Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

淨土大經解演義

phần 3

Chủ giảng: Lăo pháp sư Tịnh Không

Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010

Địa điểm: Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Đức Phong, Trịnh Vân và Huệ Trang

 

Tập 05

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Hàng thứ nhất, trang thứ ba của sách Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, xem từ hàng thứ nhất.

      “Thử nhất cú Phật hiệu, chánh như Yếu Giải sở thị, tức thị chúng sanh Bổn Giác Lư tánh, cố tri: Thử giới nhĩ năng niệm chi tâm tức thị Như Lai quả giác” (một câu Phật hiệu này, đúng như sách Yếu Giải đă dạy, chính là Lư tánh trong Bổn Giác của chúng sanh. Cho nên biết: Cái tâm niệm Phật nhỏ nhoi này chính là quả giác của Như Lai). Trong lần trước, chúng ta đă đọc tới chỗ này. Câu này vẫn phải nói rơ cặn kẽ hơn một chút, nó có quan hệ rất lớn đối với sự niệm Phật của chúng ta. Cái “giới nhĩ năng niệm chi tâm” này là chân tâm, mà cũng là vọng tâm; trong các thứ vọng tâm, nó gần với chân tâm nhất. V́ sao? Chẳng khởi tâm, chẳng động niệm nó là chân tâm. Hễ khởi tâm động niệm, nó là vọng tâm, chỉ là cái tâm bé nhỏ này vừa mới dấy lên [ư niệm]. Nh́n từ phía chân và vọng, cái tâm này khó có; dùng cái tâm này để niệm Phật th́ cái tâm ấy chính là “Như Lai quả giác” được nói đến ở đây. Người ấy chẳng mê, chẳng có Hoặc (phiền năo), [tức là] chẳng mê hoặc. Khi một niệm tâm khởi lên, bèn A Di Đà Phật; niệm Phật phải niệm theo cách như vậy. Nay chúng ta là phàm phu, là lục đạo phàm phu chính cống; nếu trong kinh Đại Thừa, đức Phật không nói ra, chúng ta sẽ vĩnh viễn không nhận biết một niệm tâm này. Nó quá vi tế, “giới nhĩ” có nghĩa là “vi tế” (nhỏ nhiệm), cực kỳ vi tế, chúng ta không có cách nào nghĩ tưởng được!

      Chúng ta vừa mới dấy lên một niệm suy tưởng, Di Lặc Bồ Tát đă bảo: Trong một niệm tưởng, có “ba mươi hai ức trăm ngàn niệm”, đấy là “giới nhĩ năng niệm chi tâm” (cái tâm có thể niệm nhỏ nhoi này). Chúng ta vừa mới tưởng, trong cái ư niệm vừa dấy động ấy, bèn có ba mươi hai ức trăm ngàn niệm. Di Lặc Bồ Tát đă cho chúng ta biết: [Ba mươi hai ức trăm ngàn niệm chỉ là] trong khoảng khảy ngón tay, cho nên không có cách nào thấu hiểu điều này được! Trong kinh, đức Phật cũng nói rất rơ khi nào quư vị mới có thể quan sát, nhận biết những niệm vi tế này tồn tại: [Phải là khi đă đạt đến] Bát Địa Bồ Tát, tức Bát Địa Bồ Tát [trong Viên Giáo] như kinh Hoa Nghiêm [đă nói]. Từ Thất Địa trở về trước, đều không có cách nào cảm nhận được! Bát Địa Bồ Tát có công phu định lực như vậy, chúng ta gọi [công phu ấy] là “thanh tịnh tâm”. Cái tâm thanh tịnh ấy đạt đến mức độ tinh thuần như vậy, nên Ngài mới cảm nhận được. Cao hơn nữa là Cửu Địa, Thập Địa, Thập Nhất Địa (Đẳng Giác), trên nữa là Diệu Giác, đó chính là viên măn, tức quả Phật rốt ráo viên măn! Nay chúng ta nên học như thế nào? Phải rèn luyện trong cuộc sống thường ngày. Chúng ta có thể học theo bí quyết về phương pháp huấn luyện trong cuộc sống thường ngày của Ấn Quang đại sư, bí quyết ǵ vậy? [Chính là] chữ Tử trong “sanh tử”, thường nghĩ đến lúc phải đối diện cái chết. Đừng sợ chết! Quư vị phải biết: Chết là thân có sanh tử, chứ linh hồn (thần thức) không có sanh tử! Nếu sau khi chết, cái ǵ cũng đều không có, linh hồn cũng chẳng có; nói chung, chúng ta cũng chẳng cần phải học Phật, cũng chẳng cần phải tu hành, giống như phàm nhân thường nói “người chết như ngọn đèn đă tắt”. Chết rồi, cái ǵ cũng đều chẳng có! Không phải vậy! Thân chết, linh hồn không chết; linh hồn lại đi đầu thai, tức là nói “luân hồi trong lục đạo”, chuyện này phiền phức lắm! Chúng ta phải thật sự hiểu rơ, minh bạch chân tướng sự thật này: [Thần thức] chẳng thể chết được! Trong quá khứ, khi giảng kinh, tôi đă nói rất nhiều lần, chết là phiền lắm! Phiền phức quá lớn! Nhất định phải văng sanh Tịnh Độ trong một đời này, văng sanh Tịnh Độ là thành Phật!

      Có thể làm được hay không? Ai cũng có thể làm được! Chỉ cần quư vị hiểu lời khải thị này của pháp sư Ấn Quang, thường nghĩ thọ mạng của ḿnh chỉ là một ngày hôm nay, đừng nghĩ sẽ có ngày mai, [chỉ có ngày] hôm nay thôi, quư vị c̣n có ǵ mà không buông xuống được? Chỉ có một ngày hôm nay, ngày hôm nay là ngày cuối cùng, ta phải nên làm chuyện ǵ? Thật thà niệm Phật, chẳng phải là đă thành công rồi hay sao? Cách niệm như thế nào? Mỗi tế bào trên thân thể ta đều là A Di Đà Phật, mỗi sợi lông đều là A Di Đà Phật. Ta lại mở banh mắt nh́n ra thế giới bên ngoài, nghe âm thanh bên ngoài, những điều mà sáu căn tiếp xúc, chẳng có điều nào không phải là A Di Đà Phật. A Di Đà Phật trọn khắp pháp giới; đấy là niệm Phật. Trong kinh Đại Thừa, đức Phật đă giảng rất hay: Hết thảy chúng sanh, “chúng sanh” ở đây hiểu theo nghĩa rộng, không theo nghĩa hẹp, do các duyên ḥa hợp sanh ra hiện tượng [th́ gọi] là chúng sanh, có hiện tượng nào chẳng phải do các duyên ḥa hợp? Cái thân động vật của chúng ta do các duyên ḥa hợp, [gọi theo] danh từ Phật học là Tứ Đại, Ngũ Uẩn. Tứ Đại là vật chất, Ngũ Uẩn là tinh thần, tức Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Tứ Đại và Ngũ Uẩn hợp thành thân thể này. Hoa, cỏ, cây cối th́ sao? Hoa, cỏ, cây cối cũng vậy, cũng do các duyên ḥa hợp mà sanh. Chúng ta thấy thân tướng của chúng là hiện tượng vật chất; chúng có Thọ, Tưởng, Hành, Thức hay không? Có chứ! Không rơ ràng như động vật, tŕ độn hơn động vật nhiều lắm, nhưng chúng có [Thọ, Tưởng, Hành, Thức]. Nếu không có, làm sao chúng ta có thể khởi cảm ứng đạo giao với chúng?

      Mười năm gần đây nhất, tôi di dân sang Úc, lập một đạo tràng tại Úc. Đất ở Úc rẻ, tiền xây cất đạo tràng rất thấp, đất đai đặc biệt rẻ. Hoàn cảnh sống của tôi ở Úc là ở vùng nông thôn, cách thành phố mười hai cây số, lái xe [vào thành phố mất] mười lăm phút. Phía ngoài căn nhà tôi ở là sân, sân to chừng nào? Cỡ một trăm bảy mươi mẫu Trung Quốc[1], sân to như vậy đó! Phía ngoài dùng dây kẽm rào lại, đi ṿng quanh hàng rào ấy phải mất một giờ. V́ thế, tôi trồng rất nhiều rau, rất nhiều cây cối, hoa cỏ. Cây cối, hoa, cỏ có linh khí, rau có linh khí, thực vật có linh tánh, chúng có [khả năng] thấy nghe, hay, biết. Chúng ta dùng thiện tâm chăm sóc, đối đăi chúng, chúng sẽ báo đáp tốt đẹp: Hoa nở đặc biệt thơm, kết quả đặc biệt ngọt, chúng đền đáp đấy! Chúng tôi không dùng thuốc trừ sâu và phân hóa học. Thuốc trừ sâu và phân hóa học sẽ tổn hại chúng, chúng chẳng muốn tiếp nhận. Chúng giống như chúng ta, có một phần tinh thần. Phật pháp nói đến tâm, thực vật có tâm pháp. Chăm sóc vườn rau, vườn rau rất lớn, chúng tôi tổ chức các hoạt động, rau trong vườn có thể đủ cung cấp cho một ngàn người ăn. Tổ chức các hoạt động suốt bảy ngày có thể chẳng cần phải mua rau ở bên ngoài. Vườn rau của chúng tôi có thể đủ cho một ngàn người ăn mỗi ngày. Vườn rau to ngần ấy, trồng rất nhiều loại. Pháp sư Ngộ Khiêm cho tôi biết: Cô ta trông nom vườn rau, một hôm nằm mộng, thấy có một trái dưa leo báo mộng: “Tôi đă già khằng rồi mà các cô không hái”. Quư vị thấy nó báo mộng cho cô ta v́ cô trông nom vườn rau. Hôm sau, [thức dậy], cô ta cảm thấy lạ lắm, băn khoăn: “Mỗi ngày ḿnh đều vào vườn, cớ sao chẳng thấy?” T́m đúng vị trí [trái dưa] đă chỉ [trong giấc mộng], quả nhiên có một trái dưa; nó khuất sau mớ dây leo nên chẳng thấy. Cô ta thấy nó đúng là quá già, chẳng thể nào ăn được. Thôi! Để dành làm giống vậy! Quư vị thấy đó: Dưa có thể báo mộng cho quư vị; cho nên nó có linh tánh, quư vị đừng coi rẻ, xem thường nó! Quư vị phải tôn trọng nó. Không chỉ cây cối, hoa, cỏ có linh tánh, mà núi, sông, đại địa cũng có linh tánh, cũng tức là nói “khoáng vật có linh tánh”. Tiến sĩ Giang Bổn Thắng của Nhật Bổn làm thí nghiệm với nước, nhà khoa học này thừa nhận, ông ta chẳng bịa chuyện. Ông ta làm thí nghiệm mười hai năm, nước là khoáng vật, nó có thể thấy và nghe, hiểu ư nghĩ của con người. Sau khi tin tức này được công bố, nói theo Phật pháp, [sở dĩ nước có thể thấy, nghe, hiểu ư là v́] tất cả hết thảy khoáng vật, núi, sông, đại địa đều có linh tánh, cũng có thể nói là chúng đều có Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Thân thể của động vật là Ngũ Uẩn, nhưng thực vật và khoáng vật cũng chẳng ra ngoài lệ ấy, chẳng ĺa Ngũ Uẩn, chỉ là mức độ mẫn cảm khác nhau. Động vật mẫn cảm nhất, rơ ràng nhất, thực vật kém hơn, khoáng vật kém hơn nữa, nhưng vẫn có linh tánh. Do điều này, chúng ta mới thật sự hiểu một hạt vi trần có là A Di Đà Phật hay không? Đúng vậy! Một sợi lông có phải là A Di Đà Phật hay không? Phải! A Di Đà Phật ở đâu? Khắp pháp giới hư không giới, không chỗ nào chẳng phải là A Di Đà Phật! A Di Đà Phật là tự tánh, là Tánh Đức của chúng ta. Một niệm của chúng ta vừa dấy lên, bèn tương ứng viên măn với Tánh Đức, đó gọi là niệm Phật. “Giới nhĩ năng niệm chi tâm” chính là quả giác của Như Lai, chẳng giả tí nào!

      “Thị cố, Quán Kinh vân” (Do vậy, Quán Kinh nói). Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh là một trong ba kinh Tịnh Độ, bộ kinh này giảng về lư luận và phương pháp tu hành; c̣n kinh Vô Lượng Thọ là Tịnh Tông khái luận, giới thiệu toàn thể y báo và chánh báo trang nghiêm của Tây Phương Cực Lạc thế giới. Quán Kinh chuyên giảng về hai bộ phận lư luận và phương pháp. Kinh A Di Đà là lược bổn (bản rút gọn) của kinh Vô Lượng Thọ, tức là một phiên bản (version) tinh giản, thuận tiện cho quư vị học tập trong khóa sáng và khóa tối. Trong kinh ấy, có bốn lần khuyên dạy, chẳng dễ có, rát miệng, buốt ḷng khuyên bảo chúng ta hăy tin tưởng, hăy phát nguyện, phải cầu sanh Tịnh Độ, [làm như thế] là đúng. Đây là chư Phật Như Lai bi tâm vô tận, mong cho chúng ta thành tựu trong một đời. Trong các kinh điển khác, đức Phật chẳng khuyên chúng ta nhiều như thế, nhưng trong kinh Di Đà khuyên tới bốn lần; cũng có nghĩa là pháp môn này đảm bảo quư vị sẽ thành tựu trong một đời. Chỉ cần thật sự làm được, chẳng hoài nghi, chẳng xen tạp, chẳng gián đoạn, sẽ thành công. Đại Thế Chí Bồ Tát đă làm gương cho chúng ta thấy. Trong Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh, có hai câu như sau: “Thị tâm thị Phật, thị tâm tác Phật” (Tâm này là Phật, tâm này làm Phật); đây là nguyên văn hai câu trong kinh ấy. “Tâm này là Phật”, tôi vừa mới nói lắm lời như vậy chỉ nhằm giải thích bốn chữ này! Tôi nói tới các tế bào trên toàn thân chúng ta th́ tế bào vẫn c̣n lớn. Nếu chia chẻ tế bào, sẽ biến thành phân tử. Lại chia chẻ phân tử, sẽ biến thành nguyên tử. Chia đến cuối cùng là hạt cơ bản. Mỗi hạt cơ bản đều là A Di Đà Phật, do tâm biến ra. Hạt cơ bản là tâm, tâm này là Phật, lẽ nào các hạt cơ bản ấy chẳng phải là Phật! Tất cả tế bào trên thân tôi đều là Phật, các tế bào trên thân quư vị có là Phật hay không? Là! Ngay cả cây cối, hoa cỏ, núi, sông, đại địa đều là! Từ chỗ này, quư vị sẽ giác ngộ: Chẳng có một pháp nào chẳng phải [là A Di Đà Phật]! Hễ giác ngộ, pháp nào cũng đều như thế. Do vậy, kinh Phật được mở đầu bằng câu “như thị ngă văn”, “như thị” là ǵ vậy? Như là Chân Như. “Tướng giống như Tánh, Tánh giống như Tướng, Tánh và Tướng bất nhị”. Tánh là Phật, lẽ nào Tướng chẳng phải là Phật! Đâu có lẽ ấy! Tâm này là Phật, có chuyện ǵ chẳng phải là Phật! Chúng ta phải hiểu rơ đạo lư này, Phật là ǵ? Phật là tâm, là chân tâm, chẳng phải là vọng tâm, là ǵ? Cái tâm có thể sanh, có thể hiện. Cái tâm có thể biến chính là thức tâm, tức A Lại Da Thức, chuyển các tướng “có thể hiện, có thể sanh” thành y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới, chuyển biến thành lục đạo luân hồi. Đó là chuyện thực hiện bởi thức tâm. Thức là ǵ? Là phân biệt, chấp trước. Thức thức sáu, tức Ư Thức, phân biệt; thức thứ bảy chấp trước, Mạt Na chấp trước. Thức thứ sáu phân biệt, thiên biến vạn hóa. Sách Hoàn Nguyên Quán nói có ba thứ “châu biến” (trọn khắp), “xuất sanh vô tận” (sanh ra vô tận) chính là nói về ư nghĩa này. Tâm này là Phật, không ǵ chẳng phải Phật, dùng tâm này để tŕ danh, niệm Phật.

      “Tâm này làm Phật”, làm Phật như thế nào? Niệm Phật là làm Phật, niệm Bồ Tát là làm Bồ Tát, niệm A La Hán là làm A La Hán. Người trong thế gian hiện nay niệm ǵ? Đầu óc nghĩ tới tiền, nghĩ nhớ tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ, nghĩ tới những thứ này. Niệm những điều này sẽ biến thành những điều này, niệm ǵ sẽ biến ra đó, giống như ống kính vạn hoa vậy, niệm cái ǵ sẽ biến ra cái đó. [Niệm ngũ dục] sẽ không phải là Phật. Tài sắc là ǵ? Thưa quư vị, tài sắc là ngạ quỷ, địa ngục. V́ sao? Quư vị nổi tâm tham. Tâm tham là ngạ quỷ, sân khuể là địa ngục, ngu si là súc sanh. Ngu si là chẳng liễu giải chân tướng sự thật, nên gọi là ngu si. Trong thế gian hiện thời, mấy ai hiểu rơ chân tướng sự thật? Nếu chúng ta không học kinh giáo Đại Thừa, sẽ chẳng có cách nào thoát khỏi ngu si; chỉ có những kinh điển Phật pháp Đại Thừa mới giúp chúng ta phá mê khai ngộ. “Ngộ” ở đây chẳng phải là chứng ngộ, mà là giải ngộ, chúng ta đă hiểu rơ. V́ sao chưa chứng đắc? Chưa buông xuống! Thật sự buông xuống là cảnh giới nào? Tôi vừa mới nói đấy thôi! Khi thật sự buông xuống, niệm niệm đều là A Di Đà Phật, chẳng phải là thô niệm, mà là tế niệm, niệm niệm thật sự giác ngộ. Trong cảnh giới ấy chẳng có lục đạo, chẳng có mười pháp giới, cảnh giới ấy là cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai. Chúng ta gọi cảnh giới ấy là Nhất Chân pháp giới, “nhất” là thật, “nhị” là giả. Quư vị đọc đoạn thứ nhất trong Hoàn Nguyên Quán, tức bài văn của Hiền Thủ đại sư, [Ngài đă giảng về] Nhất Chân, [cảnh giới] đó là thật: “Tự tánh thanh tịnh viên minh thể”. Tự tánh thanh tịnh viên minh thể là tâm, là Phật, chẳng hai; tâm và Phật là một, chẳng hai. Khởi lên nhị dụng th́ sao? Khởi lên nhị dụng sẽ biến đổi! Nhị dụng là ǵ? Vũ trụ xuất hiện, vạn vật xuất hiện, ta xuất hiện! Ta là chánh báo; trừ chánh báo ra, tất cả hết thảy hoàn cảnh đều là y báo. Trong y báo, có y báo nhân sự, tức là quan hệ giữa con người với nhau, và y báo hoàn cảnh vật chất. Hễ ư niệm vừa dấy lên, y báo và chánh báo trang nghiêm đều xuất hiện. Khi nó xuất hiện, nó chưa biến, đều do tự tánh hiện; do vậy, có thể hiện, có thể sanh, nhưng chẳng biến hóa. Đấy gọi là Nhất Chân pháp giới.

      Nhưng nếu khởi phân biệt, [cảnh giới] sẽ biến đổi. Chư vị phải hiểu: Tâm phân biệt dấy lên, sẽ chẳng thấy cơi Thật Báo nữa, xuất hiện cảnh giới ǵ? Tứ thánh pháp giới, tức là bốn tầng trên trong mười pháp giới, có phân biệt, nhưng không chấp trước. Nếu hơi có một chút chấp trước, chấp trước ǵ vậy? Ta mong khống chế nó, toan chiếm hữu nó; hễ có ư niệm như thế, tứ thánh pháp giới chẳng c̣n nữa, không thấy nữa, lại xuất hiện ǵ? Lục đạo luân hồi xuất hiện. Lục đạo do đâu mà có? Do chấp trước! Do vậy, trong lục đạo, toàn bộ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đều có. Trong tứ thánh pháp giới, có vọng tưởng, có phân biệt, nhưng chẳng có chấp trước. Trong Nhất Chân pháp giới của các cơi Phật, có vọng tưởng, nhưng không có phân biệt và chấp trước. Chấp trước hại chết người! V́ sao quư vị sống trong thế gian khổ sở như thế? Do chấp trước. Chấp trước chẳng c̣n nữa, trong thế gian này, quư vị sẽ sung sướng, chẳng khổ sở, ĺa khổ, được sướng. Câu tiếp theo là “tâm này làm Phật” quá quan trọng! V́ sao quư vị chẳng niệm Phật? Niệm Phật được tự tại, niệm Phật được tương ứng, càng niệm càng hoan hỷ, càng niệm càng sung sướng, biết vạn sự vạn pháp trong khắp pháp giới hư không giới và chính ḿnh là nhất thể; quư vị bèn chứng đắc hai câu “tâm này là Phật, tâm này làm Phật”, đó chính là cảnh giới của quư vị. Người ấy văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, đối với bốn cơi, sẽ sanh trong cơi nào? Sanh vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, hoa nở, thấy Phật, chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn, đó là ǵ? Là một vị A Duy Việt Trí Bồ Tát thật sự, chẳng giả tí nào! Nếu chưa nhập cảnh giới này, vẫn có thể văng sanh, thường gọi là “đới nghiệp văng sanh”, pháp môn này thù thắng khôn sánh! Tám vạn bốn ngàn pháp môn chẳng có đới nghiệp, chỉ có pháp môn này cho phép quư vị đới nghiệp văng sanh, sanh về cơi Phương Tiện hay cơi Đồng Cư của Tây Phương Cực Lạc thế giới. Trong thế giới của chúng ta, cơi Đồng Cư là lục đạo, cơi Phương Tiện là tứ thánh pháp giới.

      Nhưng cơi Đồng Cư và Phương Tiện trong thế giới Tây Phương không giống với thế giới của chúng ta. Ở nơi đây (thế giới Sa Bà), chúng ta có chướng ngại; thứ bậc khác nhau sẽ chẳng thấy được [cảnh giới của các cơi Tịnh Độ khác]. Tây Phương Cực Lạc thế giới là thế giới b́nh đẳng, không có chướng ngại. Điều này giống như ǵ? Chúng ta học tập trong nhà trường, Tiểu Học và Trung Học chẳng ở chung trong một trường, học tṛ Tiểu Học chẳng thể đến trường Trung Học; mà học tṛ Trung Học cũng chẳng thể đến [học trong] trường Tiểu Học. Trong Tiểu Học, c̣n có các lớp khác nhau; những tṛ cùng một lớp sẽ học chung với nhau. Nếu khác lớp, tuy là bạn đồng học, chẳng thường gặp mặt, chẳng cùng lên lớp với nhau. Thế giới Cực Lạc rất đặc biệt, Tiểu Học, Trung Học, Đại Học cùng nghe giảng trong một pḥng học; cho nên gặp mặt mỗi ngày, thật sự là đồng học. Học tṛ lớp Một, lớp Hai Tiểu Học cùng học với các đàn anh sinh viên Đại Học năm thứ nhất, năm thứ hai thuộc hệ nghiên cứu sinh, gọi nhau là huynh đệ hay đồng học, gặp mặt mỗi ngày. Đấy là chỗ chẳng thể nghĩ bàn của thế giới Cực Lạc. Mười phương thế giới không có trạng huống và t́nh h́nh này, thù thắng lắm! Do vậy, thế giới Cực Lạc là sanh vào một, là sanh hết thảy”. Quư vị sanh vào cơi Phàm Thánh Đồng Cư, gần như cũng đồng thời sanh vào cơi Phương Tiện và cơi Thật Báo. Đây là lư do v́ sao Thích Ca, Di Đà khuyên chúng ta văng sanh, chư Phật trong mười phương thế giới cũng khuyên chúng ta văng sanh, đạo lư ở chỗ này. Nếu trong một đời này, chúng ta chẳng thể văng sanh, làm sao xứng với Phật Thích Ca? Làm sao xứng với Phật Di Đà? Làm sao xứng với mười phương chư Phật? Những câu này, câu nào cũng đều là lời chân thật. V́ thế, hai câu nói “tâm này là Phật, tâm này làm Phật” đă nói trọn hết [những nghĩa lư tinh vi của pháp môn Tịnh Độ].

      Tiếp đó, cụ Hoàng Niệm Tổ viết: “Bổn lai thị Phật, hiện hựu tác Phật. Thị cố, đương hạ tức Phật” (Vốn sẵn là Phật, nay lại làm Phật; cho nên, ngay lập tức là Phật). Câu này chẳng phải nhằm khuyến khích, cổ vũ chúng ta, mà là sự thật, vấn đề ở chỗ nào? Vấn đề là bản thân chúng ta không dám gánh vác, bản thân chúng ta chẳng dám thừa nhận! Không dám gánh vác, không dám thừa nhận là đúng, như thế nào là đúng? Vốn là Phật! Chẳng cần nói năng chi nữa, lời này là đúng! Nay lại làm Phật, quư vị hữu danh vô thực! Niệm A Di Đà Phật để mong thành Phật, nhưng có rất nhiều nghi vấn đối với câu Phật hiệu ấy, thật hay chăng? Có rất nhiều câu hỏi trong đó! Niệm một câu Phật hiệu này, có rất nhiều xen tạp; nhưng xen tạp những ǵ, chính quư vị cũng chẳng biết! V́ sao không biết? Do quư vị ngu si, tham, sân, si. Nếu chẳng ngu si, sẽ biết điều ǵ xen tạp. Do ngu si, nên xen tạp mà chẳng biết; v́ thế, công sức chẳng thuần. Niệm Phật lập tức thật sự là Phật, nhưng v́ quư vị công phu chẳng thuần, chẳng đạt tiêu chuẩn, cứ hướng theo phương hướng đó th́ sẽ chẳng sai, nhưng chưa đạt được mục tiêu này. Làm sao để chẳng hoài nghi? Phải thấy thấu suốt. Khi tôi mới học Phật, thầy dạy tôi “thấy thấu suốt, buông xuống”. Thấy thấu suốt là hiểu rơ minh bạch chân tướng sự thật. Kẻ căn tánh trung hạ như chúng ta chỉ có thể từ từ hiểu rơ kinh giáo. Sau khi hiểu rơ, quư vị cũng rất dễ buông xuống. Chính quư vị biết “chẳng buông xuống là sai”, lầm lẫn quá đỗi! V́ sao phải buông xuống? V́ nó (phiền năo, mê hoặc, chấp trước, phân biệt, vọng tưởng) vốn không có, hết thảy đều là giả! Phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng, vạn pháp đều Không. Khi đến cơi Thường Tịch Quang Tịnh Độ, nhân quả cũng là không. Chư vị phải biết: Đến cơi Thường Tịch Quang, nhân quả chẳng c̣n nữa. Trong cơi Thật Báo, c̣n có nhân quả. Trong Phật môn có câu: “Vạn pháp giai không, nhân quả bất không” (vạn pháp đều là không, nhân quả chẳng không). Trong mười pháp giới, nhân quả chẳng không. Thật ra, trong cơi Thật Báo, vẫn là nhân quả chẳng không, đến cơi Thường Tịch Quang [nhân quả] mới chẳng c̣n nữa.

      “Trực tiệp liễu đáng, phương tiện cứu cánh, kỳ đặc thù thắng, bất khả tư nghị” (Thẳng chóng ổn thỏa, thích đáng, phương tiện rốt ráo, đặc biệt lạ lùng thù thắng, chẳng thể nghĩ bàn). Mấy câu này là lời tán thán bộ kinh này và pháp môn này, thù thắng khôn sánh. Chúng ta có thể gặp gỡ, tức là có nhiều phước báo. Thật đấy, trong pháp giới hư không giới, bao nhiêu vị Bồ Tát mong cầu mà chẳng cầu được. Đạo tràng này của chúng ta tuy không lớn, thính chúng đông đảo, lũ chúng ta mắt thịt chẳng thấy. Khi quư vị thấy được, sẽ biết thính chúng nhiều vô số. Tuy chúng ta ở đây mở toang cửa, hoan nghênh mọi người, chẳng có bất luận điều kiện ǵ, nhưng rành rành là vẫn có thần hộ pháp, có chẳng ít chúng sanh bị thần hộ pháp chặn ở ngoài cửa, không vào được. Chúng ta thờ bài vị, là thiết lập chỗ ngồi cho họ, để họ có chỗ ngồi, có thể tiến vào nghe kinh, đến nơi đây tu hành. Hết thảy pháp toàn là huyễn hóa, chẳng có lớn hay nhỏ. Lớn hay nhỏ tùy thuộc tâm lượng của quư vị. Tâm lượng càng lớn, đạo tràng càng to. Tâm lượng nhỏ nhoi, đạo tràng sẽ bé tí, đại đạo tràng cũng biến thành tiểu đạo tràng. Tâm lượng lớn, tiểu đạo tràng cũng biến thành đại đạo tràng, chẳng thể nghĩ bàn! “Tiện dĩ Tịnh Độ chư kinh chi trung, duy thử kinh bị nhiếp viên diệu” (Ấy là v́ trong các kinh Tịnh Độ, chỉ có kinh này gồm trọn các điều mầu nhiệm viên măn). Tịnh Độ có tam kinh, trong phần trên tôi đă thưa với quư vị, cư sĩ Ngụy Mặc Thâm đem quyển cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm, ghép vào sau Tam Kinh, biến thành Tứ Kinh; Ấn Quang đại sư đem Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương của kinh Lăng Nghiêm ghép vào cuối Tứ Kinh, biến thành Tịnh Độ Ngũ Kinh, viên măn! Tu Tịnh Độ năm kinh này là viên măn. Trong ngũ kinh, bộ kinh nào giảng viên măn nhất, một chút khiếm khuyết cũng không có? Đó là kinh Vô Lượng Thọ; v́ thế, cổ đại đức tán thán bộ kinh này là cực viên, cực diệu.

      “Dĩ phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm vi Tông, dĩ Di Đà thập niệm tất sanh chi đại nguyện vi bổn” (Lấy phát Bồ Đề tâm, một bề chuyên niệm làm Tông, lấy đại nguyện “mười niệm ắt sanh” của Phật Di Đà làm gốc). Hai câu này rất quan trọng! Phẩm Tam Bối Văng Sanh trong kinh này đă giảng rất rơ ràng [ư nghĩa của] “phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”. Phẩm Tam Bối Văng Sanh gồm bốn đoạn kinh văn: Thượng bối văng sanh, trung bối văng sanh, hạ bối văng sanh; đoạn cuối cùng là tu học Đại Thừa Phật pháp, bất luận tu học pháp môn nào, đem công đức đă tu hồi hướng cầu sanh Tịnh Độ, sẽ đều có thể văng sanh. Quư vị thấy pháp môn Tịnh Độ này lớn như thế đó! Trong khoa phán, pháp sư Từ Châu đă đặt đề mục cho đoạn này là Nhất Tâm Tam Bối, đặt hay lắm, đă gồm thâu toàn bộ Phật pháp. Phát Bồ Đề tâm, Bồ Đề tâm là ǵ? Điều này thường được nói tới. Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh giảng Bồ Đề tâm là “chí thành tâm, thâm tâm, hồi hướng phát nguyện tâm”, kinh dạy như thế. Trong Đại Thừa Khởi Tín Luận, Bồ Đề tâm được giảng là “trực tâm, thâm tâm, đại bi tâm”. Gộp chung kinh và luận lại để xem, ư nghĩa rất rơ rệt. Thể của Bồ Đề tâm, cũng là chân tâm trong Bồ Đề tâm, Thể của chân tâm là ǵ? Là chân thành. Chân thành đến chỗ cùng cực th́ gọi là chí thành, tức chí thành tâm. Trực tâm như Khởi Tín Luận đă nói: Chẳng có mảy may cong vạy nào, đó chính là chân thành. Chúng ta chiếu theo kinh luận để hiểu ư nghĩa. “Thâm tâm” chẳng dễ giải thích. Cổ đại đức giải thích [thâm tâm] là ưa thiện, chuộng đức, giải thích thâm tâm như thế. Thâm tâm là tự thụ dụng, dành cho chính ḿnh. Đại bi tâm là đối người khác, từ bi đối người khác. Do vậy, trong hơn hai mươi năm trước, tôi giảng kinh này, dùng ngay [những từ ngữ trong] tựa đề kinh Vô Lượng Thọ “thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác”, đó là thâm tâm. Chân thành tâm như đă nói trong phần trên chính là cái Thể của Bồ Đề tâm. “Thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác” là Tự Thụ Dụng, từ bi là Tha Thụ Dụng. Nói cách khác, dùng tâm ǵ đối với chính ḿnh? “Thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”. Dùng tâm ǵ đối với người khác? Đại từ đại bi. Đây gọi là “phát Bồ Đề tâm”.

      Chúng ta tu hành là tu điều ǵ? Tu tâm. Tâm chúng ta có thanh tịnh hay không? B́nh đẳng hay bất b́nh đẳng? Tâm thanh tịnh là giới luật, tâm b́nh đẳng là Thiền Định, tâm Chánh Giác là trí huệ, Giới - Định - Huệ. Chúng ta học Giới - Định - Huệ như thế nào, quư vị phải hiểu rơ: Nếu tŕ giới mà tâm chẳng thanh tịnh, quư vị đă uổng công tŕ giới! Tu Định mà chẳng khai trí huệ, cũng uổng công tu Định! Nhân Giới đắc Định, do Định khai Huệ. V́ thế, tŕ giới là phương tiện, không phải là mục đích, [tŕ giới] nhằm muốn đạt tới Thiền Định, đạt tới b́nh đẳng. B́nh đẳng mới là Định. Nếu chúng ta thật sự đạt được cái tâm thanh tịnh, thưa quư vị, Thủy Tai trong Tam Tai chẳng c̣n nữa. Tâm b́nh đẳng hiện tiền, động đất chẳng c̣n nữa. Hôm nay, có một đồng học đưa cho tôi xem một tài liệu, gần như chưa đầy một tháng, động đất cấp sáu[2] trở lên đă xảy ra mười mấy lần tại các nơi trên toàn thế giới, liên tiếp xảy ra như thế là do nguyên nhân ǵ? Từ cấp sáu trở lên đă đáng sợ lắm, [có trường hợp động đất] đến cấp tám. Sau khi giác ngộ, Phong Tai chẳng c̣n nữa. Ngu si cảm Phong Tai. Nếu chứng đắc tâm b́nh đẳng, nhiệt độ của địa cầu sẽ chẳng tăng lên, khôi phục b́nh thường. V́ thế, đức Phật chỉ dạy chúng ta: “Cần tu Giới, Định, Huệ, tức diệt tham sân si” (siêng tu Giới, Định, Huệ, dứt diệt tham, sân, si). Cảm ứng của tham, sân, si là tai nạn, là bất thường. Giới, Định, Huệ là b́nh thường. Do vậy, phải phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm, một phương hướng là Tây Phương, một mục tiêu là thế giới Cực Lạc, một nguyện vọng là thân cận A Di Đà Phật, chúng ta sẽ thành công trong một đời này, những thứ khác đều là giả.

Học rộng nghe nhiều khá lắm, nhưng [tai ương, vô thường] xảy đến, [trở tay] chẳng kịp! Do vậy, tôi thường khuyên các đồng học: Học rộng nghe nhiều tốt lắm, nhưng sang thế giới Cực Lạc hăy làm. V́ sao? Sang bên đó, điều đầu tiên mà chúng ta đạt được là Vô Lượng Thọ, dẫu học nhiều thứ vẫn được! Ta có thời gian mà! Ở nơi đây, sanh mạng quá ngắn ngủi, chúng ta chớ nên lăng phí thời gian, đừng lăng phí! Hơn nữa, trong thế gian này, trí huệ chưa khai, học ǵ cũng chẳng viên măn, hiểu biết nửa vời, lại c̣n phạm rất nhiều sai lầm, cớ ǵ cứ phải như thế? Do vậy, phải thật thà, phải nghe lời! Đức Phật dạy chúng ta một mực chuyên niệm, đức Phật dạy như thế trong kinh văn của kinh Vô Lượng Thọ. Tông () là tôn chỉ, Tông nghĩa là ǵ? Là điều quan trọng nhất. Đây là nói về phương pháp tu học. [Tông] là phương pháp tu học quan trọng nhất, là phương pháp đáng tôn sùng nhất, thập phương chư Phật đều tán thán. Phương pháp tu học chủ yếu của Tịnh Tông là “nhất hướng chuyên niệm”. Chữ “Tông” có ba ư nghĩa ấy.

      “Dĩ Di Đà thập niệm tất sanh chi đại nguyện vi bổn” (lấy đại nguyện “mười niệm ắt sanh” của Phật Di Đà làm gốc). Đây là nguyện thứ mười tám; “phát Bồ Đề tâm” là nguyện thứ mười chín. Đây là hai nguyện trọng yếu nhất trong bốn mươi tám nguyện. Cổ đại đức nói nguyện nào trọng yếu nhất trong bốn mươi tám nguyện? Mọi người đều nói là nguyện thứ mười tám. Nguyện thứ mười tám là “mười niệm hay một niệm, đều có thể văng sanh”. Điều kiện là ǵ? Điều kiện là trọn đủ tín nguyện. Một niệm hay mười niệm là nói về lúc nào? Là nói khi quư vị văng sanh, lúc quư vị rời khỏi thế gian, niệm cuối cùng [trong lúc ấy]. Niệm cuối cùng là A Di Đà Phật, do niệm ấy bèn văng sanh. Do vậy, lúc lâm chung, nếu một niệm vẫn là nghĩ tới tài sản trong nhà, xong luôn! Sẽ đi vào quỷ đạo! Nếu nghĩ tới kẻ nào khiến ta bị oan uổng, ta vẫn c̣n hận hắn, sẽ sanh vào địa ngục! Một niệm cuối cùng quyết định quư vị từ nơi này rốt cuộc sẽ sanh về đâu, mấu chốt ở một niệm ấy; v́ thế, một niệm rất trọng yếu! Điều quan trọng nhất trong việc đưa người khác đi văng sanh (trợ niệm) là giúp cho người ấy trong một niệm cuối cùng đừng quên mất A Di Đà Phật. Chúng ta vây quanh người ấy, niệm niệm đều là A Di Đà Phật, nhắc nhở người ấy, công đức vô lượng, bảo người ấy không nên có ư niệm nào khác. Cổ đại đức đă làm rất tốt, không cho phép người nhà, quyến thuộc gần gũi người sắp mất. Khi người ấy sắp tắt hơi, người nhà, quyến thuộc lánh đi để người ấy chẳng khởi lên t́nh chấp. Hễ t́nh chấp dấy lên, ngay lập tức [người sắp mất ấy] bị đọa lạc, sanh trong tam ác đạo. Người nhà, quyến thuộc rời khỏi, các đồng tham đạo hữu giúp đỡ; đấy là chính xác. [Dẫu] người nhà, quyến thuộc học Phật, tốt nhất là cũng nên rời khỏi, [kẻo] người sắp mất thấy con cháu sẽ dấy động t́nh cảm, khi ấy, sẽ là vấn đề nghiêm trọng. V́ thế, người nhà, quyến thuộc rời khỏi người chết là chuyện hết sức hợp lư.

      “Thâm minh tam bối văng sanh chi nhân” (Nêu tỏ sâu xa cái nhân văng sanh của ba bậc). Trong kinh, đức Phật đă nói rất rơ ràng, trong hai chương Tam Bối Văng Sanh và Văng Sanh Chánh Nhân đă nói rơ ràng, minh bạch. “Quảng nhiếp cửu giới thánh phàm chi chúng” (rộng nhiếp các bậc thánh phàm trong chín pháp giới): Pháp môn này quá lớn, có năng lực nhiếp thọ chúng sanh trong chín pháp giới. Trong chín pháp giới, ba pháp giới phía trên là Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, chúng ta gọi họ là thánh nhân. Bồ Tát là đại thánh, Thanh Văn và Duyên Giác là tiểu thánh. Trong lục đạo đều là phàm phu, phàm chúng. Niệm Phật văng sanh Tịnh Độ là đi làm Phật, ai nấy đều có phần, quỷ thần cũng có phần, trời, người cũng có phần, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát cũng có phần, vấn đề là quư vị có phước báo và duyên phận gặp gỡ hay không? Đă gặp, quư vị bèn tin tưởng, phát nguyện văng sanh th́ sẽ thành. Nói theo Lư, đáng lẽ Bồ Tát, A La Hán dễ [có phước đức và nhân duyên tu pháp môn này] hơn chúng ta; v́ sao kinh nói “trong mười pháp giới, nhân gian văng sanh thuận tiện nhất”, do nguyên nhân nào? Trong Tứ Thập Nhị Chương Kinh có tỷ dụ: “Phú quư học đạo nan”; người phú quư hưởng phước, quên tuốt, coi thường chuyện học Phật. Bần cùng học đạo cũng khó! Kẻ bần cùng cuộc sống quá khổ, ba bữa c̣n chưa đủ ăn, bận bịu kiếm sống, chẳng có thời gian để học Phật. C̣n loài người th́ sao? Chẳng thể coi là rất giàu có, nhưng cũng là chẳng thanh bần, thuộc loại thường thường bậc trung, dễ giác ngộ, dễ tu hành. Thuận tiện ở chỗ này! Chúng ta có thể hiểu được! Cuộc sống của chư thiên nhân tốt đẹp hơn chúng ta, phước báo to lớn; c̣n tam ác đạo th́ sao? Quá khổ sở!

      Hiện thời, dường như t́nh h́nh có biến hóa đôi chút. Tôi nghe không ít tin tức, ngay cả ngạ quỷ, địa ngục niệm Phật văng sanh cũng không ít; ngược lại, con người chẳng tin! Người niệm Phật đến cuối cùng đều niệm đến nỗi sanh vào quỷ đạo hay địa ngục, chuyện này là như thế nào? Đối với chuyện này, nếu chư vị đọc bộ Đại Thế Chí Viên Thông Chương Sớ Sao của pháp sư Từ Vân Quán Đảnh, Đại Thế Chí Viên Thông Chương rất ngắn, hai trăm bốn mươi bốn chữ, mà bản chú giải của Ngài là một quyển dầy như thế. Bản tôi đọc chính là loại sách đóng gáy bằng cách xâu chỉ, là một quyển dầy như thế đó! Nơi trang cuối, thuở ấy, tôi đọc mà không hiểu, Ngài nói một trăm thứ quả báo của người niệm Phật; câu đầu tiên là người niệm Phật đọa A Tỳ địa ngục, đọa ngạ quỷ, đọa súc sanh. Tôi đọc xong, hết sức nghi hoặc, cầm cuốn sách ấy đến hỏi thầy, tôi học kinh giáo với lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam. Tôi hỏi: “Thưa thầy, niệm Phật là chuyện tốt, nhưng niệm Phật như thế nào mà đọa địa ngục?” Thầy xem rồi bảo: “Đây là một vấn đề lớn, quan trọng lắm, tôi chẳng nói với một ḿnh anh! Khi giảng kinh tôi sẽ giảng giải đạo lư này cùng mọi người”. Thật ra, quư vị dùng cái tâm ǵ để niệm Phật? Quư vị niệm Phật, nhưng chẳng đoạn tham, sân, si. Tham, sân, si, mạn, nghi gọi là Ngũ Độc. Quư vị dùng tâm Ngũ Độc này để niệm Phật th́ vẫn đọa địa ngục; do vậy, chẳng thể không hiểu nhân quả. Vậy th́ niệm Phật có uổng công hay không? Chẳng phí công niệm Phật! Trong A Lại Da Thức đă gieo chủng tử Phật. Trước hết, quư vị gánh chịu quả báo do các tội nghiệp đă tạo tác, đợi cho đến khi quư vị thoát khỏi địa ngục, chẳng biết tới đời nào đó, lại được làm thân người, lại gặp gỡ Phật pháp, gặp được pháp môn Tịnh Độ, quư vị lại tu tiếp. V́ thế, chỉ có thể nói là trong A Lại Da Thức đă gieo chủng tử niệm Phật, chủng tử ấy vĩnh viễn bất hoại, sau này nhất định sẽ khởi tác dụng. Lợi ích ấy cũng rất thù thắng, nhưng luân hồi trong lục đạo, quư vị vẫn phải chịu hết các nỗi khổ sở. Do vậy, niệm Phật phải dùng Bồ Đề tâm để niệm, chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi. Quư vị dùng tâm này để niệm, sẽ hoàn toàn tương ứng; đúng là “nhất niệm tương ứng nhất niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”.

      “Chánh hiển tŕ danh niệm Phật chi pháp, trực chỉ văng sanh quy nguyên chi lộ. Thị cố, thử kinh xưng vi Tịnh Tông đệ nhất kinh dă” (Chỉ rơ ràng phương pháp Tŕ Danh Niệm Phật, chỉ thẳng con đường văng sanh để trở về nguồn. V́ thế, kinh này được gọi là kinh bậc nhất của Tịnh Tông). Quả thật tổ sư đại đức đă chỉ rơ phương pháp Tŕ Danh Niệm Phật; đấy là chỉ thẳng, không đi đường ṿng, chỉ thẳng thừng một con đường gần nhất, con đường thẳng ấy không ngoằn ngoèo. Dẫn đến đâu? Văng sanh quy nguyên! “Quy nguyên” là trở về nguyên thủy, nguyên thủy là ǵ? Tự tánh. Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới từ tự tánh biến hiện. Tự tánh có thể sanh, có thể hiện, A Lại Da có thể biến; đấy là y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới. Chúng ta gặp Phật, Bồ Tát; Phật, Bồ Tát cũng ở trong mười pháp giới, cũng có cùng một hoàn cảnh bị khổ, chịu nạn như chúng ta, nhưng các Ngài giác ngộ, quy nguyên, trở về tự tánh. Chúng ta thường nói các Ngài “thành Phật, thành Bồ Tát”, trở về tự tánh. Các Ngài hiểu rơ, minh bạch, nên các Ngài đến chỉ dạy, giáo hóa chúng ta làm thế nào thoát ly biển khổ. Lục đạo là biển khổ. Trong biển khổ sâu thẳm, tứ thánh pháp giới là chỗ ven bờ, chỗ biển cạn, lên được bờ mới tính là thoát ly. Bờ ấy được gọi là “bỉ ngạn” (bờ bên kia), là “Niết Bàn bỉ ngạn”. Niết Bàn là bất sanh, bất diệt, công đức viên măn. Bỉ ngạn là cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Đức Phật giáo hóa, giúp đỡ hết thảy chúng sanh [đạt đến Niết Bàn] mới được coi là viên măn. Do vậy, kinh này là kinh bậc nhất của Tịnh Tông, Tịnh Tông đồng học chẳng thể không học.

      Lại đọc tiếp: “Đản thử thù thắng đệ nhất chi Tịnh Tông bảo điển, cánh tại ngă quốc Đại Tạng trung trần phong nhất thiên dư niên” (Nhưng kinh điển quư báu bậc nhất của Tịnh Tông này bị bụi phủ trong Đại Tạng Kinh nước ta đă hơn một ngàn năm). Kinh Vô Lượng Thọ được truyền sang Trung Quốc sớm nhất, vào thời đại Đông Hán. Vào thời Hậu Hán, ngài An Thế Cao đến Trung Quốc, kinh Vô Lượng Thọ liền được truyền sang Trung Quốc, cho nên cũng là kinh được phiên dịch sớm nhất. Thời đại Đông Tấn, Huệ Viễn đại sư lập Niệm Phật Đường tại Lô Sơn, tức Đông Lâm Niệm Phật Đường, nay là Đông Lâm Tự, [là đạo tràng] cho các đồng học chuyên tu Tịnh Độ, trong ấy người tại gia lẫn xuất gia, tổng cộng một trăm hai mươi ba người. Một trăm hai mươi ba người cùng nhau niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Thưa cùng quư vị, kinh điển để làm căn cứ là kinh Vô Lượng Thọ, v́ khi đó, kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật và kinh A Di Đà đều chưa truyền sang Trung Quốc, kinh điển Tịnh Tông chỉ có một bộ này. V́ thế, cả nhóm người của vị tổ sư đời thứ nhất là Huệ Viễn đại sư dựa theo kinh Vô Lượng Thọ, không dễ dàng! Đối với bộ kinh này mà có thể tin, có thể hiểu, có thể phát nguyện, có thể thật sự hành, há dễ dàng ư? Chúng ta xem truyện kư của Huệ Viễn đại sư trong Cao Tăng Truyện, quư vị có thể thấy được t́nh h́nh tu hành nồng nhiệt thuở ấy. Họ kết giới an cư, phía trước [đạo tràng] có một con suối nhỏ, tên là Hổ Khê. Chúng tôi suy đoán, chắc là khi ấy trên núi có cọp, nên mới gọi là Hổ Khê. Hổ Khê là giới tuyến của họ, người tu hành nhất định chẳng rời khỏi giới tuyến này. Tại Trung Quốc, Nho, Thích, Đạo là một nhà, nên cũng có một câu chuyện về Viễn Công được gọi là Hổ Khê Tam Tiếu. Có hai người bạn thân đến thăm, Đào Uyên Minh (Đào Tiềm) là Nho gia, Lục đạo trưởng tu Đạo, tới Đông Lâm thăm Viễn Công, nói chuyện rất cao hứng. Lúc chia tay, Viễn Công đưa tiễn, vô t́nh vượt qua Hổ Khê. Bước qua chiếc cầu bắt ngang Hổ Khê, sau khi bước qua khỏi, ba người cười ha hả. Đó là giới tuyến, chẳng thể vượt qua, mà nghiễm nhiên đi quá lố. V́ thế, truyền thống văn hóa Trung Quốc chẳng tách rời Nho, Thích, Đạo, vững vàng như cái đỉnh có đủ ba chân.

      Viễn Công nương theo bộ kinh này tu hành; nhưng người đời sau không sốt sắng dốc công nơi kinh này như vậy, là v́ không lâu sau đó, ước chừng chưa đầy năm mươi năm, kinh Di Đà và Quán Kinh được dịch ra. Quả thật, vào thời kỳ đầu của Tịnh Tông, điển tịch Phạn văn được truyền sang Trung Quốc, người ta thường dốc công nhiều nhất nơi kinh Di Đà, chú sớ [kinh Di Đà] cũng nhiều nhất. Hơn một ngàn năm qua, kinh này (kinh Vô Lượng Thọ) không được Tịnh Tông chú trọng v́ nguyên nhân ǵ? Sách viết tiếp: “Khảo kỳ nguyên nhân, cái do thử kinh ngũ chủng nguyên dịch, hỗ hữu tường lược, xuất nhập thậm cự” (xét đến nguyên nhân là do năm bản dịch gốc của kinh này, có bản chi tiết, có bản đại lược, sai biệt quá lớn), phải biết nguyên nhân là như vậy. Năm bản dịch gốc được nói đến ở đây hiện thời được bảo lưu trong Đại Tạng Kinh, kinh Vô Lượng Thọ có năm bản dịch. Theo Dịch Kinh Mục Lục, từ triều Hán tới triều Tống, có mười hai bản dịch, quá nhiều, rốt cuộc nên tuân theo bản nào? Trong các bản dịch này, sai biệt rất lớn, ở đây, cụ Hoàng nêu một ví dụ, “lệ như Di Đà đại nguyện” (chẳng hạn như đại nguyện của Phật Di Đà). Chúng ta thường nói bốn mươi tám nguyện th́ bốn mươi tám nguyện là dựa theo bản dịch đời Ngụy và đời Đường, hai bản này chép bốn mươi tám nguyện. Trong bản dịch đời Hán và Ngô, Ngô [ở đây] là nhà Đông Ngô thời Tam Quốc, do Chi Khiêm phiên dịch, th́ là hai mươi bốn nguyện. Trong bản dịch đời Tống là ba mươi sáu nguyện, sai biệt quá lớn! Nếu chỉ có một bản gốc bằng tiếng Phạn, bất luận là ai dịch, đương nhiên văn tự sẽ không giống nhau, nhưng ư nghĩa nhất định như nhau, chẳng hạn các điều trong lời nguyện nhất định sẽ giống nhau, chẳng thể nào có sai biệt lớn như vậy. Do đó, cổ nhân phán đoán: Thích Ca Mâu Ni Phật thuở c̣n tại thế đă nhiều lần tuyên giảng kinh này, nên mới có t́nh h́nh này xuất hiện. Đức Thế Tôn giảng kinh từ trước tới nay, chưa hề giảng kinh nào hai lần, chỉ giảng một lần, chẳng giảng hai lần, chỉ riêng kinh Vô Lượng Thọ được tuyên giảng nhiều lần, chứng tỏ tầm quan trọng của bộ kinh này và tầm quan trọng của pháp môn này. Tổ sư đại đức đă chỉ ra như vậy!

      “Toại sử sơ tâm học giả, chuyên tŕ nhất dịch, nan minh thâm chỉ, biến độc ngũ chủng, hựu cảm gian nan” (Khiến cho người mới học chuyên tŕ một bản dịch sẽ khó thấu hiểu tông chỉ sâu xa; nếu đọc trọn năm bản dịch, sẽ cảm thấy khó khăn). Thật khó! Quư vị thấy vào đời Tống, cư sĩ Vương Long Thư là một vị đại đức lỗi lạc, nhưng không thể đọc cả năm bản dịch gốc, chỉ được thấy bốn bản. V́ thế, bản hội tập của ông căn cứ trên bốn bản dịch gốc. Bản dịch đời Đường chính là hội Vô Lượng Thọ trong kinh Đại Bảo Tích, ông Vương Long Thư chưa được đọc bản dịch này! Trong bản này, có rất nhiều khai thị tuyệt diệu, mà bốn bản dịch kia không nhắc tới. V́ thế, bản hội tập này chưa hoàn mỹ. Quư vị hăy suy nghĩ: Có địa vị, giàu có như Vương Long Thư, mà c̣n chẳng có cách nào sưu tập hoàn toàn năm bản dịch gốc, vẫn thiếu mất một loại, t́m không ra! Xưa kia, t́m một bản kinh là chuyện hết sức khó khăn! V́ thế, cổ đại đức dạy chúng ta: Kinh điển phải bảo tồn rất cẩn thận, khi đọc phải cẩn thận. Trên kinh bổn, quyết định không thể đánh dấu hay viết chữ, chớ nên gây hư hại. V́ sao? Nhằm lưu truyền cho hậu thế, để người đời sau có kinh để đọc. Không như hiện thời, thuật ấn loát phát triển, thuận tiện như thế. V́ lẽ đó, có người hỏi tôi: “Chúng con có thể viết chữ hay đánh dấu trên cuốn kinh được hay không?” Tôi bảo: “Được chứ!” V́ sao? Quá nhiều! Chẳng bị thất truyền! Trước kia quá ít, sợ bị thất truyền. Từ đời Tống trở về trước, kinh điển toàn là chép bằng tay, kỹ thuật ấn loát mới được phát minh vào đời Tống, nhưng dùng bản khắc gỗ để in, suy cho cùng vẫn là hữu hạn, hết sức hữu hạn. Ấn loát phát triển cũng chỉ trong năm mươi năm gần đây, chứ năm mươi năm trước đó, sắp chữ đúc bằng kim loại vẫn khá phiền phức. Hiện thời quá thuận tiện, chúng ta phải hiểu điều này. Đối với bản in hiện thời, nếu quư vị cảm thấy chỗ nào rất quan trọng, có thể đánh dấu, có thể gạch một vạch đỏ, như Hoằng Nhất đại sư đọc sách, dùng các màu khác nhau để đánh dấu; kinh bổn nhiều, có thể làm theo cách này!

      “Ư thị, đa xả thử kinh, nhi chuyên công A Di Đà kinh hỹ” (do vậy, đa số bỏ kinh này để dốc sức nơi kinh A Di Đà). Đây là lư do v́ sao từ xưa tới nay, ít người giảng kinh này, người chú giải kinh này cũng ít, nhưng đối với kinh A Di Đà, chú giải đông, giảng giải nhiều. Do vậy, Tịnh Tông gần như coi kinh A Di Đà là bộ kinh quan trọng nhất. “Thanh sơ, Bành Thiệu Thăng cư sĩ viết” (đầu đời Thanh, cư sĩ Bành Thiệu Thăng nói), Bành Thiệu Thăng là Bành Tế Thanh, “thử kinh xiển dương giả thiểu, thật dĩ vô thiện bổn cố” (kinh này ít người xiển dương, thật ra là v́ chưa có bản hoàn thiện), lời này rất hợp lư! Chưa có bản nào tận thiện! Quư vị nh́n vào năm bản dịch gốc sẽ biết liền! “Thành tai thị ngôn! Thị dĩ, Tống Vương Nhật Hưu, Thanh Bành Thiệu Thăng, Ngụy Thừa Quán đẳng đại cư sĩ, quân vị hoằng dương thử kinh, tiên hậu nhi hữu hội bổn dữ tiết bổn chi tác” (Lời ấy đúng thay! Do vậy, các vị đại cư sĩ như ông Vương Nhật Hưu đời Tống, Bành Thiệu Thăng và Ngụy Thừa Quán đời Thanh, v́ hoằng dương kinh này mà trước sau đă có các bản hội tập và bản trích lục, phân chia chương đoạn). Đến phần sau, sẽ giới thiệu tỉ mỉ [chuyện này]. Đời Tống, cư sĩ Vương Long Thư, Vương Nhật Hưu là Vương Long Thư, từng viết cuốn Long Thư Tịnh Độ Văn. Long Thư là địa danh, cũng chính là Thư Thành ở tỉnh An Huy quê tôi, cách nơi tôi sanh ra rất gần. Cuốn Tịnh Độ Văn của ông Vương viết hết sức hay, nhiều người do đọc cuốn sách này mà tu Tịnh Độ, tiếp dẫn rất nhiều người. Ngụy Thừa Quán là Ngụy Mặc Thâm, là người thuộc niên hiệu Hàm Phong nhà Thanh. Những vị này đều là đại đức cư sĩ, Bành Thiệu Thăng sống vào thời Càn Long. Vương cư sĩ và Ngụy cư sĩ đều có bản hội tập kinh Vô Lượng Thọ, họ soạn bản hội tập, c̣n Bành Thiệu Thăng soạn tiết bổn, [tức là] ông ta chỉ lấy một bản, tức bản dịch của ngài Khang Tăng Khải, đem chỉnh lư, san đính[3] một lần nữa. Nay chúng ta nói “san đính” tức là gạt bỏ những phần khó hiểu, chẳng dễ đọc, tạo thành bản trích lược, trở thành dễ đọc hơn. V́ thế mới có một tiết bổn và hai loại bản hội tập.

      Tiếp đó, sách giới thiệu, “Tống đại, đại cư sĩ Vương Nhật Hưu, tằng soạn Long Thư Tịnh Độ Văn, tứ hải xưng dự, truyền tụng chí kim” (đời Tống, đại cư sĩ Vương Nhật Hưu từng viết Long Thư Tịnh Độ Văn, được bốn biển khen ngợi, truyền tụng đến nay). Các đồng học tu Tịnh Độ, h́nh như rất ít ai chưa đọc Long Thư Tịnh Độ văn. Khi chúng tôi mới học Phật, cũng hết sức ưa thích bộ sách này. Viết hay lắm, có thể coi như sách để học Quốc Văn. “Vương thị lâm chung, đoan lập văng sanh” (Họ Vương lúc lâm chung, đứng thẳng văng sanh), cư sĩ Vương Long Thư đứng văng sanh, biết trước lúc mất, chẳng ngă bệnh. Trong Cư Sĩ Truyện, trong Đại Tạng Kinh có bộ Cư Sĩ Truyện và Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, đều có ghi chép. “Khả chứng cư sĩ thật vi ngă quốc Tịnh Tông giải hạnh câu ưu, thù thắng hy hữu chi tại gia đại đức” (Đủ chứng tỏ Vương cư sĩ là bậc tại gia đại đức thù thắng hiếm có, hạnh lẫn giải đều tốt đẹp trong Tịnh Tông nước ta). Chúng ta thấy ông ta văng sanh, cách ông ta biểu diễn, chúng ta liền biết ông ta văng sanh chẳng giả chút nào, đứng mất. “Vương thị thâm khái bảo điển chi trần phong, ư thị năi hội tập Vô Lượng Thọ kinh, Hán, Ngụy, Ngô, Tống tứ chủng nguyên dịch, lánh thành nhất bổn, danh vi Đại A Di Đà Kinh” (Họ Vương tiếc nuối sâu xa bảo điển bị phủ bụi, bèn hội tập bốn bản dịch gốc các đời Hán, Ngụy, Ngô, Tống, tạo thành một bản riêng, đặt tên là Đại A Di Đà Kinh). Trong Long Tạng (Càn Long Đại Tạng Kinh) có bản này, h́nh như Nhật Bản Đại Chánh Tạng[4] cũng có, Đại Chánh Tạng cũng thu nhập bản này. Có thể đưa vào Đại Tạng Kinh tức là bản này được lịch đại cao tăng đại đức công nhận, nên mới có thể “nhập Tạng” (đưa vào Đại Tạng Kinh). V́ lẽ đó, Đại Tạng Kinh là tiêu chuẩn thật sự. Nếu chúng ta muốn học kinh điển, nhưng kinh điển ngụy tạo rất nhiều, rốt cuộc kinh nào là thật, bộ kinh nào đáng tin cậy? Vào thời cổ, khi quư vị xem Đại Tạng, hễ kinh nào có trong Mục Lục của Đại Tạng sẽ là đáng tin cậy, kinh nào không có, chẳng đáng tin cậy! Đây là lập một tiêu chuẩn cho người đời sau. Nhưng tốt nhất là nếu quư vị có được một bản, đối chiếu với Đại Tạng Kinh [thấy có bản kinh ấy] sẽ càng yên tâm. Quư vị thấy ông Vương chỉ dùng bốn bản dịch gốc thuộc các đời Hán, Ngụy, Ngô, Tống, thiếu bản dịch đời Đường, chỉ có bốn bản!

      “Vương bổn xuất thế, hải nội xưng tiện, tùng lâm phụng vi khóa bổn” (bản của ông Vương ra đời được trong nước khen là tiện lợi, chốn tùng lâm dùng làm kinh nhật tụng). “Tùng lâm” là Phật môn đạo tràng, nhà Phật gọi là tùng lâm, c̣n hiện tại th́ sao? Hiện thời là đại học. Nói thật ra, tùng lâm là đại học Phật giáo, có chế độ chánh thức, được chế độ hóa. Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh giáo học, giống như trường tư thục do tư nhân quản lư, không có chế độ, giống như thuở Khổng lăo phu tử c̣n tại thế dạy học, không có trường học nào theo hệ thống, quy chế chánh quy, không có! Tại Trung Quốc, đến thời Tùy - Đường, [trường học] mới chính thức đi vào khuôn khổ. V́ thế, đây là một điểm đặc sắc của Phật giáo Trung Quốc. Thuở đó, thầy Phương bảo tôi: “Tùng lâm là một sáng kiến mang tính cách mạng của Phật giáo Trung Quốc, chính thức biến tu viện thành trường học”. Người đứng đầu tùng lâm được gọi là Chủ Tịch, c̣n gọi là Phương Trượng Trụ Tŕ, đó là ǵ? Hiệu Trưởng! [Trụ Tŕ] là chức vị Hiệu Trưởng. Thủ Tọa Ḥa Thượng là Giáo Vụ Trưởng. Duy Na là Huấn Đạo Trưởng. Giám Viện là Tổng Vụ Trưởng. Phân công những người chịu trách nhiệm hoàn toàn giống như cách tổ chức của một trường đại học hiện thời; danh xưng khác nhau, nhưng trên thực tế, Duy Na đúng là Huấn Đạo Trưởng, [phụ trách] giáo huấn, chỉ đạo. Điện, đường là pḥng học, “chia ra nơi chốn để giảng kinh” (phân ṭa giảng kinh). Quư vị thích học khoa mục nào, sẽ có thầy chỉ dạy, có giảng đường nhất định, giống như trong nhà trường. V́ vậy, quư vị phải hiểu Phật giáo truyền tới Trung Quốc là giáo dục, chẳng phải là tôn giáo, măi cho tới niên hiệu Càn Long nhà Thanh vẫn chưa bị biến chất, luôn là giáo dục. Tùng lâm là đại học, [ngoài ra] c̣n có những ngôi chùa nhỏ. Chùa nhỏ là trường chuyên khoa, chỉ học một thứ. Tịnh Tông đạo tràng tu tập năm kinh Tịnh Độ, chẳng có “phân ṭa giảng kinh” (chia thành nhiều pháp môn để giảng kinh chuyên biệt), là trường chuyên khoa chuyên dốc sức vào một môn, hoặc là cũng học các kinh luận có liên quan đến môn này. T́nh h́nh là như vậy đó.

      Hiện thời Phật giáo suy vi, do đâu mà suy? Vứt bỏ giáo học. Sau khi vứt bỏ giáo học, kinh sám Phật sự trở thành hưng vượng, biến Phật giáo thành tôn giáo, thật sự trở thành tôn giáo, chúng ta cũng chẳng thể không thừa nhận, nó quả thật biến thành tôn giáo, đă quên mất gốc, Phật giáo vốn chẳng phải là tôn giáo! Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, quư vị kiểm trong kinh điển, đức Phật chẳng làm Phật sự một ngày nào. Nếu làm Phật sự một bữa nào, kinh điển phải ghi chép tường tận, nhưng chẳng thấy! Trong Đại Tạng Kinh có nhiều tài liệu về kinh sám, Phật sự. [Những thứ ấy] do người đời sau, tức các vị tổ sư đại đức đời sau biên soạn, chẳng phải do Thích Ca Mâu Ni Phật [nói ra]. V́ vậy, chẳng thể không biết v́ sao Phật giáo trở thành nông nỗi này, suy vi đến t́nh trạng này, nhất định phải hiểu rơ ràng. Tiên sinh Phương Đông Mỹ đă nhiều lần nhắc nhở tôi: “Phật giáo Trung Quốc muốn phục hưng, nhất định phải thực hiện bằng cách khôi phục chế độ tùng lâm”. Đó chính là mở trường đại học, phải thực hiện giáo dục. Vào thời đầu Dân Quốc, có mấy vị [đă làm chuyện này], nhưng thời gian rất ngắn, đều chẳng c̣n nữa! H́nh như có một vị pháp sư mở Hoa Nghiêm Đại Học, pháp sư Thái Hư mở Phật học viện tại Hạ Môn. Pháp sư Viên Anh mở Lăng Nghiêm Chuyên Tông Học Viện tại Thượng Hải. Có mấy vị làm, nhưng thời gian cũng không dài, sau này đều chẳng c̣n nữa. Pháp sư Đế Nhàn giống như Thích Ca Mâu Ni Phật, suốt đời giảng kinh, dạy học. Ngài thuộc tông Thiên Thai, đào tạo không ít nhân tài. Ở Mỹ, tôi c̣n gặp môn hạ của Ngài. Hội dịch, hội tập là chuyện có lư, ông Vương Long Thư hội tập đầu tiên, được tùng lâm tôn trọng, dùng bản ấy làm kinh nhật tụng. “Ngă quốc Long Tạng” (Long Tạng nước ta) chính là Đại Tạng kinh được biên tập dưới thời vua Càn Long, “cập Nhật Bản Đại Chánh Tạng diệc quân thái nhập Vương bổn” (và Đại Chánh Tạng của Nhật Bản cũng đều chọn bản của ông Vương để nhập tạng), dùng bản của ông Vương Long Thư, tức là bản hội tập của ông Vương Nhật Hưu.

      “Liên Tŕ đại sư viết” (Liên Tŕ đại sư nói). Liên Tŕ đại sư sống vào cuối đời Minh, lúc tại thế, Ngài đă phục hưng Tịnh Độ Tông, hết sức khó có! Đạo tràng của Ngài ở Hàng Châu. Ngài nói: “Vương thị sở hội, giảo chi ngũ dịch, giản dị minh hiển, lưu thông kim thế, lợi ích thậm đại” (bản hội tập của họ Vương, so với năm bản dịch gốc, đơn giản, dễ hiểu, rơ ràng, được lưu thông trong đời hiện tại, lợi ích rất lớn). Đây là lời tán thán của vị tổ sư đời thứ tám của Tịnh Độ Tông là Liên Tŕ đại sư đối với ông Vương Long Thư. “Hựu viết: Dĩ Vương bổn thế sở thông hành, nhân tập kiến cố” (Lại nói: Do bản của ông Vương được lưu hành rộng răi trong cơi đời, người ta quen thấy), do được lưu thông rất rộng, người đọc tụng rất nhiều. “Cố ư sở trước Di Đà Sớ Sao trung, phàm dẫn chứng Vô Lượng Thọ Kinh chi xứ, đa thủ Vương văn, gián thái nguyên dịch” (V́ thế, đối với tác phẩm Di Đà Sớ Sao của tôi, hễ chỗ nào dẫn chứng kinh Vô Lượng Thọ, phần lớn trích theo bản của ông Vương, chỉ đôi khi dẫn theo bản dịch gốc). H́nh như tôi đă giảng A Di Đà Kinh Sớ Sao đôi ba lần, quả thật [là một tác phẩm] hết sức hay! Do trong thời đại đó, chúng ta nh́n vào nội dung sách Sớ Sao, giống như chúng ta nh́n vào toa thuốc, sẽ biết những người ấy đang bị bệnh ǵ. Trong thời đại đó, trên lănh thổ Trung Quốc, Phật giáo Thiền Tông hết sức hưng thịnh, nhiều kẻ coi rẻ, xem thường Tịnh Độ. Do vậy, trong Sớ Sao, Liên Tŕ đại sư đă dùng ǵ để chú giải kinh A Di Đà? Dùng Hoa Nghiêm, nâng kinh Di Đà lên ngang tầm vóc kinh Hoa Nghiêm, khiến mọi người tôn trọng! Rất tuyệt vời! Quả thật lời của cư sĩ Bành Tế Thanh đă nói, trong phần sau cũng có dẫn chứng lời này, có lư lắm! Cư sĩ Bành Tế Thanh nói kinh Vô Lượng Thọ là Hoa Nghiêm trung bổn. Nói cách khác, kinh Hoa Nghiêm là Đại Vô Lượng Thọ Kinh. Hoặc nói cách khác, kinh A Di Đà là Tiểu Hoa Nghiêm Kinh. Kinh Hoa Nghiêm, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Di Đà một mà ba, ba mà một, Liên Tŕ đại sư đề xướng điều này, được các bậc cao tăng đại đức trong Phật môn công nhận, tán đồng, Tịnh Độ lại được hưng vượng, nên Ngài được xưng tụng là tổ sư đời thứ tám.

      Tổ sư của Tịnh Độ Tông không giống như trong các tông phái khác, các tông phái là khác là “đại đại tương truyền”, [tức là] từ một đời này truyền lại cho đời sau, trong Tịnh Độ Tông không có [thể lệ ấy]. Tịnh Độ Tông chẳng phải là “đại đại tương truyền”, mà là sau khi vị đại đức ấy đă văng sanh, người đời sau khẳng định vị ấy đối với Tịnh Độ Tông có cống hiến đặc thù, bèn tôn vị ấy làm tổ sư. V́ thế, tổ sư Tịnh Độ Tông là do dân tuyển (bầu chọn), chẳng phải đời này truyền sang đời kia, mà là dân tuyển. Giống như thời cận đại, Ấn Quang đại sư đối với Tịnh Độ Tông có cống hiến rất lớn, mọi người công nhận Ngài xứng đáng là vị tổ sư đời thứ mười ba. Nếu là tổ tổ tương truyền (tổ sư này truyền cho tổ sư kia), phải biết là sẽ có tới sáu bảy mươi đời, nhưng Tịnh Độ Tông mới có mười ba đời. Nếu như đời này không có người như vậy, sẽ không ai được chọn. Thật sự có cống hiến đặc thù đối với sự tu tŕ và hoằng dương Tịnh Tông, người ấy sẽ được người đời sau tôn xưng là “nhất đại tổ sư” (tổ sư trong một đời). Tổ sư [trong Tịnh Tông] do đó mà có, do dân tuyển. [Chư Tổ của] Tịnh Tông được gọi là “đại sư” cũng là do đặc biệt tôn trọng, bởi lẽ, đây cũng là một kiến thức thông thường quư vị cần biết. Chữ “đại sư” chẳng thể tùy tiện xưng hô! Danh xưng “đại sư” trong Phật môn chuyên dùng để gọi Thích Ca Mâu Ni. Quư vị thấy đó: Trước kia, thầy của hoàng đế gọi là Quốc Sư; người phiên dịch kinh điển được gọi là Tam Tạng Pháp Sư, bậc đại đức trong Thiền môn gọi là Thiền Sư, vị nào chuyên dốc sức nơi Luật th́ gọi là Luật Sư, nghiên cứu luận điển thành công bèn gọi là Luận Sư, không ai xưng là đại sư! Chỉ có Tịnh Độ tông xưng là đại sư, v́ sao? Các vị ấy chẳng khác ǵ Phật, có thể chỉ dạy chúng sanh niệm Phật văng sanh, hễ văng sanh bèn thành Phật. Quư vị xem: Phật độ chúng sanh chẳng phải [chỉ dạy, giúp họ] thành Phật đó sao? Những vị đại đức độ chúng sanh dùng pháp môn này, cũng dạy họ thành Phật trong một đời, có khác ǵ Phật? [Cho nên] đều gọi là đại sư. V́ thế, chỉ có tổ sư Tịnh Tông được gọi là đại sư, phải biết kiến thức thông thường này! Nay chúng ta là kẻ tầm thường mà xưng là đại sư tức là quá lố, không thể được!

      Tiếp theo đó là: “Hựu U Khê đại sư cánh hữu thịnh yên” (hơn nữa, U Khê đại sư càng dùng rộng răi hơn), đây là một vị cùng thời đại với Liên Tŕ đại sư, cũng là một vị đại đức trong Tịnh Tông. Ngài có trước tác bộ Di Đà Viên Trung Sao. Khi chúng tôi mới vừa tiếp xúc Tịnh Tông, thầy có trao cho tôi ba bản chú giải, ba bản chú giải ấy là ba tác phẩm chú giải kinh Di Đà có uy tín nhất, người tu Tịnh Độ chẳng thể không đọc. Thứ nhất là A Di Đà Kinh Sớ Sao của Liên Tŕ đại sư, thứ hai là Yếu Giải của Ngẫu Ích đại sư trong bộ Tịnh Độ Thập Yếu; thứ ba là Viên Trung Sao của U Khê đại sư. Ba bản chú giải này là tác phẩm chú giải kinh Di Đà có uy tín nhất. Trong Viên Trung Sao, hễ trích dẫn kinh văn của kinh Vô Lượng Thọ bèn hoàn toàn dùng bản hội tập của ông Vương Long Thư. Trong bộ Sớ Sao của Liên Tŕ đại sư, đại khái là trích dẫn bản hội tập của ông Vương Long Thư hơn phân nửa một chút, phần c̣n lại vẫn trích dẫn từ các bản dịch gốc. “Cận đại, Ấn Quang đại sư ư sở soạn Trùng Khắc Viên Trung Sao Tự trung, diệc tán Vương bổn văn nghĩa tường tất, cử thế lưu thông” (gần đây, trong bài Tựa Tái Bản Bộ Viên Trung Sao do Ấn Quang đại sư viết, Ngài cũng khen ngợi bản của ông Vương văn lẫn nghĩa tường tận, đầy đủ, lưu thông rộng răi trên cơi đời). Cận đại, trong Ấn Quang Văn Sao có bài này, đây là một thiên văn chương của Ngài. Trong bài Trùng Khắc A Di Đà Kinh Viên Trung Sao Tự, Ngài đă tán thán như vậy, chứng tỏ việc hội tập là chính xác, là chuyện phải có người đứng ra làm. Vậy mà trong thời cận đại có người phê b́nh hội tập là sai lầm, lời này nói chẳng xuôi tai!

     Có rất nhiều người đến hỏi tôi, đối với bản hội tập của lăo cư sĩ Hạ Liên Cư, ở trong nước lẫn Đài Loan đều có những vị đại đức trong Phật môn phản đối “đừng nên làm chuyện này”, [họ đem chuyện ấy] tới hỏi tôi. Tôi nói: Nếu chúng ta chẳng thừa nhận việc hội tập, cho là không đúng pháp, sẽ có rất nhiều vấn đề! Hiện thời, trong nhà chùa, khóa tụng sáng tối chẳng phải do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói, kinh văn và nghi quy trong ấy đều là hội tập, cũng chẳng thể dùng những khóa bản ấy! B́nh thường, quư vị làm Phật sự, như Từ Bi Tam Muội Thủy Sám, Đại Bi Sám, Diệm Khẩu, Thủy Lục, những bản ấy toàn là hội tập, thảy đều chẳng thể dùng. Khóa tụng sáng tối trong nhà chùa phải đọc nguyên văn mới đúng, vậy th́ rất nhiều thứ trong nhà chùa đều trở thành có vấn đề, đều chẳng đúng pháp! Quư vị thấy trong Phật môn có bao nhiêu thứ là hội tập của tổ sư đại đức từ xưa đến nay. V́ thế, phải hiểu đạo lư này, chẳng thể không nói theo lư. Sau khi quư vị đều hiểu rơ, sẽ biết hội tập là cần thiết, nhất là thuở ấy, đức Thế Tôn đă chỉ dạy chúng ta: “Y pháp, bất y nhân; y nghĩa, bất y ngữ; y liễu nghĩa, bất y bất liễu nghĩa; y trí, bất y thức”. Hơn nữa, kinh Đại Thừa thường dạy: “Phật vô hữu định pháp khả thuyết” (Phật không có pháp nhất định nào để nói), “pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp” (pháp c̣n nên bỏ, huống ǵ phi pháp), nói rành mạch, triệt để như vậy! V́ thế, chúng ta nhất định phải hiểu pháp do đâu mà có? Do con người mà hưng khởi, người ta mắc bệnh ǵ, đức Phật bèn kê toa thuốc đó; người không có bệnh, sẽ chẳng có toa thuốc! Đó là chữa bệnh. Do vậy, nhất định phải hiểu đạo lư này. Đây là nói rơ hội tập là chuyện phải nên làm!

      Tiếp đó là nói đến những vấn đề trong hai bản hội tập: “Vương thị hội kinh, tuy đại hữu công ư Tịnh Tông, đản sở hội chi bổn phả đa suyễn ngộ” (Ông Vương hội tập kinh, tuy có công lớn đối với Tịnh Tông, nhưng trong bản hội tập có khá nhiều sai lầm), trong ấy phạm sai lầm, đó là sự thật! Cho nên cũng phải nhận biết rơ ràng [những khuyết điểm ấy]! Cụ Hoàng nêu tỷ dụ: “Bạch khuê chi hà, hiền giả tích chi” (bạch khuê có vết, người hiền tiếc nuối), bạch khuê[5] là ngọc, ngọc có tỳ vết, tỷ dụ bản hội tập của cư sĩ Vương Long Thư [có khuyết điểm], khiến người hiền tiếc nuối! “Liên Tŕ đại sư vị kỳ: Sao tiền trước hậu, khử thủ vị tận” (Liên Tŕ đại sư nói: “Trích dẫn kinh văn trong phần trước, ghép lời văn do ḿnh sáng tác vào phần sau, lấy bỏ chẳng trọn hết”), điều này sẽ được giải thích trong phần sau. “Bành Thiệu Thăng cư sĩ xích chi vi: Lăng loạn quai suyễn, bất hợp viên chỉ” (Cư sĩ Bành Thiệu Thăng chê trách: “Rối ren, sai sót, chẳng hợp ư chỉ viên dung”). Những lời phê b́nh này cũng đều có căn cứ. Nếu như chúng ta đem năm bản dịch gốc đối chiếu, quư vị sẽ hiểu ngay. Hiện thời có mấy vị cư sĩ [đă làm chuyện so sánh này], tôi thấy họ đă đối chiếu sự bất đồng giữa hai bản hội tập với năm bản dịch gốc, làm kỹ lắm, rất tốn công. Sau khi quư vị đă xem xong, mới biết bản hội tập này của Hạ lăo cư sĩ hay lắm, hội tập quá khéo! Đúng là hay hơn mấy bản hội tập trước đó! Do vậy, hiện thời có tổng cộng chín bản, gồm: Ba bản hội tập, một bản tiết lục, năm bản dịch gốc, tôi in cả chín bản này thành một cuốn. Khi ấy, tôi giảng bản hội tập của Hạ lăo cư sĩ ở nước ngoài, sợ có kẻ đến kiếm chuyện, cho nên tôi in chung cả chín loại để quư vị tự xem. Kẻ nào thắc mắc, có nghi vấn, tôi đưa sách cho kẻ ấy xem, “ông hăy tự xem đi!”, tôi chẳng cần phải trả lời. Chín bản đều có, nhưng đều đọc hết th́ thật là khó! Một bản hội tập hay như thế, đức Thế Tôn đă nói: Đến lúc pháp diệt tận, hết thảy các kinh đều chẳng c̣n nữa, cuối cùng chỉ c̣n lưu lại ḿnh kinh Vô Lượng Thọ này, nhưng là bản nào của kinh Vô Lượng Thọ? Chắc chắn là bản hội tập của cụ Hạ Liên Cư, chứ không phải là bản dịch gốc. Chúng ta có thể khẳng định điều này! Bản hội tập này quá hay, chúng ta cần phải nhận biết điều này th́ mới chẳng đến nỗi hoài nghi kinh này! Kẻ phê b́nh rất nhiều, sự tu học, thâm nhập kinh giáo của họ đă đạt tới bản lănh như Vương Long Thư, Ngụy Mặc Thâm, và Hạ Liên Cư hay chưa? Nếu chưa đạt tới tŕnh độ ấy, lẽ nào có thể tùy tiện phê b́nh? Cá nhân quư vị phê b́nh, chính quư vị tạo nghiệp phải tự gánh vác. Nếu quư vị ảnh hưởng tới người khác, khiến người khác nẩy sanh hoài nghi đối với bản này, không học tập nữa, lỗi lầm lớn lắm! Quư vị đoạn Pháp Thân huệ mạng của người khác, có phải gánh trách nhiệm nhân quả hay chăng? Chắc chắn là phải! Chúng ta học kinh giáo, chẳng thể không biết điều này! Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tập tới đây.

 

Tập 06

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang thứ tư, hàng thứ bảy. Đây là đoạn thứ hai, chúng ta vẫn đọc từ đầu.

“Vương thị hội kinh, tuy đại hữu công ư Tịnh Tông, đản sở hội chi bổn phả đa suyễn ngộ. Bạch khuê chi hà, hiền giả tích chi. Liên Tŕ đại sư vị kỳ: Sao tiền trước hậu, khử thủ vị tận. Bành Thiệu Thăng cư sĩ xích chi vi: Lăng loạn quai suyễn, bất hợp viên chỉ” (Họ Vương hội tập kinh, tuy có công lớn đối với Tịnh Tông, nhưng bản hội tập của ông ta có lắm sai lầm. Bạch khuê có vết, người hiền tiếc nuối. Liên Tŕ đại sư bảo: “Sao chép kinh văn trong phần trước, ghép thêm lời văn của chính ḿnh sáng tác vào sau đó, lấy bỏ chưa trọn hết”. Cư sĩ Bành Thiệu Thăng chê trách: “Rối ren, sai lạc, chẳng hợp ư chỉ viên dung”). Chúng ta xem trước chỗ này. Trong phần trước, tôi đă giới thiệu các phiên bản kinh Vô Lượng Thọ hiện đang được lưu thông, ngoài năm bản dịch gốc ra, c̣n có bốn bản nữa: Ba bản là bản hội tập, một bản là bản tiết lục. Nhân tiện, tôi giới thiệu ở đây. “Vương thị” (họ Vương) là Vương Long Thư, hay Vương Nhật Hưu, hội tập kinh Vô Lượng Thọ sớm nhất. Có thể thấy là từ rất sớm đă có người chú ư tới vấn đề này. Các phiên bản nhiều lắm, mà nội dung sai biệt rất lớn. Nếu bảo năm bản đều cùng đọc, quả thật rất phiền; đọc một loại, sẽ chẳng thấy những điều được nói trong bốn bản kia, trong bốn bản kia có rất nhiều kinh văn không có trong bản này, rất đáng tiếc! V́ thế, đó là một nhân tố quan trọng khiến cho những bản này được lưu thông rất ít. Cư sĩ Vương Long Thư là người đời Tống, trong phần trên đă giới thiệu: Ông ta trước tác rất phong phú, niệm Phật thật sự có công phu, khi văng sanh là đứng mất. Bộ Tịnh Độ Văn của ông ta vô cùng hay, cũng có thể dùng để học Quốc Văn. Trong phần trước, tôi đă từng giới thiệu với quư vị, Trúc Song Tùy Bút của Liên Tŕ đại sư, Linh Phong Tông Luận của Ngẫu Ích đại sư, và Tịnh Độ Văn của cư sĩ Vương Long Thư cũng hết sức hay, văn tự hết sức khá, đều là những tác phẩm văn chương hay của các bậc đại đức trong Tịnh Tông. Chúng ta học văn chương Văn Ngôn, coi những tác phẩm ấy như sách để học Quốc Văn, rất tốt!

      Sau khi bản hội tập của ông ta ra đời, được lưu thông rất rộng. Quư vị thấy Đại Chánh Tạng của Nhật Bản và Long Tạng được biên tập dưới đời vua Càn Long đều nhập tạng bản này. Có thể đưa vào Đại Tạng Kinh tức là được các vị đại đức thuở ấy chấp nhận. Thế nhưng bản của ông ta vẫn có sai lầm, “suyễn ngộ” (舛誤) là sai lầm, c̣n có những sai sót. “Bạch khuê chi hà, hiền giả tích chi” (bạch khuê có vết, người hiền xót xa), hai câu này thể hiện ư tiếc hận: Đáng tiếc là ông ta làm chưa viên măn, c̣n có khuyết điểm! Liên Tŕ đại sư cũng hết sức bội phục ông Vương. Trong bộ Di Đà Kinh Sớ Sao, đây là một tác phẩm rất to lớn, kinh văn kinh Vô Lượng Thọ được trích dẫn trong ấy, quá nửa là trích từ bản hội tập của cư sĩ Long Thư, đây cũng là khẳng định [giá trị] của bản hội tập ấy. Đương nhiên, bản ấy chẳng thể tận thiện, tận mỹ, nên Liên Tŕ đại sư cũng phê b́nh, bảo bản này của họ Vương “sao chép kinh văn trong phần trước, ghép phần trước tác của chính ḿnh vào phần sau, lấy bỏ chưa trọn vẹn”. Hai câu này trong phần sau đều có giải thích. Bành Thiệu Thăng có tiết bổn, chẳng phải là hội tập, chỉ lấy bản của ngài Khang Tăng Khải. Bản dịch của ngài Khang Tăng Khải cũng chẳng dễ đọc cho lắm, ông Bành đem chỉnh lư một lần nữa, soạn thành bản mới, gạt bỏ những chỗ trúc trắc, thiếu trôi chảy, cho nên bản dịch này đọc lên rất lưu loát, coi như là một bản kinh hay, nhưng chẳng thể coi là bản hội tập, mà coi là tiết bổn (bản rút gọn, trích yếu, có phân chương đoạn). Ông ta cũng phê b́nh bản hội tập của cư sĩ Long Thư, bảo là “lăng loạn quai suyễn, bất hợp viên chỉ” (rối ren sai lầm, chẳng hợp ư chỉ viên dung), cũng là nói bản hội tập của ông ta chưa hoàn mỹ. Chẳng thể bảo ông Vương không có công lao ǵ! Quả thật là công lao cũng chẳng thể xóa sạch, nhưng chưa phải là bản hoàn mỹ. Đây là một chuyện rất đáng tiếc!

Tiếp đó là lời giải thích của lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ: “Kim bút giả” (nay người viết), nói về người cầm bút viết bản chú giải này, tức là lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, “ngưỡng thừa cổ đức chư thuyết” (kính vâng theo các nhận định của cổ đức), nói theo cách hiện thời là “căn cứ trên cách nói của cổ đại đức”, “thiết kê Vương thị chi thất” (trộm kể ra những khuyết điểm của họ Vương), “thiết kê” (竊計) là theo cách so sánh, cách nghĩ của riêng tôi, bản hội tập của cư sĩ Long Thư tối thiểu có ba chỗ sai sót. Thứ nhất là: “Vương thị hội tập, cẩn cứ tứ chủng, vị cập Đường dịch. Đường dịch danh Vô Lượng Thọ Như Lai Hội, xuất tự Đại Bảo Tích Kinh, năi Bồ Đề Lưu Chí đại sư sở dịch, đa áo diệu tinh yếu chi văn, vi tha dịch sở vô” (Bản hội tập của họ Vương chỉ dựa trên bốn bản dịch, chưa có bản dịch đời Đường. Bản dịch đời Đường có tên là Vô Lượng Thọ Như Lai Hội trích từ kinh Đại Bảo Tích do Bồ Đề Lưu Chí đại sư dịch, kinh văn có nhiều chỗ uyên áo, huyền diệu, tinh tường, trọng yếu mà những bản dịch khác không có). “Tha dịch” là bốn bản dịch gốc kia, trong ấy không có những điều [được nói trong bản Đường dịch]; quả thật cư sĩ Long Thư cả đời chưa thấy bản Như Lai Hội trong kinh Đại Bảo Tích. Từ chỗ này, chúng ta mới hiểu vào thời cổ, có được kinh sách đâu phải dễ! V́ thuở ấy, kinh sách đều vẫn phải chép bằng tay. V́ thế, trong kinh sách cổ truyền có chữ sai là chuyện khó tránh. Một bộ kinh phân lượng to như vậy, khó tránh khỏi chép thiếu, hoặc chép sai một chữ, hết sức khó tránh chuyện này! Bản này (tức bản Đường dịch), như lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ đă nói: Có nhiều đoạn văn tự “áo diệu tinh yếu” (sâu xa, huyền nhiệm, tinh tế, quan trọng) chẳng thấy có trong bốn bản dịch kia, đương nhiên đây là điều sai sót. Đây là chỗ chẳng viên măn thứ nhất, tức là ông Vương chưa đọc trọn năm bản dịch gốc. Đó là điều thứ nhất.

Thứ hai, “khử thủ vị tận” (lấy, bỏ chưa trọn hết). Đây là lời Liên Tŕ đại sư phê b́nh, chê lăo nhân gia (ông Vương Nhật Hưu) chọn và bỏ chưa trọn vẹn, tức là nói “thủ phồn di yếu, cải thâm vi thiển” (lấy chỗ rườm rà, bỏ chỗ quan trọng; sửa chỗ sâu thành cạn), ông ta mắc phải khuyết điểm này! Những chỗ rườm rà đáng nên tinh giản, ông ta vẫn cứ chép vào [bản hội tập]; những thứ quan trọng bị bỏ sót, v́ sơ ư mà bỏ sót. Nêu ra thí dụ nhằm chứng tỏ lời [phê phán] này chẳng phải là nói tùy tiện: “Lệ như Liên Tŕ đại sư sở trách: Như tam bối văng sanh” (Chẳng hạn như Liên Tŕ đại sư đă trách: Như trong phần ba bậc văng sanh), trong đoạn kinh văn này, “Ngụy dịch giai viết phát Bồ Đề tâm” (bản dịch đời Ngụy ghi cả ba bậc đều phát Bồ Đề tâm), chữ “Ngụy” chỉ [bản dịch của] ngài Khang Tăng Khải; trong bản dịch của ngài Khang Tăng Khải, ba bậc văng sanh đều phát Bồ Đề tâm, nhưng trong bản hội tập của Vương Long Thư, chỉ có bậc trung là phát Bồ Đề tâm, bậc hạ chẳng phát, chẳng hề phát Bồ Đề tâm, trong bậc thượng cũng chẳng nói, không đề cập. “Tắc cao hạ thất thứ, cố vân vị tận” (tức là thứ bậc cao thấp bị mất, cho nên bảo là “chưa trọn hết”), đây là nói “khử thủ vị tận”. Lời Ngài nói có căn cứ, Ngài bảo: “Do thượng lệ khả kiến, thượng cánh bất ngôn” (Do dựa theo điều này (bậc trung đă phát Bồ Đề tâm), có thể thấy [bậc thượng phải phát Bồ Đề tâm], nhưng [trong bản hội tập] bậc thượng hoàn toàn chẳng nói [phát Bồ Đề tâm, đó là điều vô lư]), “thượng” là thượng bối văng sanh, [bản hội tập của ông Vương] chẳng nói tới phát Bồ Đề tâm. Bồ Đề tâm quan trọng lắm! Đây là “di yếu”, nghĩa là bỏ sót điều quan trọng! Đối với bậc Hạ, [chánh kinh] cũng nói là phát Bồ Đề tâm, nhưng ông ta viết là “chẳng phát”, tức là bậc Hạ có thể chẳng cần phát Bồ Đề tâm, [đó là] “cải thâm vi thiển” (sửa sâu thành cạn). Đây là những chỗ Liên Tŕ đại sư và Bành cư sĩ chê trách ông Vương, thật sự có căn cứ, chẳng phải là nói tùy tiện!

      Thứ ba, “suất ư tăng văn, nghiễm nhược tự trước” (tùy tiện tăng thêm văn tự, nghiễm nhiên tự soạn thêm), “suất ư” (率意) là tùy ư, tăng thêm văn tự, giống như chính ḿnh sáng tác, điều này không thể chấp nhận! Phiên dịch th́ được! Nếu quư vị dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Hán th́ chấp nhận được, v́ quư vị phải châm chước dùng câu chữ nào [cho lời văn găy gọn, dễ hiểu, nhưng không sai ư]! Hội tập th́ không thể, hội tập nhất định phải dùng nguyên văn [từ các bản dịch gốc], chẳng thể thay đổi văn tự, Ấn Quang đại sư hết sức coi trọng chuyện này. Bởi lẽ, tùy tiện sửa đổi văn tự, tôi nghĩ dùng câu chữ theo kiểu này mới hay, tôi bèn sửa; quư vị cho rằng hành văn theo kiểu kia mới hay, quư vị lại sửa. Sửa tới, sửa lui, đến cuối cùng chẳng c̣n cách nào đọc [nguyên dạng] kinh Phật nữa! Do vậy, phải tôn trọng lời dịch gốc, nhất định chớ nên sửa đổi. Dẫu nhận thấy [câu văn hay đoạn văn ấy] có vấn đề, có thể ghi chú bên cạnh, chẳng thể sửa chữ của người ta, đây là quy củ. Do vậy, chỗ này là sơ sót. “Cố Liên Tŕ đại sư trách viết” (V́ thế, Liên Tŕ đại sư trách rằng), quở trách ông Vương: “Sao tiền trước hậu, vị thuận dịch pháp” (sao chép kinh văn trong phần trước, ghép thêm lời văn của chính ḿnh sáng tác vào sau đó, chưa tuân thủ cách dịch). Ngay sau đó, cụ Hoàng giảng rơ: “Cái trách kỳ sao dẫn kinh văn ư tiền” (ấy là chê trách [ông Vương] đă sao lục kinh văn trong phần trước), đó là “sao tiền”, “phục hựu tự trước cú tự ư hậu” (lại đem những câu chữ do ḿnh đặt ra, ghép vào phía sau), ghép ư kiến của chính ḿnh vào sau kinh văn, cũng giống như chính ḿnh dịch vậy, sai lầm rồi! Phía sau [mỗi đoạn kinh], nếu có kiến giải, có thể dùng chữ nhỏ ghi chú bên cạnh, nhất định chẳng ghi lẫn lộn vào kinh văn. Đây là một điều kỵ húy rất lớn. Đó gọi là “sao tiền, trước hậu, vị thuận dịch pháp”. Dịch kinh có quy củ dịch kinh; ở đây là đă vi phạm quy củ dịch kinh, ông ta cũng chẳng phải là phiên dịch, mà là hội tập.

Tiếp đó, cụ Hoàng giảng: “Cái thị hội tập, tất tu y cứ nguyên kinh, vạn vạn bất khả ư nguyên dịch ngoại thiện tăng văn cú” (Đă là hội tập, cần phải dựa theo nguyên văn của bản dịch, muôn vàn chẳng thể tự tiện thêm câu văn [do chính ḿnh đặt ra]). Cư sĩ Long Thư phạm quy củ này: Anh hội tập, chẳng phải là phiên dịch! Anh phiên dịch th́ được, chính anh châm chước nên dùng chữ ǵ, dùng từ ǵ để dịch ư nghĩa tiếng Phạn này, được phép làm như thế! Nhưng hội tập th́ không được! Bởi lẽ, anh chẳng dựa trên nguyên văn bằng tiếng Phạn, mà dùng bản dịch do người khác đă dịch sang tiếng Hán. Anh nhất định phải tôn trọng, phải tuân theo nguyên văn, chẳng thể thay đổi, động chạm chữ nào. Đây là quy củ hội tập. Vậy th́ cư sĩ Long Thư đă sửa đổi, sửa có khéo hay không? Sửa thật khéo! Tuy sửa thật khéo, nhưng đă phá hoại quy củ, không được rồi! Quư vị chẳng thể phá hoại quy củ, chẳng thể tạo ra tiền lệ này! Quư vị đă sửa được, người khác cũng có thể sửa. Đối với quư vị th́ không có vấn đề ǵ, đối với kinh Phật, sự tu dưỡng của quư vị đă đạt tới tiêu chuẩn, công phu và cảnh giới tu tŕ cũng đạt tới, quư vị có sửa cũng chẳng sao, nhưng hễ tạo nên tiền lệ này, người đời sau sẽ như thế nào? Người đời sau tuy chưa có tŕnh độ như quư vị mà cũng sửa chữa: Cư sĩ Vương Long Thư đă có thể sửa, lẽ nào ta chẳng thể sửa? Hễ tiền lệ này được lập ra, sau này, những tệ đoan sẽ xuất hiện.

      Nói thật ra, [bản hội tập của] Vương Long Thư có vấn đề, bản của Ngụy Mặc Thâm cũng có vấn đề. Chúng ta xem kỹ, ông ta sửa có khéo hay không? Sửa đúng là khéo lắm, nhưng nếu quư vị nghĩ tới những tác hại về sau, đáng sợ lắm! Không thể tạo nên tiền lệ này! Chẳng phải là nói ông ta sửa không hay, mà là nói chẳng thể lập ra tiền lệ. Phải như thế nào mới trọn vẹn đôi bề? Tôi vừa mới nói đấy thôi, dùng chữ nhỏ ghi chú bên cạnh th́ được, cách này có thể tận thiện tận mỹ. Do vậy, đây là: “Cố trách Vương thị vị thuận dịch pháp. Do thượng khả kiến Vương thị chi thất” (v́ thế, mới trách là ông Vương chưa tuân theo cách dịch. Do những điều trên đây, có thể thấy khuyết điểm của họ Vương). Do ông ta có những chỗ thiếu sót, bản hội tập này có những chỗ sai sót, “phi thị bất ưng hội tập, nhi tại ư hội bổn chi đa tỳ dă” (chẳng phải là không nên hội tập, mà do trong bản hội tập có nhiều tỳ vết). Đó là tỳ vết. Do có những tỳ vết, nên chẳng thể gọi là “tận thiện tận mỹ”. Đây là kiến thức thông thường, nhưng là một kiến thức thông thường rất quan trọng: Chúng ta học Phật, cần phải tôn trọng kinh điển. Chẳng thể tùy tiện sửa đổi nguyên văn kinh điển, mà đối với chú giải của cổ đại đức cũng chớ nên tùy tiện thêm bớt văn tự. Cổ đức có thể chú giải bộ kinh này, bản chú giải ấy có thể lưu truyền cho tới hiện thời, nói chung là mấy trăm năm, trong mấy trăm năm ấy, người đọc tác phẩm ấy rất nhiều. Quư vị thấy cổ nhân đều tôn trọng, cớ sao chúng ta có thể tùy ư sửa đổi văn tự? Đấy là chuyện rất thiếu đạo đức. Chúng ta có ư kiến, có thể thêm ghi chú vào bên cạnh, làm như vậy th́ được!

      Chúng ta lại đọc đoạn tiếp theo: “Bành Thiệu Thăng cư sĩ hám ư Vương bổn chi thất” (cư sĩ Bành Thiệu Thăng tiếc nuối trước những khuyết điểm trong bản hội tập của họ Vương). Đây là nói: Rất đáng tiếc! Cảm thấy bản của ông Vương là một bản hay, nhưng hết sức đáng tiếc là có chút tỳ vết này, chưa hoàn mỹ. “Năi thủ Ngụy dịch bổn nhi san tiết chi” (bèn lấy bản Ngụy dịch mà gạn lọc, trích lược), ông ta chỉ lấy một bản. Chẳng thể coi việc làm này của ông ta là hội tập, do chỉ lấy bản dịch của ngài Khang Tăng Khải đời Tào Ngụy. Vào thời đại Tam Quốc, Tào Tháo cầm quyền, [nên vương triều thời đó gọi là] Tào Ngụy. Ngài Khang Tăng Khải là người thuở đó. Bởi lẽ, trong thời đại Tam Quốc, Phật pháp đă khá hưng thịnh, [trong lănh thổ của các vương triều] Ngụy, Thục, Ngô đều có [Phật giáo], các địa phương đều có đạo tràng Phật giáo. “Thị Vô Lượng Thọ kinh chi đệ thất chủng” (là phiên bản thứ bảy của kinh Vô Lượng Thọ), bản của ông Vương Long Thư vừa nói trong phần trên là loại thứ sáu. Năm loại trước là bản dịch gốc, loại thứ sáu là bản hội tập của Vương Long Thư, bản của Bành Thiệu Thăng là loại thứ bảy. Loại thứ bảy là tiết bổn, cũng được lưu thông, người ta cũng thích đọc. “Đản thử cẩn vi Ngụy dịch nhất chủng chi tiết bổn, nhi phi chư dịch chi hội bổn” (Chỉ là một bản trích lược của bản Ngụy dịch, chưa phải là bản hội tập của các bản dịch).

Trong thời đại hiện tại này, bản tiết bổn này là ǵ? Được gọi là “kiến thức bùng nổ”. Quư vị thấy số lượng sách so với xưa kia nhiều hơn bao nhiêu? Trước đây, in ra một quyển sách chẳng dễ dàng; hiện thời, nhất là do computer quá tiến bộ, xuất bản một quyển sách là chuyện dễ ợt! Chúng ta vào tiệm sách mà xem, trước kia, vào tiệm sách, từ trường hết sức tốt đẹp, bước vào thư viện hay tiệm sách, từ trường đặc biệt tốt. Nay th́ không c̣n nữa, hiện thời thỉnh thoảng tôi đến tiệm sách t́m mấy cuốn sách, vừa bước vào tiệm, [cảm nhận] từ trường hết sức xấu, v́ nguyên nhân ǵ? Chánh luận chẳng c̣n nữa, đều là tà tri tà kiến, nên tạo thành cảm giác hết sức lớn, hết sức rơ rệt. Lúc tôi c̣n trẻ, thường la cà tiệm sách, quả thật là tối thiểu những sách vở của cổ nhân chiếm phân nửa, một nửa là của người thời nay, nửa kia của cổ nhân. Hiện thời, tác phẩm của cổ nhân ít ỏi. Chúng ta tới tiệm sách, sẽ thấy chỉ là một góc nhỏ, những tác phẩm khác đều của con người hiện thời. V́ thế, từ trường rất bất hảo. Kiếm một nơi có từ trường thanh tịnh thoải mái, gần như hiện nay t́m không ra, do nguyên nhân ǵ? Tôi nghĩ mọi người chúng ta đều biết: Ai phá hoại từ trường? Khoa học kỹ thuật! Những thứ vừa mới được phát minh đă phá hoại từ trường của cả địa cầu!

      Chúng ta hăy quan sát cẩn thận cuộc sống của chúng ta. Những thứ người b́nh thường ăn, đúng như kinh Vô Lượng Thọ đă nói: “Ẩm khổ thực độc” (ăn khổ, nuốt độc), toàn ăn thứ độc địa. Thịt các động vật, nếu là sáu mươi năm trước, chẳng nói xa xôi, so với sáu mươi năm trước, người bảy, tám mươi tuổi có thể nhớ lại, những món thịt quư vị đă ăn lúc nhỏ có mùi vị giống với thịt ḿnh ăn trong hiện tại hay không? Tôi từng hỏi sư mẫu của tôi, tức phu nhân của tiên sinh Phương Đông Mỹ, tôi nêu ra câu hỏi: “Các bà ăn thịt heo, thịt gà, so với lúc tuổi thơ, tuổi thiếu niên, thấy có cùng mùi vị hay chăng?” Bà ta suy nghĩ ba bốn phút, rồi cho biết: “Khác hẳn!” Chúng ta là người ăn chay, hăy suy nghĩ cẩn thận, nay chúng ta ăn rau, những thứ rau thường ăn, cải bẹ trắng cũng vậy, rau giền cũng thế, củ cải cũng thế, đặc biệt là các loại nấm, có giống như sáu mươi năm trước hay không? Quá khác biệt! Sáu mươi năm trước, vị nấm đông cô ngon hơn nhiều, tuyệt hơn nhiều! Hiện thời chẳng có mùi vị ǵ! Thấy chúng rất lớn, h́nh dáng rất dễ ưa, nhưng chẳng có vị ǵ hết! Rau dưa cũng chẳng tươi ngon như trước, đều chẳng c̣n nữa, do nguyên nhân ǵ? Thuốc trừ sâu và phân hóa học đă phá hoại rồi! Do vậy, đất đai hiện thời có chất độc, quư vị trồng thứ ǵ cũng đều có độc, đây chẳng phải là “thực độc” (ăn chất độc) ư? Đúng vậy! Chẳng giả tí nào! V́ thế, người sống trong thế gian này, càng sống càng vô vị, cuộc sống càng ngày càng khổ sở. Khoa học hiện thời nói tới ǵ? Cơ nhân (genes)! Phá hoại toàn bộ cơ nhân, phá hoại hoàn cảnh thiên nhiên, phá hoại cuộc sống của chúng ta.

      Chúng ta coi phần tiếp theo: “Ư thị, văn Thanh Ngụy Thừa Quán (tự Mặc Thâm) cư sĩ” (Do vậy, vào cuối đời Thanh, cư sĩ Ngụy Thừa Quán, tên tự là Mặc Thâm), chúng ta thường gọi ông này là Ngụy Mặc Thâm, đáng ra phải gọi là Ngụy Nguyên[6]. Ngụy cư sĩ là người đời Thanh. Nói “văn Thanh” v́ ông ta sống vào thời Hàm Phong. Chúng ta biết Từ Hy Thái Hậu là phi tử của hoàng đế Hàm Phong[7]. “Vị cứu Long Thư chi thất, thủ ngũ chủng nguyên dịch, lánh hành hội tập, biệt thành nhất thư, sơ nhưng danh Vô Lượng Thọ Kinh, hậu kinh Chánh Định Vương Canh Tâm thị cải danh vi Ma Ha A Di Đà kinh” (Nhằm cứu chữa khuyết điểm của ông Long Thư, bèn lấy năm bản dịch gốc, tiến hành hội tập lần nữa, soạn thành một bản khác, thoạt đầu vẫn gọi là Vô Lượng Thọ Kinh; về sau, được ông Chánh Định Vương Canh Tâm đổi tên thành Ma Ha A Di Đà Kinh). Bản này hiện thời không được lưu thông, nhưng trong Đại Tạng kinh th́ có. Đây là bản thứ tám của kinh Vô Lượng Thọ. “Ngụy bổn văn tự giản khiết, tinh đáng, viễn quá Vương bổn” (bản của ông Ngụy văn tự đơn giản, trong sáng, tinh vi, thỏa đáng, vượt xa bản của ông Vương), hội tập khá lắm, tiến bộ hơn bản của ông Vương Long Thư. “Đản suất tự tăng văn chi bệnh, vị năng tận miễn, cố Ngụy bổn diệc vị tận thiện dă” (Khuyết điểm tự tiện thêm lời văn vào vẫn chưa thể hoàn toàn tránh khỏi, cho nên bản của ông Ngụy cũng chưa phải là hoàn thiện). Trong Văn Sao, Ấn Quang đại sư phê b́nh ông Ngụy đă tùy tiện dựa theo ư ḿnh, sửa chữa văn tự trong kinh văn. Chuyện này, lúc chúng tôi mới học kinh giáo với thầy Lư tại Đài Trung, thầy có nêu lên vấn đề này. Ông ta sửa có khéo hay không? Sửa thật khéo lắm, nhưng cũng là tạo ra tiền lệ. Quư vị thấy Vương Long Thư đă lập ra tiền lệ này, Ngụy Mặc Thâm lại noi theo lệ ấy, đáng sợ quá! Sợ là sẽ tạo thành [tiền lệ] cho những kẻ chưa đạt tŕnh độ như vậy, chưa có cảnh giới này, sẽ mặc sức sửa kinh. Vấn đề này nghiêm trọng lắm!

      Tiết bổn như chúng tôi vừa mới nói, đối với xă hội hiện tại rất cần thiết, v́ người trong xă hội hiện tại chuộng đơn giản. Quư vị có một quyển kinh sách kích thước to như thế, người ta chẳng muốn đọc, mà cũng chẳng có thời gian đọc. Càng đơn giản càng hay, người ta càng ưa thích, đặc biệt là đối với phần tử tri thức. Do vậy, tôi cũng soạn tiết bổn, biên soạn tiết bổn cho kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo; đối với Đệ Tử Quy, tôi cũng soạn tiết bổn. Tiết bổn Thập Thiện Nghiệp Đạo của tôi đại khái chỉ có sáu trăm chữ, thuận tiện, mọi người đọc sẽ vui vẻ, lưu thông dễ dàng. Tôi c̣n có một tiết bổn nữa. Đó là tiết bổn cuốn Kim Cang Kinh Giảng Nghĩa của cư sĩ Giang Vị Nông. Cuốn Giảng Nghĩa phân lượng rất lớn, tôi trích lấy những điều trọng yếu. Tôi đă từng giảng kinh Kim Cang một lần, h́nh như là giảng Kim Cang Kinh Giảng Nghĩa Tiết Yếu, dùng cuốn tiết bổn này để giảng. Tiết bổn này cũng được lưu thông, có thể nói là rất thuận tiện cho người mới học. Quư vị muốn thâm nhập hăy đọc nguyên bản. Trong thời đại hiện tại có nhu cầu này!

      Tiếp theo đó là nói đến bản hội tập này, giới thiệu nhân duyên khiến cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập. “Tiên sư Hạ Liên Cư lăo cư sĩ”, thầy của lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ đă qua đời, đă văng sanh, nên gọi là “tiên sư” lăo cư sĩ Hạ Liên Cư. Trước hết, giới thiệu giản lược đức hạnh của lăo cư sĩ. “Bi trí song vận”, cụ thật sự có ḷng từ bi, có trí huệ. Chữ “song” () chỉ từ bi và trí huệ, tự hành, hóa tha, “vận” () là vận dụng để tự hành, dạy người. Điều này khá khó khăn! Có những người sẵn ḷng từ bi nhưng thiếu trí huệ; có kẻ có trí huệ lại thiếu ḷng từ bi, không chịu dạy người khác, đều chẳng hoàn bị. Có trí huệ lại chịu dạy người khác, Bồ Tát đấy! “Tông Thuyết câu thông”, Tông () là Thiền Tông, Thuyết () là Giáo Hạ. Nói đến Đại Thừa Phật pháp của Trung Quốc th́ chính là Tông Môn và Giáo Hạ. Do vậy, bản thân Phật giáo được gọi là Tông, Giáo, chẳng liên quan ǵ đến [từ ngữ] “tôn giáo” như chúng ta nói trong hiện thời, nhất định phải biết điều này. Phật pháp tự xưng là Tông Giáo, Tông ở đây là Thiền Tông, c̣n gọi là Tông Môn, chín tông phái ngoài Thiền Tông đều gọi là Giáo Hạ. V́ sao nói như thế? Phương thức giáo học khác nhau! Thiền Tông là “ngộ hậu khởi tu” (sau khi đă ngộ, sẽ tu). Khi chưa khai ngộ, chẳng xem kinh giáo, chẳng đọc kinh điển. Sau khi khai ngộ rồi mới xem kinh điển; c̣n Giáo Hạ dốc sức nơi kinh điển trước, đến cuối cùng là khai ngộ. V́ thế, đây là hai con đường [khác nhau].

      Như vậy th́ Thiền Tông thích ứng với căn tánh nào? Bậc thượng thượng căn, đó là đối tượng của Thiền, người thường không tu được, chúng ta phải hiểu điều này. Người tầm thường không tu Thiền được. Bởi lẽ, chẳng phải là bậc thượng thượng căn, nếu quư vị tham Thiền, tham suốt đời, vẫn gọi là tham uổng công. Quư vị chẳng khai ngộ! Nếu quư vị chẳng thể khai ngộ, sẽ chẳng thể liễu sanh tử. Nói cách khác, đáng luân hồi như thế nào th́ vẫn luân hồi như thế ấy. Do vậy, lúc tôi mới học Phật, ba vị thầy đều cảnh cáo tôi đừng nên học Thiền Tông, quyết định không thể học theo Lục Tổ Đàn Kinh, chẳng thể học đ̣i ngài Huệ Năng. Họ thẳng thừng bảo tôi: “Anh không hội đủ điều kiện!” Thầy Phương giới thiệu Pháp Tướng Duy Thức và Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm. Thầy Lư giới thiệu Tịnh Độ và Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm, đó là Giáo Hạ. Đối tượng của Giáo Hạ là ba căn thượng, trung, hạ, dốc sức nơi kinh điển, theo thứ tự tiến lên dần dần, giống như đi học, quư vị học từ Tiểu Học, Trung Học, Đại Học, đến nghiên cứu sinh, từ từ tiến lên. [Đối tượng của] Thiền Tông là đứa trẻ thiên tài; nó chẳng cần đến Tiểu Học, Trung Học, Đại Học, chẳng hề cần, có thể vào ngay ban nghiên cứu sinh, có bản lănh này! V́ thế, thiếu bản lănh này, chẳng thể học theo họ được! Đúng là chẳng thể tùy tiện học tập được!

      V́ thế, trong Phật pháp, giữa Thiền và Mật, Mật hay hơn Thiền một chút; đúng là nếu chẳng phải là bậc thượng thượng căn, sẽ chẳng đạt lợi ích nơi Thiền Tông. Mật cũng như vậy, nhưng Mật c̣n có thứ tự, trước hết học Hiển Giáo, Hiển Giáo có tŕnh độ nhất định. Hiển Giáo là Giáo Hạ, có tŕnh độ nhất định, phải tham gia khảo thí. Cũng có nghĩa là chưa đại triệt đại ngộ trong Hiển Giáo [sẽ chẳng thể học Mật]; đại triệt đại ngộ kiến tánh rồi, so ra, mức độ đại triệt đại ngộ thấp nhất phải là đại ngộ. Có tiểu ngộ, có đại ngộ. Nói cách khác, [người muốn tu Mật phải] đạt được tâm thanh tịnh. Đối với đại triệt đại ngộ, chúng ta dùng ngay tiêu chuẩn trong tựa đề kinh này: “Thanh tịnh b́nh đẳng giác”. Giác là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, đó là điều kiện của Thiền Tông, điều kiện của Tông Môn. Trong Giáo Hạ, quư vị đắc thanh tịnh tâm, thưa quư vị, đắc thanh tịnh tâm là buông Kiến Tư phiền năo xuống, chẳng c̣n chấp trước nữa, đương nhiên trí huệ mở mang, tâm thanh tịnh sanh trí huệ, đó gọi là “khai ngộ”. Vẫn chưa phải là đại ngộ, nhưng nếu đă thật sự đắc thanh tịnh tâm, đoạn hết Kiến Tư phiền năo, có thể học Mật được hay không? Có thể được! Nhưng vẫn chưa phải là học sinh chính thức của Mật Tông! Học sinh chính thức của Mật Tông c̣n phải nâng [cảnh giới] lên cao hơn một tầng nữa là đại ngộ, chưa phải là triệt ngộ, mà là đại ngộ. Đại ngộ là ǵ? Vẫn phải buông Trần Sa phiền năo xuống, đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian chẳng phân biệt, đó là học sinh chính thức của Mật Tông, quư vị mới có tư cách học tập, chẳng dễ dàng đâu nhé! Người ấy đă đại ngộ, nhưng vẫn chưa triệt ngộ. V́ sao? Vẫn c̣n khởi tâm động niệm, khởi tâm động niệm tức là chưa phá vô minh phiền năo.

      Chúng ta chọn lựa pháp môn, chính ḿnh hiểu rơ ràng căn tánh của chính ḿnh. Chọn sai là quư vị đă uống lầm thuốc! Bị mắc bệnh mà uống lầm thuốc, không chỉ chẳng trị hết bệnh, mà không chừng bệnh c̣n nặng hơn. Quư vị nói có phiền lắm không? Phật pháp là thuốc. Tám vạn bốn ngàn pháp môn giống như vào tiệm thuốc, thấy các món thuốc bày la liệt nhiều ngần ấy, quư vị có thể uống hết hay chăng? Có dám uống hay chăng? Chúng ta biết: Không có bác sĩ kê toa, chẳng dám uống, sợ uống vô là rồi đời! Vậy mà Phật pháp quư vị tùy tiện tu, chẳng sợ hay sao? V́ thế, trong kinh Đại Thừa, trong kinh Hoa Nghiêm có nói: “Phật pháp không có ai nói, dẫu là người trí cũng chẳng thể hiểu”. Những vị tổ sư đại đức từ xưa giống như bác sĩ, hay giống như y tá, họ thông hiểu. Chúng ta muốn học Phật, hăy kiếm những người ấy. Họ thấy chúng ta thuộc căn tánh nào, sẽ giới thiệu cho chúng ta kinh điển nào; đấy là chuyện tất yếu, chính ḿnh chớ nên tùy tiện ṃ mẫm. Do vậy, quư vị thấy: Trong sự học Phật, thầy là mấu chốt quyết định sự thành bại đối với sự tu học của quư vị trong một đời này. Nếu quư vị thật sự gặp được thiện tri thức hay một vị thầy thật sự tốt đẹp, quư vị sẽ chiếm tiện nghi rất lớn. V́ sao? Không đi theo đường ṿng! Chính ḿnh mắc bệnh, hăy t́m một bác sĩ giỏi, bác sĩ khám bệnh, kê toa, quư vị uống thuốc ấy vào, sẽ khỏi bệnh. V́ thế, thiện hữu trong Phật môn khó gặp gỡ! Chúng ta đến nơi đâu để cầu? Bất quá, trong hiện tại cũng chẳng có ai cầu! V́ sao? Ngay cả đối với cha mẹ mà cũng không hiếu thảo, chẳng cần đến họ, c̣n nói ǵ đến tôn trọng thầy?

      Phật pháp là giáo dục của thánh hiền, là giáo dục của bậc đại thánh đại hiền. Nếu quư vị không biết tôn sư trọng đạo, đến nơi đâu để cầu? Chẳng có chỗ nào để cầu! Nhà Phật thường nói: “Phật độ hữu duyên nhân”, ai là người có duyên? Thưa chư vị, hiếu thuận phụ mẫu, tôn sư trọng đạo, kẻ ấy có duyên. Bất hiếu phụ mẫu, bất kính tôn trưởng, không coi trọng thánh đạo, vô duyên! Có gặp bậc thiện tri thức chân chánh cũng vô dụng. V́ sao? Quư vị chẳng thể tiếp nhận! Quư vị đọc kinh chẳng hiểu, hiểu lệch lạc ư nghĩa, chính ḿnh suy tưởng kinh có ư nghĩa ǵ, nghe kinh cũng không hiểu. V́ thế, bài Khai Kinh Kệ đă nói rất hay: “Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”. Quư vị thiếu tâm tôn kính, thiếu tâm thành kính, nghe rồi sẽ hiểu vặn vẹo ư nghĩa, dùng phiền năo tập khí của chính ḿnh, dùng tri kiến bất chánh để giải thích kinh Phật, giải thích hoàn toàn sai bét. Học được mấy chục năm, cuối cùng bảo kinh Phật chẳng linh, lại c̣n hủy báng. V́ thế, thiện tri thức chân chánh suốt đời mong kiếm được truyền nhân. Thầy truyền dạy Phật pháp cho ta, ta phải truyền cho ai? Nếu không có truyền nhân, quư vị phải soạn sách, đem sở học và sở ngộ của ta viết thành sách, ḥng lưu truyền sách ấy cho hậu thế, ḥng truyền cho người hữu duyên trong đời sau. Chẳng dễ dàng! Quá khó khăn!

      Thầy Lư bảo tôi: Học tṛ kiếm thầy đă khó, mà thầy kiếm được một học tṛ để truyền pháp càng khó hơn, đến đâu để t́m? Chẳng thể nói học tṛ của thầy Lư không đông! Đông lắm! Tính toán dè đặt nhất cũng phải hơn năm mươi vạn người! Trong số đó, có mấy ai có thể truyền pháp của cụ? Người văng sanh th́ có, người văng sanh không ít, niệm Phật văng sanh; kẻ thật sự truyền pháp ít lắm! Khó quá! Người thật sự truyền pháp phải hội đủ điều kiện như Ấn Quang đại sư đă dạy: Đối với thầy, một phần thành kính, được một phần lợi ích; hai phần thành kính, được hai phần lợi ích; mười phần thành kính, quư vị phải mười phần lợi ích. Chẳng thành kính, quư vị nghe suốt một trăm năm ở nơi đó cũng chẳng có lợi ích, mấu chốt ở chỗ này. Thành kính do đâu mà có? Thành kính là Tánh Đức, từ hiếu dưỡng phụ mẫu sanh ra. Dùng tâm hiếu dưỡng cha mẹ để đối đăi thầy, đó là tôn sư trọng đạo. Nếu đối với cha mẹ cũng chẳng hiếu thuận, vậy là xong luôn! Học Phật suốt đời này, chẳng có lợi ích ǵ, [chỉ là] gieo chủng tử Phật pháp trong A Lại Da Thức, chẳng thể thành tựu trong một đời này. Chúng ta nghe lời này, rất kinh sợ, chẳng thể thành tựu th́ làm thế nào đây? Khéo sao có duyên phận đặc biệt với pháp môn Tịnh Tông! Quư vị phải thật sự học, sám trừ nghiệp chướng, khi c̣n có một hơi thở, tới cuối cùng một niệm hay mười niệm đều có thể văng sanh. Đây là chỗ thù thắng trong Tịnh Tông. Do vậy, tại Đài Trung Liên Xă, chúng tôi thấy quả thật có không ít liên hữu văng sanh. Tính toán dè dặt nhất th́ thầy Lư giảng kinh, dạy học tại Đài Trung ba mươi tám năm, người theo cụ niệm Phật văng sanh Cực Lạc thế giới, thật sự văng sanh, tôi phỏng đoán phải hơn năm trăm người! Công đức này thù thắng, thật sự khó có, khá lắm!

      Do vậy, Phật pháp là sư đạo. Sư đạo nhất định lấy hiếu đạo làm cơ sở. Quư vị thấy Tịnh Nghiệp Tam Phước đă nói rất rơ ràng! Câu đầu tiên là “hiếu dưỡng phụ mẫu”, câu thứ hai là “phụng sự sư trưởng”, “từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện Nghiệp”, đấy là điều kiện cơ bản để vào Phật môn. Quư vị phải thực hiện bốn câu này th́ mới có thể trở thành một đệ tử Phật thật sự. Nói cách khác, đối với kinh Phật, quư vị có thể tin, có thể hiểu, đó là thiện căn của quư vị. Quư vị có thể y giáo phụng hành, đó là phước đức. Quư vị có thể hành, có thể chứng, văng sanh là chứng quả, bất luận ba bậc chín phẩm, dẫu là Hạ Hạ Phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, quư vị cũng chứng đắc Phật quả viên măn rốt ráo. V́ sao? Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, không một ai chẳng viên thành Phật đạo trong một đời. Chúng ta nghiệp chướng nặng nề, sám trừ như thế nào? “Sám trừ” là sửa đổi. Kinh điển là tiêu chuẩn [để biện định] thị phi, thiện ác, bắt đầu học từ chỗ nào? Đức Thế Tôn chỉ dạy chúng ta, bắt đầu bằng Thập Thiện Nghiệp Đạo. Ngẫu Ích đại sư có soạn tiết bổn cho Thập Thiện Nghiệp Đạo Kinh, dài hơn tiết bổn của tôi, hăy dùng [kinh này] để sửa lỗi, đổi mới, rất thực dụng! Trên thực tế, trong những năm qua, ba món căn bản của Nho, Thích, Đạo do chúng tôi đề xướng là có căn cứ hay không? Có phải là bịa đặt, đồn thổi hay không? Có căn cứ! Căn cứ ǵ vậy? Căn cứ theo điều thứ nhất của Tịnh Nghiệp Tam Phước. Hiếu dưỡng phụ mẫu bằng cách nào? Phụng sự sư trưởng bằng cách nào? Chúng ta thi hành Đệ Tử Quy. Một trăm mười ba điều trong Đệ Tử Quy đều là hiếu thân tôn sư (hiếu thảo đối với cha mẹ, tôn trọng thầy), xuất phát từ Tịnh Nghiệp Tam Phước. Đối với từ tâm chẳng giết, chúng ta bèn thực hiện Thái Thượng Cảm Ứng Thiên của Đạo Gia, [do sách ấy] giảng nhân quả, giáo dục. Để thực hiện câu cuối cùng, chúng ta tu Thập Thiện Nghiệp. Do vậy, chúng ta thi hành ba món căn bản của Nho, Thích, Đạo, đấy là dựa trên điều thứ nhất trong Tịnh Nghiệp Tam Phước. Trước hết, quư vị thi hành ba món căn bản, sau đấy mới có thể nhập Phật môn, mới có thể thật sự tiếp nhận Tam Quy, Ngũ Giới. Điều thứ hai là “thọ tŕ Tam Quy, trọn đủ các giới, chẳng phạm oai nghi”. Trong điều này, chuyện rất tuyệt vời là trọn đủ các giới, “trọn đủ” là chẳng thiếu một điều nào. Trong Tiểu Thừa có bao nhiêu điều? Ba ngàn oai nghi, tức ba ngàn điều; Đại Thừa có bao nhiêu điều? Tám vạn bốn ngàn oai nghi, Bồ Tát mà! Tận thiện, tận mỹ. Nhiều điều như thế, do đâu mà có? Thưa quư vị, từ Đệ Tử Quy, Cảm Ứng Thiên, Thập Thiện Nghiệp triển khai. Tám vạn bốn ngàn oai nghi Bồ Tát quy nạp lại sẽ là ba thứ này, mà triển khai ra sẽ nhiều như thế đó. Có một lần ở Úc, tôi phỏng vấn Do Thái Giáo, trưởng lăo Do Thái Giáo bảo tôi: Họ có sáu trăm điều giới luật. Tôi nghe xong rất hoan hỷ, tôi cũng mời ông ta giới thiệu cho tôi, mời họ tới học viện của chúng ta giảng về môn này để chúng ta học tập khuôn mẫu sống.

      Cụ Hạ “Tông Thuyết câu thông” tức là Tông Môn lẫn Giáo Hạ đều thông, chữ “thông” này chẳng dễ dàng! Trong câu trước, “bi trí song vận” là nói đến đức hạnh của cụ, “Tông Thuyết câu thông” là nói về học vấn. “Viên dung hiển mật, Thiền Tịnh ư nhất tâm” (viên dung Hiển Mật, Thiền Tịnh trong một tâm) là nói về công phu và cảnh giới của cụ. Hiển Giáo, Mật Giáo, Thiền Tông, Tịnh Độ, bốn chữ này bao quát hết thảy những pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong bốn mươi chín năm, chẳng sót thứ ǵ, viên dung trong nhất tâm. Tuy là như thế, lăo nhân gia “chuyên hoằng Tŕ Danh Niệm Phật nhiếp vạn đức” (chuyên hoằng dương pháp môn Tŕ Danh Niệm Phật nhiếp thâu muôn đức), đây là nói cụ phát đại Bồ Đề tâm phổ độ hết thảy chúng sanh, dùng phương pháp ǵ? Dùng Tịnh Độ, dùng phương pháp Tŕ Danh Niệm Phật trong Tịnh Độ. Phương pháp này từ đâu ra? Từ kinh Vô Lượng Thọ, từ kinh Di Đà, từ phép Quán thứ mười sáu trong kinh Thập Lục Quán. Phép Quán thứ mười sáu là tŕ danh niệm Phật. Những cách khác gồm có Thật Tướng Niệm Phật, Quán Tượng Niệm Phật, Quán Tưởng Niệm Phật, đến cuối cùng là nói Tŕ Danh Niệm Phật, Tŕ Danh là phương tiện rốt ráo. Đây là Hạ lăo cư sĩ từ bi đến tột cùng, cụ dùng pháp môn này để nhiếp vạn đức. Vạn đức là trí huệ và đức tướng xứng tánh nơi quả địa Như Lai. “Vị hoằng Tịnh Tông, cố nguyện thử Tịnh Tông đệ nhất chi kinh, phá trần sanh quang” (v́ hoằng dương Tịnh Tông, nên nguyện khiến cho bộ kinh đệ nhất trong Tịnh Tông này được tan bụi, tỏa sáng). “Phá trần sanh quang” là tỷ dụ, do mong muốn bộ kinh bậc nhất của Tịnh Tông nhất định phải có bản tốt nhất, có một bản tiêu chuẩn, cho nên phải hội tập lần nữa. Hai lần hội tập trước kia đều có tỳ vết, có sai lầm, dẫu hay nhưng chưa viên măn. Đó là điều đáng tiếc nuối, cho nên lăo nhân gia phát tâm hội tập lần nữa.

      “Kư thử vô thượng chi điển, nhiêu ích đương lai” (mong cho cuốn kinh vô thượng này lợi lạc mai sau). Trong tương lai, hăy c̣n có chín ngàn năm nữa, thời Mạt Pháp là một vạn năm. Kẻ học Phật chúng ta chẳng thể không biết pháp vận của đức Phật, rất nhiều người nói tới ngày tận thế, trong Phật pháp không có cách nói này. Pháp vận của Phật hăy c̣n chín ngàn năm nữa. Những năm qua, tôi đă lớn tuổi, trí nhớ chẳng tốt lắm; trước kia, tôi nhớ rất rơ ràng, các vị trẻ tuổi hăy kiểm xem, theo ghi chép của người Trung Quốc, từ các trước tác của cổ nhân sẽ có thể tra ra, từ lúc Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ cho đến hiện tại, tôi nhớ h́nh như là ba ngàn ba mươi mấy năm, cụ thể là ba mươi mấy năm th́ các vị hăy kiểm xem. Trong Niên Phổ của lăo ḥa thượng Hư Vân có nói ba ngàn ba mươi mấy năm. Pháp vận của Phật: Chánh Pháp là một ngàn năm, Tượng Pháp một ngàn năm, hiện thời đă qua hai ngàn năm, sau đó, c̣n có Mạt Pháp một vạn năm. Một vạn năm mới trải qua một ngàn lẻ ba mươi mấy năm, cho nên thời gian về sau vẫn c̣n dài, lẽ nào có ngày diệt vong? Trong thời kỳ Mạt Pháp dài như thế, Phật pháp có hưng, có suy, xưa kia Chương Gia đại sư đă bảo với tôi chuyện này. Ngài bảo tôi: Hiện tại Phật pháp đă suy đến chỗ cùng cực, nhưng chớ sợ, sẽ hưng khởi, Phật pháp sẽ lại hưng khởi, có hưng, suy, nhưng chẳng diệt. Tới khi nào sẽ diệt? Chín ngàn năm sau, Phật pháp thật sự diệt. Chúng ta tin đức Phật chẳng vọng ngữ, Như Lai là đấng chân ngữ, đấng thật ngữ, đấng như ngữ, đấng không nói dối, chúng ta tin tưởng Ngài. V́ thế, cụ Hạ mong bộ kinh này có được một bản tiêu chuẩn hoàn thiện vô cùng tốt đẹp. Bản này sẽ lợi lạc tương lai trong khắp chín ngàn năm sau.

      Pháp môn nào, kinh điển nào khế cơ nhất? Phải là bộ kinh này. Trong bộ kinh này, từng câu, từng chữ đều do đức Phật nói, chẳng giả tí nào. Bản dịch gốc được dịch từ tiếng Phạn, trong bản tiếng Phạn có rất nhiều chỗ khác nhau, cho thấy Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng phải chỉ tuyên giảng kinh này một lần, mà là tuyên giảng nhiều lần. Nh́n từ năm bản dịch gốc, tối thiểu là ba lần tuyên giảng. Chúng ta bị thất truyền bảy bản, chẳng thấy nữa. Nếu cả bảy bản ấy hăy c̣n, có phải là c̣n có những chỗ chẳng giống nhau hay không? Quư vị có thể t́m thấy [bằng cớ chứng tỏ] kinh này đă được giảng hơn ba lần. Đây là đức Thế Tôn vô tận từ bi, chúng ta có hiểu rơ mới có thể sanh tâm cảm ơn. Chẳng do pháp môn này, chúng ta sẽ chẳng thể đắc độ, chắc chắn là vậy! Chúng ta có thể sanh lên trời, nhưng không thoát khỏi lục đạo luân hồi. Thoát lục đạo luân hồi rất khó, đoạn Kiến Tư phiền năo chẳng dễ dàng [đoạn trừ]. Chẳng đoạn Kiến Tư, quư vị chẳng thoát khỏi luân hồi. Sanh lên trời th́ có ai đă chưa từng sanh lên trời? Tất cả chúng sanh trên quả địa cầu này, quư vị nghĩ xem có ai chưa từng sanh lên trời? Trong quá khứ đều đă ở trên trời, hưởng hết phước trời, nghiệp chướng hiện tiền, lại đọa xuống, chuyện là như thế đó! Lên lên xuống xuống trong lục đạo! Có người nào chẳng từng đọa địa ngục? Có chứ, trong các đồng học học Phật của chúng ta có [người đă đọa địa ngục], làm sao biết? Do thôi miên nên biết. Người ấy được chuyên viên thôi miên đến mức độ sâu, rồi hỏi: “Bạn đang ở đâu?” Trong địa ngục. Trạng huống của địa ngục khổ vô cùng, chịu khổ trong địa ngục. Người ấy đi vào địa ngục, mà cũng lên thiên đường, thật đấy! Trong lục đạo, đường nào người ấy cũng đều đă từng trải; cho nên chẳng có chi là lạ lùng, hiếm có cả!

      Liễu giải chân tướng sự thật này. Quư vị biết con người có chết hay không? Không chết, mà là luân hồi trong lục đạo. Cái thân xác thịt sanh tử, nhục thân có sanh diệt, đây là một hiện tượng b́nh thường, linh hồn (thần thức) bất diệt. Thưa quư vị, linh hồn là mê, khi mê gọi là linh hồn; hễ giác ngộ chẳng gọi là linh hồn, mà gọi là “linh tánh”, linh tánh bất diệt. Chưa thoát khỏi lục đạo th́ gọi là linh hồn, vượt thoát lục đạo bèn gọi là linh tánh, đó là ai? Từ bậc A La Hán trở lên. Chỉ cần quư vị thoát khỏi lục đạo luân hồi, bèn là A La Hán. A La Hán được gọi là linh tánh, chẳng mê; cho nên A La Hán đắc Chánh Giác. A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề là mục tiêu chung và duy nhất của người học Phật chúng ta, học Phật để mong đạt được ǵ? Đạt được điều này. Dịch sang nghĩa tiếng Hán, [A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề] là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. A La Hán đắc Chánh Giác, Bồ Tát đắc cao hơn, Chánh Đẳng Chánh Giác. Sở đắc của Phật có thêm Vô Thượng, tức là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác vượt thoát mười pháp giới, trụ trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai, chúng ta cũng thường gọi cảnh giới ấy là Nhất Chân pháp giới. Bồ Tát vẫn thuộc trong tứ thánh pháp giới của mười pháp giới.

      Đây là nói rơ với chúng ta: Pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật hăy c̣n chín ngàn năm nữa. Chín ngàn năm sau, khi thế gian này không c̣n Phật pháp, thật là khổ! Phật, Bồ Tát chẳng bỏ chúng sanh khổ nạn, cho đến lúc này, dù Phật, Bồ Tát chẳng hiện, vẫn có một vị đại diện. Tôi nghĩ vị này chư vị đều biết: Địa Tạng Vương Bồ Tát! Ngài thay Phật hóa độ chúng sanh, đại diện cho Phật, măi cho đến khi đức Phật kế tiếp xuất thế. Đức Phật kế tiếp là Di Lặc Bồ Tát. Hiện thời có rất nhiều lời đồn đại Di Lặc Bồ Tát đă giáng hạ. Thưa quư vị, giả trất, chẳng thể tin tưởng được! Di Lặc Bồ Tát ứng hóa trong thế gian này là chuyện b́nh thường, chẳng hiếm lạ tí nào! Trong các truyện kư của Phật môn Trung Quốc đă ghi chép rất rơ ràng, Bố Đại Ḥa Thượng là Di Lặc Bồ Tát hóa thân vào thời Tống. Nay chúng ta thờ tượng Bố Đại Ḥa Thượng chính là thờ hóa thân của Di Lặc Bồ Tát. Chúng ta thấy Di Lặc Bồ Tát ở Tây Tạng, hoặc thấy tượng Di Lặc Bồ Tát của Phật Giáo Nam Truyền (Phật Giáo Nam Tông, Theravada), Ngài có h́nh dáng giống như Quán Thế Âm Bồ Tát, gầy nhom, chẳng phải là dáng vẻ [mập mạp này]. Do Ngài thị hiện tại Trung Quốc dùng h́nh dạng Bố Đại Ḥa Thượng, nên dùng h́nh dáng ấy để tạc tượng. Theo truyện kư ghi chép, một hóa thân khác là Phó Đại Sĩ vào đời Đường, hiện thân cư sĩ, đó là Di Lặc Bồ Tát tái lai. Phật, Bồ Tát thường đến ứng hóa trong thế gian, nên dùng thân nào để độ được, bèn hiện thân ấy. Nói Di Lặc Bồ Tát chưởng quản thiên bàn[8], hay Di Lặc Bồ Tát giáng hạ nhân gian làm Phật, đều là giả. Di Lặc Bồ Tát sẽ giáng sanh cơi nhân gian làm Phật vào lúc nào? Trong Di Lặc Hạ Sanh Kinh[9] đă nói rất rơ ràng: Năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm sau. Trong thời gian không có Phật xuất thế, Địa Tạng Bồ Tát thay mặt. Chúng ta nhất định phải căn cứ trên những điều kinh điển đă ghi chép, đó là thật, chẳng phải giả.

      Do Phật pháp c̣n có thời gian [tồn tại] dài như thế, trong thời kỳ Mạt Pháp, pháp môn này sẽ dần dần biến thành pháp môn chánh yếu. V́ sao? Các pháp môn khác tuy hay, nhưng chẳng hợp căn tánh, quư vị nương theo những pháp môn khác tu học hết sức khó khăn, rất khó thành tựu, nên Tịnh Tông biến thành chủ yếu. Trở thành chủ yếu mà nếu không có một kinh điển tiêu chuẩn để chúng ta nương theo, đúng là rất đáng tiếc. Do vậy, mới có “cảm”, cũng có nghĩa là nói do người tu hành trong chín ngàn năm của thời Mạt Pháp có nhu cầu, nhu cầu ấy là cảm, nên Phật, Bồ Tát có ứng. Sự “ứng” ấy chính là cư sĩ Hạ Liên Cư xuất hiện trên thế gian. Do chúng sanh có cảm, Ngài tới ứng hóa. Ngài tới thế gian này để làm chuyện ǵ? Để làm chuyện này! Chúng ta hiểu rất rơ ràng. Lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ biết, nhưng tôi không biết, tôi thỉnh giáo cụ, tôi hỏi: “Rốt cuộc cụ Hạ là vị nào tái lai?” Cụ Hoàng mỉm cười: “Hiện thời phải giữ kín, hiện thời chẳng thể nói được!” Chẳng thể nói, hiện thời cụ cũng đă khuất bóng rồi, tôi chẳng hỏi ai được! Chắc chắn [cụ Hạ] chẳng phải là phàm nhân. Quư vị hăy nghĩ xem: Vương Long Thư có phải là phàm nhân hay không? Ngụy Mặc Thâm có phải là phàm nhân hay không? Phàm nhân không thể làm được! Cụ Hạ Liên Cư hội tập một bản viên măn như vậy, chúng tôi suy đoán: Nếu cụ chẳng phải là A Di Đà Phật tái lai, nhất định là Quán Thế Âm Bồ Tát tái lai, mới có trí huệ, mới có đức năng để làm chuyện to lớn này! Điều này cũng giống như thầy Lư thường nói với chúng tôi: Nói theo Lư th́ thông suốt, nhưng trên mặt Sự chưa có chứng cứ, nhưng nói theo Lư th́ hợp lư.

      Lợi lạc tương lai, “năi kế tiền hiền, trùng hành hội tập” (bèn kế tục tiền hiền, hội tập lần nữa). “Tiền hiền” là ba vị trước đó, trên thực tế là hai vị, tức Vương Long Thư và Ngụy Mặc Thâm, hội tập lần thứ ba. Đây là phiên bản thứ chín. Đoạn tiếp theo nói rơ tâm thái và những điều từng trải khi cụ Hạ hội tập lần nữa, cụ dùng tâm tư thái độ như thế nào? “B́nh khí vạn duyên” (Ngăn bỏ muôn duyên), chúng ta thường nói là “buông xuống vạn duyên”, điều ǵ cũng đều buông xuống. “Yểm quan tam tái”, nghĩa là bế quan trong thời gian ba năm, dùng cách thức này để buông xuống hết thảy những thứ quấy nhiễu. Một ḿnh, v́ trong phần sau, cụ Hoàng có viết một câu: “Minh tâm cô nghệ” (lặng lẽ tiến hành một ḿnh), đấy là chỉ có một người, không có đồng bạn. “Tịnh đàn kết giới” là cụ chân thành thực hiện công tác hội tập. Ba năm sau, hoàn thành bản thảo. Sau khi đă hoàn thành, “cảo kinh thập dịch”, nghĩa là trải qua mười lần sửa chữa, “phương khánh kinh thành” (mới mừng kinh đă được hội tập xong), kinh này mới thành tựu. Chẳng phải là ba năm bèn thành tựu, ba năm mới hoàn thành bản thảo đầu tiên, mất mười năm mới hoàn thành bản [hoàn thiện] này. Quư vị thấy Ngài rất nghiêm túc, đă biểu thị cho chúng ta thấy, biểu thị ư nghĩa ǵ vậy? Mười phần thành kính, bèn được mười phần lợi ích. Kinh này công đức viên măn, chẳng thể có mảy may khinh mạn nào. Dùng cái tâm khinh mạn, chắc chắn quư vị chẳng thể làm thành công, chắc chắn có tỳ vết! Cụ Hạ hội tập chân thành như vậy, nay chúng ta thọ tŕ, cũng phải dùng tấm ḷng chân thành như cụ Hạ để thọ tŕ mới đạt được lợi ích. Nếu chẳng có ḷng chân thành như thế, quyển kinh bày ra trước mặt quư vị, đọc tụng mỗi ngày, chẳng có lợi ích! Chúng ta nhất định phải hiểu điều này!

    V́ sao chúng ta học Phật học lâu năm như thế mà vẫn cứ hời hợt, bộp chộp? Trong tâm lư vẫn đầy ắp tham, sân, si, mạn, nghi? Học Phật đă lâu năm như thế mà Ngũ Độc có giảm được vài phần hay chăng? Không có! Giống hệt như chẳng học Phật th́ kể ra vẫn c̣n chưa sao, sợ nhất điều ǵ? Bản thân ta mỗi năm mỗi lớn tuổi, càng phiền toái hơn, phiền năo tập khí càng ngày càng nặng! Nếu là t́nh huống như vậy, chính ḿnh phải hiểu rơ: Chẳng tránh khỏi luân hồi. Luân hồi vào đâu? Đời sau ta c̣n có thể được làm thân người hay không? Vậy là phải hỏi quư vị, quư vị tu Thập Thiện Nghiệp ra sao? Trong kinh, đức Phật đă dạy chúng ta, Trung Phẩm Thập Thiện sẽ được làm thân người, đời sau vẫn được làm người. Quư vị hăy tự suy nghĩ: Hăy dựa vào lương tâm của quư vị để chấm điểm Thập Thiện Nghiệp Đạo của bản thân, có được bảy mươi hay tám mươi điểm hay không? Có thể chấm đến bảy mươi, tám mươi điểm, đời sau quư vị chẳng mất thân người. Nếu nói ta chỉ được năm mươi điểm, chẳng chắc ăn! Cơ duyên đọa lạc vô cùng nhiều! Nếu đạt điểm trọn vẹn, sẽ là Dục Giới Thiên, đại đa số sanh về đâu? Lên trời Đao Lợi. Trời Đao Lợi th́ phải được trọn điểm. Thực hiện Thập Thiện Nghiệp bằng cách nào? Đệ Tử Quy! Đệ Tử Quy là bước đầu thực hiện Thập Thiện Nghiệp. Một trăm mười ba điều của Đệ Tử Quy, quư vị có làm được hay không? Từ chỗ này mà suy nghĩ, quư vị sẽ run sợ, v́ sao? Nếu chẳng thể văng sanh, vẫn phải tiếp tục luân hồi, cơ duyên tam ác đạo quá nhiều! Duyên trong ba thiện đạo quá mỏng, làm thế nào đây? Đáng sợ hay chăng? Đáng sợ! Có thể sửa đổi hay không? Vẫn chẳng thay đổi th́ có sợ cũng vô dụng!

      So với pháp sư Oánh Kha đời Tống, chúng ta kém xa! Người ta quả thật là kẻ xuất gia, phá giới, hủy phạm Thanh Quy, tự biết do khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, hành vi của chính ḿnh chắc chắn sẽ đọa địa ngục. Sư sợ, biết địa ngục khổ năo, hỏi đồng tham đạo hữu có phương pháp nào cứu giúp hay không? Bạn đồng học cũng tuyệt lắm, tặng Sư một quyển Văng Sanh Truyện, bảo Sư tự xem. Sư đọc bèn cảm động, cứ xem một bài, lại đau đớn khóc ṛng, tâm sám hối nẩy sanh, hạ quyết tâm bế quan niệm Phật, ba ngày ba đêm chẳng ngủ, chẳng ăn, chẳng nghỉ ngơi, một câu Phật hiệu chân thành niệm đến cùng. V́ lẽ ǵ? Sợ nỗi khổ địa ngục! Cầu cứu mạng nên thật sự thực hiện. Ba ngày ba đêm niệm được A Di Đà Phật hiện đến. A Di Đà Phật thật sự từ bi, quư vị thật sự tu, Ngài sẽ thật sự quan tâm chăm sóc quư vị. A Di Đà Phật hiện đến bảo Sư: “Ông c̣n thọ mười năm nữa, hăy gắng niệm Phật. Chờ tới khi ông đă hết tuổi thọ, ta sẽ đến tiếp dẫn ông”. Oánh Kha nghe xong bèn xin với A Di Đà Phật, Sư nói: “Con chẳng cần mười năm thọ mạng. Nếu con sống thêm mười năm nữa, bản thân con không chống nổi dụ dỗ, mê hoặc, chẳng biết sẽ tạo bao nhiêu tội nghiệp, con chẳng cần mười năm thọ mạng, nay con đi theo Ngài”. A Di Đà Phật thông t́nh đạt lư, bảo Sư: “Được! Ba ngày sau ta đến đón ông”. Sư vui sướng, mở toang cửa pḥng, bảo đại chúng: “Tôi niệm A Di Đà Phật ba ngày, cảm Phật hiện đến. Ba ngày nữa A Di Đà Phật sẽ tiếp dẫn tôi văng sanh”. Đồng tham đạo hữu trong chùa ai nấy đều cảm thấy rất ngạc nhiên: “Thời gian ba ngày coi bộ chẳng dài, xem ngươi ba ngày sau có văng sanh hay không?” Nhưng nghe ra lời lẽ của ông ta chẳng giống như gạt người, dường như là thật sự có chuyện như vậy. Tới ngày thứ ba, Sư yêu cầu đại chúng niệm Phật đưa Sư văng sanh; đương nhiên đại chúng vui vẻ, được rồi, đều niệm Phật hồi hướng cho ông ta. Niệm Phật chưa đầy một khắc, Sư bảo mọi người: “A Di Đà Phật tới rồi, tôi thấy Ngài đón tôi đi” liền tịch, thật sự đi. Kinh Di Đà có nói: “Hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày”, là thật, chẳng giả. Pháp sư Oánh Kha biểu diễn cho chúng ta xem, thật sự sợ khổ địa ngục, buông xuống vạn duyên, nhất tâm niệm Phật, lập tức văng sanh. Thọ mạng bao nhiêu cũng chẳng cần, ở trong thế gian này đều là tạo nghiệp! Chỉ cần bản thân chúng ta buông xuống, vứt bỏ muôn duyên, thật sự làm!

      Ba năm trước, có một vị cư sĩ ở Thâm Quyến, là một người c̣n trẻ, ba mươi mấy tuổi, tức ông Hoàng Trung Xương, nghe trong Văng Sanh Truyện có nói: “Niệm Phật ba năm bèn có thể văng sanh”, ông ta bế quan coi thử ba năm có thể thành tựu hay không? Ở trong quan pḥng hai năm mười tháng, c̣n thiếu hai tháng nữa mới măn thời hạn, ông ta liền biết trước lúc mất, văng sanh, cũng không sanh bệnh. Sau khi hỏa táng, lưu lại xá-lợi, nay đang được thờ trong một tiểu đạo tràng tại Thâm Quyến, chứng minh cho chúng ta thấy [ba năm thành tựu] là thật, chẳng giả! Ba năm trong quan pḥng, mỗi ngày ông ta niệm kinh Vô Lượng Thọ một lần, ngoài ra, Phật hiệu chẳng gián đoạn. Phương pháp tôi đă dạy ông ta là phương pháp do pháp sư Đế Nhàn đă dạy người đồ đệ làm thợ vá nồi: Niệm mệt bèn nghỉ ngơi, chẳng phân biệt ngày hay đêm. Tỉnh dậy sẽ niệm tiếp, thật sự làm được “tâm vô nhị niệm”, chỉ một câu A Di Đà Phật. Ông ta khác với người thợ vá nồi ở chỗ mỗi ngày niệm kinh Vô Lượng Thọ một lần, thêm vào một bộ kinh Vô Lượng Thọ, nhưng Phật hiệu chẳng gián đoạn, bèn thành công. Văng sanh khó hay không? Chẳng khó! Vấn đề là quư vị có chịu buông xuống hay không, mấu chốt ở chỗ này! Vứt bỏ vạn duyên là câu mấu chốt, chỉ cần làm được câu này là được rồi!

      V́ thế, ở đây, bằng sáu câu, mỗi câu gồm bốn chữ, giới thiệu tâm thái và sự từng trải trong hội tập của lăo cư sĩ Hạ Liên Cư. Sau khi kinh này được hoàn thành, bản [sửa chữa lần] thứ mười là bản hoàn thành, “thủ mông Tông Giáo câu triệt chi Huệ Minh lăo pháp sư thủ tŕ hội bổn nhiếp ảnh ư Phật tiền, vị tác chứng minh” (trước hết, được lăo pháp sư Huệ Minh là một vị thông triệt Tông lẫn Giáo, cầm bản hội tập chụp ảnh trước Phật đài để chứng minh). Lăo ḥa thượng Huệ Minh là một vị đại đức trong Phật môn thuở ấy. Trong bản in này không có [bức h́nh ấy]; khi tôi in [cuốn chú giải của cụ Hoàng] lần đầu, phía trước có bức ảnh lăo pháp sư Huệ Minh tay nâng cuốn sách này chụp h́nh trước Phật đài để chứng minh. Bức h́nh này rất dễ t́m, chúng tôi in ra với số lượng khá nhiều. “Luật Tông đại đức Từ Châu lăo pháp sư kế chi, chuyên giảng thử kinh ư Tế Nam, tịnh thân vi khoa phán” (Tiếp đó, bậc đại đức trong Luật Tông là lăo pháp sư Từ Châu chuyên giảng kinh này ở Tế Nam, lại c̣n đích thân viết khoa phán). Khoa phán là phân định kết cấu, đề cương, và những chủ điểm trong một bộ kinh, nay chúng ta nói là phân đoạn, chia thành tầng lớp rơ ràng để giải thích bộ kinh này. Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ có tặng tôi bản khoa phán này của lăo pháp sư Từ Châu, chẳng phải là tặng bản gốc, mà là bản sao chụp, tôi cất giữ tại Úc. Đọc khoa phán, ta thấy: Thuở ấy, pháp sư Từ Châu giảng kinh này tại Tế Nam chẳng phải là giảng bằng bản hiện thời. Bản hiện tại là bản hoàn thiện đă được hiệu đính trong lần tu chỉnh thứ mười, [bản do ngài Từ Châu sử dụng] chính là bản trước của bản hiện tại. V́ sao? Chúng ta xem bản hiện thời, cụ Hạ chia ra chương tiết, nhà Phật gọi là phẩm, [bản hiện thời] có bốn mươi tám phẩm, c̣n bản do pháp sư Từ Châu đă dùng thuở ấy gồm ba mươi bảy phẩm, tức là toàn bộ bản kinh được chia thành ba mươi bảy phẩm. V́ vậy, cũng biết đấy chẳng phải là bản cuối cùng. Tôi dựa theo bản khoa phán của Ngài, lấy nó làm gốc để soạn một bản khoa phán rất tỉ mỉ, bản ấy đă được chỉnh lư hoàn thiện, tức là bản [khoa phán dựa trên bản hội tập kinh Vô Lượng Thọ gồm] bốn mươi tám phẩm. Chúng ta có cuốn Khoa Hội được lưu thông rất rộng. Sau khi tôi viết xong, đă tặng một quyển cho lăo cư sĩ Triệu Phác Sơ. Cụ Triệu trông thấy, hết sức vui vẻ, bảo kinh Vô Lượng Thọ nói chung đă được hoàn thiện. Quư vị thấy: Có bản hội tập, có chú giải của cụ Hoàng Niệm Tổ, tôi có giảng kư, v́ trong quá khứ, tôi đă giảng mười lần. Có giảng kư, lại có khoa phán tỉ mỉ như vậy, cụ nói bộ kinh này điều ǵ cũng đều trọn vẹn, vui vẻ vô hạn!

      Chúng ta đọc tiếp: “Tiên cữu phụ Mai lăo cư sĩ” (người cậu đă khuất của tôi là Mai lăo cư sĩ), tức lăo cư sĩ Mai Quang Hy. Mai lăo cư sĩ là thầy của thầy Lư Bỉnh Nam, chúng tôi gọi cụ là “sư ông”. Cụ Lư Bỉnh Nam học Phật pháp với Mai lăo cư sĩ, có quan hệ thầy tṛ. “Tại trung ương quảng bá điện đài, bá giảng thử kinh, xưng chi vi tối thiện chi bổn” (truyền giảng kinh này trên đài phát thanh Trung Ương, gọi bản này là bản hoàn thiện nhất). So với hai bản hội tập trước kia, bản này là hoàn thiện. Nói cách khác, trong bản này, không t́m được tỳ vết nào. “Hậu phục ư kinh tự trung tán viết” (sau đấy, trong phần lời tựa của kinh này, cụ lại ca ngợi rằng), cụ Mai có viết một bài tựa rất dài để giới thiệu bộ kinh này với đại chúng. Bài tựa này hay vô cùng, trong ấy có những câu như thế này: “Tinh đáng minh xác, tạc nhiên hữu cứ” (tinh yếu, thỏa đáng, rơ ràng, xác thực, rành rành là có căn cứ). “Tinh” là tinh yếu, “đáng” là thỏa đáng, “minh” là minh bạch, “xác” là xác thực. Sau khi quư vị đọc [lời tựa và bản kinh này], từng câu, từng chữ đều khẳng định, quư vị sẽ không nghi hoặc. “Tạc nhiên hữu cứ” là dựa theo năm bản dịch gốc, không hề sửa đổi mảy may, ngay cả tên kinh cũng chẳng sửa đổi. Tựa đề của kinh cũng là hội tập, đến phần sau chúng ta sẽ thấy. “Vô nhất nghĩa bất tại nguyên dịch chi trung, vô nhất cú dật xuất bổn kinh chi ngoại” (không nghĩa nào chẳng có trong bản dịch gốc, không một câu nào vượt ngoài nguyên văn), hai câu này [cho thấy bản hội này] đă sửa trừ khuyết điểm trong hai bản hội tập trước đó, quả thật đă tùy thuận cách dịch, tự ḿnh chẳng dùng ư kiến của chính ḿnh để sửa đổi một chữ nào.

      “Gian sáp trầm hối” (khó khăn, trúc trắc, nặng nề, tối nghĩa), đây là nói về những chỗ trong bản dịch gốc, “gian” () là gian nan, rất khó đọc, “sáp” () là khó hiểu, “trầm” () là quá sâu, “hối” () cũng là không dễ ǵ hiểu rơ, trong các bản dịch gốc có [những khuyết điểm này]. Đây là lư do v́ sao kinh này chẳng được lưu thông rộng răi; đó là v́ khi phiên dịch đă dùng những văn tự như thế, quả thật cụ Hoàng đă miêu tả khá chính xác, “gian sáp trầm hối”. Quư vị đọc các bản dịch gốc sẽ nhận thấy khó hiểu lắm! C̣n bản của cụ Hạ th́ sao? “Sử chi sảng lăng” (khiến cho trôi chảy, rơ ràng), cụ Hạ gạt bỏ những chỗ [gian, sáp, trầm, hối] này! Đây là “thủ, xả” (lấy hay bỏ, tức là chọn phần nào để giữ lại trong bản hội tập, phần nào bỏ đi), là sự chọn lựa, cân nhắc trong khi hội tập. Phàm những chỗ nào khó khăn, tối nghĩa, trúc trắc, cụ không dùng, cụ chọn lấy những chỗ rất sáng sủa, trôi chảy, khiến quư vị đọc sẽ thấy rất thoải mái. Như trong hiện tại, chúng ta đọc bản này, quư vị đọc thấy thoải mái lắm, không cảm thấy kinh văn quá sâu, mà cũng chẳng khó hiểu, ư nghĩa đều rất rơ rệt, không có chỗ nào tối nghĩa. Điều này khó có lắm! “Phiền phức trầm mạn” (rườm rà, trùng lặp, lan man), chúng ta gọi điều này là “cà kê, rườm rà, trùng lặp”, v́ người Ấn Độ thích lặp đi, lặp lại, không như người Hoa, người Hoa chuộng đơn giản, dễ hiểu, c̣n người ngoại quốc chuộng lặp đi, lặp lại. Lặp đi, lặp lại cũng có lợi, v́ sao? Khiến cho quư vị nhớ sâu hơn; do vậy, nó cũng có lợi. Người Hoa từ xưa tới nay đ̣i hỏi “giản yếu tường minh”, tức là ngôn ngữ văn tự đều phải tuân theo nguyên tắc sau đây: Phải đơn giản, nêu lên được ư nghĩa chánh yếu, cốt lơi, lại c̣n rơ ràng, vừa phải dễ hiểu. “Giản yếu tường minh” là vừa chi tiết, vừa rơ ràng, phải hội đủ bốn tiêu chuẩn này. V́ thế, khi đọc những thứ của Trung Quốc có thể đọc nhiều, chứ đọc kinh Phật rất khó. Trong toàn bộ Đại Tạng kinh, những chỗ “gian sáp trầm hối, phiền phức trầm mạn” (khó hiểu, trúc trắc, nặng nề, tối nghĩa, rườm rà, trùng lặp, lan man) được nhắc đến ở đây đúng là rất nhiều! Bản hội tập của cụ Hạ “quy ư giản khiết” ([biến đổi những chỗ nặng nề ấy] trở nên đơn giản, rơ ràng), “Lăng loạn tỷ thành chỉnh nghiêm”, tức là cụ Hạ đă điều chỉnh, rút gọn [những chỗ luộm thuộm, rườm rà]. “Khuyết sơ tất linh viên măn” (khiến cho những chỗ thiếu sót được viên măn): Những chỗ khiếm khuyết, cụ bèn sắp xếp, bổ sung ư nghĩa, khiến cho [độc giả] đọc đến sẽ thấy ư nghĩa viên măn. Công việc này chẳng dễ thực hiện, lăo nhân gia làm suốt mười năm, chẳng phải là hội tập cẩu thả, hời hợt, mà suốt mười năm, mỗi ngày đều nghiên cứu và tu đính.

      “Tất kỳ hữu mỹ giai bị, vô đế bất thâu... Tuy dục bất vị chi thiện bổn, bất khả đắc dă” (Ắt mong cho mọi điều đẹp đẽ đều được hoàn bị, không điều chân thật nào chẳng bao gồm... Dù chẳng muốn bảo là bản văn hoàn thiện cũng không thể được). Đây là lời đại sĩ Mai Quang Hy đánh giá bản hội tập này. Cụ Hạ hội tập quá khéo, quả thật là do năm bản dịch gốc ghép lại; quư vị thấy bản này hay lắm, mà nay c̣n có kẻ hoài nghi, đó là ǵ? Đó là nghiệp chướng, kẻ ấy có chướng ngại, phiền năo, tập khí, chẳng liễu giải bi trí hoằng nguyện của lăo cư sĩ Hạ Liên Cư. Người ta đến thế gian này để làm ǵ? Đến để thị hiện: Tốn thời gian suốt mười năm nơi bộ kinh này, để làm chuyện [hội tập] này, đến để thị hiện. Cụ biết pháp môn này, bộ kinh này, trong thời gian dài đến chín ngàn năm sau như thế, sẽ khiến cho vô số chúng sanh do pháp môn này mà đắc độ. Đây là bản kinh tiêu chuẩn. Cụ v́ chúng ta làm chuyện này, khó có ngần ấy, hy hữu dường ấy, chúng ta đă biết th́ phải tri ân. Có tri ân, quư vị mới biết báo ân. Chúng ta dùng ǵ để báo ân? Y giáo phụng hành, trong một đời này, quyết định văng sanh Tịnh Độ, đến thế giới Cực Lạc gặp cụ Hạ Liên Cư, đó là báo ân cụ đă tiếp dẫn chúng ta.

      “Ư thị, tiên sư hội bổn vấn thế dĩ lai, bất hĩnh nhi tẩu” (do vậy, từ khi bản hội tập của tiên sư ra đời, không chân mà đi khắp chốn), “hĩnh” () là bắp chân (phần từ đầu gối xuống đến bàn chân). Không có chân mà đi được, có nghĩa là được truyền bá rất nhanh. Thật ra, cũng chẳng phải là chuyện đơn giản như thế. Hoàng lăo cư sĩ bảo tôi: “Thầy tôi là cụ Hạ Liên Cư bảo trong tương lai, bản hội tập này sẽ từ hải ngoại truyền vào trong nước”. Trong lúc đó, mọi người bọn họ đều cảm thấy chẳng biết nói sao, làm sao có thể như thế được? Sau này gặp tôi, thật sự là từ hải ngoại truyền vào trong nước! Chúng tôi là người đầu tiên hoằng dương tại hải ngoại, chỉ có hai ba bản đưa về Đài Loan. Thầy tôi là lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam nhận được, đọc lời tựa do thầy ḿnh là cụ Mai Quang Hy viết dài như vậy ở đầu sách, cho nên hết sức nghiêm túc học tập. Do vậy, cụ bắt đầu giảng kinh này tại Đài Trung, giảng bằng bản này, cụ có viết lời mi chú. Khi lăo nhân gia bắt đầu giảng bản này tại Đài Trung, tôi vẫn chưa học Phật; sau này, tôi đă học Phật, tới Đài Trung quen biết cụ, cụ tặng cho tôi bản ấy. Tôi đọc xong, hết sức hoan hỷ, thật đấy! V́ lời chú giải của cụ rất rơ ràng, phân đoạn rất rơ rệt, tôi đă toan giảng kinh này, nhưng cụ bảo thời tiết nhân duyên chưa chín muồi. Nhưng hôm nay đă hết thời gian rồi, chuyện này để đến mai tôi kể tiếp. Khó khăn trùng trùng! Hiện thời chẳng c̣n nữa. Hiện thời, đối với bản này, mọi người chẳng c̣n nghi hoặc nữa, đă được quốc gia khẳng định. Tại Trung Quốc, cục tôn giáo nhà nước đă chấp nhận. Nay chẳng c̣n ai dị nghị nữa, thật sự trở thành bản hoàn chỉnh trong Tịnh Tông. À! Hôm nay học tới đây, cảm ơn mọi người.

Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

Phần 3 hết

 



[1] Một mẫu () Trung Hoa bằng 666.67 mét vuông.

[2]Cấp sáu” nói ở đây chính là dựa theo cách đánh giá theo tiêu chuẩn Richter. Quy định này được Charles Francis Richter và Beto Gutenberg đưa ra vào năm 1935 nhằm đánh giá mức độ chấn động của các trận động đất. Tuy báo chí vẫn viết là “một trận động đất mấy độ Richter”, nhưng thật ra thang đo hiện thời được sử dụng là MMS (moment magnitude scale, thường dịch là Cự Chấn Cấp) căn cứ trên mức năng lượng do một trận địa chấn phóng thích. Nói chung, một trận động đất cấp sáu sẽ phóng thích một năng lượng bằng 15 kilotons, có sức tiêu hủy trong ṿng bán kính 160 km. Cấp tám là rất mạnh, có thể tàn phá hàng trăm km.

[3] San đính (刪訂): Nói gọn của “san cải, tu đính” tức là gạt bỏ những chỗ rườm rà, trùng lặp, sửa những chữ bị chép lầm. San đính khác với “san định” (刪定). Khổng Tử san định Ngũ Kinh của Nho gia chính là hệ thống hóa, gạt bỏ thẳng thừng những phần được coi là không đúng với tư tưởng Nho gia, đồng thời sắp đặt, chỉnh lư, thay đổi kết cấu của cả một bộ kinh; trong khi san đính chỉ nhằm mục đích làm cho một văn bản trở nên mạch lạc, rơ ràng, sửa những chữ sai, lược bỏ những đoạn văn trùng lặp thường thấy trong tiếng Phạn, hay những phần khó hiểu, rườm rà, không ảnh hưởng đến ư nghĩa chánh yếu của cả bản kinh.

[4] Long Tạng là tên gọi tắt của Càn Long Đại Tạng Kinh, c̣n gọi là Càn Long Tạng, hoặc Thanh Tạng, là Đại Tạng Kinh được triều đ́nh Thanh chủ tŕ khắc in. Công tŕnh này được khởi xướng từ năm Ung Chánh 11 (1733), do Ḥa Thạc Thân Vương Doăn Lộc chủ tŕ, Ḥa Thạc Thân Vương Hoằng Trú và Trụ Tŕ chùa Hiền Lương Siêu Thánh phụ tá. Chính thức tiến hành khắc in vào năm Ung Chánh 13 (1735) đến năm Càn Long thứ ba (1738) mới hoàn thành, gồm 79.036 tấm ván in, chia thành 724 ḥm, dùng những chữ trong bài Thiên Tự Văn để đánh số thứ tự (tập một là Thiên, tập hai là Địa, tập ba là Huyền v.v...) gồm 1.669 bộ kinh sách, 7.168 quyển, tŕnh bày giống như bộ Vĩnh Lạc Bắc Tạng (Đại Tạng Kinh đời Minh).

Đại Chánh Tạng gọi đủ là Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taishō Shinshū Daizōkyō), tức là Đại Tạng Kinh Nhật Bản được đề xướng từ năm Đại Chánh 13 (1922). Đại Chánh (Taishō) là niên hiệu của hoàng đế Yoshihito (Gia Nhân thiên hoàng, tức ông nội của Nhật Hoàng Akihito (Minh Nhân Thiên Hoàng) hiện thời). Công tŕnh này do hai ông Cao Nam Thuận Thứ Lang (Takakusu Junjirō) và Độ Biên Hải Húc (Watanabe Umiakira) biên tập, nhóm các ông Tiểu Dă Huyền Diệu (Ono Genmyo) v.v... giảo chánh, ấn hành năm 1934. Sách được chia thành 100 tập, chia thành Chánh Tạng 55 tập, Tục Tạng 33 tập, Biệt Quyển 15 tập (gồm Đồ Họa, Chiêu Ḥa Pháp Bảo Tổng Mục Lục v.v..)

[5] Khuê () c̣n gọi là ngọc khuê, vốn là một vật dụng tượng trưng cho quyền lực vào thời cổ, thường làm bằng ngọc quư, nhất là loại ngọc trắng, tạc thành h́nh thuôn dài, dẹp, trên đầu khắc thành h́nh tam giác, phía dưới cắt thẳng. Quư tộc thường cầm ngọc khuê khi vào chầu vua, dự tiệc, cúng tế, hoặc trong tang lễ. Tùy theo địa vị mà kích thước, chất liệu được quy định chặt chẽ, loại quư nhất là bạch khuê, nên về sau chữ “bạch khuê” được dùng với ư nghĩa “trân quư”.

[6] Ngụy Nguyên (1794-1857) vốn có tên là Ngụy Viễn Đạt, sau đổi thành Ngụy Nguyên, tên tự là Mặc Thâm, hoặc Mặc Sanh, hiệu Lương Đồ, pháp danh là Thừa Quán, người huyện Thiệu Dương, tỉnh Hồ Nam, là bạn thân của Lâm Tắc Từ. Ông ta được coi là một nhà tư tưởng lỗi lạc cuối đời Thanh. Khi ông ta thi Cử Nhân, bài thi đă được vua Đạo Quang rất tán thưởng, nhưng khi vào thi Hội liền bị rớt. Chủ khảo Lưu Phùng Lộc rất nuối tiếc. Măi cho đến năm Đạo Quang 25 (1845), ông ta mới đỗ Tiến Sĩ, đỗ hạng ba mươi chín, làm quan tới chức Tri Châu. Tuổi già, chuyên tâm nghiên cứu Phật giáo, ẩn cư tại Hàng Châu. Ngoài bản hội tập kinh Vô Lượng Thọ ra, ông c̣n có những tác phẩm biên khảo nổi tiếng như Hải Quốc Đồ Chí, Thánh Vũ Kư, Hoàng Triều Kinh Thế Văn Biên. Những trước tác khác của ông được môn sinh biên tập thành Ngụy Nguyên Toàn Tập.

[7] Sau Hàm Phong chỉ c̣n ba đời vua là Đồng Trị, Quang Tự và Phổ Nghi, nhà Thanh bị lật đổ dưới thời vua Phổ Nghi. V́ thế, sống vào thời Hàm Phong là sống vào những năm cuối cùng của nhà Thanh nên mới nói là “văn Thanh”.

[8] “Chưởng quản thiên bàn” là nắm quyền cai quản thiên đ́nh, giáng phước phạt tội, quyết định ai sẽ được cứu. Đây là một quan điểm rất phổ biến của các tà phái, chẳng hạn tà giáo Nhất Quán Đạo của Trung Hoa bịa chuyện lịch sử con người được chia làm ba thời kỳ: Thanh Dương, Hồng Dương và Bạch Dương. Trong mỗi thời kỳ, Minh Minh Lăo Mẫu (Thượng Đế) sẽ cử một người xét đoán tội phước của nhân gian, giáng tai họa, khuyến thiện, cứu vớt những người nào thật sự tin theo Nhất Quán Đạo. Vị đó được gọi là Chưởng Quản Thiên Bàn, cụ thể là ba vị chưởng quản Thiên Bàn cho ba thời kỳ theo thứ tự là Nhiên Đăng Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật và Di Lặc Phật. Theo họ, thế giới đang thuộc vào thời kỳ Bạch Dương và Di Lặc Bồ Tát đă giáng thế, chưởng quản thiên bàn. Quan điểm này cũng có thể thấy rất rơ trong các tà phái Minh Lư, Long Hoa Trai Hội, Minh Sư Đạo v.v...

[9] Phật Thuyết Di Lặc Hạ Sanh Kinh do ngài Trúc Pháp Hộ người xứ Nhục Chi dịch vào đời Tây Tấn, một quyển. Theo kinh này, trong tương lai, cơi đất đẹp đẽ, bằng phẳng, sản vật dồi dào, tại đại thành Sí Đầu, lúc ấy pháp vương Thương Khư xuất hiện, dùng chánh pháp giáo hóa dân chúng. Vua có một vị đại thần tên Tu Đạt Ma, vợ là Phạm Ma Việt, đoan chánh, xinh đẹp như vợ Thiên Đế. Di Lặc Bồ Tát bèn giáng sanh làm con họ, thị hiện thành Phật dưới cội Long Hoa, ba lượt chuyển pháp luân.