Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

淨土大經解演義

Phần 56

Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Huệ Trang và Đức Phong

 

Tập 111

 

      Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang một trăm ba mươi mốt, ḍng thứ ba từ dưới đếm lên:

      “Vị giáo Bồ Tát, tác A Xà Lê. Thường tập tương ứng vô biên chư hạnh” (v́ dạy Bồ Tát, làm A Xà Lê, thường tập vô biên các hạnh tương ứng). Trước kia, tôi chia hai câu kinh văn này thành hai đoạn:

      - Kể từ “thăng Quán Đảnh giai” là thọ kư sự hộ tŕ của Phật. “Thăng Quán Đảnh giai, thọ Bồ Đề kư”, hai câu này là thọ kư. “Vị giáo Bồ Tát, tác A Xà Lê”, hai câu này là “thị giáo”, tức là thực hiện sự giáo học cho mọi người thấy, nêu tấm gương tốt đẹp.

      - Câu kế đó là “thường tập tương ứng vô biên chư hạnh” nói đến sự tương ứng. Giáo học nhất định phải tương ứng, tương ứng với Tánh Đức.

      Chúng ta xem lời chú giải của Hoàng lăo cư sĩ: “A Xà Lê dịch vi Giáo Thọ” (A Xà Lê dịch là Giáo Thọ), A Xà Lê (Ācārya) là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Giáo Thọ, tức là tiếng xưng hô dành cho một vị thầy trong nhà trường. “Hựu dịch Quỹ Phạm Sư” (c̣n dịch là Quỹ Phạm Sư), dịch cách khác, ta cũng thường đọc thấy cách dịch này trong kinh điển. Quỹ () là quỹ đạo (đường lối), Phạm () là mô phạm, [chữ Quỹ Phạm Sư hàm ư] tư tưởng, kiến giải, và ngôn hạnh của vị thầy ấy có thể làm gương cho chúng ta, làm mẫu cho học tṛ, cũng như làm nề nếp cho học tṛ học tập. Chẳng thể lệch khỏi quỹ đạo, nhất định phải đi theo quỹ đạo, giống như xe lửa quyết định chẳng thể rời khỏi đường rầy, bao hàm ư nghĩa này! Tiếp theo đó là lời giải thích: “Năi quỹ phạm chánh hạnh, vị Tăng sư phạm giả chi tôn xưng” (tức là nêu chánh hạnh khuôn phép, là tiếng tôn xưng vị thầy làm khuôn mẫu cho Tăng chúng), là thầy của người xuất gia. Nói theo thực tại th́ cũng là như chúng ta thường nói “học vi nhân sư, hành vi thế phạm” (học làm thầy người, hạnh làm khuôn mẫu cho cơi đời), “quỹ phạm chánh hạnh” chính là “hành vi thế phạm”, “vi tăng sư phạm”“học vi nhân sư”. Do đó, A Xà Lê là tôn xưng.

      “Thông chỉ giáo thọ thiện pháp chi sư” ([là từ ngữ] chỉ chung các vị thầy truyền dạy pháp lành), định nghĩa ở đây rất rơ ràng và cũng rất đơn giản: Ngài là vị thầy truyền dạy thiện pháp th́ mới có thể gọi là A Xà Lê. Cũng có khi tỉnh lược, gọi là Xà Lê, cũng được, chúng ta thường thấy gọi là Xà Lê. “Kim kinh thừa ‘thăng Quán Đảnh giai’ nhi ngôn, năi chuyên chỉ Chân Ngôn A Xà Lê, hựu xưng Kim Cang A Xà Lê” (trong kinh này, do nói tiếp ngay theo câu “lên địa vị Quán Đảnh”, nên [chữ A Xà Lê ở đây] chuyên chỉ Chân Ngôn A Xà Lê, c̣n gọi là Kim Cang A Xà Lê). Trong phần trước kinh này, đă nói “thăng Quán Đảnh giai”, Mật Tông thường nói như vậy. Do vậy, kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ là Viên Giáo, giáo nghĩa của tám giáo Đại Thừa đều được bao hàm trong ấy. Bởi lẽ, trong kinh này có giáo nghĩa Mật Tông, có giáo nghĩa Thiền Tông, như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Pháp Tướng Duy Thức, cho đến Luật Tông, thảy đều có. V́ thế, từ các câu kinh văn, chúng ta thường có thể thấy và hiểu kinh này mới là kinh điển chí cao vô thượng đại viên măn. Do tiếp ngay theo câu “thăng Quán Đảnh giai, thọ Bồ Đề kư” trước đó, nên cũng có thể nói [chữ A Xà Lê] ở đây [dùng theo ngữ cảnh] Mật Tông, chuyên chỉ Chân Ngôn A Xà Lê, c̣n gọi là Kim Cang A Xà Lê.

      “Năi thiệu thừa Kim Cang Tát Đỏa tổ vị, tác truyền pháp quán đảnh giả chi xưng hiệu” (chính là cách gọi người kế thừa ngôi vị Tổ của ngài Kim Cang Tát Đỏa làm người truyền pháp quán đảnh), đây là một cách xưng hô trong Mật Tông, [tiếp nối] Kim Cang Tát Đỏa tổ vị. Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva) c̣n được gọi là Kim Cang Thủ Bồ Tát (Vajrapāni). Chân Ngôn Tông là Mật Tông. Trong tám vị tổ sư của Mật Tông[1], đây là vị tổ đời thứ hai. Đại Nhật Như Lai là đệ nhất tổ, là sơ tổ, Kim Cang Thủ Bồ Tát là nhị tổ. Vị tổ sư này có quan hệ rất mật thiết với Hoa Nghiêm, v́ Ngài chính là Phổ Hiền Bồ Tát trong kinh Hoa Nghiêm. Phổ Hiền Bồ Tát là nhị tổ trong Mật Tông. Trong Mật Tông, không gọi Ngài là Phổ Hiền, mà gọi là Kim Cang Tát Đỏa, hoặc là Kim Cang Thủ Bồ Tát[2]. Hiển và Mật là một Thể, Mật là Mật của Hiển, Hiển là Hiển của Mật. Nói cách khác, Hiển giáo là hiển thuyết của Mật Tông. Mật Tông là mật thuyết của Hiển Giáo, là một, không hai! V́ sao có nhiều phương thức giáo học như thế? V́ căn tánh của chúng sanh khác nhau. Pháp Thân đại sĩ, chư Phật Như Lai luôn tùy thuận tâm của chúng sanh để ứng với khả năng nhận biết của họ. Nói cách khác, Pháp Thân Bồ Tát, chư Phật Như Lai quyết định chẳng khởi tâm động niệm, chúng ta nhất định phải nhận biết rơ ràng điều này.

      Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện trên địa cầu này, chúng ta nh́n vào giai đoạn lịch sử ấy, trong tám tướng thành đạo, tướng thứ bảy là Chuyển Pháp Luân. Từ cung trời Đâu Suất giáng hạ, có khởi tâm động niệm hay không? Chẳng có. Nếu khởi tâm động niệm, Ngài là phàm phu, không chỉ chẳng thể xưng là Phật, mà ngay cả danh hiệu Pháp Thân Bồ Tát cũng chẳng kham nổi! Chứng đắc Pháp Thân, Pháp Thân là ǵ? Tất cả hết thảy hiện tượng trọn khắp pháp giới hư không giới đều gọi là Pháp Thân. Pháp là vạn pháp, vạn pháp nhất Thể th́ gọi là Pháp Thân. Đến khi nào quư vị có thể chứng đắc, [sẽ nhận biết] nó (Pháp Thân) ở ngay trước mặt, chưa hề rời khỏi. V́ sao chúng ta mê? Do đă mê nên mới có phân biệt, mới có chấp trước, mới có khởi tâm động niệm. Phân biệt, chấp trước là trật rồi, chẳng biết vạn pháp và chính ḿnh là một Thể! Khi nào quư vị đă giác ngộ, nói theo Phật pháp là “thật sự buông khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước xuống”, khi ấy, quư vị liền biết khắp pháp giới hư không giới và chính ḿnh là một Thể. Như trong Hoàn Nguyên Quán đă nói, vũ trụ rốt cuộc là chuyện như thế nào? Vốn là một Thể, từ một Thể khởi ra hai tác dụng. Hai tác dụng ấy, một là chánh báo, hai là y báo. Chánh báo là chính ḿnh, y báo là hoàn cảnh mà chúng ta nương tựa vào để sinh tồn và hoạt động. Tiểu hoàn cảnh là một gia đ́nh, đại hoàn cảnh là toàn thể vũ trụ. Những thứ ấy do đâu mà có? Từ một Thể hiển lộ.

      Hiển lộ như thế nào? Đă mê bèn hiện, đă giác ngộ sẽ chẳng hiện, chẳng c̣n nữa. V́ thế, trong Chứng Đạo Ca, Vĩnh Gia đại sư đă nói rất hay: “Mộng lư minh minh hữu lục thú” (trong mộng rành rành phô sáu nẻo), mộng là mê! Khi mê, rơ ràng có lục đạo luân hồi, có mười pháp giới. “Giác hậu không không vô đại thiên” (giác rồi ba cơi rỗng toang hoang), sau khi giác ngộ, sẽ chẳng c̣n nữa. Sau khi đă giác, sẽ là cảnh giới ǵ? Cảnh giới Thường Tịch Quang, là cảnh giới cao nhất trong Tịnh Độ Tông chúng ta, Thường Tịch Quang! Thường Tịch Quang là tự tánh, đă giác ngộ bèn trở về tự tánh. Khi đă mê, từ tự tánh biến hiện một hiện tượng hư huyễn, chẳng thực tại, hiện tượng ấy được gọi là “mười pháp giới”. Bất luận là chánh báo hay y báo, đức Thế Tôn dạy, chúng có các đặc tánh, được gọi là “tam biến” (ba thứ trọn khắp), tức “tam chủng châu biến”:

      1) Thứ nhất là trọn khắp pháp giới. Trọn khắp pháp giới là ǵ? Nói theo danh từ khoa học hiện thời là “năng lượng” hoặc “dao động”. Bất luận hiện tượng vật chất hay hiện tượng tinh thần, toàn bộ đều do dao động biến hiện. Chẳng có dao động, sẽ chẳng có cảnh giới ấy, chẳng có A Lại Da. V́ thế, một niệm bất giác th́ sự bất giác ấy là dao động, nên mới sanh ra hiện tượng, phát sanh hiện tượng tinh thần và hiện tượng vật chất. Quư vị thấy sự dao động ấy có tốc độ lớn chừng nào? Rất nhanh! Ư niệm vừa mới dấy lên bèn trọn khắp pháp giới, v́ sao? Pháp Tánh là một Thể, là tự tánh thanh tịnh viên minh thể, là một Thể. Người Trung Quốc có nói: “Khiên nhất phát nhi động toàn thân” (lôi một sợi tóc mà động toàn thân), chúng ta kéo một sợi tóc, toàn thân đều cảm thấy đau đớn. V́ sao? Nó là một Thể. Cho nên một niệm vừa khởi bèn trọn khắp pháp giới. Pháp giới và chính ḿnh là một Thể; do vậy, gọi là Pháp Thân. Quư vị đă thừa nhận Pháp Thân, khẳng định nó, chẳng hoài nghi chút nào. Vạn sự vạn vật trong khắp pháp giới hư không giới và chính ḿnh là một Thể, đó gọi là “chứng đắc Pháp Thân”.

      Người chứng đắc Pháp Thân bèn thành Phật. Nay chúng ta nghe đức Phật dạy trong kinh như thế, vẫn chẳng thừa nhận. Ai thừa nhận vạn sự vạn vật và chúng ta là một Thể? Chẳng có ai thừa nhận, đó là ǵ? Phàm phu. Nếu quư vị hỏi Pháp Thân Bồ Tát, hỏi chư Phật Như Lai: “Núi, sông, đại địa, cây cối hoa cỏ có cùng một Thể với quư vị hay không?” [Các Ngài sẽ đáp]: “Đúng vậy. Chẳng sai tí nào! Đúng là một Thể”. V́ sao? Bất luận tinh thần hay vật chất của chúng ta, nhục thân là một hiện tượng. Một niệm vừa động [trong tâm ta], toàn bộ các hiện tượng đều nhận biết [ư niệm ấy], núi, sông, đại địa đều biết. Nếu không biết th́ tốt quá, v́ sao? Chúng sanh tạo tác ác nghiệp, [do các hiện tượng đều không biết nên] núi, sông, đại địa sẽ chẳng có nhiều phiền phức như thế! Lại nữa, động đất, phong tai, thủy tai ǵ ǵ đi nữa, do chúng chẳng có tri giác, sẽ không có những hiện tượng [tai nạn] ấy. Chính v́ chúng ta vừa động một niệm, chúng nó biết ngay, nên có phản ứng. Chúng ta dấy động một thiện niệm, chúng có thiện phản ứng. Chúng ta dấy động một niệm bất thiện, chúng liền phản ứng bất thiện. Ư niệm tham lam, nước hiện tiền, nên thủy tai hiện tiền. Ư niệm sân hận, núi lửa bùng nổ, nhiệt độ tăng lên. Ư niệm ngu si, phong tai hiện tiền. Ngạo mạn là động đất. Các tai nạn thiên nhiên là do ư niệm bất thiện của chúng ta dẫn khởi! Nếu ư niệm của chúng ta tốt lành, sẽ đúng như đức Phật đă dạy: “Tức diệt tham, sân, si, cần tu Giới, Định, Huệ” (dứt diệt tham, sân, si, siêng tu Giới, Định, Huệ), núi, sông, đại địa và thế giới Cực Lạc bèn như nhau.

       Đại địa kiên cố nói trong kinh Địa Tạng sẽ không bị loạn, sẽ chẳng có động đất, cũng không có thủy tai, hạn hán, chẳng có những t́nh h́nh như thế, mà là mưa ḥa, gió thuận. Là v́ tất cả hết thảy hiện tượng vật chất và hiện tượng tinh thần giống như được nối vào mạng lưới Internet của chúng ta trong hiện thời, hễ ta vừa động, toàn bộ chúng nó đều biết. V́ thế, toàn thể vũ trụ và chính ḿnh là một Thể. Toàn thể vũ trụ là sống động, chẳng chết cứng, nó có thể thấy, nghe, hiểu ư nghĩ của con người. Mấy năm trước, tiến sĩ Giang Bổn Thắng của Nhật Bản đă làm thí nghiệm với nước, phát hiện nước là vật chất, nhưng có thể thấy, nghe, hiểu ư nghĩ con người, biến hóa theo ư niệm của chúng ta. Nước có thể [phản ứng như vậy]. Lại xét tới những hiện tượng vật chất khác, chúng đều có thể, cây cối, hoa, cỏ cũng có thể. Có người đă thí nghiệm trên hai cây bồn tài (bonsai). Đối với hai cây bonsai, dùng thời gian và phương thức vun bón giống hệt như nhau. Vun bón thành công, quư vị thấy hai cây giống như nhau, đem chúng làm thí nghiệm. Hai chậu đặt ở hai góc pḥng. Bên này đặt một chậu, quư vị mỗi ngày cười với nó, nói: “Ta rất thích ngươi, rất yêu mến ngươi”. C̣n với chậu kia th́: “Tao ghét mày quá, chẳng ưa mày!” Sau hai tuần, chậu mỗi ngày cười với nó sẽ hết sức tươi tốt. Chậu mỗi ngày bị quở đáng ghét sẽ dần dần khô héo, chết khô. Quư vị thấy đó: Cây hiểu ư niệm của con người! Đó là nói về cây cối, hoa cỏ. Chúng tôi hiểu đạo lư này; v́ thế, tại Úc, chúng tôi trồng một vườn rau lớn, và cũng trồng rất nhiều cây ăn trái. Vườn rất lớn, trồng hơn ba mươi loại cây ăn trái. Chúng tôi hiểu rơ đạo lư này, để cho hoa, cỏ, cây cối mỗi ngày đều nghe Phật hiệu, hoặc mỗi ngày nghe nhạc Phật giáo. Chúng tôi đi qua, đều gọi hoa, cỏ, cây cối là Bồ Tát, cung cung kính kính, cây cối bèn sanh trưởng thật tốt. Chúng tôi chẳng dùng phân bón hóa học, cũng chẳng dùng thuốc sát trùng, hoa nở rất đẹp, quả phát triển rất tươi ngon. Những nông dân trồng cây ăn quả ở gần đó đến thăm chúng tôi, đều kinh ngạc: “Các vị dùng phương pháp ǵ mà trồng ngon lành như vậy?” Sau đấy, chúng tôi bảo họ, dùng thiện tâm thiện ư để vun bồi. V́ thế, thiện tâm thiện ư đối với núi, sông, đại địa, chúng sẽ không bị loạn động, chẳng có những tai nạn. Chúng ta phải hiểu đạo lư này.

      “Tương ứng” có nghĩa là “khế hợp”. Trong Phật pháp, nói theo Đại Thừa Phật pháp, chẳng có ǵ không tương ứng. “Như tam mật tương ứng dữ cảnh trí tương ứng” (như tam mật tương ứng và cảnh trí tương ứng): “Cảnh” là hoàn cảnh bên ngoài, nay chúng ta gọi là hoàn cảnh vật chất. Nay chúng ta gọi “trí” là hoàn cảnh tinh thần. Tam Mật là công phu tu hành. “Tam” là ǵ? Chỉ thân, khẩu, ư, thân phải lễ kính, đối với hết thảy chúng sanh phải biết lễ kính; khẩu nghiệp tán thán; ư là trong tâm cung kính, có ḷng thành kính, chân thành cung kính, biểu hiện ra ngoài là lễ, lễ độ. Đối với người như thế, mà đối với sự cũng là như thế, đối với thiên địa vạn vật cũng là như thế, đó là ǵ? Đó là Tánh Đức trong tự tánh của chúng ta. Phật, Bồ Tát làm được, chúng ta chẳng thể tưởng tượng cảnh giới của các Ngài, trong giáo pháp Đại Thừa thường nói là “tự tánh chẳng thể nghĩ bàn”. Kiến tánh, cũng là tự tánh chẳng có lớn hay nhỏ, tự tánh chẳng có trước hay sau, tự tánh chẳng có xa hay gần, chúng ta không có cách nào tưởng tượng điều này. Trong tự tánh thanh tịnh tịch diệt, Phật pháp thường nói là “cảnh giới Đại Bát Niết Bàn”, sống động, hoạt bát, chẳng chết cứng! Tuy trong tự tánh thứ ǵ cũng chẳng có, nhưng thứ ǵ nó cũng đều có thể hiện. Do nó có thể hiện, nên chẳng thể nói nó là Không. Do những h́nh tượng được hiện ấy là huyễn tướng, nên quư vị chẳng thể nói nó là Có, v́ sao? Nó là tướng sanh diệt, tốc độ sanh diệt nhanh chóng, nhục nhăn của chúng ta nh́n chẳng ra!

      Hiện thời, các nhà Lượng Tử Lực Học bảo chúng ta, những điều họ nói giống như trong kinh Phật đă nói. Tốc độ [sanh diệt] nhanh chóng, chúng ta chẳng có cách nào tưởng tượng được, quá nhanh! Trong kinh Phật nói là một cái khảy ngón tay, trong cuộc đối thoại giữa Di Lặc Bồ Tát và đức Thế Tôn, [Di Lặc Bồ Tát đă nói] trong một cái khảy ngón tay có bao nhiêu niệm? Niệm ấy là một niệm sanh diệt, “ba mươi hai ức trăm ngàn niệm”. Lấy trăm ngàn làm đơn vị, một trăm ngàn là mười vạn, ba mươi hai ức nhân với mười vạn là ba trăm hai mươi triệu, quư vị thấy một cái khảy ngón tay là ba trăm hai mươi triệu niệm. Nếu chúng ta khảy nhanh, tôi tin tưởng có người khảy nhanh hơn tôi, một giây có thể khảy năm lần. Nếu khảy năm lần, ba trăm hai mươi triệu nhân với năm, một giây có bao nhiêu lần? Một ngàn sáu trăm triệu, làm sao chúng ta tưởng tượng được? V́ thế, tướng ấy có thật hay chăng? Chẳng thật. Chúng ta xem những hiện tượng ấy, các nhà Lượng Tử Lực Học đă cho chúng ta biết đó là ǵ? Vốn là những ư niệm tích lũy liên tục sanh ra huyễn tướng. Huyễn tướng ấy rất nhiều, mỗi tướng khác nhau, rất nhiều là v́ tần suất [dao động] của chúng khác nhau. Tần suất chậm sẽ biến thành chất rắn, chúng ta gọi các vật ấy là hiện tượng vật chất. Hiện tượng vật chất hết sức cứng chắc, giống như kim cương, đá quư, [chúng do các ư niệm dao động với] tần suất chậm [biến ra]. [Tần suất] nhanh hơn một chút, vật chất sẽ khá lỏng lẻo. Hơi nhanh hơn một chút th́ vẫn là hiện tượng vật chất, nhưng chẳng cứng chắc như thế. Nếu nhanh hơn chút nữa, sẽ biến thành thực vật, biến thành nhục thể của chúng ta. Nhanh nhất, tức là như sóng điện từ trong khoa học hiện đại, đó là tốc độ nhanh chóng. Do tần suất [dao động] khác nhau [mà có các huyễn tướng khác nhau], các nhà khoa học hiện thời đă nói như thế.

      Chúng ta biết tam mật tương ứng và cảnh trí tương ứng, vậy th́ chúng ta khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác, tự nhiên phải cẩn thận, thận trọng. Chớ nên dấy lên vọng niệm, chớ nên nói bừa, chuyện tà ác quyết định chớ nên làm. Khởi tâm động niệm nhất định tương ứng với Tánh Đức, v́ sao? Tánh Đức là tận thiện tận mỹ, tổ tiên Trung Quốc đă nói “bổn tánh bổn thiện”, đó là tự tánh, là Tánh Đức. Hễ tương phản th́ chẳng phải là tự tánh, đó là sai lầm. Hiện thời, địa cầu trở thành nông nỗi này là do nhân ǵ? Người sống trên địa cầu này, đại đa số đă trái nghịch Tánh Đức, tam nghiệp chẳng tương ứng với cảnh trí, cho nên mới biến thành tam đồ lục đạo, biến thành nông nỗi ấy! Khi chẳng sanh biến hóa th́ như thế nào? Chẳng sanh biến hóa th́ cũng là tam mật và cảnh trí hoàn toàn tương ứng. Người Hoa nói “minh đức, thân dân, chỉ ư chí thiện”, hoàn toàn tương ứng với Tánh Đức, đó là thế giới ǵ? Cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai, là thế giới Cực Lạc được giới thiệu trong kinh Vô Lượng Thọ, là thế giới Hoa Tạng của Tỳ Lô Giá Na Phật được giới thiệu trong kinh Hoa Nghiêm, hoàn toàn tương ứng [với những thế giới ấy].

      Do vậy, có thể biết: Nay chúng ta sống trong hoàn cảnh này là hoàn cảnh bất hảo, chớ nên oán trời, trách người, v́ sao? Tâm hạnh của chính chúng ta bất thiện đă biến hiện cảnh giới ấy. Có lẽ có người nói “tâm hạnh của tôi rất tốt lành, cớ sao phải ở chung với những người ấy?” Đó là do chúng ta có chung cộng nghiệp với họ; cũng có nghĩa là người trên quả địa cầu này, vạn sự vạn vật đều có duyên với ta. Họ tạo tác bất thiện, ta tạo tác thiện pháp, thiện và bất thiện dung hợp, thiện biến thành bất thiện, mức độ bất thiện bị giảm nhẹ, ḥa hoăn hơn! Có nghĩa là ǵ? Người hành thiện giúp kẻ bất thiện tiêu tan tội nghiệp, chẳng phải là như vậy hay sao? Có phải là chuyện tốt đẹp hay không? Là chuyện tốt đẹp. Chúng ta có bị mắc hại hay không? Chẳng có! Quyết định chẳng bị hại mảy may nào! Nếu do tai nạn ngoài ư muốn, chúng ta cũng chết th́ có bị hại hay không? Chẳng có! Đă chết bèn sanh về thế giới Cực Lạc, chết rồi bèn sanh về Tịnh Độ của chư Phật, hoặc là chết rồi bèn sanh vào thiên đạo, đó là chuyện tốt, chẳng phải là chuyện xấu. Kẻ tạo tội nghiệp bất thiện, cũng chết trong tai nạn ấy, nhưng chết rồi sẽ sanh vào tam đồ, v́ sao? Ḥng tiêu trừ tội nghiệp, đó là chuyện tốt, không phải chuyện xấu. Người hành thiện cũng là chuyện tốt, đến hưởng phước trên cơi trời, đến Tịnh Độ của chư Phật, chẳng có ǵ không phải là chuyện tốt! Nếu quư vị thật sự giác ngộ, nh́n thấu suốt, mỗi người trên thế gian này đều là người tốt, mọi chuyện đều là chuyện tốt, trong thế gian này, quư vị sẽ tâm b́nh khí ḥa. Quư vị hiểu rơ rệt, minh bạch, biết chính ḿnh phải làm cách nào ḥng thành tựu chính ḿnh, giúp đỡ chúng sanh. Đó là thật sự giác ngộ.

      “Mật Tông dĩ tam mật tương ứng chi chỉ vi chủ” (Mật Tông coi tông chỉ “tam mật tương ứng” là chủ yếu), đó là phương pháp tu hành trong Mật Tông. Trên thực tế, phương pháp niệm Phật của chúng ta và phương pháp của họ hết sức tương ứng, rất gần gũi. Tam Mật là “miệng niệm chú, ư quán tưởng, tay kết ấn”. Tay kết ấn thuộc về thân nghiệp, quư vị thấy thân - khẩu - ư tương ứng. Chúng ta là đệ tử Phật môn, thông thường hễ trông thấy người khác bèn chắp tay “A Di Đà Phật”, xá người khác, đó là tam mật tương ứng. Chắp tay chính là thủ ấn, là kết ấn. Chắp tay có nghĩa là ǵ? Mười đầu ngón tay tượng trưng cái tâm rất tán loạn của chúng ta, vọng niệm rất nhiều. Chắp tay có ư nghĩa thâu hồi ư niệm của chúng ta, thâu hồi vọng niệm lại, biểu thị sự cung kính. Ta nhất tâm, nhất tâm là cung kính; do vậy, chắp tay biểu thị cung kính, đó là kết ấn. Trong tâm biểu lộ thành kính, miệng tán thán, lễ kính và tán thán cũng là tam mật tương ứng. Khi chúng ta niệm Phật, miệng niệm “Nam-mô A Di Đà Phật”, chắp tay là kết ấn, hoặc cầm xâu chuỗi cũng là kết ấn. Trên tay cầm xâu chuỗi có nghĩa là ǵ? B́nh thường, xâu chuỗi biểu thị hai tác dụng:

      1) Một tác dụng là nhắc nhở chính ḿnh niệm Phật, sợ quên mất. Rất nhiều người niệm Phật, niệm đến cuối cùng chẳng biết đă quên bẵng lúc nào, tâm chẳng biết đă chạy đến đâu rồi, cho nên xâu chuỗi nhắc nhở quư vị.

      2) Thứ hai là xâu chuỗi để đếm số, ta mỗi ngày niệm Phật bao nhiêu câu, đếm số [để có công khóa nhất định]!

      Có hai tác dụng ấy! Thông thường, đếm số lúc mới sơ học, nhiếp tâm [bằng cách] đếm số, c̣n nhắc nhở là đối với những người tu hành đă lâu, niệm Phật đă có công phu kha khá, sợ “thất niệm”. Thất niệm là quên mất, tâm chạy theo vọng tưởng, quên khuấy Phật hiệu. V́ thế, [xâu chuỗi] nhằm nhắc nhở quư vị, có hai loại ư nghĩa ấy.

      Trong tâm nghĩ tưởng A Di Đà Phật, Đại Thế Chí Bồ Tát dạy chúng ta: “Ức Phật, niệm Phật, hiện tiền đương lai, tất định kiến Phật” (nhớ Phật, niệm Phật, hiện tại, tương lai, nhất định thấy Phật). Ức Phật là nghĩ tới Phật, trong tâm thường nghĩ tới A Di Đà Phật. V́ thế, khi đă niệm thuộc kinh Vô Lượng Thọ sẽ tốt lắm. Nghĩ tới công đức, đại nguyện, sự tu hành, đại từ đại bi phổ độ chúng sanh của A Di Đà Phật, chẳng nghĩ ǵ khác, đó gọi là Ức Phật. Niệm Phật, tŕ danh hiệu Phật, v́ sao? A Di Đà Phật dạy chúng ta như vậy. Nếu quư vị muốn văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, hăy thường thường chấp tŕ danh hiệu. “Chấp” () là chấp trước, “tŕ” () là bảo tŕ (ǵn giữ), chớ nên vứt bỏ. Phật pháp luôn dạy chúng ta buông xuống, chỉ riêng Phật hiệu là chẳng thể buông xuống. Buông Phật hiệu xuống, quư vị chẳng có ǵ để nương cậy! Thứ ǵ cũng buông xuống, nhưng chuyên môn chấp trước Phật hiệu. Thứ này giống như phi thuyền bay trong vũ trụ, câu Phật hiệu này là tuyến đường bay. Chỉ cần noi theo Phật hiệu, quư vị chẳng bị lạc khỏi tuyến đường hành tŕnh, nó sẽ dẫn quư vị đến thế giới Cực Lạc. Do một câu Phật hiệu niệm niệm đều tương ứng với Tây Phương Cực Lạc thế giới, tâm chúng ta khởi niệm ở nơi đây, A Di Đà Phật ở bên kia liền nhận được. Niệm niệm tương ứng, chẳng lạc lối mảy may, phương pháp này mầu nhiệm tột bậc! Quư vị đừng hỏi thế giới Cực Lạc ở nơi đâu, chỉ cần giữ vững danh hiệu ấy, chắc chắn sẽ đạt đến. Đánh mất danh hiệu này, có thể sẽ đi sai chỗ, chẳng đến được! A Di Đà Phật dạy chúng ta phương pháp này là có lư, tuyệt đối chớ nên lầm lỡ, phải biết phương pháp này là trọng yếu, phương pháp này cũng là một loại Mật pháp.

      “Vị linh chúng sanh thân khẩu ư tam nghiệp đốn khế Như Lai tam mật, cố tức thân thành Phật. Cố Mật Tông diệc xưng Tương Ứng Tông” (V́ khiến cho ba nghiệp thân, khẩu, ư của chúng sanh nhanh chóng khế hợp tam mật của Như Lai, cho nên thành Phật ngay trong thân này. Do đó, Mật Tông c̣n gọi là Tương Ứng Tông). Quư vị xét xem, Tịnh Độ của chúng ta có phải là Tương Ứng Tông hay không? Có cùng một ư nghĩa! V́ thế, tu hành phải thâm nhập một môn, huân tu lâu dài. Khi tổ sư tiếp dẫn đại chúng đă có “thù thắng dị phương tiện” (phương pháp lạ lùng thù thắng), “dị” () là pháp phương tiện khác biệt, nêu ra như thế nào? Thiền Tịnh song tu, hoặc Mật Tịnh song tu, nêu ra các phương pháp ấy. Phải biết: Đó là phương tiện thiện xảo của tổ sư v́ quư vị quá chấp trước Thiền. Bảo quư vị buông Thiền xuống để chuyên tu Tịnh Độ, quư vị chẳng đành ḷng, chẳng muốn, sẽ nẩy sanh phiền năo. Tổ sư thấy rất rơ ràng, biết quư vị tu Thiền chẳng thành công, khuyên quư vị học Tịnh Độ th́ quư vị lại chẳng chịu, bèn dùng pháp phương tiện, [bảo] Thiền Tịnh song tu tốt lắm: “Có Thiền, có Tịnh Độ, giống như cọp đội sừng”! Quư vị vừa nghe nói như thế bèn thích thú, cũng niệm Phật kèm thêm. Trên thực tế, nhằm vào ư nghĩa ǵ? Quư vị tu Thiền chẳng thành công, tu Tịnh bèn thành công, dùng phương pháp như vậy đó. Chúng ta đă tu Tịnh Độ, lại muốn tu Thiền th́ trật mất rồi! Tổ sư chẳng nói lời ấy với chúng ta, quư vị đi theo con đường này là chánh xác, đă đi đúng rồi, đừng đi vào ngơ rẽ! Nh́n từ chỗ này, quư vị nh́n vào kinh văn, thấy Tịnh và Mật chẳng hai! Mật là Tịnh, Tịnh là Mật. Hơn nữa, Tịnh và Mật có quan hệ càng mật thiết hơn, v́ sao? Đều là tu tâm thanh tịnh. Tịnh Độ tu tâm thanh tịnh, Mật cũng là tu tâm thanh tịnh, cho nên càng gần gũi; nhưng Tịnh thuận tiện hơn Mật, Mật đ̣i hỏi phải có căn cơ kha khá!

      Lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ bảo tôi: “Hiện thời học Mật chẳng có ai thành tựu!” Tôi đến thăm lăo nhân gia ở Bắc Kinh, có mấy lần nhắc tới vấn đề này. Trong thời đại này, từ nay về sau, Thiền và Mật đều chẳng thể nào thành tựu, thật sự có thể thành tựu th́ chỉ có tŕ danh niệm Phật! Trong kinh, đức Phật đă dạy điều này, chắc chắn chẳng giả, pháp môn này có thể độ chúng sanh trong một trăm năm cuối cùng của thời Mạt Pháp. Trong một trăm năm cuối cùng ấy, kinh giáo nhà Phật hoàn toàn biến mất trên thế gian này, chẳng c̣n nữa. Chúng sanh chẳng có phước, kinh giáo hoàn toàn mất đi, nhưng hăy c̣n có một câu hồng danh sáu chữ “nam-mô A Di Đà Phật” trên thế gian. Trong một trăm năm cuối cùng, có người niệm câu Phật hiệu này th́ cũng có thể văng sanh. V́ vậy, trong thời kỳ Mạt Pháp, Tịnh Độ thành tựu, đức Phật đă tuyên thuyết điều này.

      “Thử tứ cú dữ tiền ‘thăng Quán Đảnh giai’ nhị cú, thâm biểu Mật Tịnh bất nhị chi chỉ” (bốn câu này và hai câu “lên địa vị Quán Đảnh” trong phần trước biểu thị sâu xa ư chỉ “Mật - Tịnh bất nhị”), xác thực là chúng ta có thể hiểu được. “Biểu hội trung chư đại sĩ, vị hoằng Mật Thừa, năi giáo đạo chư Bồ Tát, thành vi Kim Cang A Xà Lê, cố bổn thân hằng thường tu tập vô lượng vô biên tương ứng chi hạnh” (biểu thị các vị đại sĩ trong hội v́ hoằng dương Mật Thừa, để dạy các vị Bồ Tát trở thành Kim Cang A Xà Lê. Do vậy, bản thân thường luôn tu tập vô lượng vô biên hạnh tương ứng). Nay chúng ta hiểu “thường luôn tu tập vô lượng vô biên hạnh tương ứng” chính là một câu danh hiệu này, trong tâm thật sự có A Di Đà Phật. Phải biến A Di Đà Phật thành bậc ngưỡng mộ nhất, ưa thích nhất, tôn kính nhất, niệm niệm chẳng quên trong tâm chúng ta. Trong tâm quư vị thật sự có Phật, miệng chẳng ĺa danh hiệu, thân chẳng ĺa lễ Phật. B́nh thường, đối với người, đối với sự, đối với vật, hết thảy cung kính, thân nghiệp tương ứng. Trong khóa lễ sáng tối, có thể lễ bái một trăm lạy, đó là người b́nh thường, khóa sáng lạy Phật một trăm lạy, khóa tối lạy Phật một trăm lạy, rất hữu ích khiến cho thân thể mạnh khỏe. Lạy Phật là vận động hết sức tốt. Lạy Phật đừng nên dùng đệm lạy, hăy lễ trực tiếp trên sàn th́ quư vị mới có thể thâu được hiệu quả từ sự vận động. Nếu có đệm lạy rất cao, sẽ chẳng thâu được hiệu quả này. Thân tâm khỏe mạnh, tam mật tương ứng.

      Trong câu tiếp theo, trong quá khứ, tôi đọc câu này liền với câu trên: “Thường tập tương ứng vô biên chư hạnh, thành thục Bồ Tát vô biên thiện căn” (thường tu tập vô biên các hạnh tương ứng, thành thục vô biên căn lành của Bồ Tát). Trong Khoa Phán, tôi phân chia theo cách như vậy, có hơi khác đôi chút so với cụ Niệm Tổ. Câu kết thúc là “vô biên chư Phật hàm cộng hộ niệm” (vô biên chư Phật đều cùng hộ niệm). Đây là một đoạn nhỏ cuối cùng trong phân đoạn này, [nói về] sự hộ niệm của Phật, [thường gọi tắt là] “Phật hộ”. Đối với thiện căn, thành thục vô biên thiện căn của Bồ Tát. “Thiện căn giả, thân, khẩu, ư tam nghiệp chi thiện, cố bất khả bạt, vị chi Căn” (Thiện căn là điều lành nơi ba nghiệp thân, khẩu, ư, vững chắc, chẳng thể nhổ trừ, nên gọi là Căn), đây là ư nghĩa thứ nhất của chữ Căn. Trong tam nghiệp thiện, nói theo mặt Sự, đối với những điều thiện nơi thân trong Thập Thiện Nghiệp Đạo, quư vị ǵn giữ hết sức kiên định, làm được một trăm phần trăm: Thân chẳng sát sanh, chẳng trộm cắp, chẳng tà dâm, đó là ba điều thiện nơi thân. Miệng có bốn điều thiện, chẳng vọng ngữ, không nói đôi chiều, không nói thêu dệt, không ác khẩu. Ư cũng có ba điều thiện, tức là chẳng tham, chẳng sân, chẳng si. Thực hiện Thập Thiện một trăm phần trăm là ai? Thưa cùng chư vị, Pháp Thân Bồ Tát thật sự làm được. Quan sát cẩn thận, từ khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác, từ sự đăi người tiếp vật trong cuộc sống hằng ngày của người ấy, quư vị hăy quan sát kỹ lưỡng, từ Thập Thiện mở rộng thành tám vạn bốn ngàn tế hạnh, thiện hạnh đấy! Đó chính là “thành thục Bồ Tát vô biên thiện căn” như trong phần trước đă nói. Con số “tám vạn bốn ngàn” được nói trong kinh chẳng phải là giả, quư vị hăy phân tích từng chuyện, đúng là tám vạn bốn ngàn. Trên thực tế, tám vạn bốn ngàn lại mở rộng ra sẽ là vô lượng vô biên.

      Tiếp đó, c̣n có một ư nghĩa nữa: “Hựu thiện năng sanh diệu quả, xuất sanh dư thiện, cố vị chi Căn” (Lại nữa, thiện có thể sanh ra thiện quả, sanh ra các điều lành khác, nên gọi là Căn). Dùng điều này để tỷ dụ, giống như cây cối, hoa, cỏ có rễ. Từ thiện căn, từ Căn ấy có thể sanh ra vô lượng vô biên thiện pháp. Hết thảy các thiện pháp thế gian và xuất thế gian đều chẳng ĺa mười thiện nghiệp ấy; do vậy, Thập Thiện Nghiệp là cội rễ của tất cả hết thảy thiện pháp. Tương phản của Thập Thiện là Thập Ác, đó là mười thứ bất thiện, cũng là nói tất cả hết thảy bất thiện, vô lượng vô biên bất thiện nghiệp của chúng sanh trong tam giới lục đạo đều sanh từ Thập Ác. Chúng ta biết thiện hạnh và ác nghiệp rốt cuộc là chuyện như thế nào, quư vị thấy rơ ràng, thấy minh bạch. Chúng ta mong mỏi làm thiện nhân, hay là mong làm ác nhân, bất thiện? Tư tưởng và ngôn hạnh tương ứng với Thập Ác, toàn bộ đều xấu xa. Là kẻ tương ứng với Thập Ác, chắc chắn thân thể chẳng khỏe mạnh. Thân thể có bệnh, chắc chắn hoàn cảnh cư trụ có rất nhiều tai nạn. Tai nạn có hữu h́nh và vô h́nh, vô h́nh chỉ điều ǵ? Nhục nhăn chẳng trông thấy oán thân trái chủ, nhưng họ luôn quanh quẩn bên quư vị, nhiễu loạn quư vị. V́ sao? Do nghiệp lực bất thiện cảm vời. Nếu quư vị thật sự tu Thập Thiện, thân, ngữ, ư nghiệp tương ứng với Thập Thiện Nghiệp, giữ vững chẳng bỏ, quư vị chẳng nh́n thấy những thiện thần ở quanh quư vị ủng hộ, cung kính quư vị. Quư vị là người tốt, họ đến giúp quư vị thành tựu thiện hạnh. [Những chuyện này] đều chẳng tách rời nghiệp cảm. V́ thế, thiện nhân có thiện quả, ác nhân có ác báo.

       Đệ Tử Quy hướng dẫn trẻ nhỏ, thực hiện Thập Thiện từ đâu? Thực hiện từ Đệ Tử Quy, thực hiện từ Cảm Ứng Thiên, sau đấy, Thập Thiện mới có Căn. Chẳng có Cảm Ứng Thiên, chẳng có Đệ Tử Quy th́ Thập Thiện chẳng có Căn. Thời cổ, bất luận xuất gia hay tại gia học Phật, v́ sao có thành tựu tốt đẹp như thế? Chẳng có ǵ khác! Từ bé đă được vun bồi căn cội tốt đẹp. Cha mẹ thật sự yêu thương con cái, vun bồi căn cội tốt đẹp từ bé, đó gọi là “chân ái hộ” (thật sự yêu thương). Gốc sâu rễ vững, tăng trưởng, bất luận trong cảnh duyên nào, đếu chẳng bị biến đổi. Do vậy, có thể nào chẳng thể cảm ân cha mẹ? Cha mẹ sanh ra chúng ta, nuôi nấng, giáo dục chúng ta, ân đức ấy quá lớn. Cha mẹ dưỡng thành cội rễ ấy, Phật, Bồ Tát tiếp tục dạy bảo quư vị, trong một đời này, quư vị có thể thành Phật, thành Bồ Tát. Phật, Bồ Tát là thầy của chúng ta, tức là A Xà Lê của chúng ta. A Xà Lê là Giáo Thọ, hoặc Quỹ Phạm Sư, là vị thầy giúp chúng ta thành tựu. Người sống trong thế gian phải cảm ân, cội rễ của cảm ân là cha mẹ và sư trưởng, đấy là cội nguồn! Nếu chẳng có hai loại cội rễ ấy, bất hiếu cha mẹ, bất kính sư trưởng th́ trong thế gian này, bố thí, thi ân đối với bất luận người nào hay vật nào toàn là giả dối. V́ sao? Ân huệ ấy chẳng có Căn; do vậy, ân huệ ấy chẳng phải là sống, mà là chết, chẳng có Căn mà! Chớ nên chẳng biết đạo lư này!

      Chúng ta xem tiếp sự hộ niệm trong phần sau, “vô lượng chư Phật hàm cộng hộ niệm” (vô lượng chư Phật đều cùng hộ niệm), v́ sao? V́ quư vị tương ứng, nên khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác [của quư vị] chư Phật, Bồ Tát hoàn toàn hay biết. Quư vị là thiện nhân, thiện nam tử, thiện nữ nhân, nay quư vị nhất tâm cầu Vô Thượng Bồ Đề, hiếm có, khó được, chư Phật, Bồ Tát biết khởi tâm động niệm, biết sự phát tâm của quư vị, tự nhiên tương ứng đến hộ tŕ quư vị, hết thảy thiện thần hộ niệm quư vị. V́ sao? Thiện cảm ứng thiện, ác cảm ứng ác. Nếu quư vị làm chuyện ác th́ có cảm ứng là yêu ma quỷ quái đều đến hộ tŕ, La Sát, ác thần đến hộ tŕ quư vị, giúp quư vị làm ác, đó là cảm ứng. “Hộ niệm giả, bảo hộ ức niệm dă. Hội Sớ viết: Hộ vị phú hộ, niệm vị kư niệm” (Hộ niệm là che chở, nghĩ nhớ. Hội Sớ giảng: “Hộ là che chở, bảo vệ. Niệm là ghi nhớ”). “Phú hộ” (覆護) là bảo vệ, hộ tŕ, là điều quư vị đạt được. Phật, Bồ Tát bảo vệ, hộ tŕ quư vị. Phật, Bồ Tát thường thường nghĩ nhớ quư vị. Bất luận trong hoàn cảnh nào, Phật, Bồ Tát chẳng hề không chiếu cố. Nếu ư niệm của chúng ta sai trái, niệm niệm đều là tham, sân, si, niệm niệm đều là ngũ dục, lục trần, tôi vừa mới nói rồi đó, cũng có kẻ hộ niệm quư vị: Ma Vương Ba Tuần, La Sát, yêu ma quỷ quái, oán thân trái chủ đều hộ niệm quư vị, trợ giúp quư vị tạo ác. Nói cách khác, họ giúp đỡ, dụ dỗ quư vị đi vào đâu? Vào tam đồ, đến các nơi khác nhau, như địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, đến những nơi đó. Người niệm Phật, Phật hộ niệm quư vị, quư vị sanh về thế giới Cực Lạc. Thiện nhân chẳng niệm Phật, trong tâm muốn sanh lên trời, hoặc muốn đời sau được hưởng phước báo nhân thiên, Phật, Bồ Tát, thiện thần đều gia hộ, hộ niệm quư vị, tâm nguyện nhất định xứng ư đúng lư, nhất định như nguyện. Ở chỗ này, chúng ta thấy kinh giáo nói: Đối hết thảy chúng sanh, chư Phật, Bồ Tát “tùy tâm ứng lượng”, [tức là] thuận theo nguyện vọng của quư vị, mà Phật, Bồ Tát thỏa măn nguyện vọng. Đó là nói rơ sau khi tương ứng, nhất định được hộ niệm!

      “Tịnh Ảnh Sớ viết: Hộ sử ly ác, niệm linh tăng thiện” (Tịnh Ảnh Sớ giảng: “Hộ khiến ĺa ác, Niệm khiến tăng thiện”). Ngài đă tách hộ niệm ra để giảng, Hộ () là ǵ? Bảo vệ quư vị, giúp quư vị ĺa hết thảy ác; Niệm () là niệm niệm giúp cho quư vị tăng thiện. Cách giảng này cũng hay lắm! “Cố tri thử lưỡng cú tổng tán hội trung chư đại sĩ” (nên biết hai câu này khen ngợi chung các vị đại sĩ trong hội), tán thán chung những vị Bồ Tát tham dự pháp hội, Đại Sĩ là danh xưng để gọi Bồ Tát, “tuân tu Phổ Hiền chi đức, sử dư Bồ Tát vô biên thiện căn giai đắc thành thục, cố vô lượng chư Phật tất giai hộ niệm” (tuân tu đức của Phổ Hiền, khiến cho vô biên thiện căn của các vị Bồ Tát khác được chín muồi. Do vậy, vô lượng chư Phật thảy đều hộ niệm). Thuở ấy, đức Thế Tôn mở pháp hội này tại Linh Sơn, v́ chúng ta tuyên giảng kinh Vô Lượng Thọ, Bồ Tát tham dự pháp hội lần ấy rất đông. Trong phần trước, kinh văn đă giới thiệu mười sáu vị Chánh Sĩ, trong số ấy, có nhiều vị Bồ Tát từ các phương khác đến, chẳng phải là người trong thế giới Sa Bà. Do vậy, ta có thể biết sự thù thắng của pháp hội. Nhục nhăn của lũ phàm phu chúng ta chẳng trông thấy, nhưng từ A La Hán trở lên đều có thể thấy. Thậm chí Tu Đà Hoàn đă khai thiên nhăn đều có thể trông thấy. Những vị Bồ Tát ấy bất luận là trong cơi này hay nơi phương khác, “cơi này” là nói đến thế giới Sa Bà, khu vực giáo hóa của Thích Ca Mâu Ni Phật là mười ức hệ Ngân Hà, chúng sanh ở trong ấy có bao nhiêu? “Dư Bồ Tát” là nói tới các vị Bồ Tát trong mười phương thế giới có duyên với Tịnh Tông, có duyên với A Di Đà Phật, những vị như vậy rất đông! Trong hội này, những vị đại Bồ Tát tu đức của Phổ Hiền đại sĩ có thể ảnh hưởng những vị Bồ Tát có duyên với Tịnh Tông trong mười phương thế giới, giúp họ thành thục thiện căn, nên mới có cách nói này: “Vô lượng chư Phật thảy đều hộ niệm”, tức là như kinh văn đă chép: “Vô lượng chư Phật hàm cộng hộ niệm”. Sau khi chúng ta đọc xong, sẽ có thể cảm nhận được. Nếu chúng ta thật sự tu Tịnh Độ, tâm chân thành tu Tịnh Độ, nhất tâm nhất ư muốn thấy A Di Đà Phật, ư niệm ấy sẽ cảm vô lượng chư Phật đều cùng hộ niệm. Đức Phật nói kinh này chẳng hề nói dối, câu nào cũng chân thật. Đức của Phổ Hiền được giới thiệu đến đây.

      Phần kinh văn tiếp theo nói đến trí đức của Văn Thù Bồ Tát, những phần trước đều là “tuân tu Phổ Hiền chi đức”, Phổ Hiền là hạnh đức, Văn Thù là trí đức. Hạnh cũng phải có trí huệ. Chẳng có trí huệ, tu hành sẽ nẩy sanh vấn đề. Trong Phật pháp, các vị tổ sư đại đức trong quá khứ thường dạy: “Từ bi vi bổn, phương tiện vi môn” (từ bi làm gốc, phương tiện làm cửa), đó là Phật pháp, nhưng các Ngài c̣n nói: “Từ bi đa họa hại, phương tiện xuất hạ lưu” (từ bi lắm họa hại, phương tiện thành hạ lưu), đó là ǵ? Trong từ bi và phương tiện nẩy sanh tác dụng phụ, v́ sao nẩy sanh tác dụng phụ? Xử sự bằng cảm t́nh, vấn đề bèn nẩy sanh. Do vậy, cần phải dùng trí huệ, trí huệ của Văn Thù sẽ không xuất hiện vấn đề. Đều nhằm dạy chúng ta, trong cuộc sống hằng ngày phải dùng lư trí, chớ nên dùng cảm t́nh. Dùng cảm t́nh sẽ thường là thiên kiến, dùng trí huệ sẽ chẳng có thiên kiến. Do vậy, đă có hạnh Phổ Hiền, vẫn phải có trí đức của Văn Thù, [hay gọi tắt là] Văn Thù trí. Chúng ta đọc kinh văn:

 

      (Kinh) Chư Phật sát trung, giai năng thị hiện.

      () 中。皆 現。

      (Chánh kinh: Trong các cơi Phật, đều có thể thị hiện).

 

      Đây là tướng biểu thị của Văn Thù trí đức. Trí huệ là ǵ? Trí huệ là thật sự có thể buông xuống, có thể thị hiện trong các cơi Phật.

 

      (Kinh) Thí thiện huyễn sư, hiện chúng dị tướng.

       () 譬 善 幻 師。現 眾 異 相。

      (Chánh kinh: Ví như người giỏi huyễn thuật, có thể hiện các tướng lạ).

 

      Đây là nêu tỷ dụ, “thiện huyễn sư” là nhà ảo thuật, tuy chẳng phải là thật, nhưng kẻ ấy có thể hiện ra rất nhiều h́nh tượng khác nhau!

 

      (Kinh) Ư bỉ tướng trung, thật vô khả đắc.

       () 於 彼 相中。實 無 可 得。

      (Chánh kinh: Trong các tướng ấy, thật sự chẳng thể được).

 

      Các tướng trong tỷ dụ ấy là giả, chẳng thật. Đó là trí huệ, hiển lộ trí huệ.

 

      (Kinh) Thử chư Bồ Tát, diệc phục như thị.

  () 此 諸 菩 薩。亦 復 如 是。

      (Chánh kinh: Các vị Bồ Tát ấy cũng giống như thế).

 

      Do vậy, các Bồ Tát thị hiện trong thế gian này, giáo hóa hết thảy chúng sanh, quyết định chẳng có chấp trước, phân biệt, chẳng khởi tâm động niệm, nên hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức. Kinh Lăng Nghiêm đă nói: “Tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng” (thuận theo tâm chúng sanh, mà ứng hiện phù hợp với khả năng nhận biết của họ). Đây cũng là nói rơ: Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng, chẳng liên can bất cứ ai. V́ thế, toàn là “tự làm, tự chịu”, phải thừa nhận điều này, chẳng liên can bất cứ ai! Có thể tham cứu thấu suốt đạo lư này, trong bất luận hoàn cảnh nào, quư vị cũng có thể tâm b́nh khí ḥa, chẳng oán trời, trách người. Kẻ tâm b́nh khí ḥa có thể thấy rất rơ ràng. Đó là trí huệ của Văn Thù.

 

      (Kinh) Thông chư pháp tánh, đạt chúng sanh tướng, cúng dường chư Phật, khai đạo quần sanh, hóa hiện kỳ thân, do như điển quang. Liệt ma kiến vơng, giải chư triền phược. Viễn siêu Thanh Văn, Bích Chi Phật địa, nhập Không, Vô Tướng, Vô Nguyện pháp môn, thiện lập phương tiện, hiển thị tam thừa.

      () 通 諸 法 性。達 眾 生 相。供 養 諸 佛。開 導 群 生。化 現 其 身。猶 如 電 光。裂 魔 見 網。解 諸 纏 縛。遠 超 聲 聞 辟 支 佛 地。入 空 無 相 無 願 法 門。善 立 方 便。顯 示 三 乘。

      (Chánh kinh: Thông hiểu các pháp tánh, thấu hiểu tướng chúng sanh, cúng dường chư Phật, chỉ dạy quần sanh, hóa hiện thân ḿnh giống như tia chớp, xé lưới ma kiến, tháo các triền phược. Vượt xa địa vị Thanh Văn, Bích Chi Phật, nhập pháp môn Không, Vô Tướng, Vô Nguyện, khéo lập phương tiện hiển thị tam thừa).

 

      Đoạn này toàn là nói về trí đức của Văn Thù Bồ Tát, chúng ta hăy đọc lời chú giải: “Thượng nhất đoạn văn”, [nghĩa là] đoạn văn vừa đọc trên đây, “tục diễn” (tiếp tục diễn nói), Tục () là tiếp theo, “Chuyển Pháp Luân chi đệ thất tướng” (tướng thứ bảy là Chuyển Pháp Luân), đă nói về hạnh Phổ Hiền, lại c̣n có Văn Thù Bồ Tát cần phải nói tiếp, nên tiếp tục diễn nói về tướng Chuyển Pháp Luân thứ bảy. “Bổn phẩm danh vi Đức Tuân Phổ Hiền, chánh biểu kinh trung Phổ Hiền vị liệt Thượng Thủ chi nghĩa” (phẩm này có tên là Đức Tuân Phổ Hiền, chính là để biểu thị ư nghĩa: Trong kinh này, ngài Phổ Hiền được xếp vào địa vị Thượng Thủ). Vị Thượng Thủ thứ nhất là Phổ Hiền Bồ Tát, giống như kinh Hoa Nghiêm. “Cái bổn kinh vi Viên Giáo, tùng quả khởi nhân, cố tiên Phổ Hiền, nhi thứ Văn Thù. Phổ Hiền biểu Hạnh, Văn Thù biểu Trí. Vô Trí tắc bất năng khởi Hạnh, cố phục đương tiêu hiển Văn Thù” (đó là v́ kinh này là Viên Giáo, từ nhân dấy lên quả, cho nên trước là Phổ Hiền, kế đến là Văn Thù. Phổ Hiền biểu thị Hạnh, Văn Thù biểu thị Trí. Không có Trí sẽ chẳng thể khởi Hạnh, do vậy, phải nêu rơ Văn Thù). Đây là nói rơ duyên do của đoạn kinh này, v́ sao ở đây phải nói đoạn kinh văn này, nêu ra nguyên nhân. Trong phần trước, đă nói về hạnh Phổ Hiền. Kinh này là Viên Giáo, y chiếu giáo nghĩa của kinh này, viên cực, đốn cực, v́ kinh này dạy chúng ta thành tựu trong một đời, nên được gọi là Đốn Giáo, chẳng phải là bảo chúng ta phải tu vài đời, chẳng phải vậy, mà là thành tựu ngay trong một đời! Trong một đời này, ngay khi c̣n đang sống sờ sờ, có nghĩa là ǵ? Người niệm Phật chúng ta văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, chư vị nhất định phải biết điều này, là ra đi trong khi c̣n sống, không phải là chết rồi mới đi. Lúc lâm chung, tôi không nói “sắp chết” mà nói “lúc sắp ra đi”, quư vị thấy A Di Đà Phật đến tiếp dẫn, đầu óc quư vị rất sáng suốt, tỉnh táo, chẳng thấy sai lầm. A Di Đà Phật, Quán Âm, Thế Chí đến tiếp dẫn ta, quư vị nói rơ với người chung quanh: “Phật đến đón tiếp tôi, tôi theo Phật ra đi”, chẳng phải là ra đi trong khi c̣n sống ư? Sau khi ra đi, chẳng cần đến xác thân nữa. Chư vị phải biết điều này: “Ra đi trong khi c̣n sống”, cho nên là [thành tựu] trong một đời này.

      Bản thân quư vị quyết định chẳng có cảm giác quư vị đă chết rồi sanh về bên kia, chẳng có chuyện ấy! Linh tánh của quư vị rời khỏi cơ thể này, theo Phật cùng đến thế giới Cực Lạc. Không phải là chết rồi mới đi, đă chết th́ làm sao có thể đi được? Chết rồi mới đi sẽ chẳng dễ dàng, như vậy th́ cũng phải rất có thiện căn, đó là ǵ? Thân Trung Ấm đắc độ, có những trường hợp như vậy, nhưng rất ít! Trong hiện thời, những năm qua, chúng ta đề xướng nghi thức Tam Thời Hệ Niệm Pháp Sự do Trung Phong thiền sư biên soạn, rất có hiệu quả, nhằm độ Trung Ấm, âm dương đều lợi lạc. Những chúng sanh trong cơi U Minh có văng sanh [Cực Lạc] hay không? Có, nhưng chẳng nhiều lắm, đại đa số văng sanh thiên đạo, do nguyên nhân nào? Kẻ hiểu rơ thế giới Cực Lạc quá ít. Do vậy, những đồng tu thường nghe kinh, biết nhiều về thế giới Cực Lạc, chúng ta nghe kinh trong pháp hội này, tại đạo tràng này, không chỉ loài người chúng ta đang nghe, chúng ta chẳng thấy chư linh trong cơi u minh, số lượng đông hơn chúng ta chẳng biết bao nhiêu lần. Chư linh nghe kinh tốt lắm, trong Tam Thời Hệ Niệm Pháp Sự, do họ thường đến nghe kinh, sẽ thật sự văng sanh. Kẻ chẳng thường nghe kinh có ít cơ hội hơn, chúng ta có thể lư giải, suy nghĩ điều này.

      Kinh giáo Tịnh Độ chẳng thể không giảng, bản thân chúng ta đọc kinh liễu giải, chính ḿnh đắc độ. Chính ḿnh liễu giải mà nếu không giúp đỡ người khác, chẳng giới thiệu kinh này cho người khác, tức là có lỗi với chính ḿnh, có lỗi với Phật, Bồ Tát, có lỗi với A Di Đà Phật. A Di Đà Phật muốn phổ độ chúng sanh, cớ sao quư vị chỉ độ chính ḿnh, chẳng đoái hoài kẻ khác? Chẳng tương ứng với bổn nguyện của A Di Đà Phật. Chúng ta muốn sanh về thế giới Cực Lạc, hy vọng mang theo một số chúng sanh cùng đi, A Di Đà Phật sẽ hoan hỷ. V́ thế, toàn tâm toàn lực khuyên dạy hết thảy chúng sanh nhận thức Tịnh Độ, phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ. Nói theo Tịnh nghiệp tam phước, chính ḿnh đă thành tựu, chớ nên quên giúp đỡ người khác, đấy chính là câu cuối cùng, “khuyến tấn hành giả”. Đối với người tu hành, chúng ta phải khuyên họ phát nguyện cầu sanh thế giới Cực Lạc, thành tựu viên măn trong một đời, đấy mới thật sự là đồng tâm, đồng đức, đồng nguyện, đồng hạnh với A Di Đà Phật. V́ thế, chẳng thể không biết Văn Thù trí. Ở đây có hai câu nói rất hay, “vô trí tắc bất năng khởi hạnh, cố đương tiêu hiển Văn Thù” (chẳng có Trí sẽ chẳng thể khởi Hạnh, cho nên phải nêu bày, nói rơ Văn Thù). Bởi lẽ, hạnh là trọng yếu, nhưng trí cũng chẳng thể thiếu.

      “Như Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận viết: Bất độ Văn Thù trí hải, nan nhập Phổ Hiền hạnh môn. Dĩ bất năng liễu tri tự tâm, nhất niệm đốn viên, b́nh đẳng chánh tánh, phàm thánh cộng hữu, nhất tế vô sai. Dĩ bất liễu cố, sở hữu nguyện hạnh tất bất cụ túc” (như sách Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận đă nói: “Chẳng vượt biển trí Văn Thù, khó nhập Phổ Hiền hạnh môn. Do chẳng thể hiểu rơ tự tâm, nhất niệm đốn viên, chánh tánh b́nh đẳng, phàm và thánh đều cùng có, chẳng sai biệt mảy may nào. Do chẳng hiểu rơ nên tất cả hạnh nguyện thảy đều chẳng trọn đủ”). Đó là ǵ? Trí huệ trọng yếu. Thích Ca Mâu Ni Phật suốt đời giảng kinh thuyết pháp bốn mươi chín năm, giảng Bát Nhă hai mươi hai năm. Chư vị nghĩ xem, [đức Phật] suốt đời giảng kinh bốn mươi chín năm, giảng Bát Nhă hai mươi hai năm, gần như là một nửa thời gian, đó là ǵ? Coi trọng trí huệ. Bát Nhă là trí huệ Văn Thù. Luận định thông thường, trong sự giáo học suốt một đời, môn học ấy tốn thời gian dài như thế, nên pháp môn chủ tu trong cả đời Thích Ca Mâu Ni Phật là Bát Nhă. A Hàm là Tiểu Thừa, là cơ sở. Trong A Hàm giảng “đoạn ác, tu thiện” đều là nói theo Sự, quá nửa quả báo là phước báo nhân thiên, nên rất nhiều người thích học, họ chẳng tách rời phước báo nhân thiên, họ mong muốn thứ ấy. Phương Đẳng là dự bị, Bát Nhă là chánh tu, Pháp Hoa nhằm giúp quư vị tăng tấn. Từ chỗ này chúng ta liễu giải, chủ tu trong Phật pháp là trí huệ, làm sao có thể là mê tín cho được? Phật pháp và mê tín hoàn toàn tương phản! Hai mươi hai năm dạy trí huệ, lẽ nào dạy kẻ khác hồ đồ? Đâu có lẽ nào như thế! Nói Phật giáo là mê tín là do nguyên nhân nào? Do chẳng nhận thức Phật giáo, hiểu lầm mất rồi, chê Phật giáo là mê tín, ngỡ Phật giáo là tôn giáo. Phật giáo không phải là tôn giáo, mà là sự giáo dục của Thích Ca Mâu Ni Phật.

      Mấy câu này có ư nghĩa rất sâu, “bất độ Văn Thù trí hải, “độ” () là vượt qua, cũng có nghĩa là nói: Quư vị chẳng thâm nhập trí huệ của Văn Thù Bồ Tát, khó thể nhập hạnh môn của Phổ Hiền. Phổ Hiền hạnh nương vào Văn Thù trí. Chẳng có Văn Thù trí, quư vị sẽ không thể hành Phổ Hiền hạnh được! Trong phần trước, đă nói cương lănh của Phổ Hiền hạnh là mười đại nguyện vương, [chẳng có Văn Thù trí] sẽ chẳng thể thực hiện mười đại nguyện vương. Mười nguyện ấy, mỗi nguyện sau đều sâu hơn nguyện trước, càng về sau càng khó. Bắt đầu từ đâu? Từ “lễ kính chư Phật”, chúng ta có tâm lễ kính hay không? Nếu có Văn Thù trí, tâm ấy sẽ phát khởi. V́ sao có thể phát khởi? Quư vị liễu tri tự tâm. Văn Thù trí chẳng có ǵ khác, chính là quư vị nhận biết chính ḿnh. Người Hoa thường nói: “Nhân yếu hữu tự tri chi minh” (con người phải tự biết ḿnh), quư vị phải nhận biết chính ḿnh. Chính ḿnh là ǵ? Trong giáo pháp Đại Thừa, đức Phật thường nói: “Bổn lai thị Phật” (vốn sẵn là Phật). Mỗi chúng sanh vốn là Phật, đó là Văn Thù trí, chân thật trí huệ, tâm cung kính mới có thể sanh khởi. Chúng ta học Phật, rất cung kính Phật, hết thảy chúng sanh đều là Phật, phải có tâm cung kính đối với họ giống như cung kính Phật, đối với người, đối với sự, đối với vật, đối với thiên địa vạn vật, thật sự sanh khởi tâm cung kính. Đối với người phải lễ kính, lễ tiết hiện thời là cúi đầu lễ, gật đầu không được, thiếu cung kính! Đúng quy củ đứng đó, gập ḿnh chín mươi độ cúi đầu lễ, ắt phải như vậy. Vào thời cổ, hành lễ là đảnh lễ tam bái, đó là cổ lễ, nay chúng ta đối trước tượng Phật vẫn đảnh lễ tam bái, chẳng quên cổ lễ. Phật là cổ nhân, chúng ta vẫn dùng phương cách của cổ nhân để hành lễ đối với Ngài.

      Đối với con người hiện đại, phải hiện đại hóa; nếu chẳng hiện đại hóa, rất nhiều người hiện thời chẳng thể tiếp nhận. Quư vị nói xem có nhiều kẻ học Phật, bảo kẻ ấy hăy học Phật, gặp mặt pháp sư phải lạy, [kẻ ấy giăy nảy]: “Thôi đi, chẳng học!” Phải thông quyền đạt biến, chẳng thể cố chấp giữ quy củ đă thành nề nếp, con người hiện thời có lễ tiết hiện thời, vậy th́ sao? Thấy tượng Phật bèn khom ḿnh cúi đầu ba lượt, đó là lễ kính nhất. Như thế th́ họ sẽ đến [với Phật] rất dễ dàng, sẽ có thể tiếp dẫn rất nhiều người. Tới khi nào chính kẻ ấy bái lạy, đó là chuyện của kẻ ấy, chẳng phải là chuyện của chúng ta. Đó là đúng! Quư vị đă học thông suốt Phật pháp, học sống động, vận dụng sống động. Đặc biệt là đối với kẻ sơ học. Nếu quư vị dẫn mấy người sơ học đến nơi đây, họ thấy phải ḅ toài ra đất khấu đầu, họ sẽ cảm thấy khó chịu, lần sau chẳng đến nữa, quư vị đă dọa họ chạy mất rồi! Họ sẽ nói Phật giáo là mê tín, phong kiến, buộc con người quay lại thời đại cổ lỗ, làm sao họ có thể chịu được? Do vậy, chúng ta nhất định phải biết, Phật giáo hiện thời phải dùng lễ tiết hiện thời, Phật giáo tại ngoại quốc bèn dùng lễ tiết ngoại quốc, họ đều vui vẻ. Thông quyền đạt biến, chớ nên không biết điều này.

      Do vậy, liễu tri tự tâm, tự tánh thanh tịnh viên minh thể. Nhất niệm đốn viên, nhất niệm là vô niệm, hữu niệm là nhị niệm. Nhất niệm là b́nh đẳng, nhị niệm bèn dấy động sóng gió. “Nhất niệm đốn viên”, “viên” là viên măn, “đốn” là nhanh chóng, đúng vậy đấy, viên măn! “B́nh đẳng chánh tánh”: Mảy may sai biệt cũng chẳng có, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới đều có cùng một pháp tánh, cũng là nói chúng có cùng một tự tánh. “Phàm thánh cộng hữu, nhất tế vô sai” (phàm thánh đều cùng có, cùng là một tánh chẳng sai khác), “nhất tế” là nhất tánh, nhất tâm, [“nhất tế vô sai”] là chẳng sai biệt mảy may nào. Không chỉ là phàm lẫn thánh đều cùng có, mà y báo và chánh báo đều cùng có. Kinh Hoa Nghiêm diễn tả “t́nh và vô t́nh cùng chung có” bằng câu: “T́nh dữ vô t́nh đồng viên chủng trí”, “đồng” là b́nh đẳng, “viên” là viên măn, “chủng trí” là Nhất Thiết Chủng Trí, đó là sự chứng đắc nơi quả địa Như Lai. Quư vị thấy vô t́nh cũng đều cùng viên măn Chủng Trí.

      Thuở chúng tôi c̣n trẻ, khi ấy tôi mới ngoài bốn mươi tuổi, dạy học tại Phật Quang Sơn. Lúc đó, tại Phật Quang Sơn có ba vị thầy xuất gia là pháp sư Tinh Vân, pháp sư Hội Tánh và tôi, ba người xuất gia, c̣n có hai vị tại gia là cư sĩ Phương Luân và cư sĩ Đường Nhất Huyền, họ là đại cư sĩ. Bản lănh Phật học của họ đều cao hơn chúng tôi, lớn tuổi hơn, thời gian học Phật đều lâu hơn chúng tôi. Chúng tôi đă nhiều lần cùng nhau thảo luận vấn đề này, nhưng chẳng có kết luận, câu “t́nh dữ vô t́nh đồng viên chủng trí” phải giảng như thế nào? Nếu quư vị nói hữu t́nh chúng sanh, sau khi [chính ḿnh] đă thành Phật th́ [sẽ thấy hết thảy] hữu t́nh chúng sanh đều thành Phật, vẫn c̣n tạm được. Chứ sau khi đă thành Phật, cớ sao hoa, cỏ, cây cối, núi, sông, đại địa cũng thành Phật? Nói không thông! Do vậy, lúc đó, có rất nhiều vấn đề tôi đánh dấu hỏi, tồn nghi! Đức Phật nói chắc chắn chẳng sai, nhưng nay chúng ta chẳng có trí huệ ấy, chẳng nghĩ thông suốt đạo lư ấy! Nay tôi đă minh bạch, hiểu rơ, hiểu rơ như thế nào? Kinh Hoa Nghiêm đă nói thấu triệt, thuở ấy, chúng tôi chẳng đọc thông suốt kinh Hoa Nghiêm, đọc th́ đọc vậy, tựa hồ hiểu, nhưng chẳng hiểu, trong ấy có rất nhiều vấn đề. Trong quá khứ, chúng ta đă học tập Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán của Hiền Thủ quốc sư hai lượt, vấn đề ấy đă được giải quyết. T́nh và vô t́nh đúng là có cùng một Thể. Khi ta đă thành Phật, hết thảy chúng sanh đều thành Phật, cây cối, hoa, cỏ, núi, sông, đại địa toàn bộ đều thành Phật, thật vậy, chẳng giả! Kẻ giác ngộ thấy hết thảy các pháp chẳng chấp tướng. Chẳng chấp tướng sẽ thấy ǵ? Thấy pháp tánh, Tông Môn nói là “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”. Quư vị thấy hết thảy chúng sanh đều có cùng một điều b́nh đẳng, ở đây, điều b́nh đẳng ấy được gọi là “chánh tánh”, tức là tự tánh, lẽ nào chẳng phải là Phật? Thấy hết thảy cây cối, hoa cỏ, núi, sông, đại địa là pháp tánh. Chánh tánh và pháp tánh là một tánh, cùng là một tánh với tự tánh, chẳng phải là hai tánh.

      Hết sức khó có, cận đại, trong mấy năm gần đây nhất, khoa học tiên tiến, các nhà khoa học Lượng Tử đă cho chúng ta biết, đúng là cùng một Thể. Khó có! Lượng Tử Lực Học cho chúng ta biết vật chất là thứ ǵ? Là chuyện như thế nào? Họ nói ra sao? [Vật chất] là hiện tượng do ư niệm dao động, điều này đă giúp ích Phật pháp rất lớn. V́ Phật pháp bảo “vạn sự vạn tướng trong vũ trụ là hiện tượng dao động”. Các nhà Lượng Tử Lực Học đă chứng tỏ, đức Phật nói điều này là thật, chẳng giả! Nhất niệm bất giác bèn có vô minh, là hiện tượng dao động. “Vô minh bất giác sanh tam tế, cảnh giới vi duyên trưởng lục thô” (vô minh bất giác sanh ra ba tế tướng, cảnh giới làm duyên tăng trưởng sáu thô tướng), đó là nói về sự phát triển của vũ trụ, trong ấy sanh ra biến hóa vô lượng vô biên vô tận, chẳng thể nghĩ bàn! Dẫu nói nhiều đến mấy, nó là một huyễn tướng, chẳng thật! Nói tóm lại, vạn pháp đều là Không: “Hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng, như sương, cũng như chớp”. Hai câu này nói rất hay, các nhà khoa học Lượng Tử đă thật sự chứng minh.

      Đức Phật muốn chúng ta phải dùng trí huệ ấy, dùng thanh tịnh b́nh đẳng giác để nh́n thế gian, quư vị mới có thể thấy chân tướng, mới có thể thấy hết thảy vạn pháp chẳng sai khác mảy may. Không chỉ là phàm - thánh chẳng có sai biệt, mà đều là tự tánh hiện. Phàm - thánh sai biệt ở chỗ nào? Hiểu rơ tự tánh là thánh nhân, mê hoặc tự tánh là phàm phu. Phàm - thánh sai biệt ở chỗ mê hay ngộ, chẳng liên quan ǵ đến tự tánh. Tự tánh chẳng có mê hay ngộ. Con người có mê hay ngộ, chứ tự tánh chẳng có mê hay ngộ, phải hiểu đạo lư này! Vọng tâm có mê hay ngộ, chân tâm chẳng có mê hay ngộ. Đó là vũ trụ và nhân sinh quan trong nhà Phật. Do vậy, tiên sinh Phương Đông Mỹ đă nói: “Triết học trong kinh Phật là đỉnh cao nhất trong triết học trên toàn thể thế giới”, câu nói ấy rất hay. Mấy câu nói sau đây có thể chứng minh [lời của cụ Phương], “liễu tri tự tâm, nhất niệm đốn viên, b́nh đẳng chánh tánh, phàm thánh cộng hữu, nhất tế vô sai”.

      “Dĩ bất liễu cố, sở hữu nguyện hạnh giai bất cụ túc” (do chẳng hiểu rơ nên tất cả hạnh nguyện đều chẳng trọn đủ). Nếu chẳng biết chuyện này, sẽ phiền phức lớn. Phiền phức lớn cỡ nào? Mê hoặc, điên đảo, tạo nghiệp thọ báo, luân hồi trong lục đạo. Giác ngộ bèn như thế nào? Chẳng c̣n luân hồi trong lục đạo, vĩnh viễn vượt thoát. Do vậy, quư vị thường sanh tâm hoan hỷ, pháp hỷ sung măn. Trong tâm mục của người thế gian, đấy mới là thật sự đạt đến cuộc sống hạnh phúc mỹ măn rốt ráo. Chúng tôi đă nói rất nhiều lần, chuyện này chẳng mảy may liên quan đến giàu, nghèo, sang, hèn! Giàu, nghèo, sang, hèn là ǵ? Là nghiệp báo của phàm phu. Khi quư vị giác ngộ, sẽ hoàn toàn vượt thoát, vượt thoát lục đạo phàm phu, vượt trỗi những bậc tiểu thánh, thọ dụng tự nhiên thay đổi. Hôm nay đă hết thời gian rồi, ngày mai chúng ta lại tiếp tục học tập.

 

Tập 112

 

      Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang một trăm ba mươi ba, hàng thứ ba, xem từ giữa hàng thứ ba.

      “Như Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận viết” (như Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận nói), chúng ta xem từ chỗ này. “Bất độ Văn Thù trí hải, nan nhập Phổ Hiền hạnh môn” (chẳng vượt biển trí Văn Thù, khó nhập hạnh môn Phổ Hiền), hai câu này vô cùng quan trọng, đặc biệt nhắc nhở các đồng học học Phật chúng ta nhất định phải coi trọng trí huệ. Trong xă hội hiện thời, nh́n trên h́nh thức, giáo dục dường như rất phát triển, trường học rất nhiều. Quan sát cẩn thận, tất cả sự giáo dục hiện thời, chúng ta thường nói là giáo dục gia đ́nh, giáo dục trong học đường, giáo dục trong xă hội, cho đến giáo dục tôn giáo, đều chẳng nhấn mạnh trí huệ, chỉ nhấn mạnh kiến thức. Chư vị phải biết: Trí huệ và kiến thức khác nhau, chẳng tương đồng! Trí huệ có thể giải quyết hết thảy vấn đề, giải quyết rất viên măn, chẳng để lại hậu quả. Kiến thức có hạn chế, nó chẳng thể giải quyết hết thảy vấn đề, có những vấn đề có thể giải quyết được, nhưng cũng có những vấn đề chẳng thể giải quyết, lại c̣n để lại rất nhiều hậu quả, chúng ta chớ nên chẳng biết điều này! Học rộng nghe nhiều, mà nếu chẳng có trí huệ, sẽ là tri thức (kiến thức). Trí huệ học từ đâu? Trí huệ chẳng ĺa Giới, Định, Huệ, nhất định là từ Giới - Định mà khai trí huệ, trí huệ mới thấu lộ. Nói cách khác, người tâm thường ở trong Định, sẽ dễ khai trí huệ. Nếu một kẻ tâm bộp chộp, hời hợt, làm sao có trí huệ cho được? Do vậy, vào thời cổ, tại Trung Quốc, đối với người đọc sách, điều trọng yếu nhất là trong cuộc sống hằng ngày phải thể hiện sự ổn trọng, ít nói, động tác rất thong thả. Như trong kinh, đức Phật đă nêu tỷ dụ: “Na Già thường tại Định, vô hữu bất định thời” (Na Già thường trong Định, chẳng lúc nào bất định). Na Già (Nāgá) là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Long, hoặc Tượng. Chúng ta chưa thấy rồng, nhưng đă thấy voi. Quư vị thấy dáng vẻ của con voi, chúng ta gọi [dáng vẻ ấy] là oai nghi, rất ổn trọng, nó đứng ở đó, bước đi cũng rất chậm. Phải học ổn trọng như vậy, hiển thị đang ở trong Định. Trong đời này, tôi đă gặp một người là Chương Gia đại sư, lăo nhân gia giống như kinh nói “vô hữu bất định thời” (chẳng lúc nào không định). Ngài nói với tốc độ rất chậm, nói từng chữ một. Tôi nói khá chậm, nhưng so với Chương Gia đại sư, tốc độ của tôi quá nhanh! Tốc độ nói của Ngài hết sức chậm, mỗi câu nói từng chữ một, lại c̣n giữa mỗi câu nghỉ một chút, chẳng nói tiếp ngay. Đi, đứng, nằm, ngồi vô cùng thong thả. Lúc tôi quen biết Ngài, lăo nhân gia sáu mươi lăm tuổi, tôi tin tưởng Ngài đă huấn luyện thành tâm thái như vậy từ nhỏ.

      Bởi lẽ đó, gia giáo tại Trung Quốc xưa kia dạy dỗ trẻ nhỏ, từ bé đă dạy con hành động thong thả, dưỡng thành thói quen rất ổn trọng, tâm rất thanh tịnh, rất định, dễ dàng khai trí huệ. Trí huệ có tiểu ngộ, có đại ngộ, có đại triệt đại ngộ. Tiểu ngộ th́ gần như mỗi ngày đều có. Đại ngộ một năm cũng có vài lần th́ người ấy có trí huệ. Con người hiện tại đ̣i hỏi tốc độ, chuyện ǵ cũng đều phải nhanh, nhanh đến mức tâm tánh bộp chộp, hời hợt, chẳng c̣n ổn trọng, đương nhiên trí huệ cũng chẳng c̣n nữa, toàn là tri thức, cho nên nẩy sanh vấn đề. Vấn đề nẩy sanh đầu tiên là thân thể chẳng khỏe mạnh, rất nhiều bệnh tật, đến tuổi trung niên sẽ rất rơ rệt. Vào thời cổ, người có bệnh tật quá nửa là lứa tuổi lăo niên, chứ trung niên và tráng niên sẽ chẳng có t́nh trạng ấy, đều là tuổi lăo niên. Hiện thời đă sớm hơn, ngay tuổi thanh niên cũng xuất hiện vấn đề, bệnh tật đă lộ ra. Do đó, cầu trí huệ là trọng yếu, học ổn trọng là trọng yếu. Nói cách khác, Giới, Định, Huệ là trọng yếu. Giới học từ chỗ nào? Từ Đệ Tử Quy, Cảm Ứng Thiên, hăy nghiêm túc học tập. Chẳng có hai thứ ấy, nói cách khác, người đó chẳng tĩnh tâm được, chẳng định được, biểu hiện bên ngoài chắc chắn là tâm bộp chộp, vội vàng. Chẳng cần xét ai khác, từ chính ḿnh cũng có thể nhận biết, tật xấu ấy chớ nên không sửa. Do vậy, hai câu ở đây nhắc nhở chúng ta phải khai trí huệ, sau khi đă khai trí huệ rồi th́ mới có thể bắt tay học tập hạnh Phổ Hiền. Chẳng phải là kẻ b́nh phàm không học hạnh Phổ Hiền, kẻ b́nh phàm cũng học, nhưng chẳng phải là hạnh Phổ Hiền. Thí dụ như “lễ kính chư Phật”, ta thấy người khác đều rất lễ phép, đó có phải là hạnh Phổ Hiền hay không? Chẳng phải! Hạnh của quư vị giống như hạnh Phổ Hiền, là bề ngoài, trong tâm chẳng phải là Phổ Hiền, v́ sao? Trong tâm c̣n có tự tư tự lợi, c̣n có tiếng tăm, lợi dưỡng, như vậy th́ chẳng phải là hạnh Phổ Hiền. Hạnh Phổ Hiền là tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng, tâm giác chứ không mê, tu lễ kính chư Phật như vậy chính là hạnh Phổ Hiền. Do đó, hai câu này rất chánh xác, nếu trí huệ đă khai th́ ngôn hạnh sẽ tương ứng với hạnh Phổ Hiền. Nay chúng ta học cách nào cũng chẳng giống, chủ yếu là v́ tâm chẳng giống!

      Quư vị thấy tâm các Ngài [được diễn tả] bằng năm câu tiếp theo, ngày hôm qua, chúng ta cũng đă đọc rồi, đó là tâm Phổ Hiền. “Dĩ bất năng liễu tri tự tâm” (do chẳng thể biết rơ tự tâm), tâm Phổ Hiền là liễu tri tự tâm. Trước đó, chúng ta thêm vào “bất năng” (chẳng thể), chẳng thể liễu tri tự tâm bèn là phàm phu. Chẳng thể liễu tri tự tâm là chưa khai ngộ. Không chỉ quư vị chưa chứng ngộ, mà giải ngộ cũng chưa khai. Giải ngộ là hiểu rơ, quư vị vẫn chưa làm được. Hiện thời, căn bản là chúng ta chưa hiểu rơ, v́ sao biết là về căn bản chưa hiểu rơ? Có tự tư tự lợi, có đúng, sai, ta, người, có lợi, hại, được, mất, đó là hoàn toàn chưa thể liễu tri. Thật sự liễu tri, những ư niệm ấy sẽ chẳng c̣n nữa, chẳng có tự tư tự lợi, đúng như cổ đức đă nói “ái nhân như kỷ” (thương người như thương chính ḿnh). Không chỉ đối với con người, mà đối đăi tất cả hết thảy sanh vật, hết thảy vạn pháp, đều thân thiết như đối với chính ḿnh. Đó là Phổ Hiền Bồ Tát, là tất cả các vị Bồ Tát trong thế giới Cực Lạc, v́ sao? Các Ngài đều tu hạnh Phổ Hiền. Hạnh Phổ Hiền biết vạn sự vạn vật trong vũ trụ đều do chính ḿnh tâm hiện thức biến, [tức là] do chân tâm của chính ḿnh hiện, do tánh thức của chính ḿnh biến, là một, không hai! V́ thế, “nhất niệm đốn viên”, ư niệm vừa dấy lên bèn là công đức viên măn, chẳng có ǵ không viên măn. Như trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đă nói “trí huệ, đức tướng”, Ngài quy nạp vạn sự vạn vật thành bốn chữ “trí huệ, đức tướng”, chẳng có ǵ không viên măn. Đức là năng lượng, chúng ta cũng có thể gọi nó là “năng lực”, Tướng là tướng hảo, hiện tướng, thảy đều viên măn. B́nh đẳng chánh tánh, phàm thánh cộng hữu, nhất tế vô sai” (b́nh đẳng chánh tánh, phàm và thánh cùng có, chẳng sai khác mảy may), bổn tánh của hết thảy các pháp là một, không hai. Đó là khai ngộ, hiểu rơ. “Dĩ bất liễu cố, sở hữu nguyện hạnh tất bất cụ túc” (do chẳng hiểu rơ, nên tất cả nguyện hạnh thảy đều chẳng trọn đủ), v́ quư vị không hiểu rơ, chẳng biết, [tức là] chẳng biết chân tướng sự thật này, quư vị tu hết thảy nguyện hạnh, “bất cụ túc” là chẳng viên măn, chẳng có ǵ là viên măn. Chúng ta phải tu công đức ấy viên măn, tu công đức viên măn, chẳng thể không biết chân tướng sự thật này. Hiện thời, chân tướng sự thật này được giảng rất nhiều trong kinh giáo Đại Thừa, giảng rất nhiều, giảng rất rơ ràng, luôn luôn nhắc nhở chúng ta, v́ chúng ta chưa chuyển đổi ư niệm. Trong khi học tập kinh giáo, nghe cảm thấy hay lắm, gật gù, lúc tan học, quên tuốt luốt, trong hết thảy thời, hết thảy chỗ, vẫn y như cũ, tập khí phiền năo nắm quyền làm chủ! Tập khí phiền năo tạo nghiệp, nghiệp có thiện nghiệp và ác nghiệp. Ác nghiệp chướng đạo, thiện nghiệp cũng chướng đạo, v́ sao? Quư vị tu hành chẳng thể viên măn, đó là chướng đạo. Phải như thế nào mới chẳng chướng? Đoạn ác, tu thiện, nhưng chẳng chấp trước thiện - ác, trong Phật pháp nói “tam luân thể không”, đoạn ác tu thiện phải tu tâm thanh tịnh, trọn chẳng chấp trước.

      Tiếp đó nói: “Hà dĩ cố?”, [nghĩa là] v́ sao phải nói như vậy? V́ quư vị là “tâm ngoại khởi tu, tức thành hữu lậu” (khởi tu ngoài tâm bèn thành hữu lậu). “Tâm ngoại khởi tu” là ǵ? Quư vị tu nhưng chẳng tương ứng với tâm nên gọi là “tâm ngoại khởi tu”. Lục đạo phàm phu tâm ngoại khởi tu, bốn thánh pháp giới vẫn là tâm ngoại khởi tu. Đến địa vị nào mới chẳng phải là tâm ngoại khởi tu? Nói theo kinh Hoa Nghiêm, th́ từ địa vị Sơ Trụ Bồ Tát như trong kinh Hoa Nghiêm đă nói, bắt đầu từ địa vị ấy, sẽ tương ứng. Sơ Trụ Bồ Tát là giai vị ǵ? Là địa vị ǵ? Thuộc cấp bậc nào? “Đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh” như Thiền Tông Trung Quốc đă nói chính là địa vị ấy. Địa vị ấy không chỉ vượt thoát lục đạo, mà c̣n vượt thoát mười pháp giới. Ngài ở nơi đâu? Trụ trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai. Tịnh Độ chúng ta nói tới “bốn cơi, ba bậc, chín phẩm”, vị ấy văng sanh trong cơi Thật Báo. Điều này chẳng dễ dàng, có mấy ai trong hiện thời làm được? Thuở trước, lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ bảo tôi, cụ nói trong hiện thời chẳng ai có thể làm được! Lời ấy là thật, chẳng giả. Buông tự tư tự lợi xuống, buông tiếng tăm lợi dưỡng xuống. Buông Ngă Chấp chẳng khó, Tiểu Thừa đă làm được, nhưng tương ứng với Pháp Tánh th́ người Tiểu Thừa chẳng làm được. Quyền Giáo Bồ Tát cũng chẳng làm được, trong mười pháp giới không ai có thể làm được. Do vậy, lời của cụ Hoàng Niệm Tổ là thật, chẳng giả! Tâm ngoại khởi tu là hữu lậu, “tâm ngoại” chẳng tương ứng với tâm, tâm là ǵ? Tâm là pháp vô vi. Huệ Năng đại sư đă nói rất hay, tâm là thanh tịnh, tâm là bất sanh, bất diệt. Tâm của chúng ta là ǵ? Tâm của chúng ta là nhiễm ô, chẳng phải là thanh tịnh, chẳng phải là chân tâm. Tâm của chúng ta là sanh diệt, tiền niệm vừa diệt, hậu niệm bèn sanh, nối tiếp nhau, đó là vọng tâm, chẳng phải là chân tâm. Dùng vọng tâm để tu, tức là chúng ta dùng tâm sanh diệt để tu, dùng tâm nhiễm ô để tu, bèn thành tựu pháp hữu lậu. Hữu lậu là ǵ? Hữu lậu là phước đức. Tu phước đức có lợi ích ǵ chăng? Có lợi ích, thật sự là đoạn ác tu thiện; dùng cái tâm nhiễm ô, dùng cái tâm sanh diệt, quả báo là ǵ? Nhân thiên phước báo. Tiểu phước báo là hưởng phước trong nhân gian, đại phước báo là hưởng phước trên cơi trời. V́ phước báo ấy là hữu lậu nên kèm theo tập khí phiền năo, chưa đoạn tập khí phiền năo. Đoạn hết tập khí phiền năo sẽ trở thành pháp vô lậu, như vậy th́ sẽ tương ứng với tự tánh.

      V́ lẽ đó, chính ḿnh hăy suy nghĩ, tâm của chúng ta có tương ứng với thanh tịnh b́nh đẳng giác hay không? Nếu tâm chúng ta thanh tịnh, sẽ tương ứng với A La Hán. Tâm chúng ta b́nh đẳng, b́nh đẳng là quyết định chẳng có phân biệt, bèn tương ứng với Bồ Tát. Tâm chúng ta giác chứ không mê, sẽ tương ứng với Phật. Tựa đề kinh này hay quá! Tựa đề kinh đă dạy chúng ta tiêu chuẩn tu hành: Tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng, tâm giác ngộ. Nếu đặt vững mục tiêu tu hành nơi đó, người ấy được gọi là “chân tu”, tức là người tu hành thật sự. Người ấy chẳng cầu tiếng tăm, lợi dưỡng, chẳng cầu phú quư, mà cầu “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, đó là ǵ? Đó là cầu thành Phật. Quư vị thấy nhé, thanh tịnh thành A La Hán, b́nh đẳng thành Bồ Tát, giác thành Phật, người ấy tu hành nhằm cầu ǵ? Cầu làm A La Hán, Bồ Tát, Phật Đà, người ấy thật sự học Phật, được hết thảy chư Phật hộ niệm, được long thiên thiện thần ủng hộ. Chư vị hăy nghĩ xem, nếu tâm thật sự theo đuổi “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, trên thế giới này có tai nạn hay không? Tai nạn ǵ cũng chẳng liên can đến người ấy, người đó đă giải thoát, vượt thoát, dẫu thế giới này tốt đẹp cách mấy đi nữa, người ấy đă vượt thoát. V́ vậy, người ấy sanh trong cơi Thật Báo. Cơi Thật Báo trang nghiêm thù thắng khôn sánh, người ấy có khởi tâm động niệm ở nơi đó hay không? Chẳng khởi tâm, không động niệm. Người ấy cũng chẳng cảm thấy nơi đó rất tốt đẹp. Nếu cảm thấy nơi ấy tốt đẹp, chẳng phải là tâm phân biệt đă dấy lên rồi sao? Có phân biệt bèn có chấp trước, bèn đọa lạc, người ấy là Phật ở chỗ nào? Do đó, người ta cư trụ trong ấy, nhưng chẳng khởi tâm, không động niệm. Khởi tâm động niệm c̣n chẳng có, chúng ta bèn có thể nghĩ là người ấy chẳng có phân biệt, chấp trước.

      Nếu chúng ta dùng tiêu chuẩn này làm mục tiêu tu học của chính ḿnh, chúng ta thật sự chẳng phải là hành Bồ Tát đạo, mà là Phật đạo, tức là đạo để thành Phật. Khi ấy, Phật pháp là pháp Nhất Thừa, là con đường thành Phật thẳng tắt. Niệm Phật hay lắm! Dùng pháp môn Niệm Phật để tu “đạo thành Phật”, chẳng hề có mảy may tham cầu pháp thế gian hay xuất thế gian, tâm mong cầu đoạn sạch sành sanh, ta chỉ cầu tâm “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”. Trong tương lai, sẽ văng sanh về đâu? Sanh về cơi Thật Báo trong Tây Phương Cực Lạc. Người ấy chẳng sanh trong cơi Phương Tiện Hữu Dư, cũng chẳng phải là cơi Phàm Thánh Đồng Cư, mà sanh trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Chúng ta có thể làm giống như vậy hay không? Có rất nhiều người hoài nghi “ta tội nghiệp quá nặng, chẳng thể đến cơi Thật Báo. Ta chỉ là hạ hạ phẩm trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư là được rồi, thỏa măn rồi”. Cũng là khá lắm, chẳng thể nói là quư vị sai lầm, nhưng Thiện Đạo đại sư đă dạy chúng ta một câu. Thiện Đạo đại sư là người đời Đường, là tổ sư đời thứ hai của Tịnh Độ Tông, lịch đại truyền tụng lăo nhân gia là A Di Đà Phật ứng hóa đến thế gian. Người Nhật Bản rất tin tưởng, sùng bái pháp sư Thiện Đạo vượt rất xa người Hoa. Người Hoa tôn trọng Thiện Đạo đại sư chẳng nhiều lắm, chứ người Nhật Bản vô cùng tôn trọng. Quư vị đến Nhật Bản, thấy trong mỗi chùa miếu có đắp h́nh tượng Thiện Đạo đại sư, lại c̣n có rất nhiều tự miếu đề tên là Thiện Đạo Tự. Do vậy, hễ chư vị thấy Thiện Đạo Tự th́ đó là đạo tràng Tịnh Độ Tông, dùng ngay đức hiệu của Thiện Đạo đại sư làm tên chùa.

      Lăo nhân gia đă dạy chúng ta một câu như sau: “Tây Phương thế giới, tứ độ, tam bối, cửu phẩm, tổng tại ngộ duyên bất đồng” (Bốn cơi, ba bậc, chín phẩm trong thế giới Tây Phương, nói chung là do gặp duyên khác nhau), câu này nói thật hay! Chúng ta phải tin tưởng, hiểu ư nghĩa câu nói ấy của Thiện Đạo đại sư. Ngài đă dạy rơ: Quư vị văng sanh cơi nào trong bốn cơi, văng sanh trong phẩm vị nào, điều ấy được quyết định do gặp duyên khác nhau. Nay chúng ta gặp duyên vô cùng thù thắng, duyên ấy là ǵ? Duyên ấy là duyên trong cơi Thường Tịch Quang, duyên trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm, chẳng phải là duyên trong những cơi thấp hơn. Xác thực là chẳng ít, từ xưa đến nay, người như thế rất nhiều. Những ông già bà cả ở nông thôn, chẳng biết chữ, nhưng là người rất thiện lương, nói theo Phật pháp là “có thiện căn”. Nếu họ gặp duyên, hễ gặp duyên, bảo họ niệm kinh, họ chẳng niệm được, cũng chẳng thể ghi nhớ nhiều ngần ấy. Bảo họ nghe kinh th́ cũng chẳng có ai giảng kinh cho họ, mà giảng kinh th́ cũng chưa chắc có thể nghe hiểu được! Gặp một người khuyên họ niệm A Di Đà Phật, họ bèn thật thà niệm, lúc lâm chung văng sanh, những người như thế sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư. Đó là gặp duyên, nhưng duyên chẳng thù thắng. Nay chúng ta gặp duyên vô cùng thù thắng, gặp kinh Vô Lượng Thọ, gặp kinh Hoa Nghiêm, gặp khá nhiều giáo huấn trong kinh luận Đại Thừa, duyên ấy quá thù thắng, hiểu rơ ràng minh bạch bốn cơi, ba bậc, chín phẩm. Chúng ta cũng hiểu thành Phật, thành Bồ Tát, thành A La Hán như thế nào, đều hiểu rất rơ ràng. Đó là gặp duyên bất đồng! Chúng ta có thể buông hết vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống, dùng tâm “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” để niệm một câu A Di Đà Phật, chúng ta sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ sanh về nơi đâu? Công phu tốt đẹp bèn sanh trong Thường Tịch Quang Tịnh Độ, kém hơn là sanh vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Câu nói ấy đă chỉ rơ v́ sao nghe kinh rất quan trọng, nghe kinh có lợi ích ở chỗ nào? Giúp chúng ta tăng cao phẩm vị, lại c̣n tăng với một mức độ rộng lớn!

      Trong hiện tiền, chúng ta sống trên quả địa cầu này, hiện thời tai nạn rất nhiều, pháp môn này giúp đỡ quư vị, bất luận tai nạn nghiêm trọng nào, tâm địa quư vị b́nh an, chẳng mảy may bị ảnh hưởng bởi tai nạn, tâm quư vị b́nh thản, tĩnh lặng, chẳng kinh sợ, chẳng hoảng hốt. Quư vị thấy đó, kinh giáo này có sức mạnh to lớn dường ấy. Tâm địa an định, chẳng bị ảnh hưởng, dẫu tai nạn bên ngoài to lớn đến mấy vẫn chẳng thể ảnh hưởng quư vị. Dẫu là tử vong trong khi tai nạn, quư vị sanh ngay về thế giới Cực Lạc, A Di Đà Phật đến tiếp dẫn. Chẳng t́m được lợi ích thù thắng như thế trong các pháp môn khác. Chẳng phải là các pháp môn khác không có [những lợi ích ấy], nhưng công phu đó rất khó thành tựu. Tịnh Tông dễ dàng, chỉ cần quư vị chịu hành, chỉ cần quư vị chịu buông xuống, ai nấy đều có thể làm được. Buông xuống chẳng phải là buông đằng miệng, mà phải thật sự làm, làm từ đâu? Từ tŕ giới, chịu khổ. Trước lúc ra đi, Thích Ca Mâu Ni Phật đă dạy chúng ta hai câu, Ngài bảo tất cả các đệ tử: “Lấy giới làm thầy, lấy khổ làm thầy”. Hiện thời, cuộc sống vật chất rất phong phú, chúng ta có cần truy cầu hay chăng? Chẳng cần, cuộc sống khổ sở một chút sẽ tốt hơn! Nếu có dư dả, hăy giúp đỡ kẻ nghèo khổ nhiều hơn một chút. Chúng ta sống tiết kiệm một chút sẽ có thể giúp rất nhiều người nghèo khổ, đó là ḷng dạ Bồ Tát. Như trong Liễu Phàm Tứ Huấn có kể, vợ tiên sinh Viên Liễu Phàm vào mùa Đông may áo bông cho con, dùng loại bông vải thông thường. Tiên sinh Liễu Phàm thấy vậy, hỏi: “Trong nhà ty miên[3] rất nhiều, sao nàng lại dùng bông vải?” Bà ta nói: “Ty miên đắt tiền, bông vải rẻ hơn, thiếp đem ty miên bán đi, mua nhiều bông vải, may nhiều bộ quần áo, con cái có áo mặc, mà những người nghèo cũng được mặc”. Tiên sinh Liễu Phàm nghe nói rất hoan hỷ, con cái thật có phước. Phước do đâu mà có? Người bị thua thiệt bèn có phước, kẻ chịu khổ bèn có phước. Ư nghĩa ấy rất sâu, đó là chân lư!    

      V́ thế, tuy khoa học kỹ thuật hiện thời phát triển, thứ ǵ cũng đều thuận tiện, nhất định phải biết tiết kiệm tài nguyên. Phải biết tiết kiệm, chớ nên lăng phí, lăng phí sẽ có tội lỗi! Thứ ǵ cũng phải ăn hết, chẳng thể ăn chớ nên vứt bỏ, hễ vứt bỏ sẽ mắc tội. V́ sao? Phải nghĩ, thứ này ăn không ngon, nhưng trong thế gian hiện thời vẫn c̣n rất nhiều người đang lâm vào t́nh cảnh đói khát, chẳng có ǵ để ăn. Nếu họ gặp được thứ ấy, sẽ [coi như] của báu, mà chúng ta c̣n chê ỏng chê eo, chê ỏng chê eo là tạo nghiệp! Chớ nên có phân biệt, đừng nên có chấp trước, nhất định phải biết tiết kiệm, thường có chủ tâm giúp đỡ người khác, đó là điều tốt đẹp. Người thật sự tu hành, có đức hạnh, ở nơi nào, nơi ấy có thiên long thiện thần gia hộ, ít tai nạn. Người thật sự có đức hạnh có thể làm được, chúng ta có thể phát tâm ấy hay không? Làm một người thật sự có đức hạnh hay không? Phải biết thánh hiền là do con người tu thành, Phật, Bồ Tát cũng do con người tu thành. Người ta có thể thành thánh, thành hiền, thành Phật, thành Bồ Tát, v́ sao ta chẳng làm được? V́ sao người khác làm được? Họ buông xuống vạn duyên nên làm được, v́ sao ta chẳng buông xuống được? Hễ buông xuống liền làm được. Buông xuống không được, c̣n có tham, sân, si, mạn, tức là phàm phu. Buông tham, sân, si, mạn xuống, trước hết phải buông xuống từ đối tượng, tức là buông tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ xuống. Nhục thân của chúng ta ở trong thế gian này chẳng thể không có những thứ ấy, nhưng vừa phải là được rồi, chớ nên có tâm tham. V́ thế, “tri chỉ” (biết ngừng đúng mức) sẽ gần với đạo! Quư vị thấy Phật, Bồ Tát, từ trong kinh này chúng ta đă đọc thấy, trước khi thành Phật, Bồ Tát dưỡng đạo tại Đâu Suất nội viện, dưỡng ǵ? Dưỡng “tri chỉ”. Đâu Suất có nghĩa là Tri Túc, Đâu Suất Thiên là Tri Túc Thiên. Chúng ta đối với hết thảy đều biết đủ, trong tương lai sẽ sanh về Đâu Suất Thiên. Kẻ chẳng biết đủ, sẽ chẳng thể sanh lên cơi trời ấy! Điều này cho chúng ta biết: Thật sự tri chỉ, một trăm phần trăm tri chỉ, người ấy bèn thành Phật. Cổ đại đức Trung Quốc thường nói: “Tri túc thường lạc” (biết đủ thường vui), đó là thật. Người ấy chẳng có ưu lự, rất vui sướng, được một chút đă rất thỏa ư, chẳng c̣n mong mỏi nữa!

      Câu kế tiếp vô cùng hay: “Dĩ vô biên công đức, bất ngoại tự tâm” (do vô biên công đức chẳng ngoài tự tâm), câu này nói rất hay. Vô lượng vô biên công đức đều do tự tâm của quư vị thành tựu. Chư Phật Như Lai chẳng hề cầu cạnh kẻ khác, ngạn ngữ của Trung Quốc cũng nói rất hay: “Nhân đáo vô cầu, phẩm tự cao” (con người đạt đến mức vô cầu, phẩm hạnh tự cao). Phàm phu, đặc biệt là trong xă hội hiện tiền này, nói chung, đối với các tin tức, bất luận là thiện hay bất thiện, thường mong biết nhiều hơn một chút. Thật ra, người tu đạo có cần [biết những tin tức ấy] hay không? Chẳng cần thiết! Khéo tu tự tâm, công đức bèn viên măn, đó là đạo lư nhất định. Thường giữ ǵn tự tâm thanh tịnh, b́nh đẳng. Thanh tịnh và b́nh đẳng đều thuộc về Định, thanh tịnh là chẳng nhiễm ô, b́nh đẳng là chẳng dao động, đó là công phu Thiền Định. “Tùy thuận Chân Như, tu nhất thiết pháp, tắc năng cụ túc vô biên công đức” (tùy thuận Chân Như, tu hết thảy các pháp, có thể trọn đủ vô biên công đức). Chân Như là chân tánh, nếu quư vị chẳng biết Chân Như là ǵ, th́ Chân Như chính là “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” ngay trong tựa đề kinh, v́ nó chẳng giả! Trong cuộc sống hằng ngày, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác đều tương ứng Chân Như, luôn tương ứng với Chân Như th́ gọi là Như. Nói cách khác, tương ứng với thanh tịnh, b́nh đẳng, giác, khởi tâm động niệm, tâm địa thanh tịnh, chẳng có nhiễm ô, tâm địa b́nh đẳng, chẳng bị dao động, đó là tương ứng. Ngôn ngữ, tạo tác đều tương ứng với thanh tịnh, b́nh đẳng th́ tâm ấy trụ trong Giới, Định, Huệ.

      Giới là tự nhiên chẳng vượt ngoài quy củ giống như Khổng lăo phu tử. Khổng lăo phu tử rất khó có, Ngài nói đến lúc bảy mươi tuổi mới đạt được công phu ấy: “Tùy tâm sở dục, bất du củ” (thuận theo ḷng muốn, chẳng vượt ngoài quy củ). “Củ” () là quy củ, đó là giới luật, thuận theo ḷng mong muốn, tự nhiên tương ứng với giới luật, chẳng có mảy may miễn cưỡng nào, tự nhiên tương ứng. Thích Ca Mâu Ni Phật biểu diễn cảnh giới này cho chúng ta thấy, lăo nhân gia thuyết pháp bốn mươi chín năm, đă thực hiện được. Khổng Tử bảy mươi tuổi mới đạt đến cảnh giới ấy. Đó đều là Phật, Bồ Tát thị hiện, biểu diễn cho chúng ta thấy. [Sự biểu diễn của Khổng Tử] là người b́nh phàm, c̣n sự biểu diễn của Thích Ca Mâu Ni Phật là bậc thượng thượng căn, Ngài chẳng phải là kẻ b́nh phàm, lúc khai ngộ bèn thực hiện được, ba mươi tuổi bắt đầu giáo học th́ đă “tùy tâm sở dục, bất du củ” rồi! Khổng Tử đă cho chúng ta biết tấn độ (mức độ tiến triển) trong sự tu học của Ngài: “Tam thập nhi lập”, giống như chúng ta học hành hiện thời, ba mươi tuổi tốt nghiệp chương tŕnh Tiến Sĩ, giành được mảnh bằng Tiến Sĩ, đó là “nhi lập”. “Tứ thập nhi bất hoặc”, có thể tương ứng với trí huệ, chẳng c̣n bị mê hoặc. “Ngũ thập tri thiên mạng, lục thập nhĩ thuận”, “nhĩ thuận” là ǵ? Bất cứ thứ ǵ cũng đều đă quen thấy, quen nghe, tâm b́nh đẳng hiện tiền. “Thất thập tùy tâm sở dục”, đạt được tự tại, chẳng cần phải miễn cưỡng, mà tự nhiên tương ứng với Chân Như, tự nhiên tương ứng. Bảy mươi tuổi [Khổng Tử] mới đạt đến cảnh giới ấy. Thích Ca Mâu Ni Phật biểu diễn “đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh”, đạt tới ngay cảnh giới ấy, biểu diễn cho chúng ta thấy trong suốt bốn mươi chín năm, măi cho đến khi lăo nhân gia viên tịch. “Tùy thuận Chân Như, tu hết thảy các pháp”. Nay chúng ta học tập những điều được nói trong kinh này là Chân Như, chỉ dạy chúng ta tùy thuận Chân Như, tu hết thảy các pháp như thế nào! “Hết thảy các pháp” là trong cuộc sống thường ngày, khởi tâm động niệm, đăi người, tiếp vật, chẳng ĺa “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, như vậy th́ sẽ có thể trọn đủ vô biên công đức.

      “Thị cố, tùng chư Phật sát trung giai năng thị hiện dĩ hạ, tiêu hiển Văn Thù trí đức” (do vậy, từ câu “trong các cơi Phật đều có thể thị hiện” trở đi là nêu rơ trí đức của ngài Văn Thù). Trong phần trước, chúng ta đă đọc đoạn kinh văn này, từ “chư Phật sát trung, giai năng thị hiện” cho đến “thiện lập phương tiện, hiển thị tam thừa”, đoạn kinh văn này toàn là nói về trí đức của Văn Thù Bồ Tát. “Lệ như” (chẳng hạn như), cụ Hoàng nêu ví dụ, ví dụ này sẽ được giải thích trong phần dưới: “Thí thiện huyễn sư, hiện chúng dị tướng” (ví như người giỏi huyễn thuật, hiện các h́nh tướng lạ), đó là tùy duyên. Hai câu kế đó: “Ư bỉ tướng trung, thật vô khả đắc” (trong các tướng ấy, thật sự là chẳng thể được). Đó là trí huệ của ngài Văn Thù. Trong hết thảy các tướng được hiện, chẳng khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, không chấp trước. V́ sao? Biết những tướng được hiện ấy là “Tướng có, Thể không”. Bồ Tát biết tướng chính là Không. Đối với các tướng được hiện ở ngay trước mặt ta, biết chúng là trống không, trọn chẳng thể được, cho nên vị ấy chẳng khởi tâm động niệm. Phàm phu không biết, ngỡ tướng là thật có, nên phân biệt, chấp trước, tạo tác tội nghiệp, chẳng biết tướng chính là Không. Đó là trí huệ chân thật, được gọi là trí huệ Văn Thù. Đối với bốn câu ấy, có thể nói hai câu đầu là Phổ Hiền hạnh. “Thí thiện huyễn sư, hiện chúng dị tướng” là Phổ Hiền hạnh; hai câu sau, tức “ư bỉ tướng trung, thật vô khả đắc” là Văn Thù trí. Chẳng có Văn Thù trí, sẽ tạo tội nghiệp, tạo nghiệp. Có Văn Thù trí bèn chẳng tạo nghiệp. Chữ “đẳng” có nghĩa là đoạn kinh văn từ những câu này cho đến “thiện lập phương tiện, hiển thị tam thừa” trong phần sau. “Câu biểu tùng Văn Thù diệu trí, viên măn Phổ Hiền thắng hạnh” (đều biểu thị diệu trí Văn thù viên măn hạnh thù thắng Phổ Hiền), có nghĩa là viên tu vạn hạnh chẳng ĺa Định - Huệ, ư nghĩa này vô cùng quan trọng.

      Chúng ta xem tiếp, mỗi câu tiếp theo đây sẽ giải thích, đoạn trước là nói về đại ư. “Chư Phật sát trung, dĩ hạ cộng bát cú, hiển hội trung Bồ Tát trí đức” (toàn bộ tám câu kể từ câu “trong các cơi Phật” trở đi, chỉ rơ trí đức của các vị Bồ Tát trong hội), [nghĩa là] tất cả các vị Bồ Tát trong đại hội này đều có Văn Thù trí đức. Trong phần kinh văn ấy, “chư Phật sát trung, giai năng thị hiện (kiến Đường dịch), biểu chư đại sĩ Phổ Môn thị hiện chi đức” (“trong các cơi Phật đều có thể thị hiện” (câu này trích từ bản Đường dịch), biểu thị đức “Phổ Môn thị hiện” của các vị đại sĩ). Thông thường, chúng ta thấy hai chữ Phổ Môn bèn nghĩ đến Quán Thế Âm Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thị hiện. Trên thực tế, chỉ cần là minh tâm kiến tánh Bồ Tát sẽ đều có năng lực ấy, chẳng có vị nào không phải là Phổ Môn thị hiện. Phổ () là phổ biến, Môn () là pháp môn, vô lượng, vô biên, vô số, vô tận, chúng sanh có cảm, Ngài bèn có hiện. Đức ấy là năng lực, Ngài có năng lực thị hiện. “Bất đản ư thử quốc độ thị hiện bát tướng, diệc ư thập phương thế giới phổ hiện bát tướng” (không chỉ thị hiện tám tướng trong cơi nước này mà c̣n hiện trọn khắp tám tướng trong mười phương thế giới), thị hiện tám tướng là biểu trưng, thị hiện thành Phật. Trong Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm có nói: “Ưng dĩ Phật thân nhi độ thoát giả, tức hiện Phật thân nhi vị thuyết pháp” (nên dùng thân Phật để độ thoát liền hiện thân Phật để thuyết pháp), câu kinh văn này mang ư nghĩa nêu ra một trường hợp [hiện thân], [tức là] Bồ Tát có thể hiện thân Phật. Thân Phật c̣n có thể hiện, huống hồ các thân khác? Bồ Tát, Thanh Văn. Duyên Giác, cho đến đồng nam, đồng nữ, đế vương, tướng quân, tể tướng, cho đến súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục, há lẽ nào chẳng thể hiện? Thân Phật c̣n có thể hiện mà! Tức là nói phạm vi hiện thân của Ngài rộng lớn ngần ấy.

      Hiện thân ǵ đều chẳng do ư nghĩ của chính Ngài. Nếu chính Ngài có ư nghĩ, Ngài sẽ chẳng phải là Bồ Tát, mà là phàm phu. V́ sao? Ư nghĩ là phiền năo, Ngài chưa chuyển được. Chuyển thức thứ sáu, tức ư thức, thành Diệu Quán Sát Trí, chuyển thức thứ bảy thành B́nh Đẳng Tánh Trí, chẳng c̣n ư nghĩ nữa. Phàm phu có ư nghĩ, lục đạo chúng sanh có ư nghĩ. Lại thưa cùng quư vị, bốn thánh pháp giới cũng có ư nghĩ, bất quá họ nhạt mỏng một chút, chẳng nghiêm trọng như chúng ta. Họ có ư nghĩ, nên gọi là “phàm phu”. Lục đạo được gọi là “giới nội phàm phu”, “giới” () là tam giới, [“giới nội” là trong tam giới], tức là lục đạo luân hồi, tức là luân hồi trong lục đạo. A La Hán, Bích Chi Phật, Bồ Tát, Phật, gọi là “giới ngoại phàm phu”, vượt ngoài tam giới, nhưng vẫn là phàm phu, v́ sao? Họ chưa chuyển phàm thành thánh. Cũng có nghĩa là người đă chuyển tám thức thành bốn trí th́ là thánh nhân, chẳng gọi là phàm phu, mà thật sự là bậc thánh nhân. Chớ nên không biết định nghĩa của phàm phu trong Phật pháp [như đang được nói] ở đây, khác hẳn “thánh nhân” như người Hoa thường nói. “Thánh nhân” của Trung Quốc là thánh nhân trong nhân gian, sanh về thiên đạo cũng là thánh nhân, bậc đại thánh đă sanh thiên. Trong Phật pháp, chẳng phải là như vậy. Phật pháp nói đến “thánh nhân” th́ bậc vượt thoát mười pháp giới mới là thánh nhân. Chưa vượt thoát mười pháp giới th́ vẫn gọi là phàm phu! Bất quá bốn thánh pháp giới gọi là “ngoại phàm”, ngoại phàm c̣n được gọi bằng danh xưng khác là “tiểu thánh”, nhà Phật gọi họ là “tiểu thánh”. Thánh nhân Tiểu Thừa chưa thoát khỏi mười pháp giới. Thoát khỏi mười pháp giới sẽ gọi là “đại thánh”, chẳng phải là tiểu thánh, mà là đại thánh. Đều có thể thị hiện, đó là “Phổ Môn thị hiện chi đức”.

      Chúng ta biết những vị đại sĩ, đại Bồ Tát ấy ở trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm, dùng tiêu chuẩn trong kinh Hoa Nghiêm để nói, kinh Hoa Nghiêm nói từ Sơ Trụ Bồ Tát trở lên, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, bốn mươi mốt địa vị ấy. Cư sĩ Giang Vị Nông chú giải kinh Kim Cang, tác phẩm Kim Cang Kinh Giảng Nghĩa là chú giải của ông ta. Đối với bộ kinh Kim Cang, cổ nhân đối với một bộ kinh, thâm nhập một môn, huân tu lâu dài suốt bốn mươi năm. Đổ công sức bốn mươi năm nơi một bộ kinh, nên có thành tựu, là người có thẩm quyền nhất về kinh Kim Cang. Do vậy, phàm những ai nghiên cứu hoặc học kinh Kim Cang, chẳng thể nào không đọc bộ Giải Nghĩa của ông ta. Thật sự chịu học, đọc bộ Giải Nghĩa là đủ rồi, chẳng cần t́m đọc các bản chú giải khác. Bản Giảng Nghĩa của ông ta có thể nói là đă tổng hợp hoàn thiện tất cả những lời chú giải kinh Kim Cang xưa nay, rất thuận tiện cho người học kinh Kim Cang. C̣n có một vị cư sĩ nữa là cư sĩ Châu Chỉ Am, sống vào thời Dân Quốc, suốt đời chuyên dốc công sức nơi Tâm Kinh, tức Bát Nhă Tâm Kinh. Chư vị đều biết Tâm Kinh chỉ có hai trăm sáu mươi chữ, ông ta dùng thời gian bao lâu? Cũng là tốn bốn mươi năm, viết thành bộ chú giải Tâm Kinh Thuyên Chú, tổng hợp hoàn thiện các lời chú giải Tâm Kinh của các vị đại đức xưa nay, rất tuyệt diệu! Trong thời kỳ Mạt Pháp, hai vị ấy đă nêu gương rất hay cho những người phát tâm nghiên cứu kinh giáo. Gương mẫu ấy chính là “thâm nhập một môn, huân tu lâu dài”. Thành tựu của họ khiến cho người khác tán thán, bốn mươi năm dùi mài chẳng bỏ một bộ kinh, trở thành người chú giải có thẩm quyền về một bộ kinh. Nay quư vị nói tới kinh Kim Cang hay nói tới Tâm Kinh, chẳng thể không biết đến hai bản chú giải ấy!

      Hai vị ấy cuối cùng đều niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, văng sanh Tịnh Độ, chúng ta có thể suy ra các vị ấy chẳng ở trong cơi Đồng Cư, mà cũng chẳng ở trong cơi Phương Tiện, hai vị ấy sanh vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Điều này chẳng giả chút nào! V́ sao? Họ có trí huệ! Kim Cang Bát Nhă và Bát Nhă Ba La Mật Đa Tâm Kinh đều là trí huệ, lại c̣n là trí huệ của Văn Thù! Đă có trí huệ Văn Thù, đương nhiên viên măn hạnh Phổ Hiền thù thắng, chắc chắn là như vậy! Do đó, chúng ta biết: Các vị ấy văng sanh trong cơi Thật Báo. Chúng ta phải thật sự học theo, gương tốt đă bày ra trước mặt, suốt đời chẳng thay đổi phương hướng, suốt đời chẳng lan man sang pháp khác, chuyên dốc công sức nơi một bộ. Do đó, họ có năng lực ở trong hết thảy các cơi Phật trong mười phương, ứng với ḷng cảm của chúng sanh, chúng sanh mong hăy dùng thân Phật để độ, các Ngài sẽ giống như Thích Ca Mâu Ni Phật, thị hiện tám tướng thành đạo, phổ độ chúng sanh trong thế giới của họ. Sơ Trụ Bồ Tát có năng lực ấy, nên cư sĩ Giang Vị Nông đă dùng bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ trong kinh Hoa Nghiêm để giải thích từ ngữ “chư Phật Như Lai” trong kinh Kim Cang. Bốn mươi mốt địa vị chính là “chư”, “chư” là nhiều! Bốn mươi mốt địa vị ấy đều là chư Phật Như Lai. Do vậy, tại Trung Quốc, trong giáo pháp Đại Thừa thường nói: “Minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”.

      Trong Tịnh Độ Tông, phương tiện thù thắng khôn sánh, một người hạ quyết tâm “trong một đời này, ta quyết định phải văng sanh thế giới Cực Lạc, mảy may hoài nghi đều chẳng có”, người ấy sẽ thành Phật trong một đời, viên măn trong một đời. Ai biết? Chư Phật Như Lai biết, chư Phật Như Lai chứng minh cho người ấy. Trong sách Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư đă dạy chúng ta đạo lư ấy. Người niệm Phật có thể văng sanh hay không, được quyết định bởi có tín nguyện hay không? Quư vị có ḷng chân tín, có chân nguyện, tôi thật sự tin tưởng, thật sự mong về thế giới Cực Lạc, tức là quư vị hội đủ điều kiện văng sanh thế giới Cực Lạc, nhất định sẽ sanh về. Tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, phẩm vị cao hay thấp, Ngẫu Ích đại sư nói, đó là do công phu niệm Phật của quư vị sâu hay cạn. Công phu tốt đẹp, phẩm vị văng sanh cao. Công phu kém hơn một chút, phẩm vị thấp hơn. Hai câu ấy nói rất hay. Ấn Quang đại sư bội phục hai câu ấy năm vóc sát đất. Lịch đại tổ sư đại đức giảng kinh Di Đà, chú giải kinh Di Đà, trọn chẳng hé lộ tin tức ấy. Ngẫu Ích đại sư hé lộ cho chúng ta biết, khiến cho người tu Tịnh Độ cầu văng sanh kiên định tín tâm. Nếu thường xuyên hoài nghi “ta có thể sanh về thế giới Cực Lạc hay không?” th́ do thường hoài nghi, sự văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng phải đánh dấu hỏi. Thật vậy! Chẳng biết quư vị có nắm chắc hay không? Người có tín tâm kiên định quyết định được văng sanh, Ngẫu Ích đại sư đă chứng minh cho quư vị. Người thật sự cầu văng sanh, chỉ nói miệng suông không được, phải có hành động, hành động là ǵ? Đối với thế gian này, thật sự chẳng có một mảy may lưu luyến nào, thật sự buông xuống, đấy mới là chân tín, chân nguyện. Nếu c̣n tham luyến thế gian này, c̣n có một mảy may chẳng buông xuống được, sẽ chẳng phải là chân tâm, chẳng phải là chân nguyện. Chân tâm, chân nguyện là triệt để buông xuống, chẳng có lưu luyến mảy may nào, người ấy quyết định văng sanh.

      Trong kinh này, “thí thiện huyễn sư” là tỷ dụ, “hiện chúng dị tướng” (hiện các tướng lạ). Nay chúng ta gọi “huyễn sư” là ảo thuật gia, làm tṛ ảo thuật. Khi chúng ta xem họ biểu diễn, trong các chương tŕnh đại nhạc hội có biểu diễn ảo thuật. Tại Ấn Độ vào thời cổ, họ được gọi là “huyễn sư”, người Hoa gọi những người “biến ma thuật” (làm tṛ ảo thuật) là “ma thuật sư” (magician). “Trí Độ Luận viết: Tây Phương hữu huyễn thuật nhân” (Trí Độ Luận ghi: “Phương Tây có kẻ làm huyễn thuật”), những người làm ảo thuật có thể làm những tṛ biến hóa. “Nhất thiết giai năng hóa hiện, cung điện, thành, quách, lang vũ, kết cân vi thố, thụ đới vi xà, chủng chủng biến hiện đẳng” (hết thảy đều có thể hóa hiện, cung, điện, thành, quách, hành lang, ṭa nhà, thắt khăn làm thỏ, dựng dây lưng làm rắn, đủ các thứ biến hiện v.v...), đây là nói tới những kỹ xảo biến hiện của nhà ảo thuật, nêu lên vài thí dụ để nói. Chẳng có cung điện, ông ta có thể biến huyễn cung điện cho quư vị thấy, biến huyễn thành tŕ, lầu gác, những kiến trúc như cung điện, hành lang dài, có thể biến hiện những hiện tượng, có thể biến một chiếc khăn tay thành con thỏ, biến một chiếc thắt lưng thành con rắn, biến hiện những tṛ vui ấy cho quư vị xem. Thật ra, quư vị biết tất cả đều là giả, chẳng có thứ ǵ là thật. Ở đây, đức Phật mượn tỷ dụ này để nói, tỷ dụ cho dễ hiểu. “Cố kim tá thuật giả chi huyễn hóa” (nên nay mượn sự huyễn hóa của người làm ảo thuật), sự biến hóa của người làm ảo thuật, “dĩ dụ đại sĩ chi Phổ Môn thị hiện” (ḥng tỷ dụ sự Phổ Môn thị hiện của bậc đại sĩ). Những vị Pháp Thân đại sĩ, tức là bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ trong các thế giới chư Phật khắp mười phương, hễ chúng sanh có cảm, các Ngài bèn có ứng, khi ứng bèn hiện thân. Ngài hiện thân thuận theo ư niệm của chúng sanh. Chúng sanh muốn Ngài hiện thân ǵ, Ngài bèn hiện thân ấy, chẳng phải do chính ḿnh, các Ngài chẳng khởi tâm, chẳng động niệm. Không khởi tâm, không động niệm, đó là Trí. Chính ḿnh thị hiện độ chúng sanh, có chấp tướng độ chúng sanh hay không? Chẳng chấp trước, v́ sao? Tướng của chúng sanh là trống không, tướng do chính ḿnh thị hiện cũng là giả, có ǵ tốt lành để chấp trước? Thảy đều chẳng chấp trước, điều này gọi là “tam luân thể không”, tức là chẳng chấp trước tự tướng, chẳng chấp trước tha tướng, và cũng chẳng chấp trước các thứ phương pháp phương tiện thiện xảo được sử dụng để giúp đỡ chúng sanh trong ấy. Thảy đều không chấp trước, biết phàm những ǵ có tướng đều là hư vọng. Tự tướng, tha tướng, các thứ hiện tướng, không ǵ chẳng phải là hư vọng.

      Trong mắt các Ngài, hoàn toàn thấy những cảnh giới ấy là hư vọng, hoàn toàn hiển lộ viên măn trước mắt chúng ta, v́ sao chúng ta chẳng thấy? Chúng ta bị những tướng ấy mê hoặc, ngỡ chúng là thật. Điều này có nghĩa là tâm chúng ta bị nhiễm bẩn. Tâm giống như nước, bị nhiễm bẩn, dao động. Dao động bèn nổi sóng gió, nước ấy bèn mất đi tác dụng chiếu soi. Tâm Bồ Tát thanh tịnh, bất động, b́nh đẳng, chẳng dao động, giống như nước trong vắt, chẳng nổi sóng, giống như một tấm gương, chiếu cảnh giới bên ngoài rơ ràng, rành rẽ. V́ vậy, trong cảnh giới, các Ngài chẳng khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, không chấp trước. Chúng ta đánh mất [tác dụng] Chiếu, Chiếu là trí huệ. Do đâu mà có trí huệ? Trí huệ do thanh tịnh b́nh đẳng mà có, thanh tịnh b́nh đẳng là Thiền Định. Chư vị phải hiểu: Tâm thanh tịnh b́nh đẳng là chân tâm của chính ḿnh, nay đang bị nhiễm ô, bị dao động, tâm ấy gọi là vọng tâm. Vọng tâm chẳng rời khỏi chân tâm, là sóng chẳng rời khỏi nước. Nước là chân tâm, sóng là vọng tâm. Thanh tịnh là chân tâm, nhiễm ô là vọng tâm. Chúng ta có chấp trước là nhiễm ô, có phân biệt bèn có dao động. Chúng ta phải học tập trong cảnh giới, học ǵ vậy? Đầu tiên là học chẳng nhiễm ô, mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần, chẳng bị nó ảnh hưởng. Tiếp xúc, chẳng dấy lên tự tư, tự lợi, chẳng khởi tham, sân, si, mạn, chẳng bị chúng quấy nhiễu. Trông thấy bèn rất hoan hỷ, tức là bị nhiễm bẩn. Trông thấy rồi cảm thấy đáng ghét, cũng là bị nhiễm bẩn. Ta trông thấy bèn mong chiếm hữu, muốn khống chế, đều là bị nhiễm bẩn. Phải thời thời khắc khắc cảnh giác điều này.

      Tới công ty bách hóa một chuyến chẳng sao cả, người thật sự tu hành thường đến đó, v́ sao? Thấy những thứ ấy mà chẳng động tâm, đó là chân tu hành, Định - Huệ giữ quân bằng. Xem là ǵ? Hiện thời, khoa học kỹ thuật phát triển, sản phẩm khoa học lại đổi khác mỗi ngày mỗi tháng, mỗi ngày đến xem, đó là trí huệ, quư vị hiểu rơ, như như bất động, đó là “định công” (công phu định lực). Thật sự tu Định chẳng phải là ngồi xếp bằng ngó vào vách, mà là dạo trong công ty bách hóa mỗi ngày, chân tu Thiền Định, chân định, chẳng phải giả! Xếp bằng ngó vào vách mấy năm, nhưng đến công ty bách hóa một chuyến vẫn khởi tâm động niệm, thôi rồi! Quư vị xem năm mươi ba lần tham học trong kinh Hoa Nghiêm, các vị trưởng lăo tu Thiền Định ở chỗ nào? Tu trong công ty bách hóa, là nơi náo nhiệt nhất. Họ đi dạo phố, Thiện Tài đồng tử đến tham phỏng họ, biết họ đang tu Thiền Định trong ấy. Người ta thấy họ dạo phố, cũng xem cái này, cũng ngó cái kia, nh́n Đông, ngó Tây, nhưng Thiện Tài đồng tử biết đó là Thiền Định thật sự. Phải hiểu điều này, phải thật tu, phải thật luyện, phải thật sự luyện công phu, đoạn trừ tham, sân, si, mạn, nghi. Chẳng tiếp xúc cảnh giới bên ngoài, sẽ chẳng đoạn được, giả trất, chẳng phải là thật. Nếu tiếp xúc mà thật sự đoạn được, đó là thật, chẳng giả. Do vậy, tiên sinh Phương Đông Mỹ thuở trước giới thiệu triết học kinh Phật cho tôi, bảo Phật pháp vốn đạt đến cái thật, chẳng phải là đạt đến cái giả, trải qua thí nghiệm bằng năm mươi ba lần tham học. Chẳng trải qua thí nghiệm th́ nói theo khoa học, chẳng thể coi là thật. Thông qua thí nghiệm th́ mới là thật, chẳng giả chút nào. Do vậy, kinh Hoa Nghiêm là bộ kinh được giảng đầu tiên sau khi đức Thế Tôn thành đạo, là pháp luân viên măn, là bộ kinh bậc nhất trong Phật môn.

      “Ư bỉ tướng trung, thật vô khả đắc” (trong các tướng ấy, thật chẳng có ǵ để có thể được). Chữ “tướng” chỉ y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới, cũng là như kinh Kim Cang đă nói: “Phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”. Phàm những ǵ có tướng, không chỉ bao gồm mười pháp giới, mà c̣n kể cả cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai. V́ sao? Cơi Thật Báo Trang Nghiêm có tướng. Trong hết thảy các kinh, đức Phật chưa hề nói: “Phàm những ǵ có tướng đều là hư vọng, ngoại trừ cơi Thật Báo Trang Nghiêm”, chẳng nói câu ấy! Chẳng nói câu ấy th́ chúng ta biết cơi Thật Báo cũng là hư vọng. Ǵ là chân thật? Chân thật chỉ có một, chẳng có thứ hai, đó là cơi Thường Tịch Quang. Thường Tịch Quang là chân thật, chẳng giả! V́ sao? Vĩnh hằng bất biến. Cơi Thật Báo do đâu mà có? Qua học tập kinh Hoa Nghiêm, chúng tôi mới biết, chứ trong quá khứ, đây là một nghi vấn, cũng là bao nhiêu năm đều chẳng thể giải quyết, chẳng nghĩ ra. Cơi ấy do đâu mà có? Bồ Tát tu hành đạt đến đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, sanh trong cơi Thật Báo. Chúng ta có thể suy tưởng, những người đại ngộ ấy, khởi tâm động niệm đă đoạn trừ. Chẳng khởi tâm, không động niệm, đương nhiên phân biệt và chấp trước đă sớm chẳng c̣n! Thế giới ấy là thế giới b́nh đẳng, v́ sao có hiện tướng? Phải biết, đúng là Nhất Chân pháp giới thuần chân vô vọng. [C̣n các Bồ Tát trong cơi Thật Báo] tuy đă thuần chân, vẫn c̣n mang theo vọng, nên vẫn chưa bỏ được tướng. Từ kinh Hoa Nghiêm, chúng ta có thể thấy tin tức ấy, tin tức ǵ vậy? Kinh Hoa Nghiêm [nói hàng Pháp Thân đại sĩ] c̣n có bốn mươi mốt địa vị. Bốn mươi mốt địa ấy do đâu mà có? Người đă đạt đến “không khởi tâm, không động niệm”, c̣n có địa vị ǵ nữa? Có địa vị là có phân biệt, có phân biệt th́ có chấp trước; do vậy, họ là phàm phu. V́ vậy, chúng ta phải thảo luận vấn đề này. Chúng ta thấy trong kinh có nói một câu, “vô thỉ vô minh phiền năo đă đoạn”, cũng [có nghĩa] là thật sự chẳng khởi tâm, không động niệm, đă đoạn vô minh phiền năo, nhưng tập khí chưa đoạn! Tin tức ấy khiến cho chúng ta cuối cùng tỉnh ngộ. Vô thỉ vô minh đă đoạn, nhưng tập khí chưa đoạn, bốn mươi mốt địa vị là do tập khí dầy hay mỏng mà chia ra. Càng lên cao, tập khí càng mỏng, cho đến khi tập khí hoàn toàn chẳng c̣n nữa, vị Bồ Tát như vậy được gọi là Phật Đà, đă đạt đến Phật quả viên măn rốt ráo, tập khí chẳng c̣n nữa! Do vậy, ta có thể biết, cơi Thật Báo do tập khí biến hiện. Chẳng có tập khí, cơi Thật Báo cũng chẳng có. Cơi Thật Báo chẳng có th́ chỉ c̣n lại một cơi là Thường Tịch Quang Tịnh Độ, đó là thật, là tự tánh, trở về tự tánh là Thường Tịch Quang. Do vậy, cơi Thường Tịch Quang gọi là Diệu Giác, Diệu Giác là Thường Tịch Quang, Thường Tịch Quang là Diệu Giác. Cơi Thật Báo, chẳng có khởi tâm động niệm, nhưng có tập khí. Vô thỉ vô minh đoạn trừ, nhưng tập khí vô thỉ vô minh vẫn c̣n. Chỉ cần tập khí hăy c̣n th́ có tướng cơi Thật Báo. Tập khí chẳng c̣n, tướng của cơi Thật Báo cũng chẳng c̣n. Chúng ta mới hiểu rơ ràng, rành rẽ, đúng là “phàm những ǵ có tướng đều là hư vọng”.

      Những vị Bồ Tát ấy “nhân thật tri thị huyễn, cố ư huyễn bất mê” (do thật sự biết là huyễn, nên chẳng mê nơi huyễn), các Ngài biết ngay cả cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai đều là biến huyễn, chẳng phải là thật, huống hồ mười pháp giới, huống ǵ lục đạo. Hiểu rơ ràng, minh bạch, đối với các cảnh giới ấy chẳng có mảy may mê hoặc nào. Thật sự khế nhập cảnh giới ấy, nếu quư vị thấy trên địa cầu tai nạn hiện tiền th́ sẽ giống như ǵ? Giống như chúng ta xem phim 2012 trong rạp chiếu bóng, đó là huyễn, chẳng phải là thật sự! Biến ra h́nh trạng ấy, biểu diễn trước mặt quư vị, quư vị bèn thấy chân tướng, giống như đang xem phim. Có khởi tâm động niệm hay không? Chẳng khởi tâm, không động niệm. V́ sao? Quư vị hiểu nhân như thế, duyên như thế, quả như thế, báo như thế, nó đang biểu diễn ở nơi đó. Diễn ǵ vậy? Diễn nhân duyên quả báo chẳng sai mảy may! Có liên can với chính ḿnh hay không? Chẳng dính dáng mảy may, v́ sao? Thân này của chính ḿnh cũng là huyễn, cũng chẳng thật. Đối với cảnh giới, chẳng khởi tâm động niệm, đối với tự thân, cũng chẳng khởi tâm động niệm, đó là giải thoát, là đắc đại tự tại. V́ thế, chẳng có trí huệ sẽ không được. Chẳng có trí huệ sẽ ngỡ là thật, [đă coi là] thật sự bèn có khổ thọ. Quư vị biết là giả sẽ chẳng có khổ. Cổ đại đức cũng nói một câu danh ngôn, dạy chúng ta hăy thật sự thấy thấu suốt, dẫu bị giết chặt đầu, vẫn chẳng cảm thấy kinh hăi: “Tương đầu lâm bạch nhận” [nghĩa là] đem kề dao sát cổ, “do như trảm xuân phong” (giống như chém gió xuân). Quư vị thấy họ tự tại lắm, tiêu sái dường ấy! Người chưa nhập cảnh giới ấy, sẽ chẳng thốt nên lời ấy được! Do tri huyễn nên người ấy chẳng mê.

      “Như Bảo Tích kinh trung, Học Huyễn thiên tử thuyết kệ tán Phật viết: Như huyễn sư tác huyễn, tự ư huyễn bất mê, dĩ tri huyễn hư cố, Phật quán thế diệc nhiên” (Như trong kinh Bảo Tích, Học Huyễn thiên tử[4] đă nói kệ tán Phật: “Như huyễn sư biến huyễn, tự chẳng mê nơi huyễn, v́ biết huyễn hư vọng. Phật quán sát thế gian, cũng giống như vậy đó”). Mấy câu này nói hay quá. Nay chúng ta sống trong thế giới này, nếu học thông suốt mấy câu này, quư vị chẳng có chút ưu lự nào, mà cũng chẳng có mảy may kinh hăi nào! Huyễn sư là ai? Câu này phải nói rơ ràng. “Huyễn sư” là ư niệm, trong giáo pháp Đại Thừa, đức Phật đă nói rất nhiều lần: “Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”, “huyễn sư” là tâm tưởng. Phải biết: Chư Phật và Pháp Thân Bồ Tát chẳng có tâm tưởng, các Ngài chẳng phải là huyễn sư, do chẳng có tâm tưởng. Huyễn sư là kẻ có tâm tưởng, đều là huyễn sư, tự làm, tự chịu, chính ḿnh biến hóa trong ấy để chính ḿnh tự thọ dụng. Chẳng phải là Phật, Bồ Tát biến hóa, mà do chúng sanh trong mười pháp giới biến hóa. Người trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm tuy vẫn c̣n có tập khí vô thỉ vô minh, nhưng cũng chẳng biến hóa. Do vậy, quư vị phải thấy rơ ràng chỗ này, chẳng phải là Phật, Bồ Tát biến hóa, mà do chúng sanh trong mười pháp giới biến hóa, v́ họ hữu tâm, hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng, tâm ấy là vọng tâm, họ có vọng tâm. Vọng tâm là ǵ? Khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước, đó là huyễn sư; nhưng những kẻ ấy chẳng biết đó là huyễn, đă mê rồi. Những người trong cơi Thật Báo và cơi Thường Tịch Quang đều biết, biết quư vị là huyễn sư, mà cũng biết quư vị biến ra các huyễn pháp ấy, biết rơ ràng, rành rẽ. Các huyễn sư ấy tuy biến huyễn, nhưng chính ḿnh chẳng mê, [giống như] kẻ làm ảo thuật biết rơ. Kẻ ấy làm ảo thuật cho người khác xem, chứ kẻ ấy chẳng mê. Người khác mê, chứ kẻ ấy chẳng mê! Tỷ dụ chỉ có thể sánh ví đến một hạn độ nhất định, chẳng có cách nào tỷ dụ khít khao, chẳng thể nào hoàn toàn phù hợp được!

      Nay chúng ta là huyễn sư mà chính ḿnh cũng mê luôn, vấn đề ở chỗ này. Chính ḿnh đă mê, [biến huyễn] cho người khác xem, người khác mê mà chính ḿnh cũng bị mê luôn! Những vị Pháp Thân Bồ Tát trong cơi Thật Báo và chư Phật Như Lai trong cơi Thường Tịch Quang đều chẳng mê mảy may nào. Do quư vị đă mê, mê là có cảm, cảm có hữu tâm và vô tâm, có hữu ư và vô ư. Tuy nhiên, dẫu là vô ư cảm, Phật, Bồ Tát cũng có thể tiếp nhận, cũng có thể hiện thân thuyết pháp, từ bi vô tận mà! Các Ngài biết căn tánh của quư vị, nên Phật, Bồ Tát v́ quư vị hiện thân thuyết pháp, quư vị tin tưởng, có thể lư giải, chịu học theo các Ngài, các Ngài bèn đến. Nếu quư vị chẳng tin tưởng, chẳng thể lư giải, các Ngài sẽ không đến. Các Ngài chẳng cần khởi tâm động niệm, người ta là trí huệ chiếu kiến, giống như trong Tâm Kinh đă nói: “Quán Tự Tại Bồ Tát”, các vị đại Bồ Tát trong pháp hội này có năng lực b́nh đẳng với Quán Âm Bồ Tát, chẳng có sai biệt, đều là Pháp Thân đại sĩ, họ biết như thế nào? “Hành thâm Bát Nhă Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến Ngũ Uẩn giai Không”, người ta là Chiếu Kiến, giống như một tấm gương, giống như vô tuyến điện trong hiện thời, các Ngài có thể tiếp nhận, mà cũng có thể phát sóng. Bất luận chúng sanh hữu ư hay vô ư, hữu tâm hay vô tâm, hễ sóng phát ra, các Ngài đều nhận được. Vừa nhận được, các Ngài liền hoàn toàn hiểu rơ, tự nhiên hiện thân, v́ chúng ta thuyết pháp, đến dạy bảo chúng ta, giúp chúng ta giác ngộ, giúp chúng ta quay đầu. Tuyệt đối chẳng có khởi tâm động niệm, nếu khởi tâm động niệm th́ các Ngài bèn đọa lạc, biến thành phàm phu! Phàm phu tự cứu ḿnh c̣n chưa được, làm sao có thể cứu người khác?

      “Dĩ tri huyễn hư cố, Phật quán thế diệc nhiên” (do biết huyễn là hư vọng, đức Phật quán thế gian cũng giống như thế). Như Lai nh́n thế gian này, thấy y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới giống như Pháp Thân Bồ Tát và chư Phật Như Lai quan sát thế gian này giống hệt như nhau, chẳng có thứ ǵ là thật, chẳng có thứ ǵ là thực tại! Đối với chân thật và hư vọng, nhà Phật định nghĩa: Chân là vĩnh hằng bất diệt, đấy là Chân. Hễ có biến hóa, hễ có sanh diệt, th́ toàn là giả, đều chẳng thật. Đức Phật nói câu này chúng ta rất khó hiểu, v́ sao? Đúng là chúng ta chẳng thể lư giải. Đức Phật nói đến sự sanh diệt, chẳng phải là hiện tượng [sanh diệt] như chúng ta đă nói. Con người được sanh ra là sanh vào thế giới này, người đă chết là diệt mất rồi, chết mất rồi, chẳng phải là ư nghĩa ấy. Chư Phật Như Lai, Pháp Thân Bồ Tát quán sanh diệt là quan sát hiện tượng dao động vô cùng vi tế. Do các nhà khoa học Lượng Tử cận đại đă hé lộ tin tức, chúng ta mới dần dần thấu hiểu ư nghĩa chân thật của mấy lời Phật dạy ấy. Tuy các nhà Lượng Tử Lực Học không hiểu thấu suốt cho mấy, nhưng chỉ cần đôi chút là chúng ta đă có ngộ xứ. Các nhà Lượng Tử Lực Học nói vật chất là giả, chẳng thật, về căn bản bèn chẳng có vật chất. Một sợi lông của chúng ta là vật chất, một hạt cát là vật chất, đem mài hạt cát thành bột, mỗi hạt bột ấy vẫn là vật chất, nhục nhăn của chúng ta c̣n có thể thấy được, cớ sao nói vật chất chẳng tồn tại? Bản chất của vật chất là ǵ? Là ư niệm, nhiều ư niệm tích lũy lại một chỗ, quư vị thấy dường như có thứ ǵ ở nơi đó, thấy có vật chất, bản chất của vật chất là thứ ấy.

      Thông qua tin tức ấy, chúng ta ngay lập tức hiểu rơ lời Phật dạy: “Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”, vật chất sanh từ tâm tưởng, lập tức khiến cho chúng ta quay lại [quán sát] A Lại Da Thức. Trong kinh Phật, đức Phật đă giảng A Lại Da Thức. Ba tế tướng của A Lại Da Thức, thứ nhất là Nghiệp Tướng, [chúng ta] đă biết: Nghiệp Tướng là dao động, tức ư niệm dao động. Thứ hai là Chuyển Tướng, Chuyển Tướng là ư niệm. Ư niệm do đâu mà có? Ư niệm từ dao động mà có, gọi là “nhất niệm bất giác”, đó là dao động thứ nhất. Do dao động, Chuyển Tướng mới biến thành Cảnh Giới Tướng, Cảnh Giới Tướng là vật chất. Đối với điều này, chúng tôi đột nhiên hiểu rơ đạo lư đức Phật đă giảng, trước kia tuy đọc, nhưng mơ hồ, đọc chú giải của cổ nhân cũng mơ hồ. V́ thế, đối với Đại Thừa Phật pháp, Lượng Tử Lực Học có cống hiến rất lớn, tuy họ chưa nói rất rơ ràng, nhưng nó có rất nhiều lư luận, khiến cho chúng ta vừa tiếp xúc, vừa suy tưởng những điều đă nói trong kinh bèn ngay lập tức hiểu rơ, mới biết tất cả hết thảy hiện tướng trước mắt, “phàm những ǵ có tướng, đều là hư vọng”, chúng ta có thể lư giải. Tuy chưa phải là chứng ngộ, [chỉ là] giải ngộ. Nhưng có thể giải ngộ, quư vị sẽ có thể xem nhẹ, chẳng c̣n chấp trước như thế nữa, biết chấp trước là sai lầm, chấp trước là khổ! Trong Phật pháp nói “bát khổ giao tiên” (tám nỗi khổ chen nhau nung đốt), do đâu mà có? Do chấp trước mà có. Buông chấp trước xuống, chẳng c̣n khổ nữa! Nói tóm lại, chẳng có một pháp nào chẳng phải là “tự làm, tự chịu”, phải hiểu rơ ràng, rành rẽ đạo lư này. Đă hiểu rơ th́ trong bất cứ hoàn cảnh nào, sẽ chẳng oán trời trách người, sẽ không trách móc kẻ khác có lỗi với ta, sẽ chẳng có ư niệm ấy, đều là “tự làm, tự chịu”. Lại c̣n nghĩ nghiệp nhân quả báo, chẳng sai sót mảy may!

      V́ thế, Phật pháp dùng sáu chữ để bao quát toàn bộ hết thảy các pháp trong vũ trụ, có lư lắm! Sáu chữ ấy là “tánh - tướng, lư - sự, nhân - quả”, sáu chữ ấy đă nói trọn hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, không có ǵ ra ngoài sáu chữ ấy. Trong sáu chữ ấy, chỉ có Tánh là thật. Trừ Tánh ra, Tánh có thể sanh, có thể hiện, những thứ khác toàn là giả, là cái được sanh, được hiện, chẳng có ǵ là thật. Danh từ Phật giáo gọi căn nguyên của tất cả hết thảy hư huyễn là A Lại Da. Nó là cội nguồn, hết thảy hiện tượng phát sanh từ nó. Bản thân nó là hư vọng nên biến hiện tất cả cảnh giới thảy đều hư vọng. Đúng là “phàm những ǵ có tướng, đều là hư vọng”, “hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”. Kế đó, đức Phật nêu tỷ dụ: “Như lộ, diệc như điển, ưng tác như thị quán” (như sương, cũng như chớp; hăy nên quán như thế). Quư vị có cách nh́n như vậy, giống như cách nh́n của Phật, Phật tri, Phật kiến, kinh Pháp Hoa bảo là “nhập Phật tri kiến”. Chúng ta học Phật, đối với những kinh văn giống như thế này, hăy niệm nhiều, nghe nhiều, xem nhiều, từ từ sẽ bất tri bất giác khởi tác dụng, tác dụng ǵ vậy? Lạt lẽo đối với tất cả hết thảy các pháp thế gian. Thật sự lạt lẽo, sẽ chẳng c̣n chấp trước như vậy nữa, chẳng c̣n chấp trước nghiêm trọng như trước kia nữa. Ư niệm chấp trước, phân biệt đă nhạt dần, tâm càng ngày càng thanh tịnh, càng ngày càng b́nh đẳng, càng ngày càng tương ứng với Phật, Bồ Tát. Càng gần, tức là sẽ thành Phật chẳng xa. Nhất là chúng ta được gặp pháp môn Tịnh Tông, bản thân chúng ta rất có tín tâm, thật sự có thể coi đạm bạc hết thảy, phẩm vị khi văng sanh Tây Phương Tịnh Độ sẽ tăng cao với một mức độ lớn, tăng lên tới cơi Thật Báo chẳng phải là chuyện không thể, mà là rất có thể. Nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tập tới đây.

Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

Phần 56 hết

 



[1] Tám vị tổ này nói đúng ra là cách phán định theo Chân Ngôn Tông (Shingon shū) của Nhật Bản, thường gọi là Đường Truyền Mật Tông (hay gọi tắt là Đường Mật), nhằm phân biệt với Mật Tông Tây Tạng. Tám vị tổ là Đại Nhật Như Lai, Kim Cang Tát Đỏa Bồ Tát, Long Mănh Bồ Tát, Long Trí Bồ Tát, Kim Cang Trí Tam Tạng (hoặc Thiện Vô Úy Tam Tạng, tùy thuộc phán định theo hệ thống Kim Cang Giới hay Thai Tạng Giới), Quảng Trí Bất Không Tam Tạng, Huệ Quả A Xà Lê (hoặc Nhất Hạnh A Xà Lê), Hoằng Pháp Không Hải đại sư (Kobo Kukai, người Nhật).

[2] Kinh Chư Phật Cảnh Giới Nhiếp Chân Thật Kinh trong Mật Tạng quyển thượng, phẩm Tựa đă chép như sau (dẫn theo bản dịch của cư sĩ Huyền Thanh): “Bấy giờ, đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai nói về pháp tâm địa bí mật Du Già chân thật thuộc cảnh giới của chư Phật này th́ vô lượng vô biên cơi Phật ở mười phương đều chấn động sáu cách. Lầu gác Đại Ma Ni Bảo Tối Thắng của cung Đế Thích trong cơi Tam Thập Tam Thiên trên đảnh núi Diệu Cao cũng bị chấn động. Trời mưa hoa Mạn Đà La, hoa Ma Ha Mạn Đà La, hoa Mạn Thù Sa, hoa Ma Ha Mạn Thù Sa rải lên trên đức Phật và các đại chúng. Lúc đó, các đại chúng thấy vô lượng vô số hằng hà sa cơi Phật ở mười phương bị chấn động sáu cách và lầu gác Đại Ma Ni Bảo của cung Đế Thích trên đảnh núi Diệu Cao bị chấn động sáu cách th́ khởi niệm rằng: “Hiện nay Đức Như Lai hiện đại thần biến, do nhân duyên nào mà có điềm này?” Bấy giờ đức Như Lai biết tâm niệm của các đại chúng trong hội nên bảo rằng: “Các ngươi ở đây đừng sanh nghi hoặc. Nay ta đă nói về pháp thâm diệu là tâm trong tâm của chư Phật ba đời. Tất cả pháp Phật nhiếp vào kinh này, tất cả pháp Phật từ kinh này mà ra. Pháp đó gọi là Đối Pháp Vi Diệu Đại Thừa Du Già thuộc cảnh giới chân thật của tất cả Như Lai. Đây là tâm của tất cả Như Lai, bí mật tối thắng của Kim Cang Chân Ngôn”. Khi ấy, từ tâm của chư Phật xuất ra pháp đó rồi, liền lúc đó, Bạt Già Phạm Phổ Hiền Đà La Ni là pháp bí mật này biến thành vô lượng vô số vành trăng tṛn đầy. Vành trăng tṛn đầy nay hay khiến cho tâm Bồ Đề của chúng sanh được thanh tịnh. Vô lượng vô số vành trăng tṛn đầy này ở hai bên phải trái của tất cả Như Lai. Từ vành trăng này hiện ra vô lượng vô số Đại Trí Kim Cang của Như Lai. Đại Trí Kim Cang từ mặt trăng đầy hiện ra lại nhập vào trong tâm của đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai. Y theo sức diệu kiên cố của Kim Cang Tát Đỏa tam-muội cùng với sức đại oai đức của tất cả Như Lai, cho nên vô lượng vô số trí huệ Kim Cang hợp thành một tụ ngang bằng với hư không, hiện ra đại quang man. Quang man như vậy liền được biến thành Kim Cang Ngũ Cổ (chày kim Cang có năm chấu) là trí tánh bền chắc của diệu thân, ngữ, ư của tất cả Như Lai, từ tâm của chư Phật xuất ra trụ ở trong hai ḷng bàn tay của đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai. Từ Kim Cang này xuất ra mọi thứ sắc quang. Vô lượng vô số ánh sáng của tướng mạo Kim Cang tràn đầy tất cả thế giới, b́nh đẳng không ngại. Ánh sáng của Kim Cang này lại theo miệng tuôn ra hiện Pháp Thân vô ngại của Như Lai với số lượng ngang bằng số hạt bụi nhỏ của mười giới, tràn đầy biển pháp giới. Do nhân duyên ǵ mà tràn đầy pháp giới? Ấy là các Như Lai được huệ b́nh đẳng với đại thần thông, hiện ra “năng giác ngộ” tất cả chúng sanh khiến cho họ phát tâm Vô Thượng Bồ Đề khéo hay thành tựu mọi thứ diệu hạnh khó suy tư của Phổ Hiền, sức Nhân Chủng Tánh của tất cả Như Lai khéo hay gần gũi cung kính cúng dường cây đại Bồ Đề, hay diệt tất cả ác ma Ba Tuần chứng đại Bồ Đề. Tự “Năng Giác Ngộ” hay chuyển pháp luân tối diệu vô thượng cho đến hay giúp đỡ hết tất cả chúng sanh tận giới hư không, hay làm lợi ích an vui. Tất cả Như Lai khéo hay thành tựu Tất Địa tối thắng của đại trí thần biến. Tất cả Như Lai khéo hay thị hiện mọi loại thần biến y theo thể của Phổ Hiền tam-muội với lực ḥa hợp bền chắc vi diệu của Kim Cang tam-muội, cho nên xuất hiện thân của Phổ Hiền Đại Bồ Tát. Bấy giờ Phổ Hiền Bồ Tát đứng ở trong tâm của đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai, nói lời kệ rằng: “Lành thay! Phổ Hiền, ngă hiếm có, Tánh chân thật bền của diệu thể, do sức bền chắc không h́nh tướng, v́ lợi sanh nên hiện sanh thân”. Khi ấy, Phổ Hiền Bồ Tát từ trong tâm của đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai đi ra, đến trước mặt chư Phật ngồi trong vành trăng, tay phải cầm chày Kim Cang xoay chuyển trong ḷng bàn tay. Lúc đó, đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai nhập vào tam-muội Nhất Thiết Như Lai Kim Cang Bất Hoại Trí Đại Tam Ma Gia. Y theo sức tam-muội đó v́ Phổ Hiền Bồ Tát khiến cho được đại pháp luân vi diệu của uẩn giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến của chư Phật, lợi ích chúng sanh, đại Tam Ma Gia của trí đại phương tiện cứu độ trọn hết tất cả giới chúng sanh, tất cả tự tại chủ, tất cả đại an lạc thâm tâm ái lạc cho đến trí b́nh đẳng tánh của tất cả Như Lai, thần thông tối thắng, đối pháp của Đại Thừa. Các quả như thế là Tất Địa của tất cả Như Lai, Kim Cang v́ muốn trao vào tay của Phổ Hiền Đại Bồ Tát, v́ muốn trao cho thể Chuyển Luân Vương của tất cả Như Lai, v́ muốn trao cho sự nghiệp Phật chẳng thể tư nghị của tất cả Như Lai, v́ muốn trao cho lụa trắng quán đỉnh của măo báu, cho nên đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai dùng hai tay của Ngài trao cho ấn Kim Cang. Thời tất cả Như Lai cho [Phổ Hiền] danh tự quán đảnh, hiệu là Kim Cang Thủ”.

[3] Ty miên (絲棉) gọi cho đủ là “tàm ty miên”, tức là các sợi tơ tằm đánh xù như bông g̣n. Loại này rất đắt. Trên thị trường hiện thời, các loại gọi là ty miên đều là sợi tổng hợp.

[4] Đoạn này trích từ hội Bồ Tát Kiến Thật trong kinh Đại Bảo Tích, phẩm thứ 20, tức phẩm Tịnh Cư Thiên Tử Kệ Tán, quyển 71.