Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

淨土大經解演義

Phần 60

Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Huệ Trang và Đức Phong

 

Tập 119

 

      Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Lượng Thọ Kinh Giải, trang một trăm ba mươi tám, hàng thứ sáu từ dưới đếm lên, xem từ đoạn này.

      “Hựu vân: Quán chư pháp Không, thị danh Không. Ư Không trung, bất khả thủ tướng, thị thời, Không chuyển danh Tướng. Vô Tướng trung, bất ưng hữu sở tác vi tam giới sanh, thị thời, Vô Tướng chuyển danh Vô Tác (tức Vô Nguyện)” (Lại nói: “Quán các pháp Không, nên gọi là Không. Trong cái Không đó, chẳng thể giữ lấy tướng, ngay khi ấy, cái Không đổi tên là Vô Tướng. Trong Vô Tướng, chớ nên có thứ ǵ được làm để sanh trong tam giới, nên ngay khi ấy, Tướng đổi tên là Tác, tức là Vô Nguyện). Chúng ta xem từ chỗ này, vẫn là những điều được nói trong Trí Độ Luận, dạy chúng ta trong cuộc sống hằng ngày thấy thấu suốt và buông xuống như thế nào. Quán chư pháp Không được kinh Bát Nhă giảng nhiều nhất. Trong các đồng học, rất nhiều vị đă đọc kinh Kim Cang Bát Nhă. Kinh Kim Cang chẳng dài, Thiền Tông Lục Tổ Huệ Năng đại sư khai ngộ do kinh ấy. Do vậy, bộ kinh ấy trở thành kinh bậc nhất và cơ bản trong Thiền Tông, biến thành một khóa tŕnh phải tu học. Kinh văn chẳng dài lắm, đại khái chỉ có hơn năm ngàn chữ, do ngài Cưu Ma La Thập phiên dịch, cùng thích hợp khẩu vị của người Trung Quốc, nên người niệm [kinh Kim Cang] đặc biệt nhiều. Câu quan trọng nhất trong kinh, cũng câu khiến cho ngài Huệ Năng khai ngộ là ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm” (đừng nên trụ vào đâu để sanh tâm). Câu ấy dạy chúng ta cách nh́n vạn sự vạn vật trong toàn thể trụ, nói rất đơn giản, rất rơ ràng, dạy chúng ta thấy hết thảy sự vật: Phàm những ǵ có tướng đều là hư vọng”. Đó là quán các pháp Không, tức là Không Giải Thoát môn trong ba môn giải thoát.

      Khôngchỗ nào? Không trong Sắc, Sắc tức là Không. Không chẳng bên ngoài, từ ngay trong vạn sự, vạn pháp, quư vị thấy Không. sao thể thấy Không? Quư vị thấy tất cả hết thảy các pháp đều do nhân duyên sanh, như Trung Quán Luận đă nói: Nhân duyên sở sanh pháp, ngă thuyết tức thị Không (pháp do nhân duyên sanh, ta nói chính là Không), “ta” ở đây là đức Phật nói. Các pháp do nhân duyên sanh, chẳng có tự thể. Chúng ta thường cầm tràng hạt (xâu chuỗi), chúng ta thấy nó là một chuỗi, hăy thấy bản thể của nó là Không. Tràng hạt là từng hạt một, do một sợi dây xâu lại, nó là duyên sanh (do các duyên hội tụ mà sanh ra). Chúng ta tháo sợi dây ấy ra, từng hạt từng hạt một [tách rời], tướng tràng hạt chẳng c̣n nữa. Đối với từng hạt, chúng ta thấy nó là hạt cây, do cây sanh ra, nên [mỗi hạt] cũng là pháp sanh bởi nhân duyên. Duyên tụ, bèn có một hạt xâu chuỗi; khi duyên tán, hạt xâu chuỗi chẳng c̣n nữa, biến thành bột! Bỏ đó đă lâu, quư vị chẳng dùng đến nó, bỏ mặc đó, nó sẽ biến thành bột, gió vừa thổi bèn tan mất. Tụ th́ nó có tướng; tán th́ tướng chẳng c̣n nữa! Chẳng cần chờ nó tán, quư vị mới biết Không, hiện thời đă biết nó là Không. Tướng của nó chẳng thể duy tŕ vĩnh cửu! Nói chung, sẽ có ngày nó hư hoại, tan mất, bản thể chính là Không, đó trí huệ. Chúng ta thấy hết thảy các pháp đều như thế, kể cả các tinh cầu cũng chẳng ra ngoài lệ ấy. Nếu chúng ta có dịp đến thăm đài Thiên Văn, gần như sẽ thường thấy các tinh cầu bùng nổ trong không gian, những tinh cầu ấy chẳng c̣n nữa. V́ thế, đối với với sự tồn tại của tinh cầu, kinh Phật nói là “thành, trụ, hoại, không, tinh cầu chẳng có! Cũng rất có thể là chúng ta thường phát hiện: Ở nơi đây vốn chẳng có tinh cầu, đột nhiên xuất hiện một ngôi sao sáng lấp lánh, chúng ta biết là một ngôi sao mới h́nh thành. Đấy cũng là nói các ngôi sao già đă tử vong, hủy diệt; trong vũ trụ có thành, trụ, hoại, không. Quư vị biết thứ ǵ cũng đều thường, không chỉ là biển xanh, nương dâu”. Nếu chúng ta rất lắng ḷng quan sát, sẽ biết hết thảy các pháp hễ duyên tụ bèn có, duyên tán bèn không, nên biết là Không! Đă biết là Không, nên đối với Không, chớ nên chấp tướng!

      Không? Tướng Không, tất cả các tướng Không. Tất cả các tướng, động vật có sanh, lăo, bệnh, tử, thời gian tồn tại chẳng dài. Con người sống trong thế gian này, chúng ta nghĩ tới các thế hệ trước, thế hệ cha mẹ đă khuất, thế hệ ông bà đă khuất. Trong ḍng thời gian dài hạn, họ chỉ tồn tại một thời gian ngắn, trước giai đoạn ngắn ngủi đó, chẳng có họ, sau giai đoạn ngắn ngủi đó, cũng chẳng có họ, đều chẳng c̣n! Sau đấy, lập tức nghĩ đến chính ḿnh, bản thân chúng ta cũng chiếm một khoảng ngắn trong ḍng thời gian dài dằng dặc. người thời gian ngắn một chút, ba bốn mươi tuổi đă mất, thời gian ngắn chủn! Có người thời gian dài hơn một chút, nhưng bảy tám mươi tuổi cũng đi. Cổ nhân Trung Quốc nói người ngoài bảy mươi tuổi là: Nhân sanh thất thập cổ lai hy” (người bảy mươi tuổi xưa nay hiếm), người trên bảy mươi chẳng nhiều lắm, người chưa đến bảy mươi đă mất rất nhiều. Do vậy, chúng ta phải hiểu toàn là rỗng tuếch. Nếu toàn là rỗng tuếch, đây, “bất khả thủ” (chẳng thể chấp lấy) là “đừng chấp tướng. Chấp tướng là sai mất rồi! Đối với những tướng ấy, chớ nên chấp trước, chớ nên phân biệt. Đại Thừa Bồ Tát không chỉ chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, đối với hết thảy các tướng đều chẳng khởi tâm, không động niệm, hạng người nào vậy? Kinh nói những vị đại sĩ, các vị Bồ Tát, được gọi là cao nhân, các Ngài chẳng khởi tâm, không động niệm, chẳng có phiền năo, chẳng tạo nghiệp, cùng cao minh. Các Ngài trọn chẳng bỏ tướng, v́ sao? Chẳng cần thiết! Tướng là huyễn tướng, đều là chẳng thật. Đă hiểu rơ, đối với những tướng ấy, chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, những vị ấy Phật, Pháp Thân Bồ Tát. Khi đó, chẳng gọi là Không, mà gọi là Vô Tướng. Thấy những tướng ấy, chẳng dùng danh từ Không, mà dùng chữ Vô Tướng.

      Tiếp đó, chúng ta biết tướng là giả. Do tướng là giả, chớ nên có những tác vi” (tạo nghiệp) khiến phải sanh trong tam giới. Tam giới là Dục Giới, Sắc Giới, Sắc Giới, đó là nói tới lục đạo luân hồi, chớ nên có những tác vi trong lục đạo. Tác vi” ǵ? Làm thiện, làm ác, làm vô kư (chẳng thiện, chẳng ác). Khoan nói đến vô kư, chúng ta chỉ bàn về thiện ác, chớ nên tạo tác. Nếu quư vị làm lành, s là ba thiện đạo, quả báo trong ba đường lành. Nếu q vị tạo nghiệp bất thiện, quả báo trong ba đường ác, [nhưng làm lành hay làm ác] đều là tạo nghiệp luân hồi. “Bất ưng hữu sở tác” (chớ nên có tác vi) là ǵ? Học theo Phật, Bồ Tát. Thích Ca Mâu Ni Phật cũng thị hiện trụ trong thế gian này tám mươi năm, người ngoại quốc nói là bảy mươi chín tuổi, nói theo tuổi thật, người Trung Quốc nói theo “hư tuế” (tuổi ta) là tám mươi tuổi, cũng là sống một khoảng thời gian dài ngần ấy. Quư vị thấy Ngài có thể “làm mà chẳng làm, chẳng làm mà làm”, đó là đúng. Suốt cả một đời là như thế nào? Chẳng tạo nghiệp, chẳng tạo ác nghiệp, thiện nghiệp cũng không tạo, cao lắm! Ngài chẳng luân hồi. Trong phần trước, chúng tôi đă nói với quư vị về mười hai nhân duyên. Trong mười hai nhân duyên, Ái, Thủ, Hữu là tạo nhân trong một đời này, các Ngài có bản lănh. Quư vị thấy: Biểu hiện Ái, biểu hiện Thủ, nhưng sau đó chẳng có Hữu. Đó là chuyện như thế nào? Vị ấy chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, đó Tiểu Thừa. Nếu vị ấy chẳng khởi tâm, không động niệm th́ Đại Thừa. Chúng ta có thể giải sao các Pháp Thân Bồ Tát chẳng tạo nghiệp. Pháp Thân Bồ Tát ai nấy đều bậc minh tâm kiến tánh, đại triệt đại ngộ, các Ngài có thể hằng thuận chúng sanh, ḥa quang đồng trần cùng chúng sanh, chẳng khởi tâm động niệm, chẳng phân biệt, chấp trước. Biểu hiện giúp đỡ chúng sanh bằng vô tận phương tiện thiện xảo. Giúp đỡ chúng sanh, thành tựu chúng sanh; trong ấy, quan trọng nhất là khơi gợi, dẫn dắt chúng sanh, giúp họ khai trí huệ, khiến cho họ dần dần giác ngộ. Chưa thể giác ngộ th́ kéo họ tới gần giác ngộ; rất gần với giác ngộ, giúp cho họ hoát nhiên đại ngộ. Các vị Phật, Bồ Tát có năng lực như thế, xác thực là trong tự tánh tỏ lộ trí huệ đức năng. Nếu nghiệp chướng của chúng ta không quá nặng, sau khi gặp gỡ, chắc chắn sẽ thành tựu trong một đời. Kẻ nghiệp chướng sâu nặng gặp gỡ, phải tiêu trừ nghiệp chướng trên một mức độ lớn. Chúng ta dùng mười hai nhân duyên để nói th́: Về biểu hiện, bèn có Ái và Thủ, nhưng chẳng phân biệt, chấp trước; khi ấy, gọi là Tác. Trong Phật pháp thường nói: Làm mà chẳng làm, chẳng làm mà làm” chínhư nghĩa này. Chẳng làm, nhưng có làm th́ vẫn là không làm, nguyện mà! Nguyện Tác cùng một ư nghĩa.

      Thí như thành hữu tam môn (Ví như cái thành có ba cửa). Một người một thân thể, chẳng có cách nào cùng một lúc vào cả ba cửa, muốn vào chỉ có thể theo một cửa. Chư pháp Thật Tướng” (Thật Tướng của các pháp) được tỷ dụ Niết Bàn thành.Thành hữu tam môn: Không, Tướng, Tác. Nhược nhân nhập Không môn, bất đắc thị Không, diệc bất thủ tướng” (thành có ba cửa: Không, Vô Tướng, Vô Tác. Nếu người theo cửa Không mà vào, chẳng thấy là Không, cũng chẳng chấp tướng). Tốt lắm, theo cửa Không để vào. “Bất đắc thị Không” là chẳng chấp trước Không, “diệc bất thủ tướng” là chẳng chấp Có, trong phần trước nói “chẳng trụ vi, chẳng trụ hữu vi. Vi () làm. “Chẳng chấp trước vô vi” là chẳng chấp trước Không; “chẳng chấp trước hữu vi” là chẳng chấp trước Có. Hai bên Không và Có đều chẳng chấp trước, người ấy đă tiến nhập. Nhập ǵ? Đă khai ngộ, minh tâm kiến tánh, đại triệt đại ngộ. Do vậy, đối với hai môn sau là Vô Tướng và Vô Nguyện, chẳng cần phải quan tâm tới, v́ đă vào được cửa rồi! Chỉ cần nhập một môn, môn nào công đức cũng viên măn, thành tựu viên măn.

      Nhược nhân nhập Không môn thủ tướng đắc thị Không, [nghĩa là] [ngườiy] theo cửa Không để vào bèn chấp Không, chấp lấy tướng “đă đắc Không”, người ấy là ai? Tiểu Thừa A La Hán, hoặc Tiểu Thừa Bích Chi Phật, họ đích xác là như thế, cho nên [cảnh giới h chứng đắc] gọi là Thiên Chân Niết Bàn, chấp trước Không! Niết Bàn ấy chẳng phải là Niết Bàn thật sự, chấp trước Không mà! Hàng Nhị Thừa chấp Không, Quyền Giáo Bồ Tát chấp Có. Quyền Giáo Bồ Tát tức Bồ Tát trong mười pháp giới. Chấp Có, bèn chẳng có cách nào chứng Đại Bát Niết Bàn. Thanh Văn và Duyên Giác chứng Tương Tự Tiểu Niết Bàn, tự cho là đă tiến nhập ba giải thoát môn, nhưng do chấp vào tướng “tiến nhập”, nên chẳng có tác dụng! Trong giáo pháp Đại Thừa, đức Phật gọi chấp tướng là “hầm vô vi”. Hàng Tiểu Thừa rớt vào hầm vô vi, nhưng họ có thể thoát ra. A La Hán chậm lụt hơn, phải hai vạn kiếp mới hồi Tiểu hướng Đại, thoát ra. Chỉ cần chẳng chấp trước bèn thoát ra. Duyên Giác thông minh hơn, một vạn đại kiếp bèn giác ngộ, cũng thoát ra. Vừa thoát ra, Ngài bèn thành Bồ Tát, thuộc tầng thứ ba trong bốn thánh pháp giới. Tầng cao nhất là Phật. Thiên Thai đại sư gọi vị Phật ấy là Tương Tự Tức Phật, chẳng phải là Chân Phật, tương tự. sao chẳng phải là chân Phật? Phật phàm phu khác biệt [ở chỗ]: Phật dùng chân tâm, phàm phu dùng vọng tâm, tức là dùng A Lại Da, ngỡ A Lại Da chân tâm. Phật và Bồ Tát trong bốn thánh pháp vẫn dùng A Lại Da, cũng thể nói là chưa thể chuyển tám thức thành bốn trí”. Nếu thật sự chuyển được, chuyển biến A Lại Da thành Đại Viên Kính Trí, sẽ là chân Phật, chẳng phải là giả Phật! Hễ chuyển, mười pháp giới chẳng c̣n nữa! C vị phải biết sao? Mười pháp giới do A Lại Da biến, A Lại Da vừa chuyển thành Đại Viên Kính Trí, cái nhân chẳng c̣n, nhân của mười pháp giới bèn đoạn. Do vậy, họ từ mười pháp giới tỉnh ngộ, giống như nằm mộng, đă tỉnh mộng rồi! Tỉnh ngộ là cảnh giới ǵ? cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai, thật sự đă thành Phật; lúc ấy, Thiên Thai đại sư gọi người đó là Phần Chứng Tức Phật.

      Sau đó c̣n có [những quả vị] viên măn hơn, người ấy chưa chứng đắc viên măn, viên măn Thường Tịch Quang. Người ấy phải đợi một thời gian trong cơi Thật Báo, ở trong ấy để làm ǵ? Chờ cho tập khí vô thỉ minh tự nhiên tiêu trừ. đây, chẳng có phương pháp! Nếu nói ta dùng phương pháp để diệt trừ tập khí minh, th́ vừa động niệm bèn hỏng mất rồi, lại mê rồi! thế, trong cảnh giới ấy, cứ để mặc nó. Sau một thời gian dài, sẽ tự nhiên chẳng c̣n nữa! Phải mất thời gian bao lâu? Kinh Đại Thừa nói là ba đại A-tăng-kỳ kiếp. V́ thế, ba đại A-tăng-kỳ kiếp chẳng phải là nói ǵ khác, mà là nói về chuyện này, tính từ ngày đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh! Tức là nói: Tính từ lúc quư vị chứng đắc địa vị Sơ Trụ trong Viên Giáo, tính từ lúc quư vị sanh vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm, trải qua ba đại A-tăng-kỳ kiếp, tập khí tự nhiên chẳng c̣n nữa. Bồ Tát khi đó, trong kinh này cũng có một thuật ngữ là công dụng đạo, trong Tông môn gọi là “thử xứ dụng bất đắc lực” (ở nơi đây, sử dụng chẳng đắc lực), chẳng có cách nào ra sức, có muốn cũng chẳng thể được, nó tự nhiên sẽ chẳng c̣n. Thật sự đoạn minh phiền năo, thật sự chẳng khởi tâm, không động niệm. thế, bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ, nói theo thực tế pháp giới b́nh đẳng, thật sự b́nh đẳng, trí huệ, thần thông, đạo lực đều b́nh đẳng, một chút tập khí vô thỉ minh chẳng trở ngại sự. Trong cảnh giới ấy, Bồ Tát c̣n có sự hay không? Có chứ! Quư vị thấy Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh, vị ấy có đến nghe hay không? Đến làm Ảnh Hưởng Chúng, đó là Sự. Ngài đến thế giới này để nghe kinh, đến đi tự tại. Đồng thời, nếu Ngài chúng sanh có duyên, Ngài bèn có thể ứng theo khả năng hiểu biết của chúng sanh; đó là “S” của Ngài. Tuy có vô lượng vô biên sự, Ngài chẳng hề khởi tâm động niệm; đó là Vô Tác. Chẳng làm mà làm, làm mà chẳng làm!

      Tuy cảnh giới ấy cách biệt chúng ta rất xa, nhưng chúng ta biết. Trong kinh, chúng ta đă nghe đức Phật dạy như thế, chúng ta đă hiểu rơ, đă nghe hiểu. Đă nghe hiểu, sẽ có ích rất lớn cho sự tu hành của chúng ta. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta phải học tập, bất luận làm chuyện ǵ, chúng ta đều có tập khí, phải học như thế nào? Tập khí của chúng ta nhạt bớt một chút th́ tốt! Mỗi năm một nhạt bớt hơn, điều này cũng rất đắc lực. Nếu có thể là mỗi tháng một nhạt bớt hơn, quư vị sẽ nhanh chóng đạt đến cảnh giới thành công. Đặc biệt là phải cảnh tỉnh chính ḿnh, chính ḿnh phải có tánh cảnh giác; trong hết thảy các cảnh giới, chớ nên có t́nh chấp quá nồng đậm, đó chẳng phải là chuyện tốt đẹp, mà là nghiệp chướng. Phải dần dần nhạt bớt t́nh chấp, phải dùng Phật pháp để cảm hóa người nhà, quyến thuộc. Chúng ta tu rất khá, một nhà ḥa thuận, một nhà hoan hỷ. Người khác thấy quư vị rất vui vẻ, tự nhiên hướng về quư vị học tập. Đối với những chuyện chẳng đúng pháp của họ, quư vị phải có phương tiện thiện xảo, chớ nên nói “chẳng quen nh́n”, quư vị đang tạo tội nghiệp đấy! Nhấtquư vị học Phật, ăn chay, họ vẫn c̣n ăn thịt, chớ nên chướng ngại họ, hăy tùy thuận, họ sẽ vui vẻ. Nếu q vị phê b́nh họ, trong tâm họ rất khó chịu, họ và quư vị trở thành hai phía đối lập, sai mất rồi! Hăy làm cho họ dần dần tự giác ngộ, quay đầu.

      Sau khi Đệ Nhị Thế Chiến kết thúc, tôi đến Đài Loan, đến một ḿnh. Tại Đài Loan, gặp gỡ Phật pháp, cũng xuất gia tại Đài Loan, thuở ấy cũng giảng kinh khắp nơi trên đảo Đài Loan. Năm 1977, tôi đến Hương Cảng giảng kinh lần đầu, kết pháp duyên với đồng tu Hương Cảng. H́nh như là vào năm Dân Quốc 82 (1993) hay năm 83 (1994), tôi bắt được liên lạc với người nhà. Gián đoạn suốt ba mươi sáu năm, ba mươi sáu năm chẳng có tin tức, nay biết mẹ và em trai vẫn c̣n. Một năm sau đó, tôi đến Hương Cảng giảng kinh [lần nữa], bảo họ đến Hương Cảng, mẹ và tôi gặp mặt, gián đoạn suốt ba mươi sáu năm, lần đầu tiên gặp lại tại Hương Cảng. Bà thấy tôi đă xuất gia, thấy tôi giảng kinh thính chúng đông đảo, cũng rất hoan hỷ. Tại Hương Cảng, chúng tôi ở tại Trung Hoa Phật Giáo Đồ Thư Quán do lăo pháp sư Đàm Hư sáng lập, buổi tối tôi giảng kinh ở đó. Bữa trưa cũng dùng cơm tại đó. Tôi hỏi mẹ tôi muốn ăn ǵ? Bà muốn ăn cá. Tôi dặn nhà bếp mỗi ngày chưng cho bà hai con cá nhỏ. Bà ở đó suốt một tuần, thấy t́nh h́nh của chúng tôi như vậy, tôi chẳng khuyên bà ăn chay, mà kể với bà những điều tốt đẹp trong Phật pháp, khuyên bà niệm A Di Đà Phật, đương nhiên có thể ăn chaytốt nhất. Tôi nói với mẹ: “Con đă ăn chay vài chục năm rồi, thân thể rất khỏe”. Sau khi bà trở về Thượng Hải, bà ở nhà em trai tôi, họ sống tại Thượng Hải, sau khi quay về, bà đă ăn chay trường. Tốt lắm! Chớ nên khuyên, khuyên sẽ gây ác cảm. V́ thế, nhất định phải dùng ḷng quan tâm, yêu thương để giúp đỡ họ, dần dần chuyển biến họ. Người b́nh thường chẳng biết lợi ích do ăn chay, nghĩ ăn chay bị thiếu dinh dưỡng, đó là quan niệm sai lầm. Chúng ta biết lợi ích của sự ăn chay, ăn chay khỏe mạnh. Đă nhiều năm qua, nhất là trong mười mấy năm gần đây, chúng tôi mở rộng phạm vi hoạt động, tham dự hội nghị ḥa b́nh quốc tế của Liên Hiệp Quốc, đi khắp nơi, quen biết rất nhiều bằng hữu mới. Trong nhiều năm qua, vấn đề nóng bỏng nhất mỗi khi bạn bè tụ hội là h hay hỏi tôi cách bảo dưỡng thân thể như thế nào? Mọi người đều hỏi chuyện này, có thể thấy họ rất quan tâm thân thể. Tôi bảo họ, có hai phương pháp bảo dưỡng thân thể: Một tâm thanh tịnh, hai là ăn chay. Tôi nói: “Q vị hỏi tôi, th́ tôi bảo dưỡng như vậy đó, chẳng dùng bất cứ loại thuốc bổ nào, mà cũng chẳng có thuốc men ǵ! Cuộc sống của tôi rất đơn giản, lại c̣n ăn rất ít, không ăn vặt, khôngthói quen ăn vặt!”

      Năm xưa, tôi học Giáo với thầy Lư tại Đài Trung, đă từng giữa trưa ăn một bữa suốt năm năm, chỉ ăn một bữa. Thầy mỗi ngày ăn một bữa, thầy ăn suốt mấy chục năm, thân thể khỏe mạnh! Lúc thầy tám mươi tuổi, quư vị thấy thầy giống như người năm sáu mươi tuổi, chẳng nh́n ra tuổi thầy. Bọn học sinh chúng tôi ước đoán thầy có thể sống đến một trăm hai mươi hay một trăm ba mươi tuổi, mọi người cùng có cách nh́n ấy. Thầy mất lúc chín mươi bảy tuổi, v́ sao mất? Trúng độc v́ đồ ăn, điều này rất oan uổng! Thầy do bị trúng độc đồ ăn mà ra đi. V́ thế, khi thầy ngă bệnh, tôi đến thăm thầy, thầy dặn ḍ, nhắc nhở tôi rất nhiều lượt: “Đừng ăn thứ ǵ ngoài tiệm, những thứ trong tiệm chẳng sạch”. Bản thân thầy là một vị thầy thuốc giỏi; chính v́ là một thầy thuốc giỏi nên thầy bị hại. V́ người ta tặng thầy thức ăn ǵ, thầy có thói quen ăn hết trước mặt người ấy khiến cho người ta hoan hỷ. Thầy là người Sơn Đông, thích ăn những th làm bằng bột ḿ. Trúng độc lần thứ nhất, thầy biết, trong từng vắt ḿ sợi đều có bỏ thuốc chống hư, đă khô rồi, đại khái đă để quá lâu, quá hạn rồi! Các đồng học thiếu kiến thức thông thường, đem nấu mời thầy ăn. Thầy ngửi mùi, biết ngay là có vấn đề, nhưng vẫn ăn. Sau khi ăn xong, quay về bèn uống thuốc giải, thật sự giải được chất độc ấy. C̣n như chúng ta không hiểu, chẳng dám ăn. Thầy ăn xong có thể uống thuốc giải. Sau nửa năm, lại bị một lần nữa, cũng gặp t́nh h́nh ấy, thầy cũng ăn như vậy. Khi trở về uống thuốc giải th́ chẳng kịp nữa, chất độc đă khuếch tán, khuếch tán rất nhanh; rốt cuộc là do tuổi đă cao, chín mươi bảy tuổi rồi, thầy sơ sót điểm này!

      thế, đối với phương diện ẩm thực, thầy đặc biệt nhắc nhở những kẻ trẻ tuổi chúng ta phải chú ư: Hễ mùi vị biến đổi đôi chút, đừng nên ăn! Đặc biệt là những thứ như đậu hủ, đă mùi chua, mùi vị đă biến đổi, chớ nên ăn! Trọn chẳng phải hoang phí thực phẩm. Nếu lúc quư vị phát tâm, thứ đă có mùi chua, đă hư rồi, nhưng vẫn ăn, chẳng dám không ăn, sợ không ăn là lăng phí, có lẽ sẽ phạm lỗi phung phí lương thực, sai rồi! Sợ phung phí lương thực, nếu quư vị ăn vào sanh bệnh, thậm chí tử vong, vẫn chấp nhận th́ sai mất rồi. Đức Phật chẳng dạy người ta như vậy. Thuở đức Phật tại thế, khi khất thực được thứ ǵ, phải ăn hết ngay trong hôm ấy. Nếu ăn không hết, bèn cho chim, thú ăn, bố thí cho súc sanh, không thể ăn những thứ để qua đêm. Đó giới luật nhà Phật. trong quá khứ chẳng có tủ lạnh, không thể ăn những thứ để qua đêm. V́ thế, chúng tôi nghĩ lời răn dạy của đức Phật hợp t́nh, hợp lư, hợp pháp, đối với cuộc sống khỏe mạnh của bọn phàm phu chúng ta, đức Phật hết sức quan tâm. Chúng ta phải nghĩ một tăng đoàn đông như thế, hơn một ngàn người thường theo Ngài, đó là Thường Tùy Chúng; [ngoài ra] c̣n có những vị tạm thời tham gia, chúng tôi phỏng đoán, tuyệt đối chẳng thể ít hơn ba ngàn người, thường theo hầu bên cạnh lăo nhân gia.

      Điều được giảng ở đây cũng là một pháp môn hết sức trọng yếu, chúng ta hăy vận dụng linh hoạt trong cuộc sống. Quán Không hết sức trọng yếu, hăy thường nghĩ kinh Kim Cang đă dạy: “Phàm những ǵ có tướng đều là hư vọng”, hoặc nghĩ kinh Đại Bát Nhă đă nói: Hết thảy các pháp sở hữu, rốt ráo không, bất khả đắc”. Trong lúc lợi danh bày ra trước mặt mà chúng ta động tâm, hăy niệm những câu ấy nhiều lượt th́ ư niệm vừa nghĩ ấy, tức là ư niệm vọng tưởng sẽ ngưng dứt. những kẻ nghiệp chướng nặng nề, khi danh lợi hiện tiền, bèn quên bẵng Phật, chẳng nghĩ tới nữa. V́ thế, phải có ḷng cảnh giác cao độ, hễ cảnh giới hiện tiền, cổ nhân nói: Chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm, phải giác ngộ nhanh chóng, ta có thể ngưng dứt, chẳng tạo nghiệp nữa!

      Từ Không môn, người ấy chấp trước Không, ư thị nhân bất vi môn, thông đồ cánh tắc” (do vậy, môn ấy chẳng thích hợp cho người đó, đường thông hóa nghẽn), tức là đọa trong “hầm vô vi”. Đối với người ấy mà nói th́ Không chẳng phải là môn để kẻ ấy ngộ nhập, v́ kẻ ấy chấp trước Không. Chấp trước Không, bèn gặp ngay chướng ngại, “tắc” () là chướng ngại. “Nhược trừ Không tướng (nếu trừ tướng Không), người ấy có thể buông tướng Không xuống, biết tướng Không cũng bất khả đắc, tướng Không cũng duyên sanh. “Thị thời tùng Vô Tướng môn nhập (khi ấy bèn theo cửa Vô Tướng để vào), có thể được! Chỉ cần chẳng chấp trước Không là được, có thể chứng quả A La Hán, hoặc có thể chứng quả Bích Chi Phật. “Nhược ư Vô Tướng tướng” (nếu đối với tướng Vô Tướng), người ấy biết tướng Vô Tướng, nhưng chấp trước, chấp ǵ vậy? Chấp vào tướng Vô Tướng th́ cũng không được; chỉ cần có chấp trước tức là sai lầm mất rồi. “Tâm trước sanh hư luận” (tâm chấp trước, sanh ra hư luận), chấp vào tướng Vô Tướng có thể sanh ra hư luận. Hư luận nói giỡn chơi, chẳng phải là sự thật. “Thị thời trừ Vô Tướng tướng” (khi ấy, trừ bỏ tướng Vô Tướng), cũng thể buông tướng Vô Tướng xuống, tâm thanh tịnh hiện tiền, đó gọi là “Vô Tác môn”. Đấy là nói ba loại người có căn tánh khác nhau, đều có thể nhập ba môn giải thoát trong Tiểu Thừa.

      Tiếp đó, cụ Hoàng Niệm Tổ giải thích: Cái vị Không, Tướng, Nguyện (ấy là nói Không, Vô Tướng, Vô Nguyện), sánh ví những môn ấy như cửa nẻo. “Do thử pháp môn, khế nhập chư pháp Thật Tướng chi Niết Bàn thành” (do pháp môn này mà khế nhập thành Niết Bàn Thật Tướng của các pháp), Thật Tướng của các pháp là Pháp Tánh, “khế nhập” minh tâm kiến tánh, tỷ dụ minh tâm kiến tánh giống như thành Niết Bàn. “Nhược nhân tùng Không môn nhập, diệc bất kiến Không tướng” (nếu người theo cửa Không để vào, cũng chẳng thấy tướng Không), trực nhập như vậy, từ Không môn nhập mà chẳng chấp trước Không, đó mới là thật sự chứng nhập. Nếu Không để đắc, th́ cái “đắc Không” ấy là chấp tướng! Nhược đắc Không tướng” (nếu đắc tướng Không), tức là quư vị chẳng thể nhập! Cái Không ấy là chấp trước; do đă chấp vào Không, quư vị chẳng thể chứng nhập. “Nhược trừ Không tướng (nếu trừ tướng Không), đótùng Vô Tướng môn nhập” (từ Vô Tướng môn để vào), Vô Tướng vẫn là Không môn. Thay đổi danh từ, v́ trước đó, quư vị đă chấp vào tướng Không, nay đă giác ngộ, tướng Không cũng buông xuống, nên gọi là “tùng Vô Tướng môn nhập”. “Thảng trước ư Tướng chi tướng, tức Vô Tướng tướng” (nếu chấp vào tướng của Vô Tướng th́ đó chính là tướng Vô Tướng), quư vị chấp vào Vô Tướng, chấp vào tướng Vô Tướng, điều này rất vi tế, như vậy là quư vị đă vướng vào tướng của Vô Tướng, cũng chẳng thể nhập, cũng nẩy sanh chướng ngại. Ắt cũng phải diệt trừ tướng Vô Tướng, đấy chính là tùng Vô Tác môn trực nhập thử thành” (từ cửa Vô Tác, vào thẳng thành này). Vô Tác cũng là Vô Nguyện th́ mới có thể trực nhập Thật Tướng của các pháp. “Cố viết: Nhập Không, Vô Tướng, Vô Nguyện pháp môn” (nên nói là “nhập Không, Vô Tướng, Vô Nguyện pháp môn”). Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa đều có ba môn giải thoát ấy, tức là ba thứ đường lối để giải thoát, chỉ là nghĩa lư cạn hay sâu khác nhau! Hoặctừ Không để nhập, hoặc từ Vô Tướng để nhập, hoặc từ Vô Nguyện để nhập, đều thể thành tựu.

      Thông thường, trong học tập kinh giáo, chúng tôi nói đơn giản hơn mà cũng rất ràng, chẳng đi ṿng vèo như vậy. Đức Phật dạy chúng ta, người thượng thượng căn thiện căn sâu dầy, thể đồng thời buông khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước xuống, trong Phật pháp gọi điều này là “đốn xả”. Xả là buông xuống, đốn tu, đốn ngộ, đốn chứng. Ư niệm vừa chuyển, phàm phu bèn thành Phật. Thuở ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật đă v́ chúng ta biểu diễn cảnh giới này. Vào đời Đường, Lục Tổ Huệ Năng đại sư của Thiền Tông đă v́ chúng ta biểu diễn, cũng là chuyện này, tuyệt đối chẳng phải là kẻ b́nh phàm có thể làm được! Bản thân kẻ b́nh phàm hiểu rất rơ, phiền năo, tập khí nặng nề dường ấy, muốn đoạn mà chẳng đoạn được, v́ sao người ta ngay lập tức đoạn được? Hễ đoạn, bèn vĩnh viễn đoạn trừ. Do làm không được, bèn biết chúng ta chẳng phải là bậc thượng thượng căn. Không chỉ chúng ta chẳng có phần nơi thượng thượng căn, mà đối với thượng căn, chúng ta cũng chẳng sánh bằng. Nói thực tại, chúng ta kẻ trung hạ căn, phải hiểu rơ điều này. Kẻ trung hạ căn th́ phải buông xuống từng chút một. Q vị không buông xuống, sẽ chẳng vào được cửa, mà cũng chẳng thể quay đầu, nhất định phải buông xuống!

      Buông xuống, phải từ ngoài vào trong; trước hết, hăy buông xuống từ bên ngoài. Khi mê là từ trong ra ngoài, khi buông xuống th́ phải từ ngoài vào trong. Tầng ngoài cùng nhất là lục đạo. Lục đạo h́nh thành như thế nào? Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, những thứ ấy h́nh thành lục đạo luân hồi. Lục đạo do chính ḿnh tạo, vốn chẳng có lục đạo. Lục đạo chẳng do Phật tạo, mà cũng chẳng do Thượng Đế tạo, cũng chẳng do vua Diêm La tạo, mà do tự tánh biến hiện, do khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước, kinh Hoa Nghiêm dạy như vậy. Như thế nào th́ mới có thể thoát ly lục đạo? Buông chấp trước xuống bèn thoát ly, cũng có nghĩa là trong cuộc sống hằng ngày, đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, chúng ta chớ nên chấp trước. Chúng ta rốt cuộc là căn tánh ǵ? Căn tánh trung hạ chúng ta vẫn chẳng làm được! Nói thật thà, chúng ta căn tánh hạ hạ, nghiệp chướng quá nặng. Phải học buông xuống từng chút một, phải buông xuống mỗi ngày, phải buông xuống mỗi tháng, phải buông xuống mỗi năm. Quư vị buông xuống càng nhiều, tín tâm sẽ dần dần sanh khởi, sao? Tâm thanh tịnh, phiền năo ít đi, trí huệ hiện tiền. Phiền năo ít, trí huệ sanh, khá lắm! Quư vị sẽ có tín tâm đối với sự buông xuống, cuộc sống ngày càng tự tại hơn.

      Nói cụ thể, buông xuống ǵ? Buông xuống bố thí, bố thí buông xuống. Chúng ta tham luyến tài sản, bỏ chẳng được để buông xuống, phải học! Học buông xuống! Đối với vật ngoài thân, phàm những ǵ có tướng đều là hư vọng. Buông ra, [bèn lo lắng, bản thân ta] chẳng có ǵ nữa th́ sẽ ra sao? Đừng lo lắng! Bởi lẽ, ở đây, nhân quả sẽ giúp đỡ chúng ta. Trong mạng ta đă có, càng buông ra, sẽ càng có nhiều. Chớ nên nói “càng buông ra, sẽ không có nữa”, chẳng thể nào! Đó là vi phạm nguyên tắc nhân quả. Khẳng định càng buông ra, sẽ càng nhiều, càng nhiều, càng buông ra, quyết định chớ nên tích lũy. Trong kinh Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa, đức Phật đă dạy: Tích tài táng đạo (tích lũy tiền của, đạo bị chôn vùi). V́ sao người tu hành không thể thành tựu? Lúc chẳng có tiền tài, buông xuống c̣n khá dễ dàng, dù sao cũng đâu có ǵ! Khi càng có tiền, càng chẳng nỡ bố thí; v́ thế, kẻ ấy thoái chuyển! Tài sản thật sự hại người, hại quư vị chẳng thể khai ngộ, hại quư vị chẳng thể chứng quả, thậm chí hại quư vị chẳng thể văng sanh, quư vị nói xem: Có phiền phức hay không?

      Phải buông tài xuống, pháp cũng phải buông xuống. Quư vị thấy ở đây nói đến tướng Không, đều là pháp. Tướng Vô Tướng cũng là pháp. Nếu quư vị chẳng buông xuống, sẽ nẩy sanh chướng ngại, chẳng có cách nào đắc quả Nhị Thừa. là pháp, pháp cũng phải buông xuống. Buông pháp xuống, đắc thông minh, trí huệ. thế, Phật, T dạy chúng ta: Thâm nhập một môn, huân tu lâu dài”. Ta chỉ nắm lấy một môn, toàn bộ những môn khác đều buông xuống. Buông xuống là ǵ? Ta đi đến cùng một môn này th́ toàn b đều đạt được, nguyên lai là chuyện như thế đó. Nếu không buông xuống th́ sao? Khi không buông xuống, từ đầu đến cuối, quư vị chẳng đạt đến đích, thứ ǵ quư vị cũng chẳng đạt được. Quư vị thấy đó, buông của cải xuống bèn được của cải, buông hết thảy các pháp xuống bèn được thông minh, trí huệ. C̣n phải có tâm từ bi giống như Phật, Bồ Tát, tâm từ bi sẵn có trong tự tánh, thấy người khác gặp khổ nạn, nhất định phải giúp đỡ. Đó ǵ? Đó là tu vô úy bố thí, khiến cho hết thảy khổ nạn chúng sanh ĺa khỏi sợ hăi. vậy, các đồng học phát tâm, muốn lập nhi viện hay mở viện dưỡng lăo, đó là chuyện tốt, đó ǵ? Đó vô úy bố thí, quả báo khỏe mạnh, sống lâu. Quư vị có thể chăm sóc kẻ khác đang bệnh khổ, thể giúp đỡ người khác giác ngộ. Chẳng giác ngộ là chuyện khổ sở, là cội nguồn của hết thảy các nỗi khổ. Giúp đỡ người khác giác ngộ là trừ dẹp cội nguồn khổ, trừ dẹp cội rễ của khổ và lạc, chuyện này thuộc về đại vô úy bố thí, quả báo thù thắng chẳng thể nghĩ bàn!

      Những đức Phật đă nói trong kinh giáo là chân lư, Sự thật sự, thực tại, chẳng hư giả mảy may! Chúng ta học tập, tôi đă trải qua năm mươi chín năm, chứng thực chẳng giả tí nào! Xă hội hiện thời động loạn, tai nạn trên địa cầu nhiều ngần ấy, chúng ta thấy ràng. Thấy ǵ? Biết do nhân ǵ, do nguyên nhân ǵ tạo thành nông nỗi ấy, cũng hiểu rơ nên dùng phương pháp để đối đăi. Giải quyết những tai nạn trên địa cầu chẳng khó, ngay cả các tinh cầu vận hành trong vũ trụ, quỹ đạo bị sai lệch, chúng ta cũng đều có cách khiến cho chúng khôi phục b́nh thường, những tai nạn nhỏ nhặt trên địa cầu thấm vào đâu! Quư vị nhất định phải biết: Tất cả hết thảy tai nạn đều do tâm hạnh chẳng lành cảm vời! Nếu chuyển biến tâm thái, tai nạn sẽ lập tức tiêu trừ. Ở chỗ này, nhất định phải trước hết là hiểu rơ ràng, minh bạch luận và chân tướng sự thật. quư vị chẳng hiểu rơ, tín tâm chẳng thể sanh khởi! Tín tâm chẳng sanh khởi, ư niệm của quư vị chuyển biến, dẫu có chuyển, nhưng chẳng kiên cố, vẫn c̣n có hoài nghi. Nỗi hoài nghi ấy phá hoại thiện niệm của quư vị, dẫu chẳng thể phá hoại hoàn toàn, nhưng đă giảm bớt năng lượng ấy trên một mức độ lớn. Chỉ có tín tâm kiên định, chẳng mảy may hoài nghi th́ sức mạnh ấy sẽ khiến cho con người hết sức kinh ngạc!

      Do vậy, những báo cáo nghiên cứu của các nhà khoa học cận đại có ích rất lớn đối với sự tu học của chúng ta. Những Lư và Sự giống như thế này được họ nói rất rơ ràng, chúng ta vừa nh́n vào liền hiểu rơ, kinh Phật vốn đă nói tới [những chuyện ấy] từ ba ngàn năm trước, nhưng chúng ta do dự, chẳng quyết đoán, chẳng dám sử dụng. Khoa học hiện thời vừa chứng minh, chẳng c̣n bàn căi chi nữa, giúp chúng ta đoạn nghi, sanh tín. Đối với sự thành tựu trong một đời này của chúng ta, đặc biệt là thành tựu trong niệm Phật văng sanh, tín tâm vẹn mười. Niệm niệm chẳng có ư niệm nào khác, chỉthế giới Cực Lạc là nhà của chúng ta, A Di Đà Phật là vị thầy, là gia trưởng của chúng ta. Văng sanh thế giới Cực Lạc trở lại quê nhà, đúng vậy, chẳng giả! Há lẽ nào chẳng có phần? Nói chung, q nhà luôn có phần của chúng ta, vấn đề là quư vị có nhận biết hay không? Người Hoa nói: “Lang thang rất lâu ở bên ngoài, nay đă nhận biết tổ tiên, trở về nguồn cội”. Văng sanh thế giới Cực Lạc nhận biết tổ tiên, trở về với cội nguồn”, đúng thế, chẳng giả! Trước kia, đúng là đă mê mất, nay quư vị đă có tín tâm kiên định, lẽ nào chẳng thành tựu? Chúng ta học đoạn Tam Không tam-muội này tới đây.

      Chúng ta lại xem đoạn tiếp theo: Thiện lập phương tiện, hiển thị tam thừa” (khéo lập phương tiện, bày rơ tam thừa). Đây là lợi tha, phần trước là tự lợi, [trong phần này], chính ḿnh đă thành tựu, bèn muốn giúp đỡ người khác. Giúp đỡ người khác th́ phải khéo lập phương tiện. “Hiển thị tam thừa” th́ mới có thể khế cơ; căn tánh như thế nào th́ chúng ta và Bồ Tát giống hệt, phải dùng phương pháp để đối trị. Phương giả, phương pháp” [nghĩa là] phương phương pháp. Tiện giả, tiện dụng”, [nghĩa là] Tiện là thuận tiện, mang ư nghĩa ấy. Chúng ta nói phương pháp tiện lợi là phương pháp thích hợp nhất, là phương pháp hay khéo nhất,phương pháp tốt nhất, ư nghĩa ấy. Phương pháp tốt nhất, hay khéo nhất chẳng nhất định, do mỗi người mà khác nhau, do mỗi thời mà khác biệt, do mỗi sự mà không giống nhau. Đó trí huệ, trong Phật pháp dùng một danh từ khác “phương tiện thiện xảo”, phải thêm vào chữ “thiện xảo”. Bởi lẽ, có trí huệ th́ mới biết dùng.

      Pháp Hoa Vănviết: Phương giả, pháp dă. Tiện giả, dụng dă” (Sách Pháp Hoa Văn Cú nói: “Phương là cách thức, Tiện là sử dụng”). Đây là cách giải thích của cổ đức. Trong sách Pháp Hoa Huyền Tán có nói: Thi vi khả tắc viết Phương, thiện đậu cơ nghi viết Tiện” (Thực hiện đáng làm khuôn mẫu th́ gọi là Phương. Khéo phù hợp cơ nghi là Tiện). Thi vi” (施為) “thiết thi, tác vi” (設施作為: lập bày ra cách thức để thực hiện), có thể nêu gương tốt cho đại chúng noi theo th́ gọi Phương. Chỗ này nói nghiêm ngặt hơn trong phần trước đôi chút; phần trước nghĩa rộng, ở đây nói theo nghĩa hẹp. Hết thảy các hành vi, hoạt động của chư Phật, Bồ Tát đều có thể nêu gương tốt cho chúng sanh, điều đó gọi là Phương trong Phật môn. “Thiện đậu cơ nghi (善逗機宜: Khéo phù hợp cơ nghi), () [căn cơ của] hết thảy chúng sanh. Q vị rất xảo diệu, khiến cho hết thảy chúng sanh dùng phương pháp ấy đều hết sức hoan hỷ, đều nghiêm túc học tập, chẳng cảm thấy khó khăn, đó gọi là “tiện lợi”. Trong Pháp Hoa Nghĩa Sớ có nói: “Phương tiện thị thiện xảo chi danh” (Phương tiện là tên gọi khác của thiện xảo). Do vậy, kinh Phật thường gộp chung thiện xảo và phương tiện, gọi là “thiện xảo phương tiện”. “Thiện xảo giả, trí chi dụng dă” (thiện xảo là tác dụng của trí). Đây là trí huệ, trí ấy là Hậu Đắc Trí, Quyền Trí, quyền nghi, quyền xảo!

       Kinh Đại Tập nói: Năng điều chúng sanh, tất linh thú hướng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, thị danh Phương Tiện (có thể điều phục chúng sanh, khiến cho họ đều hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, th́ gọi là Phương Tiện). Kinh Đại Tập nói đến phương tiện thiện xảo của Bồ Tát. Bồ Tát có thể giúp đỡ hết thảy chúng sanh. “Thú hướng” (趣向) theo một phương hướng, theo một con đường, tứccon đường thành Phật. A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề con đường thành Phật, hoàn toàn là dịch âm tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán, dịch sang văn tự Trung Quốc, th́ A dịch Vô, Nậu Đa La dịch Thượng, [A Nậu Đa La là] Vô Thượng, Tam dịch là Chánh, Miệu dịch là Đẳng, sau đó lại có chữ Tam cũng là Chánh, Bồ Đề là Giác, cho nên cả câu này nói gộp lại sẽ là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đây là ba giai đoạn trên con đường Bồ Đề của người học Phật. Giai đoạn thứ nhất là Tam Bồ Đề, tức Chánh Giác, A La Hán chứng đắc. A La Hán thành Chánh Giác thành Tam Bồ Đề. Bồ Tát Chánh Đẳng Chánh Giác, Bồ Tát chứng đắc Tam Miệu Tam Bồ Đề. Đối với Phật, lại thêm chữ Vô Thượng, A Nậu Đa La là Vô Thượng. Do vậy, đây là con đường thành Phật.

      Theo kinh Hoa Nghiêm, Tam Bồ Đề địa vị Thất Tín. Trong mười địa vị Tín của Bồ Tát, Thất Tín Tam Bồ Đề. Nói theo đẳng cấp đoạn phiền năo và chứng Bồ Đề th́ Thất Tín Bồ Tát Tiểu Thừa A La Hán b́nh đẳng, nhưng trí huệ [của Thất Tín Bồ Tát] vượt trỗi Tiểu Thừa, trí huệ Tiểu Thừa chẳng sánh bằng các Ngài. Chánh Đẳng Chánh Giác Phật hoặc Bồ Tát trong mười pháp giới, sở chứng của các Ngài là Chánh Đẳng Chánh Giác. Nếu thêm Vô Thượng vào, bèn vượt trỗi mười pháp giới. Trong mười pháp giới có Chánh Đẳng Chánh Giác, nhưng không Thượng.Thượng th́ phải đoạn hết minh, kinh Hoa Nghiêm nói đến vọng tưởng th́ [vọng tưởng] cũng“khởi tâm động niệm” như chúng ta thường nói. Sáu căn đối trước cảnh giới lục trần mà chẳng khởi tâm, không động niệm, bèn gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Phật đă chứng đắc [cảnh giới ấy], Ngài vượt thoát mười pháp giới, sanh vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Người tu hành thông thường, được gọi là “thông đồ” (đi theo đường lối chung), quá nửa sanh vào thế giới Hoa Tạng, c̣n người niệm Phật sanh về thế giới Cực Lạc. Cực Lạc Hoa Tạng, nói thật ra là cùng một chuyện. Hoa Tạng giống như một ṭa thành lớn, thế giới Cực Lạc như một con ph trong ṭa thành lớn ấy, nói như vậy cho mọi người dễ hiểu, [thế giới Cực Lạc] là một con ph thù thắng nhất. Khi tôi giảng ở Tân Gia Ba, thường dùng Tân Gia Ba làm t dụ. Thế giới Hoa Tạng giống như Tân Gia Ba, thế giới Cực Lạc giống như con đường Ô Tiết (Orchard Road), mọi người rất dễ hiểu. vậy, sanh vào Tịnh Độ là đă sanh trong Hoa Tạng, nhưng sanh trong Hoa Tạng, chưa chắc sanh về Tịnh Độ! Phải hiểu điều này, quư vị mới biết Tịnh Độ thù thắng.

      Hựu Hội Sớ viết: Duy Ma Cật kinh vân: ‘Trí Độ Bồ Tát mẫu, phương tiện dĩ vi phụ’, đạt Không, Vô Tướng thị đại trí, tùy nghi thiết thi danh Phương Tiện (Lại nữa, sách Hội Sớ nói: “Kinh Duy Ma Cật bảo ‘Trí Độ là mẹ của Bồ Tát, phương tiện là cha’, thấu đạt Không, Vô Tướng đại trí, tùy nghi lập bày, vận dụng, bèn gọi là Phương Tiện). Trong kinh Duy Ma có hai câu như vậy. Trí Độ (Bát Nhă Ba La Mật) là mẹ của Bồ Tát v́ có thể sanh ra chư Phật, Phật chẳng ĺa khỏi trí huệ. sao? Trí huệ th́ mới có thể đoạn phiền năo. Không có trí huệ, làm sao quư vị có thể buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống? Buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống đại trí huệ. Do thật sự thấu suốt, nên mới có thể triệt để buông xuống; chẳng có trí huệ, sẽ không thể bỏ xuống. Không có trí huệ quư vị c̣n có phiền năo, c̣n có t́nh chấp, chẳng buông xuống được! Quư vị c̣n có sợ hăi, c̣n có hoài nghi, những thứ ấy đều là tập khí phiền năo. Trí huệ chân chánh hiện tiền, [những phiền năo, tập khí] b quét sạch sành sanh, chẳng có chướng ngại nữa. Phương tiện vi ph phương tiện thiện xảo trong tu hành pháp môn. Tiếp đó, giải thích cho chúng ta biết:Đạt Không, Vô Tướng thị đại trí”, đạt () thông đạt, [nghĩa là] quư vị thông đạt, hiểu rơ, vạn pháp đều là Không, tướng tức phi tướng, đó“đạt vô tướng”. Tướng tức tướng, bản thể của nó chính là Không, trọn chẳng thể được, đó là trí huệ Bát Nhă trong tự tánh, nên gọiđại trí”, trí huệ ấy sẵn có trong tự tánh.

      thế, Phật pháp được truyền đến Trung Quốc từ thời Hán Minh Đế, ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa bản địa của Trung Quốc. Tiến sĩ Thang Ân Tỷ (Arnold J. Toynbee) nói chẳng sai, ông ta nói người Trung Quốc tâm lượng to lớn, có thể dung nạp văn hóa của dị tộc. Ấn Độ ngoại quốc, chẳng phải là Trung Quốc,dị tộc, văn hóa dị tộc truyền đến Trung Quốc. Ông ta hết sức tán thán, thể dung nạp văn hóa của dị tộc! Văn hóa Phật giáo đă nâng cao văn hóa truyền thống của Trung Hoa trên một mức độ lớn, đúng vậy, chẳng giả tí nào! Nho Đạo vận dụng những nguyên tắc và nguyên lư trong Phật pháp rất nhiều. Ba thứ văn hóa Nho, Thích, Đạo dung hợp thành một Thể, đó là văn hóa truyền thống của Trung Hoa, một Thể! Do vậy, người Hoa cầu điều ǵ? Cầu trí huệ. Nho cũng là cầu trí huệ, Đạo cũng là cầu trí huệ. Ư niệm “cầu trí huệ” học từ Phật giáo. Chẳng h cầu tri thức, mà cầu trí huệ. Cầu như thế nào? Từ Giới, Định, Huệ. Do vậy, phương pháp Giới, Định, Huệ được Nho học theo, mà Đạo cũng học theo. Nhân Giới đắc Định, nhân Định khai Huệ, thâm nhập một môn, huân tu lâu dài” là phương pháp để cầu trí huệ, chẳng phải là cầu tri thức. Tri thức là học rộng, nghe nhiều. Trí huệ là thâm nhập một môn, huân tu lâu dài, khác nhau! Tri thức có phải cầu hay không? Tri thức phải cầu, nhưng đặt nó vào cuối cùng; sau khi khai ngộ mới cầu tri thức. Quư vị thấy thứ tự trong Phật pháp [được diễn t bằng] Tứ Hoằng Thệ Nguyện. Đầu tiên bảo quư vị phát nguyện, chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, điều này nguyện. Ba điều sau th́ sao? Nhằm thành tựu điều thứ nhất. Điều th hai là phiền năo vô tận thệ nguyện đoạn”. Đoạn phiền năo như thế nào? Tŕ giới, tu định, khai trí huệ, phiền năo chẳng c̣n nữa. Do đó, phiền năo vô tận thệ nguyện đoạn” phải dùng Giới, Định, Huệ. T huệ đă khai, chiếu kiến Ngũ Uẩn đều không, thấu đạt chúng sanh tướng. Sau khi t huệ đă khai, lại học pháp môn, pháp môn vô lượng thệ nguyện học, Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”, đó là chuyện sau khi trí huệ đă khai. Trí huệ chưa khai, đối với hai chuyện sau, dẫu quư vị nghĩ cách nào cũng chẳng đạt được! Do vậy, hiện thời, rất nhiều người học Phật chẳng thể thành tựu là do nguyên nhân nào? Quên bẵng hai chuyện trước, bắt đầu từ chỗ nào? Bắt đầu từ pháp môn vô lượng thệ nguyện học”, học rộng, nghe nhiều. Chẳng có cơ sở phía trước, giống như xây một ṭa cao ốc bốn tầng, nhưng chẳng có tầng thứ nhất và tầng thứ hai, mong xây tầng thứ ba, rốt cuộc xây cả đời cũng xôi hỏng bỏng không, chẳng thể thành tựu, đạo lư ở chỗ này! Đây là chỗ Nho Đạo đều phải học theo nhà Phật.

      Vâng giữ quy củ tŕ giới, quyết định chẳng thể vượt cấp được! Quư vị thấy giáo học của Trung Quốc xưa kia, học từ chỗ nào? Học từ Đệ Tử Quy. Đệ Tử Quy chẳng phải là bảo trẻ nhỏ đọc, mà cũng chẳng bảo nó nói, cũng chẳng phải là giảng cho nó nghe. Đệ Tử Quy căn bản làm người, cha mẹ thực hiện cho trẻ nhỏ thấy. Trẻ thơ vừa sanh ra, mở mắt ra, nó có thể thấy, đôi tai bé bỏng của nó có thể nghe, nó đă học tập, bắt chước. Quư vị chớ nên xem thường nó, [tưởng lầm] nó vô tri, điều ǵ cũng đều không hiểu! Thật ra, nó hiểu nhiều hơn quư vị [nghĩ], là linh quang thật sự, tai nghe, mắt thấy, nó học toàn bộ. Tuy nó chẳng thể nói, nhưng thứ ǵ cũng đều hiểu. Do vậy, cha mẹ, người lớn ở trước mặt trẻ thơ phải rất chú tâm cẩn thận, khiến cho nó thấy, nghe, tiếp xúc, toàn là những điều chánh đáng. Cũng như chúng tôi thường nói: Phải khiến cho nó thấy hiếu, đễ, trung, tín, thấy lễ, nghĩa, liêm, sỉ, thấy nhân ái, ḥa b́nh, nghe cũng nghe những chuyện ấy, tiếp xúc cũng là tiếp xúc những chuyện ấy, đó là “dưỡng chánh”, tức là “đồng mông dưỡng chánh (bồi dưỡng những điều chánh đáng cho lứa tuổi vỡ ḷng), căn cội của sự dưỡng chánh, [thời gian vun bồi là] ba năm. Ba năm một ngàn ngày, trẻ thơ chẳng có vọng niệm, chẳngtạp niệm, căn cơ được vun bồi rất sâu, nên ngạn ngữ mới có câu: Tam tuế khán bát thập”. Một ngàn ngày vun bồi căn cội, trong tương lai, bất luận tiếp xúc nghịch cảnh nào, kẻ ấy cũng chẳng thể biến thành xấu, mà có năng lực phân biệt đúng, sai, tà, chánh, thiện, ác. Nền giáo dục như thế, thưa cùng quư vị, chỉ riêng Trung Quốc là có, nên Trung Quốc đời đời xuất hiện hiền nhân, xuất hiện thánh nhân, đạo lư ở chỗ này!   

      Trong thời cổ, lịch sử đă ghi chép “Châu gia tam thái” (ba bà Thái của nhà Châu) đă làm rất thành công. Bà nội của Châu Văn Vương là Thái Khương, là mẹ của Vương Quư, Vương Quư là cha của Văn Vương. Mẹ của nhà vua là Thái Nhậm, phi tử của vua là Thái Tự, sanh ra Vũ Vương và Châu Công, đều là những bậc thánh nhân mà Khổng Tử bội phục nhất. Chẳng phải là từ lúc trẻ nhỏ sanh ra, mà ngay trong khi mang thai, chính ḿnh đă bắt đầu dùng những điều chánh đáng để ảnh hưởng thai nhi. Bắt đầu [giáo dưỡng] từ lúc có mang gọi là thai giáo”, thật sự vun bồi cội rễ sâu chắc. Phương pháp giáo học như thế chính là gia giáo, măi cho đến những năm cuối đời Măn Thanh, các gia tộc đông đảo vẫn dùng phương pháp này. Xưa kia, trường học ít ỏi, con gái ít có cơ hội học hành, nhưng [nữ nhân] đều có thể dạy dỗ con thơ, đều biết Ngũ Luân, Ngũ Thường, Tứ Duy, Bát Đức, đều hiểu, chẳng có một ai không biết. Lại c̣n có thể biểu hiện [những giềng mối ấy] trong cuộc sống hằng ngày, do các bà đă làm được, nên rất biết cách dạy dỗ!

      Trẻ nhỏ sáu bảy tuổi, đi học, thầy dạy dỗ. Thầy thật sự gánh trách nhiệm, những ǵ thầy đă dạy, thầy đều làm được; không làm được sẽ chẳng thể dạy trẻ nhỏ, thầy nêu gương cho trẻ thơ. Thầy có đức hạnh, có tâm yêu thương, có phương pháp vận dụng phương tiện thiện xảo để khuyên nhủ, hướng dẫn bọn trẻ. Gia trưởng mời thầy, bèn đi các nơi nghe ngóng. Thật sự là một vị thầy tốt, bèn lễ thỉnh. Thỉnh đến, trước hết làm lễ bái sư, gia trưởng phải lạy thầy, phải hành đại lễ với thầy, tức là ba lần quỳ, chín lần khấu đầu. Thầy tiếp nhận gia trưởng đối đăi bằng đại lễ như vậy, nếu không nghiêm túc dạy trẻ cho tốt đẹp, chẳng có lỗi đối với gia trưởng? Tận tâm tận lực dạy dỗ, khác với trường học hiện thời. Học tṛ thấy gia trưởng, cha mẹ, ông bà của chính ḿnh cũng ba lần quỳ, chín lần khấu đầu đối với thầy, há học tṛ c̣n có thể chẳng nghe lời thầy ư? C̣n có thể không tôn trọng thầy ư? Chẳng thể nào! Người trên làm, kẻ dưới bắt chước theo! Quư vị thấy cha mẹ rất tôn trọng thầy, trong tâm mục của tṛ, thầy chẳng khác cha mẹ, b́nh đẳng! Hiếu thuận cha mẹ th́ cũng phải hiếu thuận thầy. Do vậy, nếu quư vị nh́n vào cổ lễ Trung Quốc, sẽ hiểu con người xưa kia khác hẳn. Mấy ngàn năm qua, là nước lễ nghĩa, là sự thật, chẳng giả! Người ngoại quốc nghiên cứu lịch sử Trung Quốc, không ai chẳng bội phục Trung Quốc. Mấy ngàn năm qua, vĩnh viễn duy tŕ sự thống nhất to lớn, điều này được người ta tôn kính nhất. Quư vị thấy ở Âu Châu, sau khi đế quốc La Mă tiêu vong, từ đầu đến cuối chẳng thể thống nhất, mà đă chia vụn ra. Chỉngười Trung Quốc thống nhất, măi đến hiện thời vẫn thống nhất. Sự thống nhất ấy cùng đáng quư, nói lên điều ǵ? Nói rơ xă hội ḥa hài, nhân dân đoàn kết, đó là văn hóa ở một mức độ cao.

      đại trí th́ mới có phương tiện, tùy nghi thiết lập, thi hành. “Nghi” () cần thiết, định ra một loạt phương pháp nhằm thích hợp với nhu cầu trước mắt. Ngày nay, cả thế giới động loạn, nguyên nhân ǵ? Chúng ta thường quên bẵng sự giáo dục làm người, chẳng dạy con người làm người, chỉ chú trọng giáo dục kỹ năng, chỉ coi trọng sự mưu sinh trong tương lai. Tại Trung Quốc, kiểu cách ấy chẳng được gọi là giáo dục! thế, thoạt đầu, tôi xuất gia tại chùa Lâm Tế ở Viên Sơn, Đài Bắc. Mới xuất gia làm tiểu ḥa thượng, trong tự viện cũng giao phó việc cho chúng tôi làm. Công việc của tôi là quét sân, quét dọn cửa chính. Sư huynh, sư đệ ba người, sáng sớm mỗi ngày quét dọn cửa chính. Cửa chính có rất nhiều cây, lá rụng mỗi ngày nên phải quét dọn. một hôm vào lúc quét dọn, tôi thấy bốn đứa sinh viên. Phía sau chùa chúng tôi có một con đường dẫn đến công viên Viên Sơn, có thể theo con đường ấy để vào [công viên], không có ai canh cửa, chẳng phải mua vé vào cửa, chứ đi cửa chính th́ phải có vé vào cửa. Do biết có con đường tắt ấy, chúng nó đi ngă sau. Tôi thấy bốn đứa sinh viên ấy, vừa nói chuyện phiếm vừa tản bộ, trèo lên núi. Tôi rất cảm thán, thốt lên: “Đáng tiếc! Những kẻ trẻ tuổi này chẳng được giáo dục”. Họ nghe thấy lời ấy, ngay lập tức quay lại t́m tôi, chất vấn: “Ông vừa mới nói ǵ đó?” “Tôi đă nói rồi đó, tôi nói: Rất đáng tiếc, các vị chẳng có giáo dục”. Họ rất tức giận:Bọn tôi là sinh viên năm thứ tư ngành Pháp Luật của Đại Học Đài Loan, cớ sao ông nói chúng tôi chưa được giáo dục?” Tôi nghe lời ấy, đáp: “Hóa ra là sinh viên đại học. Tôi đă coi thường quư vị mất rồi. Thôi được, tôi xin thỉnh giáo quư vị”. Tôi nói: “Giáo là ǵ? Dục là ǵ? Giáo dục là ǵ? Xin quư vị hăy giảng cho tôi nghe ba vấn đề ấy”. Tôi vừa hỏi như thế đă khiến bọn họ ú ớ, đúng là chẳng đáp được. Các sinh viên thuở ấy c̣n khá lắm, vẫn rất khiêm hư, họ thỉnh giáo ngược lại tôi, thái độ rất khiêm tốn và cũng rất cung kính. Tôi đem những ǵ Lễ Kư đă giải thích, giảng cho họ nghe, họ chưa hề học đến.

      Sau đó họ hỏi tôi, họ nói: “Vậy th́ trường đại học của chúng tôi nay nên coi là ǵ?” Tôi đáp: “Tốt nhất là đại học nên đổi danh xưng thành viện nghiên cứu kỹ thuật cao cấp. Danh xưng ấy rất thích hợp với quư vị. Quư vị không chỉ chưa học giáo dục cao đẳng, mà giáo dục tiểu học cũng chưa học!” Họ cảm thấy rất lạ lùng, giáo dục tiểu học ư? Tôi nói: “Quư vị biết ăn cơm hay không?” “Ai mà chẳng biết ăn cơm?” “Đâu có đơn giản như vậy! Tôi bày bốn món ăn cho quư vị, phương hướng của bốn món ấy đuợc sắp đặt theo phương vị của Ngũ Hành, quư vị có xếp được hay không?” [Không xếp được tức là] chưa biết ăn cơm, quư vị chưa học qua! Tôi nói: “Quư vị đă học quét đất hay chưa? Ứng đối, quét tước chính là giáo dục tiểu học, quư vị chưa hề học, mặc quần áo lẫn ăn cơm đều chẳng biết!” Tôi nói: “Đó gọi là trường học, đó là giáo dục”. Như vậy là những sinh viên ấy cũng c̣n rất khá, thuở ấy, gần như là sáu mươi năm trước đây, các sinh viên c̣n khá lắm, đều rất th chịu học hỏi. Nay th́ chúng ta có gặp cũng chẳng dám nói; nếu chọc giận họ, họ sẽ động vơ với quư vị, chúng ta đâu có chịu nổi. Đấy là giáo dục nẩy sanh vấn đề, chẳng biết làm người! thế, hiện thời có rất nhiều người đi học bằng Tiến Sĩ, nhưng chẳng t́m được việc. Khá nhiều công ty, hăng xưởng hết sức cần nhân tài, biết họ có khả năng, nhưng chẳng biết làm người, nên chẳng dám dùng họ! Đây là hiện tượng phổ biến trong xă hội hiện thời. V́ thế, sự giáo dục trong Đệ Tử Quy Cảm Ứng Thiên giáo dục làm người. Quư vị biết làm người, lại c̣n biết làm việc, ai cũng thích, chủ nhân nào cũng đều thích dùng quư vị!

      Nay chúng ta nói “tùy nghi thiết thi” th́ giáo dục luân lư, đạo đức, nhân quả, tôn giáo trọng yếu hơn bất cứ ǵ khác. Chúng tôi nói với người khác, người ta nghe xong cũng gật đầu, nhưng chẳng có ai tin tưởng, chẳng có ai dám thực nghiệm. Trong xă hội hiện thời, muốn làm chuyện tốt th́ phải có địa điểm làm mẫu, đó là chuyện tốt. Địa điểm làm mẫu được thực hiện từ chỗ nào? Thực hiện từ chính ḿnh. Chính nhân ta là người nêu gương. Làm được điều này, quư vị lại thực hiện trong gia đ́nh, biến gia đ́nh của chính ḿnh thành một nơi gương mẫu. Hiện thời là tiểu gia đ́nh, trong xă hội có nhiều tiểu gia đ́nh nêu gương để cho người khác đến thăm, quan sát sinh hoạt thường nhật của gia đ́nh quư vị, một nhà ḥa thuận, thân ái, một nhà hỗ trợ hợp tác, thực hiện được điều ấy. Q vị có công ty, bất luận công ty lớn hay nhỏ, quư vị biến công ty thành một tấm gương, làm gương cho tất cả các công ty khác. Đó là ǵ? Đó Bồ Tát. nhân quư vị làm được, quư vị thành Bồ Tát. Quư vị chăm nom gia đ́nh tốt đẹp, đó là gia đ́nh Bồ Tát, người nhà của quư vị đều là Bồ Tát. Quư vị hướng dẫn một công ty hay hăng xưởng tốt đẹp, công ty hay hăng xưởng ấy sẽ là công ty Bồ Tát, chẳng bị lỗ vốn, sẽ sanh lợi. Một người điều hành xí nghiệp ở Bắc Kinh là cư sĩ Hồ Tiểu Lâm, sau khi quen biết tôi, tôi đă dạy ông ta phương pháp này, thực hiện ba cội rễ, chính ḿnh thực hiện trước, sau đó ảnh hưởng tới gia đ́nh, cuối cùng áp dụng vào công ty, làm rất tự tại, làm rất thành công, đó một tấm gương tốt. Ở Thanh Đảo, cũng có một xí nghiệp gia là bà Lưu Khắc Thành, cũng làm hết sức thành công. Những gương như vậy đều là điển h́nh. Quư vị đă nghe nền văn hóa giáo dục truyền thống này, hăy tự đến xem, xem người ta làm như thế nào!

      Ba nhà Nho, Thích, Đạo của Trung Quốc đều coi trọng hành chứng, không thể chỉ có tín, giải, mà sau đó chẳng hành, chứng. Nếu như vậy th́ sẽ biến thành học thuật, biến thành huyền học, biến thành tri thức, chẳng phải là trí huệ. Quư vị có thể thực hiện những điều đă học, vận dụng trong cuộc sống, đạt được lợi ích trong cuộc sống, thân tâm khỏe mạnh, phiền năo nhẹ bớt, trí huệ tăng trưởng. Áp dụng vào gia đ́nh, gia đ́nh hạnh phúc; vận dụng trong sự nghiệp, sự nghiệp thuận lợi. Quư vị ảnh hưởng xóm giềng, làng nước, khu vực nh nơi quư vị tr nhất định sẽ ḥa hài, một chốn lễ nghĩa nho nhỏ đă xuất hiện, sẽ thấy xă hội hài ḥa. Mấy năm sau, ảnh hưởng ngày càng lớn hơn, thể ảnh hưởng cả một thành thị hay một khu vực. Đă nêu gương, đă nêu khuôn mẫu, lại mở rộng, sẽ ảnh hưởng toàn thể thế giới. sao? Toàn thể thế giới đều cần thiết, nhưng họ chẳng t́m được một nơi nào, họ đến [chỗ quư vị] để xem xét, thật sự mong học theo. Người trên cả thế giới đều đến chỗ quư vị học tập, công đức to lớn! Chớ nên coi thường, sự nghiệp Bồ Tát đấy nhé! Đó gọi là “tùy nghi thiết thi” (thuận theo cơ nghi mà thiết lập, thực hiện).

      Phương tiện hữu nhị chủng” (phương tiện có hai thứ), thứ nhất là thâm giải Không nhi bất thủ tướng, thọ chứng” (hiểu Không sâu xa, nhưng chẳng giữ lấy tướng, hoặc thấy có chứng). Đối với những nghĩa lư như vạn pháp đều không,phàm những ǵ có tướng đều hư vọng”,hết thảy các pháp vô sở hữu, rốt ráo không, bất khả đắc” đều phải thấu hiểu sâu xa. Do chúng ta lư giải chưa đủ sâu, nên quư vị chưa thể thực hiện. Sau khi thấu hiểu sâu xa, quư vị tự nhiên thực hiện được. Thực hiện là ǵ? Quư vị làm được. Chẳng phải là q vị đọc kinh hay nghiên cứu kinh, mà là thực hành kinh! Biến lư luận trong kinh giáo thành tư tưởng, biến giáo huấn trong kinh điển thành hành vi của ḿnh, đấy mới là “khế nhập. Hiểu Không, chẳng chấp tướng, quư vị mới chứng đắc, cái đă chứng đắc chính là ư nghĩa chân thật do Như Lai đă nói trong kinh, quư vị đă thấu hiểu. Hễ q vị chấp tướng, sẽ chẳng hiểu, chẳng biết nghĩa chân thật của Như Lai. Nghĩa chân thật của Như Lai chân lư uẩn tàng trong tự tánh.

      Thứ hai, Thật Tướng lư thâm mạc năng tín thọ, yếu tu phương tiện dụ dẫn quần sanh, linh kỳ tiệm ngộ” (Do lư Thật Tướng sâu xa, chưa thể tin nhận, nên phải dùng phương tiện để dẫn dụ quần sanh khiến cho họ dần dần ngộ). Điều thứ hai là giúp đỡ, độ người khác. Điều th nhất là t lợi, điều th hai là lợi tha. “Lợi Tha”:Thật Tướng quá sâu, trong phần trước đă nói: “Thâm giải Không, nhi bất thủ tướng” (thấu hiểu Không sâu xa, nhưng chẳng chấp lấy tướng), người b́nh phàm chẳng thể lư giải điều này; chính ḿnh đă đạt được, phải giúp đỡ người khác. Giúp đỡ người khác th́ phải có phương tiện, phải có ḷng kiên nhẫn, tâm nhẫn nại và phương tiện. Phương tiện ǵ? Phương tiện chính ḿnh đă làm được th́ phải thường nói với người nhà. Đối với công việc th́ người nhà công việc, trẻ nhỏ phải đi học, khi tan sở hoặc tan học, sáng tối dùng bữa với nhau, hoặc lúc rảnh rỗi, giảng những đạo lư trong kinh giáo cho mọi người nghe. Đức Phật dạy chúng ta sống như thế nào, làm lụng ra sao, khiến cho mọi người đều hiểu rơ những giáo huấn ấy. Họ thấy quư vị thực hiện, thực hiện tự tại dường ấy, thật sự hữu dụng! Hữu dụng là cuộc sống và công việc dẫu bận bịu đến mấy, người ấy vẫn rất thong dong, chẳng có phiền năo, vui sướng, chẳng có ưu lự, tăng trưởng trí huệ, có ai chẳng vui vẻ? Học từ đâu? Học từ trong giáo dục truyền thống! Mọi người mới biết các thứ truyền thống là tốt đẹp. Quư vị chẳng nêu gương, quư vị giảng cho họ nghe, họ chẳng tin! Phương pháp hữu hiệu nhất là trong cuộc sống hằng ngày, hăy sống đơn giản, chẳng lăng phí mảy may! Hoàn cảnh cư trụ tuy nhỏ bé, nhưng ngăn nắp, sạch sẽ, chớ nên quá lớn, quá lớn th́ sao? Dọn dẹp các pḥng lăng phí rất nhiều thời gian, phải lăng phí rất nhiều tinh lực, càng đơn giản càng hay, càng đơn giản càng vui sướng. Người khác sống trong một căn nhà lớn, chớ nên hâm mộ, sao? Rất khổ! Sống trong một căn nhà to là chịu tội, phải mất bao nhiêu thời gian và tinh lực để chăm sóc căn nhà ấy, chẳng đáng! Trong nhà người khác có hoa viên, nhà ta có vườn rau. Rau có thể ăn, luôn luôn hữu dụng, có liên quan đến cuộc sống của ta. Thực hiện được th́ thân thể khỏe mạnh, vui sướng, suốt ngày từ sáng đến tối hoan hỷ, điều này rất khó có!

      Quư vị thấy người hiện thời, có mấy ai suốt ngày luôn lộ vẻ tươi cười? Toàn là mặt mày chau! Quư vị biết tâm t́nh của họ có rất nhiều điều trái ư. Họ thấy chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối hoan hỷ. Khi tôi sống ở Mỹ, có một hôm, hàng xóm đến hỏi tôi: “Các vị làm ǵ? Đang làm nghề ǵ? V́ sao mỗi ngày quư vị vui sướng dường ấy?” Họ hỏi tôi chuyện ấy. Chúng tôi bảo họ: “Chúng tôi học Phật. Họ không hiểu, học Phật ư? Phật tôn giáo, [họ nghĩ] chúng tôi học Phật giáo. Họ hỏi: “Phật giáo ǵ? Các vị học ǵ?” “Chúng tôi học Tịnh Độ”. “Tịnh Độ ǵ?Thế giới Cực Lạc! Chúng tôi học vui sướng, học thanh tịnh, học khỏe mạnh, sống lâu. Họ nói: “Chúng tôi cũng muốn học những thứ ấy”. Được! Hoan nghênh quư vị đến học. Chúng tôi có một tiểu đạo tràng, họ đều là giáo đồ Cơ Đốc. Tôi nói: Quư vị Chủ Nhật đi nhà thờ, Thứ Bảy đến Phật đường, chẳng có xung đột. Quư vị và Thượng Đế có quan hệ cha con. Quư vị đến Phật đường là quan hệ thầy tṛ, đến học, nghe giảng. Họ thật sự rất vui, chẳng có xung đột! Quư vị tín ngưỡng tôn giáo, nhưng con cái của quư vị chẳng đều đi học hay sao? Phật giáo trường học, dạy quư vị vui sướng như thế nào? Tu tâm thanh tịnh ra sao? Đạt được vui sướng như thế nào? Thân tâm khỏe mạnh như thế nào? Dạy những chuyện ấy. Thân tâm khỏe mạnh, bèn sống lâu! Lượng Thọ. Ai nấy đều mong sống lâu, đều muốn khỏe mạnh, vậy th́ hăy đến chỗ của tôi. Quư vị thấy chúng tôi học ở đây, hằng ngày luôn hoan hỷ, bất luận khi nào quư vị đến xem, đều thấy vẻ mặt luôn tươi cười. Đó là phương tiện dẫn dụ quần sanh, khiến cho họ dần dần giác ngộ.

      Kỳ đức quảng đại, bất Nhị Thừa (tức phi Nhị Thừa) sở năng vi, cố ngôn thiện lập” (đức ấy họ rộng lớn, chẳng phải là hàng Nhị Thừa có thể làm được, nên nói là “khéo lập”). Người Nhị Thừa chẳng làm được, người Nhị Thừa trí huệ chưa khai, họ có Giới và Định, nhưng trí huệ chưa khai. Bồ Tát có Giới,Định, trí huệ cũng đă khai, nên phương tiện thiện xảo, cho nên có thể dẫn dụ chúng sanh, đều có thể đối xử ḥa thuận với hết thảy chúng sanh, quyết định chẳng phát sanh xung đột với hết thảy chúng sanh. Lúc tôi vừa mới đến Úc, khi ấy, thường trở về Tân Gia Ba, giảng kinh tại Tân Gia Ba mỗi năm vài lần. Ở Úc cũng có hội nghị tôn giáo nhằm đoàn kết tôn giáo do chánh phủ tổ chức. một viên chức địa vị không cao, giống như khoa trưởng[1] của khoa tôn giáo, địa vị chẳng cao lắm! Mỗi tháng, họ triệu tập đại biểu của các tôn giáo khác nhau đến họp, cùng họp lại nghiên cứu, thảo luận: “Tôn giáo hỗ trợ hợp tác như thế nào?” Tôi di dân đến Úc, tham gia hội nghị này, mỗi tháng họp hành, tôi nhất định đến tham dự. Đối với các tôn giáo khác nhau, chúng tôi đối đăi với nhau rất khá. Họ thường tranh luận một vấn đề: “Rốt cuộc Phật giáo là ǵ?” Chúng tôi bảo họ: “Phật giáo giáo dục”. Thích Ca Mâu Ni Phật suốt đời giáo học. Giống như trong một quốc gia, Phật giáo chuyên lo giáo dục, làm công tác giáo dục. Tôi nói: [Phật giáo] chẳng xung đột với quư vị, Thượng Đế của quư vị trông nom việc hành chánh, giống như người đứng đầu một đất nước. Chúng tôi cũng chẳng phải là bộ trưởng giáo dục, chúng tôi là dân thường, giống như Khổng lăo phu tử, là giáo học dân gian. Giúp đỡ, thành tựu quư vị, Phật giáo chẳng phản đối bất cứ tôn giáo nào. Phật giáo thừa nhận thần của quư vị, giống như thừa nhận người lănh đạo quốc gia; nhưng Phật giáo chẳng tham gia chánh trị, mà là một loại giáo học dân gian. Họ nói: “Người sau khi chết đi th́ sao?” “Chúng tôi lên thế giới Cực Lạc”. Họ nói: “Người sau khi đă chết th́ ai là người phán quyết cuối cùng?” Tôi nói quyền phán quyết là Thượng Đế, h rất hoan hỷ. Tôi nói Phật giáo chẳng phán quyết người khác, Phật giáo chỉ dạy bảo con người, chỉ dạy người ta đoạn ác, tu thiện, chứ Phật giáo chẳng xét đoán con người. Trong Phật giáo chẳng t́m được chuyện phán quyết. V́ thế, chúng tôi đối xử với nhau rất vui vẻ, tôn trọng họ, quư vị là người lănh đạo quốc gia, quư vị là bộ trưởng Tư Pháp. Tôi nói Phật giáo chẳng vậy, Phật giáo là giáo học dân gian. Dạy những ǵ? Dạy người ta đoạn ác, tu thiện. Trong kinh điển của họ đều có những chuyện này. Từ từ, những sự đối lập giữa các tôn giáo dần dần được hóa giải.

      Khi chúng tôi tiến hành hoạt động tôn giáo trên quốc tế, nhất là những hoạt động ḥa b́nh của Liên Hiệp Quốc, tôi luôn mời các tôn giáo cùng đi, cùng nhau tham gia. Tại đại hội Liên Hiệp Quốc, chúng tôi biểu diễn một chút, các tôn giáo nắm tay nhau, cầu nguyện cho thế giới ḥa b́nh. Chính họ vui vẻ, mà đơn vị đứng ra tổ chức cũng vui vẻ. Điều khó có là có nhiều tôn giáo bất đồng như vậy đến cầu nguyện cho ḥa b́nh, chuyện này hay lắm! Đặc biệt Phật giáo, thể nói Phật giáo giáo dục dân gian. Hành trạng suốt một đời đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Khổng Tử hết sức giống nhau, chúng ta phải nhận biết rơ ràng điều này. Dùng phương thức giáo dục để giúp đỡ quốc gia, giúp hội an định, giúp xă hội ḥa hài, giúp đỡ chúng sanh giác ngộ. Đối với người căn tánh nhạy bén, bèn giúp đỡ họ tr về tự tánh. Do vậy, chúng ta phải nhận thức rơ rệt, Phật giáo chẳng phải là mê tín, phải uốn nắn cho đúng quan niệm sai lầm của người đời đối với Phật giáo. Uốn nắn chẳng phải là nói suông, mà phải nêu gương cho người khác nh́n vào. Các đồng tu của Tịnh Tông Học Hội có sứ mạng này. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tập tới chỗ này!

 

Tập 120

     

      Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Lượng Thọ Kinh Giải, trang một trăm ba mươi chín, ḍng thứ tư từ dưới đếm lên, xem từ chính giữa, xem từ chữ “tam thừa”:

      Tam thừa giả, thừa giả, xa dă. Tứ Giáo Nghi Tập Chú viết: Thừa dĩ vận tải vi nghĩa, vận xuất tam giới, quy ư Niết Bàn” (Tam thừa: Thừa là cỗ xe. Sách Tứ Giáo Tập Nghi Chú[2] giảng: “Thừa có nghĩa là chuyên chở, chuyên chở thoát khỏi tam giới, trở về Niết Bàn”). Chúng tôi giải thích đoạn này. Câu này [nhằm giải thích một câu] trong kinh văn là “thiện lập phương tiện, hiển thị tam thừa”. Chúng ta đă học về “thiện lập phương tiện”, nay xem đến Tam Thừa. Chữ Thừa () đọc theo cổ âm là Thặng, hiện thời đọc là Thừa; đọc Thặng mọi người đều chẳng biết nghĩa là ǵ, có lẽ có người nói chúng ta đọc sai, nên thuận theo tập tục [mà đọc là Thừa]! Thừa cỗ xe. Trong Tứ Giáo Nghi Tập Chú có một câu giải thích như thế này: Thừa là cỗ xe, xe có ư nghĩa chuyên chở, ở đây dùng ư nghĩa ấy. Vận xuất tam giới, quy ư Niết Bàn” (chở ra khỏi tam giới, trở về Niết Bàn). Phật pháp dùng Thừa làm tỷ dụ, giống như cỗ xe, Phật pháp có thể giúp chúng ta vượt khỏi tam giới, giống như chúng ta ngồi xe có thể đi xa, mang ư nghĩa này. Tam giới lục đạo luân hồi, nói “tam giới” hay nói “lục đạo”, ư nghĩa hoàn toàn giống nhau. Tam giới Dục Giới, Sắc Giới, Sắc Giới. Dục Giới có sáu tầng trời, dưới Tha Hóa Tự Tại Thiên có sáu tầng trời, kể cả A Tu La đạo, nhân đạo, súc sanh đạo, ngạ quỷ, địa ngục đều thuộc về Dục Giới. họ chẳng ĺa khỏi năm thứ ham muốn là “tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ”, nên gọi là Dục Giới. Dục Giới càng lên cao, ngũ dục càng nhạt ít, càng đi xuống, càng nghiêm trọng. Chúng ta chớ nên không biết điều này!

      Hễ liễu giải chúng ta bèn hiểu rơ: Mong vượt thoát, nhất định phải buông ngũ dục lục trần xuống. Tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ là ngũ dục. Lục trần đối tượng tiếp xúc của sáu căn; mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ư sáu căn, đối tượng tiếp xúc sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Ư là ư niệm, ư đối ứng với Pháp Trần. Những thứ này đều phải nhạt bớt, càng nhạt bớt càng hay! Thật sự có thể buông xuống, sẽ vượt thoát Dục Giới, đến nơi đâu? Đến Sắc Giới. Chư vị phải hiểu Sắc Giới có mười tám tầng trời, đó là chư thiên. Chư thiên Sắc Giới trọn chẳng đoạn dục, chư vị phải biết điều này. V́ sao họ chẳng có dục? Họ có công phu Thiền Định. Khi họ nhập Định, Định có công năng chế ngự ngũ dục, lục trần, nên họ là Phục Đoạn (đoạn trừ bằng cách chế phục), chẳng phải là Diệt Đoạn (đoạn trừ sạch sành sanh), nhưng họ có Sắc. Lên cao hơn là Sắc Giới Thiên, đây là tầng cao nhất trong lục đạo. Sắc Giới th́ ngay cả nhục thân cũng chẳng có, chữ Sắc chỉ thân thể vật chất hiện tượng vật chất. Do vậy có thể biết, trong bốn tầng trời của Vô Sắc Giới, chỉ có hiện tượng tinh thần tồn tại, chẳng có vật chất, chẳng có nhục thân vật chất, cũng chẳng có những kiến trúc vật chất, quư vị đều chẳng nh́n thấy. Chúng ta thường gọi những cơi trời ấy là “linh giới”, linh hồn của họ tồn tại. Đó là phàm phu cao cấp.

      Sắc Giới Thiên tuy khá lắm, nhưng chẳng vượt thoát tam giới, tức là chẳng vượt thoát lục đạo luân hồi. Sắc Giới Thiên tốt đẹp, trong ấy gần như là Niết Bàn. Niết Bàn bất sanh, bất diệt, cơi trời ấy giống như Niết Bàn, nhưng chẳng phải là Niết Bàn thật sự. Chư thiên Sắc Giới đạt tới cảnh giới cao nhất trong Tứ Thiền Bát Định, tưởng lầm Vô Sắc Giới ThiênNiết Bàn. Sắc Giới Thiên vẫn có thọ mạng, thọ mạng dài nhất là tám vạn đại kiếp, thời gian ấy thật dài. “Đại kiếp”: Một đại kiếp là một lần “thành, trụ, hoại, không” của thế giới này, đủ thấy thế giới này thường. Một lần thành - trụ - hoại - không gọi là một đại kiếp. Thành - trụ - hoại - không tám vạn lần, quư vị nghĩ xem, thời gian ấy dài lắm! Tuy dài, rốt cuộc vẫn có ngày chấm dứt, đến ngày ấy, họ đánh mất công năng Thiền Định. Công năng Thiền Định vừa mất đi, phiền năo bèn hiện tiền. Ư niệm sai lầm đầu tiên là kẻ ấy tưởng lầm [Vô Sắc Giới Thiên] bất sanh, bất diệt; cớ sao lại có sanh diệt? [Do hiểu lầm], bèn hủy báng thánh hiền. Thánh hiền đă nói Niết Bàn bất sanh, bất diệt”, nay kẻ ấy đă mất công năng Thiền Định, phiền năo hiện hành, bèn nghĩ các vị thánh hiền lừa gạt họ, ư niệm ấy chính là đại bất kính đối với các vị thánh hiền. Đại bất kính đối với thầy, đối với thánh hiền th́ tội nghiệt ấy có cùng mức độ với tội bất hiếu với cha mẹ. Nếu kẻ nào bất hiếu với cha mẹ, không tôn trọng thánh hiền, quả báo là trong địa ngục A Tỳ. Do đó, quư vị thấy trèo lên cao nhất, trèo đến tầng trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, té lộn nhào xuống cũng nặng nhất, rơi xuống địa ngục A Tỳ, cầu làm thân người chẳng được! Trong kinh điển, đức Phật giảng chuyện này rất nhiều, và cũng giảng rất rơ ràng. Dụng ư nhằm đặc biệt nhắc nhở chúng ta, chúng ta mong thành Phật, chúng ta phải sanh về Tây Phương Tịnh Độ, đừng cầu thiên đạo! Đạt đến chỗ cao nhất trong thiên đạo, vẫn chẳng thể giải quyết vấn đề! Hai mươi tám tầng trời chẳng thể giải quyết vấn đề, huống hồ Dục Giới! Người b́nh phàm sanh lên trời, tuyệt đại đa số đềusanh trong Tứ Vương Thiên hoặc Đao Lợi Thiên, sao? T́nh chấp và dục vọng chưa đoạn, khá hơn người b́nh phàm chúng ta một chút, nhạt bớt một chút, nhưng chưa đoạn, nên họ tiến cao hơn vô cùng khó khăn! Đó là ư nghĩa của tam giới. “Vận xuất tam giới” (chở thoát ra tam giới), nương theo Phật pháp tu hành, có thể vượt thoát tam giới, quy ư Niết Bàn” (trở về Niết Bàn). Tiểu Niết Bàn, chẳng phải là Niết Bàn thật sự, mà là Tương Tự Niết Bàn, là s chứng của A La Hán, vượt thoát tam giới là chứng đắc [của hàng A La Hán], điều này trong phần sau chúng tôi sẽ c̣n nhắc tới.

      Chúng ta lại xem phần tiếp theo: Hựu dụ như vận tải công cụ, sử nhân thừa chi các đáo kỳ quả địa, Pháp Hoa dĩ dương, lộc, ngưu chi tam xa, dụ Tiểu, Trung, Đại tam thừa. Tiểu giả, Thanh Văn Thừa. Trung giả, Duyên Giác Thừa. Đại giả, Bồ Tát Thừa” (lại ví như công cụ vận tải, khiến cho người ngồi trên đó ai nấy đều đạt đến quả địa. Kinh Pháp Hoa lấy ba loại xe dê, nai, trâu để sánh ví ba thừa Tiểu, Trung, Đại. Tiểu Thanh Văn Thừa. TrungDuyên Giác Thừa. Đại là Bồ Tát Thừa). Đoạn này giảng rơ hơn sách Tứ Giáo Nghi, đây chính là những điều được nói trong kinh Pháp Hoa. Kinh Pháp Hoa nói “tam thừa” là ba cỗ xe. Xe chính là ư nghĩa của Thừa. Nói đến ba loại xe, xe dê, xe nai và xe trâu. Xe dê thời cổ rất nhỏ, chỉ có thể chở được một người. Xe nai lớn hơn một chút, có thể ngồi hai người. Xe trâu rất lớn, đại khái thể ngồi năm, sáu người. Trên thực tế, kinh Pháp Hoa nói “đại bạch ngưu xa” th́ Đại Bạch Ngưu Xa chính là xe ngựa trong hiện tại[3]. Hiện thời, công cụ giao thông này chẳng c̣n nữa, được thay thế bằng xe hơi. Thời xưa, đừng nói là rất xưa, ngay trong lứa tuổi của tôi, nhằm lúc tôi học Tiểu Học và Trung Học, chúng tôi cũng ngồi xe ngựa. Tôi c̣n nhớ, lúc học Tiểu Học, ngồi xe ngựa; lũ học tṛ bé, một xe ngựa có thể ngồi được mười bốn, mười lăm đứa. Dùng chuyện này để tỷ dụ nó có thể chuyên chở bao nhiêu người, mà nói là Đại, Trung, Tiểu. Xe nhỏ ví như Thanh Văn, Thanh Văn A La Hán, A La Hán gọi Tiểu Thừa. Người Tiểu Thừa chỉ cầu tự độ, chẳng phát tâm giúp đỡ người khác. Trung Thừa Duyên Giác, tức Bích Chi Phật, thông minh hơn A La Hán, nhưng tâm lượng cũng chẳng lớn lắm. Chẳng phải là thiếu tâm từ bi, mà là tâm từ bi chẳng to lớn. Q vị đến t́m họ, nếu h thích quư vị th́ sẽ có thể dạy quư vị, do có duyên với quư vị. Họ chẳng thích th́ sẽ không ngó ngàng tới quư vị. Đó là Thanh Văn và Duyên Giác. Bồ Tát khác hẳn, quư vị không đi t́m các Ngài, mà các Ngài chủ động đến dạy quư vị. Các Ngài chẳng có tâm phân biệt, chẳng có tâm ưa ghét, nên Bồ Tát được gọi là Đại Thừa.

      Trong phẩm Thí Dụ của kinh Pháp Hoa có một đoạn như thế này: Như Lai hữu vô lượng trí huệ, lực, vô sở úy, chư pháp chi tạng, năng dữ nhất thiết chúng sanh Đại Thừa chi pháp” (Như Lai có vô lượng trí huệ, lực, vô sở úy, các pháp tạng, có thể ban cho hết thảy chúng sanh pháp Đại Thừa), chữ Đại Thừa chỉ Nhất Phật Thừa, “đản bất năng tận thọ” (nhưng [chúng sanh] chẳng thể nhận lănh hết được). Tuy đức Phật rất từ bi, nhưng pháp Nhất Thừa là phương pháp thành Phật, người b́nh phàm chẳng thể tiếp nhận. Lợi Phất”, câu này nói với ngài Lợi Phất, thị nhân duyên, đương tri chư Phật phương tiện lực cố, ư nhất Phật Thừa, phân biệt thuyết tam” (do nhân duyên ấy, hăy nên biết chư Phật do sức phương tiện, đối với Nhất Phật Thừa mà phân biệt nói thành ba), tam thừa do vậy mà có. Phật tâm b́nh đẳng, Phật nguyện rộng sâu, Phật mong mỏi hết thảy chúng sanh đều có thể thành Phật. V́ thế, trong giáo pháp Đại Thừa, đức Phật thường nói: Hết thảy chúng sanh vốn Phật. Phật giúp đỡ chúng sanh, nhất định dạy họ trở về tự tánh. Trở về tự tánh bèn thành Phật, [bởi lẽ], họ vốn Phật. mất tự tánh, chẳng quay về được! Muốn trở về cũng chẳng phải là chuyện đơn giản như thế, vẫn chẳng thể trở về, đó là phàm phu trong lục đạo. Lục đạo phàm phu, nhân gian, Dục Giới Thiên chẳng mong trở về, nhưng Sắc Giới Thiên Sắc Giới Thiên thật sự muốn quay về! Họ muốn quay về mà cũng chẳng về được, huống ǵ các phàm phu trong Dục Giới! Đức Phật bất đắc dĩ, phân biệt Nhất Phật Thừa thành ba giai đoạn, mỗi giai đoạn sau nâng cao hơn giai đoạn trước. Điều này giống như mở trường học, thầy và cha mẹ đều hy vọng học tṛ đứa nào cũng đạt được học vị Tiến Sĩ, đấy Phật tâm. Nhưng phải là ai nấy đều đạt được hay không? Chẳng phải! Chẳng phải là người nào cũng đều thể đạt được; do vậy, nhà trường mới lập ra ba học vị, có Học Sĩ, Thạc Sĩ, và Tiến Sĩ, khá giống với tam thừa!

      Mấy câu trong phần trước nói về Như Lai, nhưng trên thực tế là nói về chính ḿnh. Như Lai có vô lượng trí huệ, Ngài chẳng nói “Phật, chẳng nói “chư Phật có vô lượng trí huệ, nói “Như Lai”. Kinh Đại Thừa nóichư Phật” th́ quá nửa là nói theo tướng; nóiNhư Lai” đều là nói theo tánh. Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật dạy: Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ đức tướng của Như Lai”, nói Như Lai, chẳng nói Phật! Nói Như Lai là nói theo tự tánh. Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh; đăPhật tánh, đương nhiên có thể thành Phật. Trong Phật tánh có vô lượng trí huệ, có vô lượng lực. Lực ǵ? Năng lực, nay chúng ta gọi [năng lực] là “tài nghệ”. Có vô lượng tài nghệ, quư vị có năng lực. Trong kinh Phật có nói: C Phật Như Lai có mười thứ năng lực, mười tượng trưng cho sự viên măn, không phải con số, đúng là “không ǵ chẳng biết” là t huệ, khôngchẳng thể” mười lực. Mười lực tượng trưng cho “không ǵ chẳng thể”, chẳng có ǵ không làm được! sở úy là bốn thứ không sợ hăi. Chư pháp chi tạng, năng dữ nhất thiết chúng sanh Đại Thừa chi pháp” (tạng các pháp có thể ban cho hết thảy chúng sanh pháp Đại Thừa), đức Phật có năng lực ấy, có năng lực giúp đỡ hết thảy chúng sanh chứng đắc Phật quả rốt ráo trong một đời. Nói theo lư luận, phàm phu thành Phật mất thời gian bao lâu? Trong một niệm! Một niệm giác, phàm phu bèn thành Phật. Một niệm mê, quư vị phàm phu. Câu này hoàn toàn là lời thật. Một niệm ấy niệm? Theo cuộc đối thoại giữa Thích Ca Mâu Ni Phật Di Lặc Bồ Tát, trong một cái khảy ngón tay có ba mươi hai ức trăm ngàn niệm, [một niệm bất giác” vừa nói trên đây] chính là một niệm trong [một cái khảy ngón tay]. Chỉ cần một niệm giác, phàm phu bèn thành Phật, bất giác th́ chẳng có cách nào. Trong tựa đề kinh này cũng chỉ rơ tam thừa, quư vị thấy tựa đề kinh, về phần tu nhân là thanh tịnh, b́nh đẳng, giác. Thanh tịnh là Tiểu Thừa, Tiểu Thừa bao gồm cả Duyên Giác; b́nh đẳng Đại Thừa, Bồ Tát, chữ Giác sau cùng là Nhất Thừa, đó là thành Phật. vậy, kinh này cũng là đức Thế Tôn v́ hết thảy chúng sanh hiển thị tam thừa.

      Chúng ta tu học, nếu đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh trong một đời này, vấn đề ấy đă được giải quyết, bèn thành Phật. Nếu chẳng đạt được cảnh giới này, hăy tùy phần tu học, cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Tây Phương Cực Lạc thế giới có bốn cơi, ba bậc, chín phẩm. Tây Phương Cực Lạc thế giới nơi A Di Đà Phật lập trường học. Trường ǵ vậy? Trường dạy phàm phu thành Phật, bảo đảm quư vị thành Phật. Điều này rất khó có, một phẩm phiền năo chưa đoạn mà vẫn có thể văng sanh, sanh vào cơi Phàm Thánh Đồng Cư trong thế giới Cực Lạc, một phẩm phiền năo cũng chẳng đoạn đấy nhé! Thật sự đoạn mấy phẩm phiền năo, chẳng hạn như các loại phiền năo nặng nhất và thô nhất trong Kiến Tư phiền năo Thân Kiến, Biên Kiến, Kiến Thủ Kiến, Giới Thủ Kiến, Tà Kiến, trong phần trước đă giảng rất nhiều. Năm loại Kiến Hoặc ấy tất cả là tám mươi tám phẩm. Đoạn hết tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc ấy chính là Tiểu Thừa Tu Đà Hoàn, tức là Tiểu Thừa Quả, người như vậy văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng ở trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư. sao? Người ấy chẳng phải là phàm phu. Nói theo thế gian này, người ấy là thánh nhân, là bậc thánh nhân nhỏ nhoi, chẳng phải là phàm phu. Bậc thánh nhân nhỏ nhoi tuy vị trí rất thấp, nhưng cao minh hơn bọn lục đạo phàm phu chúng ta quá nhiều. Sau khi vị ấy chứng đắc Quả, Ngài có năng lực, trong lục đạo luân hồi, qua lại bảy lần trên cơi trời hoặc trong nhân gian, chắc chắn chẳng đọa trong tam ác đạo, bảo đảm chuyện này! Và cũng chỉ có bảy lần, chẳng có lần thứ tám, [chỉ là] bảy lần, chắc chắn vượt thoát tam giới lục đạo, chứng quả A La Hán. Người n vậy văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, sanh về cơi Phương Tiện Hữu Dư, chẳng ở trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, đóTiểu Thừa. nơi đây tu đến cảnh giới Tiểu Thừa, văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, bèn sanh trong cơi Phương Tiện. Nếu nơi đây, chúng ta tu hành đạt tới cảnh giới Bồ Tát, văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, sẽ chẳng sanh vào cơi Phương Tiện Hữu Dư, sanh trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm, địa vị b́nh đẳng với các vị Pháp Thân Bồ Tát trong cơi Thật Báo thuộc Tịnh Độ của chư Phật Như Lai. Trong Phật giáo Trung Quốc, những người ấy là những v được Thiền Tông gọi là “đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh”, Giáo Hạ gọi họ là “đại khai viên giải”, trong Tịnh Độ Tông gọi là “Lư nhất tâm bất loạn”. Chứng đắc Lư nhất tâm bất loạn, sanh vào cơi Thật Báo. Đến thế giới Cực Lạc, chứng Thường Tịch Quang, Thường Tịch Quang là trở về tự tánh viên măn.

      Bổn nguyện của đức Phật đích xác là hy vọng mỗi cá nhân chúng ta đều có thể viên thành Phật đạo ngay trong một đời. Phàm phu viên thành Phật đạo trong một đời th́ chỉ có pháp môn này. Phật pháp nói tám vạn bốn ngàn pháp môn, bất cứ pháp môn nào quư vị cũng đều chẳng thể thành tựu trong một đời! Chpháp môn Niệm Phật Văng Sanh này là thật sự thành tựu ngay trong một đời! Trong đời này, chúng ta có thể gặp g pháp môn này, [quả thật] chẳng dễ dàng. Đă gặp gỡ th́ nhất định phải quư trọng, phải nắm chặt pháp này, ngàn vạn phần chớ nên khinh dễ bỏ qua; [nếu bỏ lỡ] th́ chính là lầm lẫn quá đỗi! Gặp được pháp môn này, đúng như cổ đại đức đă nói: Trăm ngàn vạn kiếp khó gặp gỡ”. Vào đời Thanh trước kia, ông Bành Tế Thanh đă nói: “Hy hữu khó gặp từ vô lượng kiếp đến nay”, ông ta nói pháp môn này hiếm có, khó gặp trong vô lượng kiếp! Đời này, quư vị gặp gỡ, hăy nắm vững nó, pháp môn này vạn người tu, vạn người đến”, câu này do Thiện Đạo đại sư nói, chẳng phải là lời giả! Nhưng học Phật, bất luận học pháp môn nào, nói chung, nhất định phải biết buông xuống. Buông những ǵ xuống? Buông phiền năo xuống, buông tập khí xuống. C đại đức thường dạy chúng ta, hễ điều ǵ chẳng mang theo được, bèn buông xuống. Chúng ta suy ngẫm, người đă chết có thể mang theo ǵ vậy? Tài sản của quư vị chẳng mang theo được, thân t́nh chẳng mang theo được, tước vị chẳng mang theo được, k cả thân thể của quư vị cũng chẳng mang theo được! Phải hiểu rơ chỗ này. Chẳng mang theo được th́ hăy buông xuống, đó là giả, chẳng thật. Điều nào mang theo được th́ quư vị bèn đổ công dốc sức nơi đó. Đức hạnh mang theo được, công đức thể mang theo được. Tŕ giới hữu công, tam-muội đức, tam-muội Thiền Định. Thiền Định Công, khai trí huệ Đức, những điều này có thể mang theo được. Ngược lại, những tội nghiệp do quư vị đă tạo cũng có thể mang theo. Nếu mang theo một thân tội nghiệp, đời sau sẽ sanh trong tam ác đạo. Suốt đời này, quư vị làm rất nhiều chuyện tốt, những chuyện ấy cũng có thể mang theo được. Do những chuyện tốt ấy, đời sau sanh lên trời, nhưng đều chẳng bằng buông xuống vạn duyên, nhất tâm niệm Phật. Niệm Phật có thể mang theo được, niệm Phật có thể văng sanh Tịnh Độ. Do vậy, phải thường nghĩ tới những ǵ có thể mang theo được, chúng ta nghiêm túc nỗ lực thực hiện. Học tập kinh giáo giúp chúng ta khai ngộ. Chúng ta đọc kinh Lượng Thọ, học tập kinh Lượng Thọ, tăng trưởng sự hiểu biết đối với Tây Phương Cực Lạc thế giới, thật sự nhận biết rơ ràng, minh bạch, tín tâm mới có thể kiên định, nguyện tâm chẳng lùi; đó là điều kiện ắt phải hội đủ ḥng văng sanh thế giới Cực Lạc.   

      Tiếp đó, chúng ta lại xem [những lời giảng giải về] phương tiện, thiện lập phương tiện”: “Hựu, Pháp Hoa Văn viết: ‘Phương tiện giả, môn dă’ (lại nữa, sách Pháp Hoa Văn Cú nói: “Phương tiện là cửa”). Đây là tỷ dụ. “Vị chân thật tác môn, chân thật đắc hiển, công do phương tiện. Y thử thích, tắc Tiểu Thừa vi nhập Đại Thừa chi môn, cố vị chi phương tiện giáo. Hựu, tam thừa vi thông ư Nhất Thừa, cố diệc danh phương tiện giáo. Dĩ thượng kinh luận, chánh hiển ‘thiện lập phương tiện, hiển thị tam thừa’ chi chỉ” (làm cửa để thâm nhập chân thật, hiển lộ được sự chân thật, toàn do công của phương tiện. Theo cách giải thích này, Tiểu Thừa là cái cửa để vào được Đại Thừa, nên Tiểu Thừa được gọi là giáo pháp phương tiện. Hơn nữa, do tam thừa thông với Nhất Thừa, nên tam thừa cũng gọi là giáo pháp phương tiện. Những đoạn kinh, luận trên đây thật sự tỏ rơ yếu chỉ “thiện lập phương tiện, hiển thị tam thừa”). Phương phương pháp, Tiện” là thuận tiện. Nói cách khác, là phương pháp rất thích hợp, phương pháp tốt nhất, phương pháp mầu nhiệm nhất. Trong Phật pháp, thường dùng chữ “thiện xảo”, “thiện xảo phương tiện. Do vậy, phương tiện chẳng phải là phương pháp nhất định; do mỗi người mỗi khác, do mỗi chuyện mỗi khác, tùy thuộc vào đó mà biến hóa vô cùng. Khéo dùng phương tiện là trí huệ; thiếu trí huệ sẽ chẳng biết dùng. Trong những người có trí huệ, Phật bậc trí huệ viên măn. Như Lai có vô lượng trí huệ, nên phương tiện môn của Ngài cũng là lượng vô biên, vô lượng phương tiện! Sánh ví phương tiện như cửa, cửa có ư nghĩa “có thể tiến vào”. V́ sao? Vị chân thật tác môn” (làm cửa để thâm nhập sự chân thật). Tông môn gọi “chân thật” là minh tâm kiến tánh, đó là chân thật. Chân là chẳng giả, Thật là chẳng dối. Trong kinh Đại Thừa, đức Phật dạy: Phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”, hư vọng chẳng phải là chân thật, chân thật chẳng phải là vọng. Chân thật ǵ? Chân thật tự tánh, chỉ có điều này chân thật. Vũ trụ do nó biến hiện, vạn pháp cũng do biến hiện. Do v́ tự tánh thể sanh, có thể hiện, nên là thật, c̣n những cái được sanh, được hiện chẳng thật. Thật ra, cái được sanh, cái được hiện sanh diệt trong từng sát-na, sát-na chẳng trụ. Trong kinh Phật, thường thấy có câu như vậy. “Sát-na chẳng trụ” là sanh diệt trong từng sát-na, chẳng thật, chỉ có tự tánh là bất sanh, bất diệt. V́ thế, ngôn ngữ cổ của Ấn Độ là tiếng Phạn, gọi [bất sanh bất diệt] là Niết Bàn. Niết Bàn nghĩa là “bất sanh, bất diệt, chân thật”. “Chân thật đắc hiển”: Quư vị thấu hiểu, chứng đắc. Công là có phương tiện, công phu là phương tiện; phương tiện có công, chân thật bèn hiển hiện. Nếu quư vị chẳng từ phương tiện môn, quả thật chẳng có cách nào minh tâm kiến tánh!

      Theo cách giải thích này, tiếp đó bèn nói: Tắc Tiểu Thừa vi nhập Đại Thừa chi môn” (Tiểu Thừa là cửa để nhập Đại Thừa), đó là pháp phương tiện. Thuở đức Phật tại thế, tiếp nhận lời thỉnh pháp của chư thiên trời Tịnh Cư, họ thỉnh đức Phật trụ thế, thỉnh Ngài chuyển pháp luân, tứcthỉnh Thích Ca Mâu Ni Phật hăy trụ trong thế gian giáo hóa chúng sanh. Thích Ca Mâu Ni Phật nhận lời. Sau khi đă nhận lời, bèn bắt đầu giáo học. Đầu tiên là những người hữu duyên. Ngài rời khỏi gia đ́nh, đi tham học bên ngoài, cha mẹ Ngài rất quan tâm, sai năm người đi theo chăm sóc. Năm vị ấy ở Lộc Dă Uyển. Sau khi đức Phật khai ngộ, rời cội Bồ Đề, đến Lộc Uyển t́m năm người ấy. T́m được năm người ấy, bèn giảng cho h nghe pháp Tứ Đế, giảng Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Năm người nghe xong, tôn giả Kiều Trần Như giác ngộ, chứng Tứ Quả La Hán. Do căn tánh khác nhau, căn tánh của năm người không giống nhau, có người chứng Quả, có người chứng Nhị Quả, chỉ riêng ngài Kiều Trần Như chứng Tứ Quả. Chứng Tứ Quả cũng Kiến Tư phiền năo thảy đều buông xuống, kinh Hoa Nghiêm gọi [Kiến Tư phiền năo] là chấp trước. Đối với pháp thế gian và xuất thế gian đều chẳng chấp trước, đắc thanh tịnh tâm. Đối với thanh tịnh” như trong tựa đề kinh này, Ngài đắc thanh tịnh tâm, thành A La Hán, đó là pháp phương tiện. Lại giúp cho vị ấy đắc tâm b́nh đẳng, cuối cùng, giúp vị ấy đại triệt đại ngộ. Quư vị thấy đó, đều là nói rơ: Dùng phương tiện hướng dẫn vị ấy hiển lộ sự chân thật, nên là giáo pháp phương tiện. Tam Thừa, tức Tiểu Thừa, Trung Thừa, Bồ Tát Thừa, cuối cùng đều đạt tới Nhất Thừa, nên giáo pháp Tam Thừa c̣n được gọi là Phương Tiện Giáo. Cụ Hoàng Niệm Tổ nêu ra những cách nói trong các kinh luận; sau đó, kết luận: “Dĩ thượng kinh luận” (các kinh luận trên đây), [tức là] các kinh luận được trích luận ở đây, chánh hiển thiện lập phương tiện, hiển thị Tam Thừa chi chỉ” (thật sự tỏ rơ yếu chỉ “thiện lập phương tiện, hiển thị tam thừa”). “Chỉ” () là tông chỉ (宗旨). Tông chỉ là mục tiêu chủ yếu, nhắm đến Nhất Thừa, chúng ta nhất định phải biết điều này. Đức Phật giáo hóa chúng sanh, sở hành trong cả đời Ngài toàn giáo pháp phương tiện, mục tiêu chung cực giúp quư vị thành Phật, lấy chứng đắc Phật quả rốt ráo viên măn” làm mục tiêu giáo học chung cực. Từ chỗ này, chúng ta mới thật sự thấu hiểu ḷng t bi vô tận của c Phật Như Lai đối với hết thảy chúng sanh. Các Ngài giúp đỡ chúng ta chẳng phải là giúp chúng ta đến một giai đoạn rồi thôi, các Ngài một mực giúp cho chúng ta đạt đến rốt ráo viên măn. Những điều trên đây là tướng thứ bảy, tức Chuyển Pháp Luân, giảng tới đây [là xong].

      Tiếp theo đó là tướng thị hiện cuối cùng trong tám tướng thành đạo, tức là nhập Niết Bàn”. “Ư thử trung hạ, nhi hiện diệt độ” (trong hàng trung hạ căn, thị hiện diệt độ). Diệt Độ Niết Bàn. Chúng ta đọc lời chú giải của cụ Niệm Tổ: Trung hạ, cứ Ngụy dịch Tích Sa Tạng bổn dữ Cao Ly Tạng bổn” (Chữ “trung hạ” dựa theo bản Ngụy dịch trong các bản Tích Sa Tạng[4] và Cao Ly Tạng[5]). Hai chữ “trung hạ” vốn căn cứ trên bản dịch của ngài Khang Tăng Khải. Tích Sa Tạng là bản in [kinh Đại Tạng] đời Tống, và bản chép trong Cao Ly Tạng đều có hai chữ “trung hạ”, tức “ư thử trung hạ”. Tiếp đó, cụ có giải thích trung hạ” là ǵ, “nhi hiện Niết Bàn” thị hiện diệt độ. Nói cách khác, Ngài chẳng nói đến bậc thượng, chẳng nói tới thượng thượng. V́ sao? Người thượng thượng căn đă biết Thích Ca Mâu Ni Phậthiện Bát Niết Bàn hay không? Chẳng có! Kẻ căn tánh trung hạ thấy Thích Ca Mâu Ni Phật nhập Bát Niết Bàn. “Thử thị bát tướng thành đạo trung chi đệ bát, Bát Niết Bàn tướng (đây là tướng thứ tám trong tám tướng thành đạo, tức là tướng Bát Niết Bàn), đây là tướng nhập diệt của Thích Ca Mâu Ni Phật. Niết Bàn (Nirvāṇa), tiếng Phạn, tức ngôn ngữ của Ấn Độ [cổ đại], cựu dịch vi Diệt Độ, tân dịch vi Viên Tịch (dịch theo lối cổ là Diệt Độ, dịch theo lối mới là Viên Tịch). Chúng ta phải hiểu ư nghĩa hai chữ Tân và Cựu này. Cựu dịch” [cách dịch thuật] trước thời Huyền Trang đại sư, do các vị cổ đại đức phiên dịch. Các Ngài dịch Niết Bàn là Diệt Độ, ư nghĩa cũng rất hay. Diệt () ǵ? Diệt phiền năo, Độ () độ sanh tử” (vượt thoát sanh tử), độ luân hồi. Diệt Kiến Tư phiền năo, Độ vượt thoát. Vượt thoát tam giới lục đạo, diệt Trần Sa phiền năo, diệt Vô Minh phiền năo, vượt thoát mười pháp giới, quư vị mới có thể đạt tới. Độ là đạt đến, đạt đến cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai. Diệt ư nghĩa sau đây: Diệt phiền năo, diệt ba thứ phiền năo, tức Kiến, Trần Sa, Vô Minh. “Tân dịch” [cách dịch tuân theo quy định của] Huyền Trang đại sư, những kinh được phiên dịch từ thời Huyền Trang đại sư trở đi gọi là Tân Dịch. Họ dịch hai chữ Niết Bàn thành Viên Tịch, cách dịch này rất hay. Viên () là viên măn, Tịch () thanh tịnh tịch diệt, mang ư nghĩa này. Kế đó là: “Diệt độ giả, diệt sanh tử chi nhân quả, độ sanh tử chi bạo lưu (Diệt độ là diệt nhân quả sanh tử, vượt thoát ḍng nước lũ sanh tử), bạo lưu (瀑流) tỷ dụ, giống như sóng to, là cảnh giới sóng to gió lớn, tức là nói đến sự sanh tử trong lục đạo.

      Niết Bàn kinh viết: Diệt chư phiền năo, danh vi Niết Bàn. Ly chư hữu giả, danh vi Niết Bàn” (Kinh Niết Bàn nói: “Diệt các phiền năo, gọi là Niết Bàn. Ĺa các hữu gọi là Niết Bàn”). Điều này chẳng khác các ư nghĩa vừa nói cho lắm. Diệt chư phiền năo” là nói [diệt trừ] Kiến Tư phiền năo, Trần Sa phiền năo, Minh phiền năo. Đó là ư nghĩa của Diệt, là ư nghĩa của Niết Bàn. Ly có nghĩa là Độ. “Ly chư hữu”: Chư Hữu tam giới, tức Dục Giới Hữu, Sắc Giới Hữu, Sắc Giới Hữu, vậy?nhân, có quả. Quư vị có cái nhân Dục Giới th́ mới có quả báo Dục Giới. Quư vị có cái nhân Sắc Giới, bèn có quả báo Sắc Giới. Có cái nhân Vô Sắc Giới, bèn có quả báo Sắc Giới. thế, nếu đổ công dốc sức nơi quả sẽ chẳng thể giải quyết vấn đề! Quả báo hiện tiền, nhất định phải giải quyết từ nhân. Do nhân tâm (cái tâm chứa đựng cái nhân) chẳng c̣n, quả báo chẳng hiện, quả bị tiêu diệt. tam giới lục đạo là huyễn tướng, chẳng thật, cổ đại đức sánh ví nó như mộng, huyễn, bọt, bóng. Trong Chứng Đạo Ca, Vĩnh Gia đại sư đă nói rất hay: Trong mộng rành rành phô sáu nẻo”, “sáu nẻo”lục đạo luân hồi, giác rồi ba cơi rỗng toang hoang”. Q vị giác ngộ giống như đă tỉnh giấc. Sau khi tỉnh giấc, cảnh mộng chẳng c̣n nữa! Nếu thật sự giác ngộ, buông Kiến Tư phiền năo xuống, thật sự giác ngộ, chẳng thấy lục đạo nữa. Chẳng thấy lục đạo, xuất hiện cảnh giới ǵ? Xuất hiện bốn thánh pháp giới, bốn thánh pháp giới Tịnh Độ, Tịnh Độ của Thích Ca Mâu Ni Phật. Cảnh giới ấy vẫn chưa đạt đến rốt ráo, sao? Quư vị vẫn chẳng có cách nào thoát ly mười pháp giới. Thoát ly lục đạo th́ vẫn c̣n có bốn thứ pháp giới trong mười pháp giới là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật, quư vị chẳng có cách nào rời khỏi, nên vẫn phải buông xuống. Buông phân biệt xuống, quư vị mới có thể tiến lên. T Thanh Văn, Duyên Giác, tiến lên Bồ Tát, t Bồ Tát lại tiến lên Phật. Đến địa vị Phật, nhất định phải buông vô minh xuống, buông Minh phiền năo xuống. Buông vô minh xuống th́ mới có thể thoát ly mười pháp giới, mười pháp giới cũng đều chẳng c̣n. V́ vậy, mười pháp giới cũng chẳng thật. Lục đạo đúng là cảnh mộng trong mộng! Thoát ly mười pháp giới, Nhất Chân pháp giới hiện tiền, đó là thật, chẳng giả, trở về Nhất Chân.

      Nhưng đối với Nhất Chân ở đây, theo kinh Hoa Nghiêm c̣n có bốn mươi mốt địa vị, bốn mươi mốt địa vị ấy do đâu mà có? Đă đoạn vô minh phiền năo, cũng có nghĩa là chúng ta đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian chẳng c̣n khởi tâm động niệm nữa. Khởi tâm động niệm vô minh phiền năo. Chẳng khởi tâm, không động niệm, lấy đâu ra các đẳng cấp? Không khởi tâm, chẳng động niệmcảnh giới b́nh đẳng thật sự hiện tiền; hễ khởi tâm động niệm, sẽ không b́nh đẳng. B́nh đẳng thật sự hiện tiền, sao đức Phật c̣n nói bốn mươi mốt đẳng cấp? Trong Sớ Sao của Thanh Lương đại sư, tức là trong chú giải [kinh Hoa Nghiêm], Ngài đă nói: Những vị ấy gọi là Phật cũng được, mà gọi là Pháp Thân Bồ Tát cũng được”. Tuy các Ngài đă đoạn vô thỉ minh, nhưng tập khí vẫn c̣n. V́ thế, chúng ta hiểu: Bốn mươi đẳng cấp ấy là do tập khí vô thỉ vô minh có dầy hay mỏng khác nhau. Người vừa mới phá vô minh phiền năo, đương nhiên tập khí nặng hơn một chút; người đă buông xuống khởi tâm động niệm rất lâu, tập khí sẽ mỏng hơn một chút. [Bốn mươi mốt địa vị] là nói theo tập khí dầy hay mỏng. Tập khí dầy hay mỏng có liên quan đến sự tu hành và sự hóa độ người khác của chính ḿnh hay không? Thưa quư vị, chẳng liên quan! Chẳng có mảy may chướng ngại. thế, Trụ Bồ Tát trong kinh Hoa Nghiêm, trí huệ, đức tướng và quả vị rốt ráo chẳng khác chư Phật Như Lai,Trụ đă thành Phật. Giống như trong phẩm Phổ Môn miêu tả Quán Thế Âm Bồ Tát, nên dùng thân ǵ để đắc độ, Ngài th hiện thân ấy. Nên dùng thân Phật để độ, Ngài liền hiện thân Phật. Nên dùng thân Bồ Tát để độ, Ngài bèn hiện thân Bồ Tát, Ngài có thể tùy loại hiện thân. Kinh Lăng Nghiêm có nói: Thuận theo tâm chúng sanh, ứng với khả năng nhận lănh của họ”, trí huệ và đức tướng tỏ lộ viên măn. Ngài Thanh Lương đă giúp chúng ta hóa giải nghi vấn này. Đối với sự tu học của chúng ta mà nói th́ Ngài đă hóa giải, đột phá một tầng chướng ngại. V́ thế, “ly chư Hữu” cũng là ư nghĩa của Niết Bàn. Niết Bàn hai nghĩa là Diệt và Độ.

      Hựu Hiền Thủ Tâm Kinh Lược Sớ(lại nữa, bộ Tâm Kinh Lược Sớ của ngài Hiền Thủ). Trong tông Hoa Nghiêm, Hiền Thủ đại sư là thầy của ngài Thanh Lương, là tổ sư đời thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Ngài có tác phẩm chú giải Tâm Kinh gọi là Lược Sớ. Trong ấy cũng nói: Niết Bàn, thử vân Viên Tịch” (Niết Bàn được cơi này dịch là Viên Tịch). Đây là Tân Dịch, nên dịch [Niết Bàn] thành Viên Tịch. Vị đức vô bất bị xưng Viên, chướng vô bất tận viết Tịch” (ư nói: Chẳng đức nào không trọn nên gọi là Viên, chẳng chướng ngại nào không hết nên gọi là Tịch), nêu ra một tiêu chuẩn để giải thích hai chữ này. Viên ǵ? Trí huệ, đức tướng, cũng như đức Thế Tôn đă nói trong kinh Hoa Nghiêm: Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai”. Trí huệ, đức năng và tướng hảo của Như Lai thảy đều trọn đủ, chẳng bị khiếm khuyết mảy may, nên nói là “đức vô bất bị” (đức không ǵ chẳng trọn đủ). Đó là ư nghĩa của Viên, có ư nghĩa viên măn, chẳng khiếm khuyết. Tịch: Tịch là nói đến chướng, chướng ǵ? Phiền năo, c̣n gọi là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, thảy đều đoạn sạch, hoặc như trong giáo pháp Đại Thừa thường nói là “Kiến Tư phiền năo, Trần Sa phiền năo, Vô Minh phiền năo” thảy đều đoạn hết. Đó là Tịch. Tịch là nói theo Đoạn Đức. Đó là ư nghĩa của hai chữ Viên Tịch.

      Hựu, Chân Giải viết (lại nữa, sách Chân Giải nói), Chân Giải [tác phẩm chú giải kinh Vô Lượng Thọ] của người Nhật. Pháp sư Nhật Bản sang Trung Quốc du học, thân cận T Giả đại sư, thân cận Thiện Đạo đại sư, sau khi quay về Nhật Bản, họ chính là những người đă làm cho Đại Thừa Phật giáo [tại Nhật] hưng vượng. Trong tác phẩm chú giải kinh Lượng Thọ ấy, có mấy câu: Nghĩa sung pháp giới, đức bị hằng sa, vi Viên (Nghĩa đầy ắp pháp giới, đức trọn vẹn như cát sông Hằng là Viên), đó là ư nghĩa của Viên, cách nói này cũng rất hay! Nghĩa ǵ? Nghĩa Lư, cũng nói đến trí huệ đức tướng, đầy ắp trọn khắp pháp giới. Khắp pháp giới hư không giới chính ḿnh một Thể, chỉ có người chứng đắc rốt ráo mới biết, chỉ có người chứng đắc trong Phật pháp mới biết: Chư Phật Như Lai, vạn sự vạn vật trong vũ trụ chính ḿnh một Thể. Nếu chúng ta hỏi, vạn sự vạn vật trong vũ trụ và ta có phải một Thể hay không? Thưa chư vị, là [một Thể]! Tabất cứ người nào cũng đều là một Thể, ta và bất cứ vật ǵ cũng đều là một Thể. Tuy một Thể, nhưng nay quư vị chẳng thừa nhận, tức là quư vị chẳng chứng thực nó. Chứng chứng thực, chứng minh. V́ sao quư vị chẳng thể chứng thực? quư vị có phiền năo, có tập khí, có chướng ngại. Nhà Phật nói có hai thứ chướng ngại, tức là hai loại lớn: Một là Phiền Năo Chướng, hai là Sở Tri Chướng, những thứ ấy chướng ngại, khiến q vị không thể chứng đắc. Hai thứ chướng ngại ấy nếu đều diệt trừ, quư vị bèn chứng đắc, hoảng nhiên đại ngộ, đúng là một, không hai. Hiền Thủ quốc sư có một bài luận văn hết sức nổi danh trong giới Phật giáo là Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán. Bài luận văn ấy chẳng dài, giảng về chuyện này, giảng khởi nguyên của vũ trụ khởi nguyên của sanh mạng, hết thảy vạn pháp rốt ráo là chuyện như thế nào, đặc biệt là có quan hệ ǵ với chúng ta, giảng hết sức rơ ràng, hết sức minh bạch. Thể cùng chân tánh, diệu tuyệt tướng lụy, vi Tịch (th cùng tột chân tánh, khéo léo dứt tuyệt hoàn toàn sự phiền lụy do vướng mắc vào h́nh tướng là Tịch). Thể Thể, triết học hiện tại gọi nó là “bản thể” của vạn vật trong vũ trụ, cũng có thể giải thích được, mà chúng ta cũng có thể hiểu được, thấu hiểu điều ǵ? Thấu hiểu chân tánh. Thể chân tánh, chân tánh Thể. Trong Tâm Kinh có mấy câu: “Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc. Khôngchân tánh, Sắc tướng, chúng là một, chẳng hai! Tướng, Thể không. Do Thể Không, nên gọi là Chân Không. Không ở đây không phải là chẳng có ǵ. Hiện thời, kẻ b́nh phàm chúng ta ngỡ Không là “cái ǵ cũng không có”, chẳng phải vậy! Không là thứ ǵ cũng đều có, điều này khó hiểu. Tướng có, tức Phi Hữu, Chân Không chẳng rỗng không. Diệu Hữu chẳng phải là Có, Chân Không chẳng rỗng không. Đó là ư nghĩa của Tịch, viên tịch mà! Khế nhập cảnh giới này, quư vị đắc đại tự tại. Hai chữ diệu tuyệt” [nói đến] phương tiện, phương tiện thiện xảo, quư vị đắc đại tự tại trong cuộc sống, được hưởng niềm vui chân chánh. V́ sao? Quư vị chẳng mệt mỏi. Nay chúng ta gọi mệt mỏi là áp lực, phiền năo, lo âu, vướng mắc, những thứ này đều thuộc vào chữ Lụy. Quư v hoàn toàn chẳng có [phiền lụy], bèn đắc đại tự tại trong hết thảy cảnh duyên. Cảnh hoàn cảnh vật chất, duyên là hoàn cảnh nhân sự. Đắc đại tự tại trong hoàn cảnh nhân sự và trong hoàn cảnh vật chất, đó là ư nghĩa của chữ Tịch. Cách nói này hay lắm, được trích từ sách Chân Giải.

      Thượng chi kinh luận”, đối với những điều trên đây, kinh do đức Phật nói, luận do tổ sư đại đức trước tác, biểu Pháp Thân đại sĩ chuyên chí Phật quả, bất trụ hôi diệt, đản vị nhiêu ích trung hạ Nhị Thừa, thiện xảo phương tiện, nhi thị hiện nhập diệt chi tướng (biểu thị Pháp Thân đại sĩ chuyên dốc chí nơi Phật quả, chẳng trụ tronghôi thân diệt trí”, chỉ v́ tạo lợi ích cho hàng Nhị Thừa căn tánh trung hạ, mà dùng phương tiện thiện xảo, thị hiện tướng nhập diệt). Đây là nói rơ hai chữ “trung hạ”. Hạ là ǵ? Tiểu Thừa, [trung hạ” là] Trung Thừa Tiểu Thừa, v́ họthị hiện. Bậc thượng thượng thừa, người Đại Thừa hiểu rơ ràng, minh bạch: Thích Ca Mâu Ni Phật đang diễn tuồng cho họ xem; nhưng kẻ trung h căn không biết, ngỡ Thích Ca Mâu Ni Phật thật sự diệt độ. Ở đây, chúng ta phải học, học theo Pháp Thân đại sĩ chuyên chí Phật quả, bất trụ hôi diệt”. “Hôi diệt” nghĩa là ǵ? Hôi thân diệt trí (灰身滅智) là hàng Tiểu Thừa. Trong Phật môn, thần thức rời khỏi thân thể, chúng ta nói ngườiy đă chết. Đă chết bèn hỏa táng, mai táng bằng lửa là “hôi diệt”[6]. Trong kinh Tiểu Thừa thường nói đến “hôi thân diệt trí”: Thân th đă đốt sạch, đó “hôi thân”. Đối với hết thảy vạn pháp, chẳng có tâm cầu lấy, đó là diệt trí”, hôi thân diệt trí [là như vậy đó]! Pháp Thân Bồ Tát chẳng làm chuyện này, các Ngài chuyên dốc chí nơi Phật Thừa. Phật Thừa Nhất Phật Thừa, trong Phật môn, [thừa ấy] gọi là Nhất Thừa giáo. Nhất Thừa giáo để nói với ai? Nói với bậc thượng thượng căn, chẳng phải để nói với Đại Thừa. Đại, Trung, Tiểu Tam Thừa, đó là pháp phương tiện; Nhất Thừa rốt ráo, qu rốt ráo gọi là Nhất Thừa. Xưa nay, t sư đại đức công nhận kinh Nhất Thừa có ba bộ, kinh điển để thành Phật gọi là “Nhất Thừa kinh”, tức Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Phạm Vơng. Hoa Nghiêm và Pháp Hoa được truyền sang Trung Quốc, kinh Phạm Vơng chỉmột phẩm, chẳng truyền toàn b sang Trung Quốc, chỉmột phẩm là Bồ Tát Tâm Giới Phẩm. Nhưng một quyển kinh Đại Thừa Lượng Thọ chúng ta đang học đây, cũng được cổ đại đức phán định thuộc v pháp Nhất Thừa. sao? Hoa Nghiêm và Pháp Hoa đến cuối cùng mới viên măn rốt ráo, mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn v Cực Lạc th́ kinh Hoa Nghiêm mới viên măn. B kinh này chuyên giảng về Tây Phương Cực Lạc thế giới, cũng có nghĩa là đến cuối cùng, ch quy túc của kinh Hoa Nghiêm và Pháp Hoa Lượng Thọ, cho nên bộ kinh này biến thành kinh Nhất Thừa bậc nhất trong các kinh Nhất Thừa. Cách nói này chánh xác!

      Do vậy, vào đời Thanh xưa kia, cư sĩ Ngụy Mặc Thâm đă lấy quyển cuối cùng trong Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, tức là phần giảng v mười đại nguyện vương dẫn v Cực Lạc, đặc biệt rút ra t trong kinh Hoa Nghiêm, in kèm thêm vào phía sau Tịnh Độ Tam Kinh, gọi là Tịnh Độ Tứ Kinh. Điều này đă ban cho chúng ta một khải th rất lớn. Ông ta làm như vậy đúng hay không? Đúng, có lư do! Quư vị thấy hiện thời chúng ta đọc b kinh do lăo cư sĩ H Liên Cư hội tập, chúng ta học phần này là phẩm th hai, [có nhan đề là] Đức Tuân Ph Hiền. Chúng ta liền biết Tây Phương Cực Lạc thế giới thế giới Phổ Hiền Bồ Tát, h là người văng sanh thế giới Cực Lạc đều tu ǵ? Thảy đều tu pháp môn Phổ Hiền. Chúng ta cũng đọc t kinh điển, thấy kinh điển đă dạy: Bồ Tát chẳng tu pháp Phổ Hiền, s chẳng th viên thành Phật đạo. Do vậy, bất c vị Bồ Tát nào cũng phải học tập pháp Phổ Hiền th́ mới có thể thành Phật. Chẳng tu hạnh Phổ Hiền, chẳng th thành Phật! Thế giới Cực Lạc hoàn toàn tu Phổ Hiền hạnh. V́ thế, kinh Vô Lượng Th và kinh Hoa Nghiêm b́nh đẳng. Trong niên hiệu Càn Long, cư sĩ Bành Tế Thanh đă nói: “Kinh Vô Lượng Thọ chính là Trung Bổn Hoa Nghiêm”. Ông ta thốt ra lời ấy. Nói cách khác, kinh Hoa Nghiêm Đại Bổn Lượng Thọ Kinh; lại c̣n có Phật Thuyết A Di Đà Kinh, đó là Tiểu Bổn Hoa Nghiêm. Kinh Lượng Thọ Trung Bổn Hoa Nghiêm. Đánh giá ba b kinh ấy ngang nhau, hoàn toàn b́nh đẳng, t ch này chúng ta biết giá tr của b kinh [Vô Lượng Thọ] này.

      Từ nay về sau, pháp vận của đức Phật hăy c̣n chín ngàn năm. Tổ tiên người Trung Quốc hết sức coi trọng lịch sử, khác với ngườin Độ. Người Ấn Độ qu thật chẳng coi trọng lịch sử, coi trọng giáo huấn của c thánh tiên hiền, đời đời truyền thừa. Nhưng tại Trung Quốc, theo ghi chép của c thánh tiên hiền, Thích Ca Mâu Ni Phật sanh nhằm thời Chiêu Vương nhà Châu của Trung Quốc, tức vào năm Giáp Dần, nhằm năm th hai mươi bốn đời Châu Chiêu Vương, Thích Ca Mâu Ni Phật giáng sanh. Thích Ca Mâu Ni Phật viên tịch nhằm năm th năm mươi ba đời Châu Mục Vương. Nếu theo cách tính này, t lúc Thích Ca Mâu Ni Phật viên tịch cho tới hiện thời là ba ngàn l ba mươi bảy năm. Đó là cách ghi chép của người Trung Quốc, khác với cách ghi chép của người ngoại quốc. Pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật một vạn hai ngàn năm, Chánh Pháp một ngàn năm, Tượng Pháp một ngàn năm, đă hai ngàn năm trôi qua. Phật pháp truyền đến Trung Quốc nhằm thời k Tượng Pháp, cũng có nghĩa là Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ một ngàn năm, Phật pháp truyền đến Trung Quốc vào thời Tượng Pháp. Mạt Pháp là một vạn năm, một ngàn năm đầu tiên đă qua, hiện thời là một ngàn năm th hai, đă qua ba mươi bảy năm, thời gian vẫn c̣n rất dài. V́ thế, rất nhiều tôn giáo khác nói đến tận thế, Phật giáo chẳng có thuyết tận thế. Pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật hăy c̣n chín ngàn năm nữa, một ngàn năm th hai mới được ba mươi bảy năm. Pháp vận của Phật giáo có hưng, có suy, đó là hiện tượng b́nh thường; có hưng, suy, nhưng chẳng b diệt. Đến lúc nào s diệt? Sau chín ngàn năm nữa, Phật pháp mới bị diệt, b tiêu diệt trong thế gian này. Bị diệt cuối cùng bản kinh chúng ta đang học đây. Sau khi bản này diệt, c̣n sót lại sáu ch Nam-mô A Di Đà Phật trong nhân gian, c̣n lưu lại một trăm năm. Chúng ta liễu giải sự thật này th́ tín tâm đối với việc học Phật mới có th tăng trưởng.

      Thế gian này có tai nạn hay không? Khẳng định có. Tai nạn phát sanh như thế nào? Trong kinh, đức Phật đă dạy, do tâm hạnh bất thiện của cư dân nơi ấy chiêu cảm, như Thái Thượng Cảm Ứng Thiên đă nói: Họa, phước chẳng có cửa, chỉ do con người tự chuốc lấy”. Chiêu phước như thế nào? dân nơi ấy tâm địa thiện lương, hành vi thiện lương, phước bèn đưa đến, tai tiêu, phước đến. Nếu tâm hạnh của cư dân nơi ấy bất thiện, trái nghịch luân lư, đạo đức, nói theo văn hóa truyền thống Trung Quốc là tưởng và ngôn hạnh của chúng ta trái phạm Ngũ Luân, Ngũ Thường, Tứ Duy, Bát Đức, bèn chẳng có phước, phước tiêu tan, họa xảy đến, tai nạn đưa đến là do đạo lư như thế đó. Nếu ngược lại, chúng ta khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác đều có th tương ứng với bốn khoa mục ấy, cũng như chúng ta nghiêm túc học tập Ngũ Luân, Ngũ Thường, Tứ Duy, Bát Đức, tai họa bèn tiêu tan, phước đưa đến, đạo lư là như thế đó. Đạoấy rất sâu! cùng khó có, những nhà khoa học ngoại quốc gần đây, tức các nhà Lượng T Vật Lư Học đă chứng thực chuyện này. H nói tâm thái có thể biến đổi hết thảy, k c hoàn cảnh, giống như đức Phật dạy. T ba ngàn năm trước, đức Phật đă nói [như thế], hiện thời h mới phát hiện, họ nói rất hay! Nếu có thể phổ biến chuyện này, trọn khắp mọi người đều biết, đối với những tai nạn trên địa cầu hiện thời, chúng ta có kh năng và năng lực hóa giải chúng, bất b́nh thường cũng có thể khôi phục b́nh thường. thế, chúng tôi cũng khuyên lơn những nhà khoa học hăy nên nghiên cứu Phật học. Nếu h nghiên cứu, chắc chắn s khiến cho khoa học tăng cao trên một mức độ lớn, chúng ta phải có tín tâm!

      Tôi thường nói, trong kinh có ba câu chẳng th không nhớ. Câu đầu tiên là đức Phật nói: Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”. Các nhà Lượng Tử Lực Học cận đại nói điều này là “ư niệm làm chúa tể hết thảy”, c̣n Phật pháp nói “hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”. Họa, phước chẳng có cửa, do chính quư v nghĩ như thế nào. H quư v nghĩ tới thiện, thiện đưa đến. Nếu quư v nghĩ tới bất thiện, tai họa xảy đến. Không phải có một chúa t nào khác, mà chính ḿnh là chúa tể, chớ nên không biết điều này. Hai câu khác hết sức hiện thực: “Tướng do tâm sanhcảnh chuyển theo tâm. Thật s triệt để liễu giải những đạo lư và chân tướng s thật này, chúng ta yên tâm thoải mái, hiểu rơ đạo lư. Trong hoàn cảnh, tâm quư v an định, chẳng b lay động bởi cảnh giới bên ngoài. Biết tướng do tâm sanh th́ đối với thân thể và t́nh trạng sức khỏe của chúng ta, chỉ cần tâm tánh thiện lương, chỉ cần ư niệm tốt đẹp, hành vi tốt đẹp, quư vị suốt đời chẳng ngă bệnh, tuổi cao đến mấy vẫn chẳng già yếu, tướng do tâm sanh mà! Nếu ư niệm bất thiện, trong tâm đầy ắp tham, sân, si, danh vọng, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần. Tham, sân, si, mạn là gốc bệnh, há l nào chẳng ngă bệnh! Nhất định phải chuyển những ư niệm ấy. Ư niệm đă chuyển, thân tâm khỏe mạnh, gia đ́nh ḥa thuận, sự nghiệp thuận lợi, xă hội an tường, ḥa b́nh, kể cả những tai nạn trên địa cầu cũng có thể hóa giải, đạo lư to lớn trong ấy!

      thế, các v Pháp Thân đại sĩ chuyên chí nơi Phật quả. Chí hướng và tâm nguyện của chúng ta phải chuyên, suốt đời này chúng ta cầu điều ǵ? Cầu thành Phật; học Phật muốn thành Phật. Thành Phật như thế nào? Thích Ca Mâu Ni Phật đă nêu gương, chúng ta có thể y giáo phụng hành, sẽ có th đạt tới hiệu qu giống như Ngài. “Bất trụ hôi diệt là chẳng giống Tiểu Thừa, “hôi thân diệt trí” tiêu cực. sao Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện tướng này? Nhằm lợi ích hàng Nhị Thừa trung h căn. sao nói là lợi ích? Tiếp đó, nói rơ, có giải thích, đó là do phương tiện thiện xảo, Ngài bèn thị hiện tướng nhập diệt, chẳng phải thật sự. Tiếp đó, [sách Chú Giải] giải thích, như Pháp Hoa Thọ Lượng phẩm viết: Nhược Phật cửu trụ ư thế, bạc đức chi nhân, bất chủng thiện căn, bần cùng hạ tiện, tham trước ngũ dục, nhập ư ức tưởng vọng kiến vơng trung” (như phẩm Th Lượng trong kinh Pháp Hoa đă nói: “Nếu Phật trụ lâu dài trong cơi đời, k đức mỏng, chẳng gieo thiện căn, nghèo túng, hèn kém, tham đắm ngũ dục, lọt vào lưới ức tưởng, kiến giải sai lầm”). Đó là ǵ? Nếu Phật tr lâu dài trong thế gian, đúng là “kẻ đức mỏng chẳng gieo thiện căn. sao? Phật thường trụ, [những kẻ ấy sẽ nghĩ] chẳng có ǵ gấp gáp! Hôm nay đă qua th́ hăy c̣n có ngày mai, năm nay đă qua th́ c̣n có năm sau, chẳng học Phật không sao cả! Sang năm mới học, dẫu sao Phật vẫn c̣n đó mà! Nếu Phật chẳng c̣n nữa, họ bèn lo âu, chẳng thể không thật sự hành. Trong tâm người b́nh phàm đều có khuyết điểm này. Lấy thí d trước mặt để nói, năm xưa tôi theo học Giáo với thầy Lư tại Đài Trung, tôi nghiêm túc hơn k khác. V́ sao? Tôi chẳng phải là người Đài Trung, tôi đến Đài Trung để học tập, thời gian có hạn. Các đồng học Đài Trung thấy thầy đó chẳng đi đâu, bèn giải đăi, h chẳng dụng công siêng gắng như tôi. V́ tôi biết tôi có th phải ra đi bất c lúc nào, có được thời gian một ngày th́ phải nghiêm túc nỗ lực học chăm ch một ngày. Họ chẳng có ư nghĩ ấy, [cứ nghĩ] thầy thường ch này, hăy c̣n có ngày mai, c̣n có năm sau, ngày tháng mai sau hăy c̣n rất dài, đạo lư là như thế đó! Tôi học thành tựu nơi đó, nhưng h học chẳng thành tựu, nguyên nhân là như trong kinh văn này đă nói. V́ thế, đối với những k ấy, đức Phật chẳng th không thị hiện diệt độ. H thị hiện diệt độ, bèn độ rất nhiều người. Thầy đă mất, tṛ bèn nghĩ phải làm sao? Trước kia, thầy dạy ǵ? Suy nghĩ k càng, bèn nghiêm túc học tập, [s th hiện diệt độ ấy] có th kích thích, phát khởi một s người giác ngộ, thông hiểu. V́ thế, thị hiện diệt độ cũng là một phương pháp nhằm giúp đỡ chúng sanh giác ngộ. K sắp ngộ, nhưng vẫn chưa khai ngộ, [do thấy đức Phật] vừa th hiện diệt độ bèn khai ngộ. Thu trước, khi tôi mới học Phật, thân cận Chương Gia đại sư. Mỗi tuần, đại sư dành cho tôi hai giờ. Ngày Ch Nhật, tôi được nghỉ, đến t́m Ngài, thỉnh giáo lăo nhân gia. Ba năm sau, lăo nhân gia văng sanh. Để hỏa táng, [các môn đệ] đặc biệt tạo riêng một ḷ thiêu. Khi ấy, có Cam Châu Hoạt Phật dựng lều bên cạnh ḷ thiêu. Tôi cũng dựng lều cạnh đó ba ngày, trong ba ngày, nghiêm túc duy, trong ba năm thầy đă dạy tôi những ǵ, tôi học được điều ǵ? Nghiêm túc phản tỉnh. Nếu lăo nhân gia thường hiện hữu, chúng tôi s không th nghiêm túc suy nghĩ vấn đề này. V́ vậy, Ngài vừa ra đi, đối với tôi chính là “một gậy, một tiếng hét giáng vào đầu cảnh tỉnh”. Cũng may là thời gian ba năm tuy không dài, nhưng căn cơ học Phật của tôi đă được đặt vững; v sau, thân cận thầy mười năm, mới có một chút thành tựu. Nếu chẳng có ba năm đặt vững căn cơ ấy, dù trong hội của thầy Lư mười năm, tôi cũng chẳng th thành tựu. V́ vậy, các th thị hiện, đối với người học tập chúng ta nói, nói theo phía học tṛ, đều có lợi ích rất thù thắng!

      Mấy câu này nói rất hay. “Kẻ đức mỏng” chẳng phải là nói k ấy thiếu đức hạnh, mà là không đủ dầy để chống lại tập khí phiền năo! “Không gieo thiện căn”, thiện căn ǵ? Thập Thiện Nghiệp Đạo. Thập Thiện Nghiệp Đạo có thể sanh ra hết thảy các thiện pháp thế gian và xuất thế gian, nên gọi là “thiện căn”. Hiện thời Phật pháp suy vi, suychỗ nào? Mọi người chẳng gieo thiện căn. Bất luận tại gia hay xuất gia, chẳng học Thập Thiện Nghiệp Đạo đàng hoàng, chẳng thực hiện. Xuất gia không chỉ phải thực hành Thập Thiện Nghiệp, mà c̣n phải thực hành Sa Di Luật Nghi. Nếu chẳng th thực hiện Sa Di Luật Nghi th́ chẳng phải k xuất gia, giả, chẳng thật. “Bần cùng hạ tiện” là t ng h́nh dung, bần cùng ǵ vậy? Đạo nghiệp bần cùng, Tam Học Giới - Định - Huệ bần cùng, quư vị chẳng có. Không phải nói v của cải thế gian, không phải nói v những th ấy, mà nói v Tam Học Giới - Định - Huệ, đối với điều này, quư vị thiếu khuyết quá nhiều! Tham trước ngũ dục” (tham đắm ngũ dục), ngũ dục tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ. Nhập ư ức tưởng, vọng kiến vơng trung” (lọt vào lưới ức tưởng, kiến giải sai lầm). Suốt ngày ảo tưởng, chúng ta thường nói là tâm hạnh, tính t́nh bộp chộp. “Nhược kiến Như Lai thường tại bất diệt, tiện khởi kiêu tứ, nhi hoài yếm đăi, bất năng sanh nan tao chi tưởng, cung kính chi tâm” (nếu thấy Như Lai thường hiện hữu, chẳng diệt độ, liền sanh ḷng kiêu căng, ôm ḷng chán ngán, lười nhác, chẳng th sanh ư tưởng khó gặp g và tâm cung kính). Nếu Như Lai thường trụ, học tṛ s nẩy sanh những quan niệm sai lầm, kiêu mạn, đối với việc học tập dần dần s chán ngán, lười nhác, cảm thấy chán ghét, những điều này đều là do chẳng gieo thiện căn. Quư vị truy cứu nguyên nhân căn bản th́ k ấy thiếu thiện căn. V́ thế, ba căn bản ấy vô cùng trọng yếu. sao thời cổ, chẳng cần nói rất lâu, một trăm năm trước, một thế kỷ trước, người học Phật bất luận tại gia hay xuất gia đều có th thành tựu, nguyên nhânchỗ nào? Thiện căn sâu dầy. Đối với thầy, thật sḷng cung kính, tôn sư trọng đạo, hiếu thuận cha mẹ, căn cội được vun bồi ổn thỏa. Trong xă hội hiện tại, chẳng thấy chuyện này nữa! Tr nh chẳng hiếu thuận cha mẹ, không tôn trọng thầy, nên hiện thời t́m chẳng được một v thầy tốt. Không có một v thầy tốt, cũng tức là sư đạo chẳng c̣n nữa. Chư vị nhất định phải biết: Sư đạo được kiến lập trên cơ s hiếu đạo. Chẳng có hiếu đạo, s chẳng có sư đạo. Hiện thời, chúng ta mong có một chút thành tựu trong Phật môn, chẳng th không học b sung các khóa tŕnh ấy. Nay nói đến chuyện học bù th́ phải học b sung các khóa tŕnh ấy. B sung Thập Thiện Nghiệp Đạo, nhưng sao hiện thời chẳng thể thực hiện Thập Thiện Nghiệp Đạo? Thập Thiện Nghiệp Đạo c̣n có cội rễ. Cội r của Thập Thiện Nghiệp Đạo là ǵ? Thái Thượng Cảm Ứng Thiên cội r của Thập Thiện Nghiệp Đạo. Thái Thượng Cảm Ứng Thiên c̣ncội rễ, là ǵ vậy? Đệ Tử Quy cội r của Thái Thượng Cảm Ứng Thiên. thế, hiện thời chúng ta phải học t Đệ Tử Quy, Cảm Ứng Thiên, Thập Thiện Nghiệp, phải học t ch này. Đệ Tử Quy giống như tầng th nhất trong xây nhà. Cảm Ứng Thiên tầng thứ hai, Thập Thiện Nghiệp Đạo tầng thứ ba. Không có tầng th nhất, lấy đâu ra tầng th hai? Quư vị phải biết cách học như thế nào! Sau khi đă có ba tầng ấy, người xuất gia lại c̣n thêm Sa Di Luật Nghi, tầng th tư. Sau đấy, bất luận học Nho, học Đạo, học Phật, đều có thành tựu. Học Nho có thể thành thánh, thành hiền, học Đạo có thể thành thần, thành tiên, học Phật có thể thành Phật, có thể thành Bồ Tát. Chẳng có căn th́ làm sao được nữa? Căn quá trọng yếu!

      Dẫu cho chúng ta hiện thời nói tới niệm Phật văng sanh Tịnh Độ, nhưng nếu quư v chẳng học Thập Thiện Nghiệp Đạo, sanh v Tây Phương Cực Lạc thế giới s chẳng thành công! sao? Thích Ca Mâu Ni Phật giới thiệu Tây Phương Cực Lạc thế giới cho chúng ta, có một câu rất trọng yếu, quyết định ch nên coi thường. Ngài nói người trong thế giới Cực Lạc đều là “chư thượng thiện nhân câu hội nhất xứ”. Những ai tới đó? Thượng thiện. Thiện đây là Thập Thiện, [“thượng thiện” là] thượng phẩm Thập Thiện. Người b́nh phàm tu thượng phẩm Thập Thiện quá nửa sanh trong trời Đao Lợi, chẳng mong thoát khỏi lục đạo luân hồi bèn sanh trong Đao Lợi. thế, đó là điều kiện tiêu chuẩn để sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Sau đó c̣n có những th mà người văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới nhất định phải tu, tức là thiện căn, phước đức, nhân duyên! [Kinh Di Đà dạy]“chẳng thể do chút ít thiện căn, phước đức, nhân duyên, được sanh về cơi ấy”. Câu này trọng yếu lắm! Q vị phải có thiện căn, phải có phước đức. Nhân duyên, duyên phận là gặp gỡ. Q vị gặp kinh điển này, gặp pháp môn này, tức quư vị có nhân duyên. Thiện căn ǵ? Có thể tin, có thể hiểu. Phước đức ǵ? Thật s làm. “Thật s làm” bao gồm c ba căn cội, tức Đệ Tử Quy, Cảm Ứng Thiên, Thập Thiện Nghiệp. Nếu quư v chẳng thật sự làm, thật sự học, vẫn chẳng th đến Tây Phương Cực Lạc thế giới được! Chớ nên không biết điều này. Phật chẳng lừa chúng ta, kinh đă nói rơ ràng, rành rẽ; đến khi ấy chẳng th văng sanh, chính ḿnh phải chịu trách nhiệm. Thật sự người hiểu lư, hiểu rơ và minh bạch các đạo lư thế gian và xuất thế gian, mới biết: Bất c những gặp g trong đời mỗi người đều do chính ḿnh chịu trách nhiệm, đều là tự làm, tự chịu! Chẳng phải là do Thượng Đế đến làm chủ. Chẳng có l ấy! Phật, Bồ Tát phù hộ, cũng chẳng có đạo lư ấy. Phật, Bồ Tát gia h Phật, Bồ Tát dạy quư vị những th để quư v t gia hộ. Quư v nghe xong, đă hiểu, học đă hiểu rồi, bèn chiếu theo đó để làm, đó chính là Phật, Bồ Tát gia hộ quư vị. Nếu không thật sự chịu làm, quư vị lại b l đời này mất rồi!

      Nhất là trong hiện tại, tai nạn rất nhiều. Đối với các chúng sanh t vong v́ tai nạn, đạo tràng chúng ta tu hành mỗi ngày, giảng kinh đây đều hồi hướng cho họ. Những ngườiy qua đời, đi v đâu? Đều là theo nghiệp lưu chuyển, đó mới là đại s thật sự. Điều khó bậc nhất trong đời người, đại s bậc nhất gặp gỡ Phật pháp. Sau khi đă gặp, có th tin, có th hiểu, thể y giáo phụng hành, đời này có thể vĩnh viễn thoát luân hồi. Không chỉ thoát luân hồi, c̣n vĩnh viễn thoát khỏi mười pháp giới. Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, bất luận là văng sanh trong phẩm v nào, [đều được] bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia tŕ, đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát, tuyệt diệu thay! Quư vị thật s muốn văng sanh, hăy vun bồi vững chắc ba căn cội, tức là Đệ Tử Quy, Cảm Ứng Thiên, Thập Thiện Nghiệp, phải thật sự làm được; sau đấy, phát tâm, nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, không một ai chẳng văng sanh. Những điều kiện như kinh đă dạy chúng ta đều hội đủ, điều này vô cùng trọng yếu.

      vậy, đức Thế Tôn th hiện tướng diệt độ th tám, không ǵ chẳng nhằm khiến cho chúng sanh khởi lên ư tưởng khó gặp gỡ, dấy lên tâm cung kính. “Thị cố N Lai tuy bất thật diệt, nhi ngôn diệt độ” (do vậy, Như Lai tuy chẳng thật sự diệt, mà nói là diệt độ). Đó là nói thật với quư vị. Đức Phật có diệt độ hay không? Không có! Đó là làm ra dáng v cho người căn tánh trung h thấy. “Phi diệt hiện diệt, cố vân thị hiện” (chẳng phải diệt độ, mà hiện diệt độ, nên nói là Th Hiện), chẳng phải thật. Tác thử thị hiện, v độ trung hạ chi cố. Nhược thị thượng căn, tắc kiến Như Lai vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ, bổn ly sanh diệt, hữu Niết Bàn” (th hiện điều này nhằm độ căn cơ trung hạ. Nếu là bậc thượng căn s thấy Như Lai chẳng t đâu đến, mà cũng chẳng đi v đâu, vốn ĺa sanh diệt, có Niết Bàn). Đúng vậy! Kinh Kim Cang đă giảng v Như Lai, sở tùng lai, diệc vô sở khứ” bèn gọi là Như Lai, đó là thật, đạo lư này rất sâu. Kinh Hoa Nghiêm đă giảng thấu triệt; thật ra, mỗi người chúng ta đều như nhau, xác thực chẳng khác ǵ Phật. Chỉ chúng ta mê muội, bất giác, c̣n đang tạo tội nghiệp; c Phật, Bồ Tát giác chứ không mê, đắc đại t tại, xác thực cùng chúng ta ḥa quang đồng trần. Trên thực tế, các Ngài chẳng nhiễm mảy tần. “Thị cố, Tùy T Giả đại sư độc Pháp Hoa Dược Vương phẩm, thân kiến Linh Sơn nhất hội nghiễm nhiên vị tán” (do vậy, đời Tùy, Trí Gi đại sư đọc phẩm Dược Vương kinh Pháp Hoa, đích thân thấy một hội Linh Sơn nghiễm nhiên chưa tan), thật đấy, chẳng gi đâu! Quư vị nói Thích Ca Mâu Ni Phật đă diệt độ, nay Thích Ca Mâu Ni Phật vẫn đang giảng kinh Pháp Hoa tại núi Linh Thứu. Trí Giả đại sư người đời Đường[7], cách Thích Ca Mâu Ni Phật hơn một ngàn năm. Q vị thấy Ngài đọc kinh Pháp Hoa, đọc đến phẩm Dược Vương bèn nhập Định. Trong Định, đột phá các chiều của thời gian và không gian, thấy Thích Ca Mâu Ni Phật đang giảng kinh Pháp Hoa tại núi Linh Thứu. Ngài c̣n nghe giảng hết một khóa, tức là nghe hết một buổi giảng, tr v xuất Định, k với mọi người: Thích Ca Mâu Ni Phật tại Linh Sơn, một hội kinh Pháp Hoa cho tới nay vẫn chưa tan, c̣n đang tiếp tục giảng. Con người có thể trở về quá khứ, cũng có thể tiến nhập tương lai. Có công phu Thiền Định là được!

      Do vậy, những điều được nói trong kinh điển của Thích Ca Mâu Ni Phật, nếu nói theo tiên sinh Phương Đông Mỹ, s là triết học cao nhất, khoa học cao nhất. Những vấn đề mà triết học khoa học hiện tại chẳng th giải quyết, trong kinh Phật đă toàn b [những giải pháp]. Do tôi học Phật, được thầy giới thiệu, kinh Phật đỉnh cao nhất trong triết học của toàn th thế giới. Thu ấy, tôi học Triết với thầy, tôi chẳng theo thầy học Phật pháp. Thầy bảo tôi, Thích Ca Mâu Ni Phật triết gia vĩ đại nhất trên thế giới. Tôi đă học năm mươi chín năm, nay đă phát hiện: Không chỉ triết học cao nhất, mà cũng là khoa học cao nhất. Các nhà Vật hiện đại phát hiện Lượng Tử, nhưng trong kinh Phật đều có, c̣n nói rơ ràng và viên măn hơn họ. Đức Phật thấy bằng cách nào? Thấy trong Định. Trong Định, tất c các chiều không gian [khác nhau] đều b đột phá toàn bộ, chính mắt thấy, chẳng cần dùng máy móc. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tập tới đây.

Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

Phần 60 hết

 



[1] Theo hành chánh của Đài Loan, khoa trưởng là một viên chức quản trị hành chánh cấp thấp. Nếu dựa theo hệ thống cấp bậc trong chính phủ Trung Hoa Dân Quốc th́ cao nhất là Thủ Tướng (Quốc Vụ Viện Tổng Lư), Khoa Trưởng được xếp vào cấp thứ chín đếm từ trên xuống, tương ứng với Nha Trưởng trong một cơ cấu chánh phủ. Chúng tôi đoán Khoa Trưởng được dùng ở đây có lẽ là người đứng đầu tiểu ban tôn giáo của chính phủ.

[2] Tứ Giáo Nghi Tập Chú do ngài Mông Nhuận soạn vào đời Nguyên. Sách này căn cứ theo giáo nghĩa của phái Sơn Gia trong tông Thiên Thai để chú giải bộ Tứ Giáo Nghi của Thiên Thai đại sư. Tác phẩm này tinh xác, rất thuận tiện cho kẻ sơ học, nên lại được ngài Tánh Quán đời Thanh chú sớ thêm, tạo thành bộ Tứ Giáo Nghi Chú Vựng Bổ Phụ Hoằng Kư.

[3] Trong các chú giải kinh Pháp Hoa, kể cả bộ Pháp Hoa Luân Quán của tổ Ngẫu Ích đều giảng rơ người Tây Trúc gọi ngựa là “bạch ngưu”. Ở đây, chúng tôi vẫn dùng ba chữ “dê, nai, ngựa” theo cách dịch phổ biến của người Việt khi dịch đoạn kinh văn này.

[4] Tích Sa Tạng là Đại Tạng Kinh được khắc vào thời Nam Tống; do nơi khắc kinh là Diên Thánh Viện tại Tích Sa Châu thuộc phủ B́nh Giang (nay là Ngô Huyện, tỉnh Giang Tô), nên gọi là Tích Sa Tạng. Không rơ bản này được khắc bắt đầu từ khi nào. Do chùa bị cháy giữa chừng nên việc khắc ván bị gián đoạn, măi cho đến năm 1322 mới khắc xong. Năm 1929, ông Châu Tử Kiều phát hiện các mộc bản gần hoàn chỉnh của tạng này tại chùa Ngọa Long và chùa Khai Nguyên, bèn đem về Thượng Hải, hợp lực cùng các ông Đinh Phước Bảo, Tưởng Duy Kiều, Lư Kinh Vĩ để hiệu chỉnh và ấn hành. Với sự giúp sức của tỳ-kheo Phạm Thành, họ t́m được phần thất lạc tại chùa Quảng Thắng ở huyện Triệu Thành. Bản in Đại Tạng Kinh này được Âu Dương Cánh Vô viết lời tựa giới thiệu duyên khởi.

[5] Cao Ly Tạng, gọi đầy đủ là Bát Vạn Cao Ly Đại Tạng Kinh (Palman Goryo Daejanggyeong) được khắc in vào thế kỷ 13, hiện thời mộc bản c̣n được tàng trữ tại chùa Hải Ấn (Haeinsa) thuộc tỉnh Quảng Thượng Nam Đạo (Gyeongsangnam-do), Hàn quốc. Tạng này được khắc dựa theo Đại Tạng Kinh đời Tống, khởi sự khắc vào năm 1087, nhưng bị thiêu hủy khi quân Mông Cổ tấn công Cao Ly. Vua Cao Tông (Gojong) của vương triều Cao Ly đă cho giảo chánh và khắc lại lần nữa vào năm 1235, và phải mất 16 năm mới hoàn thành. Mộc bản của Cao Ly Đại Tạng Kinh được coi là quốc bảo của Đại Hàn. Do tính chân xác của Đại Tạng Kinh này, các bản in hiện thời của Đài Loan và Hoa Lục phần lớn dựa theo bản này.

[6] “Hôi” () có nghĩa là tro. Do hỏa táng chỉ c̣n lại tro, nên gọi là “hôi diệt” hoặc “hôi thân”. Hiểu theo nghĩa rộng là thân chẳng trụ trong thế gian, tâm trí nguội lạnh, đắm ch́m trong niềm vui tịch diệt nơi Thiên Chân Niết Bàn nên gọi là “hôi thân diệt trí”.

[7] Ở đây, ḥa thượng có lẽ nói nhầm chữ Tùy thành Đường, v́ tổ Trí Khải sanh năm 538 (tức năm Đại Đồng thứ tư đời Lương Vũ Đế), tịch năm 597. Năm 597 là năm thứ 17 trong niên hiệu Khai Hoàng của Tùy Văn Đế. Ngài sống qua các triều đại Lương, Trần và Tùy, nhưng viên tịch trước khi nhà Đường thành lập vào năm 618 (khi Lư Uyên xưng đế).