hiện thời, chúng ta đến Mỹ, ngồi máy bay khoảnh khắc bèn đến. Trước kia, ngồi thuyền buồm, phải mất mấy tháng, hoặc nửa năm, ư vị cũng khác hẳn! Cuộc sống của người xưa quả thật là t́nh thơ ư họa, hiện thời chẳng c̣n nữa. Người hiện thời sống như một cỗ máy, hết sức đáng thương! Ư vị làm người chẳng có, ư nghĩa giá trị con người bị chôn vùi. Tôi thấy nhân gian hiện thời chẳng thể coi là thiện đạo, mà A Tu La cũng chẳng thể coi là thiện đạo. V́ lẽ đó, Thọ là lănh nạp cảnh giới ưa hay ghét.

      Năm loại quả báo này là quả báo trong đời này, Vô Minh và Hành trong kiếp trước là duyên, là nhân. Có nhân duyên ấy th́ mới có quả báo trong một đời này. Nếu chư vị thật sự hiểu đạo lư trong Phật pháp, nói “hiểu đạo lư trong Phật pháp” nghĩa là nhận thức chân tướng của vũ trụ và nhân sinh. Đời này chúng ta chịu khổ, hưởng vui, chớ nên oán trời hờn người. V́ sao? Tự làm, tự chịu. Khổ nạn chẳng phải do người khác ban cho chúng ta, mà do chính ḿnh tạo tác! Làm sao có thể trách móc kẻ khác cho được? Có thể nào oán trách ông trời chẳng công bằng? Chẳng thể! Dấy lên ư niệm ấy chính là lại tạo tội, tạo tội càng nặng hơn! Phát tài hay trúng số đều do mạng. Chẳng có vận mạng ấy, bèn hủy phá tượng Bồ Tát, quỷ, thần, tạo tội nghiệp càng lớn hơn nữa. Tôi nghe nói có kẻ chơi vé số Lục Hợp Thái[3], lạy lục Phật, Bồ Tát, cầu các Ngài phù hộ họ trúng số. Không trúng số, hôm sau bèn chặt đầu tượng Phật, Bồ Tát, đốt rụi, đó là tạo nghiệp! Tội nghiệp oán trời hờn người càng nặng! Thọ là có nhân quả. Ba điều tiếp theo lại là sự tạo tác trong đời hiện tại.

 

      (Diễn) Bát, Ái.

      () 八、愛。

      (Diễn: Tám là Ái).

 

      Ái (Tṛṣṇā) là tham ái.

 

      (Diễn) Ái nam, nữ, kim, ngân đẳng sự.

      () 事。

      (Diễn: Yêu mến những thứ như nam, nữ, vàng, bạc v.v…).

 

      Phạm vi của Ái quá nhiều, có chữ Đẳng (vân vân) là đủ [diễn tả ư quá nhiều]. Ái là vô minh, là mê hoặc. Đă ái, kẻ ấy c̣n có hành động, tạo tác; sau khi đă có tạo tác bèn Thủ.

 

      (Diễn) Cửu, Thủ, phàm kiến nhất thiết cảnh giới sanh thủ trước tâm.

      () 九、取,凡 心。

(Diễn: Chín là Thủ, hễ trông thấy hết thảy cảnh giới bèn sanh tâm chấp giữ).

 

      Tự ḿnh yêu thích, đó là Ái. Muốn chiếm hữu nó, đó là Thủ (Upādāna). Không ưa thích nó, muốn ĺa khỏi nó, cũng là Thủ, đều là chấp giữ, là tạo nghiệp, tạo tác. Khởi tâm động niệm tạo tác đều bao gồm trong chữ [Thủ] này. Sau tạo tác bèn Hữu.

 

      (Diễn) Thử nhị vị lai nhân, giai thuộc phiền năo, như quá khứ vô minh.

      () 因,皆 惱,如 明。

(Diễn: Hai điều này đều là cái nhân của vị lai, đều thuộc về phiền năo, giống như vô minh trong quá khứ).

 

      Đây là mê hoặc, mê hoặc tạo nghiệp! C̣n có nghiệp tập chủng tử.

 

      (Diễn) Thập, Hữu. Nghiệp dĩ thành tựu, thị vị lai nhân thuộc nghiệp đạo, như quá khứ Hành.

      () 十、有。業 就,是 道,如 行。

(Diễn: Mười là Hữu, nghiệp đă thành tựu, là cái nhân của vị lai, thuộc về nghiệp đạo, giống như Hành trong quá khứ).

 

      Hữu (Bhava) là gieo chủng tử thiện ác trong A Lại Da Thức. Hữu là có chủng tử. Có chủng tử th́ đời sau lại phải thọ báo. Sự tạo tác của chúng ta trong đời này là Ái, Thủ, Hữu.

 

      (Diễn) Thập nhất, Sanh, vị lai thọ sanh sự.

      () 一、生,未 事。

      (Diễn: Mười một là Sanh, tức là chuyện thọ sanh trong tương lai).

 

      Đời sau c̣n phải luân hồi, phải đi đầu thai.

 

      (Diễn) Thập nhị, lăo tử.

      () 二、老 死。

(Diễn: Mười hai là già chết).

 

      Sau khi đầu thai, lại phải làm những chuyện này, vĩnh viễn luân chuyển, đó là luân hồi. V́ sao có luân hồi? Hiện tượng luân hồi là ǵ? Thập Nhị Nhân Duyên đă giải đáp vấn đề này cho quư vị. Luân hồi do chính ḿnh tạo ra! Hiện tượng luân hồi đáng sợ dường ấy, chúng ta phải giác ngộ điều này. Sau khi giác ngộ, phải như thế nào th́ mới có thể ĺa khỏi luân hồi? Ĺa khỏi luân hồi, chẳng thể ĺa khỏi [luân hồi từ nơi] quả báo được! Có người sống rất đau khổ, cảm thấy cuộc đời chẳng có ư nghĩa ǵ, bèn tự sát. Tự sát có thể giải quyết vấn đề hay chăng? Chẳng thể giải quyết vấn đề, [v́] chẳng thể giải quyết vấn đề nơi quả báo! Để giải quyết vấn đề th́ phải giải quyết từ nhân và duyên, đoạn sạch nhân và duyên. Chúng ta biết Ái là duyên, quư vị có thể chẳng yêu thích hết thảy, sanh tử luân hồi sẽ bị đoạn. Đó là một phương pháp rất thông minh. Nếu chưa thể, [hăy thực hiện] từ Thủ, đoạn sạch Thủ cũng được, cũng ĺa thoát luân hồi. Từ Quyền Giáo trở xuống, tức là Quyền Giáo Bồ Tát, Duyên Giác, và Thanh Văn đều thực hiện đoạn trừ [luân hồi] từ hai điều này. Hàng Bồ Tát lợi căn, Đại Thừa Bồ Tát, Thật Giáo Bồ Tát thực hiện từ Hữu, đó là công phu thật sự. Hữu là ǵ? Các Ngài chẳng đoạn Ái và Thủ, nhưng trong tâm chẳng giữ ấn tượng, đó là cao minh nhất. Mật Tông đoạn từ chỗ này, chúng ta có bản lănh ấy hay chăng? Ái và Thủ chẳng đoạn, tâm địa thanh tịnh chẳng giữ lại ấn tượng, kẻ b́nh phàm sẽ chẳng thể làm được chuyện ấy! Đối với kẻ b́nh phàm, hai chữ trước sẽ dễ dàng, chữ sau hết sức khó khăn! V́ lẽ đó, [người đoạn trừ được Hữu] sẽ là Đại Thừa Bồ Tát. Hễ làm được, bèn dạo chơi trong nhân gian, thật sự đắc đại tự tại. Người có Ái và Thủ, nhưng chẳng có Hữu, sẽ chẳng đọa lạc luân hồi.

      Chúng ta chẳng làm được, chỉ đành niệm A Di Đà Phật. Niệm A Di Đà Phật, chúng ta cũng có Hữu. Ái, Thủ và Hữu đều có, chúng ta ái A Di Đà Phật, thủ A Di Đà Phật, trong tâm có A Di Đà Phật, như vậy là đới nghiệp văng sanh. V́ trong lục đạo luân hồi chẳng t́m thấy A Di Đà Phật, trong ba ác đạo chẳng có A Di Đà Phật, trong Tu La cũng chẳng có A Di Đà Phật, trong cơi người cũng chẳng có A Di Đà Phật, trong cơi trời cũng chẳng có A Di Đà Phật. V́ thế, quư vị ái, thủ, hữu A Di Đà Phật, sẽ chẳng có cách nào thọ báo trong lục đạo, đành phải đến Tây Phương Cực Lạc thế giới để thọ báo, tuyệt diệu thay! Do vậy, tám vạn bốn ngàn pháp môn, chẳng có pháp môn nào diệu bằng pháp môn này! Nay chúng ta đối với ba thứ Ái, Thủ, Hữu đều chẳng đoạn trừ, chỉ có cách thay đổi ư niệm, đổi thành A Di Đà Phật. V́ vậy, tôi bảo các vị đồng tu hằng ngày hăy nh́n ngắm tượng Phật, mỗi ngày niệm A Di Đà Phật, mỗi ngày niệm kinh Vô Lượng Thọ, niệm kinh A Di Đà, chớ nên gián đoạn ngày nào, thật sự phải làm được “phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm”, như vậy là tốt đẹp!

 

      (Diễn) Thử tức thị Tứ Đế, sở dĩ trùng khai giả.

      () 諦,所 者。

      (Diễn: Đấy chính là Tứ Đế được mở rộng ra).

 

      Đây chính là triển khai Tứ Đế thành Thập Nhị Nhân Duyên.

 

      (Diễn) Dĩ Duyên Giác chi nhân, tiên quán Tập Đế.

     () 人,先 諦。

      (Diễn: V́ hàng Duyên Giác trước là quán Tập Đế).

 

      Họ chẳng giống Thanh Văn. Thanh Văn tu tập từ Khổ Đế, c̣n Duyên Giác tu tập từ Tập Đế.

 

(Diễn) Sở vị Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Thức, năi chí Sanh duyên Lăo Tử, thử tắc sanh khởi.

() 行,行 識,乃 死,此 起。

(Diễn: Thường nói là Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Thức, cho đến Sanh duyên Lăo Tử. Đấy chính là sanh khởi).

 

      Tùy thuận Thập Nhị Nhân Duyên là sanh tử luân hồi. Nếu muốn vượt thoát lục đạo luân hồi, đi ngược lại Thập Nhị Nhân Duyên là được.

 

      (Diễn) Nhược Diệt quán giả, Vô Minh diệt, tắc Hành diệt, năi chí Sanh diệt, tắc Lăo Tử diệt.

() 者,無 滅,則 滅,乃 滅,則 滅。

(Diễn: Nếu quán Diệt th́ Vô Minh diệt ắt Hành diệt, cho đến Sanh diệt th́ Lăo và Tử đều diệt).

 

      Quư vị xem ngược trở lại th́ chính là trí huệ, sẽ thấy thấu suốt vũ trụ và nhân sinh.

 

      (Diễn) Nhân quán Thập Nhị Nhân Duyên, giác Chân Đế lư, cố ngôn Duyên Giác. Thử nhân đoạn tam giới Kiến Tư, dữ Thanh Văn đồng.

      () 緣,覺 理,故 覺。此 思,與 同。

      (Diễn: Do quán Thập Nhị Nhân Duyên, giác ngộ lư Chân Đế; v́ thế nói là Duyên Giác. Người này đoạn Kiến Tư Hoặc trong tam giới, giống như Thanh Văn).

 

      Đoạn chứng của Duyên Giác giống như Thanh Văn, nhưng thông minh hơn Thanh Văn.

 

      (Diễn) Cánh xâm tập khí, cố cư Thanh Văn thượng.

      () 氣,故 上。

      (Diễn: Do đă đoạn trừ tập khí, nên cao hơn Thanh Văn).

 

      Thanh Văn đoạn Kiến Tư phiền năo, chẳng đoạn tập khí, c̣n Duyên Giác tập khí đoạn sạch, nên công phu cao hơn A La Hán. Tập khí là ǵ? Kinh Phật có một tỷ dụ: Ví như b́nh rượu dùng để đựng rượu, nay quư vị đổ sạch rượu đi, trong ấy xác thực là chẳng có rượu nữa. Quư vị lại dùng khăn khô lau chùi sạch sẽ, nhưng vẫn ngửi thấy mùi rượu, đó gọi là tập khí.

      Trong các vị đệ tử của đức Phật, có rất nhiều vị là con em nhà phú quư theo Phật xuất gia. Người phú quư luôn có tập khí ngạo mạn, các Ngài đă chứng quả A La Hán, xác thực đă đoạn trừ ngạo mạn, thật sự chẳng có nữa, nhưng đôi khi vẫn c̣n thái độ cao ngạo, đó là tập khí. Có phải là thật sự có hay chăng? Thật sự chẳng có, các Ngài cung kính người khác, nhưng tập khí hăy c̣n! Phiền năo đoạn dễ dàng, tập khí khó trừ! Tập khí thường khiến cho kẻ khác hiểu lầm, chẳng chướng ngại sự tu hành của chính ḿnh, nhưng gây trở ngại cho việc giáo hóa chúng sanh; do đó, phải đặc biệt chú ư tập khí. Làm người nhất định phải học khiêm hư, cung kính, lễ độ, nhường nhịn, học tập đoạn trừ những tập khí ấy. Hôm nay, chúng tôi giảng tới chỗ này.

 

Tập 198

     

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang bốn trăm lẻ một, phần này nói về Thập Nhị Nhân Duyên, tức là sự tu chứng của bậc Duyên Giác.

 

      (Diễn) Thúc chi bất xuất Tứ Đế giả, nhược Lưu Chuyển Môn, Vô Minh, Ái, Thủ tam chi thị Phiền Năo Đạo, Hành, Hữu nhị chi thị Nghiệp Đạo, thử ngũ chi vi Tập Đế, Thức, Danh Sắc đẳng thất chi vi Khổ Đế.

() 者,若 門,無 道,行 道,此 諦,識 諦。

(Diễn: “Tóm lại, chẳng ra ngoài Tứ Đế”: Nếu xét theo Lưu Chuyển Môn, ba chi Vô Minh, Ái, Thủ là Phiền Năo Đạo, hai chi Hành và Hữu là Nghiệp Đạo. Năm chi này là Tập Đế, bảy chi Thức, Danh Sắc v.v… là Khổ Đế).

 

      Tuy Thập Nhị Nhân Duyên nói khá tỉ mỉ, nhưng quy nạp lại, vẫn chẳng ra ngoài Tứ Đế. Tứ Đế là nói tới Khổ, Tập, Diệt, Đạo, trong Tập Đế là khởi Hoặc, tạo nghiệp. Vô Minh là phiền năo trong quá khứ, Ái và Thủ là phiền năo trong hiện tại. Ba chi này đều thuộc về phiền năo, nên quy nạp vào Hoặc, Nghiệp, Khổ th́ [ba chi ấy] là mê hoặc. Do mê hoặc nên mới có [quả báo là Khổ]. Ở đây, chúng ta phải đặc biệt ghi nhớ, Vô Minh là chuyện thuộc đời quá khứ, chẳng thể làm ǵ được! Hiện thời, nếu sanh ḷng tham ái hết thảy các pháp, nếu mong tưởng chấp trước, giữ lấy, th́ chấp trước, giữ lấy là chiếm hữu, phải giác ngộ! Những điều ấy đều là mê hoặc, điên đảo.

      Hành là tạo nghiệp trong đời quá khứ, Hữu là hiện tại, tức là tạo nghiệp trong một đời này. Đă có nghiệp, đương nhiên sẽ có quả báo. Hai chi Hành và Hữu là tạo nghiệp. Do vậy có thể biết, chúng ta có dục vọng chiếm hữu, Phật môn nói là tạo nghiệp. Thiện nghiệp có thiện báo, ác nghiệp có ác báo, ác báo là trong ba ác đạo, thiện nghiệp ở trong ba thiện đạo. Nói chung, chẳng thoát khỏi lục đạo luân hồi; do đó, chớ nên tạo nghiệp. Không tạo nghiệp, câu này nói dễ dàng quá, thực hiện rất khó! V́ sao? Khởi tâm động niệm đều đang tạo nghiệp, làm thế nào được nữa!

      Hết thảy các pháp môn đều nhằm giúp chúng ta đoạn Hoặc, tiêu nghiệp, xuất ly lục đạo luân hồi. Trong hết thảy các pháp môn, đơn giản nhất, dễ dàng nhất, nhanh chóng nhất, ổn thỏa, thích đáng nhất, không ǵ hơn pháp môn Niệm Phật. Trong mười hai thời, chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối, trong tâm tưởng Phật, niệm Phật, hết thảy thời, hết thảy chỗ đều chẳng quên mất câu Phật hiệu này, đấy cũng là đang tạo nghiệp, tạo nghiệp ǵ vậy? Tạo tịnh nghiệp, tạo nghiệp niệm A Di Đà Phật, kể ra nghiệp ấy cũng khá lắm, v́ sao? Trong tam giới lục đạo chẳng có, [tức là] trong ba thiện đạo chẳng có A Di Đà Phật, trong ba ác đạo cũng chẳng có A Di Đà Phật, đó là tịnh nghiệp. Tạo tịnh nghiệp, tương lai văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Trừ con đường này ra, thưa thật cùng quư vị, chúng ta chẳng t́m thấy con đường thứ hai nào dễ đi! Chúng ta phải tạo tịnh nghiệp, nghiệp thiện và ác đều chớ nên tạo. Không chỉ là chớ nên tạo ác nghiệp, mà thiện nghiệp cũng chẳng làm; như vậy th́ mới có thể xuất ly.

      Vô Minh, Ái, Thủ, Hành, Hữu, năm điều này là Tập Đế. Trừ năm điều ấy ra, bảy điều kia là Khổ Đế. Từ Thức đến Thọ đều là quả báo trong một đời này. Quá khứ tạo nhân, hiện tại lănh chịu quả. Ái, Thủ, Hữu là tạo nhân hiện tại. Sanh, Lăo, Tử là quả báo trong đời sau. Nếu quư vị hỏi lục đạo luân hồi do đâu mà có, th́ Thập Nhị Nhân Duyên đă giảng rành mạch, rơ ràng. Điều này được gọi là Lưu Chuyển Môn. Lưu Chuyển là đi theo thứ tự thuận, đó là tạo tác lục đạo luân hồi. Nếu ngược lại th́…

 

      (Diễn) Nhược Hoàn Diệt Môn, diệt tiền Thập Nhị Nhân Duyên chi trí vi Đạo Đế, chứng tịch diệt lư vi Diệt Đế.

      () 門,滅 諦,證 諦。

      (Diễn: Nếu là Hoàn Diệt Môn, cái trí diệt mười hai nhân duyên trên đây là Đạo Đế, chứng lư tịch diệt là Diệt Đế).

 

      Quư vị hăy giác ngộ trong chốc lát, v́ sao con người có già, chết? V́ có sanh. Chẳng có sanh, sẽ chẳng có già, chết. Sanh có tốt đẹp ǵ? Hậu quả của sanh là già, chết. V́ sao có sanh? V́ có Thủ. V́ sao có Thủ? V́ có Ái! Quư vị truy ngược lại để t́m nguyên nhân của chúng, đó là trí huệ. Đối với Thập Nhị Nhân Duyên, chỉ cần đoạn một điều trong mười hai điều, lục đạo luân hồi chẳng c̣n nữa. Đoạn từ chỗ nào? Thưa cùng chư vị, phải đoạn từ nhân và duyên, chứ đoạn nơi quả chẳng được! Có những kẻ ngu si, cảm thấy cuộc sống rất đau khổ liền tự sát. Tự sát là đoạn nơi quả, chẳng đoạn được. Đă tự sát, chẳng đầy mấy ngày lại đầu thai, lại sanh ra, vẫn phải luân hồi trong lục đạo! V́ vậy, tự sát chẳng phải là hết chuyện, chẳng thể giải quyết vấn đề. Không chỉ chẳng thể giải quyết vấn đề, mà chỉ càng làm cho vấn đề tệ hại hơn, đời sau chẳng biết sẽ khổ hơn đời này bao nhiêu lần, đừng làm như thế! Phải đoạn từ nơi nhân, [đoạn] từ nơi nhân là đoạn nơi Tập Đế, chứ Khổ Đế chẳng có cách nào đoạn được, [bởi lẽ], Khổ là quả! Đối với Tập, chúng ta biết Vô Minh và Hành thuộc về đời quá khứ, đời quá khứ th́ làm sao quư vị có thể đoạn được? Chỉ trong đời hiện tại th́ xét trong Thập Nhị Nhân Duyên, đời hiện tại chỉ có ba chi là Ái, Thủ, Hữu. Trong ba chi Ái, Thủ, Hữu, có thể đoạn một chi. Hoặc là quư vị đoạn trừ Ái, đoạn trừ Thủ, đoạn trừ Hữu, đoạn một chi trong ba chi ấy là được, sẽ thoát ĺa lục đạo luân hồi. Đó gọi là Hoàn Diệt Môn. Quư vị có trí huệ, biết chân tướng sự thật, biết thực hiện từ chỗ nào, đó là Đạo Đế. Đạo là phương pháp, cửa nẻo, quư vị đă t́m được. Thật sự vượt thoát luân hồi, liễu sanh tử, đó chính là Diệt Đế. Chứng lư tịch diệt là Diệt Đế. Đây là nói rơ Thập Nhị Nhân Duyên chẳng ra ngoài Tứ Đế.

      Duyên Giác tuy độ chúng sanh, nói thật ra, chẳng khác A La Hán cho mấy! Ngài chẳng chủ động hóa độ chúng sanh, vẫn là chúng sanh đến cầu Ngài, Ngài mới chịu dạy. Chúng sanh chẳng cầu Ngài, Ngài sẽ chẳng t́m người khác [để dạy bảo], chẳng giống như Bồ Tát là “bạn chẳng thỉnh”. V́ thế, Ngài độ chúng sanh chẳng nhiều, mà cũng chẳng rộng. Duyên Giác và Thanh Văn được gọi là Tiểu Thừa. Nếu nói thành ba thừa th́ Thanh Văn là Tiểu Thừa, Duyên Giác là Trung Thừa, Bồ Tát là Đại Thừa.

 

      (Sao) Toán số giả.

      () 者。

      (Sao: Tính toán…).

 

      Đoạn này nhằm giải thích câu kinh “phi thị toán số chi sở năng tri” (chẳng thể tính toán để biết được). “Toán số” ở đây là một danh từ, được giải thích đơn giản [như sau].

 

      (Sao) Thế gian toán số, tận ư Cửu Chương.

      () 數,盡 章。

      (Sao: Phép tính toán trong thế gian đều xuất phát từ Cửu Chương).

 

      Cửu Chương[4] là Toán Học cổ đại của Trung Hoa. Toán Học hiện thời tiến bộ hơn xưa kia rất nhiều.

      (Sao) Phật thuyết toán số, như A Tăng Kỳ phẩm, tắc phi thế nhân tâm lực sở kế.

     () 數,如 品,則 計。

      (Sao: Cách tính toán số lượng như đức Phật đă nói phẩm A Tăng Kỳ th́ tâm lực của người đời chẳng thể tính toán được).

 

      “A Tăng Kỳ phẩm” là một phẩm của kinh Hoa Nghiêm. Phẩm kinh này giảng về Toán Học, [nói ra] những con số quá lớn, phàm phu chúng ta chẳng có cách nào tính toán.

 

      (Sao) Kim vân toán số, thông thế xuất thế gian nhi ngôn dă. Dĩ kỳ đa đa vô tận, siêu xuất toán số chi ngoại, tuy Lạc Hoằng, Nhất Hạnh, vô sở thi kỳ xảo giả dă.

() 數,通 也。以 盡,超 外,雖 行,無 也。

(Sao: Nay nói đến “toán số” là nói gồm trọn [các phương pháp tính toán trong] thế gian và xuất thế gian. Do con số ấy nhiều vô tận, vượt ngoài khả năng tính toán. Dẫu là Lạc Hoằng hoặc Nhất Hạnh, cũng chẳng có cách nào thi thố tài khéo được).

 

      Ở đây, kinh nói “toán số” đă bao gồm tất cả những cách tính toán trong thế gian và xuất thế gian. Nhưng những con số ấy hết sức lớn, nếu chẳng phải là nhà Toán Học rất cao minh, tuyệt đối chẳng phải là kẻ tầm thường có thể tính toán nổi! “Lạc Hoằng, Nhất Hạnh” là những nhà Toán Học vào thời xưa của Trung Hoa. Liên Tŕ đại sư là người đời Minh; đương nhiên là từ sau nhà Minh, do giao thông phát triển, nhiều nhà toán học thuộc các quốc gia khác trên thế giới vượt trỗi Trung Quốc. Vào thời cổ, người Hoa vượt trội người ngoại quốc, hiện thời có rất nhiều người ngoại quốc chuyên tinh, suốt đời dốc sức nơi một môn, thâm nhập một môn, nên xuất hiện chẳng ít nhà Toán Học [lỗi lạc]. Những nhà Toán Học này cũng chẳng có cách nào biết rơ những con số được nói trong kinh Phật.

 

      (Diễn) Toán số Cửu Chương giả.

      () 者。

      (Diễn: Toán số Cửu Chương…).

 

      Cửu Chương là ǵ? Ở đây là giải thích danh từ Cửu Chương, nội dung chẳng thể nói chi tiết được. Nói thật ra, [các thuật toán trong Cửu Chương] cũng rất gần với Toán Học hiện đại. Toán Học cận đại tiến bộ hơn Toán Học Trung Hoa vào thời cổ rất nhiều.

 

      (Diễn) Nhất Phương Điền, nhị Túc Bố, tam Sai Phân, tứ Thiếu Quảng, ngũ Thương Công, lục Quân Thâu, thất Phương Tŕnh, bát Doanh Nục, cửu Câu Cổ.

     () 田,二 布,三 分,四 廣,五 功,六 輸,七 程,八 朒,九 股。

      (Diễn: Một là Phương Điền, hai là Túc Bố, ba là Tu Phân, bốn là Thiếu Quảng, năm là Thương Công, sáu là Quân Thâu, bảy là Phương Tŕnh, tám là Doanh Nục, chín là Câu Cổ).

 

      Nay chúng ta gọi “phương tŕnh” là phương tŕnh[5], “câu cổ” nay được gọi là rút căn bậc hai. Đây là những danh từ toán học Trung Hoa từ xưa[6].

 

      (Diễn) “Lạc Hoằng, Nhất Hạnh” giả, Lạc Hoằng Hán Vũ Đế thời nhân, tinh ư lịch số, Hán thời cải Chánh Sóc kỳ sở định dă, toán châu thiên số vân: “Hậu kỷ bách niên, đương hữu sai ngoa, tất hữu thánh nhân xuất nhi chánh chi”.

() 者,洛 人,精 數,漢 朔,其 也。算 云:後 年,當 訛,必 之。

(Diễn: “Lạc Hoằng[7] , Nhất Hạnh”: Lạc Hoằng là người sống vào thời Hán Vũ Đế, tinh thông lịch số. Việc sửa đổi ngày mồng Một tháng Giêng vào thời Hán là do ông ấn định. Khi ông tính toán số châu thiên đă nói: “Mấy trăm năm sau, sẽ bị sai ngoa, ắt có thánh nhân ra đời sửa đổi cho đúng”).

 

      Lạc Hoằng là một nhà Toán Học. Toán Học là mẹ của khoa học! Số Lư[8] có thể suy diễn vận mạng suốt đời của mỗi cá nhân, mở rộng ra là quốc gia, thế giới, ngay cả sự vận chuyển của các tinh cầu trong vũ trụ cũng đều có thể tính toán. Rất nhiều tinh cầu trong Thiên Văn Học, trước hết là do suy luận Toán Học mà t́m ra, biết ở chỗ nào đó phải có tinh cầu. Sau đấy lại t́m ṭi, quả nhiên t́m được. Đó là nh́n vào sự vận hành của tinh cầu, v́ sự vận hành của nó bị ảnh hưởng bởi sức hấp dẫn giữa các vật thể, từ đó suy diễn ra [kết quả]. Tuy chưa phát hiện, nhưng biết là phải có [một thiên thể ở nơi đó], nên mới có hiện tượng ấy. Thiên Vương Tinh (Uranus) và Minh Vương Tinh (Diêm Vương Tinh, sao Pluto) đều là trước hết suy luận từ Số Lư, sau đấy mới t́m được những tinh cầu ấy. Có rất nhiều dự ngôn (lời tiên đoán) cũng được diễn dịch dựa trên suy luận Số Lư, nhưng có khi phạm sai sót, rất khó tránh khỏi, không nhất thiết là hoàn toàn chánh xác! Nếu thấy trong Định, sẽ có thể thấy chuyện thuộc ngàn vạn năm sau trong cơi này hay phương khác. Đó là cảnh giới Hiện Lượng, chẳng sai lầm tí nào! Ở đây, [sách Diễn Nghĩa nói] ông ta tính toán con số châu thiên, nói theo thiên văn hiện thời, [số châu thiên] chính là [tính toán] sự vận hành của tinh cầu. Mấy trăm năm sau, tốc độ vận hành và góc độ của các tinh cầu sẽ bị sai lệch lớn hơn đôi chút, nên lịch pháp cần phải tu chỉnh.

 

      (Diễn) Đường Huyền Tông thời, tăng Nhất Hạnh quả xuất, phục định lịch số.

      () 時,僧 出,復 數。

      (Diễn: Vào thời Đường Huyền Tông, quả nhiên sư Nhất Hạnh[9] xuất hiện, lại ấn định lịch số).

      Thời Đường Huyền Tông (Đường Minh Hoàng), có một vị xuất gia là pháp sư Nhất Hạnh tinh thông Thiên Văn và Toán Học, Ngài cũng thông hiểu những điều này. “Phục định lịch số” là tu chỉnh lịch số một lần nữa. Đó là Nông Lịch được sử dụng tại Trung Hoa hiện thời, dựa trên tiêu chuẩn mặt trăng xoay quanh địa cầu, c̣n gọi là Âm Lịch. Lịch của người Tây Dương gọi là Dương Lịch, dựa theo tiêu chuẩn trái đất xoay quanh mặt trời để tính toán. Những nhà đại toán học đối với các số lượng đă nói trong kinh Phật cũng chẳng có cách nào suy luận!

 

(Sao) Thượng ngôn vô lượng vô biên, thập đại số trung, đương kỳ nhị tam.

() 邊,十 三。

      (Sao: Vô lượng và vô biên như đă nói trên đây đứng vào hàng thứ hai và thứ ba trong mười con số lớn).

 

      Mười con số lớn được nói trong phẩm A Tăng Kỳ. Đơn vị số đếm của cổ Ấn Độ tính từ những số căn bản đến con số cuối cùng gồm có hơn một trăm năm mươi đơn vị (đơn vị số đếm của Trung Hoa chỉ có hai mươi mấy loại), những số về sau lại là nhân gấp bội của chính nó, chẳng phải là tăng gấp mười. Mười con số lớn sau cùng, chúng ta thường gọi là Thập Đại Số. Đầu tiên là A-tăng-kỳ, thứ hai là Vô Lượng. A-tăng-kỳ lần A-tăng-kỳ là một Vô Lượng, nên Vô Lượng là danh từ chỉ số đếm. Vô Lượng lần Vô Lượng là một Vô Biên. Trong mười con số lớn, Vô Lượng là thứ hai, Vô Biên là thứ ba, nên nói: “Thập đại số trung, đương kỳ nhị tam”.

 

      (Sao) Thị hữu toán số, nhi kim ngôn “phi thị toán số sở tri”.

      () 數,而 知。

      (Sao: [Những con số ấy tuy lớn nhưng vẫn] là có thể tính toán được, nhưng nay kinh nói “chẳng thể tính toán để biết được”).

 

      Nói thật ra, Vô Lượng là vô lượng trong hữu lượng, chẳng phải là vô lượng thật sự. Vô Lượng là một đơn vị số đếm. Kinh nói đến chữ này, rốt cuộc có phải là vô lượng có hạn lượng hay là vô lượng theo nghĩa vô lượng? Kinh Di Đà chẳng nói tỉ mỉ, nhưng kinh Vô Lượng Thọ giảng rất cặn kẽ. Quư vị nói nó là vô lượng có hạn lượng, vậy th́ đức Phật đă nói: Giả sử mười phương thế giới chúng sanh thảy đều chứng quả Bích Chi Phật, thần thông đều giống như Mục Kiền Liên, cùng nhau tính toán xem trong thế giới Tây Phương có bao nhiêu người, họ tính chẳng ra! Thọ mạng của A Di Đà Phật họ cũng tính chẳng ra. Do vậy có thể biết, tuyệt đối chẳng phải là vô lượng có hạn lượng như đang nói ở đây. V́ sao? Đối với các con số Vô Lượng và Vô Biên của Ấn Độ, người khá Toán một chút trong bọn chúng ta vẫn có thể tính toán được! Hiện thời, chúng ta chẳng khá Toán cho lắm, nhưng lợi dụng máy tính điện tử th́ vẫn có thể tính ra. Dùng kinh Vô Lượng Thọ để quan sát, đức Thế Tôn giới thiệu sự vô lượng trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, có thể nói đó là vô lượng thật sự. Dẫu là có hạn lượng, đối với cảnh giới của bọn phàm phu chúng ta, vẫn thật sự là vô lượng, vẫn chẳng thể nào tính toán để biết được!

     

(Sao) Cố tri vô lượng, năi tán thán cực đa chi ngữ, vị khả dĩ thường số nệ dă.

() 量,乃 語,未 也。

(Sao: Cho nên biết “vô lượng” chính là từ ngữ tán thán số lượng cực nhiều, chớ nên câu nệ hiểu là những con số thông thường).

 

      Đặc biệt nhắc nhở chúng ta, tuyệt đối chẳng thể dùng những con số Ấn Độ để suy lường, [chấp chặt vô lượng vô biên là các con số đếm] th́ chúng ta sai lầm mất rồi!

 

      (Sao) Như Đại Bổn vân.

      () 云。

      (Sao: Như kinh Đại Bổn có nói).

 

      Đại Bổn là kinh Vô Lượng Thọ. Trong Sớ Sao, Liên Tŕ đại sư trích dẫn Đại Bổn, đại đa số đều dựa theo kinh văn trong bản hội tập của ông Vương Long Thư, tức là Đại A Di Đà Kinh.

 

      (Sao) Giả sử tỳ-kheo măn ức na-do-tha bách thiên số lượng, giai như Mục Liên thần thông, dục cộng kế toán bỉ Phật sơ hội Thanh Văn, tận kỳ thần lực, bách phần trung bất năng tri nhất, năi chí Ổ-ba-nê-sát-đàm phần, diệc bất năng tri nhất.

() 使 滿 量,皆 通,欲 聞,盡 力,百 一,乃 分,亦 一。

(Sao: Giả sử tỳ-kheo số lượng nhiều đến ức na-do-tha trăm ngàn, đều có thần thông như ngài Mục Liên, muốn cùng nhau tính toán số lượng Thanh Văn trong hội đầu tiên của đức Phật ấy, trọn hết thần lực của họ, vẫn chẳng biết được một phần trăm, cho đến một phần Ổ-ba-nê-sát-đàm cũng chẳng biết được).

 

      Ổ-ba-nê-sát-đàm” (Upaniṣad)[10], kinh Lăng Nghiêm nói (phiên âm) là Ưu-ba-ni-sa-đà, âm đọc rất gần gũi, v́ là dịch âm tiếng Phạn [nên tùy theo dịch giả mà phiên âm sai khác đôi chút], dịch sang nghĩa tiếng Hán là Vi Tế Phần. Một phần của Vi Tế mà c̣n chẳng thể biết, huống hồ toàn thể!

 

      (Sao) Hựu vân, Phật cáo A Nan: “Giả sử hữu nhân, xuất nhất thân mao, toái vi vi trần, dĩ nhất nhất trần, đầu hải xuất thủy, mao trần thủy đa? Hải trung thủy đa?” A Nan đáp ngôn: “Mao trần thủy đa, bất cập bán cáp, hải thủy vô lượng”.

() 云,佛 難:假 使 人,出 毛,碎 塵,以 塵,投 水,毛 多,海 多?阿 言:毛 多,不 合,海 量。

(Sao: Kinh lại chép: Đức Phật bảo A Nan: “Giả sử có người nhổ một sợi lông trên thân, nghiền nát thành vi trần, dùng mỗi một vi trần ấy để nhúng xuống biển lấy nước th́ nước dính trên hạt bụi của sợi lông ấy là nhiều hay nước trong biển là nhiều?” A Nan đáp rằng: “Nước dính trên hạt bụi của sợi lông nhiều lắm là chưa đầy nửa lẻ[11], nước biển vô lượng).

 

      Một hạt bụi của sợi lông chẻ ra chính là một phần trăm. Sợi lông đă rất nhỏ, đem chẻ theo chiều dọc, chẻ thành một trăm phần, quư vị nghĩ xem một phần trăm của nó sẽ nhỏ đến mức nào! Dùng nó để chấm một giọt nước trong biển, đức Phật hỏi: “Nước dính nơi hạt bụi từ sợi lông ấy là nhiều, hay nước trong biển là nhiều?” Đây là sánh ví giống như vừa mới nói [trong đoạn trước], chúng sanh trong mười pháp giới đều chứng quả Bích Chi Phật, thần thông đều giống như Mục Kiền Liên, số lượng trong thế giới Cực Lạc mà họ có thể biết được, chẳng qua là lượng nước dính trên hạt bụi của sợi lông mà thôi, chẳng biết lượng nước trong biển cả. Điều này nhằm h́nh dung số lượng tột bậc chẳng thể nghĩ bàn. Thế giới Tây Phương chỉ có Phật và Phật mới có thể thấu hiểu rốt ráo, Ngẫu Ích đại sư nói như thế này: “Nếu chẳng do Phật lực gia tŕ, chúng sanh trong chín pháp giới tuyệt đối chẳng thể nào cậy vào sức ḿnh mà ḥng lư giải được!”

 

      (Sớ) Luận ngôn “Nhị Thừa bất sanh”, kim ngôn Thanh Văn giả, dĩ quán tập Tiểu, bất cửu chứng Đại, chung vô Tiểu cố. Như Quán Sớ thuyết: “Nhược cứ biến hóa, Tiểu diệc vô ngại”.

() 生,今 者,以 小,不 大,終 說:若 化,小 礙。

(Sớ: Luận nói “Nhị Thừa chẳng sanh”, nay [chánh kinh] nói đến Thanh Văn, là do họ đă quen tu pháp Tiểu Thừa, chẳng lâu sau sẽ chứng quả Đại Thừa, trọn chẳng có quả Tiểu Thừa. Như Quán Kinh Sớ đă nói: “Nếu xét theo sự biến hóa th́ Tiểu Thừa cũng chẳng trở ngại ǵ”).

 

       Văng Sanh Luận nói: “Nhị Thừa chủng bất sanh”, [nghĩa là] chủng tánh Nhị Thừa chắc chắn chẳng thể văng sanh Tịnh Độ. Tây Phương Tịnh Độ thuần nhất chủng tánh Đại Thừa, là chủng tánh Bồ Tát, chẳng có chủng tánh Nhị Thừa. Nay kinh nói Tây Phương Cực Lạc thế giới có Thanh Văn, đó là chuyện như thế nào? Ở đây, đại sư giải thích, “dĩ quán tập Tiểu” (do quen tu tập pháp Tiểu Thừa), “quán” () là thói quen. Trước khi sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, giống như trong thế giới này của chúng ta, họ đă tu pháp Tiểu Thừa rất lâu, nay nghe nói thế giới Tây Phương, bèn hồi Tiểu hướng Đại, niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, nên cũng có thể văng sanh. Tuy văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, tập khí Tiểu Thừa rất nặng, tập khí Tiểu Thừa vẫn chưa đoạn, chúng ta gọi họ là Tiểu Thừa, tức là nói đến thân phận Tiểu Thừa của họ trước khi văng sanh. Trong kinh Vô Lượng Thọ, chúng ta cũng thấy điều này. Lời giải thích của Liên Tŕ đại sư chẳng phải là thiên kiến của chính Ngài, mà là căn cứ trên Đại Kinh. “Chung vô tiểu cố” (trọn chẳng có Tiểu Thừa): Thế giới Cực Lạc tuyệt đối chẳng có Tiểu Thừa.

 

      (Sao) Chung vô Tiểu giả, Quán Kinh Sớ vị tập Tiểu chi nhân, bổn bất đắc sanh.

      () 者,觀 人,本 生。

      (Sao: “Trọn chẳng có Tiểu Thừa”: Quán Kinh Sớ nói người tu tập pháp Tiểu Thừa vốn chẳng được văng sanh).

 

Người Tiểu Thừa quả thật chẳng thể văng sanh Tịnh Độ.

 

      (Sao) Diêu bỉ lâm chung, phát Đại Thừa tâm, diệc năi đắc sanh.

      () 終,發 心,亦 生。

      (Sao: Do khi người ấy lâm chung, phát tâm Đại Thừa, nên cũng được văng sanh).

 

      Duyên phận Tịnh Độ của người ấy trước khi mạng chung mới chín muồi, lúc sắp mạng chung, gặp thiện tri thức bảo ban sự thù thắng của Tây Phương Cực Lạc thế giới, nghe xong, đương nhiên là người ấy nhất định đă có thiện căn trong đời quá khứ, do thiện căn chín muồi nên có thể tin tưởng, có thể phát nguyện, có thể niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tịnh Độ, quyết định văng sanh.

 

      (Sao) Dĩ quán tập Tiểu.

      () 小。

      (Sao: Do quen tu tập pháp Tiểu Thừa).

 

      V́ người ấy tu Tiểu Thừa đă lâu, cũng là do sức lực của chủng tử pháp Tứ Đế rất mạnh, nên đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, nghe A Di Đà Phật [thuyết pháp] cũng như nghe các pháp môn do y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tịnh Độ đă nói, [sẽ nghe thành] toàn là giảng giải pháp môn Tiểu Thừa. Nói thật thà, Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật có bao giờ [cố ư] thuyết pháp? Tuy Phật chẳng thuyết pháp, nhưng ở bên ấy, từ đầu đến cuối thuyết pháp chẳng gián đoạn. Thuyết pháp là do chúng sanh có cảm, Phật bèn có ứng. Quư vị mong nghe kinh ǵ, nghe pháp ǵ, quư vị sẽ nghe âm thanh nói kinh pháp ấy. Những người ấy tập khí Tiểu Thừa rất sâu, đương nhiên là nghĩ tới kinh Tiểu Thừa, v́ họ chưa từng tiếp xúc kinh Đại Thừa. Đừng nói là chẳng hiểu ư nghĩa trong kinh, ngay cả tựa đề kinh cũng chẳng hiểu. Trong tâm họ luôn nghĩ tới kinh Tiểu Thừa, nên họ nghe A Di Đà Phật giảng giải, hướng dẫn cũng là pháp Tiểu Thừa.

 

      (Sao) Tài văn khổ, không, vô thường đẳng pháp, thuận kỳ tiên tập, toại chứng tiểu quả.

() 法,順 習,遂 果。

(Sao: Mới nghe các pháp như khổ, không, vô thường v.v… hợp với những ǵ đă tu tập trước kia bèn chứng tiểu quả).

 

      Sau khi người ấy nghe những pháp đó, bèn đoạn Kiến Tư phiền năo. Đoạn Kiến Tư phiền năo, sẽ bằng với chứng quả A La Hán. Thật ra, trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, người ấy là Bồ Tát, tuyệt đối chẳng phải là A La Hán. Chúng ta biết trong quả vị Bồ Tát của Viên Giáo, đoạn hết Kiến Tư phiền năo là địa vị Thất Tín, Thất Tín vị Bồ Tát. Nhưng xét theo Đại Thừa Phật pháp, sự huân tu đoạn chứng của người ấy bằng với Tiểu Thừa. Trừ sự đoạn chứng ra, đối với trí huệ, thần thông, đạo lực của người ấy, chắc chắn là Thanh Văn và Duyên Giác chẳng thể sánh bằng!

 

      (Sao) Nhi hướng Đại chi tâm dĩ thành, huống đắc cận Phật, tự đương bất cửu chứng Đại, an tại kỳ vi Thanh Văn hồ?

() 成,況 佛,自 大,安 乎?

(Sao: Nhưng cái tâm hướng về Đại Thừa đă thành lập, huống hồ được thân cận Phật, không lâu sau sẽ tự chứng quả Đại Thừa, há thuộc vào địa vị Thanh Văn ư?)

 

      Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, chẳng xa ĺa A Di Đà Phật, thường thân cận A Di Đà Phật. Có lẽ quư vị hoài nghi: Thế giới Tây Phương to dường ấy, người đông như vậy, làm sao ta có thể hằng ngày ở cùng một chỗ với A Di Đà Phật? Đó là quan niệm của người thế gian chúng ta. Thế gian này xác thực đúng là như vậy. Chẳng cần nói quá to, chúng ta ở thành phố Đài Bắc là một nơi rất nhỏ, mỗi người chúng ta hằng ngày có trông thấy Lư Tổng Thống[12] hay không? Bắt tay ông ta, cùng ông ta tṛ chuyện được chăng? Chẳng thể nào! V́ sao chẳng thể? Ông ta chỉ có một thân! A Di Đà Phật có vô lượng vô biên hóa thân, nên mỗi người đều hằng ngày thấy Phật, hằng ngày ở cùng một chỗ với Phật. Nếu Lư tổng thống có hóa thân, thành phố Đài Bắc có hai trăm vạn người, ông ta có hai trăm vạn hóa thân, mỗi hóa thân bồi tiếp một người, chẳng phải là hằng ngày ở cùng một chỗ ư? Phật có hóa thân, Quán Âm Bồ Tát cũng có hóa thân, Đại Thế Chí Bồ Tát cũng có hóa thân, chúng ta xem Quán Kinh Sớ Sao sẽ biết. Không chỉ là Phật, Bồ Tát có hóa thân; tới cơi ấy, chính chúng ta cũng có thể hóa thân, tuyệt diệu chẳng thể nói nổi! Chính ḿnh cũng hóa thân giống như Phật, hóa thân vô lượng vô biên, hóa thân nhiều như thế để làm ǵ? Hằng ngày đến thăm viếng mười phương chư Phật, không chỉ là thân cận A Di Đà Phật, mà mười phương ba đời hết thảy chư Phật quư vị đều có thể thân cận hằng ngày, quư vị nói xem thế giới Cực Lạc có tốt đẹp hay không? Nếu quư vị chẳng sanh về thế giới Tây Phương, sẽ chẳng đạt được điều tốt đẹp ấy. Nếu Bồ Tát muốn đạt được lợi ích như vậy, phải là bậc đă đắc từ Thất Địa trở lên! Khi nào quư vị có thể tu đến Thất Địa của Viên Giáo trở lên th́ quư vị mới có năng lực thân cận mười phương Như Lai. Chỉ cần văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, hạ hạ phẩm văng sanh đều đạt được điều tốt đẹp này, là do thần lực của A Di Đà Phật gia tŕ. Từ Quán Kinh và kinh Vô Lượng Thọ, chúng ta đều nh́n thấy điều này, thời thời khắc khắc đều có thể thân cận Phật Di Đà. V́ lẽ đó, há có thể nói họ là Thanh Văn ư?

 

      (Sao) Thị tắc kinh cử Thanh Văn, dĩ tạm hữu cố. Luận minh Nhị Thừa bất sanh giả, dĩ chung vô cố.

      () 聞,以 故。論 者,以 故。

      (Sao: Do vậy, kinh nêu ra Thanh Văn là v́ tạm thời có. Văng Sanh Luận bảo Nhị Thừa chẳng thể văng sanh là nói “rốt cục, chẳng có Thanh Văn”).

 

      Kinh nói tới Thanh Văn là v́ có hai ư nghĩa, chúng ta đọc được điều này từ kinh Vô Lượng Thọ:

1) Ư nghĩa thứ nhất là nói Thanh Văn hoặc nói trời người, chính là nói đến thân phận của họ trước khi văng sanh: Họ từ Tiểu Thừa văng sanh, hoặc do thân phận trời người mà văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, nên gọi theo thân phận trước đó.

2) Một cách nói khác là xét theo sự đoạn Hoặc, đoạn phiền năo của họ. Nếu quư vị vẫn chưa đoạn Kiến Tư phiền năo, sẽ bằng với trời người trong các thế giới khác. Đă đoạn Kiến Tư phiền năo, nhưng Trần Sa và Vô Minh chưa đoạn, sẽ bằng với Thanh Văn trong các thế giới phương khác. Nói theo kiểu này!

Chỉ cần sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, dẫu là hạ hạ phẩm văng sanh, thảy đều là Bồ Tát. Thế giới ấy là một pháp giới thuần nhất Bồ Tát. Chúng ta lại c̣n đọc từ rất nhiều kinh, hiểu sâu xa, họ đều là Phổ Hiền Bồ Tát, chẳng phải là hàng Bồ Tát b́nh phàm. Chúng ta đọc kinh Hoa Nghiêm, [sẽ thấy] chỉ có Phổ Hiền Bồ Tát mới có thể thành Phật, các Bồ Tát khác chẳng thể thành Phật. Nếu Bồ Tát nào muốn thành Phật, nhất định phải tu Phổ Hiền hạnh, nhất định phải biến chính ḿnh thành Phổ Hiền Bồ Tát th́ mới có thể viên thành Phật đạo. Kinh Vô Lượng Thọ và kinh Hoa Nghiêm “mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc” có mối quan hệ vô cùng mật thiết. Đoạn kế tiếp nói càng hay hơn:

 

      (Sao) Tiểu diệc vô ngại giả.

() 者。

(Sao: Tiểu Thừa th́ cũng chẳng trở ngại).

 

      Câu này nói viên măn, đích xác là cảnh giới Hoa Nghiêm, Lư Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại.

 

      (Sao) Tịnh Độ thượng dung chúng điểu, Thanh Văn khởi bất điểu như?

      () 鳥,聲 如?

      (Sao: Tịnh Độ c̣n dung nạp các loài chim, Thanh Văn há chẳng bằng chim ư?)

 

      Lẽ đâu Thanh Văn chẳng bằng các loài chim? C̣n thua kém chúng ư?

 

      (Sao) Điểu kư biến hóa sở thành, Thanh Văn ninh độc thật hữu?

      () 成,聲 有?

      (Sao: Chim đă là do biến hóa tạo thành, há riêng Thanh Văn là thật sự có?)

 

      Mấy câu này nói quá hay, đích xác là viên dung đến tột bậc. Há Tây Phương Cực Lạc thế giới có chim? Chim là do A Di Đà Phật biến hóa tạo ra. Trời, người, Thanh Văn trong Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng có thể là do A Di Đà Phật biến hóa tạo tác. Nói theo cảnh giới Lư Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại của Hoa Nghiêm, xác thật là viên dung vô ngại. Chúng ta chẳng cần hoài nghi chuyện này!

 

      (Sao) Túng sử bỉ quốc cửu hữu Thanh Văn, diệc phục hà ngại?

      () 使 聞,亦 礙。

      (Sao: Hơn nữa, dẫu cơi ấy có Thanh Văn lâu ngày, cũng có trở ngại ǵ?)

 

      Nếu thế giới ấy thật sự có người, trời, có Thanh Văn, cũng có thể là do A Di Đà Phật biến hóa tạo ra. Thần thông, đạo lực của Phật Di Đà chẳng thể nghĩ bàn, chúng ta chẳng cần phải hoài nghi. Kinh điển của Tịnh Độ Tông để chúng ta y cứ là năm kinh, năm kinh quy nạp lại sẽ là kinh Vô Lượng Thọ. Kinh Vô Lượng Thọ là kinh bậc nhất trong Tịnh Tông. Kinh Vô Lượng Thọ lại quy nạp sẽ thành bốn mươi tám nguyện, bốn mươi tám nguyện do chính miệng A Di Đà Phật nói ra, Thích Ca Mâu Ni Phật thuật lại cho chúng ta biết. Đức Phật [Thích Ca Mâu Ni] kể lại và chính A Di Đà Phật nói ra, chẳng khác ǵ nhau! Chúng ta phải lấy điều ǵ làm căn cứ? Lấy bốn mươi tám nguyện làm căn cứ. Bốn mươi tám nguyện giống như hiến pháp, bất cứ pháp nào trong hết thảy các pháp hễ mâu thuẫn với nó th́ đều chẳng có hiệu quả! V́ lẽ đó, lấy bốn mươi tám nguyện làm chủ.

      Tôi thường khuyên các đồng tu; nếu chẳng có thời gian đọc trọn bộ kinh, người thật sự tu Tịnh Độ trong khóa sáng hăy niệm chương thứ sáu tức là bốn mươi tám nguyện trong kinh Vô Lượng Thọ, chuyên tu Tịnh Độ, nhất tâm nhất ư cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, khóa tối niệm năm chương là ba mươi ba, ba mươi bốn, ba mươi lăm, ba mươi sáu, và ba mươi bảy, năm chương ấy là tŕ giới niệm Phật. Dùng kinh văn của năm chương ấy để phản tỉnh, sám hối, sửa lỗi đổi mới. Chẳng thể đọc trọn bộ kinh th́ đọc theo cách như vậy. Niệm xong, lại niệm thêm kệ Hồi Hướng, Tam Quy Y, như vậy th́ khóa sáng và khóa tối đều hết sức viên măn, đó là chuyên tu Tịnh Tông. Thanh Văn chúng được giới thiệu tới đây, kế tiếp là giới thiệu Bồ Tát chúng.

 

      Nhị, Bồ Tát.

      (Kinh) Chư Bồ Tát chúng, diệc phục như thị.

      薩。

  () 眾。亦 是。

      (Hai là Bồ Tát.

Kinh: Các vị Bồ Tát cũng giống như thế).

 

      Thanh Văn chúng nói cặn kẽ, đối với Bồ Tát chúng, ngôn ngữ tỉnh lược khá nhiều, nhưng chúng ta phải nhớ trong phần kinh văn trước đó, đức Phật đă nói: “Bỉ Phật hữu vô lượng vô biên Thanh Văn đệ tử” (đức Phật ấy có vô lượng vô biên Thanh Văn đệ tử), ở đây, chiếu theo thể lệ trong phần trước, sẽ là “bỉ Phật hữu vô lượng vô biên Bồ Tát đệ tử, phi thị toán số chi sở năng tri” (đức Phật có vô lượng vô biên Bồ Tát đệ tử, chẳng thể tính toán để biết được số lượng).

 

      (Sớ) Thừa thượng, bất độc Tiểu Thừa.

      () 乘。

      (Sớ: Nói tiếp ư kinh văn trong phần trên, không riêng ǵ Tiểu Thừa).

 

      Số lượng trời, người và Thanh Văn trong Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng thể nghĩ bàn.

 

      (Sớ) Chư Đại Thừa Bồ Tát vô bất sanh cố.

      () 故。

      (Sớ: Các vị Đại Thừa Bồ Tát, không vị nào chẳng văng sanh).

 

      V́ từ kinh Hoa Nghiêm, chúng ta đă thấy, Thập Địa Bồ Tát từ đầu đến cuối chẳng ĺa niệm Phật. Bồ Tát tu hành đến mức đăng địa (chứng Sơ Địa), sẽ biết pháp môn này thù thắng. Nói cách khác, địa tiền Bồ Tát (Bồ Tát chưa chứng Sơ Địa) chẳng biết pháp môn này, không nhận biết pháp môn này. Sau khi đă đăng địa, mới hiểu pháp môn này thù thắng, mới biết chỗ tốt đẹp của pháp môn này, biết sự lợi ích chân thật của pháp môn này, nên chẳng có vị nào không tin. V́ lẽ đó, số lượng các vị đại Bồ Tát trong thế giới Tây Phương không chỉ chẳng thể ít hơn trời, người, Thanh Văn, mà c̣n vượt trỗi quá nhiều. Hàng đại Bồ Tát trong cơi kia đông lắm!

 

      (Sớ) Diệc phục giả, diệc vô lượng vô biên bất khả toán số dă. Hựu phục cụ vô lượng vô biên công đức, như Đại Bổn trung thuyết.

      () 者,亦 也。又 德,如 說。

      (Sớ: “Cũng lại [giống như thế]”: Cũng là vô lượng vô biên chẳng thể tính toán. Lại c̣n có đủ vô lượng vô biên công đức như trong kinh Đại Bổn đă nói).

 

      Kinh Vô Lượng Thọ nói các vị đại Bồ Tát trong Tây Phương Cực Lạc thế giới công đức ṿi vọi, chư Phật chẳng thể tán thán trọn hết!

 

      (Sao) Bồ Tát giả, tự sơ tâm dĩ chí địa tận, tiền như giáo khởi trung biện, hậu như Bổ Xứ văn trung sở dẫn, thậm đa vô lượng, hà khả sổ kế.

      () 者,自 盡,前 辯,後 引,甚 量,何 計。

      (Sao: Bồ Tát là từ sơ tâm cho đến hết các địa vị thuộc Thập Địa, trước th́ như trong phần Giáo Khởi Nhân Duyên đă biện định, sau th́ như trong phần kinh văn nói về Nhất Sanh Bổ Xứ sẽ dẫn chứng, thật nhiều vô lượng, làm sao có thể tính đếm cho được).

 

      Trước hết nói về số lượng, từ sơ phát tâm, sơ phát tâm chính là lũ phàm phu chúng ta đới nghiệp văng sanh. Trong một đời, chúng ta đến Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ là địa vị Sơ Tín Bồ Tát trong Viên Giáo, chẳng dễ dàng! Bồ Tát thuộc địa vị Sơ Tín trong Viên Giáo là hạng người nào? Kinh Di Đà nói là nhất tâm bất loạn. V́ thế, La Thập đại sư dịch là “nhất tâm bất loạn”, dịch hay quá! Nhất tâm bất loạn cũng có ba bậc chín phẩm, chúng ta là hạ hạ phẩm nhất tâm bất loạn. Hạ hạ phẩm nhất tâm bất loạn là mức độ nào? Đoạn Ngũ Lợi Sử, tức là đoạn sạch tám mươi tám Sử thuộc Kiến Hoặc trong tam giới. Nay chúng ta một phẩm cũng chẳng đoạn, hễ văng sanh bèn đoạn, khi văng sanh bèn được A Di Đà Phật đến tiếp dẫn, Phật quang vừa chiếu th́ Thân Kiến, Biên Kiến, Giới Thủ Kiến, Kiến Thủ Kiến, Tà Kiến đều bị Phật quang chiếu rơi rụng, chẳng c̣n nữa, văng sanh như vậy đó! Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, bèn là địa vị Sơ Tín Bồ Tát trong Viên Giáo, địa vị này bằng với quả vị Tu Đà Hoàn trong Tiểu Thừa.

      Pháp môn này được gọi là pháp môn Nhị Lực, bản thân chúng ta niệm Phật, niệm đến mức công phu thành phiến, niệm đến mức dùng câu Phật hiệu trừ sạch vọng tưởng, chấp trước. [Nói là] “niệm trừ sạch” chẳng phải là thật sự đoạn hết mà là [niệm đến mức khiến cho] vọng tưởng, chấp trước chẳng thể khởi tác dụng. Ta niệm A Di Đà Phật, câu nọ gối lên câu kia, vọng tưởng, chấp trước chẳng xen vào được, đó là chẳng xen tạp. V́ thế, công phu phải là chẳng xen tạp, chẳng gián đoạn. Phiền năo có đoạn hay không, chẳng cần quan tâm đến, không khẩn yếu, chỉ cần chúng ta đạt được công phu chẳng gián đoạn, không xen tạp là được rồi, những món phiền năo như vậy chẳng thể khởi lên hiện hành, khi văng sanh th́ mới nắm chắc. Phật đến tiếp dẫn, Phật quang chiếu gội, đó là Phật lực gia tŕ, nâng công phu chúng ta lên tới địa vị Sơ Tín. Ba tư lương, thứ nhất là Tín, [tức là Tín trong] Tín, Nguyện, Hạnh! Chẳng phải là hàng Bồ Tát thuộc địa vị Sơ Tín, làm sao có thể văng sanh cho được? Do đó, tín tâm phải thanh tịnh, tín tâm phải kiên cố!

      Tu hành trong thế gian này, nhất là trong giai đoạn hiện thời, rất khó khăn! Chính ḿnh nhất định phải có chủ tể, phải nắm vững. Chủ tể là ǵ? Chẳng bị kẻ khác lừa gạt! Hiện thời, trong thế gian này, kẻ lừa gạt rất nhiều; đúng là người hiện thời nghe lừa, chẳng nghe khuyên, khuyên họ hăy siêng năng niệm Phật, họ chẳng nghe. Lừa họ làm ǵ đó, họ lập tức làm ngay! Đó là mê hoặc, điên đảo! Trong kinh luận, đức Phật đă buốt ḷng rát miệng khuyên bảo chúng ta, chúng ta chẳng nghe, cứ thích nghe những lời đồn thổi bên ngoài, bó tay! Đó là nghiệp chướng sâu nặng! Học Phật th́ phải ghi nhớ, hăy “y pháp, bất y nhân”! Pháp là ǵ? Kinh điển. Trong hết thảy các pháp, chúng ta chọn lựa kinh Vô Lượng Thọ và kinh A Di Đà, kinh Di Đà có Sớ Sao và Yếu Giải, ba bộ ấy là chỗ quy y chân thật của chúng ta. Một đời này có thể dựa vào ba bộ ấy, chẳng có ai không liễu sanh tử, chẳng có ai không văng sanh, chẳng cần phải làm ǵ khác. Đó mới là thật sự trọn đủ tín tâm, tín tâm thanh tịnh. Kinh Kim Cang nói: “Tín tâm thanh tịnh, tắc sanh Thật Tướng” (Tín tâm thanh tịnh, bèn sanh Thật Tướng). Thật Tướng là bản tánh, “tắc sanh Thật Tướng” là kiến tánh. Tín tâm thanh tịnh bèn kiến tánh. Do vậy, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới thảy đều chứng quả. Tiểu Thừa là Sơ Quả, c̣n trong pháp Đại Thừa sẽ là địa vị Sơ Tín Bồ Tát trong Viên Giáo.

      “Dĩ chí địa tận” (cho đến hết các địa vị thuộc về Thập Địa Bồ Tát), Địa () là Địa Thượng Bồ Tát (đă chứng từ Sơ Địa trở lên). Đến hết các địa vị thuộc Địa Thượng Bồ Tát, sẽ là Đẳng Giác Bồ Tát. “Tùng sơ tâm dĩ chí địa tận” chính là như Đại Thế Chí Bồ Tát đă nói trong kinh Lăng Nghiêm: “Dữ ngũ thập nhị đồng luân” (Cùng với những người thuộc năm mươi hai địa vị cùng hàng), “đồng luân” (同倫) là đồng chí, [tức là] chí đồng đạo hợp. “Năm mươi hai” ở đây là từ sơ tâm cho đến hết Thập Địa, đạt đến Đẳng Giác là năm mươi mốt địa vị, lại lên cao hơn là Diệu Giác, Diệu Giác bèn thành Phật, gồm năm mươi hai địa vị. “Năm mươi hai người ấy” chẳng phải là chỉ có năm mươi hai người, mà là năm mươi hai loại, đều nương theo kinh Vô Lượng Thọ và kinh A Di Đà, đều niệm một câu A Di Đà Phật mà thành tựu. “Bất giả phương tiện, tự đắc tâm khai”, nghĩa là các Ngài chẳng cần đến những pháp môn khác, chỉ trơ trọi một câu A Di Đà Phật, từ sơ phát tâm cho đến viên thành Phật đạo, chẳng cần dùng phương pháp thứ hai, nên Ngài là tổ sư đời thứ nhất của Tịnh Độ Tông! Chư vị phải ghi nhớ: Đại Thế Chí Bồ Tát là tổ sư đời thứ nhất của Tịnh Độ Tông là nói theo phương diện nào? Nói theo toàn thể pháp giới. Tận hư không khắp pháp giới, đối với pháp môn Niệm Phật, Ngài là bậc nhất, chẳng ai vượt trội Ngài. Trong thế giới Sa Bà, vị tổ sư đầu tiên đề xướng pháp môn Niệm Phật là ai? Phổ Hiền Bồ Tát. Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh, bộ kinh được giảng đầu tiên là Hoa Nghiêm. Hoa Nghiêm đến cuối cùng, Phổ Hiền Bồ Tát dùng mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc. V́ thế, đề xướng pháp môn Niệm Phật [trong thế giới Sa Bà] là Phổ Hiền Bồ Tát. Tổ sư đời thứ nhất của Tịnh Độ Tông trong thế giới Sa Bà là Phổ Hiền Bồ Tát. Tại Trung Hoa, tổ sư đời thứ nhất đề xướng niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ là Huệ Viễn đại sư. Đối với tổ sư đời thứ nhất, cả ba vị đều là đời thứ nhất, một là đời thứ nhất trong pháp giới, vị kia là đời thứ nhất trong Sa Bà, vị cuối cùng là đời thứ nhất tại Trung Hoa.

      Số lượng nhiều đến nỗi chẳng có cách nào tính toán, “tiền như giáo khởi trung biện” [nghĩa là] trong phần Giáo Khởi Nhân Duyên trước kia đă nói rất cặn kẽ, trong phần sau đến đoạn Bổ Xứ Bồ Tát sẽ lại giảng, sẽ lại thuật bày, giới thiệu những vị Bồ Tát đó. “Thậm đa vô lượng, hà khả sổ kế” (Rất nhiều vô lượng, làm sao có thể tính đếm cho được). Số lượng Bồ Tát nhiều quá, chẳng có cách nào tính toán!

 

      (Sao) Công đức giả, Đại Bổn Phật tán bỉ quốc Bồ Tát chủng chủng công đức, vi nhị thập tam dụ.

      () 者,大 德,為 喻。

      (Sao: “Công đức” là như trong kinh Đại Bổn, để tán thán các thứ công đức của hàng Bồ Tát cơi ấy, đức Phật đă dùng hai mươi ba tỷ dụ).

 

      Ở đây nói là “hai mươi ba tỷ dụ”, nhưng chương Chân Thật Công Đức trong bản hội tập của lăo cư sĩ Hạ Liên Cư chẳng có hai mươi ba tỷ dụ, chỉ có mười mấy tỷ dụ. Hai mươi ba tỷ dụ ở chỗ nào? Trong Đại A Di Đà Kinh của ông Vương Long Thư! Xác thực là Liên Tŕ đại sư đă trích dẫn từ bản của Vương Long Thư. Trong chú giải kinh Vô Lượng Thọ, lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ nói: Trong Sớ Sao, [khi dẫn kinh Đại Bổn], quá nửa là Liên Tŕ đại sư đă trích dẫn từ bản của ông Vương Long Thư, cụ nêu ra sự thật này cũng nhằm chứng tỏ việc hội tập rất quan trọng. V́ có những người có thành kiến đối với chuyện hội tập, Liên Tŕ đại sư là bậc tổ sư của cả một thế hệ, trước tác Sớ Sao đă trích dẫn [bản hội tập của Vương Long Thư] rất nhiều, có thể thấy là Ngài hoàn toàn chẳng phản đối bản hội tập. Ở đây, nêu đại lược mấy thứ, chẳng hoàn toàn nêu trọn, nhằm tán thán công đức của Bồ Tát. Thứ nhất…

 

      (Sao) Nhất, kiên cố bất động, như Tu Di sơn.

     () 一、堅 動,如 山。

      (Sao: Một là kiên cố bất động như núi Tu Di).

 

      Nói thật ra, các công đức do những vị Bồ Tát trong Tây Phương Cực Lạc thế giới đă thành tựu cũng là thành tựu trong tương lai của chúng ta. Chúng ta muốn tương lai đạt thành tựu, mà nếu hiện tại chẳng tu, lấy đâu ra thành tựu? Hiện tại phải tu, chẳng thể hoàn toàn dựa vào sự gia tŕ của A Di Đà Phật. Nếu bản thân quư vị chẳng có chút ǵ, A Di Đà Phật có muốn gia tŕ cũng chẳng gia tŕ được! Quư vị phải có đôi chút, A Di Đà Phật mới có thể gia tŕ. Trong phần trước, chúng tôi cũng thường nhắc nhở ư nghĩa này, Phật Di Đà gia tŕ là gia tŕ tương đối, [nghĩa là] chúng ta có một phần sức mạnh th́ Ngài gia tŕ cho chúng ta một phần, chúng ta có hai phần sức mạnh th́ sẽ được Ngài gia tŕ hai phần. Ví như chúng ta niệm Phật đến mức công phu thành phiến, nếu chưa đến mức ấy, A Di Đà Phật chẳng gia tŕ được, chẳng gia tŕ sẽ không thể văng sanh. V́ lẽ đó, người niệm Phật rất nhiều, một vạn người niệm Phật, khó được dăm ba kẻ văng sanh, do nguyên nhân nào? Do chính quư vị niệm Phật chẳng đủ công phu, Phật lực chẳng thể gia tŕ được! Ắt là quư vị phải đạt tới một tiêu chuẩn th́ Ngài mới có thể gia tŕ. Bản thân chúng ta niệm đến mức công phu thành phiến, tức là một câu Phật hiệu thật sự có thể chế phục phiền năo, khi Ngài đến tiếp dẫn, do Phật lực gia tŕ, sẽ khiến cho công phu thành phiến được nâng cao lên thành nhất tâm bất loạn.

       La Thập đại sư dịch kinh Di Đà chẳng sai! Quả thật là “nhất tâm bất loạn”, nhưng chẳng phải là chúng ta chứng đắc nhất tâm bất loạn trong một đời này, mà là do thần lực của Phật Di Đà gia tŕ, khi văng sanh xác thực là nhất tâm bất loạn. Nếu không, làm sao có thể dự vào địa vị Bồ Tát? V́ quư vị đến nơi đó, nhất định là địa vị Sơ Tín Bồ Tát trong Viên Giáo. Chẳng thể nào không đạt đến địa vị Sơ Tín! [Nếu chẳng đạt], sẽ chẳng có tư cách đến Tây Phương Cực Lạc thế giới. Sơ Tín vị Bồ Tát là hạ phẩm nhất tâm bất loạn, v́ Tín vị có tất cả mười địa vị, từ Sơ Tín, Nhị Tín, Tam Tín cho đến địa vị Thất Tín là Sự nhất tâm viên măn. Lên cao hơn, Sơ Trụ là Lư nhất tâm bất loạn.

      Do vậy có thể biết, chúng ta niệm Phật, trong tâm chớ nên dễ ngươi. Chẳng đạt đến công phu thành phiến, chẳng thể văng sanh. Nhất định phải đoạn phiền năo, nhất định phải tu tập tích lũy công đức. Công đức là ǵ? Công đức khác với phước đức. Nay chúng ta bỏ ra tiền bạc đến khắp nơi bố thí, làm chuyện tốt đẹp. Đó là tu phước, tu phước chẳng thể văng sanh. Văng sanh cần đến công đức, công đức là ǵ? Tâm thanh tịnh. Có phải là phiền năo thật sự giảm bớt hay không? Vọng niệm có ít đi hay không? Phiền năo vọng niệm mỗi ngày ít hơn, đó là công đức. Nhớ Phật, niệm Phật chẳng gián đoạn, đó là công đức. V́ thế, “chẳng gián đoạn, chẳng xen tạp” trọng yếu hơn bất cứ điều ǵ khác. Gián đoạn và xen tạp th́ lại phải luân hồi trong lục đạo, quư vị nói c̣n làm sao được nữa!

Chúng ta liễu giải chân tướng sự thật này, phải học theo Bồ Tát “kiên cố bất động”. Tín tâm kiên cố, nguyện tâm kiên cố, sẽ quyết định có thể văng sanh. Không chỉ là pháp thế gian phải buông xuống, mà pháp xuất thế gian cũng phải buông xuống. Ngàn kinh vạn luận đều phải buông xuống. Các kinh điển có tác dụng khiến cho kẻ chẳng tin sẽ sanh khởi ḷng tin, nên họ dùng các kinh ấy. Chúng ta là những kẻ đă tin, chẳng cần đến nữa! Hiện thời, tại đạo tràng do chúng tôi đă lập ở bên Mỹ, gần đây nhất tôi mua bốn bộ Đại Tạng Kinh; ở bên đó, chúng tôi đă có hai bộ. Ở giảng đường bên đó, chính chúng tôi có in một bộ Đại Tạng Kinh, cho nên có tất cả bảy bộ Đại Tạng Kinh, phiên bản khác nhau, tôi vẫn đang tiếp tục thâu thập. Không chỉ thâu thập Đại Tạng Kinh, tôi c̣n thâu thập Tứ Khố Toàn Thư, mua cả đống sách, rốt cuộc để làm ǵ? Để làm cho kẻ khác giác ngộ, chẳng phải là để cho chính ḿnh sử dụng! Nhường cho người khác, nhưng họ lại chẳng ngộ được, cho nên chúng ta vẫn phải giúp họ khai ngộ, phải giới thiệu cặn kẽ những thứ ấy với người ngoại quốc.

      Chúng tôi làm công tác này, trước hết là khiến cho người ngoại quốc ngộ, khiến cho người ngoại quốc hoan hỷ, sau đấy mới dần dần đem những tài liệu giáo dục ấy chuyển đến Đại Lục để độ người Trung Quốc, đi một ṿng lớn như vậy, dạy người ngoại quốc trước! V́ thế, toàn tâm toàn lực làm công tác này. Công tác này là bỏ ḿnh v́ người, kinh Địa Tạng có nói: “Ta chẳng vào địa ngục, ai sẽ vào địa ngục?” Hy sinh phẩm vị văng sanh của chính ḿnh để giúp đỡ người khác, nhưng sự hy sinh ấy có hạn độ, tức là hạ hạ phẩm văng sanh, là Sơ Tín, chúng ta nhất định phải làm được điều này. Chớ nên làm đến nỗi chính ḿnh chẳng thể văng sanh, vậy là không được rồi, chớ nên!

      Trí Giả đại sư suốt đời hoằng pháp lợi sanh, Ngài là tổ sư của tông Thiên Thai. Khi văng sanh, học tṛ hỏi Ngài thuộc phẩm vị nào, Ngài đáp: “Nếu ta chẳng lănh chúng, cũng chẳng giảng kinh, thuyết pháp, chẳng làm những chuyện phụ thuộc, xen tạp, sẽ là thượng thượng phẩm văng sanh. V́ lănh chúng, hoằng pháp lợi sanh, nên chỉ văng sanh trong địa vị Ngũ Phẩm”. Đấy là hy sinh phẩm vị văng sanh của chính ḿnh! Đáng giá lắm! V́ sao? Hy sinh phẩm vị văng sanh của chính ḿnh để giúp nhiều người văng sanh. Do vậy, Bồ Tát phát tâm lợi ích chúng sanh, chẳng nhằm cầu lợi ích cho chính ḿnh, chỉ cần chính ḿnh có thể văng sanh, hạ hạ phẩm là được rồi! V́ lẽ đó, tín tâm, nguyện tâm và sự chấp tŕ danh hiệu của chúng ta phải là kiên cố bất động như núi Tu Di!

 

      (Sao) Nhị, trí huệ minh liễu, như minh nhật nguyệt.

      () 二、智 了,如 月。

(Sao: Hai là trí huệ sáng tỏ, như mặt trời, mặt trăng chiếu sáng).

 

      Pháp môn có thể nói là trí huệ bậc nhất. Cớ sao nói là trí huệ bậc nhất? Trong hết thảy các vị Bồ Tát, Văn Thù Bồ Tát trí huệ bậc nhất, Ngài tuyển chọn pháp môn này. Phổ Hiền Bồ Tát đại hạnh bậc nhất, nguyện hạnh bậc thứ nhất, Ngài cũng tuyển chọn pháp môn này. Đối với pháp môn được chọn lựa bởi đại trí, đại nguyện, đại hạnh, nay chúng ta cũng khăng khăng một dạ chọn lựa pháp môn này, quư vị chẳng phải là trí huệ, đại nguyện, đại hạnh th́ là ǵ? Quư vị là những nhân vật bậc nhất như Văn Thù, Phổ Hiền, tuyệt vời thay! Thật sự chẳng thể nghĩ bàn! Nếu chẳng phải là đại trí huệ, sẽ chẳng thể tin tưởng pháp môn này. V́ vậy, pháp môn này được gọi là pháp khó tin. Trong sự biểu thị pháp của kinh này, Tiểu Thừa là Xá Lợi Phất, Đại Thừa là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, đều là trí huệ bậc nhất th́ mới chọn lựa pháp môn này.

 

      (Sao) Tam, quảng đại như hải, xuất công đức bảo cố.

     () 三、廣 海,出 故。

      (Sao: Ba là rộng lớn như biển v́ sanh ra của báu công đức).

 

      Trí huệ tỷ dụ Văn Thù, “quảng đại như hải” là tỷ dụ Phổ Hiền. Phổ Hiền Bồ Tát đại nguyện đại hạnh, “tâm bao thái hư, lượng châu sa giới”, chúng ta phải học điều này. Tâm lượng phải rộng lớn, phải biết thời gian chúng ta ở trong thế gian này rất ngắn ngủi, tạm bợ, phải biết trong thế gian này thứ ǵ cũng đều là giả, thứ ǵ cũng chẳng mang theo được! Người thật sự niệm Phật, tùy duyên sống qua ngày trong thế gian này là được rồi, chớ nên so đo, chớ nên tranh chấp, nhất tâm nhất ư niệm Phật, vài hôm nữa chúng ta đến thế giới Cực Lạc. Chẳng có tâm lượng như vậy th́ cũng là chướng ngại rất lớn. Trong thế gian này, trong tâm bỏ sạch hết thảy các pháp. Hết thảy các pháp nhằm lợi ích chúng sanh, giúp đỡ chúng sanh, giúp họ học Phật, giúp họ niệm Phật, chúng ta có thể tận tâm tận lực công đức viên măn.

      Hiện thời, đạo tràng của chúng ta tuy nhỏ, nhưng công đức xác thực là niệm niệm viên măn, v́ sao? Tâm và lực đều dốc trọn hết. Chúng ta có mười phần năng lực, chỉ dùng chín phần, đó là chẳng viên măn; nay chúng ta tâm lẫn lực thảy đều trọn hết. Đó là đúng pháp, tâm địa thanh tịnh. Có đồng tu nói với tôi, những đạo tràng khác đều cậy tín đồ đi hóa duyên, đi quyên mộ, làm đủ thứ chuyện tốt. Thưa cùng chư vị, công đức ấy chẳng viên măn, v́ sao? Quư vị hăy nghĩ tới Bàng cư sĩ thuở trước. Bàng cư sĩ là bậc Bồ Tát tái lai, chẳng phải là phàm nhân. Trong Lục Tổ Đàn Kinh có lời thọ kư, nói sau này sẽ có hai vị đại Bồ Tát xuất hiện trong thế gian này để chấn hưng Tông Môn một lần nữa. Bàng cư sĩ là một trong hai vị đại Bồ Tát ấy, Ngài dạy chúng ta một câu: “Chuyện tốt chẳng bằng vô sự”. V́ sao thế giới hiện thời loạn như thế? Người tốt quá nhiều, chuyện tốt quá nhiều! Mỗi một người tốt đều làm chuyện tốt, khiến cho thiên hạ đại loạn. V́ thế, chuyện ǵ là chuyện tốt thật sự? Vô sự là chuyện tốt. Có những đồng tu đưa tiền đến đây, chúng ta chẳng có cách nào khác, phải thay họ làm chuyện tốt. Nếu họ không đưa tới, chúng ta chẳng làm, chẳng phải là càng tốt hơn ư? Hai đạo tràng của chúng ta đều tuân theo nguyên tắc này, Giản cư sĩ ở bên đó đă một đôi lần nói chuyện thật lâu với tôi, tôi bảo ông ta hăy vĩnh viễn giữ ǵn một nguyên tắc: Mỗi tháng thâu vào nhiều liền làm nhiều, thâu ít làm ít, không ai tặng tiền th́ không làm, tự tại lắm! Tuyệt đối đừng nên đi hóa duyên, tuyệt đối đừng hỏi xin tiền người khác, đó là phan duyên, chẳng phải là tùy duyên. Có người tặng tiền nhiều, chúng ta làm nhiều chuyện tốt, chúng sanh có phước, chúng ta nhọc nhằn. Không ai tặng tiền, chúng sanh chẳng có phước, chúng ta tự tại thanh tịnh, chúng ta chẳng có chuyện ǵ! V́ thế, tùy duyên, đừng phan duyên, thân tâm chẳng có gánh nặng, sung sướng lắm! Thân tâm chẳng có vướng mắc!

      Ở đây là xuất sanh vô lượng vô biên công đức bảo, công đức bảo tạng sanh từ nơi đây. V́ thế, tâm lượng phải rộng lớn, chớ nên có giới hạn, chớ nên có phân biệt, chớ nên có chấp trước, thanh tịnh, b́nh đẳng, giác chứ không mê, chánh chứ không tà, tịnh mà chẳng nhiễm, giác, chánh, tịnh, đó là Tam Bảo! Đấy là “xuất công đức bảo”, Tam Bảo xuất sanh. Có Tam Bảo chính là sanh ra vô lượng vô biên công đức bảo tạng. Của báu thật sự chính là điều này, chư vị phải ghi nhớ. Trong tựa đề kinh Vô Lượng Thọ có nói “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, đó là Tam Bảo! Trong cuộc sống, chúng ta xử sự, đăi người, tiếp vật, tu ǵ? Tu Tam Bảo. Nhưng tâm lượng nhỏ hẹp th́ Tam Bảo chẳng thể xuất hiện; dẫu có, chẳng thể hiển lộ! Ắt phải là tâm lượng quảng đại, bỏ sạch vọng tưởng, chấp trước, Tự Tánh Tam Bảo sẽ hiển lộ. Hôm nay chúng tôi giảng tới chỗ này.

      A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa

Phần 99 hết



[1] Theo Thành Duy Thức Luận, Tứ Gia Hạnh gồm bốn pháp là Noăn Pháp, Đảnh Pháp, Ấn Thuận Nhẫn Pháp và Thế Đệ Nhất Pháp.

[2] Năm vị ấy thường gọi là Ngũ Tỳ Kheo (Pancaka Bhadravargiya, Ngũ Hiền Giả) chính là Kiều Trần Như (Ājñātakauṇḍinya, dịch nghĩa là Liễu Bổn Tế), Bạt Đề (Bhaddiya, dịch nghĩa là Tiểu Hiền), Bạt Ba (Vappa, dịch nghĩa là Bá Chủng), Ma Ha Nam (Mahānāma, dịch nghĩa là Đại Danh), A Thuyết Thị (Assaji, dịch nghĩa là Mă Thắng). Tùy theo cách phiên âm sai khác mà danh hiệu các Ngài được ghi hơi khác nhau trong các kinh luận, như kinh Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả ghi là Kiều Trần Như, Bạt Đà La Xà, Ma Ha Na Ma, Bạt Ba, A Xá Bà Xà, luật Tứ Phần ghi là Kiều Trần Như, Bạt Đề, Ma Ha Na Nam, Bà Phu, A Thấp Tỵ v.v… Ngài Kiều Trần Như thuộc chủng tánh Bà La Môn, tinh thông Phạn điển ngay từ khi c̣n rất trẻ, nên được bổ làm quan cố vấn của Tịnh Phạn Vương. Tôn giả Phú Lâu Na là cháu gọi ngài Kiều Trần Như bằng cậu.

[3] Lục Hợp Thái là một loại vé số lưu hành tại Hương Cảng, thường được biết dưới tên tiếng Anh là Mark Six, do Hương Cảng Tưởng Khoán Quản Lư Cục (Cục quản lư xổ số của Hương Cảng) phát hành, do Hương Cảng Trại Mă Hội (hội đua ngựa Hương Cảng) chịu trách nhiệm chính. Vé được xổ vào chín giờ ba mươi tối hằng tuần, thường là thứ Ba, thứ Năm và Chủ Nhật. Người chơi đoán sáu số từ 1 đến 49.

[4] Toán Học cổ đại của Trung Hoa thường được gọi là Cửu Chương v́ kiến thức Toán Học đă được hệ thống hóa và tổng hợp tương đối hoàn chỉnh bởi tác phẩm Cửu Chương Toán Thuật (tác phẩm này thường được coi là đă hoàn thiện vào triều đại nhà Hán). Không rơ ai là tác giả của tác phẩm này, chỉ biết người chỉnh lư là Trương Thương và Cảnh Thọ Xương. Tác phẩm này được chú giải rất nhiều, nổi tiếng nhất là các bản chú giải của Lưu Huy, Lư Thuần Phong, Giả Hiến, Dương Huy, Lư Hoàng v.v... Do tác phẩm này được chia thành chín chương, chép thành chín quyển, nên mới thường gọi là Cửu Chương. Hiện thời, bản lưu hành phổ biến nhất được dựa theo bản in trong niên hiệu Gia Định đời Tống. Bộ sách này gồm hai trăm bốn mươi sáu bài toán, chia thành hai trăm lẻ hai thuật toán (algorithms), bao gồm chín thể loại như sau:

1) Phương Điền (方田): Giảng về cách tính toán diện tích ruộng đất và phân số.

2) Túc Mễ (粟米): Cách tính toán để hoán chuyển các đơn vị đo lường lương thực, và đề cập nhiều vấn đề thuộc về tỷ lệ.

3) Suy Phân (衰分): Cách tính toán các quy tắc tỷ lệ thuận, tỷ lệ nghịch, tam suất v.v…

4) Thiếu Quảng (少廣): Cách rút căn bậc hai và bậc ba.

5) Thương Công (商功): Cách tính thể tích, cách tính toán vật liệu khi xây dựng các công tŕnh lớn.

6) Quân Thâu (均輸): Cách tính thuế khóa và các vấn đề tỷ lệ phức tạp, lăi đơn, lăi kép v.v...

7) Doanh Bất Túc (盈不足): Cách giải các hệ thống phương tŕnh tuyến tính, đặc biệt liên quan đến vấn đề thừa thiếu. Một bài toán điển h́nh là: “Nhiều người cùng mua hàng, nếu mỗi người trả bảy đồng th́ tổng số tiền thiếu mất bốn đồng, mỗi người trả tám đồng th́ tổng số tiền thừa ra ba đồng. Hỏi có mấy người mua, tổng số tiền phải trả là bao nhiêu?” (Đáp số là bảy người mua và món tiền phải trả là năm mươi ba đồng). Hiện thời, để giải bài toán này, có thể đơn giản dùng hệ phương tŕnh {7x = y - 4; 8x= y+3}, trong đó x là số người mua, y là tổng số tiền phải trả, nhưng đối với Toán Học Trung Hoa thời đó, chưa có cách dùng ẩn số và các kư hiệu như trong Toán Học Tây Phương, để giải bài toán này, cổ nhân đă áp dụng thuật toán khá độc đáo và hơi khó hiểu, nhưng giải quyết vấn đề rất nhanh.

8) Phương Tŕnh (方程): Cách giải hệ thống phương tŕnh bậc nhất và cách cộng trừ các số âm và dương.

9) Câu Cổ (勾股): Các ứng dụng của định lư Pythagore (trong một tam giác vuông, b́nh phương cạnh huyền bằng tổng số của b́nh phương hai cạnh c̣n lại, nghĩa là a2 + b2= c2).

Thật ra, Toán Học cổ Trung Hoa có đến mười bộ sách toán (thường gọi là Toán Kinh Thập Thư) gồm Châu Bễ Toán Kinh, Cửu Chương Toán Thuật, Hải Đảo Toán Kinh, Tôn Tử Toán Kinh, Trương Khâu Kiến Toán Kinh, Ngũ Tào Toán Kinh, Ngũ Kinh Toán Thuật, Tập Cổ Toán Kinh, Số Thuật Kư Di và Hạ Hầu Dương Toán Kinh, nhưng Cửu Chương Toán Thuật nổi tiếng nhất, chi tiết nhất, có thuật toán và nội dung phong phú nhất, văn phong rành mạch, khúc chiết nhất, nên được coi là sách toán trọng yếu nhất. Sách này được truyền sang Đại Hàn và Nhật Bản, tạo ảnh hưởng to lớn và khơi gợi hứng thú cao độ trong việc nghiên cứu Toán Học tại hai quốc gia ấy. Sách này c̣n được dùng làm tài liệu giáo khoa chủ yếu cho các quan đảm nhiệm dạy Toán trong Quốc Tử Giám đời Đường.

[5] Hán ngữ hiện thời gọi Phương Tŕnh (Equation) là Phương Tŕnh Thức (方程式), nhưng chúng ta vẫn gọi là Phương Tŕnh.

[6] Tên gọi các chương của Cửu Chương trong sách Diễn Nghĩa hơi khác, có lẽ v́ chép sai, hoặc do sử dụng các bản in khác nhau, chẳng hạn Túc Mễ được sách Diễn Nghĩa chép thành Túc Bố, hoặc gọi bằng danh từ khác như Doanh Nục (có nghĩa là thừa thiếu, đồng nghĩa với Doanh Bất Túc). Ở đây, thật ra Thiếu Quảng mới là rút căn bậc hai (square root). Câu Cổ là c̣n gọi là Cao Thương hoặc Tất Thị Tam Nguyên Số (Tất Thị là phiên âm chữ Pythagore), chính là định lư b́nh phương cạnh huyền của một tam giác vuông bằng tổng số b́nh phương của hai cạnh kia. Mở rộng ra, những con số Câu Cổ là những số thỏa măn điều kiện ấy, chẳng hạn (3, 4, 5) hoặc (8, 5, 11) v.v…

[7] Lạc Hoằng (tên gọi đầy đủ là Lạc Hạ Hoằng, 156-87 trước Công Nguyên, Lạc Hạ là họ kép), tự là Trưởng Công, người xứ Lăng Trung, Ba Quận (Tứ Xuyên), sống vào thời Tây Hán, là một nhà thiên văn và toán học lừng lẫy. Thoạt đầu, ông không ra làm quan, chuyên tâm nghiên cứu Thiên Văn và Triết Học. Ông chế ra dụng cụ quan sát các tinh tú để tính lịch pháp gọi là Hỗn Thiên Nghi (Armillary sphere) có h́nh cầu, có nhiều ṿng đồng bao quanh để tính toán quỹ đạo của các tinh cầu. Vào năm Thái Sơ nguyên niên (104 trước Công Nguyên), Hán Vũ Đế nghe danh, xuống chiếu triệu ông đến Trường An để tu chỉnh lịch pháp. Ông hợp sức cùng với Đường Đô, Tư Mă Thiên, Tiên Ư Vọng v.v… soạn ra bộ lịch Thái Sơ, cải tiến cách tính lịch của Chuyên Húc đă lỗi thời của nhà Tần, tiến hành cải cách lịch pháp một cách hệ thống và hợp lư. Ông đề xướng nhiều cách tính lịch mới mẻ, chẳng hạn ông đề xướng bỏ quan niệm một năm gồm mười tháng trong lịch Chuyên Húc, chia một năm thành mười hai tháng và hai mươi bốn tiết Khí, ấn định bốn mùa theo đúng thứ tự và độ dài, quy định lại ngày đầu năm (Chánh Sóc), biến lịch Trung Hoa thành Âm Dương Lịch, giúp cho người dân chỉ coi lịch để tính toán thời điểm nông vụ, không cần phải tốn công quan sát thiên tượng để tiên đoán khí hậu như trước kia. Điểm đặc sắc của lịch Thái Sơ là ấn định một năm có 365 ngày, nhưng mỗi tháng tối đa chỉ có ba mươi ngày, nên mới sử dụng năm nhuần để hiệu chỉnh những sai lệch. Học thuyết Hỗn Thiên nhằm lư giải vũ trụ của ông (với quan điểm trái đất là trung tâm vũ trụ) về sau được Trương Hành hoàn thiện trở thành một học thuyết chánh yếu về vũ trụ quan của Trung Hoa măi cho tới đời Thanh.

[8] Số Lư ở đây là lư luận về số học, tức suy luận Toán Học thuần túy, không phải là Lư Số. Lư Số là thuật bói toán, tiên đoán vận mạng dựa trên Âm Dương và Ngũ Hành.

[9] Nhất Hạnh (638-727) là một nhà toán học và lịch pháp lừng danh của Trung Hoa, đồng thời là một vị tổ sư của Đông Mật Trung Hoa. Ngài tên thật là Trương Toại, pháp hiệu Kính Hiền, tôn hiệu là Đại Huệ thiền sư, người xứ Xương Lạc, Ngụy Châu (tỉnh Hà Nam hiện thời), c̣n được gọi là Nhất Hạnh A Xà Lê. Ngài xuất thân từ thế gia vọng tộc (ông cố chính là quan đại thần Trương Công Cẩn đời Đường Thái Tông, ông nội là Trương Đại Tố làm quan đến chức Môn Hạ Tỉnh Đông Đài Xá Nhân, cha là huyện lệnh huyện Vũ Công). Ngài tinh thông tiếng Phạn, Toán Học, lịch pháp, đặc biệt là Thiên Văn Học. Năm hai mươi mốt tuổi, khi cha mẹ đều khuất bóng, do nghe ngài Hoằng Cảnh thuộc tông Thiên Thai giảng pháp, bèn dấy lên ư niệm xuất gia, xin quy y, xuống tóc với ngài Phổ Tịch ở Tung Sơn. Do thâm nhập Nhất Hạnh tam-muội, nên c̣n có hiệu là Nhất Hạnh. Về sau, Ngài chuyên học tập kinh điển nhà Phật cũng như nghiên cứu Thiên Văn, Toán Học tại Tung Sơn và chùa Ngọc Tuyền. Năm Khai Nguyên thứ 5 (711), Đường Huyền Tông xuống chiếu triệu hồi Ngài về Trường An phụ tá ngài Thiện Vô Úy dịch kinh Đại Nhật. Ngài c̣n học Mật Pháp với ngài Kim Cang Trí, được đại sư truyền quán đảnh. Ngài lại làm Bút Thọ trong việc dịch thuật các bộ kinh trọng yếu của Kim Cang Giới Mạn Đà La như Kim Cang Tụng Niệm Pháp, Thất Câu Chi Đà La Ni… Sau đó lại cầu pháp với Bất Không đại sư, học kinh Kim Cang Đảnh. Có thể nói Ngài là người đầu tiên được truyền thừa đồng thời hai hệ thống Mật Pháp trong lịch sử Trung Hoa. Năm 713, Đường Huyền Tông sai Ngài cải cách lịch pháp, biên soạn bộ Đại Diễn Lịch với sự trợ giúp của Trương Thuyết, Trần Huyền Cảnh v.v... Ngài thiết kế nhiều dụng cụ thiên văn như Hoàng Đạo Du Nghi, Hỗn Tượng, Phục Củ v.v.. đo lường quỹ đạo các hằng tinh, sửa đổi hiệu chỉnh lịch pháp từ đời Hán cho khớp với vận hành của các tinh tú, phát hiện hiện tượng tuế sa (precession). Năm Khai Nguyên 12 (723), Ngài chủ tŕ công cuộc đo lường bóng mặt trời trên quy mô lớn, phía Bắc đến Thiết Lặc (vùng phụ cận kinh đô Ulan Bator của Mông Cổ hiện thời), phía Nam đến Giao Châu (miền Bắc Việt Nam), tính ra độ dài của kinh tuyến (nhằm có số lượng chánh xác về thiên văn để hiệu chỉnh lịch pháp). Riêng về Mật Tông, Ngài viết bộ Đại Nhật Kinh Sớ (ghi chép những lời giảng giải của đại sư Thiện Vô Úy) được coi là tác phẩm chú giải quan trọng nhất để hiểu giáo nghĩa Mật Tông, đặc biệt là Thai Tạng Giới Mạn Đà La.

[10] Theo Huệ Lâm Âm Nghĩa: “Ưu-ba-ni-sa-đà phần theo cách tính toán trong tiếng Phạn là số nhỏ nhất, Đại Luận giải thích là vi tế được phân chia tới cực hạn… Giảng nghĩa là Vi Tế, nhỏ đến gần bằng Hư Lân th́ gọi là Ổ-ba-ni-sát-đàm”. Hư Lân tức là Hư Lân Trần, là vi trần chia đến mức nhỏ nhất, nếu chia chẻ ra nữa sẽ thành hư không.

[11] Lẻ là một đơn vị đo lường, thường hiểu là tương đương với một decilitter (dl) trong đơn vị đo lường hiện thời. Khi chỉ đơn vị đo lường, chữ phải đọc là Cáp (không đọc là Hợp hoặc Hiệp như trong cách đọc thông thường).

[12] Khi ấy, Tổng Thống Đài Loan là Lư Đăng Huy.