Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

淨土大經解演義

Phần 42

Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Huệ Trang và Đức Phong

 

Tập 83

 

      Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang chín mươi hai, ḍng thứ ba.

      “Hựu Như Thị giả, chỉ sở văn chi pháp thể, tức Thật Tướng chi Lư Thể. Thật Tướng diệu lư, cổ kim bất biến, cố viết Như. Như Lư nhi thuyết, cố viết Thị” (Lại nữa, Như Thị chỉ pháp thể của điều được nghe, tức là Lư Thể của Thật Tướng. Diệu lư Thật Tướng xưa nay chẳng thay đổi, nên gọi là Như. Đúng như Lư mà nói nên gọi là Thị). Chúng ta xem đoạn này trước. Vừa mới mở kinh ra [th́ câu đầu tiên] là “như thị ngă văn”. Hai chữ Như Thị là Tín Thành Tựu, trong phần trước chúng ta đă đọc về Tín Thành Tựu. Những ư nghĩa được bao hàm trong hai chữ Như Thị nói về pháp thể của cái được nghe (sở văn), cũng có nghĩa là nói những đạo lư do đức Phật đă nói trong khi giảng kinh và giáo học đă căn cứ vào đâu? Nhất định phải biết điều này. Ngài căn cứ trên những ǵ, Ngài nói những điều ǵ đều được hoàn toàn bao quát trong hai chữ này. Pháp thể là [bản thể của] pháp do đức Phật nói và pháp chúng ta được nghe. Lư Thể là ǵ? Là Lư Thể của Thật Tướng. Nói theo cách bây giờ, Thật Tướng là chân tướng. Nói cách khác, những điều đức Phật đă giảng, những điều chúng ta nghe từ nơi đức Phật đều giảng về chân tướng của vũ trụ và nhân sinh. Chư vị hăy suy nghĩ: Vấn đề này rất trọng yếu, các triết gia và khoa học gia xưa nay, trong ngoài nước đều nghiên cứu vấn đề này, chân tướng của vũ trụ rốt cuộc là ǵ? V́ sao có vũ trụ? V́ sao có vạn vật? Nếu nói sát sao hơn một chút, ta do đâu mà có? V́ sao có ta? Những chân tướng sự thật ấy do đức Phật nói ra, chúng ta cũng do học từ đức Phật mà biết.

      Lúc tôi mới học Phật, chẳng biết Phật pháp rốt ráo là ǵ, nghe người trong xă hội nói sao th́ cũng hùa theo thế ấy. Người ta nói như thế nào? Người ta bảo Phật giáo là tôn giáo, là mê tín, chúng tôi cũng thật sự tin tưởng Phật giáo là tôn giáo, mê tín. V́ thế, trong một thời gian rất dài, chúng tôi chẳng có ư muốn tiếp xúc Phật giáo. Du sơn ngoạn thủy chẳng thể nào không thấy chùa miếu, vào trong ấy ngắm nghía, cũng chẳng có ai giới thiệu [Phật giáo] với chúng tôi. Thấy trong chùa thờ rất nhiều tượng thần; v́ thế, đă tạo cho chúng tôi một quan niệm sai lạc: Phật giáo là tôn giáo, là đa thần giáo, là phiếm thần giáo! Trong tôn giáo học, đa thần giáo và phiếm thần giáo là tôn giáo cấp thấp; tôn giáo cao cấp chỉ có một vị chân thần. Điều ấy tạo thành sai lầm nghiêm trọng đối với những kẻ b́nh phàm chẳng thông hiểu Phật pháp. Nếu cả đời này, tôi chẳng gặp giáo sư Phương Đông Mỹ, sẽ chẳng thể tiến nhập Phật môn. Tôi theo học Triết Học với thầy Phương, thầy chỉ bảo tôi, giảng cho tôi nghe một bộ Triết Học Khái Yếu, phần cuối cùng là triết học trong kinh Phật. Thầy bảo tôi: “Thích Ca Mâu Ni Phật là một triết gia vĩ đại nhất thế giới, kinh Phật là đỉnh cao nhất trong triết học toàn thế giới, học Phật là hưởng thụ cao nhất trong cuộc đời”. Chúng tôi học Phật năm mươi chín năm, phát hiện triết học trong kinh Phật không chỉ là triết học, mà c̣n là khoa học, và cũng là đỉnh cao nhất trong khoa học toàn thế giới. Học Phật không chỉ là hưởng thụ tối cao, mà c̣n là phước báo tối cao trong cuộc đời! Người có phước mới có thể tiếp xúc [Phật pháp], chẳng được tiếp xúc là thiếu phước! [Phật giáo] chẳng phải là tôn giáo. Tôi mới hiểu rơ ràng, minh bạch, tiếp nhận sự giáo dục của Phật Đà là phước báo lớn bậc nhất trong đời người. Đức Phật giảng về chân tướng của vũ trụ và nhân sinh, Thật Tướng của các pháp.

      “Thật Tướng diệu lư, cổ kim bất biến, cố viết Như” (diệu lư Thật Tướng xưa nay chẳng thay đổi nên gọi là Như). Đấy là một hạng mục nghiên cứu chủ yếu trong triết học và khoa học, măi cho đến hiện tại, có thể nói là khoa học hiện đại và kinh Phật đă trở nên rất gần gũi. Khoa học Lượng Tử nghiên cứu về thế giới vi mô. Khoa học phát triển theo hai phương hướng:

- Một là thế giới vĩ mô (macrocosm), tức vũ trụ. Những điều được giảng trong phẩm Thế Giới Hoa Tạng và Thế Giới Thành Tựu của kinh Hoa Nghiêm chính là thế giới vĩ mô.

- [Hai là] thế giới vi mô (microcosm), chính là ba tế tướng của A Lại Da như đức Phật đă giảng, nói đến khởi nguyên của vũ trụ.

Trong hiện thời, Lượng Tử Lực học rất tuyệt vời, cũng nói đến A Lại Da khiến cho chúng tôi thật sự bội phục năm vóc sát đất. Nói tới chân tướng vũ trụ th́ khởi nguyên của vật chất cũng là khởi nguyên của vũ trụ, vũ trụ do vật chất hợp thành, vật chất do đâu mà có? Các nhà Lượng Tử Lực học bảo chúng ta: “Vật chất là từ Không sanh ra Có”. Trong Không v́ sao có thể sanh ra Có? Họ không thể nói được, chỉ phát hiện những thứ từ trong Không sanh ra Có; lại c̣n xuất hiện với tốc độ vô cùng nhanh trong thời gian tột bực ngắn ngủi, tạm bợ, gần như vừa hiện ra bèn lập tức tiêu diệt, hiện tượng thứ hai lại xuất hiện. Do vậy, rốt cuộc vật chất là ǵ? Vật chất là một thứ hiện tượng tích lũy liên tục của ư niệm (trong Lượng Tử Lực Học nói tới  “thông tin”, đó cũng là ư niệm); nói nghiêm ngặt, vật chất chẳng tồn tại! Trong giáo pháp Đại Thừa, đức Phật thường bảo: “Phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”, tướng ấy là hiện tượng vật chất, mà cũng bao gồm cả hiện tượng tinh thần, đều là hư vọng. Kinh Kim Cang dạy: “Hết thảy các pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”, có hay không? Chẳng thể nói chúng không có, mà cũng chẳng thể nói là chúng thật sự có. V́ sao? Hiện tượng ấy ở ngay trước mặt, “đương thể tức không, liễu bất khả đắc” (bản thể chính là Không, trọn chẳng thể được), chân tướng đấy! Hiện tượng này rất khó hiểu, chẳng ngờ hiện thời Lượng Tử học đă phát hiện! Các nhà Lượng Tử Lực Học bảo chúng ta: Trong vũ trụ chỉ có ba thứ, trừ ba thứ ấy ra, quả thật thứ ǵ cũng đều không có. Ba thứ do họ phát hiện chính là ba tế tướng của A Lại Da; họ nói trong vũ trụ có năng lượng, vật chất, và thông tin, thông tin là hiện tượng tinh thần. Đây là một môn khoa học mới nổi lên[1], tôi tin tưởng ba năm nữa, tối đa là năm năm, mọi người trên cả thế giới sẽ thừa nhận, khẳng định học thuyết này, đây là một phát hiện chưa lâu!

Họ nói tới năng lượng, trên thực tế [năng lượng] là nghiệp tướng của A Lại Da trong Phật pháp. Nghiệp tướng là hiện tượng dao động hết sức vi tế, chúng ta không có cách nào cảm nhận hiện tượng dao động ấy, [v́ nó] vô cùng vi tế. Theo kinh Phật, ai mới có thể phát hiện, có thể thấy hiện tượng ấy? Kinh dạy chúng ta: Bát Địa Bồ Tát; quư vị nghĩ xem, công phu định lực ấy sâu lắm. Nếu chúng ta suy tính, dựa theo kinh Hoa Nghiêm để nói, luận theo thứ tự công phu định lực th́ trong các địa vị thuộc hàng Thập Tín Bồ Tát, địa vị Sơ Tín mới tu thành tiểu định. Những đẳng cấp trong Phật pháp là nói theo tŕnh độ công phu định lực sâu hay cạn, chứ không phải nói về điều ǵ khác, quư vị không có Định sẽ chẳng được. Nếu muốn đắc Định, quư vị nhất định phải tŕ giới, “do Giới đắc Định, do Định khai Huệ”. Khai Huệ là ǵ? Trong Định, quư vị sẽ thấy. Địa vị Thập Tín là mười đẳng cấp đầu tiên, công phu định lực từ [cấp bậc] thứ nhất, thứ nh́ cho đến thứ mười. Trong kinh, đức Phật thường nói Tứ Thiền Bát Định, đó là tám cấp bậc. Tám cấp bậc ấy là Thiền Định thế gian, chưa thoát khỏi lục đạo nên gọi là Thiền Định thế gian. Đến môn Định thứ chín mới gọi là xuất thế gian, [địa vị] thứ chín, thứ mười trong [Thập Tín là xuất thế gian]; đó là các địa vị thuộc Thập Tín như trong kinh Hoa Nghiêm đă nói, nhưng địa vị thứ mười vẫn chưa ra khỏi mười pháp giới. Đến tầng bậc mười một (Sơ Trụ) mới vượt thoát mười pháp giới. Sau khi vượt thoát mười pháp giới, c̣n có bốn mươi mốt đẳng cấp. Quư vị thấy [các đẳng cấp ấy là] Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa; Bát Địa trong Thập Địa, tức Bát Địa Bồ Tát mới thấy được A Lại Da, quư vị nghĩ xem: Công phu định lực ấy sâu lắm! A La Hán và hàng Bồ Tát thông thường vẫn chưa thấy được, từ Bát Địa trở lên mới thấy. Nói cách khác, có thể thấy được nguyên khởi và đầu mối của vũ trụ là Bát Địa, Cửu Địa, Thập Địa, Thập Nhất Địa (Đẳng Giác), và Diệu Giác, năm địa vị tối cao. Công phu định lực ấy từ sơ cấp măi cho đến địa vị tối cao, thành Phật, là năm mươi hai đẳng cấp, năm đẳng cấp cao nhất mới có thể thấy [A Lại Da], những cấp thấp hơn đều chẳng thấy. Công phu định lực vi tế rất sâu như vậy, cho nên họ có thể cảm nhận những dao dộng cực kỳ vi tế.

V́ thế, diệu lư Thật Tướng do đức Phật đă giảng là do chính Ngài đích thân thấy. Các nhà khoa học dùng Toán Học, Toán Học là mẹ của khoa học, họ t́m được căn cứ lư luận từ Toán Học, sau đấy lại dùng phương pháp khoa học để chứng minh, đắc lực nhờ dùng các dụng cụ khoa học để quan sát, chứng minh, có thể phát hiện A Lại Da, chẳng đơn giản! Trong kinh Đại Thừa, đức Phật đă từng giảng chuyện này, thức thứ sáu, tức Ư Thức, nay chúng ta gọi nó là “tư tưởng”. Thức thứ sáu tức Ư Thức là phân biệt; năng lực của tư tưởng quá lớn, đối với bên ngoài, nó có thể tưởng toàn thể vũ trụ, tức là thế giới vĩ mô, đối với bên trong, nó có thể duyên tới A Lại Da, đấy là nói về thế giới vi mô; dùng thức thứ sáu tức Ư Thức, nó có tác dụng lớn như thế. Sử dụng thức thứ sáu (Ư Thức), có thể duyên tới A Lại Da, quư vị hăy nghĩ xem, cho đến hiện thời khoa học mới phát hiện [A Lại Da], nhưng trong kinh Phật đă nói tới [chuyện ấy], giống như đă tiên đoán vậy! Trước khi khoa học phát triển, hoàn toàn cậy vào công phu định lực. Công phu định lực chưa đạt tới tŕnh độ Bát Địa, quư vị sẽ chẳng thấy. Trong ba tế tướng, nghiệp tướng là năng lượng, cảnh giới tướng là vật chất, chuyển tướng là thông tin. Kinh Hoa Nghiêm bảo chúng ta: Toàn thể vũ trụ là “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”, năng hiện, năng sanh là tự tánh. “Tự tánh thanh tịnh viên minh thể” như trong sách Hoàn Nguyên Quán đă nói chính là Lư Thể của Thật Tướng đang được nói tới ở đây, nó là “tự tánh thanh tịnh viên minh thể”. Thể ấy chẳng phải là vật chất, mà cũng chẳng phải là tinh thần, nhưng nó có thể sanh ra vật chất và tinh thần, nó có thể sanh, có thể hiện. Sau khi những hiện tượng ấy được hiện ra, chúng bèn thiên biến vạn hóa, biến thành y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới, biến như thế nào? Ư niệm biến, thức biến, “thức” là A Lại Da, Mạt Na, và Ư Thức, nó biến hóa, nó có thể biến. Nhưng nếu không có năng hiện năng sanh, nó sẽ chẳng thể biến; v́ vậy, nhất định phải có sở hiện sở sanh th́ nó mới có thể biến. Sự biến hóa ấy là thiên biến vạn hóa, điều này được sách Hoàn Nguyên Quán diễn tả là “xuất sanh vô tận”. Năng lượng chính là loại thứ nhất trong ba thứ “châu biến” (trọn khắp) [được nhắc tới] trong Hoàn Nguyên Quán, “châu biến pháp giới” (trọn khắp pháp giới), năng lượng của ư niệm, năng lượng của hiện tượng vật chất [đều trọn khắp pháp giới].

Vật chất chẳng chết cứng, bất luận vật chất nào cũng do các hạt cơ bản [hợp thành], nói “tế bào” hăy c̣n quá lớn, phân tử của tế bào [cũng hăy c̣n quá lớn], [phân tử do các] hạt cơ bản [hợp thành]. Hiện thời, các nhà vật lư học Lượng Tử nói vật chất cơ bản vẫn c̣n có thể chia nhỏ, lại tách ra thành lượng tử (quantum), lượng tử gọi là tiểu quang tử (photon), chẳng c̣n ǵ nhỏ hơn thứ này; nhưng trong đó có hiện tượng vật chất mà quư vị có thể thấy được, [nó cũng] có hiện tượng tinh thần, “hiện tượng tinh thần” là nói về Thọ, Tưởng, Hành, Thức, nó có cảm thụ. Chúng ta đối xử với nó bằng thiện ư, chúng sẽ phản ứng tốt đẹp; đối đăi bằng ác niệm, nó sẽ phản ứng chẳng tốt đẹp. T́nh h́nh này giống như tiến sĩ Giang Bổn Thắng đă làm thí nghiệm đối với nước. V́ vậy, chúng ta mới biết những điều kinh Phật đă nói, trước kia chúng ta chẳng có cách nào tưởng tượng được, cũng rất khó tin tưởng. Quư vị nói núi, sông, đại địa hiểu được ư nghĩ của con người ư? Hiểu chứ! Hoa, cỏ, cây cối hiểu được ư nghĩ của con người th́ chúng ta c̣n có thể tưởng tượng được, v́ sao? Chúng là sinh vật, chứ núi, sông, đại địa là khoáng vật mà cũng hiểu được ư nghĩ của con người ư? Thật sự hiểu! Nước là khoáng vật. Ông Giang Bổn Thắng làm thí nghiệm mười hai năm, đă nhiều lần báo cáo tại Liên Hiệp Quốc, đúng vậy, chẳng giả chút nào! Tôi sang Nhật Bản, đặc biệt đến thăm pḥng thí nghiệm của ông ta, tôi đến đấy đôi ba lần, chẳng giả tí nào! Chứng tỏ điều ǵ? Chứng tỏ vật chất, chẳng phải là sinh vật, nay chúng ta gọi chúng là “vô sanh”, [nghĩa là] chẳng phải là sinh vật, chúng có thể thấy, nghe, hiểu ư nghĩa của con người. Chuyện này nói rơ điều ǵ? Phật pháp nói toàn thể vũ trụ là một thể hữu cơ sống động, chẳng phải là chết cứng. Do vậy, con người sống trên địa cầu, địa cầu là [một vật thể] sống, quư vị chớ nên có lỗi đối với nó! Nay chúng ta ở trên địa cầu, mặc sức phá hoại hoàn cảnh tự nhiên, địa cầu tức giận, nổi nóng, nay chúng ta nói là “thiên tai xảy ra”. Thật ra, chẳng phải là thiên tai, mà là địa cầu nổi giận, chúng ta có lỗi với nó, mặc sức phá hoại nó, cho nên nó báo thù: Động đất, lũ lụt, núi lửa bùng nổ, sóng thần, nhiệt độ địa cầu tăng lên, [địa cầu đang] nổi giận đấy!

Chúng ta hiểu đạo lư này, tức là hiểu rơ diệu lư Thật Tướng, có thể hóa giải những tai nạn ấy hay không? Có thể! Những nhà tôn giáo thông thường dùng phương pháp ǵ? Họ dùng cách cầu đảo. Những pháp hội kinh sám Phật sự trong Phật môn chúng ta, kể cả Tam Thời Hệ Niệm như chúng tôi đề xướng, đều thuộc loại cầu đảo. Cầu đảo bằng cách nào? Thiện niệm của tập thể, rất nhiều người nhóm lại, những ư niệm do chúng ta phát khởi đều là thuần thiện. Thiện niệm có thể giảm nhẹ tai nạn, có thể khiến cho [tai nạn] chậm xảy ra, chứ không thể tiêu diệt; bởi lẽ, đó là trị đằng ngọn, chẳng trị tận gốc. Cách vài ngày quư vị chẳng cầu đảo, tai nạn lại hiện tiền. Trị tận gốc bằng phương pháp nào? Giáo dục trị tận gốc. Trong giáo dục, kinh điển là sách giáo khoa, [kinh Phật] là sách giáo khoa của Thích Ca Mâu Ni Phật, dạy bảo chúng ta, chúng ta hiểu rơ: Khởi tâm động niệm nhất định phải tương ứng với Tánh Đức. Nói theo cách bây giờ, Tánh Đức tương ứng với pháp tắc của thiên nhiên, tùy thuận thiên nhiên th́ mưa ḥa, gió thuận, tai nạn ǵ cũng đều không có. Nếu chẳng tùy thuận thiên nhiên, phiền phức sẽ xảy ra, tai nạn ǵ cũng đều xảy ra. Quy tắc của thiên nhiên đúng mực là ǵ? Trước khi Phật giáo truyền sang Trung Quốc, tổ tiên cũng phát hiện; v́ thế, tôi nói tổ tiên là Phật, Bồ Tát hóa thân, đúng vậy, chẳng giả, họ nói giống như Phật. Tổ tiên dạy chúng ta Ngũ Luân, Ngũ Thường, Tứ Duy, Bát Đức, đức Phật cũng giảng những điều ấy. Ngũ Luân là nói về quan hệ, ta và hết thảy mọi người có quan hệ ǵ? Ta và hết thảy động vật có quan hệ ǵ? Với hết thảy thực vật có quan hệ ǵ? Với núi, sông, đại địa có quan hệ ǵ? Với toàn thể vũ trụ có quan hệ ǵ? Đấy là luân lư, nói về các mối quan hệ. Giảng quan hệ thấu triệt và viên măn nhất là nền giáo dục của đức Phật! Quan hệ ǵ vậy? Nhất thể. Phát hiện toàn thể vũ trụ là một sanh mạng, có chung một Thể, hết thảy chúng sanh và ta là nhất thể. Nếu quư vị hiểu rơ ràng mối quan hệ ấy, chấp nhận nó, quư vị sẽ yêu thương con người, chẳng hại người, hại người là hại chính ḿnh. Người trong thế gian dẫu đáng ghét đến mấy đi nữa vẫn là chính ḿnh, chẳng phải là người ngoài, quư vị có thể chỉ trích kẻ ấy hay chăng? Quư vị có thể gây tổn hại cho người ấy hay chăng? Chẳng thể, mà phải là như thế nào? Phải dạy dỗ kẻ ấy, giúp cho kẻ ấy quay đầu. Tổ tiên nói con người tánh vốn lành: “Nhân chi sơ, tánh bổn thiện” (con người ban đầu tánh vốn lành). Không chỉ con người tánh vốn lành, mà như kinh Phật có nói: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai”, “hết thảy chúng sanh” bao gồm cây cối, hoa cỏ, bao gồm núi, sông, đại địa, bao gồm các hiện tượng thiên nhiên; trong bất luận hiện tượng nào cũng đều có trí huệ, đức năng, tướng hảo, nhất thể mà!

      Quan niệm giáo học của đức Phật và quan niệm giáo học của cổ thánh tiên hiền Trung Quốc hoàn toàn tương đồng, đúng như ngạn ngữ đă nói: “Anh hùng sở kiến, đại lược tương đồng” (Anh hùng nói chung có cách nh́n giống nhau). Thích Ca Mâu Ni Phật chưa hề gặp gỡ các vị tổ tiên của Trung Quốc như Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Vơ, Châu Công, v́ sao có cách nghĩ giống nhau, phương pháp giáo học giống nhau? V́ sao vậy? Phật pháp nói “minh tâm kiến tánh”, chỉ cần quư vị kiến tánh, sẽ hoàn toàn tương đồng, t́m được diệu lư Thật Tướng, xưa nay chẳng thay đổi, vĩnh hằng! Nay nói đến “chân lư” th́ quư vị đă t́m được chân lư, chứng thực chân lư, cho nên khởi tâm động niệm thuần tịnh, thuần thiện, đấy là Phật, Bồ Tát. Cổ nhân Trung Quốc nói tới Ngũ Luân chỉ bàn về con người, nói đến mức cao nhất là “phàm thị nhân, giai tu ái” (hễ là người th́ đều phải yêu thương), chẳng bao gồm những loại khác. Phật pháp truyền tới Trung Quốc, chúng ta vừa nh́n bèn thấy Phật pháp giảng tỉ mỉ hơn. Phật pháp nói: Không chỉ là người khác và ta là nhất thể, mà hết thảy động vật và ta là nhất thể, hết thảy thực vật và ta là nhất thể, núi, sông, đại địa và ta là nhất thể, mở rộng quan hệ luân lư ấy. Ông Thang Ân Tỷ (A. J. Toynbee) đă nói ông ta hết sức bội phục người Trung Quốc có tâm lượng lớn, do lượng lớn nên phước lớn, có thể tiếp nhận văn hóa của dị tộc. Phật giáo là văn hóa dị tộc, từ Ấn Độ truyền đến, là ngoại lai, chẳng phải là thứ có sẵn tại Trung Quốc, mà vẫn có thể tiếp nhận; nhưng Phật pháp đă thật sự làm phong phú văn hóa bản địa của Trung Quốc. [Văn hóa] bản địa Trung Quốc chỉ nói Ngũ Luân, chỉ luận định trong phạm vi ấy. Phật pháp truyền đến, chúng ta vừa nh́n vào đă thấy mối quan hệ ấy (Ngũ Luân) được mở rộng, bao quát cả vũ trụ, hiện tượng tự nhiên cũng được bao gồm, Phật pháp đă nâng cao những thứ [vốn có của] Trung Quốc, có đạo lư ấy! V́ thế, trong hai ngàn năm qua, tại Trung Quốc, Phật pháp và văn hóa Trung Quốc đă hoàn toàn dung hợp thành một thể, chẳng tách rời. Nếu tách rời Phật pháp ra, văn hóa Trung Quốc sẽ biến thành hết sức hữu hạn. Thuở sanh thời, cụ Triệu Phác Sơ thường nói một câu: “Nếu chúng ta chẳng cần đến văn hóa Phật giáo th́ người Trung Quốc ngay cả nói năng cũng chẳng nói được!” Nghĩa là ǵ? Trong cuộc sống hằng ngày, trong ngôn ngữ có rất nhiều thành ngữ phát xuất từ kinh Phật, đă biến thành thói quen, mở miệng hay ngậm miệng luôn dùng những thuật ngữ trong kinh Phật. Câu nói ấy rất có lư!

      Đây là một môn đại học vấn, tiên sinh Phương Đông Mỹ giới thiệu: “Đây là đỉnh cao nhất trong triết học của toàn bộ thế giới triết học”; nay chúng ta nh́n lại th́ cũng là đỉnh cao nhất trong khoa học toàn thế giới. Hiện thời, khoa học và triết học c̣n có rất nhiều vấn đề chưa được giải quyết, [nhưng lời giải đáp cho những vấn đề ấy] hoàn toàn ở trong kinh Phật. Kinh Phật có thể giải thích những vấn đề vũ trụ, mà chẳng thể giải quyết những tệ trạng nẩy sanh trên quả địa cầu nhỏ nhoi này ư? Đâu có lẽ ấy! C̣n như những hiện tượng rối ren trong xă hội, đúng là dễ dàng, đáng gọi là “lông gà, vỏ tỏi” (vụn vặt), đáng kể chi đâu? Quư vị thật sự hiểu, sẽ biết cách giải quyết như thế nào, lại c̣n [giải quyết] trong một thời gian rất ngắn, dễ dàng! Ngày nay, nếu mọi người đều nghiên cứu Phật pháp Đại Thừa, sẽ như tiến sĩ Thang Ân Tỷ đă nói “dùng học thuyết Khổng Mạnh của Trung Quốc và Đại Thừa Phật pháp” [để giải quyết những vấn đề trong xă hội], phải tốn thời gian bao lâu để thế giới này khôi phục an định, ḥa b́nh? Theo cách nghĩ và cách nh́n của tôi, tối đa là một năm, người trên thế giới sẽ hưởng phước. Cách làm ra sao? Thật sự có năm sáu chục giáo viên đă nghiên cứu Đại Thừa Phật pháp và học thuyết Khổng Mạnh; không chỉ là đă nghiên cứu mà c̣n thật sự làm theo, áp dụng những điều đă học vào cuộc sống, vào công việc, áp dụng vào đăi người, tiếp vật. Nói theo Phật pháp, người ấy có tín, có giải, có hạnh, có chứng, tự ḿnh đă đạt tới giai đoạn có thể dạy người, lợi dụng khoa học kỹ thuật cao, truyền h́nh vệ tinh, mạng Internet, trong xă hội có một băng tần tốt đẹp dường ấy, dạy học chẳng gián đoạn suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ, [làm như vậy suốt] một năm, toàn thể thế giới đều nẩy sanh những sự biến hóa, biến thành tốt đẹp!

      Tôi tin tưởng, dựa vào đâu mà tin tưởng? Cậy vào thí nghiệm đă làm trong ba năm tại Thang Tŕ trong quá khứ. Chúng tôi dùng một tiểu trấn, cư dân trong tiểu trấn ấy là bốn vạn tám ngàn người, chúng tôi thực hiện Đệ Tử Quy để xem thử có làm được suông sẻ hay không? Thực hiện thí nghiệm nhỏ nhặt ấy, chúng tôi dùng một món trong ba cội gốc của Nho, Thích, Đạo để thí nghiệm. Không ngờ, chưa đầy bốn tháng, tiểu trấn ấy đă dấy lên sự biến hóa rất lớn, khiến cho người ta được mở rộng tầm mắt. Chúng ta cảm nhận được, chứng tỏ câu nói của cổ thánh tiên hiền: “Nhân chi sơ, tánh bổn thiện”, khiến cho chúng ta đích thân tận mắt thấy nhân dân dễ dạy dường ấy! Chỉ dạy một thứ trong ba cội rễ của văn hóa truyền thống mà hiệu quả đă to ngần ấy. Nếu cả ba cội rễ đều dạy, hiệu quả sẽ to hơn nhiều! Khi ấy, các giáo viên dạy học của chúng tôi gồm ba mươi bảy người; v́ vậy, tôi nghĩ, nếu quốc gia có thể bồi dưỡng năm sáu chục giáo viên như vậy, họ thật sự thực hiện, [tức là đối với] ba món căn bản [của Nho, Đạo, Thích] đều làm được, hằng ngày dạy trên đài truyền h́nh, chính ḿnh có nơi chốn thực nghiệm, quư vị đến đó xem, đích thân đến đó học tập, trong một năm, xă hội an định, thiên hạ đại trị!

Qua nhiều năm học tập, tôi đă nh́n thấy, hiểu rơ, chúng tôi chẳng đủ điều kiện, muốn t́m một nơi để thực nghiệm, nhưng t́m chẳng ra. Cuộc thực nghiệm tại Trang Tŕ đă làm suốt ba năm, rất khó có, đến cuối cùng vẫn phải giải tán; nhưng hiện thời tại Cát Long Ba (Kuala Lumpur) của Mă Lai, họ tiếp tục thực hiện, hiện thời đă bồi dưỡng huấn luyện đến lần thứ ba. Nếu thực hiện thành công, sẽ ảnh hưởng cả thế giới, quư vị thật sự nêu gương, sau đấy, để cho những giáo viên đó lên đài truyền h́nh quốc gia giảng giải, đề xướng giáo dục toàn dân trong cả xă hội. Chánh phủ Mă Lai rất muốn làm theo kiểu ấy, tôi tin họ sẽ có thể thực hiện thành công. Con người có thiện hạnh, thiện hạnh có nguyện lực chẳng thể nghĩ bàn, trong tôn giáo thường nói là “được chư thần phù hộ”, sẽ có thể làm chuyện ấy viên măn, làm thành công!

      V́ chân lư vĩnh hằng không thay đổi, nên gọi là Như, đúng lư mà nói, những điều Ngài nói hoàn toàn tương ứng với đạo lư ấy, chẳng hề trái nghịch, nên gọi là Thị. Đấy là ư nghĩa chân thật của hai chữ Như Thị. Đó là cách giải thích thông thường, v́ câu đầu tiên trong tất cả các kinh Phật là “như thị ngă văn”, cách nói ấy thích hợp tất cả các kinh điển. Tiếp theo đó, [cụ Hoàng viết] “kim y bổn kinh” (nay xét theo kinh này), chúng ta giảng hai chữ Như Thị trong kinh này như thế nào? “Ngẫu Ích đại sư viết” (Ngẫu Ích đại sư nói), Ngẫu Ích đại sư là người cuối đời Minh đầu đời Thanh, Ngài sanh vào năm cuối thời Vạn Lịch nhà Minh, viên tịch vào đời Thanh, là tổ sư đời thứ chín của Tịnh Độ Tông, đời thứ tám là Liên Tŕ đại sư. Qua trước thuật của Ngài (Ngẫu Ích đại sư), chúng ta thấy thuở trẻ Ngài vô cùng bội phục Liên Tŕ đại sư, hết sức tôn kính, mong học theo Liên Tŕ đại sư. Liên Tŕ đại sư đă văng sanh, nhưng những trước tác của Liên Tŕ đại sư vẫn c̣n đó; nay chúng ta thấy Liên Tŕ Đại Sư Toàn Tập, bộ sách này hăy c̣n, tổ Ngẫu Ích bèn học theo bộ sách ấy, nương theo trước tác của Liên Tŕ đại sư để học tập, làm học tṛ của Liên Tŕ đại sư. Giống như Mạnh Tử ở Trung Quốc vào thời cổ, Mạnh Tử ngưỡng mộ Khổng Tử, muốn học theo Khổng Tử, Khổng Tử đă khuất bóng, nhưng trước tác của Khổng Tử hăy c̣n, Ngài bèn tự học tập theo trước tác của Khổng Tử, chỗ nào không hiểu bèn hỏi học tṛ của Khổng Tử. Ngài thật sự học thành công, đó gọi là “tư thục đệ tử”. Ngài học vô cùng giỏi. Quư vị thấy Trung Quốc nói “Khổng Mạnh”, có thể thấy được thành tích học tập của Ngài. Chúng ta biết trong các đệ tử của Khổng Tử có Tăng Tử (Tăng Sâm). Quư vị đọc Luận ngữ, thấy nhiều chỗ đề “Tăng Tử nói”, [những chỗ do Khổng Tử nói, sẽ ghi là] “tử thuyết”. Những học tṛ của Khổng Tử thuở ấy đều thua Mạnh Tử, tư thục đệ tử cũng có thể vượt trỗi những học tṛ do đích thân Khổng Tử giảng dạy, xuất loại bạt tụy. Ngày nay, [hễ nói đến Nho giáo, người ta] nói Khổng Mạnh, chẳng nói Khổng Tăng, chẳng nói Khổng Hữu[2]. [Mạnh Tử] đă thành công! Ngẫu Ích đại sư là tư thục đệ tử của Liên Tŕ đại sư, trong Phật môn, quả thật thành tựu của Ngài cũng vượt trỗi những học tṛ do chính Liên Tŕ đại sư dạy bảo thuở ấy, [trong số các môn đệ của tổ Liên Tŕ], chẳng có ai sánh bằng ngài Ngẫu Ích.

      Do vậy, nh́n từ những trường hợp ấy, đúng là “sư phụ lănh tấn môn, tu hành tại cá nhân” (thầy dẫn tṛ nhập môn, tu hành do cá nhân). Có thành tựu hay không, chẳng liên quan đến thầy cho lắm, mà vấn đề ở chỗ quư vị khéo học, tức là quư vị biết học. Câu thường xuyên được nói trong Tông Môn là “hội ma?” (hiểu không?) Câu ấy có ư nghĩa rất sâu! Thật sự biết học, không chỉ học giống như Khổng Tử, mà có khi c̣n vượt trội, học tṛ giỏi hơn thầy! Cổ nhân đă nói: “Thanh xuất ư lam, nhi thắng ư lam” (màu xanh phát xuất từ màu chàm mà trỗi hơn màu chàm), đấy là học tṛ vượt trội thầy, do biết học. Chẳng biết học th́ thầy dạy bảo quư vị hằng ngày, quư vị vẫn chẳng thể thành tựu! Do vậy, chữ Hội (hiểu) này có quan hệ khá lớn! Thế nào mới là Hội? Thật sự hiểu th́ nói thật ra sáu chữ đă gồm trọn: “Thật thà, nghe lời, thật sự hành”, người ấy là người biết học. Quư vị phải biến những thứ đă học thành cuộc sống của chính ḿnh, chẳng hạn như Ngũ Luân giảng về quan hệ, quư vị hiểu rơ, biết tôn ty trên dưới, đối với bậc trưởng thượng phải tôn kính, đối với kẻ dưới phải yêu thương, phải làm được [như thế]. Làm những ǵ? Mười hai chữ! Tất cả đức hạnh, Ngũ Luân, Tứ Duy, Bát Đức của Trung Quốc được gom chung lại thành mười hai chữ “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm sỉ, nhân ái, ḥa b́nh”. Mười hai chữ ấy được hoàn toàn biểu hiện trong cuộc sống, công việc, xử sự, đăi người, tiếp vật, tức là quư vị đă hiểu. Quư vị học theo thánh sẽ là thánh nhân, học theo hiền sẽ là hiền nhân, trọn chẳng kém cổ thánh tiên hiền, mà cũng có thể là quư vị sẽ vượt trỗi họ. Quư vị học Phật, có thể thành Phật; học Bồ Tát, có thể thành Bồ Tát. Chư vị phải biết “Phật, Bồ Tát” là thuật ngữ trong Phật môn, nghĩa là ǵ? Phật là tiếng Ấn Độ, dịch sang nghĩa tiếng Hán là “giác ngộ”. Phật nghĩa là ǵ? Phật là người giác ngộ, giác chứ không mê, người ấy được gọi là Phật, có ư nghĩa hoàn toàn tương đồng với chữ Thánh của Trung Quốc. Thánh () là người hiểu rơ, thông đạt, thấu suốt hết thảy sự lư, người ấy được gọi là “thánh nhân”. V́ thế, Phật và thánh rất gần gũi. Thuở ấy, v́ sao dịch kinh chẳng dùng chữ Thánh để dịch chữ Phật, mà vẫn giữ nguyên âm gốc? Phật bao hàm những ư nghĩa rộng và sâu hơn thánh, tại Trung Quốc chẳng t́m được chữ nào thích hợp; v́ thế, dịch âm, rồi giải thích thêm. V́ Phật được dịch là Giác, th́ trong Giác lại có ba thứ giác, có tự giác, giác tha và giác hạnh viên măn, chẳng t́m được [chữ nào tương ứng với] những ư nghĩa ấy tại Trung Quốc. Trong chữ Phật có ư nghĩa trí huệ, nhưng cũng chẳng có cách nào dùng chữ “trí huệ” để dịch [chữ Phật], v́ trí huệ của Phật có ba loại: Nhất Thiết Trí, Đạo Chủng Trí, và Nhất Thiết Chủng Trí, chữ “trí huệ” của Trung Quốc chẳng có những ư nghĩa ấy. V́ thế, chữ Phật hàm nghĩa sâu rộng hơn chữ Thánh, nhưng ư nghĩa rất gần gũi. Quư vị hiểu ư nghĩa ấy, nó là danh xưng của học vị trong Phật môn.

      Trong kinh, đức Phật đă nói rất hay: “Hết thảy chúng sanh vốn là Phật”, hiện thời quư vị có phải là Phật hay không? Phải! Trong mắt Phật, đúng là như vậy! Quư vị phản đối Phật là phản đối chính ḿnh, phản đối điều ǵ nơi chính ḿnh? Phản đối sự giác ngộ của chính ḿnh. Nói cách khác, quư vị chẳng muốn giác ngộ, chẳng phải là đă biến thành kẻ hồ đồ ư? Quư vị có mong làm một kẻ hồ đồ hay chăng? Hay là mong làm một người có trí huệ? Phật là người có trí huệ; quư vị vốn là Phật, v́ sao chẳng thể giác ngộ, mà bị mê hoặc? V́ như đức Phật đă giảng: Quư vị mê mất tự tánh, sau khi đă mê bèn nẩy sanh tự tư tự lợi. Tự tư tự lợi mở rộng ra nhất định sẽ là [đuổi theo] tiếng tăm, lợi dưỡng, khởi tâm động niệm tổn người lợi ḿnh, đấy là sai lầm. Quư vị vốn khởi tâm động niệm là vô ngă, lợi ích chúng sanh, nay quư vị đang mê. Quư vị phải biết vô ngă, khởi tâm động niệm lợi ích chúng sanh, hết thảy hành vi cũng nhằm lợi ích chúng sanh, đó chính là “bổn lai diện mục” (diện mạo vốn có) của quư vị. Tại Trung Quốc, Mao Chủ Tịch có nói: “Toàn tâm toàn ư v́ nhân dân phục vụ”, [người làm được như vậy] là Phật. Phản đối Phật là phản đối “toàn tâm toàn lực v́ nhân dân phục vụ”, chẳng phải là có ư nghĩa như thế hay sao? Do vậy, quư vị phải hiểu thấu suốt, rơ ràng th́ mới được. Nếu không, sẽ là lời đùa bỡn. Phật là ǵ? Chẳng biết, ngỡ Phật là thần, oan uổng lớn tầy trời! Ngỡ Bồ Tát là thần, có hỏng bét hay là không? Trong Phật giáo chẳng có thần, trong tôn giáo mới có thần, Phật giáo chẳng phải là tôn giáo. Trong Phật giáo chỉ có hai thứ quan hệ: Một là thầy, hai là tṛ. Bồ Tát là học tṛ, A La Hán là học tṛ, chúng ta cũng là học tṛ. Bồ Tát và A La Hán đă đạt được quả vị, giống như đi học trong nhà trường, người nào đạt được học vị Thạc Sĩ th́ là Bồ Tát; đạt được học vị Học Sĩ th́ là A La Hán. Chúng ta học trong nhà trường chưa đạt được học vị; nói cách khác, chúng ta học Tiểu Học, học Trung Học, phải học Đại Học mới có học vị. [Phật, Bồ Tát, La Hán] là những danh xưng học vị. Học vị tối cao là Phật Đà tương đương học vị Tiến Sĩ, mỗi cá nhân đều có thể đạt được, ai nấy đều có thể thành Phật, giống như Trung Quốc nói “ai cũng đều có thể thành thánh nhân”, có ư nghĩa như vậy đó! Học Phật, chẳng có mảy may mê tín. Hết sức đáng tiếc, hiện thời khá nhiều đệ tử Phật môn, bất luận xuất gia hay tại gia, chẳng thể hiểu rơ hay nói rơ về Phật pháp, điều này thật đáng tiếc! Nếu tôi không gặp ba vị thầy tốt đẹp là thầy Phương, Chương Gia đại sư và lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam, chắc chắn là chúng tôi mê tín, nhất định chẳng chịu nhập Phật môn, v́ sao? Chẳng biết ǵ về Phật môn! Gặp được ba vị ấy giảng giải rơ ràng, minh bạch Phật pháp, chúng tôi mới thật sự phát tâm, thật sự t́nh nguyện học tập nền giáo dục của đức Phật, biết đây là một môn đại học vấn. Đức Phật dạy những điều ǵ? Nếu nói theo cách bây giờ, chẳng ngoài năm hạng mục sau đây: Đức Phật dạy chúng ta luân lư, đạo đức, nhân quả, triết học, và khoa học, năm môn công khóa đều đạt đến tột đỉnh, đạt đến rốt ráo viên măn. Những thứ tốt đẹp dường ấy, đă gặp gỡ mà không chịu sốt sắng học tập, quư vị nói có phải là đáng tiếc lắm hay chăng? Nghiêm túc học tập, chẳng phí uổng sanh trong nhân gian lần này, lần này đến đây có ư nghĩa, có giá trị. Cổ nhân Trung Quốc nói: “Triêu văn đạo, tịch tử khả hỹ” (Sáng nghe đạo, tối chết cũng được). Học Phật, nhất là học tập Đại Thừa, đối với câu nói này rất bội phục, v́ sao? Trong Phật pháp, tất cả toàn bộ những vấn đề của bản thân chúng ta đều được giải quyết, thân tâm tự tại, đúng như thầy Phương đă nói, là sự hưởng thụ cao nhất trong đời người, tôi c̣n thay đổi câu ấy thành: “Phước báo khôn sánh, phước báo lớn nhất trong đời người!”

      Ngẫu Ích đại sư nói: “Y Thật Tướng lư, niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, quyết định vô phi, viết Thị” (nương theo lư Thật Tướng, niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, quyết định chẳng sai, đó là Thị), Ngẫu Ích đại sư nói câu này hoàn toàn quy về pháp môn Tịnh Độ.“Y Thật Tướng lư niệm Phật”, câu này khẩn yếu, mấu chốt ở ngay trong câu này. Nay chúng ta niệm Phật, chẳng phải là nương theo lư Thật Tướng. V́ sao chúng ta niệm Phật chẳng thể thành tựu, chuốc lấy sự chán ghét của người khác, [họ nghĩ] quư vị đang làm chuyện mê tín? Không thể trách người khác, bản thân chúng ta nương theo tập khí phiền năo niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, làm sao có thể văng sanh cho được? Không thể được! Quư vị niệm Phật nhằm mục đích nào? Quư vị hăy suy xét, tuyệt đại đa số là v́ thăng quan, v́ phát tài, nên cầu Phật, Bồ Tát phù hộ, chẳng phải là cầu sanh Tịnh Độ. Động cơ (motivation) niệm Phật của kẻ ấy chẳng thanh tịnh, mục đích niệm Phật của người ấy trái ngược với phương hướng mà Phật pháp đă giảng, làm sao có thể có thành tựu cho được? Phật, Bồ Tát không thể nào phù hộ quư vị thăng quan, phát tài, chẳng có lẽ ấy! Vậy là quư vị đi t́m thần thánh [để cầu xin]; thật ra, thần thánh cũng chẳng thể thật sự phù hộ quư vị, lừa gạt quư vị đó thôi! Quư vị nghe lừa, chẳng nghe lời khuyên, chẳng có cách nào hết! Nhưng quư vị mong thăng quan, phát tài, Phật thật sự có thể giúp đỡ, v́ sao? Quư vị muốn được quả báo ấy, quả ắt có nhân, đức Phật biết nhân, có thể giảng đạo lư ấy rơ ràng, giảng rơ phương pháp, quư vị nương theo lư luận và phương pháp ấy để hành, quả báo có thể hiện tiền, điều ấy được gọi là “Phật thị môn trung, hữu cầu tất ứng” (trong cửa nhà Phật, có cầu ắt ứng). Thật đấy! Cầu phước báo, đắc phước báo, cầu thông minh, trí huệ, được thông minh, trí huệ, cầu trường thọ được trường thọ, cầu con cái được con cái, đúng là “hữu cầu tất ứng”. Năm xưa, Chương Gia đại sư dạy tôi đạo lư này, Ngài nói rất rơ ràng: “Anh hăy học tập đúng lư, đúng pháp, vẫn do chính anh tu nhân đắc quả báo”. Đức Phật chỉ có thể chỉ dẫn quư vị trên phương diện lư luận và phương pháp, vẫn phải do chính quư vị làm. Nếu bản thân quư vị không làm, sẽ chẳng đạt được! Bởi lẽ, “ông tu ông đắc, bà tu bà đắc, chẳng tu chẳng đắc”. Đức Phật nói như thế, chẳng phải là mê tín. Mục đích của người niệm Phật là muốn cầu sanh về thế giới Cực Lạc, quư vị nhất định nương theo lư Thật Tướng. Lư Thật Tướng là ǵ? Ba điều kiện trong pháp môn Tịnh Tông, tức Tín, Nguyện, Hạnh. Chúng ta thấy người tu Tịnh Độ có mấy kẻ thật sự trọn đủ ba điều kiện ấy? Mỗi cá nhân đều nói “tôi tin tưởng, tôi phát nguyện”, thật ra, quư vị chú tâm phản tỉnh, [sẽ thấy] ḷng tin của quư vị chẳng phải là chân tín. Quư vị tiếp xúc tiếng tăm, lợi dưỡng của thế gian, vẫn c̣n bị động tâm, tham luyến, [tức là] tín chẳng thật, nguyện cũng chẳng thật, chẳng phải là “chân tín, thiết nguyện” (tin chân thành, nguyện thiết tha). Do vậy, quư vị niệm Phật nhiều năm mà chẳng có cảm ứng ǵ, đến cuối cùng bèn chẳng tin tưởng. Vấn đề này chẳng phải do Thích Ca Mâu Ni Phật, mà cũng chẳng do kinh điển, mà do công phu của chính chúng ta không đủ, bản thân chúng ta hiểu lầm kinh điển, chẳng lư giải chính xác, hiểu biết nửa vời, tu mù, luyện đui, vẫn khiến cho chư Phật và kinh điển bị oan uổng, quư vị nói xem tội lỗi ấy có nặng lắm hay chăng?

      Trong phần sau, cụ Hoàng Niệm Tổ có giải thích ba câu nói ấy của đại sư, chúng ta xem lời giải thích của cụ Hoàng. “Cái Thật Tướng diệu lư, chỉ thị đương tiền nhất niệm tâm chi tự tánh” (bởi diệu lư Thật Tướng chỉ là tự tánh của một niệm tâm hiện tiền), câu này giảng rất hay! Tự tánh của nhất niệm chẳng dễ hiểu, chúng ta cùng nhau học tập một thời gian dài, nghe câu nói ấy sẽ chẳng thấy khó hiểu, v́ sao? Kinh Hoa Nghiêm đă giảng rơ ràng nhất niệm tâm là ǵ? Là như sách Hoàn Nguyên Quán đă nói “tự tánh thanh tịnh viên minh thể”, đấy là nhất niệm tâm. Dùng tâm ấy để niệm Phật, quả báo sẽ rất thù thắng; đấy chính là như trong Tịnh Tông đă nói: “Nhất niệm tương ứng nhất niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”, chẳng giả tí nào. Quư vị và Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật liên kết, thật sự thông suốt. Quay trở lại suy nghĩ, nay chúng ta đang dùng tâm ǵ? Dùng tâm vọng tưởng, tâm tạp loạn, cái tâm ấy quá nhiều ư niệm. Nhất niệm là định, chẳng có tạp niệm nào, tức là như Đại Thế Chí Bồ Tát đă yêu cầu “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”, trong câu này, Đại Thế Chí Bồ Tát nói tám chữ, há có lẽ nào chẳng thành tựu! “Nhiếp trọn sáu căn” là buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống; đấy gọi là “nhiếp trọn sáu căn”. “Tịnh niệm tiếp nối” là ư niệm thanh tịnh, tịnh niệm là ǵ? Chẳng hoài nghi, chẳng xen tạp là tịnh, đấy là nhất niệm tâm. Rời khỏi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước là tự tánh, trong tự tánh không có những thứ ấy. “Tương kế” là chẳng gián đoạn, niệm niệm chẳng gián đoạn. Đấy là “như thị ngă văn”.

      “Phi sanh, phi diệt, vô khứ, vô lai, trạm nhiên thường trụ, cố danh viết Như” (chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng đi, chẳng đến, lặng trong, thường trụ, nên gọi là Như), mấy câu này do cụ Niệm Tổ nói. Tâm này chẳng phải là tâm sanh diệt, chẳng có đến, đi, là nhất niệm ngay trong hiện tại. “Trạm nhiên thường trụ”, thường trụ là chân tâm, “trụ” là định, Niệm Phật tam-muội. Niệm niệm đều là một câu A Di Đà Phật, niệm niệm là tâm thanh tịnh, niệm niệm chẳng có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, quư vị tương ứng với Như.

“Y thử tâm tánh niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ. Năng niệm thị Thật Tướng tâm (thị chân tâm), sở niệm thị Thật Tướng Phật, sở sanh thị Thật Tướng độ, hàm vị Thật Tướng chánh ấn chi sở ấn. Cố đại sư viết, quyết định vô phi, viết Thị” (Nương theo tâm tánh ấy niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ. Chủ thể để niệm là cái tâm Thật Tướng (tức là chân tâm), đối tượng được niệm là Thật Tướng Phật, cơi được sanh về cơi Thật Tướng, đều được chánh ấn Thật Tướng in vào. V́ thế, đại sư nói: “Quyết định chẳng sai là Thị”). Mấu chốt trong mấy câu này là tâm Thật Tướng. Tâm Thật Tướng là chân tâm, năng niệm là chân tâm, sở niệm là chân Phật. Phật do đâu mà có? Phật do tâm quư vị hiện, duy tâm sở hiện. Trong phần khai thị của Hệ Niệm Phật Sự, thiền sư Trung Phong đă giảng về A Di Đà Phật, hai câu ấy rất trọng yếu, hoàn toàn giống như lời giảng ở đây: “A Di Đà Phật tức thị ngă tâm” (A Di Đà Phật chính là tâm ta), tâm ta là A Di Đà Phật. Năng niệm là tâm Thật Tướng, chân tâm, A Di Đà Phật do tâm quư vị hiện, duy tâm sở hiện, quư vị thấy trong mối quan hệ luân lư, nó có cùng một Thể với quư vị. “Độ” (cơi nước) là ǵ? Thế giới Cực Lạc! Thiền sư Trung Phong nói: “Thử phương tức Tịnh Độ, Tịnh Độ tức thử phương” (Phương này chính là Tịnh Độ, Tịnh Độ chính là phương này). Thế giới Cực Lạc ở nơi đâu? Ở ngay nơi đây. Quư vị là chân tâm sẽ thấy thế giới này là Tịnh Độ; quư vị có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, sẽ thấy thế giới này là uế độ, cảnh chuyển theo tâm mà!

      Chân tướng sự thật này được các nhà khoa học Lượng Tử hiện thời phát hiện, họ bảo cho chúng ta biết, chúng ta đối với địa cầu sanh khởi tín tâm khôn sánh, chúng ta có thể cứu vớt địa cầu. Cứu vớt bằng cách nào? Quư vị chuyển biến tâm thái, địa cầu sẽ chuyển biến. Hiện thời trên địa cầu có lắm bệnh tật như thế là do tâm thái của chúng ta không b́nh thường, trái nghịch Tánh Đức. Cũng là như người Trung Quốc đă nói, người Trung Quốc gọi Tánh Đức là “hiếu, đễ, trung, tín”, quư vị bất hiếu, bất đễ, bất trung, bất tín, chẳng có lễ, nghĩa, liêm, sỉ, vô lễ, vô nghĩa, vô liêm, vô sỉ, nhân ái ḥa b́nh cũng không có, cho nên địa cầu nẩy sanh vấn đề. Nếu chúng ta đổi lại, mười hai chữ ấy thảy đều làm được, trên địa cầu này sẽ chẳng có tai nạn ǵ; thật đấy, chẳng giả tí nào! Thân thể chúng ta có bệnh, quư vị thấy thầy lang Bành Hâm nói bệnh do đâu mà có? Quư vị trái nghịch nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, bất nhân, bất nghĩa, vô lễ, vô tín, cho nên ngũ tạng, lục phủ có bệnh. Nếu quư vị giác ngộ, buông xuống những thứ trái nghịch tự tánh, nâng cao Tánh Đức, tức là Ngũ Thường, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, quư vị thật sự có thể làm được, những tế bào bị bệnh bên trong [thân thể] sẽ khôi phục b́nh thường rất nhanh chóng, khôi phục b́nh thường là khỏe mạnh. Có cần dùng đến thuốc men hay không? Không cần! Chính ḿnh có thể tự điều trị. Chuyện này là thật, chẳng phải giả. Quư vị thấy hiện thời có nhiều người bị ung thư, bệnh viện bó tay, hết cách, tuyên bố người bệnh chỉ có thể sống tối đa ba tháng, nhưng người ấy gặp văn hóa truyền thống, hiểu đạo lư này, điều chỉnh tâm thái, sau ba tháng bèn lành bệnh, kiểm tra lại chẳng c̣n nữa, kỳ tích phát sanh! Chẳng kỳ quái một tí nào! Kỳ tích ở chỗ nào! Là đạo lư ǵ? Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng, tâm tưởng thuần chánh, sẽ khỏe mạnh, trường thọ, tất cả tật bệnh sẽ khôi phục b́nh thường, chẳng phải là mê tín!

      Cổ nhân bảo chúng ta như vậy, mà trong kinh điển, đức Phật cũng dạy chúng ta như vậy, rất khó có, chúng ta rất cảm kích. Cận đại, các khoa học gia ngành Lượng Tử cũng nói như vậy. Điểm mấu chốt là quư vị có thể tin tưởng hay không? “Tín vi đạo nguyên, công đức mẫu” (Tin là nguồn đạo, mẹ công đức), mấu chốt ở chữ Tín này. Chân tín, chẳng hoài nghi một tí nào, sẽ khôi phục, các tế bào bị bệnh sẽ khôi phục b́nh thường. V́ sao? Do hết thảy các pháp sanh từ ư niệm. Các nhà khoa học Lượng Tử cho biết tế bào là vật chất, tế bào khỏe mạnh là vật chất, virus cũng là vật chất, chẳng phải là thứ ǵ khác. Vật chất nghe theo ai? Nghe theo ư niệm. V́ thế, ư niệm của chúng ta cải tà quy chánh, toàn bộ những tế bào trong ấy sẽ khôi phục b́nh thường. Thuần tịnh, thuần thiện, quư vị là thân Kim Cang bất hoại, Phật có thể chứng đắc, mà chúng ta cũng có thể chứng đắc. Thứ ǵ là cội nguồn của tật bệnh? Tham, sân, si, c̣n thêm ngạo mạn, [trở thành bốn thứ là] tham, sân, si, mạn, đấy là [cội nguồn] của tất cả hết thảy bệnh tật, chuyển biến tế bào khỏe mạnh thành tế bào bệnh tật là do bốn thứ ấy. V́ thế, đức Phật dạy chúng ta: “Siêng tu Giới, Định, Huệ, dứt diệt tham, sân, si”, đối với chính ḿnh mà nói, sẽ khỏe mạnh, trường thọ, hạnh phúc, vui sướng, quư vị thật sự có thể làm được, gia đ́nh quư vị mỹ măn, sự nghiệp thuận lợi; sống ở nơi nào, quư vị có thể cảm hóa nơi ấy, nơi ấy ḥa hài, chẳng gặp tai nạn. Thật sự làm được, chẳng phải là làm không được! V́ thế, phải dùng chân tâm. Tâm Thật Tướng là Thật Tướng Phật, là tự tánh Di Đà; thế giới Cực Lạc là Thật Tướng độ, duy tâm Tịnh Độ, “đều được chánh ấn Thật Tướng in vào”, câu này là tỷ dụ. Từ thời cổ, người Hoa dùng ấn chương để thể hiện sự tín nhiệm; con dấu biểu thị chữ Tín. [Ở đây], con dấu ấy là Thật Tướng chánh ấn. Không có ǵ chẳng phải là Thật Tướng, nó hoàn toàn tương ứng với Thật Tướng, hoàn toàn tương ứng. V́ thế, Ngẫu Ích đại sư nói “quyết định không sai là Thị”. Chúng ta học Như Thị đến đây.

      Tiếp đến là nói về Ngă Văn. “Ngă văn giả, Văn Thành Tựu” (Ngă Văn là Văn Thành Tựu), tức là Văn Thành Tựu trong sáu món thành tựu. “A Nan kết tập pháp tạng thời tự ngôn, như thị pháp môn, ngă tùng Phật văn” (khi ngài A Nan kết tập pháp tạng tự nói: “Pháp môn như thế tôi nghe từ đức Phật”). Đây là nói rơ, Ngài lên ṭa phức giảng (複講: nhắc lại lời giảng, trùng tuyên), chẳng phải do chính Ngài nói, mà do nghe đức Phật đă nói như vậy. “Ngă” là chính ḿnh, “Văn” là tôi đích thân nghe, bảo đại chúng như vậy ḥng chứng tín. Trong hết thảy các việc học tập và tu hành thuộc Phật pháp, điều này vô cùng trọng yếu. Theo lịch sử Trung Quốc ghi chép về Phật pháp, Thích Ca Mâu Ni Phật nhập diệt, cũng là đă qua đời, cho đến nay là ba ngàn lẻ ba mươi bảy năm, lịch sử Trung Quốc ghi chép như vậy. Ngài nhập diệt năm thứ năm mươi ba đời Châu Mục Vương, tính từ khi đó cho đến nay là ba ngàn lẻ ba mươi bảy năm. Đương nhiên người ngoại quốc cũng có căn cứ, họ nói năm nay là năm thứ hai ngàn năm trăm năm mươi bốn [kể từ khi đức Phật nhập diệt]. Trung Quốc và ngoại quốc ghi chép gần như sai lệch sáu trăm năm, chúng ta chớ nên bận tâm đến điều này, đừng nên phân biệt, chấp trước. Nói chung, tối thiểu Thích Ca Mâu Ni Phật cách chúng ta hai ngàn năm trăm năm trở lên theo cách ghi chép của người Trung Quốc. Trong quá khứ, những vị đại đức trong Phật môn Trung Quốc, kể cả lăo ḥa thượng Hư Vân, và những vị đại đức thời đầu Dân Quốc, đều dùng [cách ghi Phật lịch] theo niên đại của Trung Quốc, tức là ba ngàn lẻ ba mươi bảy năm, đều dùng lối này. Thời gian lâu dài như thế, những vị đại đức hoằng pháp và hộ pháp trải các đời, đặc biệt là những vị hoằng pháp, giảng kinh, giáo học, họ bồi dưỡng, học tập thành công như thế nào? Toàn là học theo kiểu của ngài A Nan, phải biết điều này, tức là đều do giảng tiểu ṭa mà thành công.

      Tôi đến Hương Cảng giảng kinh Lăng Nghiêm lần đầu, suốt bốn tháng, lần đầu tiên, tôi ở đó bốn tháng, vào năm 1977, hơn ba mươi năm trước đây, nhằm lúc pháp sư Diễn Bồi ở nơi đấy, tôi và Ngài đă quen biết tại Đài Loan. Các Ngài có một chiếc xe bus đi ngoạn cảnh Hương Cảng, mời tôi đi cùng, chúng tôi ngồi cùng một chỗ. Ngài nhắc tới các pháp sư hoằng pháp, nói tới Phật học viện, vô cùng cảm khái bảo: “Phật học viện không đào tạo nổi nhân tài!” Vào lúc ấy, c̣n có những vị đại đức giảng kinh, thảy đều xuất thân từ giảng tiểu ṭa, Ngài chỉ tôi: “Kể cả ông nữa!” Đúng vậy! Chúng tôi là giảng tiểu ṭa, là phức giảng. Phức giảng do ngài A Nan khởi đầu, ngài A Nan lên ṭa giảng kinh, hoàn toàn là phức giảng lời dạy của Thích Ca Mâu Ni Phật, chẳng thể thêm vào đó một tí ư kiến nào của chính ḿnh. Cổ nhân giáo học rất nghiêm ngặt, chính ḿnh có ngộ xứ, quư vị chẳng thể giảng [những ǵ thuộc về ngộ xứ ấy], mà vẫn phải giảng theo lời thầy, v́ sao? Huấn luyện định lực và sự khiêm hư cho quư vị, cũng là quyết định không thêm một chữ nào vào lời giảng của thầy. Đấy là ǵ? Thật thà, nghe lời! Tới khi nào mới có thể nêu tỏ ư nghĩa của chính ḿnh? Khi chính ḿnh đă có ngộ xứ, khai ngộ. Trước khi chính ḿnh khai ngộ, quyết định tuân thủ lời thầy dạy; trước kia, nghiêm ngặt như thế đó. Do vậy, đời nào cũng xuất hiện cao tăng, cao nhân, phương pháp ấy hay lắm! Nhưng trong hiện thời, dân chủ cởi mở, tự do, sẽ không thể hạn chế. Do vậy, ít người xuất hiện trong đời này, chẳng bằng quá khứ. V́ sao? Chẳng nghiêm ngặt như vậy. Nghiêm ngặt th́ có lợi ở chỗ nào? Trong ấy, có Tam Học Giới - Định - Huệ. Hiện tại, quư vị có thể tự do phô diễn ư tưởng, chính ḿnh sưu tập tài liệu, chứ Giới - Định - Huệ chẳng có. Không có Giới - Định - Huệ, sẽ biến thành ǵ? Biến thành Phật học, biến thành học thuật, khác hẳn trước kia: Hoàn toàn từ Giới - Định - Huệ bồi dưỡng Tánh Đức của quư vị. Muốn thật sự phục hưng Phật giáo, vẫn phải dùng phương pháp cũ; không dùng đến biện pháp cũ, sẽ bồi dưỡng thành học giả, chuyên gia, giống như trong đại học hiện thời bồi dưỡng những tiến sĩ, đức hạnh thua sút rất xa. Đức hạnh là ǵ? Thật thà, nghe lời, thật sự tu tập, họ chẳng có những đức hạnh ấy. Ngài A Nan nêu gương đầu tiên, mấy ngàn năm qua đă bồi dưỡng pháp sư giảng kinh bằng phương pháp này. Bồi dưỡng theo cách nào? Pháp sư thăng ṭa giảng kinh, trong một giảng đường có hai điều kiện để tuyển chọn, tức là hai điều kiện [bắt buộc] đối với người học kinh để làm pháp sư giảng kinh: Thứ nhất là có trí nhớ tốt, nghe xong một lần sẽ chẳng quên mất; thứ hai là có sức lư giải mạnh mẽ. Đấy là hai nguyên nhân cơ bản, không có hai điều kiện này, quư vị chẳng có cách nào học giảng kinh; không có cách nào học giảng kinh th́ cùng nhau học tập để tương lai làm hộ pháp. Chùa miếu là một ngôi trường, người giảng kinh là giáo viên, người chẳng giảng kinh làm chức viên (người có chức trách), lo liệu các chuyện hành chánh hằng ngày. Trong nhà trường có hai loại người là giáo viên và chức viên. V́ thế, giáo viên nhất định phải hội đủ hai điều kiện này!

      Bất luận là giáo viên hay chức viên, đức hạnh cơ bản giống như nhau, chúng tôi gọi những đức hạnh cơ bản ấy là bốn “căn cội”, tức là Đệ Tử Quy, Cảm Ứng Thiên, Thập Thiện Nghiệp, lại c̣n có giới luật, phải tŕ giới; đấy là khoa mục chung phổ biến. Mấy người học giảng kinh được thầy chọn ra, ngồi ở hàng đầu tiên, đối diện thầy, họ ngồi ngay hàng thứ nhất. Hàng thứ nhất phải đảm nhiệm phức giảng. Nghe thầy giảng buổi này xong, ngày mai quư vị phải nhắc lại lời thầy giảng hôm trước một lần, không thêm vào ư nghĩa của chính ḿnh. Thầy giảng như thế nào, quư vị bèn giảng như thế đó. Thầy giảng trật, quư vị cũng giảng trật, cũng chẳng cần phải sửa cho đúng, hoàn toàn chiếu theo thầy, cổ nhân dùng phương cách này. Trong quá khứ, chúng tôi học giảng kinh tại Đài Trung theo phương pháp ấy. Thầy Lư giảng kinh một lần cho chúng tôi nghe, chúng tôi ghi nhớ, ngày mai chúng tôi phải giảng lại cho thầy nghe, hoàn toàn giống hệt, chẳng thể thêm thắt, có thiếu cũng chẳng sao, đă quên th́ có thể chẳng giảng, nhưng chẳng được thêm vào! Thuở ấy, tôi theo thầy, chiếm được một chút tiện nghi, tôi có trí nhớ tốt, có đủ hai điều kiện này, sức lư giải và trí nhớ rất tốt. Tôi nghe một lượt, nói chung trong ṿng một tuần, do trí nhớ mạnh mẽ, tôi có thể nhớ được chín mươi lăm phần trăm, tôi có năng lực ấy. V́ thế, tôi được thầy để mắt tới. Nếu không có năng lực ấy, quư vị chẳng có cách nào học được! Mức độ thấp nhất là quư vị có thể nhớ được bảy mươi phần trăm th́ mới có điều kiện học giảng kinh. Nếu chưa đạt được bảy mươi phần trăm, chẳng có cách nào học tập! Khi đó không có máy ghi âm, đúng là phải cậy vào trí nhớ tốt; v́ thế, khá khó khăn! Tôi theo thầy Lư mười năm, học năm bộ kinh, quyết định tuân thủ quy củ làm môn hạ của thầy. Chúng tôi luyện tập giảng kinh tại Đài Trung Liên Xă, c̣n một nơi nữa là chùa Linh Sơn, bọn học tṛ chúng tôi luyện tập giảng kinh ở hai nơi ấy. Phức giảng, quyết định nghiêm ngặt tuân thủ quy củ. Tôi sang Hương Cảng giảng kinh Lăng Nghiêm, tôi học bộ kinh lớn ấy từ thầy Lư, Ngài giảng ba năm, tôi cũng giảng ba năm, phức giảng. Đă phức giảng kinh ấy một lượt, trong tâm nắm vững, người Hương Cảng mời, tôi liền nhận lời; nhưng giảng kinh ở Hương Cảng, tôi có thể phát huy, cũng tham khảo chú giải các vị cổ đại đức; đấy là Khế Cơ, căn cơ Hương Cảng và Đài Loan khác nhau! V́ thế, trong học tập và chính ḿnh vận dụng cũng khác nhau, học tập là cơ sở, nhất định phải chiếu theo quy củ, theo nề nếp, chớ nên sai lầm th́ căn cội của quư vị mới được vun bồi sâu xa. [Học giảng kinh theo lối phức giảng] huấn luyện nhẫn nhục, chính ḿnh có kiến giải ǵ muốn giảng, nhất định phải nhẫn, [thầy] chẳng chấp thuận, [chẳng phải là thầy hẹp ḥi, không cho quư vị phát biểu ư kiến, mà nhằm] bồi dưỡng công phu định lực và ḷng khiêm hư cho quư vị. Sợ nhất là ngạo mạn, nếu một người có mảy may ngạo mạn th́ xong rồi, giống như trong Luận Ngữ có nói, phu tử đă nêu tỷ dụ: “Như hữu Châu Công chi tài chi mỹ, sử kiêu thả lận, kỳ dư tắc bất túc quán dă” (Dẫu có tài hay khéo như Châu Công, nhưng nếu vừa kiêu ngạo lại vừa keo kiệt th́ những điều [tốt đẹp] khác chẳng đáng để xét tới nữa). Quư vị muốn đạt được học vấn ấy th́ điều ấy kỵ nhất, mảy may ngạo mạn sẽ hủy sạch toàn bộ. Do vậy, quư vị áp chế điều ǵ? Giằn ép tập khí ngạo mạn. Đối với chuyện bồi dưỡng thế hệ kế tiếp, cổ thánh tiên hiền dụng tâm vất vả; do vậy, có thể biết là chẳng dễ dàng, thật sự quan tâm quư vị, thật sự bồi dưỡng quư vị.

      Con người hiện thời thiếu phước, nếu dùng chuyện này bó buộc họ, họ sẽ cảm thấy tự do bị xâm phạm, chẳng phục, xong luôn. Do vậy, thầy có thể dạy hay không? Chẳng thể dạy! Chúng tôi ở Đài Trung gồm hơn hai mươi học tṛ theo thầy, trong số đó, chúng tôi biết, có ba bốn người thầy hoàn toàn nghe theo họ, chính họ thích như thế nào, thầy bèn chiều theo như thế ấy, chẳng hề chỉ trích. Đối với những ai thật sự nghe lời, thầy rất nghiêm khắc, có đánh, có chửi! Chúng tôi cũng thấy sao mà thầy đối xử đặc biệt tốt với những đồng học khác, luôn cười hề hề? Tuy chúng tôi không nói ra, nhưng thầy nh́n ra thái độ của chúng tôi, t́m tôi, cho biết v́ sao thầy đối xử tốt đẹp đối với những người ấy như thế? Họ không chịu học, chẳng nghe lời. Kẻ chẳng nghe lời, không chịu học, quư vị chỉ trích hắn, hắn chẳng tiếp nhận, c̣n oán hận, cớ ǵ phải kết oán với kẻ khác? Quư vị chịu học, tôi bèn dạy; quư vị không chịu học, được thôi! Tùy ư, dự thính! Chúng tôi mới liễu giải dụng tâm của thầy Lư! Đấy là chỗ chúng ta phải học tập, quyết định chớ nên đắc tội với người khác, điều ấy quan trọng lắm! Chịu học là chuyện của hắn, không chịu học cũng là chuyện của hắn, cần ǵ miễn cưỡng? Trường học thời cổ có thể miễn cưỡng, v́ sao? Cả xă hội đều yêu cầu như vậy. Xă hội hiện thời là tự do, cởi mở, xă hội chẳng đ̣i hỏi, chúng ta phải tùy thuận thói đời, phải tùy thuận tâm t́nh thế gian, chớ nên không biết điều này! Sau khi quư vị hiểu rơ, cuộc sống, xử sự, đăi người, tiếp vật của quư vị sẽ sống động, hoạt bát, chẳng khô khan tí nào, thiện nhân ưa thích quư vị, mà kẻ bất thiện cũng ưa thích quư vị. Đó gọi là học Phật, đúng là “Bồ Tát sở tại chi xứ, linh nhất thiết chúng sanh sanh hoan hỷ tâm” (Bồ Tát ở chỗ nào đều làm cho hết thảy chúng sanh sanh tâm hoan hỷ), thật đấy! Học Phật mà c̣n có chấp trước, oán hận, lầm lẫn quá đỗi, quư vị học Phật bằng cách nào? Đức Phật dạy quư vị đoạn phiền năo, tăng trưởng Bồ Đề. Chúng ta thấy ngài A Nan kết tập pháp tạng, “như thị pháp môn, ngă tùng Phật văn” (pháp môn như thế, ta nghe từ đức Phật), nhất định phải có ư nghĩa thâm mật trong ấy. Chúng ta đă học tập th́ hăy vận dụng ngay trong cuộc sống.

      Lại đọc đoạn tiếp theo: “Thánh nhân vô ngă, nhi A Nan nhưng tự xưng vi Ngă giả, bất hoại giả danh cố” (Thánh nhân vô ngă, nhưng A Nan vẫn tự xưng là Ta, v́ chẳng hoại giả danh). Thánh nhân tu hành đến tŕnh độ nào mới là thánh nhân? Vừa nhập môn, Tu Đà Hoàn, trong Đại Thừa th́ như kinh Hoa Nghiêm đă nói, địa vị Sơ Tín Bồ Tát trong Thập Tín bèn vô ngă, là thánh nhân, chúng ta thường gọi họ là Tiểu Thánh, họ thật sự là thánh nhân. V́ sao? Đă đạt được vô ngă. Tiểu thánh phá tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc trong tam giới. Trong khi dạy học, đức Phật đă quy nạp chúng thành năm loại lớn cho thuận tiện. Tám mươi tám [phẩm Kiến Hoặc] quá nhiều, quá rườm rà, nên chia thành năm loại lớn. Thứ nhất là Thân Kiến, Tiểu Thừa Sơ Quả chẳng c̣n chấp trước thân là ngă, họ biết thân chẳng phải là ngă, nên sẽ không chấp trước thân là ngă. Thân là ǵ? Thân là ngă sở hữu (cái ta có), giống như quần áo. Quần áo chẳng phải là ngă, mà là ngă sở hữu. Thân chẳng phải ngă, mà là ngă sở hữu, thấy thân giống như y phục, cho nên gọi là Tiểu Thánh. Người b́nh thường sẽ không được, phàm nhân nhất định chấp trước thân là ngă. Ngă là ǵ? Linh tánh là ngă, chẳng phải là linh hồn; nhưng linh tánh và linh hồn là một, không hai. Linh hồn là mê, linh tánh là giác ngộ; linh hồn đă giác ngộ gọi là linh tánh, linh tánh mê th́ gọi là linh hồn. Linh hồn chẳng thoát khỏi lục đạo, linh tánh ra khỏi lục đạo, vượt thoát lục đạo luân hồi. Tiểu thánh không có Thân Kiến, chẳng có Biên Kiến. Chẳng có Biên Kiến là không có đối lập.

      Những năm qua, chúng tôi tham gia hội nghị ḥa b́nh của Liên Hiệp Quốc, thảo luận chủ đề “hóa giải xung đột”. Xung đột từ đâu sanh ra? Từ đối lập sanh ra. Nếu không có đối lập, xung đột do đâu mà có? Do vậy, quư vị phải hiểu: Trong Phật môn không có đối lập, mâu thuẫn, hay xung đột. Người khác đối lập, mâu thuẫn, xung đột đối với ta, ta đối với người ấy chẳng có, đừng nên đ̣i hỏi người khác đối xử [tốt đẹp] với chính ḿnh, mà phải đ̣i hỏi ta đối đăi người khác như thế nào th́ quư vị mới có thể thành tựu trong Phật pháp. Đ̣i hỏi người khác đối xử với ta như thế nào, trật rồi! Đó gọi là ǵ? Cầu pháp ngoài tâm, biến thành ngoại đạo. Phật pháp cầu trong tự tâm, chẳng cầu ở bên ngoài, v́ sao? Tâm có thể chuyển cảnh giới. Thí dụ như người khác hủy báng, lăng nhục, hăm hại ta, kẻ chẳng học Phật bèn nói: “Đó là kẻ oan gia đối đầu của ta, ta phải trả thù hắn”, khởi lên ư niệm ấy. Ư niệm ấy sai lầm, do chẳng biết Tự và Tha là nhất thể. Quư vị báo thù lần này, oan oan tương báo, luân hồi trong lục đạo chẳng xong, khổ chẳng thể nói nổi, trật rồi! Người giác ngộ sẽ như thế nào? Người giác ngộ biết ta và kẻ khác là nhất thể, kẻ khác hủy báng, làm nhục, tổn hại ta là v́ kẻ ấy mê, chẳng giác, hăy nên tha thứ, chẳng có dấu vết ǵ, chẳng cần nói là tha thứ, dấu vết ǵ cũng không có, vẫn hoan hỷ đối với kẻ ấy. Kẻ ấy là ǵ? Bồ Tát. Lại suy nghĩ sâu xa hơn, người ấy tạo lợi ích cho ta, là ân nhân của ta. Kẻ ấy hủy báng ta, coi thử ta có phải là chẳng khởi tâm động niệm hay chăng? Ta chẳng khởi tâm động niệm là ta được nâng cao. Người ấy giúp ta nâng cao, ta đă vượt qua cửa ải khảo thí ấy. Kẻ ấy hăm hại ta, ta chẳng có chút tâm oán hận nào. Chư vị đọc kinh Đại Thừa thấy khi Thích Ca Mâu Ni Phật tu Nhẫn Nhục Ba La Mật, Ngài được gọi là Nhẫn Nhục tiên nhân, gặp vua Ca Lợi cắt chặt thân thể, đó là chuyện thê thảm, đau đớn dường ấy. Thích Ca Bồ Tát chẳng có mảy may tâm oán hận nào, lại c̣n bảo vua Ca Lợi: “Trong tương lai, tôi thành Phật sẽ độ bệ hạ đầu tiên, v́ sao? Báo ân bệ hạ. V́ bệ hạ đối xử tử tế với tôi như vậy, khảo nghiệm xem tôi có tâm nhẫn nhục hay không, tôi có thể nhẫn”. Tốt nghiệp Nhẫn Nhục Ba La Mật, ải cuối cùng đă tốt nghiệp rồi. Chịu nổi khảo nghiệm, phàm những ai đến khảo nghiệm đều là ân nhân. Tất cả hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, hễ có h́nh tướng đều là hư vọng, quư vị chấp trước chúng để làm ǵ? Sai lầm rồi! Thảy đều buông xuống, ai cũng là người tốt, chuyện ǵ cũng là chuyện tốt, lẽ nào quư vị chẳng sanh tâm cảm ơn?

      Thật sự học Phật, đối với bất luận kẻ nào cũng đều cảm ơn, kẻ ấy đối xử tốt với ta, ta cảm kích kẻ ấy; kẻ ấy đối xử xấu với ta, ta cũng cảm kích kẻ ấy, đều là giúp ta nâng cao. Người đối xử tốt với quư vị, chẳng tham luyến sự tốt đẹp ấy, sẽ đoạn ǵ? Đoạn phiền năo, đoạn tham luyến, tham ái. Kẻ xử tệ với quư vị, [giúp quư vị] đoạn sân khuể. Ở chỗ này, tùy thuộc quư vị buông xuống tham, sân, si bao nhiêu, thật sự buông xuống, giống như chẳng có chuyện ấy. Nếu quư vị hăy c̣n đôi chút oán hận, chẳng buông xuống, trong thuận cảnh c̣n hoan hỷ đôi chút, chưa buông xuống. Mừng, giận, buồn, vui, yêu, ghét, ham muốn được gọi là thất t́nh, ngũ dục, đó là phiền năo, phải rèn luyện trong hoàn cảnh, tức hoàn cảnh nhân sự (quan hệ giữa con người với nhau) và hoàn cảnh vật chất, luyện tới mức chẳng sanh phiền năo, tâm b́nh, khí ḥa, [giống như] trong tựa đề bản kinh này, tâm thanh tịnh hiện tiền. Kẻ khác đối với quư vị tệ bạc như thế ư? Đại ân, đại đức! Quư vị c̣n muốn trả thù bậc đại ân đại đức, xong luôn! Vẫn phải tiếp tục luân hồi trong lục đạo! Khi nào sẽ có thể thoát ra? Khi nào gặp những chướng nạn, gặp những khảo đảo, tâm b́nh, khí ḥa, sẽ có thể thoát ra. V́ vậy, người tu hành sống ở đâu? Vĩnh viễn sống trong thế giới cảm ơn. Trong thế giới này, chẳng ai đối với quư vị chẳng khởi tác dụng, chẳng có ai không giúp đỡ, thành tựu quư vị, tùy thuộc quư vị có hiểu hay không, có nhận biết hay không?

Lần này tôi sang thăm Ấn Ni (Indonesia), cũng gặp được một xí nghiệp gia, nói chung kinh doanh khá lắm, mời tôi dùng cơm, hỏi tôi một vấn đề: Có kẻ gạt tiền ông ta, nói chung chẳng ít. Ông ta hỏi tôi: “Có nên kiện kẻ ấy ra ṭa để lấy tiền lại hay không?” Tôi nói: “Ông học Phật bao lâu?” “Hơn mười năm!” Tôi nói: “Nếu ông thật sự học Phật, coi như chuyện ấy đă xong! V́ sao? Số tiền ấy tuy nhiều, nhưng ông có tiền, là một vị đại tài chủ. Đối với ông mà nói th́ [món tiền ấy] chẳng thấm vào đâu, cần ǵ phải so đo, cần ǵ phải ghim trong ḷng? Ông cũng chẳng phải là thiếu tiền xài, cũng lại chẳng thiếu món tiền ấy, kẻ ấy dùng cũng giống như ông dùng, có ǵ khác nhau?” Tôi coi thử ông ta nghe [nói như vậy] có hiểu hay không. Nếu ông ta hiểu, sẽ là thật sự học Phật. Nếu nghe mà chẳng hiểu, c̣n có oán khí, vẫn đi thưa kiện, uổng công học Phật rồi, phí hoài mười mấy năm học Phật. Đấy là ǵ? Trong khi bị khảo nghiệm công phu, quư vị chẳng thể buông xuống được! Đến cửa ải ấy, vẫn chưa buông xuống được, vẫn là giẫm chân tại chỗ, học Phật chẳng tiến một bước nào!

V́ thế, nói tới vô ngă, quư vị thấy điều kiện nhập môn là vô ngă, không có đối lập, không có thành kiến. Tiếp đó là Kiến Thủ Kiến và Giới Thủ Kiến, người Hoa gọi hai thứ này là Thành Kiến. Không có Thành Kiến, quư vị mới có thể tùy duyên. Điều cuối cùng là không có tà kiến, tri kiến của quư vị rất chánh đáng, chẳng thiên lệch, chẳng tà. Chẳng thiên lệch, chẳng tà là do Phật pháp mà đạt được! Nương theo giáo huấn của đức Phật để sống, làm việc, đăi người, tiếp vật chẳng có chuyện ǵ, vui sướng lắm, hạnh phúc lắm! Nếu quư vị so đo với người khác, quư vị đáng thương lắm, phiền năo vô lượng. Toàn là giả, lục đạo luân hồi là giả, mười pháp giới là giả, cớ ǵ làm chuyện giả? Coi giả là thật, đó là mê hoặc, điên đảo, sai lầm mất rồi! Hăy nên biết: Người thật sự tu hành là như cổ đại đức đă nói “tá giả tu chân” (nương vào cái giả để tu cái thật), hết thảy đều là giả, ta rèn luyện chính ḿnh trong cái giả, rèn luyện sao cho vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của chính ḿnh đều sạch sành sanh, luyện tới mức nhất niệm bất sanh. Tâm thanh tịnh hiện tiền là A La Hán, tâm b́nh đẳng hiện tiền, quư vị là Bồ Tát. Nếu chánh giác hiện tiền sẽ thành Phật, [những tâm này] đều nằm trong tựa đề kinh [Vô Lượng Thọ].

      Chúng ta đọc tiếp: “Thật Tướng vô tướng”. Khi A Nan tự xưng là Ta, chẳng hoại giả danh; bởi lẽ, qua lại với người thế gian, mọi người đều nói Ngă, nếu ḿnh nói chẳng phải là Ngă, mọi người sẽ nghĩ đầu óc ta có vấn đề, cho nên ta cũng nói Ngă. Nhưng ta nói Ngă, ta biết nó là giả, chẳng thật, trọn chẳng chấp trước. Khi quư vị nói Ngă bèn thật sự chấp trước, chẳng giống như [ngài A Nan nói Ngă] ở đây. Do phải hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức th́ mới có thể trao đổi ư kiến, thực hiện công cuộc giáo học. Do vậy, Phật, Bồ Tát ứng hóa trong thế gian này cũng nói Ngă. Các Ngài hiểu Thật Tướng vô tướng,“cố phi đồng ư phàm phu chi hữu Ngă” (chẳng giống như phàm phu có Ngă), phàm phu thật sự chấp trước thân này là ta, Phật, Bồ Tát chẳng vậy. “Thật Tướng vô bất tướng” (Thật Tướng chẳng phải là không có tướng), chẳng phải là không có tướng v́ nó hiện huyễn tướng, “cố phi đồng ư Nhị Thừa chi vô ngă” (nên chẳng giống Nhị Thừa vô ngă), người Nhị Thừa là Thanh Văn, Duyên Giác, họ thật sự chấp trước thân này chẳng phải là ta, chấp trước thân vô ngă, chẳng có cách nào trao đổi với người khác. V́ thế, Bồ Tát rất hoạt bát, thông quyền đạt biến, bên trong không có ta, nhưng bên ngoài quư vị nói ǵ ta cũng đều có thể tùy thuận, ta chẳng tranh căi với quư vị. Quư vị nói thân này là ta, không sai! Thân này là ta. Đấy là Bồ Tát, là Đại Thừa.

Tiếp đó, cụ giải thích: “A Nan tùy thuận thế gian, giả danh vi Ngă, vô quai ư Đệ Nhất Nghĩa Đế” (A Nan tùy thuận thế gian, giả gọi là Ngă, chẳng trái nghịch Đệ Nhất Nghĩa Đế). Đệ Nhất Nghĩa Đế là vô ngă, Đệ Nhất Nghĩa Đế là tự tánh, trong tự tánh chẳng chấp trước Ngă, chẳng có ư niệm về Ngă. “Hựu Quán Kinh Sớ vân, vô ngă tắc vô văn” (Lại nữa, Quán Kinh nói: “Không có Ngă nên không nghe”), không có Ngă th́ ai nghe? Ai nói, ai nghe? “Vô văn tắc hóa đạo tuyệt” (không có nghe th́ sự giáo hóa chấm dứt), giáo học coi như xong, chẳng thể thành lập! “Vị truyền hóa bất tuyệt, giả danh thuyết Ngă” (v́ truyền thừa, giáo hóa bất tuyệt, nên giả gọi là Ngă), “truyền” () là lưu truyền giáo pháp, giáo học của Thích Ca Mâu Ni Phật, giáo hóa chúng sanh, đời đời truyền cho nhau, nhất định phải giả danh nói là Ngă. Phật, Bồ Tát thị hiện trong thế gian này, nếu chẳng thể hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức, Phật giáo sẽ đoạn diệt. Do vậy, tiếp xúc với người đời, nhất định phải hằng thuận chúng sanh, họ nói Ngă, ta cũng nói Ngă, chẳng có vấn đề, dễ dàng trao đổi, thông quyền đạt biến, chớ nên không biết những chuyện này. Bởi thế, Phật pháp là sống động, chẳng khô khan chút nào!

Lại xem chữ kế tiếp, tức Văn trong Ngă Văn. “Văn giả, nhĩ căn phát nhĩ thức” (Văn là nhĩ căn sanh ra nhĩ thức), Văn là từ nơi tai sanh khởi nhĩ thức nên người ấy mới có thể nghe. Nhĩ Căn là nhục thân, nếu trong ấy chẳng có nhĩ thức sẽ chẳng thể nghe. Người đă chết, thần thức rời khỏi thân, tuy có tai, nhưng chẳng thể nghe. V́ thế, Nghe chẳng phải là tai nghe, mà là thức, tức là Nhĩ Thức. “Kim bất vân nhĩ văn, nhi ngôn ngă văn” (nay chẳng nói tai nghe, mà nói ta nghe), Nghe quả thật là do tai, nhưng không nói tai nghe mà nói ta nghe. “Cái dĩ Ngă tự thống thâu chư căn thức đẳng” (v́ chữ Ngă bao gồm trọn vẹn các căn thức). Mắt thấy, từ nhăn căn phát sanh nhăn thức, quư vị mới có thể thấy. Nếu lục căn chẳng phát sanh các thức, [lục căn] sẽ chẳng có cách nào khởi tác dụng. Khi thần thức rời khỏi thân thể, lục căn được gọi là đă chết, chẳng khởi tác dụng. V́ vậy, dùng một chữ Ngă là đă nói trọn sáu căn. “Dĩ tổng đại biệt, dĩ ngă đại nhĩ, cố viết ngă văn. Dĩ thượng như thị biểu tín thuận” (Dùng tổng quát thay thế riêng biệt, dùng ngă thay cho Tai, nên nói là “ta nghe”. Những điều như trên đây nhằm biểu thị sự tín thuận), tín thuận thầy, tín thuận giáo huấn của thầy. “Ngă văn biểu sư thừa” (“ta nghe” biểu thị sư thừa), những ǵ ta nói hoàn toàn là lời thầy đă nói, ta vâng nhận những lời thầy dạy. “Ngă chi sở văn, giai Thế Tôn kim khẩu sở tuyên, truyền thừa hữu tự, quyết phi tha thuyết, hoặc vi ức tạo, dĩ chi chứng tín” (những điều tôi nghe đều do miệng vàng của đức Thế Tôn tuyên nói, truyền thừa có chỗ khởi nguồn đích xác, quyết chẳng phải do kẻ khác nói, hoặc là tôi bịa đặt, dùng điều đó để chứng tín). Đây là nói tới sự truyền thừa, có căn cứ. Chúng ta học Phật, vị thầy bậc nhất là Thích Ca Mâu Ni Phật, đời đời cũng không trái nghịch, quư vị nói tâm ấy có sâu đậm lắm chăng? Hiện thời, rất nhiều học tṛ sau khi tốt nghiệp bèn quên tuốt thầy, thậm chí đối với cha mẹ, chính ḿnh trưởng thành bèn độc lập, cha mẹ cũng chẳng cần tới! Tại Trung Quốc c̣n đỡ hơn một chút, tại ngoại quốc thật sự đều là như vậy. Trẻ nhỏ lớn lên, thành tựu, rời khỏi gia đ́nh, có khi suốt đời chẳng hề gặp lại cha mẹ. Chúng tôi ở Mỹ rất nhiều năm, khoảng chừng mười lăm năm, người Mỹ là như vậy. Thỉnh thoảng, gặp dịp lễ tết, con cái gởi bưu thiếp hỏi thăm một lần, [cha mẹ] nhận được vui sướng khôn cùng, con cái vẫn chưa quên bẵng ta! Khá nhiều người, con cái đă rời đi, suốt đời chẳng có tin tức ǵ, đấy là xă hội của họ. Tại Mỹ, mười sáu tuổi coi như đă thành niên. Nếu [thiếu niên] mười sáu tuổi bỏ nhà trốn đi, quư vị đừng t́m nó, có t́m cũng vô ích. Quư vị t́m đến cảnh sát, cảnh sát nói: “Đă mười sáu tuổi rồi mà quư vị c̣n phải lo cho nó ư?” Nó có thể tự lập, cảnh sát cũng chẳng t́m cho quư vị. V́ vậy, ư vị t́nh người chẳng có, chẳng biết phụng dưỡng cha mẹ, chẳng biết tôn trọng thầy.

      ...Gần đây nhất cũng có những bạn bè từ trong nước đến thăm tôi, chúng tôi cho họ xem gia phả của chúng tôi. Gia phả là lịch sử gia đ́nh; v́ sao người Hoa ái quốc như vậy? V́ sao yêu quê hương đến thế? Nguyên nhân ở chỗ này! Người Hoa có từ đường, kỷ niệm tổ tiên, đời đời chẳng quên gốc, căm cội rất sâu. Người Hoa có lịch sử gia đ́nh, truyền thừa từ đời này sang đời kia, làm sao họ chẳng trân quư cho được! Trong Cách Mạng Văn Hóa, từ đường không c̣n, gia phả bị đốt, chúng tôi ở hải ngoại chẳng làm ǵ được, hằng ngày đọc nghĩ tới chuyện ấy, nên làm như thế nào? Từ đường bị hủy cũng không sao, gia phả có c̣n hay không? C̣n có ai giữ được hay không? Chúng tôi là người ở hải ngoại quan tâm chuyện này nhất. Hỏi ḍ khắp nơi, nhiều năm chẳng có tin tức ǵ, hỏi người trong gia tộc họ cũng không biết. Năm 2005, tôi đích thân về quê hương, gia tộc chúng tôi vẫn được coi là một gia tộc lớn, ở quê nhà hăy c̣n một vạn năm ngàn người chưa rời khỏi. Anh em trong họ rất nhiều, tôi hỏi mọi người gia phả có c̣n hay không? Có ai biết hay không? Trong số ấy, có người cho tôi biết hăy c̣n. Tôi hỏi: “Ở đâu?” Trong nhà người ấy. “Cớ sao lại dời đến nhà anh?” Khi từ đường bị hủy, người ấy lén lút đem gia phả giấu đi, giấu trong nhà không ai biết, măi cho đến hôm tôi hỏi người ấy, người nhà của ông ta cũng chẳng biết. Ông ta bỏ bộ sách ấy trong một chiếc rương nhỏ, xếp dưới gầm giường, không ai biết. Tôi nói bây giờ ông có thể lấy ra, không sao đâu, hăy lấy ra cho chúng tôi xem. [Gia phả] gồm ba mươi bảy quyển in theo lối khâu gáy bằng chỉ, chúng tôi như có được món quư báu nhất, mất đi bộ sách ấy th́ sẽ chẳng c̣n cội rễ ǵ nữa! Do vậy, tôi yêu cầu mọi người, cho chúng tôi in ra ba trăm bộ, một trăm bộ gởi đến thư viện các trường đại học nổi tiếng ở hải ngoại, họ sẽ bảo tồn, chẳng thể bị mất đi. Mọi người đồng ư, làm chuyện ấy thành công.

      ....Truyền thừa Phật pháp, từ Thích Ca Mâu Ni Phật cho đến các vị thầy trong mỗi đời, lịch đại tổ sư đại đức đều có truyền thừa, đều biết do đâu mà có, chẳng phải do chính ḿnh tùy tiện tưởng tượng, chẳng phải là như vậy, thật sự có chứng cứ, đó gọi là Chứng Tín. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tập tới đây.

 

Tập 84

     

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang chín mươi ba, ḍng thứ hai, xem từ chữ “nhất thời”.

      “Nhất thời giả, Thời Thành Tựu dă. Cái thời vô thật pháp, trường đoản tùy tâm, diên xúc đồng thời, tam kỳ, nhất niệm. Như Sớ Sao viết: Hoặc thuyết giả đắc đà-la-ni, nhất sát-na khoảnh, nhất tự chi trung, thuyết nhất thiết pháp môn, hoặc thính giả đắc tịnh nhĩ căn, ư nhất sát-na, văn nhất tự thời, ư dư nhất thiết tất vô chướng ngại; hoặc thuyết giả thời thiểu, thính giả thời đa, hoặc thuyết giả thời đa, thính giả thời thiểu, hoặc thuyết giả thần lực diên xúc tùy nghi, thính giả căn khí lợi độn bất nhất” (“Nhất thời” là Thời Thành Tựu. Do Thời chẳng phải là thật pháp, dài hay ngắn tùy tâm, kéo dài hay rút gọn cùng một lúc, ba A-tăng-kỳ trong một niệm. Như Sớ Sao đă nói: “Hoặc kẻ nói đắc đà-la-ni, trong khoảng một sát-na, trong một chữ, nói hết thảy pháp môn. Hoặc người nghe đắc nhĩ căn thanh tịnh, trong một sát-na, lúc nghe một chữ, đối với những thứ khác đều chẳng chướng ngại. Hoặc người nói trong một thời gian ngắn, người nghe [cảm thấy] thời gian lâu dài. Hoặc kẻ nói lâu lắc, người nghe thành chốc lát. Hoặc người nói dùng thần lực kéo dài hay rút ngắn tùy nghi, người nghe là căn khí lợi hay độn chẳng phải chỉ một loại”). Chúng ta đọc tới đây. Đây là nói về Thời Thành Tựu. Đức Phật nói kinh vào lúc nào, điều này cũng do đức Thế Tôn dạy ngài A Nan. Sáu thứ thành tựu do đức Phật dạy, sau “như thị ngă văn”“nhất thời”, Phật ở nơi nào. Chẳng ghi chép năm, tháng, ngày, chỉ nói là “nhất thời”. Lúc chúng tôi mới học Phật, vừa mới nhập môn, đối với chuyện này, chúng tôi rất hoài nghi. Cổ nhân Trung Quốc luôn ghi chép năm, tháng, ngày, thời cổ dùng Can Chi để ghi chép. V́ sao đối với kinh Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh bốn mươi chín năm, v́ sao chẳng chép thời gian, chỉ nói mơ hồ là “nhất thời?” Nói chung là chẳng rơ rệt! Trải qua bao nhiêu thời gian, nghiên cứu kinh tạng đôi chút, mới thật sự hiểu rơ, nói “nhất thời” là thật, nói ra năm, tháng, ngày là giả, chẳng thật, “nhất thời” là thật. Tiếp đó, giải thích căn cứ theo kinh Đại Thừa, đức Phật thường nói Thời chẳng phải là thật pháp. Thời gian, đối lập với thời gian là không gian, thời gian và không gian đều chẳng thật. “Thật” là chân thật, [thời gian và không gian] chẳng phải là thật. “Trường đoản tùy tâm”: Quư vị thấy thời gian dài hay ngắn, cảnh chuyển biến theo tâm. Không chỉ là thời gian được cảm nhận chẳng giống nhau theo ư niệm sai khác của chúng ta, mà không gian cũng giống như thế. Không gian lớn hay nhỏ tùy tâm, dần dần nhập cảnh giới Đại Thừa bèn hiểu rơ [điều ấy]. Không chỉ như thế, trong kinh Phật, đúng là chúng ta thấy “diên xúc đồng thời”, “diên” () là một thời gian dài, “xúc” () là thời gian ngắn ngủi. [Ngắn là] một sát-na, dài là vô lượng kiếp, vô lượng kiếp và một sát-na đồng thời. Cảnh giới ấy chẳng thể nghĩ bàn, cảnh giới ấy là chân thật. “Tam kỳ nhất niệm”: Ba đại A-tăng-kỳ kiếp là một thời gian dài, nhất niệm là thời gian ngắn ngủi. Ba đại A-tăng-kỳ kiếp có thể rút gọn thành nhất niệm, nhất niệm có thể kéo dài thành ba đại A-tăng-kỳ kiếp, đó là thời gian rất ư là dài!

      Đức Phật nói “nhất thời” là chính xác, đối với người học Phật chúng ta mà nói, nói “nhất thời” đă ban cho chúng ta hy vọng chân thật. Chúng ta nghĩ thuở ấy, đức Phật giảng kinh này tại “Vương Xá thành, Kỳ Xà Quật sơn”, tức là Linh Sơn, cùng một địa điểm với kinh Pháp Hoa. Chúng ta có thể tham dự hội ấy hay không? Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh, chúng ta có thể đích thân đến nghe hay không? Có thể! Trong Phật giáo sử Trung Quốc có chép: Khi Trí Giả đại sư đọc kinh Pháp Hoa, nhập Định, trong Định đại sư thấy đức Thế Tôn đang giảng kinh Pháp Hoa, Ngài c̣n ngồi bên cạnh nghe một buổi, nghe một lần. Sau khi xuất định bảo với mọi người, Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh Pháp Hoa tại Linh Sơn, pháp hội c̣n chưa giải tán, Ngài đích thân tham dự một buổi. Trong Định đột phá chiều không gian và thời gian, Trí Giả đại sư sau Thích Ca Mâu Ni Phật hơn một ngàn năm, mà Ngài có thể tiến nhập đạo tràng hơn một ngàn năm trước, có thể đích thân nghe đức Phật giảng kinh. Không chỉ có thể trở lại quá khứ, mà cũng có thể vượt đến tương lai. Thích Ca Mâu Ni Phật có thấy thời đại hiện tại của chúng ta hay không? Thấy được! Nếu chẳng thấy, cớ sao Ngài có thể nói đoạn kinh văn Ngũ Thiêu, Ngũ Thống? Đoạn ấy miêu tả ǵ vậy? Xă hội hiện thời của chúng ta, Ngài đă thấy! Không chỉ thấy hiện tại, mà c̣n thấy tới lúc pháp diệt tận. Đức Phật có nói một bộ kinh là Pháp Diệt Tận Kinh, đấy là thời đại nào? Pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật là một vạn hai ngàn năm, lúc ấy là một vạn hai ngàn năm [sau khi đức Phật diệt độ], đức Phật đă nói rơ trạng huống lúc ấy. Chẳng phải là tiên đoán, mà là chính mắt thấy, thấy chính xác.

      Khi chúng tôi c̣n trẻ, thấy rất nhiều dự ngôn của Trung Quốc và ngoại quốc. Tôi từng hỏi thầy Lư, Thôi Bối Đồ[3], Thiêu Bính Ca[4] của Trung Quốc có đúng hay không? Thầy bảo tôi: Trong các dự ngôn của cổ nhân Trung Quốc, dự ngôn của thiền sư Hoàng Bá đáng tin, v́ sao? Ngài thấy trong Định. C̣n những thứ như Thôi Bối Đồ không nhất định hoàn toàn chuẩn xác, v́ tác giả dựa vào lư số, toán học [để suy đoán]. Kinh Dịch của Trung Quốc là một cuốn sách cao thâm về toán học, từ toán học có thể suy đoán, toán học là mẹ của khoa học. Nhưng chúng đúng là “sai chỉ hào ly, lạc đi ngàn dặm”, chẳng thể hoàn toàn chính xác, trong ấy vẫn c̣n có sai lầm. C̣n có những tin tức do bọn đồng cốt truyền lại, tùy thuộc [những linh quỷ dựa xác bọn đồng cốt] thuộc đẳng cấp nào. Tin tức do đồng cốt [có quỷ thần] cao cấp [dựa thân] truyền lại thường chính xác, nhưng [tin tức của bọn đồng cốt thuộc] tầng lớp rất thấp sẽ chẳng chính xác. Chúng ta biết quỷ đạo có Ngũ Thông, do quả báo mà có, chẳng phải do tu được, do quả báo mà đạt được. Tầng lớp thông linh cũng khác nhau, và [tùy thuộc] tâm thái mỗi cá nhân khác nhau. Nay chúng ta hiểu điều này, tâm thái chủ tể hết thảy: Tâm thái tốt, tầng lớp của quỷ bèn cao, tâm thái bất thiện, tầng lớp của quỷ cũng rất thấp; nhưng chúng đều có năng lực vượt qua thời gian và không gian, nhưng [quỷ thuộc] tầng lớp thấp th́ mức độ vượt qua chẳng lớn. Những chuyện giống như vậy, trong đời này, đặc biệt là trong thời đại này, chúng ta thường gặp. V́ vậy, chính ḿnh chớ nên không hiểu rơ. Hễ gặp bèn chẳng thấy nó là chuyện hiếm hoi, kỳ lạ ǵ, đó là một hiện tượng b́nh thường trong vũ trụ. Chúng ta nhớ một câu nói của đức Thế Tôn: “Phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”, chớ nên ghim trong ḷng, hễ tiếp xúc th́ có thể tham khảo, nhất định phải dùng định huệ của chính ḿnh để ứng phó, chớ nên dùng t́nh thức. Dùng t́nh thức để ứng phó sẽ thường bị thua thiệt, bị lừa. Phải dùng định huệ, tâm thanh tịnh sẽ chẳng bị chúng ảnh hưởng, dùng trí huệ để quan sát, chúng ta sẽ biết ứng phó tin tức nhận được như thế nào, đó là chính xác. V́ vậy, phải nhớ Phật pháp là “phá mê khai ngộ”, chẳng mê tín!

      Chúng ta thấy ở đây, Hoàng lăo cư sĩ nói với chúng ta, trước tiên là những điều kinh nói. “Như Sớ Sao viết” (như Sớ Sao nói), Sớ Sao là A Di Đà Kinh Sớ Sao do Liên Tŕ đại sư trước tác. Trong Sớ Sao, có mấy câu giảng về “nhất thời” theo cách như vậy. “Thuyết giả đắc đà-la-ni”, “đà-la-ni” là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Tổng Tŕ, bao gồm hết thảy các pháp, tŕ hết thảy các nghĩa. Trong Phật học, danh từ này được dùng rất phổ biến, đấy cũng là đắc định khai ngộ. Người học Phật nhất định phải coi trọng Tam Học Giới - Định - Huệ, không thể coi thường. Nếu Giới chẳng trọng yếu như vậy, cần ǵ Thích Ca Mâu Ni Phật phải coi trọng dường ấy, cớ ǵ phải buốt ḷng rát miệng khuyên dạy ngần ấy? Nó đúng là rất trọng yếu, là cội rễ! Ngày nay, chúng ta học Phật chẳng thể thụ dụng là do nguyên nhân ǵ? Chúng ta bỏ sót căn bản. Các đồng học tại gia học Phật sơ sót Thập Thiện Nghiệp Đạo. Thập Thiện Nghiệp Đạo là đại pháp căn bản để tu học Phật pháp. Quư vị thấy: Trong kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo, đức Phật đă giảng rất rơ ràng, nói từ pháp nhân thiên. Pháp nhân thiên là ǵ? Trong lục đạo, quư vị đạt được phương pháp của nhân đạo và thiên đạo, đó là ǵ vậy? Thập Thiện Nghiệp Đạo. Lên cao hơn là nói tới Thanh Văn Bồ Đề, Duyên Giác Bồ Đề, cho đến Vô Thượng Bồ Đề. Nói cách khác, từ trong lục đạo, quư vị đạt được nhân đạo, thiên đạo, măi cho đến khi chứng đắc Phật quả rốt ráo viên măn, thảy đều dựa vào Thập Thiện Nghiệp Đạo; há chẳng phải là trọng yếu ư? Giống như nay chúng ta xây một cao ốc, xây cao ốc cao đến mấy chục tầng, hay một trăm tầng, Thập Thiện Nghiệp Đạo là ǵ? Là nền móng, là nền tảng. Quư vị thiếu cơ sở, dù xây hai ba tầng c̣n chẳng thành, làm sao có thể xây cao ốc một trăm tầng? Càng lên cao, quư vị mới hiểu căn cơ càng bền vững. Hiện thời, chúng ta thấy chẳng ai làm được Thập Thiện; v́ vậy, tôi thường nghĩ v́ sao người thuở trước làm được, mà nay chúng ta chẳng làm được? Tôi nghĩ thật lâu rồi mới vỡ lẽ: Người thuở trước có thể làm được là do giáo dục gia đ́nh tốt đẹp! Giáo dục gia đ́nh: Trẻ nhỏ vừa sanh ra đă được cha mẹ dạy dỗ, cho nên nó thật sự đặt vững căn cơ. Sau này, khi đọc kinh, qua kinh điển chúng tôi thấy được điều này.

      Từ giữa đời Đường trở đi, Phật giáo Trung Quốc chẳng dùng Tiểu Thừa nữa, Tiểu Thừa cũng lấy Thập Thiện Nghiệp Đạo làm cơ sở. Trung Quốc không dùng Tiểu Thừa, mà chọn Nho và Đạo làm cơ sở cho Đại Thừa, trải qua hơn một ngàn bảy trăm năm, đă thí nghiệm thành công. Quư vị thấy từ giữa đời Đường cho đến đầu thời Dân Quốc, trong mỗi triều đại, người tu hành thật sự có khai ngộ, chứng quả, đắc công phu định lực rất nhiều. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, pháp môn nào cũng đều có thể giúp quư vị đắc tam-muội. Đắc tam-muội là đắc Thiền Định, niệm Phật đến mức tâm thanh tịnh hiện tiền là Niệm Phật tam-muội thành tựu. Chúng tôi mới dần dần hiểu rơ: Chúng ta phải học tập bổ sung, bù đắp bằng Đệ Tử Quy của Nho gia và Thái Thượng Cảm Ứng Thiên của Đạo gia, có hai cơ sở này th́ Thập Thiện Nghiệp Đạo, Tam Quy, Ngũ Giới sẽ dễ dàng, thật sự đạt được, Tam Quy là thật, chẳng giả. Hiện thời, Tam Quy là giả, chẳng thật. Quư vị thấy Tam Quy là “quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng”. Đọc Lục Tổ Đàn Kinh, chúng ta liền hoảng nhiên đại ngộ. Lục Tổ Huệ Năng là người đời Đường, nhằm thời đại Vơ Tắc Thiên. Thuở ấy, lăo nhân gia truyền quy y, chẳng đọc “quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng”, Ngài chẳng đọc như thế, mà đọc như thế nào? “Quy y Giác, quy y Chánh, quy y Tịnh”. V́ sao Ngài đọc theo cách ấy? Chúng ta hăy suy nghĩ cặn kẽ! Khẳng định là Phật pháp truyền tới Trung Quốc đă hơn một ngàn năm, truyền đă lâu như thế, cho nên xuất hiện rất nhiều sai lệch, lầm lẫn. Mọi người hễ nghe nói Phật, Pháp, Tăng, chắc là nghe nói đến Phật bèn nghĩ tới tượng Phật, nghe nói “quy y Pháp” bèn nghĩ tới kinh sách, “quy y Tăng” bèn nghĩ tới người xuất gia. Sai rồi! Đó chẳng phải là ư nghĩa thật sự của Tam Quy, ư nghĩa thật sự của Tam Quy là Giác, Chánh, Tịnh. V́ thế, Tổ truyền quy y bèn nói “quy y Giác, quy y Chánh, quy y Tịnh” rồi mới giải thích “Phật là Giác, Pháp là Chánh, Tăng là Tịnh”. Ngài giải thích cho chúng ta, vừa giải thích như thế, chúng ta bèn hiểu rơ.

      Quy y Phật nghĩa là ǵ? Giác chứ chẳng mê. Chúng ta từ mê hoặc, điên đảo, quay về nương vào tự tánh giác, đó là quy y Phật thật sự. [Phật trong Tam Quy] là tự tánh Phật của quư vị, chẳng phải là Phật ở bên ngoài. Tượng Phật ở bên ngoài là ǵ? Nhằm nhắc nhở quư vị, Phật tượng trưng điều ǵ? Phật tượng trưng tự tánh giác. Quư vị thật sự quy y, chẳng phải là quy y bên ngoài, mà là từ mê hoặc, điên đảo quay lại, ta phải giác ngộ, chẳng c̣n mê hoặc nữa. Quy y Pháp, chánh chứ không tà, ta từ tà tri, tà kiến, tà hạnh quay lại, nương theo chánh tri, chánh kiến, chánh hạnh. Tiêu chuẩn này thuộc về giới luật, nền tảng của giới luật là Đệ Tử Quy. Đệ Tử Quy dạy quư vị chánh tri, chánh kiến, chánh niệm, chánh hạnh, [những điều ấy] đều ở trong tự tánh. Thái Thượng Cảm Ứng Thiên gồm một trăm chín mươi lăm điều, thiện ác báo ứng cũng là tự tánh. Nói chung, Phật pháp từ đầu tới cuối, từ sơ học cho đến địa vị Như Lai, chẳng rời khỏi tự tánh. Rời khỏi tự tánh sẽ là ngoại đạo, cầu Phật ngoài tâm, đấy là ngoại đạo. Phật là ǵ? Phật là tự tánh của quư vị, nhất định phải biết điều này. Quy y Tăng, người xuất gia đại diện Tăng. Thấy người xuất gia bèn ngay lập tức cảnh tỉnh: Ta hăy nên tịnh, đừng nhiễm. Ta từ ô nhiễm quay lại, nương vào tự tánh tịnh. Quư vị thấy Huệ Năng đại sư khai ngộ, câu đầu tiên Ngài nói: “Nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh”. Quy y “vốn tự thanh tịnh” là quy y Tăng chân thật, chẳng liên can tới cảnh giới bên ngoài. V́ thế, Phật pháp được gọi là “nội học”, hoàn toàn tương ứng với tự tánh. Tự tánh tịnh, tự tánh chánh, tự tánh giác, quả thật đă được nói trong tựa đề bộ kinh của chúng ta “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”.

    Tự tánh tịnh, thanh tịnh là Tăng Bảo, b́nh đẳng là Pháp Bảo, giác là Phật Bảo. Tam Quy Y là ǵ? Chính là năm chữ “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, đó là đúng. Khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác tương ứng với thanh tịnh, b́nh đẳng, giác, quư vị thật sự quy y. Thầy lấy Tam Quy, Tam Quy là Phật pháp, bất luận Đại Thừa hay Tiểu Thừa, Tông Môn hay Giáo Hạ, Hiển giáo hay Mật giáo, làm nguyên tắc chỉ đạo tu học tối cao, từ khởi tâm động niệm cho đến ngôn ngữ, tạo tác, chẳng thể rời khỏi thanh tịnh, b́nh đẳng, giác, đấy là nguyên tắc chỉ đạo tối cao. Quư vị thấy: Vừa vào cửa Phật, trước hết liền truyền dạy nguyên tắc này cho quư vị; từ nay trở đi, quư vị nương theo phương hướng và mục tiêu ấy để tu học th́ mới có thể siêu phàm nhập thánh. Đấy là Tam Quy Y thật sự. Nay chúng ta thọ Tam Quy, thọ xong th́ sao? Vẫn mê chứ chẳng giác, vẫn nhiễm chứ chẳng tịnh, vẫn tà chứ chẳng chánh, chẳng khác ǵ chưa thọ, chẳng thay đổi ǵ hết! Tam Quy kiểu đó là giả, chẳng thật! Nếu thật sự Tam Quy, trong tâm quư vị chẳng rời khỏi giác, chánh, tịnh. Trong kinh, đức Phật bảo chúng ta, ngày đêm có ba mươi sáu vị thần hộ pháp bảo vệ quư vị; đối với mỗi điều trong Ngũ Giới đều có năm vị thần hộ giới. Ngũ Giới quư vị đều làm được th́ có hai mươi lăm vị thần hộ giới bảo vệ quư vị. Quư vị sẽ không bị tà mị dựa thân, chẳng bị là do thần hộ pháp và thần hộ giới của quư vị rất nhiều. Học Phật mà vẫn c̣n có hiện tượng bị ma quỷ dựa thân, cho thấy quư vị chưa làm được [Ngũ Giới], thần hộ giới lẫn thần hộ pháp đều lánh xa, bỏ đi, chẳng hộ tŕ quư vị. Nhất định phải hiểu đạo lư này.

      Chúng ta thọ Tam Quy hoặc thọ giới, có cần phải đến giới đàn tiếp nhận theo nghi thức [truyền giới] hay không? Thưa quư vị, nghi thức không quan trọng. Thuở tôi mới học Phật, Chương Gia đại sư bảo tôi: “Phật pháp trọng thực chất, chẳng trọng h́nh thức”, thực chất là ǵ? Quư vị thật sự phát tâm muốn học, sẽ được! “Tôi thật sự phát tâm muốn học Phật, tôi đọc kinh điển thấy viết về Tam Quy Y, tôi thật sự muốn học, nghiêm túc học tập, tôi hiểu rơ”, tức là quư vị thật sự thọ. Thấy Ngũ Giới dạy “chẳng sát sanh”, chính ḿnh bèn phát nguyện, suốt đời này ta trọn chẳng tổn thương, gây hại hết thảy chúng sanh, quư vị đạt được giới điều này! Chẳng trộm cắp, ta phát tâm suốt đời này trọn chẳng chiếm chút tiện nghi nào của người khác, quư vị đạt được giới điều này. Tại giới đàn, tiếp nhận những nghi thức, nhưng chẳng làm được th́ vẫn vô dụng! Đấy chẳng phải là thật. Những vị thần hộ pháp chỉ nhận thật, chẳng nhận giả. Hễ giả, họ vừa nh́n bèn cười kh́, xong chuyện! C̣n thật th́ tuy chẳng trải qua những nghi thức tại giới đàn, họ vẫn một mực thủ hộ quư vị. Đạo lư này là sự thật, chúng ta phải hiểu rơ ràng. Dường như vào năm 1999, tôi sang Tân Gia Ba, giảng kinh, dạy học tại Cư Sĩ Lâm, quen biết Tổng Thống hiện thời là tiên sinh Nạp Đan (Sellapan Rama Nathan), khi ấy, ông ta mới vừa từ Mỹ trở về. Ông ta là đại sứ của Tân Gia Ba tại Mỹ, vừa mới trở về. Chúng tôi dùng cơm với nhau, ngồi với nhau, ông ta cho biết: Ông ta là người Ấn Độ, là tín đồ Ấn Độ giáo. Tầng ba của [ṭa cao ốc này] là Ấn Độ giáo. Ông ta nói: “Tôi vô cùng ưa thích Phật giáo, Phật giáo trọng thực chất, không trọng h́nh thức”. Ông ta nói một câu như thế, khi ấy, tôi nghe xong, hết sức kinh ngạc. Trong quá khứ, tôi chỉ nghe Chương Gia đại sư nói câu ấy, chưa nghe người thứ hai nào nói, không ngờ ông ta có thể nói ra câu ấy. Đấy là bậc thông hiểu, chẳng phải là kẻ lơ mơ. Về sau, ông ta trở thành Tổng Thống Tân Gia Ba, măi cho đến bây giờ vẫn là Tổng Thống Tân Gia Ba. Khi tôi ở Tân Gia Ba, mỗi năm tối thiểu có đôi ba lần gặp gỡ; v́ thế, chúng tôi cũng rất thân thuộc!

      Đắc đà-la-ni chính là đắc định, khai ngộ, người ấy có năng lực trong khoảng một sát-na, thời gian ấy rất ngắn, vài giây, trong một chữ, nói hết thảy các pháp môn. Hết thảy các pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong bốn mươi chín năm, có thể tŕnh bày trọn hết trong một giây, trong một chữ ư? Có thể! Nếu có người biết nghe, đó là ǵ? Là thông tin! Quư vị thấy hiện thời một bộ Đại Tạng Kinh, chẳng ít, đóng thành sách b́a cứng gồm một trăm hai mươi tập, có thể rút gọn lại trong một con chip, đúng là nhỏ như một cái móng tay, trong con chip ấy là toàn bộ Đại Tạng Kinh. Cổ nhân cũng có một phương pháp xảo diệu, kinh Hoa Nghiêm rất dài, thật đấy, chẳng giả; tôi chẳng biết ở Đại Lục hiện thời có [c̣n làm như vậy] hay không. Cổ nhân đúc bộ kinh Hoa Nghiêm lên chuông, mặt ngoài, bên trong hồng chung đều là kinh văn, chuông vừa gơ, toàn bộ kinh Hoa Nghiêm [được xướng lên]. Quư vị thấy đó. Trong một niệm sẽ là toàn bộ kinh Hoa Nghiêm. Người biết nghe th́ ngay trong một niệm liền hiểu rơ toàn bộ kinh Hoa Nghiêm, được thụ dụng. Cũng giống như vậy, ở Đại Lục, kinh Pháp Hoa, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Kim Cang, kinh Di Đà được đúc trên chuông rất nhiều, họ có khuôn mẫu để đúc trên chuông. Đấy là “trong một chữ, chứa đựng hết thảy các pháp môn”. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Một tức hết thảy, hết thảy tức một” chính là ư nghĩa này.

      “Hoặc thính giả đắc tịnh nhĩ căn, ư nhất sát-na, văn nhất tự thời, ư dư nhất thiết tất vô chướng ngại” (Hoặc là người nghe đắc nhĩ căn thanh tịnh, trong một sát-na, khi nghe một chữ, đối với hết thảy các thứ khác đều không chướng ngại). Đây là nói người nghe khai ngộ. Người ấy nghe một chữ, hay nghe một câu bèn hiểu rơ toàn bộ, đấy là ǵ? Đắc tịnh nhĩ căn. Chúng tôi nghĩ đến trường hợp Lục Tổ Huệ Năng đại sư, Ngài ở trong phương trượng thất của Ngũ Tổ, Ngũ Tổ giảng kinh Kim Cang cho Lục Tổ, chúng tôi phỏng đoán thời gian ước chừng một giờ, tối đa là hai giờ, không thể lâu hơn hai tiếng đồng hồ. Ngũ Tổ giảng đại ư kinh Kim Cang, giảng đến câu “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (hăy nên chẳng trụ vào đâu mà sanh tâm), Lục Tổ bèn hoát nhiên đại ngộ, thưa bày điều tâm đắc gồm năm câu: “Nào ngờ tự tánh, vốn tự thanh tịnh; nào ngờ tự tánh, vốn chẳng sanh diệt; nào ngờ tự tánh, vốn tự trọn đủ”. Những câu ấy tuyệt diệu, trong tự tánh chẳng thiếu thứ ǵ! Như trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đă nói, trí huệ và đức tướng chẳng thiếu, thảy đều trọn đủ. Thảy đều trọn đủ là đầy đủ y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới, đều thuộc trong tự tánh, chẳng ĺa khỏi tự tánh. “Nào ngờ tự tánh, vốn chẳng lay động”, vốn chẳng lay động là tự tánh vốn định. Cái tâm của chúng ta hiện thời là niệm này diệt, tức niệm trước diệt, niệm sau sanh, đấy chẳng phải là tự tánh, mà là A Lại Da. Tự tánh là chân tâm, A Lại Da là vọng tâm, vọng tâm là động, chân tâm là định, chẳng dấy động. Câu cuối cùng: “Nào ngờ tự tánh, có thể sanh ra muôn pháp”. Nó hiển lộ, có thể sanh ra vạn pháp. Hễ nó ẩn th́ hết thảy các pháp đều chẳng thấy.     

Tự tánh chẳng phải là sắc pháp, chẳng phải là vật chất, mà cũng không phải là tinh thần. Trong kinh miêu tả tự tánh bằng từ ngữ Thường Tịch Quang. Thường là vĩnh hằng, Tịch là tịch tĩnh, trong ấy thanh tịnh, chẳng bị ô nhiễm, không có ư nghĩa sanh diệt, nó là quang minh, cho nên c̣n gọi là Đại Quang Minh Tạng. Đấy là sự miêu tả của kinh điển đối với tự tánh, tự tánh ở nơi đâu? Không chỗ nào chẳng tồn tại, không lúc nào chẳng tồn tại. Thời gian và không gian đều do nó biến hiện. Đấy là Huệ Năng đại sư đắc tịnh nhĩ căn, trong một thời gian rất ngắn, nghe mấy câu, toàn bộ đều chẳng chướng ngại, đều hiểu rơ, thông đạt rành rẽ hết thảy các kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong bốn mươi chín năm, chẳng hiểu lầm tí nào! Người nói đắc đà-la-ni, nghe đắc tịnh nhĩ căn, giáo học quá thuận tiện, quá dễ dàng! Dưới ṭa của Huệ Năng đại sư quả thật có mấy người [giống như vậy], khai ngộ trong hội của Ngài tổng cộng bốn mươi ba người, trong ấy có vài người có t́nh h́nh như thế. Đặc biệt rơ rệt là Vĩnh Gia đại sư, tác giả của bài Chứng Đạo Ca. Quư vị thấy Vĩnh Gia đại sư là một trường hợp như vậy, khai ngộ nhờ một câu nói của Lục Tổ, khai ngộ rồi Ngài muốn rời đi. [Lục Tổ hỏi]: “Sao ông đi nhanh như thế?” Quư vị thấy Ngài trả lời vô cùng ư nghĩa: “Ở lại một đêm!” Đến ngày hôm sau mới đi, v́ thế gọi là “nhất túc giác” (một đêm giác ngộ). Ngài trụ một đêm tại nơi hiện thời là Nam Hoa Tự một đêm, ngày hôm sau mới đi. Vốn Ngài muốn đi ngay trong lúc ấy, quay đầu đi luôn, thật sự khai ngộ. Ngài là một trong bốn mươi ba người khai ngộ; đấy là thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác. Từ truyện kư Trung Quốc, chúng ta thấy xuất gia lẫn tại gia đều có người đạt được cảnh giới ấy!

      “Hoặc thuyết giả thời thiểu, thính giả thời đa” (Hoặc người nói trong thời gian ngắn, người nghe [cảm thấy] thời gian dài). Khi nói, thời gian cũng chẳng nhiều, người nghe cảm thấy thời gian rất dài, nghe rất nhiều. Hoặc là người nói thời gian dài, người nghe [cảm thấy] thời gian ít, cho thấy rơ ràng thời gian chẳng phải là pháp cố định. “Hoặc thuyết giả thần lực diên xúc tùy nghi” (hoặc người nói dùng thần lực kéo dài hay rút ngắn tùy nghi), đấy là nói tổng quát, người giảng kinh có thần thông, thời gian dài hay ngắn có thể biến hóa theo ư niệm. Người ấy có ư niệm “hy vọng thời gian lâu dài” nó sẽ biến thành dài, chẳng cần một thời gian dài, chỉ trong thời gian ngắn, người nghe có thể khế nhập cảnh giới, thời gian bèn có thể rút ngắn. “Thính giả, căn khí lợi độn bất nhất” (căn khí của người nghe là lợi căn hay độn căn chẳng phải chỉ một): Căn khí nhạy bén có thể ngộ nhập trong một sát-na; căn khí độn phải mất một thời gian khá dài mới có thể ngộ nhập, chúng ta thường nói “thâm nhập một môn, huân tu lâu dài” là đối với căn cơ nào? Độn căn! Lợi căn không cần. Nhưng chúng sanh trong lục đạo lợi căn quá ít, độn căn nhiều; v́ thế, nhiều kinh luận đều thiên về độn căn để giảng, đề xướng “thâm nhập một môn, huân tu lâu dài”, đấy là nói với kẻ độn căn, chẳng phải dành cho kẻ lợi căn, chẳng dạy lợi căn theo cách ấy! Lợi căn thật sự là “nghe một, ngộ cả ngàn” giống như Huệ Năng đại sư là bậc lợi căn, trong thời gian rất ngắn, qua mấy câu, đă hoàn toàn thông đạt, hiểu rơ, thông đạt hết thảy các pháp. Độn căn cũng là như vậy, họ có thể huân tu lâu dài, mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm bèn đại triệt đại ngộ.

      V́ sao căn tánh khác nhau? Nói thật ra, [ai nấy] có cùng một tự tánh, há lẽ nào khác nhau; nhưng do trong kiếp quá khứ, hoàn cảnh sống của mỗi cá nhân khác nhau, nếu bỏ sót giáo huấn của thánh hiền sẽ bị nhiễm dơ; có người bị ô nhiễm nghiêm trọng, có người ô nhiễm nhẹ hơn, chẳng phải là do đạo lư ấy hay sao? Ô nhiễm nhẹ, căn cơ bèn nhạy bén; ô nhiễm nghiêm trọng, căn cơ chậm lụt. Nếu suy xét cẩn thận, [căn cơ lợi hay độn] cũng liên quan đến đời quá khứ. Chúng ta biết: Chúng ta luân hồi trọn chẳng phải chỉ một đời này, trong quá khứ, đường nào cũng đều đă sanh vào, mọi người đều giống như vậy, chẳng có ngoại lệ. Trong quá khứ, quư vị cũng đă làm thiên vương, thiên thần, mà cũng đă biến thành súc sanh, cũng từng đọa địa ngục, đều như nhau. Nhưng trong lục đạo, nhân đạo rất đặc thù, nhân đạo là mấu chốt: Sanh lên thiên đường phải qua nhân đạo, đọa tam đồ cũng trải qua nhân đạo, thoát khỏi tam giới chứng Bồ Đề cũng ở ngay trong nhân đạo. Nhân đạo là mấu chốt, là cốt lơi. Tu thiện, tu phước trong nhân đạo, đời sau hưởng báo trong thiên đạo. Phải nên thay một chữ trong “hưởng phước” cho thích hợp hơn, tức là “tiêu phước”. Quư vị tu phước, phước báo ấy phải tiêu trừ, v́ sao phải tiêu trừ? Trong tự tánh không có thứ ấy, đó là ô nhiễm, chẳng thanh tịnh. Huệ Năng đại sư nói: “Nào ngờ tự tánh, vốn tự thanh tịnh”, tội và phước đều chẳng phải là thanh tịnh, trong tự tánh không có những thứ ấy. Do vậy, quư vị tu phước báo nhiều như vậy, phải lên cơi trời để tiêu. Hưởng phước là tiêu phước báo. Quư vị làm chuyện bất thiện th́ sao? Vào trong tam đồ để tiêu tội nghiệp, thảy đều tiêu trừ, bèn trở lại nhân gian, lại trở về nơi này. Nếu quư vị gặp gỡ Phật pháp, rất khó có, quư vị vượt thoát, đấy là t́nh trạng thật sự trong lục đạo. Lúc ở trong nhân đạo, đúng là tùy theo ư niệm của chính ḿnh mà đường nào cũng đều có thể vào, nhưng quư vị ở trong đường nào mà nghiệp thuộc đường ấy chưa tiêu, sẽ chẳng thể rời khỏi đường ấy! Đó là căn khí lợi hay độn không giống nhau.

      “Cổ vị tam thừa phàm thánh sở kiến Phật thân báo hóa, niên tuế đoản trường, thành Phật cửu cận, các các bất đồng cố” (cổ nhân nói: “Tam thừa phàm thánh thấy báo thân và hóa thân của Phật có thọ mạng dài hay ngắn, thành Phật đă lâu hay gần đây, mỗi người mỗi khác”), đây cũng là hiện tượng có thật. Do vậy, ta biết lời đức Phật dạy là đúng: “Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”, câu này quá quan trọng. Trong hết thảy cảnh giới, nếu chúng ta thường có thể khởi lên câu này, quư vị sẽ chẳng bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển, mà có thể chuyển đổi cảnh giới. Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng, tâm tưởng của ai? Tâm tưởng của chính ḿnh. Đă là sanh từ tâm tưởng của chính ḿnh, v́ sao ta chẳng sanh Phật? Sanh Phật bằng cách nào? Niệm Phật bèn sanh Phật, niệm niệm là A Di Đà Phật, niệm niệm bèn sanh A Di Đà Phật. Trong Cao Tăng Truyện có chép, vị tổ thứ hai của Tịnh Tông là Thiện Đạo đại sư đời Đường, theo truyện kư ghi chép, lăo nhân gia niệm Phật, niệm Phật hiệu một tiếng, trong miệng tỏa ra một tia bạch quang, trong bạch quang có một tượng A Di Đà Phật, niệm mỗi câu đều hiện tượng Phật. Theo truyện kư cho biết, Thiện Đạo đại sư là A Di Đà Phật tái lai, đó chính là A Di Đà Phật thị hiện cho chúng ta thấy, thị hiện điều ǵ? “Nhất niệm tương ứng nhất niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”. Chúng ta niệm một câu A Di Đà Phật có ánh sáng hay không, có Phật hay không? Có! Khẳng định là có. V́ sao không thấy? Chúng ta nghiệp chướng chưa tiêu trừ, ánh sáng và Phật rất nhạt, người b́nh phàm chúng ta chẳng thấy được. Thiện Đạo đại sư niệm Phật, quang minh và Phật mọi người đều có thể trông thấy v́ tâm Ngài thuần, thuần tịnh, thuần thiện, đúng là niệm niệm tương ứng với thanh tịnh, b́nh đẳng, giác; cho nên Ngài hiện tướng rơ rệt như vậy. Đạo lư là như vậy đó!

      “Tam thừa phàm thánh”: Tam thừa là Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, đấy là thánh, tam thừa đều là thánh. Phàm là lục đạo phàm phu. Chúng ta học Phật, thấy thân Phật, Phật có báo thân, hóa thân, tuổi thọ dài hay ngắn, thành Phật đă lâu hay gần đây, mỗi người thấy khác nhau. Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện trong thế gian này, thế thọ, tức tuổi thọ trên thế gian này là tám mươi tuổi, người Trung Quốc tính tuổi theo lối hư tuế (tuổi ta) là tám mươi tuổi, người ngoại quốc nói tuổi thật sự, nên là bảy mươi chín tuổi. Đức Phật thị hiện thành đạo lúc ba mươi tuổi, đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, sau khi thành đạo bèn bắt đầu giáo học. Dạy cho đến khi Ngài viên tịch, bảy mươi chín tuổi viên tịch. V́ thế, thuyết pháp bốn mươi chín năm, giảng kinh hơn ba trăm hội. Chúng ta thấy sách này nhắc tới thân tướng của Thích Ca Mâu Ni Phật, đó là Ứng Thân, tức thân ứng hóa, ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp. Kinh ghi chép thân [Phật] cao một trượng sáu, tức “trượng lục kim thân”. Khi chúng ta thấy “một trượng sáu”, [bèn nghĩ] quá lớn, cao gấp đôi người thông thường! Chẳng phải vậy! Thước trong hệ thống đo lường thuở ấy chẳng dài như vậy. Chúng ta hăy xem [trước tác] của Hoằng Nhất đại sư. Hoằng Nhất đại sư nghiên cứu giới luật, Ngài có bài Châu Xích Khảo (khảo sát về thước đời Châu), Ngài đă nghiên cứu đời Châu, một thước vào đời Châu dài bao nhiêu? Gần như bằng sáu tấc hiện thời, [nói theo] thị xích[5], tức [một thước đời Châu bằng] sáu tấc của một thị xích Trung Quốc [hiện thời]. Đo lường thời cổ và hiện tại khác nhau. Do vậy, chiếu theo đó, Thích Ca Mâu Ni Phật là người [có chiều cao] rất b́nh thường, chẳng có ǵ đặc biệt lắm. Thị hiện tám tướng thành đạo, hợp t́nh, hợp lư, chúng ta đọc được điều ấy từ kinh thư.

      Hóa thân cũng rất nhiều. Thuở trước, tôi sang Hương Cảng giảng kinh lần đầu, pháp sư Thánh Nhất bảo tôi, thuở ấy, Đại Lục vẫn chưa mở cửa, bọn họ gồm ba vị pháp sư đi triều bái Quán Thế Âm Bồ Tát. Triều Âm Động ở Phổ Đà Sơn là nơi Bồ Tát thường hiện thân, họ thành tâm thành ư đến lạy, lễ bái ở cửa động, họ là ba người xuất gia. Ba người kết bạn, lạy ở cửa động nửa giờ, Quán Âm Bồ Tát xuất hiện, ba người đều hoan hỷ. Lúc trở về, ba người tṛ chuyện, [hỏi nhau] có thấy Bồ Tát hay không? Thấy! Ba người đều thấy, “nhưng ông thấy như thế nào?” Pháp sư Thánh Nhất thấy Bồ Tát có h́nh dạng giống như Địa Tạng Bồ Tát, đội măo Tỳ Lô, Địa Tạng Bồ Tát đội măo, kim thân, tức toàn thân là sắc vàng, Ngài thấy h́nh tượng ấy. Một pháp sư khác thấy Bồ Tát hiện h́nh Bạch Y Quán Âm giống như chúng ta thường thấy [h́nh tượng] Bạch Y Quán Âm, thầy ấy thấy h́nh dáng đó. C̣n một vị pháp sư nữa th́ thấy Ngài là người xuất gia, mang h́nh dáng tỳ-kheo. Quư vị thấy ba người cùng lúc lạy Quán Âm Bồ Tát tại động Triều Âm, đều thấy được Bồ Tát, nhưng hóa thân khác nhau, thời gian dài hay ngắn cũng khác nhau. Có người thấy hơn nửa giờ rồi tướng ấy chẳng c̣n nữa. Có người thấy mấy phút; đấy là mỗi cá nhân duyên phận khác nhau. Những việc như vậy rất phổ biến, cũng có thể là bản thân chúng ta đă từng gặp.

      Chúng ta lại thấy cụ Niệm Tổ viết tiếp: “Kim chỉ thủ Phật cập đệ tử sư tư cơ cảm tương ngộ chi khoảnh, thuyết thính sự tất, tiện danh Nhất Thời dă” (Nay chỉ lấy lúc Phật và đệ tử, thầy tṛ cơ cảm gặp gỡ, nói nghe xong xuôi bèn gọi là Nhất Thời). Đây là cách nói của những nhà giảng kinh từ xưa, những pháp sư giảng kinh đều chọn cách nói này để giải thích chữ “nhất thời”, “nhất thời” là lúc gặp gỡ. Thích Ca Mâu Ni Phật khai thị, giảng kinh Vô Lượng Thọ cho chúng ta, giảng viên măn bộ kinh Vô Lượng Thọ này th́ gọi là “nhất thời”. Rất nhiều nhà giảng kinh đều nói theo cách này; v́ thế, quư vị thấy Phật Địa Luận cũng giảng giống như vậy: “Thuyết thính cứu cánh, tổng ngôn nhất thời” (nói nghe xong xuôi, gọi chung là “nhất thời”). Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết pháp, chúng ta nghe pháp, Ngài giảng xong, chúng ta cũng nghe xong, đấy là “nhất thời”. “Thị cố kinh trung bất ngôn mỗ niên, mỗ nguyệt, đản dĩ sư cập đệ tử, cơ ứng ḥa hợp, thuyết thính sự tất, tức danh nhất thời” (V́ thế trong kinh chẳng nói năm nào, tháng nào, chỉ lấy chuyện thầy và đệ tử cơ cảm tương ứng, ḥa hợp, nói và nghe xong xuôi, liền gọi là Nhất Thời). “Cơ ứng”: Cơ là học tṛ, chúng sanh có cảm, Phật bèn có ứng, “cơ ứng ḥa hợp” cũng chính là cảm ứng đạo giao. Nói nghe đă viên măn, bèn gọi là Nhất Thời.

      Tiếp đó, cụ Hoàng bảo chúng ta: “Hựu kinh trung bất cử niên nguyệt giả, các địa lịch pháp bất đồng” (lại nữa, trong kinh chẳng nêu năm tháng v́ lịch pháp các nơi sai khác), lịch pháp Ấn Độ và Trung Quốc khác nhau, dẫu ghi chép năm, tháng, ngày th́ người Hoa cũng chẳng có cách nào khảo sát. “Hựu thế giới thời phần bất nhất” (lại nữa cách phân định thời gian trên thế giới chẳng giống nhau). Nếu quư vị mở rộng phạm vi, hướng đến đại thế giới, nay chúng ta gọi là “múi giờ sai khác” (thời sai) th́ múi giờ sai biệt khác nhau. “Tứ Thiên Vương Thiên nhất nhật, tiện thị nhân gian ngũ thập niên” (một ngày trên cơi trời Tứ Thiên Vương là năm mươi năm trong nhân gian), Tứ Vương Thiên là tầng thấp nhất của sáu tầng trời thuộc Dục Giới, gần chúng ta nhất, [bốn thiên vương trong tầng trời ấy] được gọi là Tứ Đại Thiên Vương. Thời gian trên cơi trời ấy khác biệt với thời gian trên địa cầu rất lớn, một ngày của họ bằng năm mươi năm trong nhân gian. Đao Lợi Thiên lại lâu gấp đôi. Người Trung Quốc gọi [chúa tể] Đao Lợi Thiên là Ngọc Hoàng Đại Đế, một ngày trên trời Đao Lợi bằng một trăm năm trong nhân gian. Lên cao hơn, tăng gấp bội. Một ngày trên trời Dạ Ma bằng hai trăm năm trong nhân gian. Một ngày trên Đâu Suất Thiên, đạo tràng của Di Lặc Bồ Tát ở đó, một ngày ở đó bằng bốn trăm năm trong nhân gian. V́ thế, Đâu Suất Thiên thấy nhân gian rất đáng thương, con người sống một trăm tuổi, chỉ là một phần tư của một ngày [trên Đâu Suất Thiên], tức sáu giờ, họ thấy chúng ta chỉ sống sáu giờ, chưa được nửa ngày. V́ thế, nói “thời phần chẳng nhất định”.

      “Thả hiện đại khoa học chứng minh” (hơn nữa, khoa học hiện đại chứng minh), lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ học khoa học, “thái dương vi nhiễu Ngân Hà hệ trung tâm vận hành nhất châu (tức thái dương thượng chi nhất niên)” (mặt trời xoay quanh hệ Ngân Hà một ṿng, tức là một năm mặt trời), một ṿng ấy được gọi là một năm, tức “thái dương niên”, một năm mặt trời bằng bao nhiêu năm trên địa cầu? “Tương đương ư địa cầu thời gian chi nhị vạn vạn niên” (tương đương với thời gian hai vạn vạn năm trên địa cầu), hai ức năm! Mặt trời xoay quanh Ngân Hà một ṿng, một năm mặt trời là hai ức năm trên nhân gian. “Tắc thời gian tùy vật thể vận động tốc độ nhi biến dị, bổn phi định lượng. Cố kinh trung kỳ ngôn nhất thời tối thiết thực tế” (vậy th́ thời gian tùy thuộc tốc độ chuyển động của vật thể mà thay đổi khác biệt, vốn chẳng phải là một đại lượng cố định. V́ thế, trong kinh nói “nhất thời” sát với thực tế nhất). Nói thật ra, nói “nhất thời” hay quá, “nhất thời” là ǵ, rốt cuộc giải thích như thế nào? Nay chúng tôi đă hiểu, liễu giải ư Phật, tức là như Di Lặc Bồ Tát đă nói một niệm, trong một cái khảy ngón tay có ba mươi hai ức trăm ngàn niệm, một niệm ấy là “nhất thời”. Tất cả hết thảy hiện tượng vật chất trong vũ trụ đều là huyễn tướng tích lũy liên tục của ư niệm, do vậy, nói “nhất thời” rất chính xác, rất chân thật. “Nhất niệm” là một phần trong ba trăm hai mươi triệu phần của một cái khảy ngón tay, chẳng phải là một giây; nếu là giây th́ giây hăy c̣n dài, niệm là [một phần rất nhỏ] của một cái khảy ngón tay.

      Chúng ta lại xem đoạn kế tiếp: “Phật giả, Chủ Thành Tựu dă” (Phật là Chủ Thành Tựu), Chủ là chủ tịch đại hội, chủ giảng trong giảng đường, ở đây, chúng tôi dùng chữ “chủ giảng” mọi người sẽ dễ hiểu. V́ đức Phật giáo học, nên lăo nhân gia là chủ giảng. “Phật vi nhất thiết chúng sanh chi tông chủ, cố danh vi Chủ” (Đức Phật là đấng chánh yếu được hết thảy chúng sanh tôn sùng, nên gọi là Chủ). Đối với ư nghĩa chữ Tông (), tại Trung Quốc, nói thông thường sẽ có ba ư nghĩa: Thứ nhất là chủ yếu, ư nghĩa thứ hai là trọng yếu, ư nghĩa thứ ba là tôn sùng. V́ vậy, chúng ta dùng ba ư nghĩa này để nói về Phật giáo, giáo dục của Phật Đà là ǵ? Giáo dục của Thích Ca Mâu Ni Phật trong thế gian này là giáo dục chủ yếu, là giáo học trọng yếu, là sự giáo hóa đáng tôn sùng. Bản thân Phật môn xưng là Tông Giáo, chẳng liên quan ǵ đến ư nghĩa được bao hàm trong danh từ “tôn giáo” hiện thời. Bản thân Phật môn xưng là Tông Giáo, v́ nó có hai thứ phương pháp giáo học hoàn toàn khác nhau là Tông Môn và Giáo Hạ. [Tông Môn] là Thiền Tông, phương pháp giáo học của Thiền Tông và chín tông [c̣n lại] khác nhau, chín tông kia gọi là Giáo Hạ, giống như trong trường học, [Giáo Hạ] là nói với ai? Nói với kẻ độn căn. Trong Phật pháp, thường nói là [những giáo huấn] “giảng cho căn cơ trung hạ”, [căn cơ trung hạ] chiếm tỷ lệ tối đa, nên phải dùng Giáo, Giáo là giáo học trong một thời gian dài. V́ vậy, đề xướng “thâm nhập một môn, huân tu dài lâu” dành cho người thuộc căn cơ trung hạ. Đối với người thượng thượng căn, thông minh tuyệt đỉnh, thiên tài, chẳng cần phải phiền phức như thế, họ có năng lực đốn ngộ.

      V́ thế, nói thật ra, đốn ngộ là ngộ như thế nào? Buông xuống bèn khai ngộ, trong kinh, đức Phật đă nói điều này rất rơ ràng. Chúng ta đều nên ghi nhớ, cũng có thể nói là đối với vọng tưởng, phân biệt, chấp trước như kinh Hoa Nghiêm đă nói, quư vị có thể đốn xả ba thứ ấy, hễ buông xuống bèn khai ngộ. Thuở ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật ở dưới cội Bồ Đề, ban đêm thấy sao Mai, do triệt để buông xuống bèn đại triệt đại ngộ. Trong phương trượng thất của Ngũ Tổ, Huệ Năng đại sư nghe câu “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, Ngài buông xuống bèn khai ngộ, một ngộ, hết thảy ngộ. Hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, không có pháp nào chẳng thông đạt, chẳng bị pháp nào chướng ngại, đấy là khai ngộ thật sự. Hễ c̣n có một pháp chẳng hiểu rơ, chẳng thông đạt, tức là chưa khai ngộ, chẳng phải là triệt ngộ. Bởi lẽ, ngộ có triệt ngộ, đại ngộ, và tiểu ngộ, rất nhiều tầng lớp. Kẻ độn căn tích tập tiểu ngộ thành đại ngộ, tích tập đại ngộ thành đại triệt đại ngộ, dần dần, thời gian ấy rất dài. Phải ngộ như thế nào? Hăy nhớ buông xuống. Không buông xuống, học cách nào cũng chẳng ngộ.

      Khai ngộ chẳng dính dáng đến học hay không học, trong Đàn Kinh đă ghi chép lời Huệ Năng đại sư nói với tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng. Do vậy ta biết, [khai ngộ] chẳng liên quan đến học tập kinh giáo nhiều hay ít, chẳng có mối liên hệ ǵ. Thông thường, đối với người khai ngộ th́ người khai ngộ chú trọng buông xuống, một môn sẽ hữu hiệu nhất, dễ dàng buông xuống. Học rất nhiều pháp môn, đâm ra sẽ khó khăn, chẳng dễ ǵ buông xuống, dễ biến thành học thuật, biến giáo huấn của Phật Đà thành Phật học, biến thành một thứ học thuật, không thể thụ dụng. Thật sự được thụ dụng th́ phải đạt được học vị trong Phật môn. Buông chấp trước xuống, quư vị chứng quả A La Hán. Buông phân biệt xuống, quư vị là Bồ Tát, đạt được Chánh Đẳng Chánh Giác. Buông khởi tâm động niệm xuống, quư vị là Phật Đà, chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Trong kinh Đại Thừa, đức Phật giảng như vậy rất nhiều. Chúng ta phải thường thấu hiểu trong tâm, biết phải tu hành ra sao, giúp chính ḿnh đắc Định. Điều này vô cùng quan trọng, đắc Định là tam-muội. Chúng ta tu pháp môn Niệm Phật, đắc Niệm Phật tam-muội, có ích to lớn cho sự văng sanh của chúng ta. Chưa đạt được Niệm Phật tam-muội, văng sanh sẽ sanh vào cơi Phàm Thánh Đồng Cư. Nếu đắc tam-muội, sẽ sanh vào cơi Phương Tiện Hữu Dư. Nếu khai ngộ, đại triệt đại ngộ, sẽ sanh vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm, khác nhau! Do vậy, Thích Ca Mâu Ni Phật, A Di Đà Phật, lịch đại tổ sư Bồ Tát buốt ḷng rát miệng nói lời chân thật, dạy chúng ta thâm nhập một môn, huân tu lâu dài. Quư vị có thể học tập như vậy, quyết định thành tựu trong một đời. Thành tựu là văng sanh, văng sanh là thật sự thành tựu, văng sanh đúng là thành Phật trong một đời. Do khăng khăng một mực, tâm người ấy sẽ định. Lan man quá nhiều, tâm luôn xáo động, phập phều, nói chung là chẳng thể định, chúng ta thử xem sẽ biết. Quư vị đồng thời học mấy pháp môn, tâm sẽ chẳng thể định. Học một pháp môn trong một thời gian dài, tâm sẽ định. Tŕ giới giúp quư vị đắc định; v́ thế, tŕ giới vô cùng trọng yếu, chớ nên xem nhẹ.

      Tiếp đó, sách viết: “Hựu lục thành tựu trung, Chủ Thành Tựu tối vi chủ cố” (Lại nữa, trong sáu thứ thành tựu, Chủ Thành Tựu là chủ yếu nhất), điều này trọng yếu nhất. Phật là vị chủ giảng, tức là chủ giảng trong buổi học, không có Ngài, những điều thành tựu khác há có tác dụng ǵ? Do vậy, [Chủ Thành Tựu] trọng yếu hơn bất cứ điều ǵ khác. Tiếp đó, sách giải thích chữ “Phật”, chữ này rất trọng yếu. Xă hội hiện tại nẩy sanh sự hiểu lầm nghiêm trọng đối với Phật. Sự hiểu lầm ấy chướng ngại rất nhiều người trong cả đời này, khiến cho họ đối với cơ hội tốt đẹp ở ngay trước mặt mà bỏ lỡ. V́ nói về mặt lợi ích nhỏ nhất của cơ hội này th́ nó có thể giúp quư vị khỏe mạnh, trường thọ, Phật pháp có thể giúp quư vị thăng quan, phát tài, phá mê, khai ngộ, tăng trưởng trí huệ. Những thứ nhân gian chúng ta cần đến, Phật pháp đều giúp được, thật sự có thể giúp, chẳng giả tí nào! Lúc tôi mới học Phật, thầy bảo tôi: “Trong cửa nhà Phật, có cầu ắt ứng”. Bất luận quư vị cầu ǵ, quư vị thấy: Cầu thành Phật mà c̣n có thể làm được, th́ cầu phú quư trong cơi trời người đáng gọi là “lông gà, vỏ tỏi”, quá dễ dàng! Thầy nói trong kinh Phật có căn cứ lư luận, đạo lư, và phương pháp để cầu, đúng lư, đúng pháp, không có ǵ chẳng cầu được! Quư vị cầu chẳng được, không có cảm ứng, là do nguyên nhân nào? Quư vị không đúng pháp, chẳng đúng lư. Đúng lư, đúng pháp mà cầu không được là do quư vị nghiệp chướng rất nặng. Chỉ cần sám trừ nghiệp chướng, những điều mong cầu sẽ cảm ứng lập tức hiện tiền, thật đấy, chẳng giả đâu! Nói theo nguyên lư, đó là nguyên lư vĩnh hằng không thay đổi trong kinh Phật, hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng, chẳng giả tí nào. Hiện thời các nhà Lượng Tử Lực học đă phát hiện đạo lư này. Tôi tin tưởng khoa học Lượng Tử dăm ba năm nữa sẽ rất phổ biến, rất hữu ích cho nhân loại, thật sự có thể giúp chúng ta giải quyết nhiều vấn đề.

      Đức Phật dạy chúng ta, nay mọi người cầu của cải, thông minh, trí huệ, khỏe mạnh, trường thọ, mọi người mong cầu những điều ấy, trong Phật pháp có phương pháp. Tôi biết phương pháp ấy là do thuở tôi học Phật, Chương Gia đại sư dạy tôi, [lúc ấy] tôi hai mươi sáu tuổi. Số mạng tôi rất khổ, là số mạng bần tiện, bần là không có của cải, tiện là không có địa vị xă hội, bần tiện đến tột cùng! Thầy dạy tôi cách thoát khỏi bần tiện, muốn thoát khỏi, dùng phương pháp ǵ? Ngài bèn dạy tôi: “Trong cửa nhà Phật, có cầu ắt ứng”. Của cải do đâu mà có? Của cải là quả báo, quả ắt có nhân. Nhân là ǵ? Nhân là tài bố thí, xả tài được phước. Mạng tôi nhằm trúng vận mạng bần tiện, lấy đâu ra tài? Cuộc sống vô cùng khốn khó, gần như tự lo cho ḿnh c̣n không xong, tiền đâu để bố thí? Thầy hỏi tôi: “Một cắc có hay không?” Một cắc th́ vẫn c̣n được! “Một đồng có được hay không?” Một đồng cũng rất miễn cưỡng, c̣n có thể, chứ nhiều hơn th́ không nổi! Thầy dạy tôi: “Anh hăy bắt đầu từ một cắc, một đồng, phải dưỡng thành cái tâm bố thí, thường có ḷng giúp đỡ người khác”. Sau đấy, tôi c̣n hiểu: Tôi không có tiền th́ tôi làm công quả. Công quả là nội tài bố thí, phước báo c̣n lớn hơn nữa. Tiền tài là ngoại tài, ngoại tài dẫu nhiều, phước báo không lớn, nội tài phước báo lớn. Tôi dùng thể lực, thời gian, và trí huệ của chính ḿnh để phục vụ đại chúng, đó đều gọi là “nội tài bố thí”, đều thuộc tài bố thí, đạt được của cải. Thầy dạy, tôi bèn thật sự làm. Nhân của thông minh, trí huệ là quả báo là ǵ? Nhân là pháp bố thí. Pháp là ǵ? Ta biết, ta hiểu, bèn hoan hỷ truyền dạy người khác, vui vẻ dạy người khác, người khác chẳng hiểu, ta dạy họ, đó gọi là pháp bố thí. Pháp bố thí có quả báo là tăng trưởng thông minh, trí huệ.

      Loại thứ ba là vô úy bố thí, quả báo là được khỏe mạnh, trường thọ. Vô úy là ǵ? Giúp hết thảy chúng sanh khổ nạn rời ĺa kinh hoảng, sợ hăi, đó là vô úy bố thí. Đặc biệt là khi đau khổ, ngă bệnh, cần người khác giúp đỡ, khi gặp nạn gấp cần người khác giúp đỡ, gặp người có khó khăn bèn giúp một tay, sẽ được khỏe mạnh, trường thọ. Trong cuộc sống hằng ngày, quan trọng nhất là chẳng sát sanh, không ăn thịt. Đó là ǵ? Đấy là vô úy bố thí, quư vị chẳng tổn hại chúng sanh. Tích cực phóng sanh. Phóng sanh là cứu mạng, một con cá, một con tôm cũng là một cái mạng, quư vị có thể giúp cho chúng sống thêm vài ngày, chúng rất cảm ơn quư vị; quả báo là được khỏe mạnh, trường thọ. Tôi tiếp nhận lời giáo huấn của thầy; v́ thế, quư vị thấy tôi bắt đầu học tập chưa đầy nửa năm bèn ăn chay trường. V́ sao? V́ tôi biết chính ḿnh thọ mạng chẳng dài, rất nhiều người xem tướng, đoán số cho tôi, nói tôi sống không quá bốn mươi lăm tuổi. Tôi tin tưởng, thọ mạng của chính ḿnh đă định sẵn là bốn mươi lăm tuổi, học Phật đến năm bốn mươi lăm tuổi, nhất định phải có thành tựu, v́ sau bốn mươi lăm tuổi sẽ chẳng c̣n [cái thân] nữa! Do vậy, tôi cũng rất sốt sắng học tập ba thứ bố thí ấy. Khó khăn đến đâu, tâm bố thí vẫn là chân tâm, thật sự làm. Hiệu quả vô cùng rơ rệt, đúng là từ khi phát tâm ấy, một đồng, một cắc bố thí, sau đôi ba năm, thâu nhập tăng hơn nhiều, hữu hiệu. Bố thí càng nhiều hơn, càng thí càng nhiều, chẳng giả tí nào, chứng minh những điều đức Phật đă giảng trong kinh là thật.     

Pháp bố thí là học kinh giáo. Lên đài giảng kinh, ba thứ bố thí đầy đủ. Giảng kinh cần đến thể lực, thời gian, tinh thần, đấy là ǵ? Nội tài bố thí. Giảng giải kinh điển Phật pháp cho mọi người, đó là pháp bố thí. Sau khi quư vị thật sự nghe hiểu kinh điển, học tập, có thể tiêu trừ hết thảy khổ nạn, đó là vô úy bố thí. V́ vậy, thuở ấy, thầy cổ vũ, khích lệ tôi giảng kinh, lên đài giảng kinh. Khi thầy khích lệ tôi, tôi sợ hăi, thưa: “Con đến Đài Trung là để nghe kinh, theo thầy học tập, con chẳng dám lên đài giảng kinh. Con c̣n nghe nói, trong Phật môn có lời truyền: ‘Nói trật một chữ, sẽ phải đọa làm thân chồn hoang năm trăm đời’, sợ quá, làm sao dám giảng?” Cuối cùng vẫn nghe theo quyết định của thầy. Thầy nói: “Đúng vậy, nói trật một chữ, tự đọa làm thân chồn hoang, chuyện ấy chẳng phải là giả, thật đấy! Nhưng vào thời cổ, giảng kinh phải chứng quả th́ mới có thể giảng kinh; chưa chứng quả, chẳng thể giảng kinh. V́ thế, cổ thánh tiên hiền chú giải kinh đều là người đă chứng quả, chẳng phải là phàm nhân; nhưng trong thời đại hiện tại, không chỉ chẳng có người chứng quả, mà người khai ngộ cũng không có. Nếu chúng ta chẳng phát tâm giảng, Phật pháp sẽ bị tiêu diệt trong đời này”. Thầy nói lời ấy, lời lẽ nghiêm trọng, cách làm ra sao? “Chúng ta nhất định phải phát tâm cứu vớt Phật giáo. Do vậy, anh nhất định phải phát tâm học giảng kinh. Giảng bằng cách nào trong khi chính ḿnh chưa khai ngộ? Giảng chú giải của cổ nhân. Chúng ta giảng trật là do cổ nhân chú giải trật, họ chịu trách nhiệm, chúng ta chẳng lănh trách nhiệm”. Thầy chỉ điểm khiến chúng tôi tỉnh ngộ. [Giảng kinh trong hiện thời] giống như chú giải của cổ nhân viết bằng lối văn Văn Ngôn, chúng ta dịch Văn Ngôn thành văn Bạch Thoại, chúng ta có thể làm được điều này. Nếu chúng ta gặp khó khăn khi đọc Văn Ngôn, nay các pháp sư cận đại có chú giải bằng văn Bạch Thoại, chúng ta dùng những thứ ấy. Thầy chỉ định chú giải của những vị nào có thể đọc, v́ sao? Họ có tu, thật sự tu hành, chẳng nói tùy tiện. Thầy chỉ định tôi đọc [các bản chú giải] của pháp sư Đế Nhàn, pháp sư Đàm Hư, pháp sư Viên Anh, và pháp sư Hưng Từ, kể ra bảy tám thứ, “anh đọc những tác phẩm của các vị pháp sư ấy sẽ chẳng trật”. Chúng tôi đi theo con đường ấy mới phát khởi tâm học giảng kinh; v́ lẽ đó, chẳng rời chú giải của cổ nhân.

      Tôi giảng kinh Hoa Nghiêm theo hai vị thầy, một vị là Thanh Lương, vị kia là cư sĩ Lư Thông Huyền, [tức là dựa trên hai bản chú giải Hoa Nghiêm Kinh] Sớ Sao của Thanh Lương đại sư và Hợp Luận của Lư Thông Huyền. Tôi tham khảo hai bản chú giải ấy để giảng. Lần này, chúng tôi giảng kinh Vô Lượng Thọ, hoàn toàn dùng bản chú giải của lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ. Tôi vô cùng cảm tạ cụ đă soạn chú giải cho kinh này hay như thế, thật khó có! Tôi và cụ đến lúc tuổi già mới gặp được nhau, lúc ấy, cụ đă bảy mươi mấy tuổi, tôi ngoài sáu mươi. Người đầu tiên gọi tôi là “lăo pháp sư” chính là cụ. Sáu mươi tuổi là lăo nhân, tôi đă hơn sáu mươi tuổi. Gặp cụ ở Bắc Kinh, cụ liền bảo học tṛ gọi tôi là lăo pháp sư. Viết bản chú giải này chẳng dễ dàng, cụ một thân bệnh tật nặng nề, ngày đêm chẳng ngủ, chẳng nghỉ ngơi, hoàn thành bản chú giải này, tôi thấy vậy vô cùng cảm động. Sau khi sách hoàn thành, cụ muốn tôi viết lời tựa, tôi cũng vâng lệnh viết, quư vị đă thấy [lời tựa ấy] trong bản Chú Giải. V́ vậy, tôi giảng lần này nhằm kỷ niệm cụ, đặc biệt treo h́nh cụ ở đây. Lúc cụ văng sanh, gần như là trong thời gian nửa năm, mỗi ngày cụ niệm Phật hiệu mười bốn vạn câu, sanh về thế giới Cực Lạc. Sau khi hoàn thành chú giải, cụ thật sự buông xuống hết thảy. Cụ đă học rất nhiều, từng học Thiền, theo lăo ḥa thượng Hư Vân học Thiền, cũng học Mật, Tông Môn, Giáo Hạ cụ đều đă từng nghiên cứu, tới lúc mạng chung đều buông xuống hết, một câu A Di Đà Phật niệm đến cùng. Điều này có liên quan đến thầy cụ. Thầy của cụ là cư sĩ Hạ Liên Cư. Cư sĩ Hạ Liên Cư cũng thông Tông, thông Giáo, cuối cùng, lúc mất là một câu Phật hiệu, nhất tâm chuyên cầu Tịnh Độ.

      Tôi theo thầy Lư mười năm, nói thật ra, thầy cũng là Tông, Giáo, Hiển, Mật đều thử qua, cụ dạy tôi chớ nên lăng phí thời gian, mà hăy thâm nhập một môn, chuyên tu Tịnh Độ, thời gian [đă tốn để học các tông, các pháp khác] đúng là lăng phí. Quư vị thấy: Đến cuối cùng, hữu dụng vẫn là một câu Phật hiệu, giúp cụ văng sanh. Do vậy biết: Người thật sự văng sanh với phẩm vị cao là ai? Ông già bà cả ở làng quê, chuyện ǵ cũng đều chẳng biết, thứ ǵ cũng chưa từng học, cứ một câu A Di Đà Phật niệm suốt ngày từ sáng đến tối. Lúc ra đi, đứng mất, ngồi mất, biết trước lúc mất, chẳng ngă bệnh, thật tuyệt vời! V́ thế, thầy Lư thường nói: “Học theo kẻ ngu, tự ḿnh muốn học theo kẻ ngu, mà mấy chục năm học chẳng giống!” Ngu nhưng không ai sánh bằng, cổ nhân nói câu ấy hết sức có lư! Thông minh, tự cho ḿnh là thông minh, chẳng bằng bà cụ già ở nông thôn, suốt đời nhất tâm, một môn, phẩm vị văng sanh cao. Quư vị thấy người đồ đệ làm nghề vá nồi, chuyện này rất nhiều người biết, pháp sư Đế Nhàn đă nói về tŕnh độ và thành tựu của người thợ vá nồi như sau: “Những vị phương trượng trụ tŕ các đại đạo tràng tại các danh sơn đương thời đều chẳng bằng ông, đại pháp sư giảng kinh, giáo học cũng chẳng bằng ông”. Quư vị thấy ông ta chẳng sanh bệnh, biết trước lúc mất, đứng mất. Sau khi đă chết, vẫn đứng sừng sững ba ngày, chờ thầy đến lo liệu hậu sự. Người đă chết vẫn đứng ba ngày, có vị pháp sư giảng kinh, hay phương trượng trụ tŕ nào có thể sánh bằng ông ta? Ông ta niệm một câu A Di Đà Phật ba năm, thời gian cũng chẳng dài, nêu gương tốt đẹp!

      Khoảng bốn mươi năm trước, lúc Phật Quang Sơn vừa mới khai sơn, lập một Phật Học Viện, pháp sư Tinh Vân t́m tôi, tôi dạy mười tháng ở đó, đảm nhiệm chức chủ nhiệm giáo vụ. Có một ngày, có một người thợ làm công dài hạn [cho nhà chùa] bảo tôi: Ở quê ông ta thuộc vùng nông thôn Đài Nam, hàng xóm có một bà cụ già, chuyện ǵ cũng chẳng biết, con dâu của cụ hiểu Phật pháp đôi chút. Bà cụ lạy thần, lễ Phật, ǵ cũng lạy tuốt! Cưới cô con dâu ấy về, nàng dâu khuyên mẹ chồng đừng đi khắp nơi lạy lục lung tung, hăy lập Phật đường trong nhà, chuyên niệm A Di Đà Phật. Mẹ chồng rất nghe lời nàng dâu, thật sự làm, niệm ba năm, đứng văng sanh. Người công nhân ấy kể cho tôi biết, đó là chuyện thật, chẳng giả tí nào, chính mắt ông ta thấy, niệm Phật ba năm đấy nhé! Những người ấy văng sanh phẩm vị tuyệt đối chẳng phải là hạ bối văng sanh. Văng sanh với thành tựu giống như vậy, phẩm vị chắc chắn là thượng bối, chẳng phải là trung hạ. Ra đi tiêu sái, tự tại dường ấy, những người ấy thị hiện cho chúng ta thấy.

      Chuyện gần nhất là mấy năm trước, phải là bốn hay năm năm trước, ông Hoàng Trung Xương ở Thâm Quyến, là một người trẻ tuổi, ba mươi mấy tuổi, phát nguyện thí nghiệm: “Tôi bế quan niệm Phật ba năm thử coi có được hay không?” Mỗi ngày một bộ kinh Vô Lượng Thọ, bản hội tập, thời gian c̣n lại đều là niệm A Di Đà Phật. Chiếu theo phương pháp lăo ḥa thượng Đế Nhàn đă dạy người thợ vá nồi, niệm mệt bèn nghỉ ngơi, chẳng phân biệt ngày hay đêm, niệm mệt bèn nghỉ ngơi, nghỉ khỏe rồi lại niệm tiếp. Ông ta phát tâm niệm ba năm, niệm tới hai năm mười tháng, c̣n thiếu hai tháng nữa mới viên măn, đă ra đi. Biết trước lúc mất, niệm hai năm mười tháng bèn thành công, văng sanh. Ông này được bà Hướng Tiểu Lỵ hộ tŕ. Hướng Tiểu Lỵ đă thật sự bảo vệ, đưa một người về thế giới Cực Lạc, công đức ấy chẳng thể nghĩ bàn! Đại Từ Bồ Tát dạy chúng ta: Quư vị có thể d́u dắt hai người văng sanh, công đức ấy vượt trỗi chính ḿnh niệm Phật. V́ sao quư vị có thể văng sanh? Đến lúc lâm chung, họ sẽ theo A Di Đà Phật cùng đến tiếp dẫn quư vị. Điều này cho thấy công đức đưa người khác đi văng sanh chẳng thể nghĩ bàn. V́ thế, phải giảng rơ ràng chữ Phật này, phải giảng minh bạch, thật sự có chuyện ấy, chắc chắn chẳng phải là mê tín.

      Đối với bổn ư của chữ Phật, chúng ta hăy xem đoạn sau đây: “Phật giả, Phạn ngữ vi Phật Đà” (Phật là Buddha trong tiếng Phạn), trong rất nhiều kinh điển, phía sau c̣n có một chữ nữa, tức là Phật Đà Da (Buddhaya), đó là tiếng Phạn. “Kim chỉ ngôn Phật, năi tỉnh văn dă” (nay chỉ nói là Phật là lược bớt vậy). Người Hoa chuộng đơn giản, chẳng thích rườm rà, lược bớt âm cuối, đối với chữ Phật Đà Da, chỉ chừa lại một chữ Phật, hai chữ ở phía sau đều lược bớt, tỉnh lược. “Dịch vi Hoa ngôn, tắc vi Giác Giả. Tự giác, giác tha, giác hạnh viên măn” (dịch sang tiếng Hán là Giác Giả, tự giác, giác tha, giác hạnh viên măn). Chữ này nghĩa là ǵ? Nghĩa là giác ngộ. Giác Giả là người giác ngộ, giác ngộ là ǵ? Một là tự giác, tức là chính ḿnh giác ngộ. Thứ hai là giác tha, tức giúp cho người khác giác ngộ. Thứ ba là tự giác và giác tha đều đạt tới viên măn. Viên măn là ǵ? Minh tâm kiến tánh là viên măn, nói theo kiểu này. Nếu giác măn là hết thảy chúng sanh đều giác ngộ, vậy th́ rất nhiều chúng sanh vẫn chẳng giác ngộ, làm sao quư vị có thể thành Phật cho được? V́ thế, Giác Tha chẳng có ư nghĩa này! Giác Tha là ǵ? Giác Tha giúp đỡ tự giác. Người Trung Quốc nói: “Giáo học tương trưởng” (dạy và học giúp nhau cùng tiến bộ), thật sự giáo học là giác ngộ. Có rất nhiều thứ chính ḿnh không biết, nhưng trong khi dạy học, khi cùng các bạn học hỏi đáp, trí huệ sẽ dấy lên, liền hiểu rơ; v́ thế, “giáo học tương trưởng”. Trong giáo học cũng có thể đắc tam-muội, cũng có thể hoát nhiên đại ngộ. V́ thế, viên măn là “minh tâm kiến tánh bèn viên măn”; chưa đạt đến minh tâm kiến tánh, vẫn là Bồ Tát. Minh tâm kiến tánh bèn thành Phật.

      “Tự giác dị ư phàm phu chi bất giác” (tự giác: Khác với phàm phu bất giác), tự giác thuộc giai đoạn nào? A La Hán. A La Hán thật sự tự giác, cũng có thể nói là buông xuống chấp trước đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, tự giác rồi. Quư vị chẳng buông xuống, dẫu học nhiều đến đâu, giảng nhiều đến đâu, trước tác suốt một đời, vẫn là bất giác, chẳng thoát ly sanh tử luân hồi. Người tự giác xuất ly lục đạo, thật sự tự giác. Phàm phu, tức là lục đạo phàm phu, dẫu sanh lên trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, tức là tầng cao nhất trong hai mươi tám tầng trời, vẫn không thoát khỏi lục đạo, chẳng thể coi là giác ngộ được! “Phàm phu” là chúng sanh trong lục đạo. “Giác tha dị ư Nhị Thừa chi độc giác” (giác tha là khác với Nhị Thừa chỉ giác ngộ riêng ḿnh), đấy là Bồ Tát. Nhị Thừa là Thanh Văn và Duyên Giác, cũng là A La Hán và Bích Chi Phật, tâm lượng của họ chẳng lớn, chỉ cầu tự giác. Họ cũng giác tha, nhưng chẳng chủ động dạy người khác. Có ai theo họ học tập, họ thích kẻ ấy bèn dạy bảo; nếu chẳng ưa thích bèn chẳng đoái hoài, đó là nói về duyên phận, chẳng giống như Bồ Tát. Đối với hết thảy chúng sanh, Bồ Tát b́nh đẳng dạy bảo, làm bạn chẳng thỉnh của chúng sanh, chúng sanh chẳng t́m Ngài, Ngài chủ động t́m đến để dạy quư vị, chủ động mà! Thích giúp đỡ người khác, đấy là Bồ Tát. “Giác măn dị ư Bồ Tát chi tại nhân” (giác măn, khác với Bồ Tát đang tu nhân), “măn” là minh tâm kiến tánh, viên măn. Người ấy có thể buông khởi tâm động niệm xuống. Khởi tâm động niệm gọi là vọng tưởng; chẳng khởi tâm, không động niệm, buông vọng tưởng xuống, trở về nương vào tự tánh, bèn minh tâm kiến tánh, đấy là thành Phật, cho nên gọi là viên măn. Bồ Tát th́ sao? Bồ Tát c̣n đang tu học, vẫn chưa đạt đến viên măn. V́ thế, Bồ Tát chỉ là buông phân biệt, chấp trước xuống, nhưng khởi tâm động niệm chưa buông xuống. Buông khởi tâm động niệm xuống bèn thành Phật.

      “Tam giác câu viên, chúng thánh trung tôn, cố xưng vi Phật” (ba thứ giác đều viên măn, là bậc cao quư nhất trong các vị thánh, nên gọi là Phật). Sở dĩ Phật là người giác ngộ viên măn, Giác Giả là bậc giác ngộ viên măn, mang ư nghĩa này. V́ thế, Phật chẳng phải là thần, mà cũng chẳng phải là tiên, mà là người, người nào vậy? Là chính ḿnh. Bản thân chúng ta đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian chẳng c̣n chấp trước nữa, biết “hễ có h́nh tướng đều là hư vọng”, thật sự có thể buông xuống, quư vị là tự giác. Người Ấn Độ gọi bậc tự giác là A La Hán, A La Hán tự giác. Buông phân biệt xuống, không chỉ chẳng chấp trước, mà đối với hết thảy các pháp ngay cả tâm phân biệt đều không có, người ấy là Bồ Tát. Không chỉ chẳng phân biệt, ngay cả khởi tâm động niệm cũng không có, tâm địa thật sự trở về thanh tịnh, b́nh đẳng, giác, người ấy thành Phật. V́ thế, Phật là chính ḿnh, chẳng phải là ai khác. Phật, Bồ Tát, A La Hán là ba danh xưng học vị trong Phật giáo, mỗi cá nhân đều có thể đạt được những học vị ấy. Nếu quư vị thật sự hạ tâm quyết định, trong một đời này, phân biệt, chấp trước thảy đều buông xuống, quư vị bèn thành Phật. Chẳng phải là ai khác, chẳng liên quan đến người khác. Người khác thành Phật, liên quan ǵ đến ta? Thích Ca Mâu Ni Phật giáo học nhằm mong mỏi chính chúng ta sẽ thành Phật, không phải là đi lạy vị Phật nào khác! Lạy vị Phật khác, Ngài sẽ lắc đầu, quư vị đến t́m ta để làm ǵ? Sai lầm rồi! Sau khi quư vị hiểu rơ, chính ḿnh phải đổ công, chính ḿnh thật sự buông xuống, chuyện này chẳng dính dáng ǵ đến học hay chẳng học, buông xuống là được! Học mà chẳng thể buông xuống, sẽ biến thành một nhà Phật học. Thuở xưa không có những học giả trong Phật môn như hiện thời, chẳng có danh xưng ấy. Cổ nhân đều là thật tu, quư vị có thể buông xuống bao nhiêu, linh tánh sẽ được nâng cao lên bấy nhiêu. Quư vị chẳng thể buông xuống, tập khí phiền năo sẽ khiến quư vị đọa lạc thấp hơn. Quư vị có thể buông xuống, sẽ được nâng cao lên, đạo lư là như vậy. V́ thế, ba thứ giác, tự giác, giác tha viên măn. Do đă viên măn nên là “chúng thánh trung tôn” (bậc tôn quư trong các thánh). “Chúng thánh”: Từ Tu Đà Hoàn trở lên là thánh nhân. Từ Tu Đà Hoàn đến A La Hán có tám đẳng cấp. Bồ Tát từ địa vị Sơ Tín tới Phật là năm mươi hai đẳng cấp, đều gọi là thánh nhân. Trong nhiều vị thánh nhân như thế, Ngài có địa vị tối cao, được gọi là Phật, chúng thánh trung tôn.

      “Hựu vân trí giả, trí tức giác chi nghĩa” (Lại gọi là bậc Trí, Trí có nghĩa là giác), đây là trí huệ, Phật có trí huệ. “Trí vô bất tri, sở vị đắc Nhất Thiết Chủng Trí, tức giác măn chi nghĩa” (Trí không ǵ chẳng biết, nói “đắc Nhất Thiết Chủng Trí”, nghĩa là giác măn). A La Hán chứng đắc Nhất Thiết Trí, Bồ Tát chứng đắc Đạo Chủng Trí, Phật chứng đắc Nhất Thiết Chủng Trí, đấy là trí huệ đạt tới rốt ráo viên măn, không ǵ chẳng biết. Bồ Tát c̣n có điều chẳng biết, A La Hán cũng thế, c̣n Phật th́ không ǵ chẳng biết. Phật là ai? Chính ḿnh. Chính ḿnh thật sự buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống, quư vị bèn khế nhập cảnh giới này. “Tại bổn kinh trung, thử xứ Phật tự, tức chỉ đại ân từ phụ, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật” (trong kinh này, chữ Phật ở đây chỉ đấng đại ân từ phụ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật). Trong kinh này, Phật ở chỗ này là ai? Người giảng bộ kinh này là Thích Ca Mâu Ni Phật, chẳng phải ai khác. Đặc biệt chỉ ra trong bộ kinh này, Thích Ca Mâu Ni Phật tượng trưng ư nghĩa ǵ. Ngày hôm nay đă hết thời gian rồi, học tới đây, ngày mai tôi sẽ giới thiệu Thích Ca Mâu Ni Phật với quư vị.

Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

Phần 42 hết

 



[1] Lượng tử lực học (Quantum mechanism) có thể coi như bắt nguồn từ sự phát hiện ra tia bức xạ từ âm cực (cathode ray) của Michael Faraday vào năm 1838 và sự phát hiện bức xạ của thể đen (black body radiation) vào năm 1859 bởi Gustav Kirchoff, nhưng cơ sở lư thuyết chỉ h́nh thành cụ thể và thu hút sự chú ư mạnh mẽ của giới khoa học kể từ khi Max Planck đưa ra thuyết lượng tử vào đầu thế kỷ 20 và Albert Einstein đă vận dụng giả thiết của Max Planck để giải thích hiện tượng quang điện. Lư thuyết Lượng Tử tiếp tục được hoàn thiện bởi Niels Bohr, W. Heisenberg, Max Born, John Von Neuman, Paul Dirac....

[2] Tăng Tử (505-435 trước Công Nguyên) tên thật là Tăng Sâm, tự là Tử Dư, người xứ Nam Vũ, nước Lỗ, có mỹ hiệu là Tông Thánh. Ông nổi tiếng với câu nói “ta mỗi ngày ba lượt phản tỉnh”. Tương truyền ông là tác giả các sách Đại Học và Hiếu Kinh của Nho Gia. Ông cũng được xếp vào hai mươi bốn tấm gương hiếu hạnh (Nhị Thập Tứ Hiếu) và có lăng mộ, miếu thờ riêng tại huyện Gia Tường, thành phố Tế Ninh, tỉnh Sơn Đông.

Hữu Tử là môn đệ của Khổng Tử, tên là Hữu Nhược, tự là Tử Hữu, người huyện Ph́ Thành, tỉnh Sơn Đông, được xếp vào hàng Thất Thập Nhị Hiền, chủ trương “lễ vi dụng, ḥa vi quư”. Do có h́nh dáng rất giống Khổng Tử, nên sau khi Khổng Tử mất, ông được các bạn đồng học kính trọng. Ông là người chuộng cổ, thông hiểu lễ nhạc, đề xướng tôn trọng lễ giáo.

[3] Thôi Bối Đồ là một trong bảy tác phẩm tiên tri nổi tiếng nhất. Về bảy tác phẩm dự ngôn nổi tiếng, có thuyết bảo đó là Càn Khôn Vạn Niên Ca của Khương Tử Nha, Mă Tiền Khóa của Khổng Minh, Tàng Đầu Thi của Lư Thuần Phong, Mai Hoa Thi của Thiệu Khang Tiết, Thiêu Bính Ca của Lưu Bá Ôn, Hoàng Thi, và Kim Lăng Tháp Bi Văn của Lưu Bá Ôn (trong thuyết này, Thôi Bối Đồ không được nhắc tới). Thuyết thứ hai nói bảy tác phẩm ấy là Mă Tiền Khóa, Thôi Bối Đồ, Thiêu Bính Ca, Càn Khôn Vạn Niên Ca, Tàng Đầu Thi và Mai Hoa Thi. Thuyết thứ ba gần giống thuyết thứ hai, nhưng thay Mai Hoa Thi bằng Hoàng Bá Thiền Sư Thi. Theo các nhà nghiên cứu, Thôi Bố Đồ xuất hiện vào khoảng thời gian 626-649, không rơ do ai trước tác. Dân gian thường cho rằng tác phẩm này do Lư Thuần Phong và Viên Thiên Cương biên soạn. Theo đó, Lư Thuần Phong vận dụng Châu Dịch để tiên đoán lịch sử Trung Quốc từ thời Đường đến hai ngàn năm sau, cho đến khi Viên Thiên Cương đẩy vào lưng, bảo hăy ngưng lại (nên gọi là Thôi Bối Đồ). Lời dự ngôn gồm năm mươi tám đoạn. Bản Thôi Bối Đồ lưu hành hiện thời có lời giải thích của Kim Thánh Thán. Mỗi một lời dự đoán bao gồm ba phần Sấm (lời dự đoán chính), Tụng là một bài thơ ngắn nói rộng thêm lời Sấm, Đồ là h́nh vẽ và phần Quái Tượng chỉ rơ lời Sấm ứng với quẻ nào trong Châu Dịch. Chẳng hạn, lời đoán thứ hai như sau: “Lũy lũy thạc quả, mạc minh kỳ số, nhất quả nhất nhân, tức tân tức cố. Tụng viết: Vạn vật thổ trung sanh, nhị cửu tiên thành thật, nhất thống định Trung Nguyên, âm thịnh dương tiên kiệt” (quả to đầy ăm ắp, chẳng biết số bao nhiêu, cứ một quả, một nhân, vừa mới lại vừa cũ. Tụng rằng: Vạn vật sanh từ đất, hai chín thành trái trước, thống nhất, Trung Nguyên yên, âm thịnh, dương cạn trước), Kim Thánh Thán giảng: “[Đồ h́nh vẽ] một đĩa đầy ắp quả mận, gồm hai mốt trái, tức là từ Đường Cao Tổ đến Chiêu Tuyên Đế (Đường Ai Đế Lư Chúc) là hai mươi mốt đời vua. ‘Nhị cửu’ có nghĩa là vận của nhà Đường là hai trăm tám mươi chín năm. ‘Âm thịnh’ chỉ Vơ Tắc Thiên nắm quyền, dâm dật, hôn mê, rối loạn triều chánh, khiến nhà Đường nghiêng ngả. Sau đấy, đến thời thịnh trị Khai Nguyên (Đường Huyền Tông), tuy đẹp đẽ sánh ngang thời Trinh Quán (Đường Thái Tông), nhưng rồi Dương Quư Phi chuốc họa, tông thất phải bôn tẩu...

[4] Thiêu Bính Ca là tác phẩm dự ngôn lưu truyền trong dân gian, tương truyền do quân sư của Minh Thái Tổ là Lưu Bá Ôn nói ra. Theo đó, Minh Thái Tổ (Châu Nguyên Chương) đang ăn thiêu bính (một loại bánh ngọt) th́ có Lưu Cơ (Lưu Bá Ôn) cầu kiến, Thái Tổ lấy chén úp lên bánh rồi thách Lưu Bá Ôn đoán dưới chén là ǵ, Lưu Bá Ôn trả lời đúng, nhân đó, hai người bàn về vận số của nhà Minh. Những lời dự đoán ấy được gọi là Thiêu Bính Ca. Thiêu Bính Ca lời lẽ bí hiểm, được rất nhiều người giải thích rất chi tiết, nhưng cũng chỉ là phỏng đoán dựa trên những sự kiện lịch sự đă xảy ra, gần giống như cách giải thích sấm Trạng Tŕnh tại Việt Nam.

[5] “Thị xích” (市尺) là đơn vị đo lường được áp dụng tại Đài Loan và Hương Cảng. Chữ “thị xích” hàm ư thước được dùng trong thị trường nhằm phân biệt với Công Xích (mét) và Anh Xích (foot). Một thị xích bằng 1/3 mét, tức 33,33 cm. Một thị xích gồm mười thốn (tấc), như vậy một thước đời Châu bằng sáu thốn của thị xích, tức là chừng 18 cm.