Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

淨土大經解演義

Phần 65

Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Huệ Trang và Đức Phong

 

Tập 129

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Lượng Thọ Kinh Giải trang một trăm bốn mươi tám, ḍng th tư, xem t câu th ba:

      Hựu Tịnh Ảnh Sớ vị Như Lai đắc Tứ Vô Ngại Trí. Như Lai do vô ngại chi trí, hưng vô ngại chi tứ biện” (Lại nữa, Tịnh Ảnh S nói Như Lai đắc T Vô Ngại Trí. Do trí vô ngại, Như Lai hưng khởi bốn món vô ngại biện tài). Trong bản chú giải này, ngài Hu Viễn đă nói rất hay, Ngài nói Như Lai đắc bốn th trí huệ ngại. T trí huệ ngại, sanh khởi bốn th vô ngại biện tài. Do điều này có thể biết: Phương tiện trọng yếu nhất trong hạnh lợi tha vô ngại biện tài. Chúng ta cũng đều mong có th tu thành năng lực như vậy, nhưng ngại biện tài là trí huệ khởi tác dụng, mỗi người đều vốn sẵn có, chẳng khác ǵ chư Phật Như Lai! Nay v́ sao chúng ta khác biệt Phật to lớn dường ấy? Đức Phật dạy: Nguyên nhân là do chúng ta mê mất tự tánh, cũng như kinh Hoa Nghiêm đă nói:Chỉvọng tưởng, chấp trước, nên không thể chứng đắc”. Quư vị thấy một câu nói này của đức Phật đă nói toạc căn bệnh của chúng ta. V́ sao chúng ta đánh mất trí huệ đức tướng? Do vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Nói cách khác, nếu chúng ta có th buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống, trí huệ đức tướng vốn sẵn có trong t tánh liền hiện tiền. Đó là lư luận, buông xuống được rồi! Chúng sanh và Phật sai biệt ngay trong một niệm; thật sự buông xuống một niệm, trí huệ liền hiện tiền. Chúng ta phải ghi nhớ, đức Phật nói vọng tưởng, phân biệt, chấp trước”; tuy [trong câu kinh Hoa Nghiêm vừa dẫn trên đây] Ngài chỉ nói vọng tưởng, chấp trước”, nhưng đó là do Ngài đă tỉnh lượcphân biệt”. Chấp trước Kiến Tư phiền năo, phân biệt là Trần Sa phiền năo, vọng tưởng là Minh phiền năo. Trong giáo pháp Đại Thừa, chúng ta đă học những điều này rất nhiều và cũng đều rất quen thuộc. Buông Kiến Tư phiền năo xuống, liền chứng quả A La Hán. Buông Trần Sa phiền năo xuống Bồ Tát. Phá Vô Minh phiền năo bèn thành Phật, kinh nói [người như vậy] là Pháp Thân đại sĩ, đă thành Phật. Trong Kim Cang Giảng Nghĩa, cư sĩ Giang Vị Nông đă giới thiệu [t ngữ] “chư Phật Như Lai” [được dùng trong kinh Kim Cang] chính là bốn mươi mốt địa v Pháp Thân đại sĩ như kinh Hoa Nghiêm đă nói. Do bốn mươi mốt tầng cấp khác biệt, nên gọi là “c. Pháp Thân đại sĩ Như Lai, Phật.

      Nói theo lư luận, phàm phu thành Phật trong một niệm, kinh nói là “nhất niệm khoảnh”. Chúng ta không buông xuống được; v́ sao chẳng buông xuống được? Chẳng có trí huệ, nên quư vị chẳng thấy thấu suốt. Trong cuộc sống hằng ngày, dù học tập Phật pháp Đại Thừa, chúng ta luôn dùng vọng tâm, chẳng dùng chân tâm. Vọng tâm được Tướng Tông (Duy Thức học) gọi là tám thức, năm mươi mốt Tâm Sở”. Không riêng ǵ chúng ta dùng tâm này, mà hai mươi tám tầng trời, cho đến Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật (Phật trong mười pháp giới) cũng dùng cái tâm này. Nếu chúng ta có thể chuyển tám thức thành bốn trí” như Tướng Tông đă nói, th́ được! Chẳng dùng tám thức, mà dùng bốn trí. Bốn trí là ǵ? B́nh Đẳng Tánh Trí, Diệu Quan Sát Trí, Đại Viên Kính Trí,Thành Sở Tác Trí; đó là bốn trí. Kinh này nói Như Lai do trí vô ngại, nên mới có th phát khởi bốn th ngại biện tài. vậy, cảnh giới được nói đây chẳng phải là cảnh giới của phàm nhân. Chuyển tám thức thành bốn trí th́ mới có bốn thứ năng lực ấy, giáo hóa trọn khắp hết thảy chúng sanh trong mười pháp giới.

      Chúng ta học Phật th́ học Phật chẳng phải lôi kinh điển ra tụng niệm, làm như vậy chẳng có tác dụng to lớn ǵ, ch có th nói là tốt hơn không niệm. V́ sao? Khi niệm, bèn gieo chủng t vào trong A Lại Da, chủng t ấy tốt đẹp. Muốn thành tựu, ắt cần phải trọn đủ thiện căn, phước đức, nhân duyên th́ mới có th thành tựu trong một đời này. Nếu thiện căn, phước đức, nhân duyên chẳng đủ, lại tu dần dần. Tu chẳng phải là thành tựu ngay trong một đời, vẫn phải đời đời kiếp kiếp tích lũy thiện căn, phước đức, nhân duyên, chừng nào [những th ấy] chín muồi th́ sẽ thành tựu. l đó, trí huệ trọng yếu. Trí huệ do đâu mà có? Do Thiền Định mà có. Trong phần trước, chúng ta đă đọc thấy: Bồ Tát nhằm tự lợi, tu Thiền Định rất sâu, Định có thể sanh ra Huệ. Làm sao để có Định? Định do tŕ giới mà có, lại truy ngược lên trước. Do điều này có thể biết, Phật pháp chẳng khác, Tam Học Giới, Định, Huệ mà thôi! Giới là phương tiện, phương pháp, Địnhmấu chốt, Trí Huệ mục tiêu. Chúng ta dùng phương pháp tŕ giới để đạt tới tâm thanh tịnh, điều này trọng yếu. Có những k tŕ giới dường như vô cùng nghiêm ngặt, cẩn thận, nhưng chẳng đắc Định. sao? Giới hạnh của chính ḿnh khá lắm, Ngũ Giới Thập Thiện đều tu rất tốt đẹp, nhưng thấy người khác chẳng tŕ giới bèn sanh phiền năo, khinh mạn người khác! Chư v nghĩ xem, người thật sự biết tu Thiền Định s đắc ǵ? Đắc tâm thanh tịnh, đắc Định; c̣n một vị tu giới luật, người tŕ giới, đắc ǵ? Người ấy đắc kiêu căng, ngạo mạn, coi thường k khác, đạt được những điều ấy, đắc phiền năo! Quư vị thấy đó, không tŕ giới th́ chẳngphiền năo, tŕ giới bèn đắc phiền năo, sai mất rồi! Chẳng tŕ giới th́ c̣n cung kính người khác. H tŕ giới bèn chẳng có chút xíu tâm cung kính nào đối với người khác, [luôn nghĩ] những k đó chẳng bằng ta. Có phải Thích Ca Mâu Ni Phật đă dạy sai hay không? Đức Phật dạy chẳng sai, mà là bản thân chúng ta dụng tâm sai quấy, chẳng biết dụng tâm!

      thế, thật sự tŕ giới, nhất định phải thực hiện t Đệ Tử Quy, trước hết là tu lễ kính. Quư vị thấy mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát, trong phần sau, kinh s dạy chúng ta, tức là trong đoạn “trụ Phổ Hiền hạnh”, điều thứ nhất Phổ Hiền Bồ Tát dạy chúng ta là tu lễ kính, lễ kính chư Phật. Ai nấy đều là Phật, hết thảy vạn vật không ǵ chẳng là Phật th́ mới có th tu viên măn s l kính ấy. Phải học theo Thiện Tài đồng tử! Trong s cảm nhận của Thiện Tài đồng tử,tất cả hết thảy chúng sanh đều là chư Phật Như Lai, ch có ḿnh ta là phàm phu”, nên Ngài tu thành công. Nay chúng ta tu chẳng thành công là v́ lẽ nào? Ư niệm sai lầm! Ta tôn kính Phật; tr Phật ra, tất c đều phàm phu, chẳng khác ta cho mấy, c̣n có rất nhiều kẻ chẳng bằng ta! Do tâm thái đó, tu hành suốt đời vẫn chẳng thành công, thua xa Thiện Tài đồng tử. Thiện Tài đồng tử dùng chân tâm, chẳng phân biệt, không chấp trước; nay chúng ta tu Giới, Định, Huệ, dùng vọng tâm, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, nên tu kiểu nào cũng đều tu chẳng thành công, đạo ch này. sao? Chẳng cung kính k khác, tức là thiếu l kính đối với chính ḿnh! V́ sao? Tự và tha không hai. Coi người khác đều như Phật, Bồ Tát, tức là cung kính chính ḿnh, trong đời này, bản thân chúng ta mới thể đạt được thành tựu. Tiểu thành tựu A La Hán, thành tựu bậc trung Bồ Tát, thành tựu tối thượng thừa, quư vị bèn thành Phật. Ấn Quang đại sư nói rất hay: “Một phần thành kính đạt được một phần thành tựu, mười phần thành kính được mười phần thành tựu”. Tâm chúng ta chỉ có một phần thành kính, ch có th chứng tiểu quả. Tiểu quả khá lắm, rất khó có. Tiểu qu là ǵ? Tu Đà Hoàn, tức Quả, hoặc địa v Sơ Tín trong các địa v thuộc hàng Thập Tín Bồ Tát. Nếu kiêu căng, ngạo mạn, xem thường người khác, ngay c địa v này cũng chẳng đạt được!

      Trong hai mươi, ba mươi năm gần đây nhất, khi sống Mỹ, tôi thường cùng các đồng học cùng nhau học tập một chỗ, tôi thường nói “hăy buông xuống mười sáu chữ”. Mười sáu chữ ấy chính làtự tư tự lợi, tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần, tham, sân, si, mạn”, tôi nói mười sáu ch ấy. Tôi lại c̣n nói rất rơ ràng: Thật sự làm được mười sáu ch ấy, quư vị thật sự buông xuống, tôi nói quư v đạt đến địa vị ǵ, đạt đến nơi nào? Quư v đến cửa ngơ của Phật, chưa tiến vào. Tiến vào th́ sao? Để tiến vào, phải dùng tiêu chuẩn của Phật, ch tiêu chuẩn của tôi chưa được. Tiêu chuẩn của tôi ch có th dẫn quư v đến cửa ngơ chánh yếu. Tiêu chuẩn của Phật phải thật sự buông chấp trước, phân biệt, vọng tưởng xuống. Buông chấp trước xuống, quư vị chứng A La Hán là địa v cao nhất trong Tiểu Thừa, vượt thoát lục đạo luân hồi, chứng đắc Thanh Văn, Duyên Giác. Lại tiến cao hơn, sẽ buông xuống phân biệt, tr thành Bồ Tát, quư vị thành Phật, tức là địa v Phật trong mười pháp giới. Cuối cùng, có th buông minh phiền năo, kinh Hoa Nghiêm gọi [vô minh phiền năo] là vọng tưởng, chẳng khởi tâm, không động niệm, quư vị bèn thành Phật. Khi ấy, mười pháp giới chẳng c̣n nữa. Vượt thoát mười pháp giới, quư vị ở nơi nào? Quư vị trụ trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai. Đều phải dùng chân tâm, không thể dùng vọng tâm. Hăy ghi nhớ, trong chân tâm chẳng khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, không chấp trước, phải luyện tập trong cuộc sống thường ngày. Phật, Bồ Tát trong kinh giáo, tổ sư đại đức trong học tập và chia sẻ, các tác phẩm chú giải của các Ngài đều là học tập, chia sẻ, đều chân thành bảo ban chúng ta như thế này: Tùy duyên, đừng phan duyên, hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức”. Chúng ta phải học k càng, nghiêm túc học tập hai câuy, thể tùy thuận chúng sanh. Th ǵ cũng đều tốt đẹp, ch nên so đo, chỉ cần họ chẳng tri tà kiến th́ tốt lắm rồi. Mỗi người hạnh nghiệp khác nhau, nghiệp nhân, qu báo đời đời kiếp kiếp khác nhau, đức Phật biết chuyện này, nên Ngài m ra tám vạn bốn ngàn pháp môn, mở ra lượng pháp môn, đó ǵ? Hằng thuận chúng sanh. Nếu chẳng hằng thuận chúng sanh, một pháp môn được rồi, đức Phật mở ra nhiều như vậy để làm ǵ? Đức Phật mở ra nhiều pháp môn ngần ấy, chẳng có ǵ khác, chính là hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức, ư nghĩa ch này. Chúng ta phải hiểu dụng ư của lăo nhân gia th́ mới có thể học những th này nọ. Do đó, thật sự tu hành là tu trong cuộc sống hằng ngày, trong sinh hoạt, trong công việc, trong đăi người, tiếp vật, hăy sửa đổi những ư tưởng sai lầm, sửa đổi cách nh́n sai lầm, ngôn luận sai lầm, sửa đổi hành vi sai lầm; đó là tu hành. Tu hành bậc cao là B Tát. Bồ Tát chẳng tu hạnh Phổ Hiền, sẽ chẳng thể viên thành Phật đạo. thế, quư vị hiểu mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát chính là cương lănh tu hành của các Pháp Thân Bồ Tát, chúng ta phải hiểu ch này!

Pháp môn Tịnh Tông duyên với Phổ Hiền Bồ Tát quá sâu, sao? Tịnh Tông pháp môn Phổ Hiền. Quư v thấy kinh này, vẫn c̣n đang trong T Phần, phần Chứng Tín T là Đức Tuân Phổ Hiền. Quư v thấy đề mục của phẩm này là Đức Tuân Phổ Hiền. Do đó, Tịnh Độ chẳng th rời khỏi Phổ Hiền Bồ Tát. Vào đời nhà Thanh trước kia, cư sĩ Ngụy Mặc Thâm, là một v đại thiện tri thức trong Phật môn, đă đặc biệt lấy ra quyển cuối cùng của T Thập Hoa Nghiêm, tức là Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm của kinh Hoa Nghiêm, ghép vào sau Tịnh Độ Tam Kinh, đặt tên là Tịnh Độ Tứ Kinh, có lư lắm! Nóichuyện ǵ? Nói rơ Tịnh Độ là tu Phổ Hiền hạnh, chẳng khác ǵ Hoa Nghiêm. Thu trước, vào thời Càn Long, sĩ Bành Nhị Lâm là người đầu tiên đă nói kinh Lượng Thọ chính là Trung Bổn Hoa Nghiêm, ông Bành Nh Lâm nói như thế. Ngụy Mặc Thâm đă có hành động như thế này: Đem phẩm Hạnh Nguyện “mười đại nguyện vương dẫn v Cực Lạc”, tức là đem một đoạn kinh văn lớn ấy ghép vào sao Tịnh Độ Tam Kinh. Chúng ta tu Phổ Hiền hạnh. Tịnh Tông Học Hội thành lập, chúng tôi đề ra các công khóa mà các đồng học Tịnh Tông bắt buộc phải tu gồm năm môn, không nhiều lắm. Nhiều quá, s thành quá rắc rối, phiền phức, hạnh môn càng đơn giản càng hay! Trong năm khoa ấy, th nhất là Tịnh Nghiệp Tam Phước xuất phát t Quán Lượng Thọ Phật Kinh (Thập Lục Quán Kinh). Đoạn kinh văn này là nguyên tắc ch đạo cao nhất trong Tịnh Tông, quư vị chớ nên không biết! Phương hướng và mục tiêu của Tịnh Tông ngay trong một đoạn kinh văn ấy. Trong ba điều của Tam Phước, điều đầu tiên là “hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự trưởng, từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện Nghiệp”. Chúng ta có làm được hay không? Văng sanh Tịnh Độ mà nếu chẳng làm được điều này, s chẳng th văng sanh; chẳngtâm hiếu thuận đối với cha m là không được rồi!

      Kẻ suốt đời làm ác, lúc lâm chung gặp thiện tri thức khuyên dạy k ấy niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, kẻ ấy thật sự nghe lời. Thật s nghe lời là sám hối chân thật trọng yếu nhất. Nghiệp chướng t vô th và trong đời này, do s sám hối ấy liền tiêu trừ. Tâm hiếu thuận thật sự dấy lên. Tuy k ấy đă mạng chung, ngay lập tức văng sanh, là do cái tâm hiếu thuận cha mẹ, tâm tôn sư trọng đạo thật sự dấy lên. Nếu cái tâm ấy chẳng dấy lên, kẻ đó sẽ chẳng th văng sanh, chúng ta phải hiểu đạo lư này. Do đó, lâm chung gặp g bạn lành, [nói] kẻ ấy có thiện căn hay không, chính là nói k ấy có thật sự sám hối hay không. Thật sự sám hối, A Di Đà Phật tiếp nhận, s tiếp dẫn k ấy văng sanh. Do s sám hối ấy, sẽ đoạn hết thảy ác, tu hết thảy thiện, th thành tựu hết thảy điều thiện trong một niệm. Chẳng phải là chuyện may mắn! Trong khi ấy mà th thật sự sám hối, chắc chắn đời đời kiếp kiếp trong quá khứ ngườiy đă tu hành khá lắm, nhưng đời này hoặc, chẳng gặp bạn lành, nên học theo những điều xấu! Khi lâm chung, có người cảnh tỉnh, thiện căn túc thế bèn phát hiện, sức mạnh sám hối ấy rất lớn, [k ấy] thật sự quay đầu. C nhân nói “lăng tử hồi đầu, kim bất hoán” (lăng tử quay đầu, vàng chẳng đổi). K ấy thật sự quay đầu, thật sự là người tốt; do điều kiện này, nên mới có thể văng sanh. V́ l đó, kinh Di Đà dạy: “Bất khả dĩ thiểu thiện căn, phước đức, nhân duyên đắc sanh bỉ quốc” (Chẳng thể do chút thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được sanh về cơi ấy), đó là thiện căn. Suốt đời làm ác, thiện căn có thể hiện tiền, liền gặp được thiện hữu. Duyên này rất quan trọng, gặp được thiện hữu chỉ dạy, ngườiy hoát nhiên minh bạch. Trong Phật pháp, chắc chắn chẳngchuyện may mắn; toàn b đều là công đức chân thật, chúng ta thấy loại người như vậy văng sanh rất nhiều. Khi xưa, chúng tôi không hiểu rơ giáo lư cho lắm, nên có nghi hoặc. Do được huân tu nhiều năm ngần ấy, cuối cùng chúng tôi v lẽ: Khi ấy là do thiện căn chẳng thể nghĩ bàn trong đời trước phát hiện.

      Đối với phước th nhất trong ba phước, nay chúng tôi đề xướng học tập Đệ T Quy. V́ sao học Đệ Tử Quy? Đệ Tử Quy “hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự trưởng” được nói cặn kẽ. Chúng ta hiếu dưỡng phụ mẫu và phụng s sư trưởng như thế nào? Làm được một ngàn l tám mươi ch của Đệ T Quy, quư vị liền làm được hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự trưởng”. Do điều này có thể biết, Đệ Tử Quy thực hiện hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự trưởng”, quư vị th chẳng làm ư? Nếu q vị chẳng thể làm được, tức là ch niệm suông hai câu ấy! “Từ tâm chẳng giết”, chúng ta thực hiện câu này bằng Thái Thượng Cảm Ứng Thiên. Cảm Ứng Thiên giảng về thiện ác nhân qu tổng cộng một trăm chín mươi lăm điều. Ch nên không hiểu giáo dục nhân quả! Ch nói [ch có] ngôn ngữ, tạo tác th́ mới có quả báo, [phải biết, ngay cả] khởi tâm động niệm cũng có quả báo, nói rất vi tế. Câu cuối cùng là “tu Thập Thiện Nghiệp”; đó là cội r trong Phật môn. Do đó, tôi nói: Câu này đă giảng v ba cội rễ. Cội r của Nho là Đệ Tử Quy, cội r của Đạo là Cảm Ứng Thiên, cội r của Phật Thập Thiện Nghiệp. Vừa m đầu, phải đặt vững ba cội r này th́ quư vị sẽ có phước th nhất trong Tịnh Nghiệp Tam Phước.

      Con người hiện tại thiếu phước, tuy thiếu phước nhưng thoạt nh́n lại dường như là hưởng th khá lắm? Đúng vậy, họ hưởng phước, phước của họ do đâu mà có? Đă tu trong đời q khứ, đời này được làm thân người, hưởng phước báo. Họ hưởng phước báo, do chẳng có ai dạy, nên h chẳng biết tu phước. Chẳng giống như trong quá khứ! Trong xă hội cũ thời quá khứ, qu thật là bất luận quư vị phước hay vô phước, người già đều biết tu phước; cũng th nói là những người b́nh phàm trong xă hội đều biết phải học tập ba căn bản ấy. Trung Quốc c đại gọi ba căn bản ấy là vun bồi cội rễ giáo dục, học vào lúc nào? Tr thơ từ lúc vừa sanh ra cho đến ba tuổi là một ngàn ngày. Cách học như thế nào? Cha mẹ nêu gương cho con thấy. Quư vị thấy tr thơ chưa biết nói, nhưng nó biết nh́n, biết nghe, đă biết bắt chước. Do đó, một ngàn ngày ấy là thâm căn, c đế; trong nhà, cha m phải thực hiện cho con thấy ba căn bản ấy. Gia đ́nh thời cổ là đại gia đ́nh, người hiện thời không có cách nào tưởng tượng loại gia đ́nh kiểu ấy. Trong thời quá khứ năm đời cùng sống trong một nhà; nh́n lên, quư vị cha, có ông, có c cố, c sơ, năm đời. Nh́n xuống, bèn có con, cháu, chắt, chút, nên nói là “chín đời”. Thời cổ, quư v nói đến gia đ́nh là nói đến chín đời, chín đời cùng sống trong một nhà, gia đ́nh to n thế đó! Thông thường, một nhà có bao nhiêu người? Nói chung, thường có khoảng ba trăm người. Chín đời sống cùng một nhà, nếu trong nhà chẳng có quy c th́ chẳng phải rối loạn tít mù ư? Đáng s lắm! Do đó, h t gia bèn có th tr quốc, tr gia và tr quốc chẳng khác ǵ nhau! Có kh năng và trí huệ để trị gia, s thể trị quốc. Đó là xă hội trước kia, quư v thấy: Rất coi trọng giáo dục, coi trọng vun bồi cội rễ.

      Vun bồi cội rễ tŕ giới. Phật môn nói đến chuyện tŕ giới, có cơ s như vậy th́ mới có th nhập Phật môn. Do đó, phước th nhất trong ba phước phước thế gian, chẳng phải xuất thế gian. [Thực hiện trọn vẹn phước th nhất] th́ đối với “thiện nam tử, thiện nữ nhân” như trong kinh Phật đă nói, quư vị mới đạt tư cách ấy, quư vị là thiện nam tử, thiện nữ nhân. Thiện nam tử, thiện nữ nhân mới có thể nhập Phật môn, tôn Thích Ca Mâu Ni Phật làm thầy, theo Phật học kinh giáo, nâng cao đức hạnh và định hu của chính ḿnh. V́ l đó, đối với điều th hai trong ba phước, quư vị thấy “thọ tŕ Tam Quy, trọn đủ các giới, chẳng phạm oai nghi”, đó là pháp xuất thế. Thọ tŕ Tam Quy, thật sự bái sư, bái Thích Ca Mâu Ni Phật làm thầy, tiếp nhận giáo huấn của Thích Ca Mâu Ni Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật dạy những ǵ? Dạy Tam Quy, Phật dạy quư vị điều này, Tam Quy là nguyên tắc ch đạo cao nhất trong việc học Phật. Quư v làm thế nào mới thể thành Phật? Phương pháp thành Phật lượng, biên, nên [đức Phật nói] lượng pháp môn. Vô lượng pháp môn xét đến cuối cùng, đến khi thật sự thành Phật, quy nạp lại th́ chỉ có ba môn, bất luận theo một môn nào trong ba môn này, quư vị chỉ cần đạt được một môn s thành Phật. Vô lượng pháp môn như vô lượng đường lối, bất luận quư v t đâu đến, h đến đại điện của Phật, đại điện ấy ch có ba cửa, theo bất c cửa nào để bước vào! H vào được một môn, môn nào quư vị cũng đạt đến, các pháp môn b́nh đẳng! Các pháp môn chính là ba môn Giác, Chánh, Tịnh được dạy bởi Tam Quy. Quy y Phật, Phật đại diện cho Giác môn, có thể thành Phật, giác chứ không. Môn th hai là Pháp, Pháp là Chánh môn, chánh tri, chánh kiến. Môn th ba là Tịnh môn, tâm địa thanh tịnh, tịnh mà bất nhiễm. Ba môn ấy là thành Phật chi môn”.

      Theo môn nào để vào? Căn tánh của mỗi người khác nhau. Nói thông thường, Giác môn khó nhất. Người thượng thượng căn và Thiền Tông đi theo môn này, Tánh Tông đi theo môn này, thượng trung h tam căn đều chẳngphần! Vậy th́ làm sao? Ba căn thượng, trung, hạ thường theo Chánh môn, tức là quy y Pháp, Phápchánh ch không tà. Môn này giống như cách t chức trong nhà trường, Tiểu Học, có Trung Học,Đại Học,nghiên cứu sinh. Q vị có thể tiến dần dần, học tập dần dần. Giác môn chẳng có [chuyện này]; Giác môn là một bước lên trời, chẳng có tầng cấp, có th tiến lên bèn thành Phật. Chẳng th đi lên th́ bất c điều cũng đều chẳng th thành. Giống như lên cầu thang, thu chúng tôi c̣n trẻ, học Phật, thầy bảo chúng tôi, Giác môn là ǵ? Giác môn giống như đi thang máy, sau khi bước vào, thang máy chạy đến tận tầng cao nhất mới m cửa cho quư v bước ra. Nếu quư vị chẳng có năng lực ấy, chẳng có năng lực ấy tức ba căn thượng, trung, hạ, s như thế nào? Trèo cầu thang! Pháp môn theo Chánh môn là trèo cầu thang; quư vị th trèo lên từng tầng một, cũng có thể tiến đến đỉnh. Pháp môn th ba tương đối đặc thù, tức là Tịnh môn chuyên tu tâm thanh tịnh, tâm địa thanh tịnh cũng có thể lên tới đỉnh. Hai tông phái thuộc Tịnh môn: Tịnh Độ Tông đi theo hạnh môn này, Mật Tông cũng theo hạnh môn này, Mật Tông là tu tâm thanh tịnh. Đều là tu tâm thanh tịnh, nhưng phương pháp tu hành khác nhau. Tịnh Tông như thế nào? Xa ĺa nhiễm ô, nên tu Tịnh Độ tương đối dễ dàng. Mật chẳng ĺa nhiễm ô, nên Mật đạt được thanh tịnh chắc chắn là phải cao hơn Tịnh, sao? Tu thanh tịnh trong nhiễm ô, đó là chân thanh tịnh. Chuyện này k b́nh phàm cũng chẳng th làm được, nên hiện thời, người tu Mật pháp thành tựu ít ỏi. Lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ cho tôi biết c học Mật, thầy Lư cũng học Mật, h đều bảo tôi “quá ư là khó!

      Tôi học Phật, thân cận [v thiện tri thức] đầu tiên là Chương Gia đại sư, Ngài là bậc đại đức trong Mật Tông. V này là người tốt, là thiện tri thức thật sự, sao? Ngài chẳng dạy tôi học Mật, dạy tôi học Hiển Giáo, học Giáo. sao không cho tôi học Mật? Ngài nói rất ràng. Ngài nói đối với Mật, lấy trường học để t d th́ Mật thuộc giai đoạn nào?lớp tiến sĩ, là lớp tiến sĩ thuộc viện nghiên cứu. Giáoǵ? Giáo là Đại Học, Trung Học, và Tiểu Học. Quư v phải học bắt đầu t Tiểu Học, tiến lên dần dần. Học xong Tiểu Học bèn học Trung Học. Học xong Trung Học bèn học Đại Học, học Đại Học xong bèn học nghiên cứu sinh, học xong nghiên cứu sinh rồi cuối cùng mới học lớp Tiến Sĩ. Do đó, lăo nhân gia bảo tôi:Người thật sự học Mậtai? T Địa trở lên. Chưa chứng đắc Địa, quư vị chẳng đủ tư cách để học Mật!” Giống như các lớp nghiên cứu sinh và tiến sĩ, phải thỏa điều kiện th́ mới có th theo học lớp Tiến Sĩ. Tôi mới hiểu rơ, Tịnh [trong Mật Tông] là thanh tịnh thật sự, chẳng giống như trong Tịnh Độ Tông. Tịnh Độ Tông là xa ĺa nhiễm ô, xa ĺa tiếng tăm, lợi dưỡng, tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ng nghỉ, để đạt được thanh tịnh. Mật chẳng giống như vậy, chẳng cần xa ĺa!

      Hiểu những đạonày, chúng ta là căn tánh ǵ, phải nên đi theo con đường nào, bản thân chúng ta chẳng nhận biết. Thầy là bậc cao nhân, nếu chúng ta chẳng nghe lời thầy, chẳng tôn trọng thầy, chẳng y giáo phụng hành, vậy th́ quư v phải t gánh lấy trách nhiệm, t gánh lấy nhân qu trong s tu học. Chúng ta y giáo phụng hành, hoàn toàn vâng theo thầy, trong tương lai ta học chẳng thành tựu, trách nhiệm ấy thầy phải gánh chịu. Thầy bảo ta làm như thế nào, ta liền làm như thế ấy, ta noi theo đường lối của thầy, chẳng sai! V́ thế, nếu chính ḿnh ư kiến, chẳng nghe lời thầy, th́ c ngạn ng có câu: “Chẳng nghe lời người già, chịu thua thiệt trước mắt”, thật sự thua thiệt, thua thiệt to lớn! Khi nào mới biết? Khi b thua thiệt, b lừa gạt rồi mới biết, hối chẳng kịp! Tôi nghe lời thầy, thưa cùng chư vị, tôi luôn hết sức tiếc nuối, tôi nghe lời thầy mấy phần? Khoảng chừng bảy phần, c̣n ba phần là ǵ? Hoài nghi, nên đời này tôi thành tựu rất hữu hạn. Nếu tôi nghe lời thầy một trăm phần trăm, s chẳng phải là t́nh trạng như hiện thời, tối thiểu là có th sánh bằng t sư, đại đức, có th đạt đến [cảnh giới] giống như Ấn Quang đại sư, Liên Tŕ đại sư, có thể đạt đến cảnh giới của các Ngài. Tôi học Phật sáu mươi năm, rất đáng tiếc, tôi chẳng hoàn toàn nghe lời, ch nghe bảy phần. Tôi dạy người khác, [họ] thể hoàn toàn nghe theo, bèn vượt trỗi tôi, tôi hoan hỷ, chẳng ganh tỵ, đúng là phải nên như thế! C nhân nói: “Thanh xuất ư lam, nhi thắng ư lam” (màu xanh phát xuất t màu chàm, nhưng trỗi vượt màu chàm). Đó là s thành tựu trong giáo học. Hy vọng duy nhất trong giáo học hy vọng học tṛ vượt trỗi chính ḿnh, thế giới này mới được cứu. T nay tr đi, mỗi thế hệ sau mạnh m hơn thế h trước. Nếu thế h sau chẳng bằng thế h trước, đáng thương quá! Chúng sanh phải chịu tội, phải gặp nạn! Mỗi thế h sau phải vượt trỗi thế h trước, đó là chánh xác. Trong quá khứ, chúng ta học tập đă phạm phải những lỗi lầm nào, mong thế h kế tiếp chẳng phạm cùng một lầm lỗi, h phải vượt trỗi chúng ta.

      Nguyên tắc ch đạo rành rẽ, minh bạch là trước hết, phải vun bồi giới luật vững vàng, đó là đức hạnh. Khổng Tử giáo học, điều th nhất là dạy đức hạnh, thứ hai là ngôn ngữ, th ba mới là chánh sự[1] và văn học. Chẳng có đức hạnh th́ làm sao được? Mà cốt lơi, cội nguồn của đức hạnh là “hiếu thảo cha mẹ, tôn trọng thầy”. hội hiện tại khuyết thiếu điều này, bất hiếu với cha mẹ, chẳng ư niệm tôn sư trọng đạo, làm sao có th học thành công cho được? Học tṛ chẳng biết tôn sư trọng đạo, chẳng biết hiếu thuận với cha mẹ, Phật, Bồ Tát đến dạy k ấy cũng dụng, chẳng dạy được! K ấy chẳng th tiếp nhận. Căn bản ấy nhất định phải được vun bồi t bé. T nhỏ, chúng ta đă sơ sót, chẳng vun bồi căn bản này; nay đă hiểu rơ, sau khi đă hiểu rơ bèn phát phẫn, n lực, học tập b sung khóa tŕnh trọng yếu này th́ được! Chẳng phải không được, hăy bổ sung thật nhiều, bổ sung bằng Đệ Tử Quy, Cảm Ứng Thiên Thập Thiện Nghiệp. Nhất định phải biết: Chẳng có những căn bản ấy, dẫu quư v tiếp tục n lực cho đến ba trăm năm, coi như quư v sống trường thọ, thể sống tới năm trăm năm, th́ năm trăm năm cũng chẳng thể thành tựu! V́ sao? Thiếu căn bản! Thật đấy, chẳng gi đâu! Chúng ta thấy những người thành tựu, có thành tựu khác thường, những ngườiy là ai? người thật sự hiếu thuận với cha mẹ, tôn kính trưởng, chẳngchút phân biệt nào, chẳngchút hoài nghi nào! Một trăm phần trăm dễ bảo, ngườiy thành tựu rất nhanh chóng. Người ấy tŕ giới tốt đẹp, do giới mà đắc Định, đắc tam-muội, nói thông thường bao nhiêu năm? Ba năm! S chẳng nhiều hơn năm năm, ngườiy đă đắc Định. Sau khi đắc Định hai, ba năm, trí huệ liền mở mang. Khi trí huệ đă m mang, ngườiy học tập tất cả hết thảy các pháp môn dễ dàng, đó là một môn thông, hết thảy các môn đều thông”.

      Nhưng trong quá tŕnh học tập, chỉ có thể học một môn, không thể học hai môn. Thầy cũng dạy chúng tôi như vậy, nhưng như thế nào? Chúng tôi chẳng tuân phục ư thầy, nên thầy mới bất đắc dĩ nói một câu như thế này: Học k càng một môn rồi mới học môn th hai”. Thầy bất đắc dĩ nói như thế, chúng tôi ngỡ là thật. Học k càng một môn xong bèn học môn th hai. Tôi tin tưởng thầy bảy phần, tôi học ǵ cũng đều là học một môn, môn ấy chẳng phải học một lần, mà là học mười lần rồi tôi mới học môn th hai. Cổ thánh tiên hiền dạy chúng ta “suốt đời học một môn”, chúng ta chẳng cam tâm, chẳng muốn vậy, luôn mong học nhiều một chút, sai bét rồi! Phải biết là cả đời học một môn th́ t môn ấy có th đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh. Suốt một đời quư vị chẳng thay đổi, chắc chắn s minh tâm kiến tánh, trong Giáo H gọi đó là đại khai viên giải”. Đại khai viên giải kinh điển chưa từng học, nhưng quư v vừa gi ra, chẳng có câu nào không hiểu rơ, thông suốt toàn bộ, đă khai hu mà! Chúng tôi dùng giáo huấn của cổ thánh tiên hiền để khuyên người khác, có người thật sự làm, thật sự thâm nhập một môn, suốt đời chẳng thay đổi, ngườiy có thành tựu cao hơn tôi. Người ấy rất khiêm hư, đó là đạo lư nhất định. C nhân Trung Quốc nói:Khi học vấn sâu xa, ư khí b́nh lặng”. Đức hạnh học vấn càng cao, càng khiêm hư, càng cung kính, chẳng chút tập khí ngạo mạn nào, học vấn chân thật mà! Chúng ta trông thấy bèn hoan hỷ, có người duy tŕ chánh pháp, chánh pháp sẽ tồn tại dài lâu trong cơi đời. Chỉ cần sau này có người, đó là một đại s khiến cho chúng ta vô cùng an ủi, vô cùng hoan hỷ. Ai có thể thành công? Ai nấy đều có thể thành công, vấn đề quư vị có chịu làm hay không? Qu nhiên thật thà nghe lời, thật sự làm, chẳng có ai không thành tựu. Ai nấy đều có th thành tựu, ai nấy đều là người kế thừa Thích Ca Mâu Ni Phật, nối tiếp hu mạng của Phật, ph độ chúng sanh, đều là [những người như vậy], chúng ta chịu làm hay không? V́ thế, đầu tiên là quyết định chớ nên coi thường giới luật, nó là căn bản của mọi căn bản.

      Đối với vấn đề này, lúc tôi c̣n trẻ, v́ tôi do học Triết Học mà tiến nhập Phật học, nên chẳng tin tưởng giới luật. Tôi theo Chương Gia đại sư ba năm, lăo nhân gia đúng là phương tiện thiện xảo, nay tôi mới biết lăo nhân gia từ bi, chỉ dạy tôi, dụng tâm nhọc nhằn. Ngài biết chúng tôi là k tr tuổi trong thời hiện đại, chẳng tin tưởng giới luật, lầm tưởng giới luật là khuôn phép sinh hoạt của ngườin Độ trong ba ngàn năm trước, chúng ta có nên học theo hay không? Chúng ta học Phật phải là tr lại ba ngàn năm trước hay không? Thời đại vĩnh viễn tiến lên phía trước, sao chúng ta lại thụt lùi? C sao thụt lùi v ba ngàn năm trước? Chúng ta là người Hoa, v́ sao phải học theo ngườin Độ? Tuy chúng tôi không nói ra quan niệm sai lầm ấy, nhưng thầy có trí huệ, thấy rất rơ ràng. Thầy chẳng qu trách tôi, mà cũng chẳng phê b́nh. V́ sao? Nếu thầy qu trách, phê b́nh, tôi s không theo thầy học nữa, s rời xa thầy! Thầy vô cùng thương yêu và quan tâm tôi. Tôi chỉ có một hai lần chẳng đến gặp thầy, thầy liền gọi điện thoại, hoặc sai người hầu gọi điện thoại cho tôi, hỏi tôi sức khỏe ra sao, v́ sao không đến? Đúng là yêu thương giống như cha m đối với con cái, tôi b thầy làm cho cảm động. Đối với chuyện giới luật, thầy rất xảo diệu. Mỗi tuần chúng tôi gặp mặt một buổi, thưa tŕnh cùng thầy những điều đă học trong một tuần, lại c̣n đem các vấn đề thỉnh giáo thầy. Mỗi lần học xong, khi tôi rời đi, thầy đều tiễn đến tận cửa, nh nhàng bảo một câu: “Giới luật rất trọng yếu”. Nói một câu như vậy, tôi nghe ước chừng mấy chục lượt, mỗi lần thầy đều nhắc tôi câu ấy!

      Tôi theo thầy ba năm, lăo nhân gia viên tịch. ch hỏa táng, có đặc biệt tạo dựng một cái tháp nhỏ, dành riêng cho thầy. Lúc đó, có Cam Châu Hoạt Phật và mấy người nữa dựng lều bên cạnh, canh gi ṭa tiểu tháp hỏa táng. Họ đó ước chừng t một tuần cho đến mười ngày, tôi trong lều ấy ba ngày. Trong ba ngày, tôi hết sức nghiêm túc phản tỉnh: Tôi theo lăo nhân gia ba năm, thầy dạy tôi những ǵ? Tôi học được những ǵ? Tôi nghiêm túc phản tỉnh. Vừa phản tỉnh, [bèn nhận thấy], điều đầu tiên là giới luật rất trọng yếu. sao thầy bảo tôi câu ấy nhiều lượt như vậy, nhưng chẳng nói t mỉ, mà c dùng một câu như vậy? Tôi liền nghiêm túc suy nghĩ vấn đề ấy. Suy nghĩ suốt hai tuần bèn v lẽ, tôi đă sai mất rồi! chúng ta học Phật, đă học Phật th́ phải dùng tiêu chuẩn của Phật, chẳng th dùng tiêu chuẩn của con người. Trước kia, trong quá khứ, chúng tôi có học Lễ, tức là L nói theo văn hóa truyền thống của Nho gia Trung Quốc. L của Tam Đại (Hạ, Thương, Châu) khác nhau. Ba triều đại Hạ, Thương, Châu có lúc hưng thịnh, có lúc suy vi; v́ thế, L có ch phải tu chỉnh, có ch phải thay đổi, giống như hiến pháp và pháp luật của quốc gia, cứ trải qua một khoảng thời gian lại cần phải tu chỉnh. Nay chúng ta học Phật, học Phật mong thành Phật, nhưng hiến chương và pháp luật thành Phật chẳng th sửa đổi. H sửa đổi, s chẳng th thành Phật. Tôi đă nghĩ thông đạo lư như vậy, mới biết Tam Quy, Ngũ Giới và những th trong Luật Tạng là đạo thành Phật, chẳng phải pháp luật thế gian, nên chẳng th sửa đổi. Tôi nghĩ thông suốt đạo lư ấy, quan niệm sai lầm v giới luật mới được sửa đổi đúng đắn.

      Chương Gia đại sư dùng [thời gian] ba năm, lại c̣n th hiện viên tịch, khiến cho tôi nghiêm túc phản tỉnh, hiểu rơ. Nếu thầy chẳng viên tịch, tôi s chẳng th phản tỉnh đạo lư ấy, vĩnh viễn gi măi quan niệm sai lầm v giới luật. Người hiện thời phạm lỗi lầm như tôi quá ư là nhiều, chẳng kiếm được người nào không phạm! Lại c̣n có k có quan niệm sai lầm nghiêm trọng hơn tôi; tôi có th phản tỉnh, h chẳng th phản tỉnh. Tôi phản tỉnh là do Chương Gia đại sư thị hiện. Thầy không th hiện như vậy, tôi s chẳng phản tỉnh, mới biết do Giới đắc Định, nhân Định khai Huệ. Đầu tiên, quư vị chẳng coi trọng Giới, làm sao đắc Định cho được? Làm sao có th khai trí huệ cho được? Quư vị học suốt đời, dẫu học tốt đẹp cách mấy, ch thể làm một nhà Phật học, hiện thời có th giành được mảnh bằng tiến sĩ Phật học, học được ǵ? Kiến thức v Phật pháp, chẳng phải trí huệ. Huệ do Giới và Định mà có. Quư v chẳng Giới Định, s chẳng có trí huệ. Những ǵ q vị học thường thức, tri thức. Tri thức có thể giải quyết vấn đề hay không? Không thể giải quyết vấn đề. Quư vị có tri thức ấy, xác thực là có th giành được học v Tiến Sĩ, thể làm một vị giáo sư, phương Tây gọi quư v là một nhà Hán học, hoặc nhà Phật học, quư vị th đạt được những điều ấy, nhưng chẳng có mảy may liên quan ǵ đến việc sanh tử, khai trí hu và chứng qu của chính ḿnh. Quư vị thấy những th ấy rất trọng yếu. Nói chung, chúng ta phải nhận thức rơ rệt giữa pháp thế gian và xuất thế gian. Do đó, nếu chúng ta học Phật, quư vị chẳng th không coi trọng giới luật. Nếu q vị coi trọng giới luật, chẳng th không thực hiện t ba căn bản Đệ T Quy, Cảm Ứng Thiên và Thập Thiện Nghiệp. Nếu quư vị chẳng thực hiện t ba căn bản ấy, chẳng th đạt thành tựu, thật đấy, chẳng gi đâu!

      Tôi c đời này chẳng có phước báo, do trong đời quá khứ chẳng tu phước, nên suốt cuộc đời lênh đênh, chẳng ch nào c định, chẳng có một hoàn cảnh an định để học tập, t đầu đến cuối chẳng có duyên phận ấy. Thường muốn c định, nhưng quư vị thấy tôi đến nay đă tám mươi bốn tuổi, vẫn chưa ổn định được. Chuyện này khiến cho tôi thường cảm thấy tiếc nuối. Bôn ba khắp nơi, nói cho d nghe là “rộng kết pháp duyên”, nhưng đối với sự vun bồi cơ sở Định Hu của chính ḿnh, xác thực là có chướng ngại rất lớn. V́ lẽ, người hiện thời phải tu phước, loại phước báo nào lớn nhất? Giúp đỡ, tạo cho người học một hoàn cảnh an định, khiến cho ngườiy thật sự học tập mười năm hoặc hai mươi năm trong hoàn cảnh ấy, ngườiy s thành tựu. Giúp một người thành Phật, phước báo to lắm! C̣n to hơn c trời nữa. Tôi tin tưởng người kh năng ấy rất nhiều, cũng có người cái tâm ấy! Nhưng h hỏi tôi: “Pháp sư Tịnh Không! Thầy hăy thay tôi t́m một người”. Tôi bảo họ: “Tôi t́m chẳng ra, chưa từng thấy”. Người nào có th h quyết tâm, tr tại một nơi trong mười năm hoặc hai mươi năm chẳng ra khỏi cửa, ḥng thành tựu Tam Học Giới, Định, Hu của chính ḿnh? Hiện thời, chẳng t́m thấy một người như vậy! Quư vị thấy đó, khó lắm! Người thật sự mong tu phước, t́m một người phước như vậy chẳng ra! Muốn t́m một người thật sự tu hành, t́m hoàn cảnh tu hành ấy cũng chẳng ra, duyên khác nhau! Đó là gặp duyên khác nhau! Chúng tôi nói những lời này, đều nhằm nói: Biện tài do trí huệ có, trí huệ do Giới và Định mà có. ChẳngGiới Định, s chẳng có trí huệ. Chẳng có trí huệ, bèn chẳngbiện tài. Chẳngbiện tài, sẽ chẳng thể giáo hóa chúng sanh. Ch nên không biết điều này!

      Nay chúng ta thấy trong kinh nói bốn th Ngại Biện Tài. Loại th nhất là “nghĩa vô ngại biện”. Nghĩa là nghĩa lư, tức là đạo lư, nguyên lư, và nguyên tắc được nói trong ấy đều thuộc v loại Nghĩa Vô Ngại Biện. “Vị liễu tri nhất thiết chư pháp nghĩa lư, thông đạt vô trệ cố” nói biết nghĩa lư của hết thảy các pháp, thông đạt chẳng tr ngại). Liễu () hiểu, tri() biết, quư vị thấy nghĩa lư của hết thảy các pháp. Vấn đề này đang được các triết gia trong thế gian nghiên cứu, các nhà khoa hc cũng đang nghiên cứu vấn đề này, c̣n có các nhà tôn giáo [cũng thế]. Trọng yếu nhất, thâm áo nhất trong các nghĩa ǵ? Vũ trụ do đâu mà có? Vạn sự, vạn vật do đâu mà có? Ta do đâu mà có? Quư v do đâu mà có? Người khác do đâucó? V́ sao có những chuyện ấy phát sanh? Sau khi phát sanh, những chuyện ấy diễn biến như thế nào, cuối cùng lại có kết qu như thế nào? Những điều ấy đều là các câu hỏi lớn, đều là nghĩa lư. Ai biết? Nay chúng ta có th nói, đức Phật biết chuyện này! Người Hoa b́nh phàm thường nói “trời biết”. Câu nói “trời biết” hàm ư “chẳng ai biết”, có ư nghĩa ấy. Sau khi chúng ta học Phật, [liền hiểu] trời cũng không biết! Trời phàm phu! Dục Giới Thiên không biết, Sắc Giới Thiên, Sắc Giới Thiên cũng không biết. Không chỉ bọn h không biết, ngoài hai mươi tám tầng trời ra, Thanh Văn, Duyên Giác, Tiểu Thừa cũng không biết. Lại lên cao hơn, Quyền Giáo Bồ Tát, Phật trong mười pháp giới, các Ngài có biết hay không? Không biết! Nếu các Ngài biết, s chẳng mê! Nhưng trong Phật pháp, học điều ǵ? Chính là học ư nghĩa này, hiểu rơ ràng, rành mạch hết thảy vạn sự vạn vật trong toàn th vũ trụ, k c bản thân chúng ta, tánh, tướng, Lư, Sự, nhân, quả. Đó Phật.

      Phật cũng có tầng cấp. Các Ngài tuy đều biết, nhưng trong ấy cũng có cạn, sâu sai khác, chẳng giống nhau. Kinh Hoa Nghiêm nói bốn mươi hai tầng cấp. Những người thuộc bốn mươi hai tầng cấp ấy, tức là Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác có biết những điều ấy hay không? Đều biết cả! Tuy đều biết, nhưng có sâu hay cạn sai khác bất đồng. T dụ như Thập Trụ tuy biết, nhưng Thập Trụ phải kém hơn Thập Hạnh một bậc. Tuy đều biết, Thập Hạnh sẽ giảng giải rơ ràng hơn Thập Trụ. Thập Hồi Hướng lại hiểu rơ hơn Thập Hạnh, coi như đạt đến Thập Địa mới có thể nói là hiểu rơ rốt ráo. sao? Các Ngài đích thân thấy, sáu căn trông thấy, thấy nguyên khởi của trụ, hết thảy chúng sanh kể c chính ḿnh phát sanh như thế nào, các Ngài cũng trông thấy, nhưng chẳng thấy rơ ràng cho lắm! Nếu chẳng th hoàn toàn thông đạt, hiểu rơ những nghĩa lư ấy, làm sao các Ngài có th nói được? Thích Ca Mâu Ni Phật trông thấy, nói rơ ràng, minh bạch chuyện này. Ngài nói chuyện này trong Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Kinh Hoa Nghiêm nói ǵ? Những vấn đề đang được khoa học và triết học thảo luận trong hiện thời như vũ tr vĩ mô, to vô hạn, thế giới vĩ mô, Lượng Tử Lực Học,nhỏ nhưng chẳng trong”, vĩ mô là “lớn mà chẳng ra ngoài. Quư vị thấy hai câu thành ng ấy, t hai ngàn năm trăm năm trước, nhằm thời đại Khổng Tử, đă có câu nói: Lớn mà chẳng ra ngoài, nhỏ mà chẳng vào trong”. [Câu nói ấy] chẳng do người hiện thời nói, do c nhân nói. Hai câu ấy nói đến chuyện ǵ? Nói thật ra, đó chính là kinh Hoa Nghiêm.

      Lúc đó, Phật pháp chưa truyền đến Trung Quốc, v́ sao người Trung Quốc th nói được? thể nói c thánh tiên hiền chẳng phải Phật, Bồ Tát tái lai ư? Tôi không tin. Kinh đă dạy rất rơ ràng, nên dùng thân ǵ để độ được, bèn hiện thân ấy. Người Hoa tin tưởng thánh hiền, nên Phật, Bồ Tát đến Trung Quốc bèn th hiện thân thánh hiền. Nên dùng thân thánh nhân để hóa độ, các Ngài bèn hiện làm thánh nhân. Nên dùng thân hiền nhân để hóa độ, các Ngài bèn hiện làm hiền nhân. Thuở trước, khi học kinh giáo với thầy Lư, tôi đă có cách nh́n này, tôi thỉnh giáo thầy Lư. Tôi nói: “C thánh tiên hiền của Trung Quốc như Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn Vương, Vơ Vương, Châu Công, những v như Khổng Tử, Mạnh Tử, những người như Lăo, Trang, có phải là chư Phật Như Lai ứng hóa phương Đông, hiện ra các thân ấy hay không?” Thầy cười, bảo tôi: Nói theo Lư th́ suông, nhưng xét theo Sự, chưa có chứng cứ”. V mặt Sự, các v ấy chẳng nói h là Bồ Tát nào tái lai. H chưa từng nói đến, chưa từng nêu ra, nên chẳng có chứng cứ; nhưng xét theo Lư, chắc chắn là thông suốt. Sau này, tôi qua lại cùng rất nhiều tôn giáo, tôi cũng thường đọc các kinh điển của những tôn giáo ấy, tôi cũng có một cách nghĩ như thế này: Những v thần thánh, tiên tri, sứ giả trong tất c các tôn giáo cũng đều là hóa thân của Phật, Bồ Tát, chẳng th nào gi được! Nói đến mức tuyệt diệu nhất vẫn là tám ch “lớn mà chẳng ra ngoài, nhỏ nhưng chẳng vào trong”. Haiu này tuyệt diệu, bao gồm trọn hết tất c khoa học và triết học hiện tại. Đức Phật nói hay quá! Theo báo cáo mới nhất của khoa học hiện tại, h nói nhân loại hiện thời có th quan sát, tức là dùng những dụng c tinh vi để quan sát vũ trụ, toàn th không gian, ch có thể thấy được mười phần trăm, c̣n chín mươi phần trăm chẳng thấy! H thấy hiện tượng vũ tr là hiện tượng bành trướng[2], chín mươi phần trăm chẳng thấy! Đối với lời ấy, chúng ta là người đă đọc kinh Hoa Nghiêm, thật sự khế nhập Hoa Nghiêm đôi chút, nghe câu ấy bèn hiểu rơ: H thật sự chẳng thấy! Đến đâu để thấy, h chẳng biết, nhưng chúng ta biết, đến nơi đâu để thấy chín mươi phần trăm? Trở về tự tánh. Tr v t tánh, quư vị chẳng t́m thấy. Tr v Thường Tịch Quang, quư vị đến nơi đâu để t́m? Đúng là như thế đó! V́ thế, các nhà khoa học có th nói ra câu này chẳng đơn giản!

      Trong Phật pháp, chúng ta tu hành, tiến cao hơn từng cấp một. Đoạn Kiến Tư phiền năo, lục đạo chẳng c̣n, quư v tiến cao hơn. Trong lục đạo chẳng thấy quư vị. Tiến cao hơn, nơi đâu? Trong bốn thánh pháp giới. minh đă phá, bốn thánh pháp giới chẳng c̣n nữa, t́m chẳng thấy mười pháp giới, đến nơi đâu? Đến Nhất Chân pháp giới, là cơi Thật Báo của chư Phật. Đoạn sạch tập khí căn bản minh, cơi Thật Báo chẳng c̣n. Cơi Thật Báo cũng chẳng thật. Phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng. Đức Phật chẳng nói cơi Thật Báo của chư Phật Như Lai ngoại lệ. Chẳng h nói, v́ thế, cơi Thật Báo vẫn vọng. Đoạn sạch vô thỉ vô minh, bao lâu sẽ đoạn sạch? Trong kinh giáo, đức Phật bảo là ba đại A-tăng-kỳ kiếp. Chư vị phải biết: Ba đại A-tăng-kỳ kiếp chẳng phải nói v thời gian chúng ta tu hành. Thời gian chúng ta tu hành thành Phật lượng kiếp. Tính t ngày đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, quư vị phá vô minh, nhưng tập khí minh chưa đoạn. Tập khí minh rất khó đoạn. Chẳng cần quan tâm đến tập khí minh, dần dần t nó s chẳng c̣n, thời gian dài bao lâu? Ba đại A-tăng-kỳ kiếp. Đến khi đó, tập khí hoàn toàn chẳng, cơi Thật Báo cũng chẳng, đó chính là “phần vũ trụ chẳng thấy được” như các nhà khoa học đă nói, tr v Tịch Quang, trở về tự tánh. Trở về tự tánh, có khởi tác dụng hay không? Khởi tác dụng. Trong t tánh, tuy th ǵ cũng đều chẳng, hiện tượng tinh thần chẳng, hiện tượng vật chất chẳng, nhưng nó có thể hiện. sao nó có th hiện? Chúng sanh có cảm, nó bèn hiện, nó có thể cảm ứng đạo giao cùng tất cả hết thảy chúng sanh trong mười pháp giới. Khoa học chẳng có cách nào lư giải s cảm ứng đạo giao ấy, sao?tương ứng với Thường Tịch Quang, tương ứng với tự tánh, chẳng tương ứng với mười pháp giới; nó cũng chẳng tương ứng với cơi Thật Báo. l đó, phát hiện của các nhà khoa học rất có lư, dùng Phật pháp để giải thích s giải thích thông suốt. Điều h c̣n đang nghi vấn, chúng ta đă hiểu rất rơ rệt.

      ch nào có th nh́n ra chân tướng sự thật này? Tự tánh vốn định. Khi Huệ Năng đại sư khai ngộ đă nói: Nào ngờ tự tánh, vốn chẳng dao động”, câu này nóitự tánh vốn định. Tự tánh vốn định ắt phải sáu căn trong cảnh giới sáu trần mà chẳng khởi tâm, không động niệm, tự tánh vốn định bèn l ra, quư vị mới có thể thấy chân tướng sự thật. Q vị thấy thế giới vi mô càng thấu triệt hơn Lượng Tử Lực Học hiện thời. Phát hiện của Lượng Tử Lực Học c̣n kém những điều được nói trong kinh Phật rất lớn. Trong thế giới vĩ mô, h nói chín mươi phần trăm chẳng thấy, th́ như chúng tôi vừa mới báo cáo cùng chư vị, trở về tự tánh. Hết thảy các pháp lưu l t tự tánh, cuối cùng vẫn tr v tự tánh. Các hiện tượng ấy là tự nhiên, trong kinh Phật một thuật ng là “pháp nhĩ như thị, [có th hiểu là] quy luật tự nhiên vốn như vậy. Đó là một s đại tuần hoàn, tr v t tánh mới thật sự đại viên măn. Do đó, sanh v cơi Thật Báo Trang Nghiêm chưa phải thật sự viên măn; trở về Thường Tịch Quang mới là thật sự viên măn. Chúng ta thấy bốn loại ngại biện tài này, hàng Pháp Thân đại sĩ mới có, kẻ b́nh phàm há có năng lực ấy? Nay chúng ta liễu giải các hiện tượng này do dựa vào kinh Hoa Nghiêm. Đọc kinh Hoa Nghiêm mới biết, lư luận là như vậy đó!

      Loại th hai, Pháp Vô Ngại Biện. Vị đạt nhất thiết chư pháp danh tự, phân biệt vô trệ cố (Pháp Vô Ngại Biện, nghĩa là thông đạt danh t của hết thảy các pháp, phân biệt chẳng tr ngại). Loại th hai và loại th ba nói đến phương pháp. Đầu tiên nói v pháp, pháphết thảy các pháp, [ở đây là] nói theo pháp tướng, phần trên là nói theo Lư, tức Lư của hết thảy các pháp. đây là tướng của hết thảy các pháp, hiện tướng, quư vị th biết danh t của hết thảy các pháp. Danh t do đâu mà có? Danh t do con người đặt ra. Bất luận là ai, bất luận người nước nào, hiện nay nói là người thuộc bất luận tinh cầu nào, bất luận chúng sanh thuộc không gian bất đồng nào, đều đặt tên cho các pháp. Quư v đều biết, chẳng cần học mà biết toàn bộ. Có thật hay không? Thật đấy. Có chứng cớ! Q vị thấy tiến sĩ Giang Bổn Thắng của Nhật Bản làm thí nghiệm với nước. Nước có năng lực như thế đó, nó chưa h học, nhưng chúng ta viết ch Hán, nó nhận biết. Quư v viết tiếng Anh, nó cũng nhận biết. Tiếng Tây Ban Nha cũng nhận biết. Có rất nhiều văn t của th dân đối với đều chẳngchướng ngại, chúng ta biết đó là năng lực sẵn có trong t tánh. Trong các chiều không gian khác nhau ngoài không gian, h đặt tên cho vạn s vạn vật, người minh tâm kiến tánh đều biết toàn bộ, đều nhận biết. V́ vậy, nước có th thấy, nghe những ngôn ngữ, âm thanh ấy chẳng chướng ngại; lại c̣n hiểu ư nghĩ của con người. Chẳng cần nói chuyện, q vị khởi tâm động niệm, nó liền biết toàn bộ. Ư niệm của quư vị thiện, quư vị thấy nó s đáp trả bằng kết tinh vô cùng đẹp đẽ, quư vị thấy ngay! Ư niệm của quư vị bất thiện, kết tinh rất xấu xí, rất khó coi. Tiến sĩ Giang Bổn Thắng thí nghiệm mười mấy năm, mỗi ngày đều làm thí nghiệm c ngàn lần. H có một nhóm nhỏ, tôi đến thăm pḥng thí nghiệm của ông ta hai lần, là thật, chẳng giả, khoa học gia thừa nhận. Do đó, Tánh Đức chẳng thể nghĩ bàn.

 Th ba, Từ Vô Ngại Biện. Ư chư pháp danh tự nghĩa lư, tùy thuận nhất thiết chúng sanh thù phương dị ngữ, vị kỳ diễn thuyết, năng linh các các đắc giải cố” (Từ Vô Ngại Biện: Đối với danh từ, nghĩa lư của các pháp, thuận theo ngôn ngữ khác biệt của hết thảy chúng sanh ở các nơi khác nhau mà v́ họ diễn nói, khiến cho ai nấy đều được hiểu). Từ () ngôn ngữ. Q vị có năng lực hằng thuận chúng sanh. Bất luận ngôn ngữ hoặc văn t nào, quư v chẳng cần học mà thông hiểu toàn bộ. Hễ tiếp xúc liền thông hiểu, sao? Hết thảy các pháp chẳng ĺa tự tánh. Trong kinh Đại Thừa, đức Phật thường dạy chúng ta: Những pháp ấy do đâu mà có? Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến. Tự tánh chân tâm, ngoài tâm chẳngpháp, ngoài pháp chẳngtâm. Chỉ cần chân tâm trông thấy, chân tâm hiện ra vạn pháp. Toàn th vũ trụ, Phật pháp nói làkhắp pháp giới hư không giới”, quư vị hiểu rơ toàn bộ, chướng ngại cũng đều chẳng. Chẳng có ǵ không biết, chẳng có ǵ không nói được, vô ngại biện tài mà!

      Thứ tư, Nhạo Thuyết Vô Ngại Biện, vị tùy thuận nhất thiết chúng sanh căn tánh sở nhạo văn pháp nhi vị thuyết chi, viên dung vô trệ cố” (Nhạo Thuyết Vô Ngại Biện, nghĩa là thuận theo căn tánh và pháp muốn được nghe của hết thảy chúng sanh mà v́ họ diễn thuyết viên dung chẳng trệ ngại). Loại thứ bốn này là đại đức trong tứ biện tài. Đức lớn ấy là hoan hỷ nói, chẳng cần quư vị phải thỉnh giáo, rất nhiệt tâm, h gặp quư v liền bảo ban. Đức Phật có thể quán, [tức là] xét căn tánh của hết thảy chúng sanh, nói pháp tương ứng với căn tánh của quư vị, nên q vị có thể nghe, hiểu, có th lư giải. Những th quư v nghe chẳng hiểu, Ngài s không nói. Những th quư vị chẳng cần biết, Ngài chẳng nói. Ứng thuyết pháp, hoan h thuyết pháp. Đó là nhạo thuyết”. Nhạo () là vui vẻ. đây, chữ này không đọc là Lạc, Lạc vui sướng, phải đọc là Nhạo. “Nhạo” là ưa thích, mến chuộng, yêu thích, mang ư nghĩa ấy, [nên nói là] “nhạo thuyết”. V́ thế, điều này đức. Nếu ngườiy chẳng ưa nói, tuy có những biện tài trước đó, chúng sanh chẳng đạt được lợi ích. Chúng sanh được lợi ích là do ngườiy đại từ đại bi, ưa thích nói, ch động nói với chúng ta. Thuở tại thế, Thích Ca Mâu Ni Phật ưa thích nói, h gặp k khác bèn nói. người, Phật nhất định chờ k ấy lên tiếng hỏi, nêu lên câu hỏi rồi Phật mới nói. Có những người chẳng hỏi han ǵ, đức Phật vẫn nói với họ. B kinh này do A Nan hỏi, đức Phật mới nói. Kinh Di Đà chẳng ai hỏi, do chính đức Phật tự nói. Ai có th hỏi, ai chẳng th hỏi, đức Phật đều biết, chẳng có ǵ không biết. Do đó, nên dùng thân ǵ để đắc độ, Ngài bèn hiện thân ấy. Phải nên thuyết pháp nào, lúc này, ch này, quư vị hiện đang thuộc vào giai đoạn nào, quư vị cần biết pháp ǵ, đức Phật đều có th nói, đều có th giúp đỡ, giải quyết hết thảy những nghi nan tạp chứng hiện tiền, ḷng t bi đấy!

      Trong ấy, quan trọng nhất là giúp quư vị phá mê khai ngộ. Đấy mới là ư nghĩa chân thật trong vô lượng biện tài của đức Phật, dụng ư chân chánh là giúp quư vị phá mê khai ngộ. Rốt cuộc mục tiêu như thế này: Giúp quư vị đại triệt đại ngộ, giúp quư vị minh tâm kiến tánh, giúp quư vị viên thành Phật đạo, đóPhật giáo. Chỉ có người thật sự đạt được lợi ích chân thật do s giáo hóa của đức Phật th́ mới biết cảm ơn. Chưa đạt được lợi ích chân thật, tâm cảm ơn ấy đều chẳng phải là chân thật. Nói ân đức của Phật to như thế nào, k ấy chẳng biết. K ấy hoặc, điên đảo, làm sao biết được? Ngày nào k ấy giác ngộ th́ mới hiểu, mới sám hối. Đức Phật đời đời kiếp kiếp quan tâm, nhưng [chúng sanh] chẳng biết cảm ơn. Tuy h chẳng biết cảm ơn, đức Phật vẫn quan tâm, chăm sóc, trọn chẳng nói “các ngươi chẳng cảm ơn, ta sẽ không bận tâm đến các ngươi nữa”. Thậm chí quư v khinh lờn, nhục m Phật, Bồ Tát, hủy diệt Phật, Bồ Tát; Phật, Bồ Tát vẫn quan tâm, chăm sóc. Q vị thấy các Ngài t bi đến mức ấy, chẳng phải là tri kiến phàm phu! sao? các Ngài biết hết thảy vạn pháp trong khắp pháp giới hư không giới các Ngài là một Thể, do cùng một t tánh hiện ra, do cùng một t tánh sanh ra, là “cùng một t tánh, cùng một Th”. Sách Hoàn Nguyên Quán gọi cái Th ấy là tự tánh thanh tịnh viên minh thể”. Chư Phật Như Lai sanh từ t tánh ấy, mà lũ chúng sanh đông đảo chúng ta cũng sanh t đó. Súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục, cây cối, hoa, cỏ, núi, sông, đại địa đều sanh t nó, cùng một Thể. Quư vị làm chuyện sai trái, làm chuyện xấu xa, lầm lỗi ǵ, các Ngài chẳng bận ḷng. Trong tâm quư vị th này th nọ, ch tâm các Ngài sạch làu, hoàn toàn chẳng có [vướng mắc ǵ]. Đó chính là chân tâm, t tánh của quư vị, nhưng chính quư vị đă mê mất. Nay quư vị đang s dụng vọng tâm, sử dụng vọng niệm. V́ l đó, Phật có thể viên dung vô ngại, hết thảy chúng sanh thị hiện, thuyết pháp.

      Thượng biểu chư Đại khế ư thánh trí, đắc vô ngại chi biện tài, thiện ứng căn, quảng tuyên diệu biện, cố viết: Đắc Phật biện tài” (Các thuyết trên đây cho rằng các bậc Đại Sĩ khế hợp thánh trí, đắc vô ngại biện tài, khéo thích ứng căn cơ, giảng giải rộng răi, bàn luận khéo léo, nên bảo là “đắc Phật biện tài”). Do đó, chúng ta học Phật, hiểu đạo lư này, biết do công phu Giới, Định, Huệ cao hay thấp th́ mới có th khôi phục ngại biện tài nơi t tánh của chính ḿnh. Nếu không t Giới, Định, Huệ, nương vào học rộng nghe nhiều kinh giáo, th́ dường như cũng có biện tài vô ngại, nhưng đó có phải là biện tài như kinh đă nói hay không? Chẳng phải! V́ quư vị chẳng có trí huệ, quư v vẫn b tập khí phiền năo nắm quyền làm chủ, lấy đâu ra biện tài? Biện tài kiểu đó gặp người ta đưa ra câu hỏi, quư vị vẫn chẳng có cách nào giải đáp. Sau khi trí huệ đă khai, chẳng th nào có hiện tượng ấy, [bất c câu hỏi nào cũng] đều có thể giải đáp.

Đoạn cuối cùng: Chân Giải phục tấn nhất giải viết(Sách Chân Giải lại c̣n giải thích rộng thêm như sau). V đại đức Nhật Bản này rất giỏi, những câu nói ấy đều xuất phát t kinh Phật. “Nhược y Căn Bản Giáo, đản thuyết nhất tự, diệc vi đắc Phật biện tài, truyền Như Lai như thật ngôn cố. Bất đản thử Bồ Tát nhĩ, phàm phu thuyết diệc đồng chư Phật biện tài. Tán dương Phật huệ công đức, khai hóa thập phương hữu duyên nhi dĩ” (Nếu nương theo Căn Bản Giáo, chỉ nói một chữ cũng là đắc Phật biện tài v́ truyền lời chân thật của Như Lai vậy. Không chỉ những Bồ Tát này được như thế, mà lời của phàm phu nói cũng giống như biện tài của chư Phật. Tán dương công đức Phật huệ chỉ nhằm để khai hóa kẻ hữu duyên trong mười phương mà thôi). Lời này nói rất hay, sách Chân Giải đúng là nói rất hay, “nương vào Căn Bản Giáo”. Căn Bản Giáo là ǵ? Không khởi tâm, không động niệm là Căn Bản Giáo; khởi tâm động niệm chẳng phải Căn Bản Giáo. Không khởi tâm, không động niệm, chỉ nói một chữ mà có th hiển th biện tài trong t tánh, ch nào vậy? Nói thông thường th́ là ch Phật. Ch nói một ch Phật này là được rồi, toàn b đều được biểu thị. Nếu nói theo ư nghĩa càng sâu hơn, bất c ch nào, không nhất định phải là ch Phật, bất c ch nào [cũng được], v́ sao? Một chính là hết thảy, hết thảy chính là một, nó lưu l t t tánh. Bất c ch nào cũng đều t t tánh lưu lộ, đều tr v tự tánh. Ư nghĩa này quá sâu, quá mầu nhiệm! Q vị hiểu đạo lư này, quư vị mới biết trong Thiền Tông một loại ứng đối gọi là “Thiền cơ”. H nói chuyện, chúng ta bên cạnh, nghe không hiểu, chẳng biết nghĩa là ǵ. Những điều đó đều thuộc loại “nương vào Căn Bản Giáo”, nói một chữ, nói hai chữ, nói một câu, nói hai câu đều chẳng sao cả. Đó thật sự biện tài của Phật. Thật s hiểu, người ấy cũng nhập cảnh giới. Nếu ngườiy chẳng nhập cảnh giới này, s không hiểu. Cũng có nghĩa là nếu ngườiy chưa đắc Căn Bản Trí, ngườiy cũng không hiểu. Người đắc Căn Bản Trí th́ đôi bên có thể thông hiểu lẫn nhau, thể thấu hiểu. Chưa đắc Căn Bản Trí mà dùng phương pháp này th́ sai mất rồi, vẫn phải dùng phương pháp thế gian th́ người thế gian mới hiểu. Đó là thuyết pháp thích ứng căn cơ, đối với loại người nào nên dùng phương pháp nào. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tập tới ch này.

 

Tập 130

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Lượng Thọ Kinh Giải, trang một trăm bốn mươi tám, ḍng th sáu đếm t dưới lên, xem t câu th hai:

      Chân Giải phục tấn nhất giải viết: Nhược y Căn Bản Giáo, đản thuyết nhất tự, diệc vi đắc Phật biện tài, truyền Như Lai như thật ngôn cố. Bất đản thử B Tát nhĩ, phàm phu thuyết diệc đồng chư Phật biện tài. Tán dương Phật huệ công đức, khai hóa thập phương hữu duyên nhi dĩ” (Sách Chân Giải lại c̣n giải thích rộng thêm như sau: “Nếu nương theo Căn Bản Giáo, chỉ nói một chữ cũng là đắc Phật biện tài v́ truyền lời chân thật của Như Lai vậy. Không chỉ những Bồ Tát này được như thế, mà lời của phàm phu nói cũng giống như biện tài của chư Phật. Tán dương công đức Phật huệ chỉ nhằm để khai hóa kẻ hữu duyên trong mười phương mà thôi”). Ngày hôm qua chúng ta học đến câu này. Trong ấy có ư nghĩa rất sâu, rất đáng cho chúng ta học tập. Nương vào Căn Bản Giáo: Căn bản là tự tánh, hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian đều lưu l t t tánh, cuối cùng vẫn trở về tự tánh. Đó là pháp căn bản, giống như Hiền Th quốc sư đă nói trong Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán. “Đản thuyết nhất tự” (ch nói một chữ): Chúng ta nêu ra một chữ, nêu ra một ch Phật; trên thực tế, một chính là hết thảy, hết thảy chính là một. Bất c ch nào cũng đều được, bất c pháp cũng đều được, sao?chẳng ĺa tự tánh. Chúng ta phàm phu, chưa đạt đến tầng cấp này, chẳng đạt đến cảnh giới cao như thế. Dùng t d để nói, chúng ta s d tiếp nhận hơn. Phật có nghĩa là ǵ? Kinh điển đă dạy: [Phật có] ư nghĩa giác ngộ. Dựa vào đâu để giác ngộ? Trí huệ. ư nghĩa hoàn toàn giống như Giới, Định, Huệ đă nói trong các phần trước. Hu sẵn có trong tự tánh, Định th́ sao? Giới luật th́ sao? Đều là sẵn có trong t tánh. Ĺa khỏi t tánh th́ t́m đâu ra Giới, Định, Huệ? Do đó, chúng ta phải biết: Giới, Định, Huệ là Tánh Đức, tự tánh vốn sẵn có trí huệ và đức tướng, trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đă nói rất nhiều.

      Trong hết thảy các pháp chân, vọng,, chánh, Lư, Sự, nhân, quả, đều có th giác liễu minh đạt, đều giác ngộ, đều hiểu, đều thông đạt, chẳng b chướng ngại. Do đó, trong Phật môn một câu: “Pháp nào chẳng phải là Phật pháp?” Đức Phật dạy:Hết thảy chúng sanh vốn là Phật, ư nghĩa bao hàm trong từ ngữ hết thảy chúng sanhrất rộng. Người b́nh phàm chúng ta có thể biết đến toàn là người, [nên thường nghĩ] dường như hết thảy chúng sanh đều là người. Hết thảy mọi người vốnPhật, súc sanh có phải là Phật hay không? Ngạ quỷ có phải là Phật hay không? Quỷ thần có phải là Phật hay không? Hoa, cỏ, cây cối có phải Phật hay không? Núi, sông, đại địa có phải Phật hay không? Gió, mây, mưa, tuyết, các hiện tượng t nhiên phải là Phật hay không? Tất c đều là! sao? Chúng do các duyên ḥa hợp sanh ra, nên được gọi là “chúng sanh”. thế, “chúng sanh” không ch là nói v nhân loại chúng ta. Nói theo khoa học hiện thời, theo cách phân loại của khoa học, hết thảy vạn sự vạn vật được chia thành ba loại lớn: động vật, thực vật, khoáng vật. Phật pháp phân chia càng t m hơn, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới. Chánh báo là chính ḿnh, y báo là hoàn cảnh. Trong hoàn cảnh có hoàn cảnh nhân sự, có hoàn cảnh giữa chúng ta hết thảy động vật, hoàn cảnh cùng hết thảy thực vật, hoàn cảnh cùng hết thảy khoáng vật, núi, sông, đại địa, cho đến với các hiện tượng tự nhiên. Tiến hơn bước nữa, các nhà khoa học cho biết, hết thảy sanh vật trong các chiều không gian khác biệt đềuhoàn cảnh của chúng ta. Đức Phật phân loại [cặn kẽ] hơn các nhà khoa học rất nhiều, phân loại khá t mỉ.

      Trong “hết thảy [các th ấy]”, hết thảy vốn Phật, chẳng không phải là Phật. Một đóa hoa, một chiếc vốn là Phật, một hạt bụi, một hạt cát vốn là Phật. Kinh Hoa Nghiêm nói: “T́nh và vô t́nh, cùng viên thành Chủng Trí”. Quư v thấy một ch Phật biểu th [toàn b những điều ấy]. Phải là người nào? Phải là người thông đạt; người chẳng thông đạt s không được. Người thông đạt tùy tiện lấy bất c pháp nào đều đắc biện tài của Phật. Điều này là thật, chẳng gi tí nào! Nếu phàm phu chúng ta mất tự tánh, không chỉ chẳng biết chính ḿnh vốn là Phật, c̣n quyết định chẳng th nào nhận biết hết thảy vạn sự vạn vật vốn là Phật. Chắc chắn h s không thể tin tưởng, một đóa hoa, một chiếc lá, làm sao có thể là Phật cho được? H chẳng hiểu rơ. Trong mắt Phật, [vạn s vạn vật] đều Phật. Trong tầm mắt của phàm phu, nhà Phật lại có một câu: pháp nào là Phật pháp?Quư vị thấy đối với người giác ngộ, có pháp nào chẳng phải Phật pháp? Nói theo bọn phàm phu chúng ta, có pháp nào Phật pháp? Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh cũng không phải Phật pháp; kinh Đại Thừa Lượng Thọ chúng ta đang học đây cũng không phải là Phật pháp. sao?chứ chẳng giác! Phật nghĩa làgiác”. Đă giác th́ hết thảy đều là [Phật pháp], chẳng giác th́ hết thảy đều chẳng phải [là Phật pháp]. Phật pháp nói rất tuyệt diệu! Chúng ta phải biết đạo lư và chân tướng sự thật này, cũng như đắc Phật biện tài đang được nói đây đều là thật, chẳng giả!

      Truyền Như Lai như thật ngôn cố” (v́ truyền lời chân thật của Như Lai vậy). Kinh giáo lời như thật” (đúng với sự thật) của Như Lai. “Thật” () chân thật. Thu tại thế, Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh, giáo hóa suốt bốn mươi chín năm, những lời Ngài nói đều là lời chân thật. Không ch hàng Bồ Tát như thế, tức là một vạn hai ngàn v Bồ Tát tham gia pháp hội này là như thế, mà những ǵ phàm phu nói cũng giống như biện tài của chư Phật. Đó là nói theo Lư, chẳng phải là nói theo Sự. Người chứng đắc nghĩa biết điều này. Người chưa chứng đắc, nhưng đọc k kinh Đại Thừa cũng biết. H nghe Phật nói, nghe các v Bồ Tát nói, nghe quá nhiều, đă quen tai, cũng có thể chấp nhận, nhưng chính ngườiy chẳng phải là tự ḿnh chứng đắc. Người ấy thể khẳng định, có thể tiếp nhận, đó gọi làgiải ng; c̣n chính ḿnh thật sự chứng đắc th́ làchứng ngộ”, cảnh giới sai biệt rất lớn. Giải ng mà nếu không tu hành, s chẳng th thành tựu, chỉ có thể ở trong thế gian này, đúng như người hiện tại đă nói: Người nào đó là nhà Phật học, ngườiy có th được gọi là một nhà Phật học. Học rộng nghe nhiều kinh giáo, nhưng tập khí phiền năo chưa đoạn, một phẩm Kiến Tư Hoặc vẫn chưa phá, tuy là một nhà Phật học, chẳng mảy may liên quan đến liễu sanh tử xuất tam giới, phải biết điều này! Trong Phật học, ngườiy chẳngGiới, Định, Huệ; Phật học là pháp thế gian, không phải pháp xuất thế gian. Thật s có Giới, Định, Huệ, nhưng chẳngPhật pháp, giống như k không biết chữ, chưa từng học hành, cũng chưa h nghe kinh ngày nào, ngườiy như thế nào? Người ấy thật sự Phật pháp, khác hẳn! vậy, công phu chân thật chẳng ĺa Giới, Định, Huệ.Giới, Định, Huệ là thật, chẳngGiới, Định, Huệ là giả. Do đó, tôi khuyên các đồng học ch nên coi nh Giới, Định, Huệ. Niệm Phật văng sanh mà chẳngGiới, Định, Huệ th́ cũng chẳng th văng sanh. Bất quá Tây Phương Cực Lạc thế giới rất đặc thù, hễ chút phần Giới, Định, Huệ bèn thể văng sanh, chẳng giống các pháp môn khác. Trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, Giới, Định, Huệ nhất định phải vẹn toàn, thật sự đạt tiêu chuẩn th́ mới có thể thành tựu. Có chút phần, s thất bại, s chẳng thể thành tựu.

      Chúng ta biết, trong kinh giáo, đức Thế Tôn thường giới thiệu sáu tầng trời Dục Giới. Ch cậy vào tu phước, Thượng Phẩm Thập Thiện chỉ có thể sanh đến Đao Lợi Thiên. Phía trên Đao Lợi Thiên là D Ma Thiên, ch cậy vào Thập Thiện sẽ chẳng đến được, c̣n phải tu ǵ? C̣n phải tu Định, có một chút công phu định lực th́ mới có th sanh vào tầng trời th ba trong Dục Giới là D Ma Thiên. Tầng trời th tư, Định sâu hơn chút nữa, tầng th năm, tầng th sáu, Định càng sâu hơn. Nhưng các thứ Định sâu hơn ấy đều chẳng gọi “chưa đắc Định”, chưa đạt mức! như học hành trong nhà trường, sáu mươi điểm là đạt tiêu chuẩn. Trường học hiện thời [ấn định điểm s như thế nào] tôi không biết, hồi tôi đi học th́ sáu mươi điểm là đạt tiêu chuẩn. Xét theo công phu định lực của họ, đối với công phu định lực của trời D Ma, đại khái là hai mươi điểm có th sanh vào D Ma Thiên, ba mươi điểm liền sanh trong Đâu Suất Thiên, bốn mươi điểm bèn sanh trong Hóa Lạc Thiên, năm mươi điểm bèn sanh trong Tha Hóa T Tại Thiên. Sáu mươi điểm bèn đạt tiêu chuẩn, không trong Dục Giới, mà đạt đến Sơ Thiền. Trong Tứ Thiền Thiên, đạt đến Thiền, đạt tiêu chuẩn, mới gọi là “thật sự đắc Thiền Định”; c̣n mức Thiền Định trong bốn tầng trời ấy của Dục Giới được gọi làĐịnh chưa đến nơi đến chốn. Nói theo cách hiện thời, s làchẳng đạt mức, mọi người sẽ d hiểu, ngườiy chưa đạt đến công phu đó. V́ thế, quư vị đắc Thiền, bèn sanh trong Thiền Thiên, thuộc vào Sắc Giới, chẳng phải Dục Giới. Công phu Thiền Định sâu hay cạn khác nhau, chia thành bốn đẳng cấp: Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền. Lại lên cao hơn nữa là đắc T Không Định, càng cao hơn Tứ Thiền Định, cũng chia thành bốn đẳng cấp, nên gọi chung là Bát Định. Trong Phật học thường nói là T Thiền Bát Định, nhưng trên thực tế là Bát Định, tức là T Thiền Định cộng thêm T Không Định, chẳng thuộc trong Dục Giới. Chẳng có công phu ấy s không được, phải đạt công phu thật sự.

      Định là ǵ? Trong cuộc sống hằng ngày, công việc, xử sự, đăi người, tiếp vật, có thể giữ ǵn tâm thanh tịnh b́nh đẳng của chính ḿnh, chẳng b hoàn cảnh bên ngoài quấy nhiễu. Trong kinh, đức Phật thường nói tùy duyên bất biến”, hằng thuận chúng sanh, tâm thanh tịnh b́nh đẳng chẳng bị quấy nhiễu. Bất luận thuận cảnh, nghịch cảnh, thiện duyên, ác duyên, đều dùng tâm b́nh đẳng để đối đăi, đó là Định. sao? ngườiy biết hết thảy chúng sanh, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới và chính ḿnh cùng một t tánh, cùng một thanh tịnh viên minh thể, do là một Thể, tâm ngườiy liền định. Không hiểu rơ đạonày, hoặc liễu giải đạo lư này chưa đủ sâu, liễu giải chẳng thấu triệt, h cảnh giới hiện tiền, tâm luôn b cảnh giới bên ngoài ảnh hưởng. Nay chúng ta c̣n b ảnh hưởng như vậy th́ phải nâng cao tánh cảnh giác của chính ḿnh. V́ sao? Công phu quá kém! Cảnh giới bên ngoài tốt hay xấu? Tốt! Luôn luôn cảnh giới tốt. Giống như thầy đến khảo hạch, tṛ hỏng thi, c̣n có sai biệt khá lớn th́ phải n lực, phải tinh tấn. Phàm phu cũng có th có biện tài giống như chư Phật; điều này thuộc v giải ngộ, chưa phải là chứng ngộ. Cũng như vậy, có th tán dương công đức của Phật huệ, cũng có th khai hóa chúng sanh hữu duyên trong mười phương. Trong các chúng sanh hữu duyên, rất nhiều kẻ h đồ nhất thời, hoặc nhất thời, rất nghiêm trọng, nhưng phải hiểu, trong đời quá khứ, người ấy đă tu tập, tích lũy thiện căn rất sâu dầy, khi được chúng ta dẫn phát, sẽ phát hiện điều ǵ? Phát hiện ngườiy cao hơn ta rất nhiều, chúng ta hăy hoan hỷ, cung kính, ch nên ghen tỵ, chướng ngại. H chướng ngại, ghen tỵ, quư vị đă sai mất rồi! Phải hoan hỷ, cung kính.

      Tới sau mà trước, c nhân nói: Màu xanh phát xuất từ màu chàm, nhưng vượt trỗi màu chàm”. Học tṛ được thầy ch dạy; sau này, tṛ vượt trỗi thầy, tâm thầy hoan hỷ. V́ sao? Thế h sau khá hơn thế h trước, đó là cảnh giới tốt đẹp. Nếu thầy dạy học tṛ mà trong tương lai thành tựu của h đều thua kém thầy, thầy đau buồn; nói theo phương diện dạy học, thầy chẳng có thành tựu. [Tṛ thành tựu] giống như thầy th́ vẫn chưa k là thành tựu, nhất định phải cao hơn quư vị. Dụng tâm của c nhân chẳng giống người hiện thời! C nhân thật sự hy vọng thế h kế thừa tốt đẹp hơn thế h của chính ḿnh. Người làm cha m hy vọng con cái vượt trỗi chính ḿnh. Bất luận đức hạnh, trí huệ, hay phước báo, đều mong cho con cái vượt trỗi chính ḿnh, xứng đáng với tổ tông, xứng đáng với gia tộc, trong gia đ́nh mới xuất hiện nhân tài. Tâm t́nh của thầy chẳng khác ǵ tâm t́nh của cha m đối với con cái, thầy mong mỏi học tṛ vượt trỗi chính ḿnh. Trong hội, bất luận cấu của chánh ph hoặc cơ cấu của tư nhân, người lănh đạo hy vọng những k được lănh đạo s vượt trỗi chính ḿnh. V́ sao? Sự nghiệp ấy người thừa kế, mỗi thế h sau giỏi hơn thế hệ trước. Nếu chẳng có người kế tục, quư vị mất đi, hết thảy đều tiêu tan. Trên phiếu thành tích, ch chấm điểm zero, quư vị chẳngmảy may thành tựu ǵ! Nếu c vị hiểu đạo lư này, liễu giải chân tướng sự thật này, quư vị th thấu hiểu c nhân yêu thương thế h kế tiếp như thế nào, thật sự dụng tâm bồi dưỡng thế h kế tiếp, đó là một đại s bậc nhất trong s nghiệp của c đời họ. V́ thế, trong xă hội của người xưa, người tiến c hiền tài được cấp trên ban thưởng. Q vị có thể thay quốc gia tuyển lựa, đề bạt nhân tài, nhân tài ấy trong tương lai thật sự vượt trỗi chính ḿnh, quốc gia bèn ban thưởng cao nhất. Do vậy, cổ nhân dụng tâm, niệm niệm thường nghĩ v́ người khác, chẳng nghĩ đến chính ḿnh.

      “Lợi ích tha đức” (đức hạnh lợi ích người khác), câu đầu tiên là nói đến biện tài. Biện tài là trí huệ,phương tiện thiện xảo, thuộc loại năng lực, sau đó phải công phu tu hành chân thật. Chẳng có công phu tu hành chân thật, sẽ giả. Thứ gi dối nhất định bị k khác vạch trần. Khi b vạch trần, s chẳng đáng một đồng! Do đó, tiếp theo ch Chân là ǵ? Trụ Phổ Hiền hạnh”. Hăy chú trọng chữ Trụ. “Trụ” () an trụ, vĩnh viễn chẳng rời khỏi. “Thượng văn dĩ ngôn chư đại sĩ hàm cộng tuân tu Phổ Hiền đại sĩ chi đức, kim văn vân trụ Phổ Hiền hạnh, biểu chư đại sĩ hàm an trụ ư Phổ Hiền đại sĩ chi đại hạnh, các các dĩ thập đại nguyện vương đạo quy Cực Lạc” (trong phần trước, kinh nói các Đại Sĩ đều cùng tuân tu đức của Phổ Hiền Đại Sĩ”. Ở đây, kinh chép “trụ Phổ Hiền Hạnh”, ư nói các Đại Sĩ đều an trụ đại hạnh của Phổ Hiền Đại Sĩ. Mỗi vị đều dùng mười đại nguyện vương dẫn dắt quy về Cực Lạc). Đây là thật s hành, trụ Phổ Hiền hạnh” là thật sự hành. Phía trước ch nói mọi người đều tuân tu đức của Phổ Hiền đại sĩ, c̣n trong câu này là thật sự hành. Bồ Tát không tu Phổ Hiền hạnh, s chẳng thể thành Phật. Cùng một đạo lư giống như vậy, người học Tịnh Độ chúng ta không tu Phổ Hiền hạnh, s chẳng thể văng sanh. Tuy chưa tu Phổ Hiền hạnh, nhưng đă phát cái tâm ấy, tâm ấy là ǵ? Là tâm Bồ Đề. Thật s phát Bồ Đề tâm, nhưng ta c̣n chưa th làm được, vẫn có thể văng sanh. Pháp môn Tây Phương Cực Lạc thế giới quá to, ch cần khi nào có được vài điểm [trong Phổ Hiền hạnh], đều có th văng sanh. [Tức là] nếu điểm s Phổ Hiền hạnh càng cao, quư vị văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ không trong cơi Đồng Cư. Thật s đạt tiêu chuẩn, đạt tiêu chuẩn nơi Phổ Hiền hạnh, quư vị sanh vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Công phu kém hơn một chút, chưa đạt tới mức độ ấy, s sanh trong cơi Phương Tiện Hữu Dư. Đă phát tâm, phải nghiêm túc thực hiện, đương nhiên sẽ có phần sanh v cơi Đồng Cư.

      Chúng ta phải đọc Phổ Hiền hạnh mỗi ngày, t sư đă xếp hạnh ấy vào khóa tụng sáng tối. Tịnh Tông Học Hội thành lập, chúng tôi đề ra năm khoa hạnh môn để tu hành. Năm khoa mục ấy, mỗi ngày chúng ta phải nghiêm túc thực hiện. Năm khoa mục không nhiều lắm, dễ nhớ! Quá nhiều, nh không nổi, quư vị tu bằng cách nào? Trong năm khoa mục ấy, khoa mục th nhất là Tịnh Nghiệp Tam Phước. Đây là tổng cương lănh, tổng nguyên tắc ch đạo s tu hành trong Phật pháp, bất luận tu tông phái nào, tu pháp môn nào đều phải tuân theo nguyên tắc ch đạo này. Đức Phật nói rất hay, Tịnh Nghiệp Tam Phước là “chánh nhân tịnh nghiệp của tam thế chư Phật. “Tam thế Phật” là quá khứ Phật, hiện tại Phật, vị lai Phật, toàn bộ chánh nhân tịnh nghiệp là ba câu ấy. Quư v nói xem có quan trọng lắm hay không? Câu đầu tiên gồm mười sáu chữ, hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự trưởng, từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện Nghiệp”, chúng ta thực hiện nơi ba căn bản của Nho, Thích, Đạo. Nếu chẳngba căn bản ấy, hết thảy đều thất bại, thứ cũng đều chẳng. Quư v suốt đời nghiêm túc n lực nghiên cứu kinh giáo, cũng chỉ trở thành một nhà Phật học, thành một v học gi trong Phật môn. [Nói tới] nhân vật tiêu biểu, khi tôi mới học Phật, chưa xuất gia, theo thầy Lư học kinh giáo; khi đó, c̣n chưa xuất gia, thầy Lư nêu ra hai nhân vật tiêu biểu, c nhân Đông Pha, người thời nay là Lương Khải Siêu, họ đều là danh nhân, nhà Phật học, đọc kinh điển rất nhiều, tài hoa, có thể diễn thuyết, có th viết lách, nhưng chẳng liên can ǵ đến chuyện sanh tử. thế, thầy cảnh cáo tôi: “Cổ nhân đừng học theo Đông Pha, người thời nay chớ học Lương Khải Siêu. Thầy Lư cảnh cáo tôi đừng đi theo đường lối của họ, h là Phật học, chẳng phải là học Phật!

      Học Phật Phật học hoàn toàn khác nhau. Học PhậtGiới, Định, Huệ; trong Phật học chẳngGiới, Định, Huệ, phải biết điều này. ChẳngGiới, Định, Huệ, là Phật học, quư vị ở trong thế gian này cũng có thể thành danh, [tr thành] bậc đại gia v Phật học, là Phật học đại sư, người ta s gọi quư vị bằng danh hiệu ấy. Quư v cũng có th đạt được học v Tiến Sĩ, giảng đến nỗi hoa trời rơi tán loạn, trước tác rộng khắp, nhưng vẫn phải luân hồi trong lục đạo y như cũ, theo nghiệp chịu báo, chớ nên không biết điều này. Do đó, ba căn bản của Nho, Thích, Đạo cùng trọng yếu. Khi quư v vứt b các căn bản ấy, quư vị sẽ suốt đời làm chuyện thuộc v Phật học, ch nên không biết! Có ba căn bản ấy th́ mới thật sự th học Phật, làm đệ t tại gia của Phật, tức Ưu-bà-tắc hay Ưu-bà-di, mà cũng có thể xuất gia. Phước th nhất trong Tịnh Nghiệp Tam Phước là cơ sở, đạt được điều kiện học Phật bản, coi như quư vị nhập Phật môn.

Phước th hai là thọ tŕ Tam Quy, trọn đủ chúng giới, chẳng phạm oai nghi”. Đó là điều thứ hai. Điều thứ hai là phước Tiểu Thừa, điều thứ nhất phước báo nhân thiên. Do đó, gọi là Tam Phước.

Điều th ba, tức câu th ba là “phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả”. Khuyến tấn hành gi lợi ích người khác, tức lợi tha. Những điều trước đó đều là t lợi. Sau khi tự lợi mới thể lợi tha, chúng ta nói là hoằng pháp, lợi sanh”, điều này trọng yếu lắm!

      Xuất gia nhất định phải học Sa Di Luật Nghi. Trong mười điều của Sa Di Giới, phần trước giảng v Ngũ Giới, không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Trong “không vọng ngữ”, đặc biệt chú thích rơ ràng, [không vọng ngữ] bao gồm không nói đôi chiều, không nói thêu dệt, không ác khẩu. Năm điều ấy được gọi là Căn Bản Đại Giới.lúc kinh luận đặc biệt giảng Căn Bản Đại Giới chỉ có bốn điều, tức là không tính điều “chẳng uống rượu”. Bốn điều trước đó làgiết, trộm, dâm, dối” là Căn Bản Giới. Không chỉ Căn Bản Giới trong Phật pháp, mà gần như đối với tất c các tôn giáo đều là Căn Bản Giới. Chúng ta đọc kinh Cổ Lan (Koran) [của Hồi giáo], xem Tân Cựu Ước của Cơ Đốc Giáo; mấy năm nay, chúng tôi biên soạn một quyển sách nhỏ, trích lục kinh điển của mười tôn giáo tương đối lớn trên thế giới, có những giáo điều liên quan luân lư, đạo đức, nhân quả, giới luật, chúng tôi đều trích lục, thấy [tôn giáo nào] cũng đều có]: Mỗi tôn giáo đều giảng “giết, trộm, dâm, dối”, chẳng th không vâng giữ!

      Phần sau của Sa Di Luật Nghi c̣n có năm điều. Điều th nhất là không ngồi giường to cao rộng. Năm điều sau, nói thật ra, đều thuộc loại “lấy kh làm thầy”, năm điều trước Ngũ Giới, [tức là] lấy giới làm thầy. Lấy kh làm thầy th́ Thích Ca Mâu Ni Phật suốt đời đă nêu gương cho chúng ta. Do đó, giường ng của người xuất gia rất hẹp, rất thấp. Theo kinh điển, [giường của tăng sĩ] không vượt quá sáu tấc, giường ấy nh lắm. sao? Không thể ngủ rất thoải mái; h quá thoải mái, quư vị liền tham ngủ. Thời thời khắc khắc cảnh giác, giường rất hẹp, quư vị trở người liền ngă xuống đất. Khi ngủ, phải ng đúng quy củ. Năm xưa, tôi giảng kinh ở Ôn Ca Hoa (Vancouver), lúc ấy, mỗi năm đều sang Ôn Ca Hoa giảng kinh, giảng một tháng. Ôn Ca Hoa, ngẫu nhiên thấy một cái giường nh như thế, tôi liền mua ngay. Rất nhiều người hỏi tôi:Cớ sao giường hẹp như thế?Giường chỉ có hai thước rưỡi[3], thông thường, giường đơn lớn hơn ba thước rưỡi một chút. Cái giường ấy là hai thước rưỡi, đại khái to hơn cái bàn này đôi chút. [Giường rộng] hai thước rưỡi, cái bàn này khoảng chừng hai thước. V́ thế, đức Phật nói rất có ư nghĩa.

 Điều th bảy là quyết định không được phép đeo ṿng hoa, đồ trang sức, chẳng được phép dùng những th giống như đồ hương trong hiện tại. “Đồ hương” giống như nước hoa, kem bảo v da v.v... Không thể, chẳng th dùng những th ấy. Đó là một điều.

Điều th tám là không được phép ca hát, khiêu. Những nơi vui chơi cũng chẳng được phép đến, ngay c xem, nghe cũng chẳng cho phép, kể cả TV trong hiện thời: Nếu TV chiếu [các tiết mục] ca múa, tuồng hát, đều chẳng thể nghe, ch nên xem nghe.

Điều th chín trên tay và thân chẳng được gi tiền bạc, hoặc có tài vật. Điều này cũng vô cùng nghiêm ngặt, nhằm dưỡng thành [thói quen] không tham tài.

Điều cuối cùng, đức Thế Tôn thu tại thế ngày ăn một bữa, Sa Di quyết định phải tuân thủ không ăn phi thời”. Tức là trước Ngọ, có th ăn này nọ, sau giữa trưa tr đi, ch có th uống nước. H trong nước có những th trầm lắng giống như sữa ḅ hoặc sữa đậu nành th́ chẳng th ăn v́ chúng có chất trầm lắng. Có th ăn mật ong, v́ mật ong không trầm lắng. Đó là mười giới của Sa Di. Hai mươi bốn môn oai nghi, rất nhiều oai nghi đă có trong Đệ Tử Quy, nên Đệ T Quy là giới luật bản. Khi chúng ta học Phật, thật sự muốn học Phật, thật sự muốn tu thành tựu, tốt nhất là ngay c mười giới của Sa Di đều nên tuân thủ, p hợp lời răn dạy cuối cùng của đức Thế Tôn. Đức Phật chẳng c̣n tại thế, chúng ta dựa vào ai để làm thầy? Đức Phật bảo: “Lấy giới làm thầy, lấy khổ làm thầy”. Quư vị thấy mười giới Sa Di, năm điều trước là giới luật, Ngũ Giới, năm điều sau là kh hạnh. Chúng ta có cơ s ấy th́ mới có th học Phổ Hiền hạnh.

      Điều th nhất trong Phổ Hiền hạnh là học gi ḷng cung kính đối với hết thảy chúng sanh. Lễ kính chư Phật, quyết định chẳng phân biệt. Cung kính thiện nhân, mà đối với ác nhân cũng cung kính. Ta cung kính ân nhân, mà đối với kẻ tổn hại ta, ta vẫn cung kính họ. sao? Họ vốnPhật, bản tánh vốn lành. H làm những chuyện không tốt là do mê mất tự tánh, suốt đời này chẳng gặp được bạn lành, học theo thói xấu. Đó là tập tánh, chẳng phải bổn tánh, nhất định phải biết điều này. Đức Phật dạy chúng ta nh́n vào bổn tánh của hết thảy chúng sanh, đừng nh́n vào tập tánh, tâm cung kính của chúng ta có th sanh khởi. Nh́n vào tập tánh của chúng sanh, tâm cung kính chẳng sanh khởi được! Mười nguyện trong hạnh Ph Hạnh, nếu nguyện th nhất chẳng làm được, toàn b những nguyện sau đều chẳng có. Nó và Sáu Ba La Mật giống nhau ch mỗi điều sau đều sâu hơn điều trước. Giống như cao ốc mười tầng, lễ kính là tầng thứ nhất. Chẳng có tầng thứ nhất, há có tầng th hai? Phần trên bao gồm phần dưới, nhưng phần dưới chẳng bao gồm phần trên. Nhất định phải biết điều này. Do đó, l kính rất trọng yếu. Lễ kính là ǵ? Nhằm khai phát Tánh Đức của chúng ta. Điều th nhất là tâm yêu thương. Quư v thấy trong Ngũ Luân, câu đầu tiên c nhân nói: Phụ tử hữu thân. Đó là s thân ái trong t tánh. B́nh đẳng đối với hết thảy chúng sanh, đối với k hủy báng, lăng nhục, làm thương tổn ta, vẫn có tâm yêu thương n nhau, tâm yêu thương chân thành. Đó là ǵ? Đó là Phật tâm, là chân tâm của quư vị. Nếu quư v có phân biệt, có ư kiến đối với họ, sai mất rồi! H làm ác ngần ấy th́ phải như thế nào? Phải dung th k đó.

      Quư vị thấy làm chuyện xấu, chúng ta hăy nghĩ khi Thích Ca Mâu Ni Phật tu Nhẫn Nhục Ba La Mật, đó là khi Ngài tu Bồ Tát đạo trước khi thành Phật, b vua Ca Lợi cắt chặt thân thể, tổn thương rất nghiêm trọng. Nhà vua lăng tŕ x t Nhẫn Nhục tiên nhân, [tiên nhân] gặp nạn to ngần ấy. Vua Ca Lợi cũng rất tức tối, rất cáu kỉnh! [Nhà vua hỏi tiên nhân]: “Ngươi tu ǵ?” “Tôi tu Nhẫn Nhục”. Được rồi, ta xem ngươi có th nhẫn hay không, từng đao một cắt xẻo ngươi. Khi cắt đến gần chết, hỏi tiên nhân: “Ngươi có tâm sân khu hay không?” “Không có!” Lại xẻo, xẻo đến cuối cùng, [tiên nhân] vẫn chẳng có [tâm sân khuể]. Tối hậu, khi lâm chung, [tiên nhân] bảo vua Ca Lợi: “Ta thành Phật, người được độ đầu tiên s là ông”. Quư vị thấy Ngài tu Nhẫn Nhục Ba La Mật viên măn. Vua Ca Lợi tạo tội nghiệp rất nặng; do thành tựu viên măn Nhẫn Nhục Ba La Mật cho Thích Ca Mâu Ni Phật, nên vua đă tạo công đức! Trong thế gian, chẳng tuyệt đối đúng hay sai, tùy thuộc quư vị người như thế nào. Quư v thấy [vua Ca Lợi] đối đăi với một người tu hành bằng ḷng sân hận như thế mà lại chuyện tốt đẹp, [bởi lẽ, vua đă] khiến cho người tu hành viên măn Nhẫn Nhục Ba La Mật. Tuy bản thân nhà vua b đọa địa ngục, vẫn hưởng phước trong địa ngục. V́ sao? Vua đă thành tựu một người làm Phật, nên vua hưởng phước trong địa ngục. Đức Phật nói: S hưởng th của ngườiy trong địa ngục s hưởng th trong Đao Lợi Thiên chẳng khác nhau cho mấy. Điều này rất có lư. quư vị làm chuyện ác, nên quư v đọa địa ngục. Q vị thành tựu một người, [tức là giúp] một v Bồ Tát thành Phật; phước báo ấy to lớn tuyệt diệu, nên mới hưởng phước trong địa ngục.

      Hưởng hết phước xong, tội báo trong địa ngục cũng măn, thoát ra, lại sanh trong nhân gian, lại xuất gia. Xuất gia bèn gặp Thích Ca Mâu Ni Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật thật sự độ ông ta đầu tiên. Tiền thân của tôn gi Kiều Trần Như là vua Ca Lợi. Đức Phật nói sao bèn làm vậy, ngài Kiều Trần Như chứng qu A La Hán đầu tiên. Hai v biểu diễn cho chúng ta xem, ch dạy chúng ta tu Nhẫn Nhục Ba La Mật phải biết tu như thế nào, thực hiện điều nguyện “lễ kính chư Phật” ra sao? Đối với hết thảy chúng sanh, chúng sanh làm tổn thương ta nghiêm trọng, tâm đều chẳngoán hận mảy may. Phải học điều này. Vào lúc then chốt, bèn thấy Tánh Đức của quư vị thể biểu l ra ngoài hay không? Quư v lưu l phiền năo, nghiệp chướng, hay lưu l trí hu và đức tướng trong t tánh, đều thuộc trong một niệm. V́ l đó, một niệm giác, phàm phu thành Phật; một niệm mê, lại vào trong lục đạo. V́ thế, chúng ta ch nên không biết chuyện này. Kẻ này tổn thương ta, ta cần ǵ phải cung kính hắn? [Nghĩ như vậy] là sai mất rồi. Dẫu k ấy có lầm lỗi to tát cách mấy, ch nên trách móc. K ấy rất đáng thương, v́ sao? Nhân qu của mỗi người phải do chính k ấy gánh chịu, chẳng có cách ǵ hết!

      Con người bất luận làm chuyện sai quấy ǵ, điều đầu tiên là bất hiếu với cha mẹ. Quư v thấy có cha m nào hy vọng đứa con ḿnh làm hại người khác, trái nghịch lương tâm, vi phạm đạo đức? Chẳng có cha m nào đối với con cái lại [trông mong] như vậy! Bởi lẽ, hiếu thảo với cha mẹ, tôn trọng thầy là đức hạnh căn bản, thầy chẳng mong mỏi học tṛ của chính ḿnh phạm lỗi. Bất luận làm chuyện sai trái nào, đứng đầu là bất hiếu với cha mẹ, bất kính trưởng, khiến cho cha mẹ, trưởng hổ thẹn, cớ sao dạy ra một đứa học tṛ như vậy? C sao nuôi thành một đứa con như vậy? Người trong xă hội chỉ trích cha m của quư vị, khiển trách thầy của quư vị. Ch riêng tội này đă là tội địa ngục, tuy chưa phải là A T địa ngục. Địa ngục có rất nhiều chủng loại, kinh điển đă nói hơn bảy mươi loại. Làm chuyện tốt đẹp c nào cũng đều chẳng có cách nào đắp [tội bất hiếu cha mẹ, bất kính sư trưởng]. Chúng ta ch nên không biết điều này. Không chỉ chuyện bất thiện ch nên làm, mà ư niệm bất thiện cũng ch nên dấy lên! Khởi ư niệm bất thiện là tâm tạo, thân chưa tạo, nhưng tâm đă tạo, vẫn kết tội, nhưng kết tội nhẹ hơn một chút. Nếu ba nghiệp thân, miệng, ư đều tạo, tội ấy s nặng nề. V́ thế, l kính trọng yếu lắm! Pháp thế gian cũng chẳng phải ngoại lệ. Tại Trung Quốc, câu đầu tiên trong sách L Kư là “Khúc Lễ viết: Vô bất kính” (Khúc L nói: “Không ǵ chẳng kính”). bất kính” ǵ? Chẳng không l kính, vạn sự vạn vật đều phải dùng cái tâm cung kính để đối đăi, đó là l kính chư Phật trong Ph Hiền hạnh. Tu tập, tích lũy công đức chân thật phải thực hiện t ch này, phải học t đây, học tôn trọng người khác.

      Điều th hai, “xưng tán Như Lai”. K khác và ta chẳng thuận thảo, là oan gia đối đầu, nhưng kẻ ấy làm một chuyện tốt, có phải ca ngợi hay không? Phải! Chuyện ấy có lợi ích, có điều tốt đối với hội và đại chúng th́ phải biết khen ngợi. Quyết định chớ nên xen tạp oán hận cá nhân. [Nếu xen tạp] là sai mất rồi! Khi đáng khen ngợi th́ phải khen ngợi. Kẻ ấy làm chuyện v́ t tư t lợi, chẳng có ǵ tốt đẹp cho xă hội và đại chúng, bèn không khen ngợi, không phê b́nh, trưởng dưỡng đức hạnh của chính ḿnh. V́ thế, khen ngợi và lễ kính khác nhau. L kính là b́nh đẳng, khen ngợi bèn có chừng mực. sao? Nó có ảnh hưởng. Kẻ ấy chẳng phải thiện nhân thật sự, là gi thiện nhân. Nếu quư v khen ngợi hắn, s nhiều người bị lừa, chúng ta phải chịu trách nhiệm nhân quả. Người ấy là thiện nhân thật sự, ngay cả khi ngườiy là oán gia đối đầu của ta, ta cũng phải ca ngợi ngườiy. V́ sao? lợi ích cho hội và đại chúng. Chúng ta niệm niệm phải nghĩ tới quảng đại quần chúng, đặc biệt là trong hiện tại, phải nghĩ tới chúng sanh kh nạn trên toàn thế giới, trọn chẳng th đặt s lợi hại của chính ḿnh vào đó. [Nếu xen lẫn vào đó], sai mất rồi! Đối với người, đối với sự, phải đại công vô tư, đó là đúng. V́ thế, gọi “khen ngợi Như Lai”.

      Quảng tu cúng dường” cũng là b́nh đẳng. Người ta cần giúp đỡ, chúng ta có một phần sức lực bèn tận hết một phần sức lực, tận tâm tận lực giúp đỡ ngườiy, giúp ngườiy giải trừ các khó khăn trong cuộc sống trước mắt, hoặc trong công việc, hoặc là những chuyện khác, chúng ta phải giúp đỡ ngườiy. Người học Phật chớ nên quên, quan trọng nhất là giúp cho ngườiy giác ngộ, giúp ngườiy quay đầu là bờ, đó là điều quan trọng. Thích Ca Mâu Ni Phật, chư Phật, Bồ Tát xuất hiện trên thế gian, chẳngchuyện ǵ khác, mà v́ chuyện này: Giúp mọi người chúng ta quay đầu là bờ, giúp chúng ta phá mê khai ngộ, tự nhiên tai tiêu, phước tới. đă phá, tai ương liền tiêu. Thật s giác ngộ, phước liền đưa đến. Phước báo thật sự do giác ngộ có, ch nên không biết điều này. Sau đấy, quư vị mới biết v́ sao nói phước báo trong Phật môn to lớn. Thế gian và xuất thế gian muốn vun bồi phước, gieo phước trong Phật môn s là to lớn bậc nhất. Phật là vô thượng đại phước điền, cúng dường Tam Bảo; nhưng quư vị phải nhớ, cúng dường Tam Bảo chẳng phải bằng tài vật. Dùng tài vật để tu cúng dường, phước báo không lớn. Quư vị thấy kinh Đại Thừa hay nói: Q vị dùng bảy báu trong đại thiên thế giới để cúng Phật, ai có th làm được? Thiên vương trong một đại thiên thế giới Ma Hê Thủ La (Maheśvara) thiên vương[4], đại khái chỉ có ông ta là có th làm được, người khác há phước báo to ngần ấy! Đức Phật nói [phước báo ấy] vẫn thua phước báo nói cho chúng sanh bốn câu kệ. Đây chính là đức Phật nhấn mạnh tầm quan trọng của Pháp B Thí. sao? Do vô lượng trân bảo, quư vị có thể làm cho h giàu có, thoát khỏi nghèo khổ, tr thành phú quư, giàu lên, nhưng họ thiếu t huệ. Giàu mà thiếu trí huệ chẳng phải là chuyện tốt đẹp. K ấy mỗi ngày đều làm ác, đâm ra khiến cho k ấy đọa địa ngục. Đấy chẳng phải thật sự giúp đỡ k ấy, mà là làm hại. Thật s giúp đỡ là dạy k ấy, giúp k ấy giác ngộ, giúp kẻ ấy quay đầu, giúp kẻ ấy hiểu rơ lư, liễu giải chân tướng của vũ tr và nhân sinh. Đó là thật sự cúng dường. vậy, trong kinh, đức Phật nhiều lượt dạy chúng ta: “Trong hết thảy các loại bố thí, pháp bố thí là bậc nhất. Hàng đầu trong Pháp bố thí tu hành, dùng tu hành để cúng dường. Cúng dường chân thật chẳng phải là dùng tiền tài, mà dùng tu hành, tu hành đúng như lời dạy, dùng điều này để cúng dường Tam Bảo, cúng dường Phật, Bồ Tát. Trong kinh điển, Phật, Bồ Tát dạy chúng ta, chúng ta thật sự thi hành, biến đạotrong kinh điển thành tưởng của chúng ta, biến giáo huấn trong kinh điển thành hành vi trong cuộc sống của chúng ta. Đó là cúng dường chân thật, chư Phật tán thán, vô lượng vô biên phước báo. Phật lực gia tŕ quư vị, khi quư vị thật sự tu hành, phước báo trong t tánh bèn hiện tiền, phước báo nơi t tánh và phước báo của chư Phật Như Lai chẳng hai, chẳng khác. Do đó, quư vị phải hiểu: Cúng dường phải bắt đầu bằng thay đổi tâm thái của chính ḿnh.

      Điều th tư là “sám hối nghiệp chướng”. Từ vô lượng kiếp đến nay phải luân hồi trong lục đạo, nghiệp chướng sâu nặng. Đây là lời thật, chẳng giả! Nghiệp chướng chẳng tiêu trừ, chẳng thoát ĺa luân hồi! Nghiệp chướng chẳng tiêu trừ, không thể văng sanh. Tịnh Độ tuy là đới nghiệp, nhưng cho phép quư vị mang theo nghiệp cũ, chẳng thể mang theo nghiệp mới. Nghiệp mới là ǵ? Nay chúng ta vẫn làm (tạo nghiệp), không được rồi, chẳng th mang theo nghiệp ấy! Trong quá khứ, trước khi học Phật đă tạo nghiệp, hoặc là học Phật, trước khi khai ngộ, ta đă tạo nghiệp, [những nghiệp ấy] đều có th mang theo. Sau khi giác ngộ, chẳng được phép tạo nghiệp; h c̣n tạo nghiệp, nghiệp ấy s chướng ngại quư vị văng sanh, thậm chí chướng ngại chúng ta khai ngộ. Chúng ta nghe kinh không hiểu, hoặc hiểu sai ư nghĩa trong kinh, do nguyên nhân nào? Nghiệp chướng! Quư v biết chuyện này phiền lắm! V́ thế, đức Phật dạy chúng ta phải phát lộ sám hối, [tức là] tuyên b trước đại chúng những nghiệp do chính ḿnh đă tạo, chân thành sám hối, sau này chẳng c̣n tạo nữa. Nghiệp chướng ấy bèn tiêu trừ. [Hôm nay] đă sám hối, ngày mai vẫn làm y hệt, đó là lừa ḿnh, dối người, lừa gạt Phật, Bồ Tát, nghiệp ấy càng nặng hơn. Thật sự sám hối là thật sự chẳng tạo nữa. Phải phát tâm giống như Phật, Bồ Tát, dùng thân th của ta để biểu th pháp, nêu gương tốt cho đại chúng trong xă hội xem, công đức ấy cũng rất to. Dùng thân làm gương, đệ t Phật như vậy, mọi người nh́n vào, dấy ḷng tôn trọng quư vị, dấy tâm tôn trọng Phật giáo. Trong hành vi của chúng ta, trong cuộc sống hằng ngày, có th khiến cho đại chúng tôn trọng Phật giáo, tôn trọng Phật, Bồ Tát, công đức ấy to lắm. Nếu chúng ta chẳng làm tốt, [khiến cho] người ta phê b́nh Phật giáo, nói quư v làm chuyện mê tín, tức là chúng ta đă phá hoại h́nh tượng Phật giáo, tội này cũng rất nặng. Tiêu chuẩn là ǵ? Tiêu chuẩn bốn căn bản như chúng tôi đă nói, Đệ Tử Quy, Cảm Ứng Thiên, Thập Thiện Nghiệp, Sa Di Luật Nghi, bốn căn bản ấy. Đồng tu tại gia đều có th học bốn căn bản ấy, hết sức tốt đẹp! Quư vị thật sự muốn học, càng học càng vui vẻ, quư vị mới có thể thật sự nếm pháp vị. Cổ nhân nói rất hay: “Vị thế gian há nồng đậm như pháp vị”. Quư vị chưa nếm pháp vị, tâm hoan hỷ chẳng sanh khởi. Khi thật sự nếm trải pháp vị, sanh khởi tâm hoan hỷ, không thời khắc nào chẳng hoan hỷ, x sự, đăi người, tiếp vật là một bầu chân thành t bi.

      Thứ năm là “tùy hỷ công đức”; nhằm phá điều ǵ? Phá ganh tỵ, chướng ngại. V́ ganh tỵ, chướng ngại là bệnh chung của hết thảy phàm phu, ai nấy đều có, lại c̣n vô cùng nghiêm trọng! Nếu là k ganh t bậc hiền năng, s chướng ngại, phá hoại người ta, tội ấy khá nặng! Người tốt ấy có th làm rất nhiều chuyện tốt trong xă hội, lợi ích xă hội, lợi ích quần chúng, lợi ích quốc gia. Quư v chướng ngại người ấy, đối với người ấy là chuyện nhỏ, ngườiy chẳng oán hận quư vị, đối với ngườiy chẳngchuyện ǵ, nhưng tội kết ch nào? Khá nhiều người không th được ngườiy tạo lợi ích, hội không thể đạt được lợi ích, quốc gia không thể đạt được lợi ích, kết tội t ch này! Ch nên không hiểu đạonày, đạo lư này rất sâu. Tổn hại một người, phá hoại một người, chuyện này rất nhỏ, chẳng ghê gớm, nhưng quư vị phải biết: Sức ảnh hưởng của ngườiy to c nào, tội lỗi của quư vị lớn c đó! Sức ảnh hưởng của ngườiy sâu c nào, ảnh hưởng rộng ngần nào, đó là những điều kiện để kết tội quư vị. Thời gian ảnh hưởng lâu dài, trong tương lai, thời gian q vị đọa trong địa ngục sẽ dài. Ảnh hưởng rất rộng, quư vị sẽ chịu tội trong địa ngục càng nhiều. Đạo lư là như vậy đó, chúng ta chớ nên không biết điều này. V́ vậy, đức Phật dạy chúng ta tùy hỷ công đức. Thấy người khác tốt đẹp, bèn toàn tâm toàn lực giúp đỡ, thành tựu ngườiy, quyết định chẳng th gây chướng ngại. Chẳngsức để giúp đỡ, bèn khen ngợi, hy vọng người sức nghe chúng ta khen ngợi bèn phát tâm giúp đỡ, thành tựu ngườiy, đó là chúng ta tu tùy hỷ công đức. Tức là nói trong tương lai, ngườiy có công đức lớn c nào, người tùy h có công đức to bằng c đó. Người ấy có th làm chuyện lợi ích quốc gia, dân tộc, chuyện lợi ích hết thảy chúng sanh, người ấy làm nhiều chuyện, ảnh hưởng lớn c nào, ảnh hưởng lâu cỡ nào, người tùy h bèn được một phần công đức giống hệt như ngườiy. Người ấy c̣n phải sốt sắng tu tập, người tùy hỷ chẳng cần tu, chỉ là phát tâm, quư vị liền thấy đă đạt được công đức. Trái lại, ganh tỵ, chướng ngại, quư vị liền tạo tội nghiệp to lớn. Quư vị tùy hỷ, khi có ư niệm tùy hỷ, toàn b công đức của ngườiy biến thành của quư vị. Do đó, đức Phật đă xếp chuyện này, quư vị thấy điều này được xếp vào trong mười nguyện Phổ Hiền ư nghĩa rất sâu, công đức ấy lượng vô biên.

      Có thể tùy hỷ th́ mới có thể “thỉnh chuyển pháp luân”. Thưa cùng quư vị, làm công đức th́ công đức bậc nhất là ǵ? Thỉnh thiện tri thức giảng kinh. Giảng kinh thính chúng rất đông, trong s đó, có một, hai người giác ngộ, hiểu rơ, quay đầu, đoạn ác, tu thiện, công đức ấy thù thắng khôn sánh. Đại chúng b́nh phàm trong xă hội hiện thời thường nghĩ công đức làm pháp hội rất lớn, tức là pháp hội siêu độ, pháp hội Thủy Lục. Chúng ta vừa mới hoàn tất Tam Thời H Niệm suốt bảy ngày; nhưng c̣n có chuyện có công đức to lớn hơn nữa là thỉnh pháp sư giảng kinh bảy ngày, càng lớn hơn, càng thù thắng hơn [công đức làm pháp hội], cơi âm lẫn dương gian đều lợi lạc. Người nghe kinh giác ngộ, chúng ta chẳng thấy chúng sanh vô h́nh nghe kinh cũng giác ngộ giống hệt. V́ thế, những pháp hội Phật sự thông thường thuộc loại cầu nguyện trong tôn giáo, chẳng phải không có hiệu quả, có hiệu quả, hiệu quả hoàn toàn do tâm chân thành! Cổ nhân đă nói rất có lư: “Hễ thành bèn linh”. Nếu quư vị làm pháp sự, tâm chẳng chân thành, sẽ bị giảm bớt, hiệu quả bị giảm bớt. Phật, Bồ Tát cùng từ bi, trong đạo tràng, Phật, Bồ Tát giúp sức, đạo tràng gồm mấy trăm người tham gia, chúng ta là phàm phu mắt thịt, trong ấy có Phật, Bồ Tát hay không? Khẳng định có, thường là có mấy vị. Mấy ngườiy thành tâm thành ư, thậm chí vị ḥa thượng ch pháp chẳng có thành ư, nhưng bên cạnh có mấy người tham d pháp hội thành tâm thành ư, pháp hội ấy bèn thành công. Đó là ǵ? Đó là Phật, Bồ Tát gia tŕ. Pháp hội giảng kinh cũng thế. Trong thính chúng, thật sự mấy v Phật, Bồ Tát làm Ảnh Hưởng Chúng, gia tŕ đạo tràng ấy, gia tŕ mọi người, thật sự có, chẳng giả! T ch này, chúng ta mới thật sự hiểu rơ chư Phật, Bồ Tát từ bi vô tận, chúng ta cảm ơn bất tận.

      Nhưng hiện thời thỉnh pháp sư giảng kinh ngày càng khó khăn, v́ sao? Người học tập kinh giáo ngày càng ít. V́ sao người học tập kinh sám Phật sự đông ngần ấy, người học tập kinh giáo không có ai thỉnh giảng kinh? Con đường [kinh giáo] suy vi. Chúng ta học Phật, là những người đă hiểu rơ, đă thông suốt, phải phát tâm thỉnh chuyển pháp luân. sức th́ chuyện tốt lành bậc nhất là bồi dưỡng pháp sư. Thật s gặp người tr tuổi phát tâm, đầu tiên là dành ra một năm để ngườiy vun bồi vững vàng bốn căn bản, đó là căn bản. Có th nói là thiếu bốn căn bản ấy th́ chắc chắn chẳng th học thành công! V́ sao? Chẳng có thành ư, chẳngtâm thành kính! T Ấn Quang dạy rất hay: Mười phần thành kính được mười phần lợi ích”, thành kính hoàn toàn do bốn căn bản. Nh́n vào bốn căn bản để biết quư v có mấy phần thành kính, rồi mới biết quư vị sẽ có mấy phần thành tựu. Chẳng có thành kính, bèn chẳng có thành tựu. Người càng có thành tựu, tâm địa càng chân thành, thái độ càng khiêm hư, càng cung kính người khác. C nhân nói: “Khi học vấn đă sâu th́ ư khí b́nh lặng”, chắc chắn chẳng thô phù, bộp chộp. Thô phù, bộp chộp tức là chẳng có một chút công phu nào!

      Do đó, t́m được một người thật sự phát tâm chẳng d dàng! Trong quá khứ, thầy Lư đă từng bảo tôi, thầy nói rất cảm thán: “Có vị thầy nào chẳng mong có truyền nhân? Đến đâu để t́m? Học tṛ t́m được thầy đă khó, mà thầy t́m được tṛ càng khó hơn! Đến đâu để t́m? Chuyện này chỉ có thể gặp, chứ không thể cầu!” Nhưng thật s phát tâm muốn học, chính ḿnh có th học nhà thành công, chẳng cần t́m ai. Người tại gia học theo Mạnh Tử, hàng xuất gia học theo Ngẫu Ích đại sư. Các Ngài suốt đời chẳng t́m được thiện tri thức chân chánh, bèn làm như thế nào? Lấy c nhân làm thiện tri thức. Mạnh T học theo Khổng Tử, Khổng Tử chẳng c̣n tại thế, Mạnh T bèn đọc sách của Khổng Tử, thâm nhập một môn, huân tu lâu dài. H gặp ch nghi nan, bèn t́m học tṛ của Khổng Tử, lúc đó c̣n có không ít học tṛ của Khổng Tử c̣n sống, Ngài thỉnh giáo họ. Ngài học được, học thành công, vượt trội tất c các học tṛ thân cận Khổng T thu ấy. Q vị thấy hậu thế h nói tới Nho gia, bèn nói Khổng Mạnh, chẳng nhắc tới người khác. Điều này chứng t Mạnh Tử học thành công. Người Trung Quốc gọi Khổng Tử Chí Thánh, gọi Mạnh Tử là Á Thánh. Chí Thánh là bậc nhất, Á Thánh là bậc nh́. Trong Tịnh Độ Tông chúng ta, Ngẫu Ích đại t sư đời th chín. Ngài vô cùng ngưỡng m v t sư đời th tám Liên Tŕ đại sư, Liên Tŕ đại sư đă văng sanh, nhưng trước tác của Liên Tŕ đại sư vẫn c̣n, Ngài bèn chuyên học theo trước tác của Liên Tŕ đại sư, cũng học hết sức thành công, nên sau này Ngài là t sư đời th chín của Tịnh Tông. Những v này đều là trước mắt không ai chỉ dạy, bèn t́m cổ nhân. Nay quư v nói chẳng có thầy giỏi, quư vị học kinh Lượng Thọ, trong kinh Lượng Thọ, ai là thầy? A Di Đà Phậtthầy, Lượng Thọ Phật, quư vị học theo Ngài, thâm nhập một môn, huân tu lâu dài. Chú giải của lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, quư vị th dùng làm tài liệu tham khảo để học tập, c là tr giáo của A Di Đà Phật. Quư vị đă thầy, lại có trợ giáo, chỉ cần quư vị thật sự hành, không ai chẳng thành công. Thâm nhập một môn, mười năm huân tu, lẽ nào chẳng thành công!

      Nay chúng tôi chính mắt trông thấy hai người, người thứ nhất l mọi người đều biết là cư sĩ Lưu T Vân miền Đông Bắc. Bà ta lúc năm mươi lăm tuổi mới bắt đầu học, nay đă sáu mươi lăm tuổi, mười năm, một b kinh Vô Lượng Thọ, một câu A Di Đà Phật, ngoài những th ấy ra, th ǵ cũng chẳng có. Mười năm giống như một ngày. Mỗi ngày nghe kinh mười tiếng đồng hồ, nghe suốt mười năm, nghe một b kinh này! Thông thường, người b́nh phàm nếu dụng công như vậy, phải là bốn năm năm, nếu là người công phu tốt đẹp th́ khoảng chừng ba năm liền đắc tam-muội, Niệm Phật tam-muội. Năm sáu năm chắc chắn khai ngộ; người căn tánh kém hơn một chút, tôi tin là năm năm có thể đắc tam-muội, bảy, tám năm có thể khai ngộ. Hễ ng bèn thông suốt toàn bộ, tất c các kinh giáo chưa học qua, ch cần quư v tiếp xúc liền thông suốt toàn bộ. Một kinh thông, hết thảy kinh đều thông. C nhân nói chẳng sai tí nào! Chúng ta không tin cổ nhân tin vào chính ḿnh th́ thôi rồi, đó là “không nghe lời người già, thua thiệt ở trước mắt”. Người ta mười năm có thành tựu to lớn như thế. Gần đây, tôi nghe nói T Xuyên có một v lăo cư sĩ, đă ngoài bảy mươi tuổi, đại khái cũng là bắt đầu học lúc năm, sáu mươi tuổi, cũng là mười năm, cũng là một b kinh Lượng Thọ, một câu A Di Đà Phật. Tôi hết sức mong mỏi c đến Hương Cảng cho chúng tôi gặp mặt. C rất giỏi, đă nêu gương tốt nhất cho những người trẻ tuổi trong hiện thời, thật sự phát tâm tiếp nối hu mạng của Phật, xa là tiếp nối Như Lai, gần là làm cho đại pháp rạng rỡ, nêu tấm gương tốt nhất. Chỉ cần quư vị thật sự phát tâm, chỉ cần quư vị vâng theo quy c đă thành lập của tổ tông, quyết định chẳng th thay đổi, quư vị hăy khéo học, chắc chắn s thành tựu. Thời gian mười năm chẳng dài, giống như đối với lứa tuổi của tôi, đúng là chớp mắt đă qua mười năm. Phàm phu mười năm thành Phật, chẳng giả! Phải biết thỉnh chuyển pháp luân, thật ra là thỉnh không được, bèn t ḿnh phát tâm ra giảng kinh, dạy học, thỉnh chính ḿnh, thỉnh người khác khó quá. T ḿnh phát tâm thỉnh chính ḿnh. Phương pháp này do Chương Gia đại sư dạy tôi vào thu trước. Lăo nhân gia dạy tôi học Thích Ca Mâu Ni Phật, tôi nghe lời. Bí quyết thành công chẳng khác, nghe lời, thật sự làm, sống một ngày bèn làm một ngày. Chẳng v́ chính ḿnh, chánh pháp tồn tại lâu dài, v́ chúng sanh khổ nạn, biến hai câu ấy thành mục tiêu để ta sống suốt đời trên thế gian này! Mục tiêu cuối cùng là cầu sanh Tịnh Độ, chẳngchuyện ǵ khác.

      Tiếp theo là điều th bảy, “thỉnh Phật trụ thế”. Tôi nói câu này có nghĩa là bồi dưỡng thế h kế tục. Phải biết toàn tâm toàn lực bồi dưỡng thế h kế tiếp, khiến cho Phật pháp chẳng đến nỗi đoạn tuyệt, công đức ấy lượng vô biên. Có thể có mười người, hay tám người thật sự học Phật, chẳngai v́ chính ḿnh, chắc chắn Phật pháp có thể hưng vượng. Thuở ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật ở Lộc Uyển, sáu người lập nghiệp, bản thân đức Phật một, ngoài ra là năm v tỳ-kheo, sáu người khởi sự. Nay có đến bảy, tám người, l nào giáo pháp chẳng th hưng khởi cho được? Đương nhiên chẳngvấn đề ǵ! V́ thế, chuyện này (thỉnh Phật trụ thế) mới được gọi làđại sự nghiệp, đại nhân duyên”. Suốt đời này, tôi cũng biểu diễn pháp với mọi người, nêu gương cho mọi người, suốt đời chẳng làm chuyện ǵ khác, tức là giảng kinh, giáo học, bắt đầu kể t ngày xuất gia, suốt năm mươi hai năm chẳng nghỉ ngơi. Chẳngđạo tràng, nhưng tôi cũng chẳng đói, cũng chẳng rét mướt, tuy chẳng có th ǵ, nhưng đắc đại t tại như kinh Phật đă nói. Đại t tại là thân lẫn tâm đều chẳng có chuyện ǵ! Con người hiện thời nói đến áp lực (stress) chi đó, tôi rất khó hiểu được, tôi chưa h có áp lực ǵ, áp lực nơi thân và tâm đều chẳng có. Chẳng có ưu lự, chẳngvướng mắc, tùy duyên sống qua ngày. Trong tâm ch có kinh giáo. Tôi giảng một b kinh, trong tâm ch nghĩ đến b kinh ấy. Một b kinh đại khái phải giảng t một năm đến hai năm, sống một ngày, giảng một ngày. Vui sướng lắm, t tại lắm!

      Câu thứ tám là “thường tùy Phật học”, câu này rất trọng yếu. Thuở trước, thầy Lư thường bảo tôi: Ch nghiên cứu kinh giáo suông th́ vẫn chưa được, nhất định phải có gương mẫu. Chương Gia đại sư dạy tôi học Thích Ca Mâu Ni Phật, thầy Lư dạy tôi học theo pháp sư Ấn Quang. Đức Phật xuất hiện từ ba ngàn năm trước, pháp sư Ấn Quang khá gần chúng ta, ước chừng sáu, bảy mươi năm trước lăo nhân gia tại thế. Tuy T Ấn Quang đă văng sanh, sách v của Ngài hăy c̣n, tức là b Văn Sao của đại sư. Thu ấy, thầy Lư tặng cho tôi một b Văn Sao, khuyên tôi học Ấn Quang đại sư, đó là v chân thiện tri thức thời cận đại. Đọc Văn Sao bèn tiếp nhận giáo huấn của Ngài, hiểu rơ, thông hiểu đạo lư, biết phương pháp, y giáo phụng hành, học tṛ thật sự của pháp sư Ấn Quang, là tư thực đệ t của Ngài. Học Phật, đọc kinh chẳng hiểu rơ ư nghĩa trong kinh là không được, nhưng đă hiểu rơ nghĩa kinh mà chẳng thực hiện cũng không được, phải thật sự thực hiện th́ quư vị mới có th khế nhập cảnh giới. Khế nhập cảnh giới Chứng, tức [Chứng trong] “tín, giải, hành, chứng”, thật sự được th dụng.

      Câu th chín là “hằng thuận chúng sanh, điều này rất trọng yếu. Điều này công phu tu hành. Công phu nh́n t đâu? Nh́n t hằng thuận chúng sanh, thuận hay nghịch đều tùy thuận. Trong tùy thuận, quư vị phải có ḷng kiên nhẫn, phải có trí huệ, phải khéo léo quan sát căn cơ, dẫn dắt h “quay đầu là bờ”, hướng dẫn h đoạn ác hướng thiện, hướng dẫn h phá mê khai ngộ, đó là lợi tha, chẳng phải t lợi. Toàn b năm câu sau câu “thỉnh chuyển pháp luân” đều là lợi tha. Năm câu trước là t lợi, t “l kính chư Phậtđến “tùy hỷ công đức” đều là tự lợi, thành tựu chính ḿnh. Bởi lẽ, thành tựu người khác mà chẳng thuận thảo với họ, làm sao có th độ họ? Làm sao quư vị th giúp đỡ họ? Đó là thật sự tu hành, công phu thật sự. Trong T Nhiếp Pháp, điều này là điều cuối cùng trong T Nhiếp, tức Đồng S Nhiếp, [khiến cho] người khác hoan hỷ. Đồng Sự: Quư v thấy k khác đang mê, quư vị chẳng mê, quư vị làm thế nào giúp h phá mê khai ngộ, giúp h quay đầu là bờ. Đúng là “Phật độ kẻ hữu duyên”. Trong xă hội hiện tại, trong các ngh đềuBồ Tát, ngay c trong ṣng bạc cũng có Bồ Tát làm đổ vương (vua c bạc), sao? Đánh bạc đến cuối cùng, thua sạch, nhọc nhằn c đời toàn b đều thua sạch, t ḿnh nêu gương cho mọi người, quyết định chớ nên c bạc, vạch trần chân tướng của ṣng bạc. Chúng ta không ch gọi ngườiy là Đổ Vương Bồ Tát, mà c̣n là bậc hiện thân thuyết pháp! Sau khi quư vị đă hoàn toàn hiểu rơ, cũng chẳng c̣n đến nơi đó nữa, nơi ấy là hố lửa, không phải ch tốt lành. Quư vị thấy trong thế gian này, xưa, nay, trong ngoài nước, có ai dựa vào c bạc mà phát tài? T́m chẳng thấy một gương như thế. V́ thế, có s biểu th pháp nơi ngh nghiệp, quư vị chỉ cần quan sát cẩn thận, s đều có thể nhận biết.

      Hằng thuận chúng sanh, phải tùy thuận trong cuộc sống hằng ngày, thế gian chẳng có ǵ quyết định là đúng hay sai, chẳng có ǵ tuyệt đối tốt hay xấu. Nói thật ra, những th đối lập thảy đều chẳng tồn tại, hoàn toàn tùy thuộc ư niệm của quư vị. Ư niệm của quư v là tốt lành, chẳng có ǵ là không tốt. Ư niệm bất thiện, chẳng là thiện. thế, đức Phật nói rất hay: Cảnh chuyển theo tâm”, lời này nói rất tuyệt diệu! Chúng ta là Phật tâm th́ quư vị thấy y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới tất cả đều là Phật, Bồ Tát đang biểu diễn trong ấy, đang khuyến dụ, giáo hóa chúng sanh nơi ấy. Nếu khi chúng ta dùng tâm t tư t lợi để nh́n, dùng phân biệt, chấp trước để nh́n, ngay trong Phật pháp giới, quư vị cũng chẳng vừa ḷng. Quư v vẫn c̣n thấy có th ǵ đó chẳng thuận mắt. Ngay c đem thế giới Cực Lạc nói với quư vị, quư vị vẫn bới ra c đống khuyết điểm to đùng, chẳng phù hợp ư nghĩ của quư vị! Đúng vậy, hết thảy các pháp sanh t tâm tưởng, tâm hiện, thức biến, đức Phật giảng quá tuyệt! Người học Phật chẳng có ǵ khác, phải thật sự nh́n ra, phải thật sự hiểu tâm hiện như thế nào, thức biến như thế nào. Bất luận biến hóa như thế nào, tánh và tướng như một, pháp giới một Thể, vĩnh viễn ở trước mặt quư vị. thế, lượng vô biên biến hóa, trong ấy có một th chẳng biến đổi, h quư vị t́m được nó, liền giác ngộ. Đă t́m được, quư vị liền viên măn mười nguyện Phổ Hiền, liền thật sự giống những v đại sĩ được nói trong kinh này, cùng trụ Phổ Hiền hạnh, xác thực là quư v an tr trong Phổ Hiền hạnh.

      Cuối cùng, phổ giai hồi hướng”, câu này càng tuyệt diệu, câu này là ǵ? Là như chúng ta thường nói: “Tâm bao thái hư, lượng châu sa giới”, chia s trí huệ chân thật và lượng đức tướng (đức năng, tướng hảo) của chính ḿnh với hết thảy chúng sanh trong khắp pháp giới hư không giới cùng hưởng, đó là phổ giai hồi hướng”, hoàn toàn phơi bày chúng sanh chính ḿnh là một Thể,một, không hai.

      Chúng ta lại xem đoạn văn này, trụ Phổ Hiền hạnh” biểu th các đại sĩ đều an tr trong đại hạnh của Phổ Hiền đại sĩ, ai nấy đều dùng mười đại nguyện vương dẫn v Cực Lạc, hăy chú trọng ch “ai nấy”. Trong kinh Hoa Nghiêm chỉ có một Phổ Hiền, cẩn nhất Phổ Hiền, như xướng đạo” (chỉ có ḿnh ngài Ph Hiền đề xướng, xướng suất như vậy), Ngài đề xướng, Ngài hướng dẫn. “Kim kinh tắc vô lượng vô biên” (nay kinh này có vô lượng vô biên), nay Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh Lượng Thọ, trong pháp hội này có bao nhiêu Phổ Hiền Bồ Tát? Vô lượng vô biên. Đức như Phổ Hiền chi Pháp Thân đại sĩ, hàm lai tập hội, đồng hoằng Tịnh Tông” (Pháp Thân đại sĩ có đức hạnh giống như ngài Phổ Hiền, đều đến nhóm họp, cùng hoằng dương Tịnh Tông). Quư vị thấy t́nh h́nh nhộn nhịp khôn ngằn! lượng vô biên Phổ Hiền Bồ Tát, các v Bồ Tát ấy đều tu mười đại nguyện vương. Chư vị nhất định phải biết, cội rễ của mười đại nguyện vương Đệ Tử Quy, Cảm Ứng Thiên, Thập Thiện Nghiệp, Sa Di Luật Nghi, ch nên không biết, mười đại nguyện vương là khai hoa kết quả, đắc đại viên măn. Hăy ghi nh căn bản của nó. Nếu chẳng có căn bản ấy, mười đại nguyện vương thuộc v chư Phật, Bồ Tát, thuộc v các v Pháp Thân đại sĩ, chẳng dính dáng ǵ đến chúng ta! Nếu chúng ta vun bồi ba căn cội ấy, nhất định sẽ đạt được mười đại nguyện vương của Phổ Hiền, điều này quan trọng hơn bất c ǵ khác.

      Câu cuối cùng “hàm lai tập hội, đồng hoằng Tịnh Tông” (cùng đến nhóm hội, cùng hoằng dương Tịnh Tông), quư vị có thể thấy trong hết thảy các pháp môn, pháp môn Tịnh Tông thù thắng khôn sánh, trang nghiêm khôn sánh. Chúng ta đời này được làm thân người, gặp gỡ Phật pháp, có thể cùng nhau tu học Tịnh Tông, học tập kinh Đại Thừa Lượng Thọ, phước báo to lắm! Dẫu cho chư Phật Như Lai cùng nhau khen ngợi, đều khen chẳng trọn! Nhất định phải nhận biết, duyên phận này rất khó đạt được, nhất định phải nắm chắc. Trong một đời này, th ǵ đáng nên buông xuống, hăy nên buông xuống, quyết định cầu sanh Tịnh Độ, quyết định nương theo một b kinh Vô Lượng Th này, một câu A Di Đà Phật, quyết định được sanh v Tịnh Độ, chúng ta bèn thành công. [Như vậy th́] đức Phật giảng kinh chẳng phí công, H lăo cư sĩ chẳng uổng công hội tập, cụ Hoàng Niệm T dẫu bệnh tật vẫn viết Chú Giải chẳng phí công viết. Chúng ta vừa phát tâm, Phật hoan hỷ, các v đại đức ấy không v nào chẳng hoan hỷ, chẳng có v nào không gia tŕ chúng ta, l nào chẳng thành công? Hôm nay thời gian đă hết rồi, chúng ta học tới ch này.

Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

Phần 65 hết

 



[1] Hiểu theo nghĩa thông thường, “chánh sự” là những việc liên quan đến việc cai trị, nhưng chánh sự ở đây được dùng theo nghĩa là những kỹ năng và kiến thức cần thiết mà Nho sĩ phải học để có thể làm quan hoặc ứng phó trong cuộc sống.

[2] Đây là một hiện tượng thường được gọi là Cosmic Inflation, hoặc Cosmological Inflation. Theo đó, các nhà khoa học nói vũ trụ tiếp tục ph́nh to sau vụ nổ nguyên thủy (Big Bang) h́nh thành vũ trụ. Cho đến giai đoạn này, vũ trụ giăn nở gấp 10 lũy thừa 78 lần khối lượng ban đầu. Khái niệm này do nhà khoa học Alan Harvey Guth đề xướng vào năm 1980.

[3] Thước ở đây là dịch chữ Xích (). Một Xích nhỏ hơn một thước Tây (một mét) rất nhiều. Một Xích tính theo đơn vị ở Trung Hoa là 0,33 mét. Ở Hương Cảng, sử dụng một đơn vị khác cũng gọi là Xích, nhưng viết là “” (tức là một foot), chỉ có 0,03048 mét. Như vậy, nếu tính theo Xích của Trung Hoa Đại Lục, cái giường hai thước rưỡi rộng khoảng 0,825 mét, rất hẹp!

[4] Vị thiên vương này đứng đầu cơi Sắc Giới, và có nhiều danh hiệu như Mạc Ha Ca La, Ma Hê Thấp Phạt Niết, Y Tà Na Thiên, Thương Yết La Thiên, Y Xá Na Thiên, Ấn Độ giáo thường gọi ông ta là Thấp Bà (Śiva, Shiva), Vị đại hộ pháp Đại Hắc Thiên (Mahākāla) rất được Mật giáo Tây Tạng tôn trọng chính là một hóa thân của Ma Hê Thủ La Thiên. Đại Thừa Phật giáo nói Ma Hê Thủ La Thiên thường là Thập Địa Bồ Tát hóa thân, Mật Tông lại nói vị thiên vương này là hóa thân của Đại Nhật Như Lai.