Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

淨土大經解演義

Phần 14

Chủ giảng: Lăo pháp sư Tịnh Không

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010

Địa điểm: Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội

Giảo duyệt: Minh Tiến, Huệ Trang và Đức Phong

 

Tập 27

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang hai mươi bảy, ḍng thứ ba từ dưới đếm lên, chúng ta đọc từ chỗ ấy:

      “Hoặc nghi niệm Phật hà dĩ hữu như thị công đức, nhân năng niệm, sở niệm, giai thị Thật Tướng cố. Di Đà Yếu Giải vân: Quang tắc hoành biến thập phương, Thọ tắc thụ cùng tam tế. Hoành thụ giao triệt, giai Pháp Giới Thể. Cử thử Thể tác Di Đà thân độ, diệc tức cử thử Thể tác Di Đà danh hiệu. Thị cố Di Đà danh hiệu tức chúng sanh Bổn Giác Lư tánh. Tŕ danh tức Thỉ Giác hợp Bổn, Thỉ Bổn bất nhị, sanh Phật bất nhị. Cố nhất niệm tương ứng nhất niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật dă” (Hoặc có kẻ nghi niệm Phật làm sao có công đức như thế? V́ năng niệm và sở niệm đều là Thật Tướng. Sách Di Đà Yếu Giải viết: “Quang theo chiều ngang trọn khắp mười phương, Thọ theo chiều dọc rốt ráo ba đời. Ngang và dọc xen nhau thấu triệt, đều là Pháp Giới Thể. Nêu lên cái Thể ấy để làm thân và cơi nước của Phật Di Đà, mà cũng lấy cái Thể ấy tạo thành danh hiệu Di Đà. V́ thế, danh hiệu Di Đà chính là Bổn Giác Lư tánh của chúng sanh. Tŕ danh là Thỉ Giác hợp với Bổn Giác; Thỉ Giác và Bổn Giác chẳng hai, chúng sanh và Phật chẳng hai. V́ thế, một niệm tương ứng một niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”). Lần trước, chúng tôi giảng tới chỗ này, nay sẽ đọc phần tiếp theo. “Do thượng khả kiến, Di Đà danh hiệu tức Pháp Giới Thể, cố danh hiệu công đức bất khả tư nghị” (Do những điều trên đây có thể thấy danh hiệu Di Đà chính là Pháp Giới Thể, nên danh hiệu có công đức chẳng thể nghĩ bàn). Đây là tổng kết những nghĩa thú trong phần trước, để chúng ta nhận thức danh hiệu Di Đà. Câu danh hiệu này rất đơn giản, đứa trẻ ba tuổi cũng biết niệm, nhưng quả thật, nghĩa lư trong danh hiệu, đừng nói là ông lăo tám mươi chẳng hiểu rơ, mà đúng như trong kinh đức Phật đă nói: “Duy Phật dữ Phật, phương năng cứu cánh” (chỉ có Phật và Phật mới có thể thấu hiểu rốt ráo). Đẳng Giác Bồ Tát đối với nghĩa lư quá sâu trong câu danh hiệu này cũng giống như cách một lớp the ngắm trăng. Công đức của danh hiệu [A Di Đà Phật] dẫu mười phương chư Phật trần thuyết, sát thuyết[1] đều nói chẳng cùng tận. Ngẫu Ích đại sư nói những lời này, câu nào cũng đều là lời thật, v́ danh hiệu là thể tánh của pháp giới, nên danh hiệu có công đức chẳng thể nghĩ bàn!

      Một người suốt đời có thể niệm một câu [Phật hiệu], công đức bèn chẳng thể nghĩ bàn, nhưng người ấy có được thụ dụng hay không, cũng rất khó nói! Thật sự thụ dụng, ắt phải trọn đủ ba điều kiện Tín, Nguyện, Hạnh. Văng sanh lại phải trọn đủ [những điều kiện] như kinh đă dạy: “Không thể do chút ít thiện căn, phước đức, nhân duyên, mà được sanh về cơi ấy”. Quư vị phải ghi nhớ, thiếu thiện căn, phước đức, nhân duyên là không được! Do vậy biết: Chúng ta muốn thật sự văng sanh Tịnh Độ trong một đời này, quư vị phải niệm niệm tu tập, tích lũy thiện căn, phước đức, nhân duyên. Chúng ta cũng từng nghe nói, trong kinh này, đức Phật cũng có nói: Khi lâm chung, mười niệm ắt văng sanh, có phải là mâu thuẫn với câu kinh “không thể do chút ít thiện căn, phước đức, nhân duyên, mà được sanh về cơi ấy” hay không? Có t́nh h́nh này hay không? Tôi tin là có nhiều người mang niềm hoài nghi này! Niềm hoài nghi này từ xưa tới nay đều có; trong kinh điển, luận, trước thuật, giảng giải, cổ đại đức cũng đều giảng rất rơ ràng, rất minh bạch. Kẻ suốt đời không tin tôn giáo, không tin tưởng Phật pháp, nhưng lúc lâm chung, thỉnh thoảng gặp duyên phận như vậy, gặp gỡ một vị thiện hữu khuyên kẻ ấy niệm Phật, khuyên kẻ ấy cầu sanh Tịnh Độ. Trong sát-na ấy, kẻ đó sau khi nghe xong bèn tin tưởng, tiếp nhận, phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, nghiễm nhiên cũng có thể văng sanh. Đấy chẳng phải là mâu thuẫn với câu kinh Di Đà “Không thể do chút ít thiện căn, phước đức, nhân duyên, mà được sanh về cơi ấy” hay sao? Phàm phu chúng ta cảm thấy ở đây có vấn đề, nhưng đối với người thật sự có công phu, nh́n vào, không chỉ chẳng thấy có vấn đề, mà c̣n thấy là hoàn toàn tương ứng với những điều đă được giảng trong kinh. Do nguyên nhân nào? Suốt đời này, người ấy chẳng tu, nhưng trong kiếp trước người ta có tu, đời đời kiếp kiếp trong quá khứ đă tích lũy thiện căn, phước đức, nhân duyên, cả đời này chẳng có cơ duyên gặp gỡ Phật pháp, gần như luống uổng một đời. Nào ngờ khi lâm chung gặp gỡ thiện hữu cảnh tỉnh, dẫn khởi chủng tử thiện căn và phước đức trong A Lại Da thức của người ấy phát khởi, người ấy bèn thành tựu. Có phải là ngẫu nhiên hay chăng? Chẳng phải! Huệ Năng đại sư hai mươi bốn tuổi, ở trong phương trượng thất của Ngũ Tổ, nghe kinh chút xíu như thế, bèn đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, có phải là ngẫu nhiên ư? Nếu là ngẫu nhiên, trong pháp hội của Ngũ Tổ, học tṛ đông ngần ấy, theo Ngài nhiều năm như vậy, v́ sao chẳng khai ngộ? Người học Phật cần phải biết: Nhân quả thông ba đời; thiện căn, phước đức, nhân duyên đă gieo trong đời quá khứ, tới đời này, duyên chín muồi, người ấy bèn hưởng thụ. Nếu đời này thiếu duyên, vẫn phải là trong đời sau hoặc trong những đời sau nữa, nói chung khi gặp được duyên, không nhất định là khi nào, chúng ta chớ nên không biết điều này. Do vậy, đối với những điều kinh điển đă nói, hay những điều tổ sư đại đức đă dạy, chúng ta chưa thể tin tưởng th́ có thể c̣n mang nghi vấn, nhưng đừng nên phản đối. C̣n mang ḷng nghi nghĩa là ǵ vậy? Chỗ này tôi không hiểu, nhưng tôi trọn chẳng hoài nghi hay phản bác, [bởi lẽ] đức hạnh và trí huệ của chính tôi vẫn chưa đủ. Nỗi nghi ấy là chuyện tốt, cổ đại đức thường nói “tiểu nghi tiểu ngộ, đại nghi đại ngộ”, không nghi ngờ sẽ chẳng ngộ. Nghi ở đây chẳng phải là hoài nghi, mà là sau khi ta nghe, ta tin lời người ấy giảng đúng là có lư, nhưng hiện thời ta chưa đủ trí huệ và đức hạnh, c̣n phải dụng công thêm; nói chung, sẽ có ngày ta hiểu rơ vấn đề này. Đấy là chính xác, là tâm thái tu học tốt đẹp trong Phật môn.

Tiếp theo đó, [sách Đại Kinh Giải] lại nói: “Danh hiệu tức chúng sanh chi Bổn Giác Lư tánh” (danh hiệu chính là Bổn Giác Lư tánh của chúng sanh). Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đă nói rất nhiều lần: “Hết thảy chúng sanh vốn là Phật”. V́ vậy, trong Tịnh Tông nói “tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”; lời ấy có lư, có căn cứ. Trong kinh Đại Thừa, đức Phật thường nói: “Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”, suốt đời này chúng ta chẳng có tưởng, kiếp trước chúng ta có tưởng hay chăng? Kiếp trước nữa, chúng ta có tưởng hay chăng? Quá khứ vô thỉ, vị lai vô chung, chẳng biết chúng ta luân hồi trong lục đạo đă trải bao nhiêu kiếp, trong thời gian dài như vậy, chúng ta đă từng gặp Phật hay chưa? Có nghiêm túc tu hành hay chưa? Khẳng định là có, ai nấy đều có. V́ sao đời này không tin? Tập khí phiền năo quá nặng, che lấp, chèn ép thiện căn, phước đức, nhân duyên đă tu từ vô thỉ kiếp, nên vẫn y như cũ chẳng giác! Ngày nào đó gặp nhân duyên, đột nhiên hiểu rơ, chúng (thiện căn, phước đức) sẽ khởi tác dụng. A Di Đà Phật chẳng phải là vật ngoài tâm, ngoài tâm chẳng có pháp, ngoài pháp chẳng có tâm, đúng là do tự tánh biến. Quư vị phải hiểu cảnh giới hiện tiền cũng do tự tánh biến. Tam đồ và địa ngục có phải do tự tánh biến hay không? Phải! Do vậy biết: Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới đều là trong một niệm. Cớ sao bất giác? Cớ sao mê đến nỗi này? Chẳng mảy may liên quan đến cảnh giới bên ngoài, chẳng liên quan đến chư Phật, Bồ Tát, cũng chẳng liên quan đến y báo và chánh báo trang nghiêm bên ngoài. Hiểu rơ đạo lư này, liễu giải chân tướng sự thật, chúng ta có thể biến địa cầu hiện tiền thành thế giới Cực Lạc hay không? Câu trả lời là khẳng định, chắc chắn là có thể, chỉ cần tâm địa quư vị đạt được thuần tịnh thuần thiện. Thuần tịnh thuần thiện, quư vị sẽ thành A Di Đà Phật; thuần tịnh thuần thiện, địa cầu liền biến thành thế giới Cực Lạc. Từ kinh điển, chúng ta nghe nói đạo lư và chân tướng sự thật này rất nhiều, nhưng có đủ hay không? Không đủ! V́ sao không đủ? Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta chẳng thể chuyển đổi ư niệm! Từ chỗ này, chúng ta hiểu chính ḿnh tập khí phiền năo nặng lắm, v́ sao? Do vô lượng kiếp huân tu mà thành, từ sáng đến tối, quư vị thấy, nghe, tiếp xúc, hết thảy đều là huân tập phiền năo.

      Do vậy, có người đă từng hỏi Phật, Bồ Tát: “Chúng con làm thế nào để cứu vớt xă hội này và địa cầu?” Người ấy nói: “Phật, Bồ Tát nói một câu: - Giảng kinh, giáo học”. Người ấy đem chuyện này kể với tôi, tôi nói: “Đúng! Chẳng sai tí nào!” Tôi nói: “Quư vị đă thật sự hỏi Phật, Bồ Tát”. Suốt một đời Thích Ca Mâu Ni Phật, kể từ sau khi khai ngộ, Ngài bèn bắt đầu giảng kinh, giáo học, dạy suốt một đời, viên tịch lúc bảy mươi chín tuổi. Cổ thánh tiên hiền Trung Quốc cũng nói kiểu ấy! “Kiến quốc, quân dân, giáo học vi tiên” (xây dựng đất nước, cai trị dân chúng, giáo học làm đầu), dạy từ nơi đâu? Từ gia giáo. Quư vị có gia tộc, gia tộc có gia đạo, có gia quy, có gia học, kể từ khi mẹ có mang đă bắt đầu dạy, thai giáo mà! Con người được dạy dỗ bèn tốt đẹp, nói chung, chúng ta phải nhớ một câu: Nếu thực hiện tốt giáo dục, hết thảy mọi người coi trọng giáo dục của cổ thánh tiên hiền, mọi người trong thế giới này sẽ biến thành A Di Đà Phật, hoàn cảnh đều biến thành thế giới Cực Lạc, chuyện là như vậy đó! Chưa tiếp xúc Phật pháp tức là thiếu duyên phận, chẳng thể nói người ấy không có thiện căn, phước đức, nhân duyên, [chỉ có thể nói là] người ấy chưa có duyên tiếp xúc. Chúng ta đă được tiếp xúc, đă tiếp xúc th́ phải giác ngộ. Chẳng giác ngộ sẽ vô dụng, cả đời này vẫn tự tư tự lợi, vẫn tạo tiếng tăm, lợi dưỡng, vẫn tạo nghiệp tam đồ lục đạo. Người ấy chẳng thể ĺa bỏ lục đạo và tam đồ trong tự tánh, ĺa bỏ chẳng được! Đó là mê, mê rất nặng. Nếu ngày nào đó, người ấy giác ngộ, hễ chuyển biến sẽ biến thành Cực Lạc, sẽ biến thành Phật Di Đà. Phật pháp là pháp thanh tịnh, pháp b́nh đẳng, chẳng có chúng sanh nào là ngoại lệ, nhất định phải hiểu đạo lư này. Trong Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán, Hiền Thủ quốc sư đă giảng hết sức rơ ràng; bài luận văn ấy chẳng dài, chỉ là một cuốn sách nhỏ mỏng manh, nhưng hết thảy những điều được nói trong ấy là chân tướng của nhân sinh và vũ trụ, nói tới duyên khởi của vũ trụ, duyên do của vạn pháp, bản thân chúng ta do đâu mà có. Thật sự khó có, quả thật chẳng dễ dàng, Ngài đă giảng rơ ràng, minh bạch.

      Thật sự hiểu rơ ràng, hiểu minh bạch. Tiếp theo đó, sách nói: “Khởi tâm niệm Phật thị vi Thỉ Giác” (Khởi tâm niệm Phật là Thỉ Giác), chúng ta khởi lên ư niệm, niệm A Di Đà Phật, quư vị bắt đầu giác ngộ; nhưng chính ḿnh chẳng cảm thấy bản thân ta giác ngộ, do nguyên nhân nào? Quư vị niệm Phật chưa đủ công phu. Nếu quư vị có thể khăng khăng một mực niệm một câu Phật hiệu này, khi niệm bèn buông xuống vạn duyên, v́ sao? Chúng quấy nhiễu quư vị. V́ thế, trong kinh giáo, tổ sư đại đức dạy chúng ta nhất tâm niệm Phật, [làm như vậy] sẽ hữu hiệu! Nhất tâm là trong tâm chỉ có một câu Phật hiệu, trừ một câu Phật hiệu ra, thứ ǵ cũng đều chẳng có, lúc đó mới gọi là “nhất tâm”. Nhất tâm là tâm chân thành, nhất niệm tương ứng nhất niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật. Quư vị có thể giữ được sự chân thành, kinh Di Đà nói quư vị có thể giữ được [sự chân thành ấy] trong một ngày, bậc thượng căn sẽ khai ngộ, đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, đó là bậc thượng căn, một ngày bèn thành tựu. Kinh nói rất hay, kẻ căn tánh thấp nhất, bảy ngày cũng có thể thành tựu. Có thể chấp tŕ tới bảy ngày, nhất tâm niệm Phật, trong tâm thật sự chẳng hoài nghi, chẳng xen tạp, chẳng gián đoạn, bảy ngày thành tựu. V́ thế, mục tiêu của Tinh Tấn Phật Thất là ở chỗ này. Tôi chưa từng đả Tinh Tấn Phật Thất, tôi cũng chẳng dám làm. Xưa kia, tôi ở Đài Trung thân cận thầy Lư, thầy Lư bảo tôi cụ đă từng mở Tinh Tấn Phật Thất hai lần, làm Chủ Thất, số người tham dự ước chừng chỉ có mười mấy người. Sau lần Phật Thất ấy, đă xảy ra chuyện. Nói thật ra, nếu quư vị chẳng dụng công, oán thân trái chủ sẽ chẳng t́m đến, đến khi đó (lúc tham gia Tinh Tấn Phật Thất), họ t́m quư vị tính sổ. Quư vị tham gia Tinh Tấn Phật Thất, thật sự dụng công mong văng sanh, họ sẽ đặc biệt chú ư; khi ấy, họ sẽ đến nhiễu loạn. Họ đến nhiễu loạn, quư vị bèn bị ma dựa. Do vậy, hai lần thầy Lư tổ chức [Tinh Tấn] Phật Thất đều gặp phải chuyện này, có học tṛ bị ma dựa. Bị ma dựa là một vấn đề nghiêm trọng! Người ta tham gia Phật Thất đang là người b́nh thường, niệm Phật vài ngày liền biến thành bệnh thần kinh, quư vị phải chịu trách nhiệm. Thầy Lư rất khó có, tốn thời gian hơn nửa năm để chữa cho người ấy khôi phục b́nh thường. V́ thế, sau đấy chẳng dám tổ chức [Tinh Tấn Phật Thất] nữa. Đây là nói tinh tấn tu hành ắt phải trọn đủ thiện căn, phước đức, và nhân duyên. Quư vị chẳng có thiện căn và phước đức, chỉ hoài nghi một chút, hoặc có đôi chút ư niệm tự tư tự lợi đều không được, đó là quư vị chưa buông xuống sạch sành sanh. Thật sự buông xuống triệt để th́ mới có thể tham gia phương pháp tu hành ấy. V́ thế, thầy bảo tôi: Sau đó, thầy không dám tiến hành, và cũng nhắc nhở tôi [chớ làm]. Duyên của cụ thù thắng hơn tôi, cụ được thân cận lăo pháp sư Ấn Quang, Ngài là nhất đại tổ sư, duyên của chúng tôi thua cụ, mà cụ tổ chức [Tinh Tấn Phật Thất] c̣n gặp rắc rối, huống ǵ chúng tôi! Càng về sau, đời sau kém hơn đời trước, thật đấy, chẳng giả đâu!      

Hiện nay, chúng ta dùng phương pháp ǵ? Nói thật ra, ổn thỏa, thích đáng nhất, an toàn nhất, mà cũng có hiệu quả nhất là giảng kinh, giáo học, chuyện này thuộc loại tiệm tu, chắc chắn chẳng có khuyết điểm. Ở nơi đây, sang năm học viện của chúng ta đă [được thành lập] tṛn mười năm. Thiên Học Kư [trong sách Lễ Kư] đă nói rất hay, pháp thế gian và xuất thế gian đều giống nhau, “thất niên thiếu thành, cửu niên đại thành” (bảy năm thành tựu nhỏ, chín năm thành tựu lớn), chúng ta có thành tựu hay không? Cổ đại đức đă nói: “Sư phụ lănh tấn môn, tu hành tại cá nhân” (sư phụ hướng dẫn nhập môn, cá nhân phải tự tu hành), đặc biệt là trong thời đại hiện tại này, xă hội đề xướng dân chủ, tự do, cởi mở. Trong xă hội hiện tại, cha mẹ chẳng thể kiềm chế con cái, thầy chẳng thể quản tṛ, v́ sao? Có nhân quyền! Khác hẳn xă hội trong quá khứ! Hiện thời, chúng ta chỉ có thể khuyên nhủ, đúng là tu hành và thành tựu đều do chính mỗi cá nhân [tự nỗ lực]. Kinh giáo do Phật nói, chú giải do Bồ Tát soạn, Phật, Bồ Tát chốn chốn nhắc nhở chúng ta, nếu chúng ta y giáo phụng hành, chắc chắn có thành tựu. Thành tựu cạn hay sâu, lớn hay nhỏ, mấu chốt chẳng do thời gian quư vị học dài hay ngắn, chẳng phải do quư vị vận dụng công phu cạn hay sâu, mà do quư vị buông xuống nhiều hay ít. Thuở trước, khi tôi đang học tập, Chương Gia đại sư đă bảo tôi lời ấy, trải qua năm mươi chín năm học tập, kiểm nghiệm, chứng tỏ lời ấy chính xác, quư vị buông xuống nhiều hay ít! Quư vị chẳng thể buông xuống, dẫu tu ba trăm năm vẫn là phàm phu, có thể nâng cao công phu lên một bước hay không? Chẳng thể! Nâng lên cao một bước cũng chẳng thể! Giống như bước lên cầu thang, quư vị phải buông nấc thứ nhất xuống th́ mới có thể lên được nấc thứ hai, lại buông nấc thứ hai xuống th́ mới có thể lên được nấc thứ ba, buông xuống triệt để! Quư vị chỉ đặt một chân lên nấc trên, c̣n chân kia chẳng chịu buông bỏ nấc dưới, sẽ vĩnh viễn chẳng có cách nào lên cao được! Do vậy, dù ba trăm năm, quư vị vẫn chẳng có cách nào lên cao hơn một nấc được! Buông xuống trọng yếu lắm! V́ sao chẳng buông xuống?

      Tôi khuyên các đồng học, tối thiểu [đă khuyên như vậy] cũng phải mười mấy năm, hai mươi năm, chúng ta nhất định phải buông tự tư tự lợi xuống! Khởi tâm động niệm, nói cách khác, chúng ta sống ở thế gian là v́ điều ǵ? Tôi thưa với mọi người, tôi v́ hai chuyện, một là nhằm giữ cho chánh pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật được trường tồn, hai là văng sanh Tịnh Độ, thân cận A Di Đà Phật. Tôi hiểu rơ, minh bạch Phật pháp, suốt đời này làm hai chuyện ấy, sống một ngày bèn làm một ngày. Đức Thế Tôn đă nêu gương cho chúng ta. Đức Thế Tôn trước khi diệt độ, hễ c̣n một hơi thở, Ngài c̣n giảng kinh, thuyết pháp. Quư vị thấy cuối cùng Ngài dạy chúng ta Tứ Y Pháp. Tôn giả A Nan hướng về lăo nhân gia thỉnh giáo: “Đức Thế Tôn tại thế, chúng con nương theo Phật là thầy. Đức Thế Tôn nhập diệt, chúng con nên nương theo ai làm thầy? Đức Thế Tôn tại thế, hết thảy mọi người đều nương theo Phật để cộng trụ; Phật nhập diệt, chúng con nương vào ai để cộng trụ?” Đức Thế Tôn nói, đó là giáo huấn của Ngài đă lưu lại, đức Thế Tôn chẳng tại thế, chúng ta “dĩ giới vi sư” (lấy giới làm thầy), đức Phật dạy như vậy. “Dĩ khổ vi sư” (lấy khổ làm thầy), Ngài dạy hai câu ấy. Nương vào ai để trụ? Nương vào Tứ Niệm Xứ để trụ, sẽ chẳng khác ǵ đức Phật tại thế; nương vào Lục Ḥa Kính để trụ. Chúng ta nương vào Lục Ḥa Kính và Tứ Niệm Xứ, sẽ chẳng khác ǵ Thích Ca Mâu Ni Phật vẫn tại thế. Chúng ta tŕ giới, chẳng sợ khổ, giống như vẫn ở cùng Thích Ca Mâu Ni Phật. Hơi thở chưa dứt, đức Phật vẫn dạy bảo đạo chúng ta, từ bi đến tột cùng! V́ vậy, chẳng buông xuống tự tư tự lợi, sẽ chẳng có cách nào nhập môn, cách trở Phật môn quá ư xa xôi! Sửa đổi tập khí ấy bằng cách nào? Thay đổi ư niệm! Chẳng có cách nào diệt ư niệm; đó là chuyện của hàng Tiểu Thừa làm. Thay đổi ư niệm, thay [ư niệm tự tư tự lợi bằng ư niệm] lợi ích người khác, lợi ích chúng sanh, lợi ích quốc gia, lợi ích xă hội, lợi ích toàn bộ thế giới, quư vị nghĩ tưởng những điều ấy. Ta dùng phương pháp ǵ để giúp đỡ, giúp đỡ chính ḿnh, giúp đỡ xă hội, giúp đỡ quốc gia, giúp đỡ thế giới này? Phương pháp tốt nhất là y giáo phụng hành, học Phật. Quư vị hăy suy nghĩ: Chứng đắc Phật quả, nguyện vọng của quư vị sẽ được thực hiện viên măn. Chúng tôi lại nói rơ hơn một chút, đối với chính ḿnh, thân tâm khỏe mạnh, mọi người đều mong muốn chuyện này, gia đ́nh ḥa thuận. Chúng ta ở trong đạo tràng này, đạo tràng ḥa thuận. Trong đạo tràng đều là người một nhà, chính ḿnh khiêm ty, cung kính, quan tâm, chiếu cố người khác, hỗ trợ hợp tác, gia đ́nh ấy sẽ hưng vượng và vui vẻ lắm! Gia đ́nh hạnh phúc, sự nghiệp thuận lợi, xă hội an ḥa, quốc thái dân an, thế giới ḥa hợp, đều đạt được, chẳng phải là không thể thực hiện được. Hăy làm từ chính ḿnh, thay đổi từ tâm thái của chính ḿnh. Buông tiếng tăm, lợi dưỡng xuống, buông hưởng thụ ngũ dục lục trần xuống, buông tham, sân, si, mạn xuống, tâm định rồi! Tâm định sẽ chẳng bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển, cũng có thể nói là cảnh giới bên ngoài chẳng thể ảnh hưởng quư vị, tới khi ấy, quư vị có thể ảnh hưởng thế giới bên ngoài. Giống như kinh Lăng Nghiêm đă nói: “Nhược năng chuyển vật, tắc đồng Như Lai” (Nếu có thể chuyển vật, ắt sẽ giống Như Lai), quư vị chẳng bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển, sẽ có thể chuyển biến cảnh giới bên ngoài.

      Do vậy, quư vị thấy thánh nhân thế gian và xuất thế gian giải quyết vấn đề của chính ḿnh, giải quyết vấn đề gia đ́nh, đoàn thể, quốc gia, thế giới, đều dùng giáo học. Giáo học làm đầu, đó là chân lư. Quư vị có thể thật sự tin tưởng, thật sự làm, quư vị có đại trí huệ, sẽ thật sự giải quyết vấn đề. Nếu quư vị không tin, mà nghĩ c̣n có biện pháp tốt đẹp hơn, làm theo cách ấy, đến khi đạt kết quả, đem so sánh với cách làm này, sẽ liền hiểu rơ. Trung Quốc từ xưa tới nay, măi cho đến thời đại Măn Thanh, đều tuân theo giáo huấn của cổ thánh tiên hiền, tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ, hiện thời b́nh thiên hạ được gọi là thế giới ḥa hài, không ǵ chẳng tuân thủ “giáo học làm đầu”. Gia đ́nh thực hiện tốt giáo dục trong gia đ́nh, xă hội cũng thực hiện tốt giáo dục, quốc gia cũng thực hiện tốt giáo dục, cả thế giới ḥa hài. Nếu chẳng thực hiện tốt giáo dục, chẳng có cách nào cả! Xă hội hiện thời loạn lạc như thế, tai nạn lắm như vậy, nguyên nhân thật sự là ǵ? Chúng ta vứt bỏ giáo dục, nên mới sanh ra phiền phức. Chư vị nhất định phải biết giáo dục [như vừa nói đó] chính là giáo dục luân lư. Thật sự hiểu rơ giáo dục luân lư, con người sẽ yêu thương nhau, con người biết tự yêu thương ḿnh. Luân lư là nói về quan hệ; quư vị hiểu rơ ràng, minh bạch các mối quan hệ, sẽ yêu thương người khác. Người khác là cha mẹ của ta, lẽ nào ta chẳng yêu thương họ? Hiểu rơ quan hệ, người khác là con cái của ta, lẽ nào chẳng yêu thương, quan tâm họ? Hiểu thông suốt Đại Thừa Phật pháp, quư vị mới thật sự giác ngộ, giống như trong kinh đức Phật đă nói: “Hết thảy người nam là cha ta, hết thảy người nữ là mẹ ta”. Đúng không? Đúng vậy, v́ sao là đúng? Đời đời kiếp kiếp, nhân quả ba đời. Trong hiện tại, nhờ thuật thôi miên, đă xảy ra những chuyện như thế này: Trong quá khứ, người kia là mẹ của kẻ ấy, nay biến thành con kẻ ấy, [người đă chết] quay trở lại. Gần đây nhất, tôi c̣n gặp được một người, cũng là một đồng tu học Phật, hai vợ chồng ông ta đều biết. Con gái ông ta kết hôn, sanh ra một đứa cháu gái chính là mẹ ông ta tái sanh, quư vị thấy: Bà nội cô ta do vô cùng yêu thích đứa cháu gái ấy nên đầu thai trở lại, làm con của cô ta. Quan hệ giữa người và người là như vậy! Từ vô lượng kiếp đến nay, chúng ta luôn có những mối quan hệ mật thiết như vậy, nhưng hễ chuyển thế bèn quên mất. Nếu quư vị có trí nhớ, những thứ trong A Lại Da đều được khôi phục, quư vị đều có thể nhớ kỹ, sẽ biết tất cả hết thảy mọi người có quan hệ với quư vị như thế nào. Lời Phật giảng là chân thật, chẳng giả. Không chỉ hết thảy mọi người có quan hệ với ta như thế, mà tất cả động vật và chúng ta cũng có mối quan hệ như vậy. Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Nhân tử vi dương, dương tử vi nhân” (Người chết thành dê, dê chết thành người). Đường nào trong lục đạo chúng ta cũng đă từng trải qua, thời gian lại rất dài, lại c̣n trải qua rất nhiều lần, chẳng phải là một hai lần, quan hệ mật thiết!

      C̣n nữa, theo luân lư được nói trong nhà Phật, cây cối, hoa, cỏ có quan hệ với chúng ta, núi, sông, đại địa có quan hệ với chúng ta, v́ sao? Do tâm tánh của chúng ta sanh ra, do A Lại Da của chúng ta biến. Quan hệ với chúng ta như thế nào? Rất mật thiết, nhất thể, có cùng một tự tánh thanh tịnh viên minh thể. V́ vậy, luân lư được giảng trong nhà Phật mới thật sự là giảng đến rốt ráo viên măn, chẳng có một thứ nào là ngoại lệ. Nếu không hiểu thông suốt mối quan hệ ấy th́ kinh Phật thường dùng một tỷ dụ để giảng giải rất hay! Tỷ dụ được dùng nhiều nhất để nói là “nằm mộng”. “Mộng, huyễn, bọt, bóng”, tỷ dụ chủ yếu là nằm mộng, c̣n huyễn, bọt nước, h́nh bóng là những ví dụ kèm thêm. Chúng ta đều có kinh nghiệm nằm mộng; quư vị hăy nhớ, khi nào tỉnh giấc mộng, hăy suy nghĩ: Người, vật, cây cối, hoa cỏ, núi, sông, đại địa, hư không trong giấc mộng ấy do đâu mà có? Người hiện thời bảo chúng do tâm ư thức biến hiện, nói cũng khá lắm, ư thức là thức thứ sáu. Thức thứ sáu có thể phân biệt, c̣n chủng tử th́ sao? Chủng tử ở trong A Lại Da thức. Quả thật hoàn toàn do chính ḿnh biến hiện, toàn bộ cảnh giới trong mộng đều do chính ḿnh biến hiện. Đối với những cảnh giới trước mắt, chúng ta học qua Duy Thức sẽ biết, toàn là Hiện Lượng của A Lại Da, là Tướng Phần và Hiện Lượng của A Lại Da. A Lại Da do đâu mà có? A Lại Da biến hiện từ chân tánh. Sau khi mê chân tánh, A Lại Da bèn xuất hiện. Ba tế tướng (nghiệp tướng, cảnh giới tướng và chuyển tướng) của A Lại Da biến hiện ra cái được Phật pháp gọi là “y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới”.

Lại mở rộng ra, sẽ giống như phẩm Hoa Tạng Thế Giới và Thế Giới Thành Tựu của kinh Hoa Nghiêm, chẳng có ngằn mé. Tự tánh không ǵ lớn có thể lọt ra ngoài, không ǵ nhỏ chẳng gồm trong, chẳng có ngằn mé, nhất thể! Tuy vậy, chúng ta chẳng có cách nào chứng đắc, do nguyên nhân nào? Phiền năo tập khí chẳng thể buông xuống được, quư vị sẽ chẳng thể chứng đắc, nhưng chúng ta tiếp nhận sự hun đúc của kinh giáo, hun đúc trong một thời gian dài, cũng hiểu rơ, minh bạch. Sự minh bạch ấy được gọi là “giải ngộ”. Ngộ có hai thứ:

- Một là minh bạch, tức là giải ngộ, nghe đức Phật nói [bèn hiểu rơ] chẳng sai.

- Loại thứ hai là chứng ngộ.

Chứng ngộ th́ mới có thụ dụng, v́ sao? Hoàn toàn là cảnh giới Hiện Lượng[2] của chính ḿnh. Giải ngộ chẳng phải vậy! Giải ngộ chẳng phải là cảnh giới Hiện Lượng, mà là cảnh giới Tỷ Lượng[3], là cảnh giới nương vào Thánh Ngôn Lượng[4] mà khởi. V́ thế, niệm Phật là giác ngộ, là Thỉ Giác. Thỉ Giác và Bổn Giác là một, không hai. Thỉ Giác của chúng ta trong hiện thời chính là giải ngộ, khi Bổn Giác hiện tiền sẽ là chứng ngộ. Quư vị thấy “Thỉ Giác hợp Bổn”, dùng phương pháp niệm Phật này để triệt ngộ tự tánh, có cùng một cảnh giới với đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh trong Tông Môn, chỉ là dùng phương pháp khác nhau. Một câu Phật hiệu niệm tới rốt ráo, niệm đạt đến Lư nhất tâm bất loạn, sẽ là đại triệt đại ngộ; khi ấy, cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai sẽ hiện tiền. Điều khẩn yếu là chính ḿnh phải thật sự làm! “Thật sự làm” là chính ḿnh thật sự buông xuống, thật sự làm chuyện ấy, coi nó là một đại sự phải thực hiện trong đời này th́ mới có thể thực hiện được trong một đời.

       “Kim sở niệm chi Phật, chánh ngă Bổn Giác” (nay vị Phật được niệm chính là Bổn Giác của ta), tức là tự tánh thanh tịnh viên minh thể. “Cố vân tŕ danh tức thị Thỉ Giác hợp Bổn” (nên nói tŕ danh chính là Thỉ Giác hợp với Bổn Giác). Cũng chớ nên quên tiêu chuẩn tŕ danh do Đại Thế Chí Bồ Tát đă giảng: “Đô nhiếp lục căn, tịnh niệm tương kế” (Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm nối tiếp), phải niệm như vậy th́ mới được. Nhiếp trọn sáu căn là buông xuống vạn duyên, niệm của quư vị sẽ là tịnh niệm. Nếu quư vị chẳng thể nhiếp trọn sáu căn, mắt sẽ chạy theo sắc tướng bên ngoài, tai sẽ ruổi theo thanh trần để nghe ngóng, tâm quư vị luôn hướng ra ngoài, đều đặt nơi cảnh giới lục trần, cũng tức là tâm quư vị tán loạn. Nhiếp trọn sáu căn, tâm bèn định; mắt ta chẳng thấy sắc, tai chẳng nghe tiếng, định rồi. Học theo Quán Thế Âm Bồ Tát xoay cái Nghe để nghe nơi tự tánh, tai vốn nghe bên ngoài, [nay] chẳng nghe bên ngoài nữa, mà nghe bên trong, bên trong là ǵ? Bên trong là tự tánh, quay đầu. Lục căn đều quay đầu, chẳng duyên theo bên ngoài, chẳng duyên theo cảnh giới lục trần bên ngoài, đấy là tự tánh vốn định. Hễ quay đầu th́ tự tánh vốn định, kinh Lăng Nghiêm [gọi điều ấy] là Thủ Lăng Nghiêm Đại Định. Tâm ấy đúng là tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng. Trong tịnh niệm ấy có một câu Phật hiệu, cho nên tịnh niệm ấy dễ tu. Nếu trong tịnh niệm ấy thứ ǵ cũng chẳng có, sẽ chẳng dễ dàng, phàm phu chúng ta không tu được! Phàm phu chúng ta có nhất niệm, nhất niệm là A Di Đà Phật. A Di Đà Phật tương ứng với Tánh Đức của tự tánh; A Di Đà Phật là đức hiệu của Tánh Đức. Niệm tới khi tự tánh Bát Nhă hiện tiền sẽ gọi là “hoát nhiên đại ngộ”, Lư nhất tâm bất loạn, Đại Thế Chí Bồ Tát dạy chúng ta [như vậy]. Nay chúng ta thực hiện th́ phải nhớ: Hăy thực hiện ở chỗ sáu căn tạm thời đừng khởi tác dụng nào khác, xa ĺa cảnh giới lục trần, t́m một nơi thanh tịnh để thâu gom cái tâm! Dùng hoàn cảnh để giúp đỡ chính ḿnh. Chẳng hoài nghi pháp môn này, chẳng hoài nghi Tịnh Độ, chẳng hoài nghi A Di Đà Phật, chẳng hoài nghi vị thầy trong đạo tràng chúng ta đang tu học, chẳng hoài nghi đồng học, quư vị sẽ chẳng bị chướng ngại! Một câu A Di Đà Phật này quư vị cứ niệm niệm tiếp nối, tiếp nối là chẳng gián đoạn, công phu đắc lực sẽ thành tựu. Ở đây, cụ Niệm Tổ giảng là “thị cố niệm niệm tương ứng, nhi niệm niệm tức Phật, thị hiển tŕ danh công đức bất khả tư nghị” (v́ thế, niệm niệm tương ứng, nhưng niệm niệm chính là Phật, tỏ rơ công đức tŕ danh chẳng thể nghĩ bàn).

“Hựu cứ Mật điển” (lại nữa, dựa trên kinh điển của Mật Tông), đây là điều được nói trong Mật Tông, “lục tự hồng danh trung nhất cá A tự, công đức dĩ thị vô lượng. Nhật Hưng Giáo đại sư viết: ‘Tự A tự xuất nhất thiết đà-la-ni, tự nhất thiết đà-la-ni sanh nhất thiết Phật” (công đức của một chữ A trong sáu chữ hồng danh đă là vô lượng. Hưng Giáo đại sư[5] của Nhật Bản nói: “Từ chữ A sanh ra hết thảy đà-la-ni, từ hết thảy đà-la-ni sanh ra hết thảy Phật”). Đấy là điều được nói trong kinh điển Mật Tông. “A” là chữ cái thứ nhất trong tiếng Phạn, tất cả văn tự (v́ tiếng Phạn dùng mẫu tự để ghép lại) đều từ chữ này diễn biến, nó là chữ cái thứ nhất. Giống như tiếng Anh dùng chữ A làm mẫu tự thứ nhất, A [trong tiếng Anh] cũng được phát âm là A [như trong tiếng Quan Thoại]. “Tự A tự xuất nhất thiết đà-la-ni” (từ chữ A sanh ra hết thảy đà-la-ni), Đà-la-ni là chú, quả thật trong hết thảy các bài chú đều có âm A này, nó chứa được vô lượng vô biên nghĩa. Tùy thuộc nó nằm trong câu chú nào, mà giảng như thế nào, nhưng thảy đều tương ứng với tự tánh. “Nhất thiết đà-la-ni sanh nhất thiết Phật” (hết thảy đà-la-ni sanh ra hết thảy Phật), Đà-la-ni (Dhāranī) là tiếng Ấn Độ, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Tổng Tŕ, [nghĩa là] “gồm chung hết thảy các pháp, nắm giữ hết thảy các nghĩa”. [Có những] chú chẳng dài, nhưng chú Lăng Nghiêm rất dài, có tới hai ngàn chữ.

“A Di Đà Phật” cũng là một chú ngữ, nhưng rất ngắn, [chỉ gồm] một câu là A Di Đà Phật. Bất luận bộ kinh điển nào, bất luận câu chú ngữ nào đều là một pháp môn, nhà Phật nói “tám vạn bốn ngàn pháp môn”; thật ra, không phải chỉ có vậy! Trọn đừng nên hiểu tám vạn bốn ngàn là con số, phải nói như thế nào? Phải hiểu [từ ngữ này biểu thị] sự đại viên măn. Quư vị thấy trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện có câu: “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học”, chẳng nói tám vạn bốn ngàn, [mà là] pháp môn vô lượng thệ nguyện học! Tám vạn bốn ngàn pháp môn mở rộng thành vô lượng pháp môn, vô lượng pháp môn quy nạp lại thành tám vạn bốn ngàn pháp môn. Do vậy, tám vạn bốn ngàn và vô lượng có cùng một ư nghĩa, phải biết điều này! Trong Tịnh Độ Tông, lại quy nạp, quy nạp tới cuối cùng, dùng “bảy” làm con số viên măn. “Bảy” có ư nghĩa ǵ? “Bảy” là Đông, Nam, Tây, Bắc, phía trên, phía dưới, gọi là “lục phương”, c̣n có chính giữa [thêm vào đó thành “bảy phương”], đó là viên măn. V́ thế, nó tượng trưng sự viên măn. “Thập” xét theo con số, từ một đến mười là viên măn, đều nhằm biểu thị sự đại viên măn, đừng hiểu là con số; nếu không, quư vị sẽ thấy sai!

Kinh Hoa Nghiêm nói “một chính là hết thảy, hết thảy chính là một”, lời này nói rất hay! Nói “một” là nói tới tự tánh, hết thảy các pháp đều do tự tánh sanh ra, hiện ra, biến ra. Trên thực tế, cái biến là A Lại Da, nhưng A Lại Da từ tự tánh thanh tịnh viên minh thể biến hiện; cho nên là một, không hai. Tự tánh là chân tâm, A Lại Da là vọng tâm, chân vọng chẳng hai. Bất luận là xét theo Lư, hay xét theo Sự, Phật pháp luôn dạy chúng ta, trọn pháp giới hư không giới hết thảy các pháp và chính ḿnh là một Thể. Thật sự nhận thức, thật sự chứng đắc trong tự tánh có vô lượng trí huệ, vô lượng từ bi, vô lượng đức hạnh tự nhiên lưu lộ. Trí huệ, đức hạnh, từ bi lưu xuất, trong cuộc sống, công việc, đăi người, tiếp vật, quư vị dùng ǵ? Dùng tâm từ bi, dùng trí huệ, dùng đức hạnh, vậy th́ quư vị là Phật, Bồ Tát, là đại thánh, đại hiền, giúp đỡ hết thảy chúng sanh quay đầu, giúp đỡ hết thảy chúng sanh tu hành chứng quả.

      Chúng ta đọc câu văn kế tiếp: “Hựu A tự chân ngôn, thập phương Phật tâm, chư Phật Pháp Thân, đồng sở gia tŕ” (Lại nữa, chân ngôn chữ A là tâm của mười phương chư Phật, Pháp Thân của chư Phật cùng gia tŕ). Ở đây, cụ Hoàng dùng chữ “hựu” v́ những điều này đều là lời giảng của Hưng Giáo đại sư người Nhật. Chữ A này là tâm của mười phương chư Phật, là tâm chú. Chữ A là Phật tâm, tâm chú, chúng ta thường nói [chữ A ấy] là “nguyên âm” của vũ trụ, nguyên là nguyên thủy, [“nguyên âm”] tức là âm thanh nguyên thủy, nguyên âm của vũ trụ là thanh âm A này! Tất cả hết thảy các âm thanh đều từ âm này biến hiện; v́ thế, nó là mẫu âm thứ nhất. Mẫu âm trong hết thảy các âm thanh được biến hiện từ nó; v́ thế, nó là Phật tâm. Đă là Phật tâm, đương nhiên nó được hết thảy chư Phật gia tŕ, Pháp Thân Phật gia tŕ.

Lại nói: “Tỳ Lô Xá Na, dĩ thử A tự danh vi Bí Tạng” (Tỳ Lô Xá Na Phật gọi chữ A này là Tạng Kín Nhiệm), “Bí” () ở đây chẳng phải là bí mật! Trong Phật pháp chẳng có bí mật, chuyện bí mật chẳng thể nói với người khác mới gọi là “bí mật”, c̣n trong Phật pháp, “bí” là thâm mật (sâu xa, kín nhiệm). Lư quá sâu, Sự quá rắc rối, vô lượng nhân duyên thành tựu một pháp. Chúng ta nói đơn giản nhất th́ trong sinh vật, [đơn giản nhất] là một tế bào, nhưng nói theo Phật pháp, tế bào cũng do vô lượng nhân duyên mới có thể sanh khởi. V́ thế, thường dùng chữ Bí Tạng. Dùng từ ngữ này để hiển thị ư nghĩa: Những Lư được bao hàm trong ấy quá sâu, duyên quá phức tạp, dùng chữ A này để biểu thị điều ấy.

“Hựu tam thân duy thuyết A tự nhất pháp” (lại nữa, ba thân chỉ nói một pháp chữ A), “tam thân” là Như Lai quả địa, tức Pháp Thân, Báo Thân, và Ứng Hóa Thân, đó là tam thân. Pháp Thân là Lư, Báo Thân và Ứng Hóa Thân đều là sự tướng. Báo Thân là Tự Thụ Dụng, có Tự Thụ Dụng và Tha Thụ Dụng. Ứng Hóa Thân hoàn toàn là Tha Thụ Dụng, trong ấy chẳng có Tự Thụ Dụng. Tự Thụ Dụng Báo Thân ở trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm; đồng thời, dùng thân này để dạy những vị vừa mới chứng Pháp Thân Phật. V́ quư vị chỉ cần buông vô minh xuống, buông vô thỉ vô minh xuống th́ cũng là như chúng tôi thường nói: “Đối với hết thảy các pháp, không khởi tâm, không động niệm”; đấy là buông xuống vô minh. Vẫn c̣n khởi tâm động niệm th́ không được, quư vị chưa buông xuống. Thật sự chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, sẽ kiến tánh. Kiến tánh, Báo Thân sẽ hiện tiền. Đối với Báo Thân, trong kinh, đức Phật đă dạy chúng ta: “Thân hữu vô lượng tướng, tướng hữu vô lượng hảo” (thân có vô lượng tướng, tướng có vô lượng hảo), bản thân quư vị biết, hàng Bồ Tát chứng đắc Báo Thân đều biết, họ thuộc về cảnh giới ngang nhau. V́ sao hảo? Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Thế Tôn dạy: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai”. Khi quư vị chứng đắc Báo Thân, hết thảy trí huệ, đức năng, tướng hảo trong tự tánh đều hiện ra toàn bộ. Ba thứ ấy là ǵ vậy? Chính là nửa phần trước của tựa đề bản kinh này, Đại Thừa là trí huệ, Vô Lượng Thọ là đức, Trang Nghiêm là tướng. Quư vị chứng đắc các điều kiện, tâm quư vị thật sự đạt được Thanh Tịnh, đạt được B́nh Đẳng, Giác là khai ngộ, toàn bộ đều ở trong tựa đề bản kinh! Tam thân cũng chỉ dùng một chữ A; trong một chữ này, thảy đều trọn đủ, [đó là] “A tự nhất pháp”.

       “Chư kinh quảng tán thử pháp công đức, văn danh xúc nhĩ, chúng tội băng tiêu, xướng thanh kiến tự, vạn đức vân tập” (Các kinh khen ngợi rộng răi công đức của pháp này, danh hiệu nghe lọt vào tai, các tội tiêu tan, xướng âm thanh, thấy mặt chữ, muôn đức nhóm về như mây), hai câu này nói rất hay. “Thiển quán đản tín, trực du Tịnh Độ, thâm tu viên trí, hiện chứng Phật đạo” (kẻ thấy biết nông cạn, chỉ tin tưởng, bèn về thẳng cơi Tịnh; người trí tu sâu trí vẹn, chứng Phật đạo trong hiện đời). Kẻ công phu nông cạn, nhưng chân tín, chân phát nguyện, cầu sanh Tịnh Độ, sanh về cơi Phàm Thánh Đồng Cư trong thế giới Cực Lạc; đấy là kẻ công đức nông cạn. Người sâu xa, trí huệ viên măn xuất hiện, dùng tựa đề bản kinh này để nói sẽ là “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, đạt được thanh tịnh, b́nh đẳng. Trong ấy cũng có cạn hay sâu khác nhau; v́ thế, giác có tiểu ngộ, có đại ngộ, có đại triệt đại ngộ khác nhau, v́ sao? Buông xuống nhiều hay ít khác nhau. Buông chấp trước xuống, nhưng chẳng buông phân biệt xuống, có giác hay không? Có, giác một ít, là A La Hán. Ít hơn A La Hán là Tu Đà Hoàn, nhưng đều phải buông chấp trước xuống, buông xuống nhiều hay ít khác nhau. Thật sự phải luyện, luyện sao cho hết thảy chấp trước đều chẳng cần tới, khi chúng ta sanh sang Tây Phương Tịnh Độ sẽ sanh vào cơi Phương Tiện Hữu Dư, không thuộc cơi Phàm Thánh Đồng Cư. Nếu phân biệt cũng buông xuống, không chỉ chẳng chấp trước, mà ư niệm phân biệt cũng chẳng sanh, khi sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, Phật đến tiếp dẫn, Phật quang chiếu gội, nâng cao công phu, gia tŕ quư vị sanh vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm, chứng tỏ pháp môn này thù thắng. Nói thật thà, học Thiền, học Giáo, học Mật, thật sự thành tựu trong một đời đều chẳng dễ dàng, duy nhất pháp môn này đúng là “vạn người tu, vạn người đến”.

      Ngay cả công phu buông xuống của Tu Đà Hoàn quư vị cũng chẳng làm được th́ cũng không sao cả! Chỉ cần quư vị có thể tin, thật sự bằng ḷng ra đi, chẳng đoạn một phẩm phiền năo cũng chẳng sao, sanh vào cơi Phàm Thánh Đồng Cư, hạ bối văng sanh. Thế giới Cực Lạc là một thế giới đặc biệt, đặc biệt ở chỗ nào? Đặc biệt ở chỗ “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, đặc biệt ở chỗ này. V́ vậy, trong một đời, sanh về thế giới Cực Lạc, thành A Duy Việt Trí Bồ Tát. A Duy Việt Trí Bồ Tát thường được hiểu là Sơ Trụ trong Viên Giáo, hay Sơ Địa trong Biệt Giáo, không chỉ vượt thoát lục đạo, mà c̣n vượt thoát mười pháp giới, họ văng sanh thế giới Cực Lạc là sanh vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Nhưng chúng ta ở trong thế giới này, một phẩm phiền năo cũng chưa đoạn, Ngẫu Ích đại sư nói, người [văng sanh] ấy thật sự là phàm phu, ngay cả [quả vị] Tu Đà Hoàn trong Tiểu Thừa [người ấy] vẫn chưa chứng đắc, cũng là như chúng ta thường nói là “chưa nhập môn”. Đối với Đại Thừa, nói theo kinh Hoa Nghiêm, người ấy chưa chứng đắc địa vị Sơ Tín trong Thập Tín, nhưng có thể văng sanh. Văng sanh thế giới Cực Lạc được hưởng thụ, tuy người ấy vẫn thuộc cơi Phàm Thánh Đồng Cư, nhưng hưởng thụ như thế nào? Trí huệ, thần thông, đạo lực bằng với hàng Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo. Người ấy chẳng phải là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, nhưng trí huệ và đức tướng bằng với hàng Sơ Trụ; đấy là do bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia tŕ. Nói cách khác, chẳng phải do chính người ấy có, mà do đức Phật ban cho người ấy được hưởng thụ giống hệt [hàng Pháp Thân đại sĩ]. V́ vậy, hạ hạ phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư có thể trở lại thế giới Sa Bà độ chúng sanh hay không? Có thể! Thật đấy, chẳng giả đâu! Người ấy có thể ở trong thế giới này độ chúng sanh th́ có bị mê hay không? Có khi bị mê! Nhưng mê th́ có bị đọa lạc hay chăng? Chẳng bị đọa lạc, v́ sao? Phật chiếu cố người ấy, Pháp Thân Bồ Tát chiếu cố người ấy. Trong kinh Kim Cang, đức Thế Tôn chẳng phó chúc đó ư? Phó chúc hàng đại Bồ Tát thường chiếu cố những vị tiểu Bồ Tát. Chữ “tiểu Bồ Tát” chỉ loại người này. Các Ngài gia tŕ, chỉ dạy người ấy khiến họ giác ngộ ngay lập tức. Bởi lẽ, người ấy rất dễ giác ngộ, rất dễ quay đầu, đạo lư ở chỗ này. V́ sao người ấy chẳng có thành tựu thật sự trong thế giới Cực Lạc mà lại đến [thế giới này]? Tâm người ấy từ bi thiết tha, thấy chúng sanh trong thế gian này quá đáng thương, nên tới đây. Chúng ta hiểu rơ ràng t́nh h́nh này, trên thế giới này, thật sự có người tái lai hay chăng? Thật sự có. Cớ sao bậc tái lai cũng hồ đồ? Người ấy vốn là tái lai từ cơi Phàm Thánh Đồng Cư nên mới có t́nh h́nh ấy, chứ trong cơi Phương Tiện quyết định chẳng có. Đặc biệt là người trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, những người thuộc bậc trung và bậc hạ giống như vậy cũng rất nhiều, nhất định là Phật và những vị đại Bồ Tát thường xuyên chiếu cố họ. Nếu chẳng chiếu cố họ, họ sẽ bị mê, thật sự bị mê.

       “A tự công đức như thị, cố Phật hiệu chi công đức khả tri hỹ” (chữ A có công đức như thế, nên có thể biết công đức của Phật hiệu vậy), một chữ đă có công đức chẳng thể nghĩ bàn, huống hồ câu danh hiệu A Di Đà Phật! Những điều được nói ở đây đều nhằm cực lực tán thán danh hiệu có công đức chẳng thể nghĩ bàn, chúng ta thật sự đă biết, quư vị niệm danh hiệu này tốt đẹp hơn niệm những thứ khác. Cổ đại đức nói lời thật: “Niệm kinh chẳng bằng niệm chú, niệm chú chẳng bằng niệm Phật”. V́ sao ngày nay chúng ta vẫn nhấn mạnh chuyện niệm kinh? V́ chúng ta chưa liễu giải công đức của danh hiệu này, niệm kinh nhằm giúp cho quư vị liễu giải, niệm kinh nhằm giúp quư vị phá nghi, khai ngộ. Niệm kinh cũng nhằm giúp đỡ quư vị thâu hồi cái tâm, v́ tâm quư vị tán loạn, chẳng phải là tịnh niệm. Dùng phương pháp niệm kinh để thâu hồi cái tâm, đều nhằm nhiếp trọn sáu căn. Niệm một bộ kinh, tâm định rồi, tâm thanh tịnh, thâu liễm tâm tư bộp chộp, xao động, rồi mới niệm Phật, công phu sẽ đắc lực, mang ư nghĩa như thế đó! Phải hiểu rơ ràng, minh bạch th́ mới có thể thật sự thu được hiệu quả.

      Cuối cùng, ở đây, lăo cư sĩ bảo chúng ta: “Thả thử nhất cú Phật hiệu, hạ thủ tối dị, vô phân nam, nữ, lăo, thiếu, bất luận trí, ngu, nhàn, mang, nhân nhân năng niệm, cá cá khả hành. Danh triệu vạn đức, diệu cảm nan tư” (Vả nữa, một câu Phật hiệu này thực hiện dễ dàng nhất, chẳng phân biệt nam, nữ, già, trẻ, bất luận trí, ngu, rảnh, bận, ai cũng có thể niệm, ai cũng có thể hành. Danh chiêu vời vạn đức, cảm ứng mầu nhiệm khó thể nghĩ tưởng). Cụ viết những câu này nhằm khuyên dạy chúng ta, một câu Phật hiệu này tu tập dễ dàng nhất; trong vô lượng pháp môn, chẳng có pháp môn nào dễ hơn được nữa, một câu Phật hiệu này là pháp dễ dàng nhất. V́ thế, chẳng phân biệt nam, nữ, già, trẻ, chẳng phân biệt trí, ngu, rảnh rỗi, bận bịu, mỗi cá nhân đều có thể niệm, lúc nào, chỗ nào cũng đều có thể niệm. Niệm Phật chớ nên câu thúc. Chúng ta nằm ngủ có thể niệm được chăng? Niệm được. Nằm ngủ chớ nên niệm ra tiếng, v́ sao? Niệm ra tiếng thương tổn thân, khí, [niệm thầm] có công đức giống hệt như [niệm ra tiếng]. [Niệm Phật] trong nhà vệ sinh dường như chẳng cung kính? Chẳng cung kính th́ chẳng niệm ra tiếng! Nếu không niệm ra tiếng mà chẳng thể nhiếp tâm th́ quư vị niệm ra tiếng là được rồi. Niệm ra tiếng có phải là thiếu cung kính hay chăng? Thiếu cung kính là chuyện nhỏ, v́ sao? Phật, Bồ Tát chẳng quở trách quư vị, chính quư vị nhiếp tâm mới là chuyện lớn! Lớn tiếng niệm Phật trong nhà vệ sinh mà Phật quở trách chúng ta, Ngài sẽ chẳng phải là Phật, Ngài sanh phiền năo, làm sao Phật có thể sanh phiền năo? Đâu có đạo lư ấy! Phật chỉ mong quư vị thành tựu, mong câu Phật hiệu này thật sự có thể khống chế phiền năo của quư vị. Niệm Phật chẳng có ǵ khác, mà v́ lẽ này! Quư vị chẳng niệm Phật, vọng niệm nổi lên, dùng câu Phật hiệu này để thay thế vọng niệm, vọng niệm chẳng c̣n nữa, toàn là câu Phật hiệu này. Vậy th́ quư vị đă công phu thành phiến, thật sự đạt công phu thành phiến, có thể văng sanh bất cứ lúc nào. Trong công phu thành phiến cũng có ba bậc chín phẩm, ba phẩm thuộc bậc thượng văng sanh tự tại, muốn đi lúc nào bèn đi lúc đó, muốn ở lại thêm mấy năm cũng chẳng trở ngại. Đấy là kỳ vọng của A Di Đà Phật, chư Phật, Bồ Tát đối với chúng ta, đó gọi là ǵ? Đó là cung kính thật sự! Cung kính chẳng phải các thứ chấp trước h́nh thức trong thế gian này; nhưng chúng ta cũng phải coi trọng h́nh thức, v́ sao? Tránh cho người khác tạo khẩu nghiệp, chủ yếu là ở chỗ này. Kẻ mới học chẳng biết, nghĩ quư vị thiếu cung kính, bèn tạo khẩu nghiệp, họ trông thấy, khó chịu, phê b́nh quư vị. Kẻ ấy chẳng liễu giải Phật pháp thấu triệt. Liễu giải thấu triệt th́ người ta thấy hiện tượng ấy vẫn chẳng khởi tâm, không động niệm, chớ hề có phân biệt, chấp trước. Lư và Sự chúng ta đều phải hiểu rơ ràng, minh bạch. Do vậy, nếu hiểu th́ ai nấy đều có thể niệm, ai nấy đều có thể hành.

       “Danh triệu vạn đức, diệu cảm nan tư”. Đối với câu này, chúng tôi nghĩ đến lời tựa rất dài do Mai Quang Hy đại sư đă viết ở trước [phần chánh văn của] bản kinh này nhằm giới thiệu cặn kẽ bản hội tập này. Trong phần phụ lục của bản giảng nghĩa này có bài tựa ấy, quư vị hăy nên đọc, trong ấy, có những thông tin rất quan trọng. Cụ đă giảng thấu triệt câu “danh triệu vạn đức, diệu cảm nan tư” này. Trong ấy, có một đoạn giảng giải như thế này: Vào thời đại Tùy - Đường, đúng là vào thời đó, cao tăng đại đức quá nhiều. Trong [bản chú giải] kinh này, đă trích dẫn lời các pháp sư Đại Hàn và Nhật Bản, đều là những người đă đến Trung Quốc du học vào thời ấy. Sau khi trở về, họ bèn trở thành khai sơn tổ sư của nhiều tông phái. Những vị ấy đă thân cận Thiện Đạo đại sư, thân cận Trí Giả đại sư, có quan hệ hết sức sâu dầy với các Ngài. Trong bản Đại Kinh Giải này, lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ đă trích dẫn bọn họ rất nhiều. Họ từng nghĩ, trong hết thảy các kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong bốn mươi chín năm, bộ kinh nào quan trọng nhất, có thể đại diện cho những ǵ lăo nhân gia đă nói suốt cả một đời? Kết quả là hết thảy mọi người đều tôn sùng Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. V́ thế, kinh Hoa Nghiêm được xưng tụng là “kinh trung chi vương” (vua của các kinh), cũng có nghĩa là hết thảy những kinh khác do đức Phật đă nói trong bốn mươi chín năm đều là quyến thuộc của Hoa Nghiêm; kinh Hoa Nghiêm là chánh yếu nhất, mọi người đều công nhận. Tôi tiếp xúc Phật pháp là do giáo sư Phương Đông Mỹ giới thiệu. Cụ nói kinh Hoa Nghiêm là khái luận của toàn bộ Phật học, cũng là tôn sùng kinh đến vị trí trọng yếu nhất, tức là [kinh Hoa Nghiêm] là khái luận [của toàn bộ] triết học trong kinh Phật. Kinh Hoa Nghiêm tới cuối cùng, thành tựu viên măn ra sao? Hai vị đại Bồ Tát Văn Thù và Phổ Hiền hướng dẫn bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ trong hội Hoa Nghiêm cầu sanh Tịnh Độ, tới thế giới Cực Lạc để gặp A Di Đà Phật, tới thế giới Cực Lạc để tham học, như vậy th́ mới thành tựu. [Kinh Hoa Nghiêm] dẫn về Cực Lạc, mà bộ kinh này chuyên giảng Cực Lạc, cũng có nghĩa là kinh Hoa Nghiêm tới cuối cùng quy vào kinh Vô Lượng Thọ. Vậy th́ kinh Vô Lượng Thọ cao hơn kinh Hoa Nghiêm, không dưới Hoa Nghiêm, mà ở trên Hoa Nghiêm; nhưng Hoa Nghiêm khó khăn! Nhập cảnh giới Hoa Nghiêm phải tu Pháp Giới Quán, chẳng phải là chuyện dễ dàng! Kinh này c̣n cao hơn kinh Hoa Nghiêm, nhưng dùng một câu A Di Đà Phật là có thể thành tựu. Nói cách khác, một câu A Di Đà Phật bèn nhập cảnh giới Hoa Nghiêm; cho nên kinh Vô Lượng Thọ được xếp vào bậc nhất.

       Bản kinh Vô Lượng Thọ hiện thời của chúng ta là bản hội tập, chia toàn bộ bản kinh thành bốn mươi tám phẩm, nói là “bốn mươi tám chương” cũng được, do lăo cư sĩ Hạ Liên Cư phân chia. Trong bốn mươi tám phẩm ấy, phẩm nào trọng yếu nhất? Chúng ta t́m phẩm trọng yếu nhất, đương nhiên là phẩm thứ sáu. Phẩm thứ sáu do đích thân A Di Đà Phật giảng, chẳng phải do Thích Ca Mâu Ni Phật nói, mà do chính A Di Đà Phật nói, Thích Ca Mâu Ni Phật chỉ thuật lại, kể cho chúng ta biết. Từng câu, từng chữ trong bốn mươi tám nguyện đều do A Di Đà Phật nói. Bốn mươi tám nguyện th́ có bốn mươi tám điều, điều nào trọng yếu nhất? Trong quá khứ, các tổ sư đại đức cũng công nhận nguyện thứ mười tám quan trọng nhất. Nguyện thứ mười tám là ǵ? Mười niệm ắt văng sanh. Do vậy, tại Nhật Bản có tông phái gọi là Bổn Nguyện Niệm Phật. Họ dựa vào nguyện thứ mười tám, niệm A Di Đà Phật bèn thành công. Chẳng sai! Cổ đại đức Nhật Bản sáng lập pháp môn này, các Ngài thành tựu, nhưng người hiện thời tu học pháp môn ấy, tôi thấy rất nhiều vấn đề, vấn đề to lớn, v́ sao? Họ không hiểu giáo nghĩa. Cổ đại đức dùng một câu A Di Đà Phật này, nhưng họ có cơ sở, họ hiểu rơ, c̣n những người học theo hiện thời, một tí lư luận trong các bộ đại kinh, đại luận, họ cũng không biết, chấp tŕ một câu danh hiệu này, phiền năo lẫn tập khí đều chẳng đoạn, làm sao có thể thành tựu cho được? Họ cũng chẳng thật sự phát tâm. Tông chỉ của kinh này là “phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”, họ có một mực chuyên niệm, nhưng chẳng phát Bồ Đề tâm. Bồ Đề tâm là ǵ? Chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi. Cổ nhân niệm một câu A Di Đà Phật này, quư vị quan sát cẩn thận, thật vậy, các Ngài có tâm ấy, cho nên các Ngài tương ứng. Người niệm Phật hiện tại dùng vọng tâm, tự tư tự lợi, tham cầu tiếng tăm, lợi dưỡng, tham cầu hưởng thụ ngũ dục, lục trần, lại c̣n tổn người, lợi ḿnh, làm sao có thể văng sanh? Niệm câu danh hiệu này, họ chỉ có thể đạt được lợi ích là gieo một chủng tử niệm Phật trong A Lại Da Thức, sẽ có thành tựu trong đời kế tiếp hay đời sau nữa, chứ đời này họ chẳng thể thành tựu. Chúng ta chớ nên không biết điều này!

      Lại giảng Bồ Đề tâm rơ ràng, trong phần trước của bản chú giải này, chúng ta đă đọc thấy “phát Bồ Đề tâm là phát tâm thành Phật, phát tâm làm Phật. Phát tâm làm Phật là phát tâm độ chúng sanh”. Chẳng có cái tâm giúp đỡ và thành tựu chúng sanh, niệm câu A Di Đà Phật sẽ chẳng tương ứng với thế giới Cực Lạc. V́ thế, Ngẫu Ích đại sư đă giảng rất hay, trong phần trước, chúng ta đă đọc rồi, có thể văng sanh hay không được quyết định bởi có tín nguyện hay không? Phẩm vị cao hay thấp do công phu niệm Phật cạn hay sâu. Ngài nói lời này hay quá! Bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật được hết thảy chư Phật Như Lai tán thán, v́ sao? Rộng độ chúng sanh, thích hợp khắp ba căn, thâu trọn lợi căn lẫn độn căn. Trong tâm A Di Đà Phật chẳng có ǵ khác, niệm niệm luôn giúp đỡ chúng sanh mau chóng thành Phật giống hệt như Ngài. Sau khi thành Phật, sẽ phổ độ chúng sanh. Ngài chẳng tự tư tự lợi, chẳng tạo tiếng tăm, lợi dưỡng; ngày nay chúng ta niệm Phật gặp chướng ngại lớn nhất, vấn đề là ở chỗ này! Do vậy, trong hai mươi, ba mươi năm gần đây, tôi thường nói, thường khuyên dạy các đồng học, chính ḿnh cũng phải thật sự làm, buông tự tư tự lợi xuống. Tôi lớn tuổi như vậy, đă ngoài tám mươi, người đă nên chết rồi, sống một ngày phải báo ân Phật một ngày. Báo ân Phật là ǵ? Tự hành, khuyên người khác. Mỗi ngày đọc tụng kinh Vô Lượng Thọ, tuân theo lư luận và phương pháp trong kinh Vô Lượng Thọ để tu học nhằm tự lợi; đồng thời chia sẻ những điều tâm đắc trong sự học tập của chính ḿnh với các đồng học hữu duyên, kinh gọi đó là “tâm độ chúng sanh”. Sống một ngày, làm một ngày, có nghĩ tới ngày mai hay không? Không nghĩ tới ngày mai, chẳng có ngày mai, tám mươi tuổi đă đáng nên chết, c̣n mong tưởng ǵ nữa! Sống một ngày bèn làm một ngày, sống hai ngày bèn làm hai ngày, điều ǵ cũng chẳng nghĩ tới, điều ǵ cũng đều buông xuống. Năm xưa, lăo cư sĩ Triệu Phác Sơ, vị này là bậc trưởng thượng, là trưởng bối của chúng tôi, hết sức yêu thương tôi, mà cũng rất quan tâm, khuyên tôi rất nhiều lần, lá rụng về cội! Tôi là người vô cùng hoài niệm cái cũ, đối với quê nhà có t́nh chấp rất sâu, bao nhiêu năm nghĩ tới quê cũ, nơi quê cũ c̣n có tiểu miếu, thật ra là Thiền Tự, tôi tính trùng tu. Nhiều năm như vậy, tôi biết nhất định sẽ gặp khó khăn, đấy cũng là một thứ t́nh chấp, cần phải buông xuống. Quê nhà của chư Phật, Bồ Tát ở đâu? Trọn khắp pháp giới hư không giới, chẳng phải là một chỗ, nơi nào cũng đều là [quê nhà], hết thảy thời, hết thảy chỗ, hết thảy chúng sanh và chính ḿnh đều cùng một Thể. V́ vậy, ắt phải buông xuống loại t́nh chấp ấy, chẳng c̣n nghĩ tới nữa! Trong thế giới này, cả xă hội đều đang động loạn, tai nạn dồn dập, nơi nào có duyên bèn đến nơi đó, mỗi ngày đều nghĩ là ngày cuối cùng của ta, không nghĩ tới ngày mai, chẳng có ngày mai, ta ở trong thế gian này cho tới hôm nay bèn kết thúc. Điều ǵ trọng yếu nhất? Niệm Phật trọng yếu nhất, khuyên người khác niệm Phật trọng yếu nhất. Trừ điều này ra, chuyện ǵ cũng đều chẳng khẩn yếu, đều nên triệt để buông xuống!

      Do vậy, quư vị hiểu một câu danh hiệu này, danh hiệu triển khai thành bốn mươi tám nguyện, một câu danh hiệu này tổng nhiếp bốn mươi tám nguyện, bốn mươi tám nguyện triển khai thành kinh Vô Lượng Thọ, kinh Vô Lượng Thọ triển khai thành Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh triển khai thành hết thảy các pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong bốn mươi chín năm. Quư vị thấy cương lănh là một câu A Di Đà Phật, quư vị mới thật sự hiểu “danh triệu vạn đức, diệu cảm nan tư”. Hết thảy các kinh được nói trong bốn mươi chín năm quy về kinh Hoa Nghiêm, kinh Hoa Nghiêm quy về Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Thọ quy vào bốn mươi tám nguyện, bốn mươi tám nguyện quy vào một câu Phật hiệu này! Nếu lại khuếch đại, khuếch đại hết thảy các pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong bốn mươi chín năm sẽ là vô tận pháp môn do mười phương ba đời hết thảy chư Phật đă nói. Thật vậy, chẳng giả! Quư vị hiểu rơ đạo lư này, mới biết một câu Phật hiệu này chẳng thể nghĩ bàn, v́ sao quư vị chẳng niệm? V́ sao niệm gián đoạn? Vậy là quư vị lầm lẫn quá đỗi rồi! Mấy ai biết bí mật này? Người thật sự biết quá ít!

      Chúng ta thấy phần cuối c̣n có mấy câu: “Tùng hữu niệm xảo nhập vô niệm, tức phàm tâm đốn hiển quả đức” (Từ hữu niệm khéo nhập vô niệm, dùng ngay cái tâm phàm để nhanh chóng hiển bày quả đức), lời này là thật. Phàm phu thành Phật, dùng pháp môn này rất nhanh chóng, một đời thành tựu, đơn giản, dễ dàng, ổn thỏa, thích đáng, đáng tin cậy, t́m pháp môn nào khác giống như vậy chẳng ra! Cuối cùng, cụ nói: “Như Sớ Sao vân” (như sách Sớ Sao viết), tức là Liên Tŕ đại sư nói, “tề chư thánh ư phiến ngôn” (bằng chư thánh trong một lời), “phiến ngôn” là danh hiệu, “tề” () là b́nh đẳng với họ, “chư thánh” là ai? Bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ, quư vị dùng một câu Phật hiệu này sẽ b́nh đẳng với họ, thật đấy! V́ sao biết là thật? Chính A Di Đà Phật nói ra, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát, chẳng phải là b́nh đẳng hay sao? A Duy Việt Trí Bồ Tát là bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ. “Việt tam kỳ ư nhất niệm” (vượt khỏi ba đại A-tăng-kỳ kiếp trong một niệm), “việt” () là siêu việt (vượt trỗi, vượt thoát), “tam kỳ” là ba đại A-tăng-kỳ kiếp, một câu A Di Đà Phật này bèn vượt qua, chẳng cần phải tốn thời gian dài như thế, trong đời này văng sanh thế giới Cực Lạc, bèn vượt hơn những vị Bồ Tát đă tu trong ba đại A-tăng-kỳ kiếp. “Cực viên, cực đốn, chí giản, chí dị” (cực viên, cực đốn, đơn giản, dễ dàng tột bậc), đơn giản đến tột bậc, dễ dàng tới tột bậc, viên cực, đốn cực. Được làm thân người, nghe Phật pháp, gặp gỡ pháp môn như thế này, quả thật không dễ dàng!

       “Cố tri phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm, bất đản vi bổn kinh chi cương tông, thật diệc vi nhất Đại Tạng giáo chi chỉ quy dă” (Nên biết phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm chẳng phải chỉ là cương lănh và tông chỉ của kinh này, mà quả thật cũng là chỗ chỉ quy của giáo pháp trong Đại Tạng vậy). Lời kết luận cuối cùng hay quá! V́ thế, người tu Tịnh Tông chúng ta muốn thành tựu trong một đời này, nhất định phải biết tám chữ ấy, quư vị phải hiểu rất rơ ràng, phải biết rất thâm nhập, phải phát Bồ Đề tâm. Phát Bồ Đề tâm th́ nhất định phải phát tâm làm Phật, ta phải thành Phật trong một đời này. V́ sao phải thành Phật? Ta phải độ chúng sanh, phải giúp đỡ hết thảy chúng sanh khổ nạn, mong mỏi họ đều có thể thành Phật giống như ta! Nếu quư vị có tâm như vậy, có nguyện như vậy, một câu A Di Đà Phật này sẽ có cảm ứng chẳng thể nghĩ bàn. V́ thế, [tám chữ ấy] không chỉ là cương yếu và tông chỉ của kinh Vô Lượng Thọ, mà nói thật ra, nó là chỉ quy của hết thảy kinh giáo do Thích Ca Mâu Ni Phật đă giảng trong bốn mươi chín năm. “Chỉ quy” có ư nghĩa giống như cương tông (cương yếu, tông chỉ). Nói cách khác, thọ tŕ một câu A Di Đà Phật này, thật sự phát tâm làm Phật, phát tâm độ chúng sanh, giúp đỡ hết thảy chúng sanh thoát ĺa biển khổ, ĺa khổ được vui, quư vị có cái tâm ấy, sẽ có hành vi ấy. Giúp đỡ ra sao? Phải nói tường tận, rơ ràng pháp môn và kinh điển này cho họ biết, họ mới có thể ĺa khổ rốt ráo, được vui rốt ráo. Do vậy, đại thánh đại hiền thế gian và xuất thế gian giúp đỡ hết thảy chúng sanh khổ nạn chỉ dùng phương pháp giáo học. Tự ḿnh giải quyết vấn đề của chính ḿnh, cũng là nghiêm túc học tập th́ mới có thể làm được. Chính ḿnh chẳng nghiêm túc học tập, sẽ chẳng có cách nào giúp đỡ người khác. Giúp đỡ cả nhà, giúp đỡ toàn bộ xă hội, giúp đỡ cả thế giới đều do cùng một đạo lư này. V́ vậy, nhất định phải nghiêm túc nỗ lực nêu gương tốt cho mọi người thấy, người ta sẽ tin tưởng. Hôm nay hết thời gian rồi, chúng ta học tập tới đây.

 

Tập 28

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang hai mươi tám. Đoạn Ất, “thứ minh Thú” (kế tiếp giảng về Thú). Xin xem phần kinh văn ấy:

       “Phù Tông chi sở quy giả, danh Thú. Phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm chi sở quy, tại ư văng sanh Cực Lạc Tịnh Độ, chứng tam Bất Thoái. Cố bổn kinh dĩ viên sanh tứ độ, kính đăng Bất Thoái vi Thú” (phàm chỗ Tông quy vào th́ gọi là Thú. Chỗ quy về của “phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm” là văng sanh Cực Lạc Tịnh Độ, chứng ba thứ Bất Thoái. V́ thế, kinh này lấy “sanh trọn vẹn trong bốn cơi, mau chóng đạt lên Bất Thoái” làm Thú). Trước hết, giải thích đơn giản, dễ hiểu tiểu đề của khoa này. Trong phần trước, đoạn thứ nhất giảng về Minh Tông, tức là giảng rơ nguyên tắc chỉ đạo tu học tối cao của bộ kinh này, đó cũng là phương hướng. Trong đoạn này, Thú () là thú hướng (hướng đến), quy thú (hướng về), chúng ta nương theo tông chỉ và nguyên tắc chỉ đạo này để học tập, cuối cùng chúng ta sẽ đạt được kết quả như thế nào. Đấy là Thú.

Do trong phần trước đă nói tông chỉ là “phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”, hai câu ấy trọng yếu phi thường! Phát Bồ Đề tâm là ǵ, phải hiểu rơ ràng, minh bạch. Trong phần trước, nói đơn giản th́ phát Bồ Đề tâm là “phát tâm thành Phật, tâm làm Phật”. Làm Phật nghĩa là ǵ? Làm Phật là muốn phổ độ hết thảy chúng sanh, giúp đỡ những chúng sanh mê hoặc, điên đảo ấy được giống như chư Phật, giống hệt như chính ḿnh, cũng đều trở về tự tánh, đều chứng đắc Bồ Đề rốt ráo viên măn, đấy là Thú. Niệm niệm chẳng đánh mất Bồ Đề tâm, câu này rất trọng yếu. Kinh Hoa Nghiêm có nói: Nếu quư vị quên mất Bồ Đề tâm, hết thảy các pháp đă tu đều là ma nghiệp. “Nghiệp” là sự nghiệp, quư vị làm những việc ấy đều dính dáng tới ma! V́ sao? Đều là phước báo trong tam giới, chẳng thoát khỏi lục đạo luân hồi, đó gọi là ma! Phật là vượt thoát luân hồi, vượt thoát mười pháp giới. Quư vị chẳng thể thoát ra, đó gọi là “vùi dập”, quư vị vẫn bị vùi dập trong lục đạo, phải liễu giải rất rơ ràng, rất minh bạch ư nghĩa này.

      V́ thế, chúng ta học Phật, mục tiêu là thế giới Cực Lạc, cuối cùng chúng ta văng sanh thế giới Cực Lạc, khi nào? Ngay trong một đời này. Tới thế giới Cực Lạc để làm ǵ? Đến chứng ba món Bất Thoái. Vị Bất Thoái là vĩnh viễn chẳng c̣n lui xuống địa vị phàm phu trong mười pháp giới. Chư vị phải biết: Lục đạo trong mười pháp giới gọi Nội Phàm, [nghĩa là] phàm phu c̣n thuộc trong tam giới. Tứ thánh pháp giới gọi là Ngoại Phàm, [tức là] ở ngoài lục đạo, nhưng chưa ra khỏi mười pháp giới th́ vẫn phàm phu. Tiêu chuẩn [phân biệt] phàm và thánh ở nơi đâu? Phàm phu dùng A Lại Da, tức vọng tâm; thánh nhân dùng chân tâm, dùng tự tánh, sai biệt ở chỗ này. Chỉ cần dùng A Lại Da, sẽ chẳng thoát khỏi mười pháp giới. Tuy tứ thánh pháp giới dùng vọng tâm, nhưng dùng chính đáng, hoàn toàn tuân theo giáo huấn của Phật, Bồ Tát, y giáo phụng hành. V́ thế, rất giống Phật, Bồ Tát, tuy chưa phải là chân thật, nhưng rất tương tự, tuy trên thực tế chẳng giống, cũng tức là họ chưa chuyển Thức thành Trí. Chuyển bát thức thành tứ trí, sẽ là Phật thật sự, là thánh nhân thật sự. Chúng ta hiểu rơ ràng, minh bạch những Sự Lư này, chính ḿnh là hạng người như thế nào, chẳng cần phải hỏi [người khác], chính ḿnh biết quá rơ ràng! Ta là phàm phu, hay là Phật, Bồ Tát chẳng rơ rệt hay sao? Nếu là phàm phu, hăy nghiêm túc, nỗ lực, nương theo Tông Thú trong kinh giáo để tu hành. Bồ Đề tâm là tâm thành Phật, tâm độ chúng sanh. Thành Phật bằng cách nào? Độ chúng sanh ra sao? Thưa quư vị, [chính là] chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi, dùng những điều ấy để viên thành Phật đạo, mà vẫn dùng những điều ấy để giáo hóa chúng sanh sẽ chẳng sai! Tự ḿnh thành tựu chẳng dễ dàng, giáo hóa chúng sanh càng khó hơn. V́ thế, đem những ǵ chính ḿnh đă tu, đă hành đưa về Tịnh Độ, cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, chuyện này dễ dàng, đỡ tốn công hơn! Sanh sang Tây Phương Cực Lạc thế giới, tuy chưa đoạn tập khí phiền năo, nhưng cũng giống như đă chuyển Thức thành Trí. Trong thế giới Cực Lạc, trong một đời, chắc chắn chứng đắc quả vị rốt ráo, [chứng đắc] Vị Bất Thoái, Hạnh Bất Thoái, Niệm Bất Thoái.

      “Cố bổn kinh dĩ viên sanh tứ độ” (nên kinh này lấy sanh trọn vẹn về bốn cơi), phía trước thêm một chữ Viên, Viên là viên măn. Đối với bốn cơi ấy, quư vị chỉ cần sanh vào một cơi, bốn cơi đều viên măn! Hơn nữa, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, liền chứng đắc ba món Bất Thoái. Lời nguyện thứ mười chín của A Di Đà Phật đă bảo rơ ràng: Văng sanh thế giới Cực Lạc đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát. A Duy Việt Trí là [đạt được] ba món Bất Thoái, quư vị bèn viên chứng ba thứ Bất Thoái. Đây là điều hiếm có, khó gặp! Phải biết chuyện này là chân thật, nên chuyện này mới gọi là “đại sự”. Trọn pháp giới, hư không giới, trong hết thảy các cơi Phật, chẳng có chuyện nào lớn hơn chuyện này! Ngày nay chúng ta may mắn gặp gỡ, há chẳng cảm ơn? Há chẳng trân trọng! Há chẳng phát tâm thành tựu trong một đời này? Vậy là quư vị đă lầm lẫn quá đỗi, chẳng có ǵ quan trọng hơn chuyện này. Phải như thế nào th́ mới được? Tổ Ấn Quang dạy chúng ta, đem chữ “Tử” dán trên trán, thời thời khắc khắc nghĩ ta sắp chết, điều ấy có nghĩa là ǵ? Khiến cho quư vị buông thân, tâm, thế giới xuống, “phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”, dạy quư vị điều ấy. Tôi cũng thường nói, hoặc khuyên lơn, cổ vũ đồng học: Hăy coi ngày hôm nay như ngày cuối cùng của ta trên thế gian này, ngày hôm nay là ngày cuối cùng của ta, chuyện ǵ nên làm, chuyện ǵ chớ nên làm, há chẳng phải là rơ ràng, minh bạch ư? Chuyện nên làm là phát tâm niệm Phật, cầu Phật tiếp dẫn, những chuyện khác đều kém quan trọng hơn. Trong những chuyện thứ yếu, thứ nhất giúp đỡ chúng sanh hữu duyên, khuyên dạy họ phát tâm niệm Phật, đấy là chuyện thứ yếu. Chuyện kém quan trọng hơn có thể buông xuống. Khi cần thiết, chuyện này cũng có thể buông xuống; về thế giới Cực Lạc trước đă! Đến thế giới Cực Lạc, sau khi thành tựu rồi sẽ trở lại cũng chẳng muộn! Đây là đại sự nhân duyên khiến đức Thế Tôn xuất hiện trên thế gian, chúng ta chớ nên không biết đại sự nhân duyên này, chớ nên chẳng nắm chắc duyên phận này.

      Trong phần tiếp theo, chúng ta cũng phải học tập kỹ càng đoạn kinh văn này, [những điều nói trong đoạn này] đều là kinh văn! Biết chúng ta phải sanh về đâu; trước hết, phải hiểu rơ ràng, minh bạch chỗ ta sẽ sanh về. “Phù Tịnh Độ hữu tứ độ” (phàm Tịnh Độ có bốn cơi). [Chữ “phù”] ở đầu câu này là một ngữ trợ từ (tiếng đệm) trong Văn Ngôn, chẳng có ư nghĩa ǵ. Ở đây nói Tịnh Độ có bốn thứ: Thứ nhất là cơi Phàm Thánh Đồng Cư, thứ hai là cơi Phương Tiện Hữu Dư, thứ ba là cơi Thật Báo Trang Nghiêm, thứ tư là Thường Tịch Quang Tịnh Độ. “Dĩ hạ lược thuyết minh tứ độ văng sanh chi tướng” (dưới đây, nói đại lược tướng văng sanh trong bốn cơi). Tiếp đó, đoạn Minh Thú này chia thành bốn đoạn. Chúng ta xem đoạn thứ nhất, tức cơi Phàm Thánh Đồng Cư. [Danh xưng này] nêu rơ nơi ấy vừa có phàm phu, vừa có thánh nhân. Nói cách khác, từ lục đạo tới tứ thánh pháp giới, nếu tiến cao lên th́ có Đại Thừa và Tiểu Thừa. Tiểu Thừa có Tứ Quả và Tứ Hướng[6], Đại Thừa theo như kinh Hoa Nghiêm nói có năm mươi mốt giai vị, tức [năm mươi mốt] địa vị Bồ Tát. Trong phạm vi của cơi Phàm Thánh Đồng Cư, [thánh và phàm] đều ở cùng một chỗ, nên gọi là cơi Phàm Thánh Đồng Cư. Tuy ở cùng một nơi, chiều không gian (spatial dimensions, không gian duy thứ) của mỗi tầng lớp khác biệt.

      Chúng ta xem tiếp, đoạn văn tự kế tiếp là: “Cực Lạc thế giới chi Phàm Thánh Đồng Cư độ, thị đồng cư Tịnh Độ” (Cơi Phàm Thánh Đồng Cư trong thế giới Cực Lạc là cơi Tịnh Độ đồng cư). Hăy chú ư chữ “Tịnh”, nó là Đồng Cư Tịnh Độ, khó có! V́ sao? Phàm phu, tức lục đạo phàm phu, ở trong thế giới ấy tiếp nhận sự giáo huấn của A Di Đà Phật, khiến cho chúng ta nghĩ đến câu nói của tổ tông: “Kiến quốc, quân dân, giáo học vi tiên” (kiến thiết đất nước, cai trị nhân dân, giáo học làm đầu). Tam Tự Kinh giảng rất hay: “Nhân chi sơ, tánh bổn thiện; tánh tương cận, tập tương viễn; cẩu bất giáo, tánh năi thiên” (Con người thoạt đầu tánh vốn lành, tánh gần giống nhau, do huân tập mà thành khác nhau. Nếu chẳng dạy, tánh sẽ biến đổi). Thế giới Cực Lạc hoàn toàn thực hiện những ǵ đă nói trong câu này. Trong thế giới Cực Lạc, A Di Đà Phật dạy mỗi ngày, A Di Đà Phật rất tuyệt vời! Ngài chứng nhập tự tánh viên măn; v́ thế, Tánh Đức khởi tác dụng, thật sự phát huy tác dụng đến tột cùng. Nghĩa là sao? Thế giới Cực Lạc có bao nhiêu chúng sanh, A Di Đà Phật liền biến hóa bấy nhiêu thân. Mỗi cá nhân đối diện A Di Đà Phật, A Di Đà Phật đích thân chỉ dạy. Đấy là Tánh Đức phát huy viên măn. Đồng thời, phàm phu trong thế giới Cực Lạc, do [tất cả nhân dân trong] thế giới Cực Lạc đều là thiện tâm, đều tu thiện, cho nên chỉ có thiện đạo, chẳng có ác đạo. Lục đạo trong cơi ấy chỉ gồm hai đường, chẳng có A Tu La, chẳng có ngạ quỷ, địa ngục, súc sanh, chỉ có hai đường nhân thiên, khác hẳn! Nhưng nhân thiên bên đó, do được bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia tŕ, trong phần trước chúng ta đă học, họ đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát. Điều này có nghĩa là: Tuy họ là phàm phu, nhưng cuộc sống vật chất, cuộc sống tinh thần, đời sống tu hành, đều hưởng thụ giống hệt, có cùng một mức độ như Pháp Thân Bồ Tát. Pháp Thân Bồ Tát cũng có thể hóa vô lượng vô biên thân, giống như A Di Đà Phật, họ có thể hóa ra vô lượng vô biên thân. Hóa thân để làm ǵ? Hóa thân tới hết thảy các cơi Phật trong mười phương để cúng Phật, nghe pháp, chẳng thể nghĩ bàn! Cúng Phật là tu phước, tu vô lượng vô biên phước báo, nghe pháp là tu huệ.

      Nếu chúng ta hỏi, mười phương chư Phật Như Lai giảng pháp ǵ cho những người ấy? Chư vị đồng học có nghĩ đến [chuyện ấy] hay không? Mười phương chư Phật, quư vị đến nghe pháp, các Ngài giảng cho quư vị pháp ǵ? Chư vị chẳng trả lời được! Tôi suy nghĩ rồi nói ra, quư vị suy ngẫm xem có lư hay không nhé? Có đồng ư hay không nhé? Mười phương hết thảy chư Phật Như Lai đều giảng kinh Vô Lượng Thọ, đều dạy quư vị “phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”, quư vị nghĩ xem có thể là như vậy hay chăng? Có đúng như vậy hay không? Thuở đức Thế Tôn tại thế đă nhiều lần tuyên giảng kinh Vô Lượng Thọ, cho dù nói hết thảy các kinh, cũng thường xuyên giới thiệu kèm thêm thế giới Cực Lạc và A Di Đà Phật. Chúng ta có thể dự đoán được! V́ sao? Trong kinh Đại Thừa, đức Phật bảo: “Thập phương tam thế Phật, cộng đồng nhất Pháp Thân, nhất tâm, nhất trí huệ, lực vô úy diệc nhiên” (Mười phương ba đời Phật, cùng chung một Pháp Thân, một tâm, một trí huệ, lực, vô úy cũng thế). Đây là căn cứ lư luận để chúng ta dựa vào, suy ra mười phương chư Phật giáo hóa chúng sanh đều dùng kinh Vô Lượng Thọ. Vô Lượng Thọ là chỗ quy thú của kinh Hoa Nghiêm và Pháp Hoa, đương nhiên [mười phương chư Phật] giảng bộ kinh này. V́ vậy, quư vị muốn học kinh giáo th́ học kinh ǵ? Quư vị học kinh Vô Lượng Thọ [là bản kinh] được hết thảy chư Phật cùng nhau tuyên dương; đấy là Đại Thừa viên măn. Bộ kinh này học thông, môn nào cũng đều thông, chớ nên chuốc phiền nữa! Khi thật sự thông hiểu một kinh, sẽ thông hiểu hết thảy kinh. Học thông suốt bộ kinh này, quư vị sẽ có thể giảng kinh Hoa Nghiêm, có thể giảng kinh Pháp Hoa. Đă có thể giảng Hoa Nghiêm và Pháp Hoa, quư vị sẽ có thể giảng hết thảy các kinh, đấy là bí quyết. Quư vị thật sự hiểu rơ ràng, thật sự hiểu tông chỉ của Tịnh Tông Học Viện, sẽ hiểu rơ tông thú, có c̣n phải rườm lời hay không? Chẳng cần! Phải nhận thức Đồng Cư Tịnh Độ chẳng thể nghĩ bàn!

      Tiếp đó, sách viết: “Ngă đẳng sở tại chi Sa Bà thế giới, diệc thị Phàm Thánh Đồng Cư độ” (thế giới Sa Bà chúng ta đang ở cũng là cơi Phàm Thánh Đồng Cư), cũng là cơi Phàm Thánh Đồng Cư. “Thử độ diệc hữu phàm, hữu thánh, như Văn Thù thường hiện Ngũ Đài” (cơi này cũng có phàm và thánh, như ngài Văn Thù thường hiện thân ở núi Ngũ Đài), Văn Thù Bồ Tát thường thường xuất hiện tại Ngũ Đài sơn; “chư A La Hán thường văng Thiên Mục hoặc Nhạn Đăng” (các vị A La Hán thường đến núi Thiên Mục hoặc Nhạn Đăng), hai rặng núi này ở tỉnh Chiết Giang. Núi Thiên Mục gồm năm ngọn, Đông, Nam, Tây, Bắc, Trung, ở tại Chiết Giang. Nhạn Đăng là đạo tràng của Thiên Thai đại sư, cách núi Thiên Thai chẳng xa. “Thị giai thử độ chi thánh dă” (đều là các bậc thánh trong cơi này). Đây là nêu ví dụ, chẳng hạn như Quán Âm tại Phổ Đà, Địa Tạng tại Cửu Hoa, Phổ Hiền tại Nga Mi, những vị ấy đều là thánh nhân. “Đản ngă đẳng sở cư chi Đồng Cư độ thị Đồng Cư uế độ” (Nhưng cơi Đồng Cư chúng ta đang sống là Đồng Cư uế độ), chẳng phải là Tịnh Độ. Do nguyên nhân nào? Nói chung, chẳng ĺa nhân quả. Nhân quả ấy do chính ḿnh tạo; chính ḿnh đă tạo cái nhân th́ chính ḿnh phải gánh lấy quả báo. Phật, Bồ Tát đối với quư vị cũng chẳng thể làm ǵ được! Ắt phải sám trừ sạch nghiệp chướng, tập khí. Sau khi sám trừ, Phật, Bồ Tát mới có thể giúp đỡ. A Di Đà Phật có thể phân thân giáo hóa hết thảy chúng sanh trong thế giới Cực Lạc, v́ sao chẳng dạy dỗ trong thế giới của chúng ta? Chúng ta nghiệp chướng quá nặng, đức Phật có thị hiện dạy ta hay không? Có! Hạng người nào? Người thật sự tu tập, có phước báo, nghiệp chướng nhẹ nhàng! C̣n đối với kẻ nghiệp chướng nặng nề th́ chẳng được, v́ sao? Kẻ ấy chẳng tiếp nhận, chẳng tôn trọng. [Nếu có trường hợp nào mà] Phật, Bồ Tát mỗi ngày giảng nói với kẻ ấy, mỗi ngày đều hiện thân cho kẻ ấy thấy, không được rồi, ma đấy! Phải nghĩ trọn hết các phương pháp để đuổi ma đi, [hiện tượng ấy] bất b́nh thường! Xă hội cũng chẳng chấp nhận. Chẳng phải là Phật, Bồ Tát không đến, mà là duyên chưa chín muồi, đôi khi có vài người duyên chín muồi [mới thấy Phật, Bồ Tát], điều đó gọi là “Phật độ kẻ hữu duyên”. Thật sự tin, chịu phát nguyện, chịu phát Bồ Đề tâm, chịu phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, nguyện tâm khẩn thiết, sẽ có cảm ứng. Trong nguyện tâm mà c̣n một tí tự tư tự lợi, tiếng tăm, lợi dưỡng, tham, sân, si, mạn th́ không được rồi, chẳng có cảm ứng! Chúng tôi cũng đă từng gặp những người có cảm ứng, họ có những tập khí ấy hay chăng? Có chứ, nhưng thường là mỏng nhẹ; họ có những tập khí ấy, nhưng thời gian tương đối ngắn. Thí dụ như nổi nóng, nổi giận một trận, người ấy liền lập tức giác ngộ, hối lỗi. Có người tức giận ba ngày hay cả tuần chẳng thể hóa giải được, như vậy là quá ư nặng nề! Phật, Bồ Tát muốn giúp quư vị, quả thật cũng chẳng giúp được mảy may nào! Do vậy, Phật độ chúng sanh cần phải có thời tiết, nhân duyên; khi nào đến thời, các Ngài nhất định sẽ tới. Thời tiết nhân duyên chưa chín muồi, cầu cách nào cũng chẳng cầu được. Thật sự cầu được, sẽ có họa hại xảy tới! Không chỉ bất lợi cho bản thân quư vị, mà c̣n bất lợi đối với gia đ́nh quư vị, thậm chí bất lợi đối với toàn thể xă hội. Phật, Bồ Tát có làm chuyện ấy hay chăng? Chẳng làm chuyện ấy! Yêu ma, quỷ quái sẽ làm chuyện ấy; chúng nó chỉ sợ quư vị chẳng loạn, Phật, Bồ Tát chẳng như vậy. Trong kinh Đại Thừa thường nói, Phật, Bồ Tát ở nơi đâu cũng đều làm cho hết thảy chúng sanh sanh tâm hoan hỷ. Quư vị chẳng ưa thích Phật, Bồ Tát; Phật, Bồ Tát sẽ chẳng đến, không phải là [khiến cho] quư vị rất vui vẻ hay sao? Quư vị thấy các Ngài từ bi lắm. Quư vị ưa thích Phật, Bồ Tát, các Ngài bèn đến. Quư vị chán ghét, các Ngài sẽ không tới. Chắc chắn là hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức, chúng ta làm đệ tử Phật phải học tập Phật, Bồ Tát điều này! Một người thật sự chẳng v́ chính ḿnh, chẳng v́ gia đ́nh, khởi tâm động niệm luôn v́ chúng sanh khổ nạn, v́ an định xă hội, v́ ḥa b́nh thế giới, v́ chánh pháp được trường tồn, đó là đúng! Những ǵ đáng nên buông xuống, tự nhiên quư vị thảy đều buông xuống. Bất luận là cuộc sống, công việc, đăi người, tiếp vật, thân tâm thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần, đó gọi là “tâm tịnh, ắt cơi Phật tịnh”. Tâm quư vị thanh tịnh, bất luận ở nơi đâu cũng đều là Đồng Cư Tịnh Độ.

       “Cố tuy đồng danh Đồng Cư, nhi thật hữu bất đồng dă” (v́ thế, tuy cùng gọi là Đồng Cư, nhưng thật ra chẳng đồng). Đây là nói rơ cơi Phàm Thánh Đồng Cư của Thích Ca Mâu Ni Phật và cơi Phàm Thánh Đồng Cư trong thế giới Cực Lạc, danh xưng tương đồng, nhưng trên thực tế, sai biệt rất lớn, sai biệt là do chúng sanh mê hay ngộ. Cơi Phàm Thánh Đồng Cư trong thế giới Cực Lạc, chúng sanh giác ngộ, giác ngộ nhưng chưa chứng quả, đó là ǵ? Giải ngộ, chưa buông tập khí phiền năo xuống! [Chúng sanh trong] cơi Phàm Thánh Đồng Cư thuộc thế giới Cực Lạc tuy chưa chứng ngộ, nhưng được bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia tŕ, nên giống như chứng ngộ. Họ thật sự chưa chứng ngộ, nhưng cũng gần b́nh đẳng với người đă chứng ngộ, gần giống như nhau. Nói “gần giống như nhau”, đương nhiên chẳng phải là hoàn toàn như nhau. Phật lực gia tŕ chẳng thể nghĩ bàn!

      Chúng ta đọc tiếp: “Như Yếu Giải vị thử chi Đồng Cư viết” (như sách Yếu Giải nói về Đồng Cư trong cơi này), đây là những điều do Ngẫu Ích đại sư đă nói trong sách Yếu Giải: “Do thật thánh quá khứ hữu lậu nghiệp” (do bậc thật thánh có nghiệp hữu lậu trong quá khứ). Thật là chân thật, Tiểu Thừa Sơ Quả, Nhị Quả, Tam Quả thật sự đoạn phiền năo, sở chứng thuộc những tầng cấp này, có thể đoạn tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc trong tam giới, chứng quả Tu Đà Hoàn trong Tiểu Thừa. Lại đoạn sáu phẩm đầu trong tám mươi mốt phẩm Tư Hoặc thuộc tam giới, chứng Nhị Quả Tư Đà Hàm. Những vị này chưa đoạn hết phiền năo tập khí trong quá khứ. Đó là những địa vị chân thật. “Quyền thánh” là các vị như Văn Thù, Phổ Hiền, “đại quyền thị hiện chi Bồ Tát” (các vị Bồ Tát đại quyền thị hiện). Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Thế Chí, Địa Tạng đều đă thành Phật trong kiếp lâu xa, nay đang trụ trong thế gian này. Chúng ta biết, [các Ngài] nên dùng thân Bồ Tát để độ, bèn hiện thân Bồ Tát, nên dùng thân Phật để độ, bèn hiện thân Phật. Ḥa thượng Hư Vân triều bái Ngũ Đài Sơn, trên đường đi ngă bệnh, được một người ăn mày chăm sóc. Người ăn mày ấy tên là Văn Cát, ở Ngũ Đài Sơn, hai lần [ḥa thượng] ngă bệnh đều gặp người ấy chăm sóc; về sau mới biết người ấy là Văn Thù Bồ Tát giúp đỡ lăo ḥa thượng Hư Vân đang bệnh tật. Nên dùng thân ăn mày để độ, bèn hiện thân ăn mày để thuyết pháp. Đó gọi là “đại quyền thị hiện”. “Đại từ bi nguyện”, xuất hiện trên thế gian, “cố phàm phu đắc dữ thánh nhân đồng cư” (cho nên phàm phu được ở chung với thánh nhân), những vị Tiểu Thừa A La Hán, những vị Phật, Bồ Tát trong Đại Thừa ở cùng một chỗ [với người phàm]. “Chí thật thánh hôi thân” (tới khi bậc Thật Thánh diệt thân), những vị thánh giả Tiểu Thừa khi đă hết thọ mạng, chúng ta nói các Ngài văng sanh. “Quyền thánh cơ tận” (cơ duyên ứng hiện của bậc quyền thánh đă hết), nói thật ra, những vị Phật, Bồ Tát đại quyền thị hiện chẳng nhập Niết Bàn. Thời gian các Ngài trụ trong thế gian này dài hay ngắn tùy thuộc chúng sanh ở nơi này có căn tánh [đáng độ] hay không. Nếu căn cơ của chúng sanh ở nơi này có thể độ, các Ngài sẽ ở lâu hơn một chút. Nếu nơi này không có căn cơ để độ, các Ngài sẽ rời đi.

      Căn cơ đáng độ là ǵ vậy? Tức là người có đủ sáu thứ tín tâm như Ngẫu Ích đại sư đă giảng trong sách Yếu Giải, có thể cảm động chư Phật, Bồ Tát đại quyền thị hiện trong thế gian này. Trong sáu thứ tín tâm ấy, thứ nhất là tin vào chính ḿnh. Tin bổn tánh của chính ḿnh vốn lành, tin bổn tánh của chính ḿnh là Phật, ta cũng vốn là Phật, phải tin tưởng điều này. Ta là vị Phật mê hoặc, chư Phật là những vị Phật rất gần với giác ngộ, các Ngài đă chứng đắc vị Phật viên măn trong tự tánh. Ta phải tin tưởng các Ngài, các Ngài tới giúp đỡ ta, thành tựu ta, chỉ dạy ta trở về tự tánh. Đấy là Tín Tha, [điều thứ nhất là] Tín Tự, [điều thứ hai là] Tín Tha. Thứ ba là Tín Sự, [thứ tư là] Tín Lư, có Sự, có Lư; cuối cùng là Tín Nhân và Tín Quả. Đó là sáu thứ Tín. Trọn đủ sáu thứ tín ấy, Phật, Bồ Tát tự nhiên ứng hiện trong thế gian này, các Ngài phải giúp đỡ quư vị! V́ sau khi quư vị đă có sáu thứ tín ấy, cơ duyên quư vị đắc độ đă chín muồi. Nếu sáu thứ tín ấy chẳng trọn đủ, nói cách khác, trong một đời này, quư vị chẳng thể vượt thoát lục đạo, chẳng thể vượt thoát mười pháp giới. Phật, Bồ Tát tới nơi đây, chủ yếu chẳng v́ quư vị mà tới, quư vị là kẻ kèm thêm (hưởng ké)! Nếu quư vị có phước báo ấy, sẽ được hưởng lây, gieo một tí thiện căn, chẳng phải v́ độ quư vị mà các Ngài xuất hiện. Nếu các Ngài đến thế gian này, chắc chắn trong thế gian này có mấy người [cơ duyên chín muồi], tối thiểu là có một người! “Trong cửa nhà Phật, chẳng bỏ một ai”, một người có căn cơ ấy, các Ngài sẽ đến. Nếu hoàn chẳng có ai, các Ngài sẽ không tới, phải hiểu đạo lư này! V́ sao có người thấy, có kẻ chẳng thấy? Do đời đời kiếp kiếp trong quá khứ có duyên học tập khác nhau.

      Chúng ta xem tiếp, do v́ Thật Thánh diệt thân, đă qua đời rồi, cơ duyên giáo hóa của bậc Quyền Thánh đă hết, “tiện thăng trầm thạc dị, khổ lạc huyền thù, năi tạm đồng, phi cứu cánh đồng dă” (liền thăng trầm rất khác, sướng khổ khác biệt vời vợi, đó là tạm thời đồng, chẳng phải là rốt ráo đồng vậy). Ư nói cơi Đồng Cư của chúng ta và cơi Đồng Cư trong thế giới Cực Lạc khác nhau. Chúng ta là tạm thời đồng, c̣n người ta là rốt ráo đồng. Thế giới Cực Lạc có lạc, chẳng có khổ; thế giới của chúng ta khổ và lạc khác biệt vời vợi. Thế giới Cực Lạc chỉ có tiến lên, chẳng có thoái chuyển. “Trầm” là thoái chuyển. Trong thế gian này, nếu chúng ta chẳng chú tâm, cẩn thận, rất có thể bị trầm luân trong địa ngục, cũng có thể nói là ngă xuống tận đáy hang! Chúng ta sanh lên cao hơn, con người sanh lên thiên đạo. Thiên đạo có Dục Giới Thiên; phân chia đại lược th́ Dục Giới Thiên có sáu tầng, nếu chia tỉ mỉ sẽ chẳng thể nói trọn hết, nhất định phải hiểu điều này! Nếu có thể chế ngự Dục, Dục là ǵ? Tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ. Dùng ǵ để chế phục? Dùng công phu định lực. Quư vị thật sự tu định, tâm định là thanh tịnh, đối với tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ chẳng động tâm. Chẳng phải là thật sự không động tâm, mà là do công phu định lực chế ngự. Nếu lúc Định mất đi, những phiền năo sẽ lại hiện tiền, từ tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ, tham, sân, si, mạn lại dấy lên, phiền năo hiện tiền. Do vậy, trong lục đạo, đúng là thăng trầm bất định. Sanh lên trời, hưởng hết phước trời, thường đọa xuống địa ngục rất nhiều, nhất là Sắc Giới Thiên và Vô Sắc Giới Thiên, hầu như đều đọa lạc tam đồ. Dục Giới Thiên đỡ hơn một chút, Dục Giới Thiên đọa vào nhân đạo v́ họ trèo không cao lắm!

      Lại xem tiếp đoạn kế đó: “Hựu thiên nhưỡng chi gian, kiến văn giả thiểu. Hạnh hoạch kiến văn, thân cận, bộ xu giả thiểu” (Lại nữa trong ṿng trời đất, người được thấy nghe [thánh nhân] th́ ít. Người được may mắn thấy nghe bèn thân cận, hướng theo lại ít). Ở vùng phụ cận của những đạo tràng ấy, nếu chúng ta ḍ hỏi thôn dân, thôn dân phụ cận Ngũ Đài Sơn đă từng gặp Văn Thù Bồ Tát hay chưa? Có! Thật sự trông thấy. Sau khi vừa thấy, liền chẳng c̣n nữa. Có t́m cũng chẳng được, bèn biết là Bồ Tát hiện thân. Chúng tôi từng triều bái núi Kê Túc[7], núi Kê Túc là đạo tràng của tôn giả Ca Diếp, [tức là đạo tràng của bậc] A La Hán! Trên thực tế, Ngài là Bồ Tát, có ai đă gặp chưa? Có! Tôi c̣n nghe nói có lữ khách từ Đài Loan đến văn cảnh, lạc đường, trong khi đang lo lắng, gặp một cụ già chống gậy đi ở phía trước, bèn thưa hỏi, được cụ chỉ đường, bảo hăy đi theo đường nào, quay đầu nh́n lại, chẳng thấy cụ già đâu nữa. Do vậy, mọi người nghĩ cụ già có thể là tôn giả Đại Ca Diếp xuất hiện chỉ đường, khiến cho người ấy đến được Hoa Thủ Môn[8]. Thường có những chuyện như vậy, thường xảy ra. Người thấy nghe ít ỏi, người được may mắn thấy nghe, tuy có may mắn thấy, nhưng thấy mà chẳng biết, đợi đến khi quay đầu, chẳng thấy nữa, muốn t́m cũng chẳng t́m được, muốn hỏi cũng chẳng hỏi được. Đây là sự thật, chúng tôi tin tưởng thật sự có t́nh h́nh này.

       “Hựu Phật thế thánh nhân túng đa, như trân, như thụy, bất năng biến măn quốc độ, như chúng tinh, vi trần” (Lại nữa, thuở Phật tại thế, thánh nhân dẫu nhiều, vẫn giống như vật quư, như điềm lành, chẳng thể đầy khắp cơi nước như các ngôi sao, vi trần). Chẳng hạn như thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, bậc thánh nhân nhiều, Bồ Tát đông đảo, A La Hán đông đảo, những vị này đều giúp Thích Ca Mâu Ni Phật giáo hóa chúng sanh, trong kinh chẳng nói như thế này hay sao? “Nhất Phật xuất thế, thiên Phật ủng hộ” (Một vị Phật ra đời, ngàn vị Phật ủng hộ). Vị Phật ấy có duyên với thế gian này, bèn dùng thân Phật, hoặc dùng thân phận Bồ Tát, hoặc dùng thân phận tổ sư đại đức đến thế gian này. Nhiều vị Phật, Bồ Tát cùng đến với vị Phật ấy, có vị làm học tṛ, có vị làm hộ pháp, có vị làm quần chúng, thị hiện các thân phận khác nhau, theo Ngài học tập, họ được gọi là Ảnh Hưởng Chúng. Những vị ấy có trí huệ, có phước đức, đều tới thân cận vị tôn giả này, khiến cho đông đảo quần chúng trông thấy, dấy ḷng kính ngưỡng vị tôn giả ấy, chủng tử Phật pháp bèn gieo trong A Lại Da thức điền. Giống như diễn tuồng, người này đóng vai chánh, nhất định phải có rất nhiều người phụ diễn th́ vở tuồng ấy mới diễn hay được! Nếu một ḿnh người ấy tới, không được, nhất định phải là một nhóm người. Phật pháp và thế gian pháp có cùng một đạo lư, thật sự tham thấu th́ pháp thế gian vốn là Phật pháp, thế gian và xuất thế gian chẳng hai! Đó là đúng. V́ thế, thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, thánh nhân tuy đông, nhưng so với tỷ lệ nhân số trên cả thế giới vẫn quá ít, vẫn giống như vật báu, điềm lành.Vật báu và điềm lành rất hiếm hoi, chẳng thể đầy ắp trọn khắp cả cơi nước như các ngôi sao, như vi trần được! Đấy là nói phàm phu đông đảo, kẻ mê mất tự tánh đông lắm!

      Chúng ta đọc tiếp: “Hựu cư tuy đồng, nhi sở tác, sở biện, tắc huưnh bất đồng” (lại nữa, tuy cùng ở, nhưng việc làm rất khác biệt). So sánh hai thế giới, phàm phu trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư của thế gian này mỗi ngày làm ǵ? Tạo nghiệp, tạo nghiệp luân hồi, tạo nghiệp tam đồ, họ thật sự làm! Bên thế giới Cực Lạc, tuy là phàm phu trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, văng sanh trong ba phẩm Hạ, nghiệp chướng tập khí vẫn c̣n rất nặng, nhưng tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, bèn đi học, mỗi ngày Phật, Bồ Tát dạy người ấy, chỉ dạy người ấy, ngoài chuyện này ra, chuyện ǵ cũng chẳng có. Tới thế giới Cực Lạc không cần làm việc, nơi đó chẳng làm lụng, các ngành nghề đều chẳng có, toàn là giáo dục. A Di Đà Phật là hiệu trưởng, chư Phật, Bồ Tát đều là giáo sư đến dạy học. Trừ chuyện này ra, chẳng nghe nói thế giới Cực Lạc có tiệm buôn, chẳng nghe thế giới Cực Lạc có chánh phủ. Nơi khác có chánh phủ, chứ thế giới Cực Lạc chẳng có quốc vương. [Trong các thế giới khác], cơi trời có thiên vương, trong thế giới Cực Lạc chẳng hề nghe nói có đại vương [hay các thiên vương], chẳng có! Thế giới Cực Lạc chỉ có Phật, chỉ có Bồ Tát. Bồ Tát và A La Hán đều là học tṛ. Chúng tôi nghĩ: Trên thực tế, thế giới Cực Lạc giống như một viện đại học Phật giáo do chư Phật Như Lai cùng nhau sáng lập, mời A Di Đà Phật làm hiệu trưởng, mười phương chư Phật, Bồ Tát thường tới thế giới Cực Lạc để dạy học, [Cực Lạc] là một nơi như vậy đó! Quư vị ở nơi đó là học tập cho đến khi tốt nghiệp, tốt nghiệp là chứng đắc viên măn Bồ Đề, chẳng phải do A Di Đà Phật gia tŕ, mà do chính quư vị chứng đắc. Sau khi chứng đắc, quư vị có ở lại thế giới Cực Lạc hay không? Chẳng ở! Quư vị phổ độ chúng sanh trọn pháp giới hư không giới, giúp đỡ hết thảy những kẻ hữu duyên với quư vị. Quư vị giống như ba mươi hai ứng thân của Quán Âm Bồ Tát, nên dùng thân ǵ để đắc độ, bèn hiện thân ấy. Biết phải dạy họ pháp môn ǵ, quư vị sẽ dạy pháp môn ấy. Chúng sanh yêu thích khác nhau, nhưng tới cuối cùng, nhất định hướng dẫn về Cực Lạc. Hoa Nghiêm, Pháp Hoa nhằm dẫn dắt, đến cuối cùng, thưa chư vị, tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn thảy đều trở về Tịnh Độ. V́ sao biết? Nh́n từ kinh Hoa Nghiêm. Quư vị thấy hàng Bồ Tát, La Hán văng sanh thế giới Hoa Tạng, các Ngài tu học các pháp môn bất đồng, vô lượng pháp môn, học khác nhau, cuối cùng đều về thế giới Hoa Tạng. Sau khi tới thế giới Hoa Tạng, chắc chắn là nghe lời hai vị đại Bồ Tát Văn Thù và Phổ Hiền, sang thế giới Cực Lạc tham phỏng A Di Đà Phật, tiếp nhận giáo huấn của A Di Đà Phật, triệt ngộ tâm tánh, chứng đắc viên măn Phật quả trong thế giới Cực Lạc, ở chỗ của A Di Đà Phật. Từ chỗ này, chúng ta thấy thế giới Cực Lạc thù thắng, thấy Phật pháp đại viên măn. Việc làm rất khác biệt!

      Lại xem đoạn văn kế tiếp: “Án Yếu Giải nghĩa”, [tức là xét theo] nghĩa thú được giảng trong sách Yếu Giải, “thử độ phàm thánh chi đồng cư tốn ư Cực Lạc giả hữu tứ”, [nghĩa là] so ra thấy [Đồng Cư trong Sa Bà] thua kém, “tốn” () là thua kém thế giới Cực Lạc. Tối thiểu có bốn điều thua kém thế giới Cực Lạc. Thứ nhất: “Tạm đồng, thử độ Tiểu Thừa Sơ, Nhị, Tam Quả, chứng A La Hán, tiện nhập tịch diệt” (Tạm đồng: Sơ Quả, Nhị Quả, Tam Quả Tiểu Thừa trong cơi này chứng A La Hán liền nhập tịch diệt). Trước khi các Ngài chứng A La Hán, bậc Sơ Quả, Nhị Quả, Tam Quả đều ở trong lục đạo, ở trong nhân gian hay trên cơi trời. Chứng đắc A La Hán bèn ra đi, vượt thoát lục đạo, vào tứ thánh pháp giới, nhập tịch diệt. Nhập tịch diệt là vào trong tứ thánh pháp giới, chẳng ở chung với chúng ta. Ở chung với chúng ta chỉ là Sơ, Nhị, Tam Quả. “Đại Quyền Bồ Tát, độ sanh cơ tận, tiện bất phục thị hiện” (Đại Quyền Bồ Tát cơ duyên hóa độ chúng sanh đă hết bèn chẳng thị hiện nữa), vị này cũng ra đi. Trong thế gian này, Đại Quyền Bồ Tát có hai phương cách ở chung với chúng ta: Thứ nhất là Ứng Thân, giống như Thích Ca Mâu Ni Phật cũng có cha mẹ, được sanh ra, sống trong thế gian này vài chục năm, sanh tử tự tại, chẳng phải do nghiệp lực, các chúng sanh hữu duyên nhờ Ngài mà đắc độ. Nếu chẳng có hạng người ấy, khi Ngài đến thế gian này, phải biết hết thảy chúng sanh đáng độ đều đă độ, chẳng c̣n ai chưa độ, nên Ngài ra đi. Thích Ca Mâu Ni Phật bảy mươi chín tuổi bèn viên tịch, chẳng ở chung với chúng ta. V́ thế, sự “ở chung” này là tạm thời, chẳng phải là rốt ráo. “Cố dữ thử độ phàm phu chỉ thị tạm thời đồng cư, phi cứu cánh dă. Tại bỉ tịnh Đồng Cư độ, tắc khả dữ chư đại Bồ Tát câu hội nhất xứ, trực chí thành Phật” (v́ thế chỉ là tạm thời ở chung với phàm phu trong cơi này, chẳng phải là rốt ráo. Trong cơi Đồng Cư thanh tịnh ấy, bèn có thể cùng ở một chỗ với các vị đại Bồ Tát măi cho đến khi thành Phật). Khác nhau! Chúng ta sanh về nơi đó của Tây Phương Cực Lạc thế giới, tuy là hạ hạ phẩm văng sanh vào cơi Phàm Thánh Đồng Cư, quư vị hằng ngày ở chung với chư Phật Như Lai, Pháp Thân Bồ Tát, măi cho đến lúc quư vị chứng đắc đến rốt ráo Phật quả, các Ngài sẽ trở về Thường Tịch Quang, chẳng ở chung nữa, mà trở về Thường Tịch Quang. Sau khi trở lại Thường Tịch Quang, nếu những người trong cơi Đồng Cư của thế giới Cực Lạc có duyên với quư vị, quư vị sẽ từ Thường Tịch Quang trở về giúp đỡ họ, đến đi tự tại! Phật độ kẻ hữu duyên. Duyên có hai thứ, có thiện duyên và ác duyên. Bất luận thiện hay ác, chỉ cần có duyên, khi họ chịu tiếp nhận Phật pháp, quư vị sẽ tự nhiên hiện thân giúp đỡ họ, thành tựu bọn họ. Đấy là chỗ khác nhau thứ nhất.

Thứ hai, “nan ngộ, tuy hữu thánh giả hiện cư thử độ, đản bất dị kiến văn thân cận” (khó gặp; tuy có thánh giả thị hiện sống trong cơi này, nhưng chẳng dễ ǵ thấy, nghe, thân cận). Thật vậy, thế giới này có Phật, Bồ Tát, A La Hán ở trên địa cầu này, nhưng phàm phu chúng ta chẳng dễ ǵ gặp được! Chẳng có duyên phận đặc thù, sẽ không gặp được. Đó là sự thật, chúng ta phải hiểu rơ. “Nhi tại Cực Lạc tắc giai như sư, như hữu, triêu tịch đồng tụ dă” (nhưng trong Cực Lạc, [thánh nhân] như thầy, như bạn, sáng tối cùng tu họp). Thế giới Cực Lạc khác hẳn, trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư của thế giới Cực Lạc, quư vị và thánh nhân suốt ngày từ sáng đến tối ở cùng một chỗ, thân cận, chẳng tách ĺa. Những vị ấy quả thật là thầy, mà cũng là đồng học. Thầy của thế giới Cực Lạc là A Di Đà Phật [và thập phương chư Phật đến thế giới dưới thân phận Bồ Tát], các Ngài đến thế giới Cực Lạc giúp đỡ chúng ta, giống như mang thân phận trợ giáo, chúng ta có thể sáng tối cùng tụ họp, chẳng phải là ngắn ngủi, tạm bợ, mà là sống cùng nhau, học tập cùng nhau. Trước khi thành Phật, trong thế giới Cực Lạc, công việc của quư vị là học tập, các Ngài sẽ giúp đỡ quư vị. Đây là chỗ khác nhau thứ hai!

      Thứ ba: “Hy thiểu” (hiếm hoi). Thế giới này “thánh giả như trân, như thụy, hy hữu nan phùng” (bậc thánh như vật quư, như điềm lành, hiếm có, khó gặp). V́ sao thế gian này ít như thế? Điều này có liên quan đến nghiệp cảm của chúng sanh, đó mới là nguyên nhân thật sự. Chúng sanh ưa thiện, chuộng đức, quư vị sẽ gặp được những người hiếm có, khó gặp, họ sẽ dạy quư vị. Nếu quư vị chẳng cảm thấy hứng thú đối với luân lư, đạo đức, và thánh học, mà cảm thấy hứng thú đối với tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ, tiếng tăm, lợi dưỡng trong thế gian này, Phật, Bồ Tát sẽ không đến. Phật, Bồ Tát chẳng có hứng thú đối với những thứ đó; đó là tạo nghiệp. Quư vị ưa thích những thứ ấy, cũng có người tới gia tŕ và giúp đỡ quư vị, ai vậy? Yêu ma quỷ quái. Chư vị đọc kinh Lăng Nghiêm sẽ hiểu! Bốn loại yêu ma quỷ quái lớn ưa thích những thứ đó, chúng sẽ đến. Tuy quư vị đạt được một chút vui sướng, tự nghĩ là vui sướng, trên thực tế là sự kích thích, chẳng phải là khoái lạc thật sự. Tôi giảng kinh, thường dùng tỷ dụ hút thuốc phiện. Khoái lạc ngũ dục lục trần trong thế gian giống như hút thuốc phiện, nó là một thứ kích thích ngắn ngủi, tạm bợ trong sát-na, hậu hoạn vô cùng, khổ chẳng thể nói nổi. Đó chẳng phải là chân lạc, mà là mê hoặc, điên đảo của người đời. Do vậy, bậc thánh nhân đến thế gian này, cơ hội cũng rất ít. Thế gian này có mấy kẻ lương thiện, hiếu học, các Ngài sẽ đến. Thời gian các Ngài đến [thế giới này] cũng rất ngắn ngủi, tạm bợ, đến để chỉ dạy những người hữu duyên. Kẻ hữu duyên học rất nhanh, học sơ sơ đă đi vào nề nếp, các Ngài bèn rời đi, chúng ta ngay cả mong được hưởng ké một chút cũng chẳng được! Phải hiểu rơ đạo lư ở chỗ này, v́ bản thân chúng ta chưa phát tâm. Nếu thật sự phát tâm học tập, Phật, Bồ Tát sẽ thường trụ trong thế gian. Chính ḿnh vẫn tham cầu tiếng tăm, lợi dưỡng, đương nhiên các Ngài phải ra đi sớm, các Ngài chẳng mảy may lưu luyến thế gian này! Chúng ta biết các Ngài hiện thân, người ta chứng đắc thanh tịnh Pháp Thân; theo kinh Hoa Nghiêm, trong Viên Giáo, bậc Sơ Trụ trở lên đều có năng lực này. Phẩm Phổ Môn nói tới ba mươi hai ứng thân, thảy đều có năng lực sau đây: Nên dùng thân Phật để độ, bèn hiện thân Phật. Bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo hiện thân Phật, Ngài là chân Phật, chẳng phải là giả Phật. Ngài trụ nơi đâu? Trọn khắp pháp giới hư không giới và Ngài là một Thể, quư vị nói xem Ngài trụ nơi đâu? V́ vậy, bất luận nơi chốn nào, thời gian nào, chỉ cần có người thật sự khởi tâm động niệm mong học Phật, Ngài liền thị hiện.

      Mỗi chúng sanh chúng ta phải biết: Quá khứ vô thỉ, vị lai vô chung; thời gian vô thỉ, vô chung, không ǵ lớn lao lọt ra ngoài, không ǵ nhỏ nhặt chẳng gồm trong. “Thỉ chung” là nói tới thời gian. “Thời - không” (thời gian, không gian) là Pháp Thân; thời - không là Tánh Đức của bậc kiến tánh, là Pháp Thân của người ấy. V́ vậy, Pháp Thân trọn khắp hết thảy mọi nơi, hết thảy mọi lúc; bất luận chúng sanh nào chỉ cần có cảm, lập tức bèn ứng, chẳng có đến đi, hiện diện ngay trong hiện tiền. V́ vậy, Đại Thừa nói “tức tại đương hạ” (ở ngay trong lúc này), câu ấy là thật, là lời thật, ngay trong hiện tại. Chẳng có quá khứ, vị lai, chẳng có cơi này hay phương khác. Thời - không cũng chẳng tồn tại. Khi mê, có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, thời - không; khi giác ngộ chẳng có. Trong Bách Pháp Minh Môn Luận, [Thiên Thân] Bồ Tát đă giảng chân tướng sự thật này rất rơ rệt. Trong bách pháp, thời gian và không gian là Bất Tương Ứng Hành Pháp. Người hiện thời gọi Bất Tương Ứng Hành Pháp là “khái niệm trừu tượng”, chẳng phải là sự thật, mà là khái niệm trừu tượng. Chúng ta phải nhận biết rơ ràng, phải hiểu minh bạch, Bồ Tát ở đâu? Ngay trong hiện tiền! Chưa từng rời khỏi chúng ta, mà chúng ta cũng chưa hề rời khỏi Ngài; bất quá, chúng ta mê tự tánh nên chẳng thấy! Nếu giác ngộ tự tánh, quư vị sẽ biết chưa hề rời khỏi.

       “Nhi Cực Lạc tắc kỳ trung đa hữu Nhất Sanh Bổ Xứ, kỳ số thậm đa, phi thị toán số sở năng tri chi, đản khả dĩ vô lượng vô biên A-tăng-kỳ thuyết” (nhưng Cực Lạc th́ trong ấy có nhiều vị là Nhất Sanh Bổ Xứ, số ấy rất nhiều, chẳng thể tính toán mà ḥng biết được, chỉ có thể nói là vô lượng vô biên A-tăng-kỳ). Đoạn này là kinh văn trong kinh Di Đà do đức Phật nói. Tây Phương Cực Lạc thế giới thánh hiền đông đảo, toàn là đại thánh, chẳng phải là tiểu thánh, Nhất Sanh Bổ Xứ mà! Quán Thế Âm Bồ Tát giống như Di Lặc Bồ Tát, trong tương lai, A Di Đà Phật lăo nhân gia duyên đă tận, Ngài sẽ thoái vị, trở về Thường Tịch Quang, Quán Âm Bồ Tát bèn thay thế, kế tục Ngài thành Phật trong thế giới Cực Lạc. Khi Quán Âm Bồ Tát duyên tận, trở về Thường Tịch Quang, Đại Thế Chí Bồ Tát bèn kế tục Quán Âm Bồ Tát. Do vậy, thế giới ấy chỉ có Chánh Pháp, chẳng có Tượng Pháp, cũng chẳng có Mạt Pháp. Trong thế gian này của chúng ta, pháp vận của đức Phật có Tượng Pháp và Mạt Pháp, thế giới Cực Lạc chẳng có. Thế giới Cực Lạc vĩnh viễn có Phật trụ thế, từng vị kế tục nhau. Quư vị thấy lần này, Thích Ca Mâu Ni Phật nhập diệt, vị Phật kế tiếp là Di Lặc Bồ Tát sẽ giáng thế thành Phật nhằm khi nào? Kinh Di Lặc Hạ Sanh cho biết là năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm sau, Di Lặc Bồ Tát mới giáng thế. Trong khoảng thời gian dài như vậy, thế gian này chẳng có Phật, không có Phật giáo, đáng thương thay! Chúng sanh tạo nghiệp. Phật, Bồ Tát vẫn từ bi, có người thay mặt Phật; trong thời gian dài như thế, ai thay mặt? Địa Tạng Vương Bồ Tát. Hiện thời là thời kỳ Mạt Pháp của Thích Ca Phật, Địa Tạng Bồ Tát đă nhận nhiệm vụ, đă thay mặt Phật. Địa Tạng nghĩa là ǵ? Phải biết đó là hiếu thảo cha mẹ, tôn trọng thầy. Chỉ cần chúng sanh thật sự hiếu thuận cha mẹ, tôn sư trọng đạo, người ấy sẽ có duyên gặp gỡ thánh hiền. Nếu chẳng có tâm nguyện ấy, suốt đời chẳng gặp được. Dẫu gặp gỡ, cũng chỉ là trong sát-na đă trôi qua (chẳng c̣n gặp gỡ nữa), chẳng được thánh hiền giáo huấn. Do vậy biết: Tâm thái trọng yếu lắm, tâm thái quyết định hết thảy, pháp thế gian và xuất thế gian đều chẳng có ngoại lệ.

      Trong thế giới Cực Lạc đă là Nhất Sanh Bổ Xứ, là Đẳng Giác Bồ Tát, đấy là địa vị Bồ Tát tối cao, lại tiến cao hơn là Cứu Cánh Viên Măn Phật (quả vị Phật rốt ráo viên măn), người như vậy đông lắm! Nhiều đến mức độ nào? Chẳng có cách nào tính toán, chỉ có thể dùng “vô lượng vô biên A-tăng-kỳ thuyết” (vô lượng vô biên A-tăng-kỳ để nói). A-tăng-kỳ (Asamkhya) là đơn vị danh xưng, là một trong mười con số lớn của Ấn Độ. Bao nhiêu A-tăng-kỳ? Vô lượng vô biên, huống chi những vị thấp hơn Đẳng Giác càng nhiều! Thập Địa Bồ Tát, Thập Hạnh Bồ Tát, Thập Hồi Hướng Bồ Tát, Thập Trụ Bồ Tát, chẳng biết là bao nhiêu! Hết thảy những vị ấy đều là học tṛ của A Di Đà Phật. Đẳng Giác Bồ Tát là trợ giáo của A Di Đà Phật. Trên thực tế, A Di Đà Phật hằng ngày chẳng rời khỏi quư vị, mỗi ngày đích thân giảng kinh, thuyết pháp cho quư vị. Quư vị thấy Đẳng Giác Bồ Tát nhiều ngần ấy ở bên cạnh giúp đỡ quư vị, lẽ nào quư vị chẳng thành tựu? Đâu có đạo lư ấy! Chúng ta ở trong thế gian này, thân cận một vị Tiểu Thừa Tu Đà Hoàn c̣n chẳng có duyên phận ấy, t́m măi không ra. Trong thế giới Cực Lạc, thân cận Đẳng Giác Bồ Tát đông ngần ấy. Không nh́n vào chuyện ǵ khác, chỉ nh́n riêng điều này, chúng ta phải nên khăng khăng một mực tu Tịnh Độ, biết văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới trong một đời nhất định chứng đắc Phật quả viên măn rốt ráo. Nếu chẳng đến đó, bất luận tu học pháp môn nào, phiền năo tập khí chưa đoạn được, vẫn không thoát khỏi lục đạo luân hồi. Nghĩ đến luân hồi đáng sợ, hăy nên học theo pháp sư Oánh Kha, dẫu bỏ cái mạng này cũng phải cầu sanh Tịnh Độ. Có thể thành công hay không? Pháp sư Oánh Kha làm mẫu cho chúng ta thấy, Sư thật sự niệm được A Di Đà Phật hiện đến. Sau khi niệm ba ngày, A Di Đà Phật thật sự dẫn Sư đi.

      Lại xem điều thứ tư: “Sở tác bất đồng. Tại thử độ, thánh giả hàm du thánh vực” (Việc làm khác nhau. Trong cơi này, bậc thánh đều ngao du trong cơi thánh). Ở nơi đây, trong cơi Đồng Cư, Phật, Bồ Tát tuy trụ trong thế gian này, nhưng đối với nơi cư trụ [của các Ngài, kinh điển] đă nói rất hay, “cảnh chuyển theo tâm”. Các Ngài là bậc minh tâm kiến tánh, tự nhiên các Ngài trụ trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm, các Ngài đă chuyển biến [cơi Phàm Thánh Đồng Cư] thành cơi Thật Báo Trang Nghiêm]. Chúng ta ở chung với các Ngài, nhưng chúng ta là tâm luân hồi, nên thấy đại địa là uế độ, lục đạo trong uế độ, tâm chúng ta chẳng thanh sạch. Chớ nên chẳng biết đạo lư này! “Cảnh chuyển theo tâm”. Chúng ta ở trong thế gian này có tai nạn, nhưng các Ngài chẳng có tai nạn. Bất luận chỗ nào, các Ngài ở nơi đó quả thật giống như thế giới Cực Lạc. Báo độ của các Ngài do vô lượng trân bảo hợp thành, tuyệt đối chẳng phải là bùn cát, cây cối, hoa, cỏ cũng đều là trân bảo, vĩnh hằng không thay đổi, chẳng giống như chúng ta ở nơi đây: Mùa Xuân mọc lên, mùa Hạ tăng trưởng, mùa Thu thâu hoạch, mùa Đông ẩn tàng, bốn mùa biến hóa. Cơi Thật Báo của Bồ Tát chẳng biến hóa, hết thảy vạn vật hóa hiện, hóa sanh theo ư niệm. “Việc làm khác nhau”: Những vị thánh giả đều dạy học. “Nhi chúng sanh luân hồi lục đạo, thăng trầm vô định” (nhưng chúng sanh luân hồi trong lục đạo, thăng trầm chẳng nhất định), tâm luân hồi tạo nghiệp luân hồi, chịu báo luân hồi, đấy là điều chắc chắn! Chúng ta khởi tâm động niệm, nghĩ ǵ? Nhớ ǵ? Nói ǵ? Tạo ǵ? Nếu chúng ta phản tỉnh, quư vị sẽ biết đúng như kinh Địa Tạng đă dạy: “Vô bất thị tội, vô bất thị nghiệp” (không ǵ chẳng phải là tội, không ǵ chẳng phải là nghiệp). Tội là ǵ? Nghiệp là ǵ? Chúng ta suy tưởng, nhớ nghĩ, tạo tác, hoàn toàn trái nghịch tự tánh. Đó là tội nghiệp.

      Trong Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán, Hiền Thủ quốc sư đă quy nạp Tánh Đức thành bốn điều. Tánh Đức cũng là “vô lượng vô biên A-tăng-kỳ thuyết”, nói chẳng hết, quy nạp thành bốn điều. Đấy là bốn cột trụ của Tánh Đức, chúng ta hăy nghĩ xem chính ḿnh có tương ứng với những điều ấy hay không.

1) Điều thứ nhất là “tùy duyên diệu dụng”. Chúng ta là tùy duyên, chẳng phải là diệu dụng. Chúng ta tùy duyên khởi dụng toàn là phiền năo, toàn là tội nghiệp. Tùy duyên thảy đều áp dụng vào luân hồi, tâm luân hồi, ư niệm luân hồi, dùng trật lất rồi! Diệu dụng là ǵ? Trong tùy duyên, xa ĺa vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, bèn là “diệu”. Trong tùy duyên chẳng có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, bèn là Phật. Có vọng tưởng, nhưng chẳng có phân biệt và chấp trước th́ là Bồ Tát. Có vọng tưởng và phân biệt, nhưng chẳng có chấp trước, là A La Hán. Nay chúng ta toàn bộ đều có, trong tùy duyên có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, đấy là lục đạo phàm phu, như vậy sẽ chẳng diệu, chúng ta làm tương phản [với thánh nhân].

2) Điều thứ hai, “oai nghi hữu tắc” (oai nghi đúng pháp tắc), đó là cuộc sống trên thế gian này, những điều biểu diễn đều nhằm nêu gương tốt nhất cho hết thảy đại chúng; đó là Phật, Bồ Tát. Biểu diễn điều ǵ? Diễn xuất luân lư, diễn xuất đạo đức, diễn xuất nhân quả, diễn xuất giáo huấn của chư Phật, v́ người khác diễn nói. “Diễn” là biểu diễn, làm gương tốt cho người khác xem, giúp đỡ chúng sanh giác ngộ. Đấy là điều thứ hai.

3) Điều thứ ba, “nhu ḥa chất trực”. Đây là nói trong cuộc sống, công việc, xử sự, đăi người, tiếp vật hằng ngày đều phải có thái độ ôn ḥa, đặc biệt là trong thời đại hiện tại. Trong thời đại này, những chúng sanh trên địa cầu hiển hiện như thế nào? Tự tư tự lợi, bạo lực t́nh dục, giết, trộm, dâm, dối, họ đang biểu diễn những thứ ấy. Quư vị thấy tư tưởng, ngôn ngữ, hành vi của họ đáng ngán quá! Trái nghịch một trăm tám mươi độ với Tánh Đức. Nói cách khác, sự tạo tác ấy chắc chắn dẫn đến ngày tàn của thế giới, đi theo con đường hủy diệt, hướng đến A Tỳ địa ngục, thôi rồi! Đáng sợ quá!

4) Điều cuối cùng, “đại chúng sanh khổ” (chịu khổ thay cho chúng sanh). Con người hiện thời nghĩ theo kiểu nào? Tổn người, lợi ḿnh, hoàn toàn tương phản với “chịu khổ thay cho chúng sanh!” Hăy nên bỏ ḿnh v́ người, đó là đúng. Quyết định chớ nên làm chuyện tổn người lợi ḿnh.

Trong Hoàn Nguyên Quán, Hiền Thủ đại sư đă quy nạp Tánh Đức thành bốn điều như vậy.

      Đức Phật thường giảng Thập Thiện Nghiệp, Tánh Đức là Thập Thiện Nghiệp. Thập Thiện Nghiệp và Tứ Đức trong Hoàn Nguyên Quán hoàn toàn tương ứng. Chúng ta có thực hiện những ǵ kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo đă dạy hay không? Có thật sự làm hay không? Thật sự làm, sẽ là nghiêm túc học Phật, y giáo phụng hành. Có những người muốn làm, nhưng chẳng biết phải thực hiện từ chỗ nào! Tại Trung Quốc, xét trên cơ bản, lời tổ tiên dạy hoàn toàn phù hợp Phật pháp. Chúng ta hăy khởi sự từ sự giáo học đơn giản, dễ hiểu của tổ tiên, th́ sẽ làm được chẳng khó! Đệ Tử Quy dạy chúng ta hiếu thân, tôn sư, đó là giáo dục luân lư, giáo dục đạo đức. Hơn nữa, đó là giáo dục cơ sở cần phải tu, con người chẳng thể không học! Cảm Ứng Thiên là giáo dục nhân quả, phải thời thời khắc khắc ghi nhớ trong ḷng: Thiện có thiện quả, ác có ác báo, nhân duyên quả báo chẳng sai sót mảy may! Quư vị thật sự tham thấu th́ mới tin tưởng, mới biết đoạn ác tu thiện, sám trừ nghiệp chướng trọng yếu lắm! V́ sao ngày nay quư vị học Phật chẳng có tiến bộ? Chắc cũng có người nói v́ sao tiến bộ chậm thế? Đều là do nghiệp chướng của quư vị quấy phá, nghiệp chướng chướng ngại quư vị. Đó là nhân tố thứ nhất. Oán thân trái chủ đến gây rối, cũng tới chướng ngại quư vị; đó là nhân tố thứ hai. Chỉ cần tiêu trừ nghiệp chướng của chính ḿnh, oán thân trái chủ bên ngoài sẽ rất dễ hóa giải. Nghiệp chướng chẳng trừ, oán thân trái chủ sẽ không tha quư vị, quư vị vẫn tiếp tục làm ác. Giả danh học Phật, dùng Phật pháp để che đậy [sự xấu xa của chính ḿnh], người ta càng coi thường quư vị, rắc rối ở chỗ này.

Đă có căn bản Nho và Đạo th́ Thập Thiện Nghiệp cũng sẽ rất dễ làm được. Cổ nhân học Phật, người trong một trăm năm trước, chúng ta nói là một thế kỷ, học Phật trong một trăm năm trước, người học Phật thành tựu nhiều! V́ sao? Họ được hưởng sự giáo dục ấy, từ nhỏ đă được cha mẹ, người lớn dạy! Tôi nhớ thuở nhỏ, chúng tôi sanh trưởng tại nông thôn, trẻ con chơi đùa với nhau, cũng có lúc căi cọ, cũng có lúc căi lẫy ồn ào, người qua đường trông thấy, bèn răn dạy chúng tôi. Thuở ấy, người lớn giáo huấn, chúng tôi đều ngoan ngoăn nghe, chẳng dám phản kháng! Đến khi cha mẹ chúng tôi biết chuyện, bèn đối đăi, cám ơn, cảm kích những người khách ấy. Quư vị nói có phải là xă hội thuở ấy rất hài ḥa, thật tốt đẹp hay không? Trẻ nhỏ được cha mẹ trông chừng, người trong nhà ḍm chừng, người ngoài cũng trông chừng, trẻ nhỏ đi tới đâu cũng được người lớn răn nhắc. Trong xă hội hiện thời, chẳng c̣n [t́nh trạng ấy nữa], cha mẹ không quản được trẻ nhỏ, thầy chẳng thể quản tṛ, làm sao được nữa, hiện tượng này đáng sợ lắm! Điều này khiến cho chúng tôi hiểu thật sâu [v́ sao] cổ thánh tiên hiền thế gian và xuất thế gian coi trọng giáo dục ngần ấy, chúng tôi hiểu rơ. Con người do dạy dỗ mà trở thành tốt đẹp, cũng do dạy dỗ mà thành xấu xa, tùy thuộc cách dạy như thế nào! Trẻ nhỏ hiện thời đều bị dạy hư hỏng, ai dạy chúng nó? TV dạy, Internet dạy chúng nó, người trong nhà mặc kệ. Hiện thời, cách dạy trẻ nhỏ rất khả ái, rất sinh động, nhưng mười năm, hai mươi năm sau, sẽ có phiền phức xảy ra, lúc ấy, hối cũng chẳng kịp!      

Chúng ta xem tiếp phần dưới: “Phàm thánh tuy đồng cư thử độ, nhi kỳ sở tác dữ thành tựu tắc huưnh nhiên bất đồng” (Phàm và thánh tuy cùng sống trong cơi này, nhưng việc làm và thành tựu khác biệt rất xa). V́ sao bất đồng? Tiếp đó, sách viết: “Tại Cực Lạc tắc đồng tận vô minh, đồng đăng Diệu Giác” (Tại Cực Lạc th́ cùng dứt vô minh, cùng lên Diệu Giác). Diệu Giác là đạt đến Phật quả viên măn rốt ráo, c̣n cao hơn Đẳng Giác một tầng. Đại chúng văng sanh cơi Đồng Cư của thế giới Cực Lạc mỗi ngày đều học tập, không ngừng nâng cao, muốn tiến lên địa vị Diệu Giác, đoạn hết tập khí vô minh, trở về cơi Thường Tịch Quang, trở về tự tánh. Đấy là việc làm và thành tựu của họ. “Cố tri Đồng Cư Tịnh Độ chi đồng cư, thắng ư thử gian vô lượng ức bội dă” (nên biết sự đồng cư trong cơi Đồng Cư Tịnh Độ thù thắng hơn cơi này vô lượng ức lần). Đúng vậy, chẳng thể sánh bằng!

      Lại đoái nh́n cơi Đồng Cư của chúng ta: “Hựu thử độ chi phàm” (lại nữa, phàm phu trong cơi này), đấy là phàm phu lục đạo, “bao quát địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh tam ác thú” (bao gồm ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh), đây là ba ác đạo, “nhi bỉ độ Đồng Cư tắc thượng vô ác đạo chi danh, hà huống hữu thật” (nhưng trong Đồng Cư cơi kia, cái tên ác đạo c̣n chẳng có, huống là có thật). Đây là điều được giảng trong kinh Di Đà, thế giới Tây Phương c̣n chưa nghe tới danh xưng ác đạo, lẽ đâu có chuyện ấy? “Đắc văng sanh giả, bất phục cánh nhập tam ác đạo, vĩnh ly ác thú” (người được văng sanh, chẳng đọa trong ba ác đạo nữa, vĩnh viễn ĺa đường ác). Cho dù quư vị đới nghiệp văng sanh, hạ hạ phẩm văng sanh sanh vào cơi Phàm Thánh Đồng Cư, thậm chí sanh vào biên địa, cũng chẳng c̣n đọa tam ác đạo, vĩnh viễn ĺa đường ác, đó là chỗ thù thắng của thế giới Cực Lạc. “Bất tự thử gian chúng sanh, sanh tử hải trung, đầu xuất, đầu một, triển chuyển ác đạo, khổ thú thời trường dă” (Chẳng giống như chúng sanh trong cơi này, thoạt nổi, thoạt ch́m trong biển sanh tử, xoay vần trong ác đạo, ở măi trong nẻo khổ). Không như thế gian này, chúng sanh trong thế gian này, lục đạo luân hồi là biển cả sanh tử. “Đầu xuất” là giống như quư vị ở trong biển, ngoi đầu lên hít một hơi không khí trong lành, đó là ǵ? Tam thiện đạo, lập tức ch́m xuống dưới. Do vậy, trong lục đạo, quư vị nhất định phải biết, thời gian trong thiện đạo rất ngắn, thời gian trong ác đạo rất dài! Quư vị thấy trong thiện đạo tạo bao nhiêu ác nghiệp, vào trong ba ác đạo tiêu sạch những nghiệp ấy rồi quư vị mới thoát ra. Lúc thoát ra, lại tạo ác. Thời gian thoát ra ngắn ngủi, [thời gian] tạo tác ác nghiệp th́ nhiều, lại đọa xuống! V́ thế, nhà của chúng sanh trong lục đạo ở đâu? Nhà ở trong tam ác đạo, thoát [khỏi tam ác đạo] là lữ du, là đi ngắm cảnh. Lần này đi ngắm cảnh, gặp gỡ Phật pháp, thù thắng khôn sánh! Nếu quư vị có thể thật sự nắm vững, sẽ vĩnh viễn rời tam ác đạo, vĩnh viễn vượt thoát lục đạo luân hồi, đó là đúng! Nếu chẳng thể nắm vững cơ duyên này, nhất định phải biết: Quư vị vẫn tiếp tục ở trong lục đạo, vẫn phải tiếp tục chờ đợi trong tam ác đạo, thời gian chờ đợi vô cùng dài, khổ chẳng thể nói nổi! Thật sự giác ngộ điều này, mới thật sự phát Bồ Đề tâm, thật sự chịu niệm Phật, thật sự chịu buông xuống! Trên con đường Bồ Đề, phải dựa vào chính ḿnh, chính ḿnh chẳng thật sự phát tâm, thật sự phát nguyện, Phật, Bồ Tát đều chẳng giúp được. Thật sự phát tâm, sẽ cảm động chư Phật, Bồ Tát. Chư Phật, Bồ Tát đại từ, đại bi, t́m đến chúng sanh hữu duyên. Hữu duyên là ǵ? Thật sự phát tâm, phát nguyện sẽ là người hữu duyên. Nguyện tâm ấy không dấy lên nổi, chân tâm chẳng phát ra được, A Di Đà Phật dẫu từ bi cũng chẳng có cách nào giúp đỡ quư vị! Ngày hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tới đây.

Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

Phần 14 hết

 



[1] Trần thuyết: Dẫu vật chất nhỏ nhất như vi trần cũng luôn nói vô thượng diệu pháp. Đây là cảnh giới Hoa Nghiêm, trong mỗi vi trần đều có cơi nước, trong cơi nước có Phật thường nói kinh Hoa Nghiêm. Về sau, kinh điển thường dùng chữ “trần sát” để diễn tả cảnh giới Sự Sự vô ngại, trùng trùng duyên khởi. Sát thuyết: Toàn bộ cơi nước đều thuyết pháp. Ḥa Thượng Tuyên Hóa lại giảng “sát thuyết” có nghĩa là nội dung giảng giải rộng lớn không ngằn mé, nên dùng cơi nước (sát độ) để h́nh dung sự rộng lớn của các pháp được nói.

[2] Hiện Lượng (Pratyaksa-pramāna) là một thuật ngữ trong Nhân Minh. Lượng có nghĩa đo lường, cân nhắc, phán đoán. Hiểu rộng hơn là tiêu chuẩn dùng để phán định, suy xét. Hiện Lượng là cảm giác, chưa xen lẫn những khái niệm, trọn chẳng bị phân biệt, tư duy xen vào. Chẳng hạn khi mắt thấy sắc, liền nhận biết rơ ràng, nhưng chưa suy lường đó là vật ǵ, tên gọi là ǵ, màu sắc ra sao, h́nh dáng thế nào, đáng ưa hay đáng ghét v.v... th́ sự nhận biết ấy gọi là Hiện Lượng.

[3] Tỷ Lượng (Anumāna-pramāna): Sự nhận biết do so sánh điều ǵ chưa biết với cái đă biết.

[4] Thánh Ngôn Lượng (c̣n gọi là Chánh Giáo Lượng, Chí Giáo Lượng), sự nhận biết căn cứ trên thánh giáo của chư Phật, Bồ Tát.

[5] Hưng Giáo đại sư (Kōgyō-Daishi) là ngài Giác Văm (Kakuban, 覺鑁, 1095-1143). Sư sinh tại tỉnh Ph́ Tiền (Hizen) thuộc đảo Cửu Châu (Kyushu), tục danh là Di Thiên Tuế Ma (Yachitose Maro). Sư được mười tuổi th́ cha mất, nên đi tu năm mười ba tuổi, theo học với ngài Khoan Trợ (Kanjo), viện chủ Thành Tựu Viện. Sư thông hiểu Mật Tông, và nghiên cứu Tịnh Độ với ngài Thanh Liên (Shōren). Được sự bảo trợ của thiên hoàng Điểu Vũ (Toba), Ngài sáng lập chùa Denbō-in (Truyền Pháp Viện, về sau được gọi là Đại Truyền Pháp Viện). Với nhiệt t́nh chấn hưng Mật Tông, Sư đă cố gắng thống nhất hai chi phái Ono (Tiểu Dă) và Hirosawa (Quảng Trạch), và trở thành tọa chủ hai chùa Đại Truyền Pháp và Kim Cang Phong (tổng bản sơn của Mật Tông), nhưng bị những tăng sĩ v́ quyền lợi cá nhân chống đối dữ dội nên phải từ chức, lui về Mật Nghiêm Viện (Mitsugon-in). Các tăng sĩ chống đối vẫn không buông tha, họ tấn công đốt trụi chùa Đại Truyền Pháp, khiến ngài Giác Văm cùng các đệ tử phải lánh về Negoro-ji (Căn Lai Tự), rồi tịch ở đó. Sau này, thiên hoàng Đông Sơn (Higashiyama) đă truy tặng Ngài đạo hiệu Hưng Giáo đại sư. Một đệ tử của Ngài là Lại Du (Raiyu) đă sáng lập tông phái Mật Tông mới dựa trên lời dạy của Ngài, gọi là Tân Nghĩa Chân Ngôn Tông (Shingi Shingon Shu). Một trong những quan điểm đặc sắc của ngài Giác Văm là đề xướng học thuyết “himitsu nembutsu” (bí mật niệm Phật), coi niệm Phật là một cách tu Mật pháp cao siêu không thua ǵ các pháp tu khác trong Mật Tông. Trong tác phẩm Amida Hisshaku (A Di Đà Bí Thích), Ngài đă chú giải tỉ mỉ ư nghĩa của từng chữ trong sáu chữ danh hiệu, cũng như đề xướng niệm Phật kết hợp với tụng “tâm chân ngôn” (tâm chú) “Hrih” của A Di Đà Phật.

[6] Tứ Hướng là bốn địa vị hướng tới Tứ Quả, gồm:

1. Dự Lưu Hướng (Srotāpatti-pratipannaka), bắt đầu kiến đạo, mới thấy được lư Tứ Thánh Đế, đắc huệ nhăn vô lậu thanh tịnh (c̣n gọi là thanh tịnh pháp nhăn), tiến thẳng về Sơ Quả (Dự Lưu Quả, Tu Đà Hoàn) chẳng đọa trong ba ác thú. Do chưa chứng quả, nhưng chắc chắn sẽ chứng, nên gọi là Hướng.

2. Nhất Lai Hướng (Sakrdāgāmi-pratipannaka): Đoạn trừ sáu phẩm đầu trong chín phẩm Tu Hoặc trong Dục Giới, nhưng chưa đoạn ba phẩm sau nên c̣n phải thác sanh lần nữa trong thiên giới.

3. Bất Hoàn Hướng (Anāgāmi-pratipannaka): Bậc thánh giả đă chứng quả Nhất Lai, sắp đoạn trừ ba phẩm cuối trong Tu Hoặc, tuy cố gắng đoạn ba phẩm cuối, vẫn chưa đoạn hết, c̣n sót một hai phẩm, chưa hoàn toàn chứng đắc Tam Quả (Bất Hoàn Quả), nên gọi là Bất Hoàn Hướng.

4. A La Hán Hướng (Arhat-pratipannaka), c̣n gọi là Vô Học Hướng, là bậc thánh giả đă đắc Tam Quả, tiến hướng địa vị A La Hán, nhưng chưa chứng nhập.

Tu Hoặc nói đủ là Tu Đạo Sở Đoạn Hoặc, tức là một danh xưng khác của Tư Hoặc.

[7] Núi Kê Túc ở huyện Tân Xuyên, tỉnh Vân Nam, nằm ranh giới các huyện Tân Xuyên Đặng Xuyên, Vĩnh Thắng, Hạc Khánh, Nhị Nguyên v.v... Ngọn cao nhất đến 3.248 mét. Do h́nh thế của núi giống như cái chân gà nên gọi là Kê Túc. Đúng ra, phải gọi là rặng núi v́ Kê Túc gồm có đến 47 quả núi nhỏ họp lại. Cảnh nổi tiếng nhất gọi là Thiên Trụ Phật Quang. Vào cuối Hạ, sang Thu, sau khi mưa tạnh, bốn phía ngọn Thiên Trụ có mây ráng vờn quanh giống như ngọn núi tỏa hào quang bảy màu. Nơi này cũng có rất nhiều chùa, tám ngôi đại tự, ba mươi bốn chùa nhỏ hơn, sáu mươi lăm am viện, và hơn một trăm bảy mươi tịnh thất. Tăng nhân đến hơn năm ngàn người.

[8] Hoa Thủ Môn là một thắng cảnh tại núi Kê Túc. Ở phía Tây Nam của tháp Lăng Nghiêm, có một vách đá rộng hơn hai mươi mét, cao hơn bốn mươi mét, dựng đứng như tường thành, chính giữa có vết lơm trông như một cánh cửa đóng kín. Cảnh quan hùng vĩ nhất là những khi mưa to gió lớn, sấm giăng, chớp giật, mưa tạt vào vách đá Hoa Thủ Môn trông rất ngoạn mục, tiếng sấm bị vách núi vọng lại ầm ĩ khiến người nghe kinh tâm động phách.