|
A Di Đà Phật bách tụng (Một trăm bài kệ tán thán A Di Đà Phật)
Xưa kia, ngài Triệt Ngộ thiền sư dùng các giáo nghĩa trong tông thừa viết ra một trăm bài kệ niệm Phật, văn từ và nghĩa lư đều viên diệu khiến người khác khai ngộ được tự tâm. Bạn tôi là Ḥa Thượng Dật Nhân khi sưu tập các pháp ngữ Tịnh Độ xưa nay để soạn quyển Tây Phương Công Cứ này liền căn cứ vào các nghĩa trọng yếu trong nhân địa, quả vị của đức Phật A Di Đà mà soạn thành trăm bài tụng, mỗi bài bắt đầu bằng câu A Di Đà Phật, ngơ hầu tạo lợi lạc cho kẻ sơ cơ. Những bài tụng này khen ngợi đức A Di Đà trong lúc tu nhân đă bỏ nước xuất gia, phát ra bốn mươi tám nguyện, tu trọn lục độ vạn hạnh cho đến khi viên măn ba Giác, chứng được mười ba danh hiệu. Sau đấy, c̣n khen ngợi sơ lược về sự trang nghiêm của cơi nước, Phật từ độ khắp, lợi ích của pháp môn Tịnh Độ. Dẫu văn từ nghĩa lư kém xa một trăm bài kệ niệm Phật của Tổ Triệt Ngộ, nhưng những lời nguyện và danh hiệu trong những bài tụng này rất có ích, giúp cho kẻ sơ cơ dễ bề ghi nhớ nên tôi đặc biệt đăng kèm vào đây. Thích Ấn Quang ghi
1. A Di Đà Phật, Nhân địa quả vị Công đức khó nêu Đành tạm điểm xuyết
2. A Di Đà Phật Vô lượng kiếp trước Làm kim luân vương Nhân từ thương dân
3. A Di Đà Phật Xem thường phù vinh Bỏ nước ĺa ngôi Mong chứng Đại Hùng
4. A Di Đà Phật Lễ Thế Tự Tại Xả tục xuất gia Pháp giới măi nhờ
5. A Di Đà Phật Pháp hiệu Pháp Tạng Nêu lên một pháp Bao hàm vô lượng
6. A Di Đà Phật Đối Phật phát nguyện Đại bi hoằng từ Ân đức trọn khắp
7. A Di Đà Phật Đệ nhất đại nguyện: Nguyện trong nước tôi Không tam ác đạo
8. A Di Đà Phật Đệ nhị đại nguyện: Nước tôi thọ hết Chẳng đọa ác đạo
9. A Di Đà Phật Đệ tam đại nguyện: Trời, người nước tôi Thân chơn kim sắc
10. A Di Đà Phật Đệ tứ đại nguyện: Trời, người nước tôi H́nh dáng giống nhau
11. A Di Đà Phật Đệ ngũ đại nguyện: Trời, người nước tôi Đều biết túc mạng
12. A Di Đà Phật Đệ lục đại nguyện: Trời người nước tôi Thiên nhăn thấy khắp
13. A Di Đà Phật Đệ thất đại nguyện: Trời người nước tôi Thiên nhĩ nghe khắp
14. A Di Đà Phật Đệ bát đại nguyện: Trời, người nước tôi Đều biết tha tâm
15. A Di Đà Phật Đệ cửu đại nguyện: Trời người nước tôi Thần túc vô ngại
16. A Di Đà Phật Đệ thập đại nguyện: Trời người nước tôi Chẳng tham chấp thân
17. A Di Đà Phật Đại nguyện mười một: Trời người nước tôi Trụ Định, chứng Diệt
18. A Di Đà Phật Đại nguyện mười hai: Thân tôi quang minh Chẳng có hạn lượng
19. A Di Đà Phật Đại nguyện mười ba: Thân tôi, thọ mạng Chẳng có hạn lượng
20. A Di Đà Phật Đại nguyện mười bốn: Thanh Văn cơi tôi Chẳng tính nổi số
21. A Di Đà Phật Đại nguyện mười lăm: Người nước tôi thọ Dài ngắn tùy nguyện
22. A Di Đà Phật Đại nguyện mười sáu: Trời người nước tôi Chẳng nghe tiếng ác.
23. A Di Đà Phật Đại nguyện mười bảy: Chư Phật khen ngợi Danh hiệu của tôi
24. A Di Đà Phật Đại nguyện mười tám: Chí tâm tin ưa Mười niệm ắt sanh
25. A Di Đà Phật Đại nguyện mười chín: Phát tâm văng sanh Lâm chung tiếp dẫn
26. A Di Đà Phật Đại nguyện hai mươi: Muốn sanh nước tôi Không ai chẳng thỏa
27. A Di Đà Phật Đại nguyện hăm mốt: Trời, người nước tôi Đủ băm hai tướng
28. A Di Đà Phật Nguyện hai mươi hai: Sanh về ắt chứng Nhất sanh bổ xứ
29. A Di Đà Phật Nguyện hai mươi ba: Bồ Tát lúc ăn Cúng khắp chư Phật
30. A Di Đà Phật Nguyện hai mươi bốn: Bồ Tát cúng Phật Đồ cúng tùy ư
31. A Di Đà Phật Nguyện thứ hăm lăm: Bồ Tát thảy đều Diễn thuyết diệu trí
32. A Di Đà Phật Nguyện thứ hăm sáu: Bồ Tát đều đắc Thân Na La Diên
33. A Di Đà Phật Nguyện thứ hăm bảy: Nước tôi vạn vật Thảy đều nghiêm tịnh
34. A Di Đà Phật Nguyện thứ hăm tám: Bồ Tát đều biết Đạo thọ cao rạng
35. A Di Đà Phật Nguyện hai mươi chín: Bồ Tát tụng kinh Đều đắc huệ biện
36. A Di Đà Phật Nguyện thứ ba mươi: Bồ Tát huệ biện Chẳng có hạn lượng
37. A Di Đà Phật Nguyện ba mươi mốt: Nước sạch như gương Soi thấy mười phương
38. A Di Đà Phật Nguyện ba mươi hai: Cung điện, lầu, quán Bảo hương diệu nghiêm.
39. A Di Đà Phật Nguyện ba mươi ba: Được quang minh chiếu Thân tâm nhu nhuyễn
40. A Di Đà Phật Nguyện ba mươi bốn: Nghe danh hiệu tôi Đắc vô sanh nhẫn
41. A Di Đà Phật Nguyện ba mươi lăm: Gái nghe tên tôi Thoát khỏi thân nữ.
42. A Di Đà Phật Nguyện ba mươi sáu: Bồ Tát nghe tên Ắt thành Phật đạo
43. A Di Đà Phật Nguyện ba mươi bảy: Nghe danh hiệu tôi Trời người cung kính
44. A Di Đà Phật Nguyện ba mươi tám: Nước tôi y phục Nghĩ tới liền có
45. A Di Đà Phật Nguyện ba mươi chín: Dân chúng hưởng vui Đều như lậu tận
46. A Di Đà Phật Nguyện thứ bốn mươi: Cây báu trong nước Hiện các cơi Phật
47. A Di Đà Phật Nguyện bốn mươi mốt: Nghe danh hiệu tôi Các căn chẳng khuyết
48. A Di Đà Phật Nguyện bốn mươi hai: Nghe danh hiệu tôi Đắc tịnh giải thoát
49. A Di Đà Phật Nguyện bốn mươi ba: Nghe danh hiệu tôi Được phước thắng diệu
50. A Di Đà Phật Nguyện bốn mươi bốn: Bồ Tát tùy nguyện Đầy đủ cội đức
51. A Di Đà Phật Nguyện bốn mươi lăm: Nghe danh hiệu tôi Đắc các tam muội
52. A Di Đà Phật Nguyện bốn mươi sáu: Bồ Tát tùy nguyện Đều nghe diệu pháp
53. A Di Đà Phật Nguyện bốn mươi bảy: Nghe danh hiệu tôi Được bất thối chuyển
54. A Di Đà Phật Nghe danh hiệu tôi: Đắc tam pháp nhẫn
55. A Di Đà Phật Phát thệ nguyện xong Đất động trời kinh Phật, thánh hoan hỷ
56. A Di Đà Phật Nguyện tuy bốn tám Nhưng trong mỗi nguyện Số đến trần sát
57. A Di Đà Phật Thệ nguyện không ngằn Dọc khắp ba đời Ngang trọn mười phương
58. A Di Đà Phật Từ bi khó lường Đức vượt thiên địa Ân hơn cha mẹ
59. A Di Đà Phật Riêng dạy Tịnh tông Cửu giới chúng sanh Thảy đều kính tuân
60. A Di Đà Phật Khởi vô duyên từ Khiến khắp phàm thánh Cùng chứng Bồ Đề
61. A Di Đà Phật Vận đồng thể bi Cửu giới chúng sanh Cùng được dắt d́u
62. A Di Đà Phật Lúc c̣n tu nhân Tu trọn vạn hạnh Ḥng thỏa sơ tâm
63. A Di Đà Phật Tu hạnh Tịnh Độ Nhất tâm hư tịch Tam nghiệp thanh tịnh
64. A Di Đà Phật Tu hành Thí Độ Trong ngoài đều xả Tâm không chỗ trụ
65. A Di Đà Phật Tu hành Giới Độ Dứt tŕ lẫn phạm Chơn tánh triệt ngộ
66. A Di Đà Phật Tu hành Nhẫn Độ Ngă kiến đă không C̣n chi thuận, chống
67. A Di Đà Phật Tu hành Tấn Độ Nhất niệm chẳng sanh Vạn hạnh trọn vẹn
68. A Di Đà Phật Tu hành Thiền Độ Động tịnh thể ly Chẳng vướng tịch, động
69. A Di Đà Phật Tu hành Trí Độ Ngũ uẩn đều không Chẳng phân mê, ngộ
70. A Di Đà Phật Viên thí tứ nhiếp B́nh đẳng tiếp dẫn Thượng, trung, hạ căn
71. A Di Đà Phật Tu trọn vạn hạnh Ân đẫm cửu giới Không đâu chẳng trọn!
72. A Di Đà Phật Sở hành vô ngại Trong hết thảy pháp Được đại tự tại
73. A Di Đà Phật Viên măn tam Giác Thượng thánh hạ phàm Đồng lên Cực Lạc
74. A Di Đà Phật Hiệu Vô Lượng Thọ Nhân dân cơi ấy Thọ cũng vô số.
75. A Di Đà Phật Hiệu Vô Lượng Quang Sanh trong Lạc Bang Quang chẳng lường được!
76. A Di Đà Phật Hiệu Vô Biên Quang Chiếu khắp, nhiếp trọn Ba đời, mười phương
77. A Di Đà Phật Hiệu Vô Ngại Quang Sơn hà đại địa Không chi ngăn ngại
78. A Di Đà Phật Hiệu Vô Đối Quang Chư Phật chẳng bằng Huống là hơn được!
79. A Di Đà Phật Hiệu Viêm Vương Quang Quang minh thanh lương Rạng rỡ sáng ngời
80. A Di Đà Phật Hiệu Thanh Tịnh Quang Ĺa trọn không, hữu Tỏ rơ thường chơn
81. A Di Đà Phật Hiệu Hoan Hỷ Quang Triệt chứng thường lạc Trọn không hoặc ương
82. A Di Đà Phật Hiệu Trí Huệ Quang Tột chơn, sạch hoặc Chiếu khắp mười phương
83. A Di Đà Phật Hiệu Bất Đoạn Quang Tam đức viên chứng Đoạn, Tục đều mất
84. A Di Đà Phật Hiệu Nan Tư Quang Cửu giới chúng sanh Ai tán dương nổi
85. A Di Đà Phật Hiệu Vô Xưng Quang Trừ mười phương Phật Ai diễn tả nổi?
86. A Di Đà Phật Siêu Nhật Nguyệt Quang Một quang chiếu khắp Từ tế vô ương
87. A Di Đà Phật Tịnh Độ hoằng khai Chúng sanh cô độc Lên liên hoa đài
88. A Di Đà Phật Độ sanh niệm thâm Dùng Quả Địa Giác Làm tâm tu nhân
89. A Di Đà Phật Ân đức vô biên Mười phương tam thế Đều được vỗ về
90. A Di Đà Phật Cơi nước trang nghiêm Chánh báo, y báo Đều ĺa cơ hiềm
91. A Di Đà Phật Mở cửa lầu gác Ai đến đều vào Há riêng Thiện Tài!
92. A Di Đà Phật Khí hậu điều ḥa Trọn không nóng lạnh Núi cao, sông dài!
93. A Di Đà Phật Lư sự thậm thâm Gồm Thiền, Giáo, Luật Dứt xưa, tuyệt nay!
94. A Di Đà Phật Tay vàng luôn x̣e Tiếp mọi căn cơ Chẳng hề lỡ thời
95. A Di Đà Phật Bạch hào tướng quang Chiếu kẻ chơn tu Chẳng thiếu cơm, áo
96. A Di Đà Phật Tâm này là Phật Tâm này làm Phật Chấp đó chẳng tu Là giống địa ngục!
97. A Di Đà Phật Như trăng giữa trời In khắp ḍng nước Diệu khôn diễn tả!
98. A Di Đà Phật Ḷ lớn, mảnh tuyết Vô biên tội chướng Ngay đấy tiêu diệt
99. A Di Đà Phật Tu tŕ diệu đế Nhiếp trọn sáu căn Tịnh niệm tiếp nối
100. A Di Đà Phật Vạn pháp bao la Tựa hồ biển cả Như thuốc Già Đà Trùng Đính Tây Phương Công Cứ hết (Phật lịch 2545, ngày 28 tháng 06 năm 2001, Bửu Quang tự đệ tử Như Ḥa kính dịch)
(1) Gởi tiền kho kiếp sau (kư khố lai sanh): Một h́nh thức mê tín của dân Tàu, đốt giấy tiền vàng bạc gởi tiền xuống âm phủ để chết đi có cái tiêu dùng dưới âm cung. (2) Bất tiếu: Con không được như cha gọi là bất tiếu. Con hư cũng gọi là bất tiếu. Tiếu nghĩa là suy vi, hư hỏng, mất mát. (3) Đây là dựa theo ư câu nói của La Thiện Uy đời Ngũ Đại: “Hợp lục châu, tứ thập tam huyện thiết bất năng chú thử thác” (Đem sắt cả sáu châu, bốn mươi ba huyện đúc không nổi lỗi lầm ấy), ư nói lỗi to lắm. Tổ Ấn Quang viết: Chánh sở vị tụ vạn quốc cửu châu chi thiết, dă đào bất thành thử nhất cá đại thác. (4) Ba vị Tăng, Trần, Vương đều là bậc danh thần đời Tống. Ông họ Sử đầu đời nhà Thanh đỗ trạng nguyên. Bốn vị này đều tin Phật, nhưng ông Trần Trung Tú hiểu đạo sâu sắc hơn cả. Do đời trước họ đều là cao tăng, nên tuy ở trong phú quư chẳng lầm nhân quả vậy (chú thích của ngài Ấn Quang) (5) Chơn đễ: đối xử phải đạo, ḥa thuận với anh chị em trong nhà gọi là đễ. (6) Dẫn khánh: một pháp khí thường bằng đồng có cán, thường đánh lên để giữ nhịp khi đảnh lễ trong các chùa miền Trung, Nam. Ta chỉ gọi là Khánh; Tàu gọi là dẫn khánh để phân biệt với đại khánh (tức là chuông gia tŕ) và nại khánh (cái chuông nhỏ, c̣n được gọi là điếu chung, treo ở phía trên trống tán, thường được đánh nhịp với trống khi xướng tụng phạm tán) (7) Truyền tân: Củi tuy cháy hết mà lửa vẫn được tiếp nối. Đây là h́nh ảnh dùng để ví cho sự truyền thừa học thuyết, đạo pháp giữa thầy tṛ. (8) Hàn Dũ, Âu Dương Tu là những nhà Nho kịch liệt bài xích Phật giáo (9) Cầm nắm b́nh, khăn: ư nói hầu hạ như thị giả hầu thầy. (*) An Sĩ tiên sinh là một vị cư sĩ nổi tiếng đời Thanh. Ông tên thật là Châu Mộng Nhan (1656-1739), người xứ Côn Sơn, tên tự là An Sĩ, hiệu là Hoài Tây Cư Sĩ. Ông thông hiểu pháp môn Tịnh Độ. Các trước tác của ông rất đặc sắc v́ khéo dung hội những quan điểm của Nho, Đạo, Thích để hướng dẫn quần chúng hướng về Phật đạo, chuyên tu pháp môn Tịnh Độ. Các tác phẩm của ông được in chung thành một bộ mang tên là An Sĩ Toàn Thư. Bộ này gồm các tác phẩm: Văn Xương Đế Quân Âm Chất Văn Quảng Nghĩa (giải thích rộng ư nghĩa bài Âm Chất Văn của Văn Xương Đế Quân), Vạn Thiện Tiên Tư, Dục Hải Hồi Cuồng và Tây Quy Trực Chỉ. Cuốn Tây Quy Trực Chỉ được xem là một tác phẩm giá trị trong các văn bản Tịnh Độ. (**) Ư của Tổ Sư từ phương Tây đến: Đây là một cách diễn tả khác câu thoại đầu thường dùng để tham công án trong nhà Thiền: “Như hà thị Tổ Sư Đông lai ư?”(Tổ Sư đến phương Đông là có ư ǵ?) Chữ Tổ Sư ở đây chỉ Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma. |