Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

淨土大經解演義

phần 98

Chủ giảng: Lăo pháp sư Tịnh Không

Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010

Địa điểm: Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội

Chuyển Ngữ: Minh Tiến

Giảo chánh và hiệu đính: Đức Phong, Hu Trang và Như Ḥa

 

Tập 195

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Lượng Thọ Kinh Giải, trang thứ hai trăm ba mươi, hàng thứ năm đếm từ dưới lên, xem từ câu thứ nh́:

 Phục cụ túc lượng bất khả nghị trang nghiêm, cố vạn vật nghiêm tịnh, cùng vi cực diệu, quang oánh như kính, triệt chiếu thập phương, xúc quang an lạc, cấu diệt thiện sanh. Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới, chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh(Cũng do đầy đủ lượng công đức chẳng thể nghĩ bàn nên vạn vật nghiêm tịnh, vi diệu đến cùng cực, sáng láng như gương, chiếu tột cùng mười phương. Được quang minh chiếu đến, liền an lạc, cấu diệt, thiện sanh. Mùi hương xông khắp, chúng sanh trong mười phương thế giới ngửi thấy đều tu Phật hạnh). Chúng ta xem đến chỗ này. Đoạn kinh văn này thuật lại t́nh h́nh sau khi tỳ-kheo Pháp Tạng kiến tạo thành tựu cơi Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc từ đâu có, được xây dựng như thế nào, trong phần trước đă tŕnh bày rồi. Tại sao thế giới ấy tốt đẹp như vậy, [những điều này] rất đáng cho chúng ta học tập. Tỳ-kheo Pháp Tạng tham quan, thăm hỏi, khảo sát các cơi nước của mười phương chư Phật, Ngài đến những cơi ấy chọn lấy những điều tốt, bỏ những điều xấu của mỗi thế giới, chọn lọc như vậy rồi xây dựng thế giới Cực Lạc. Do vậy, trong các cơi nước chư Phật, thế giới này thuần tịnh, thuần thiện, chư Phật cũng khen ngợi, xưng tán A Di Đà Phật quang trung cực tôn, Phật trung chi vương (quang minh tôn quư nhất, vua trong các vị Phật). Cảnh giới của Phật, Bồ Tát chẳng giống như cảnh giới cơi người; khi thấy kẻ khác tốt đẹp, con người sẽ khởi ḷng đố kỵ, trong cảnh giới Phật, Bồ Tát chẳng như vậy. Không chỉ chẳng đố kỵ, c̣n sanh tâm hoan hỷ, khen ngợi hoàn cảnh tu học tốt đẹp như vậy. thế, mười phương chư Phật chẳng vị nào không chiêu sinh giùm Ngài, giúp Ngài tuyên truyền, thậm chí c̣n gởi học tṛ giỏi của ḿnh đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, đến đó để làm ǵ? Để được huấn luyện, đến đó bèn thể thành Phật. Đây tôi thuật lại những điều đă nói trong đoạn trước, chúng ta thể thấy thế giới đó tốt đẹp ảnh hưởng của nó.

Thế giới Cực Lạc cụ túc lượng trang nghiêm bất khả nghị(đầy đủ lượng trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn), câu này nói tổng quát. Chúng ta gọi trang nghiêm chân thiện mỹ huệ. Trong thế gian này, nói thật ra,chân thiện mỹ huệchỉ hữu danh thực; trong thế giới Cực Lạc mới thật, chẳng giả. Trong sáu câu tiếp theo, đối với từ ngữvạn vật nghiêm tịnh,nghiêm trang nghiêm, tịnh thanh tịnh, cũng nói thế giới ấy cơi Tịnh Độ, chẳng mảy may ô nhiễm nào! Không chỉ vật chất chẳng bị ô nhiễm, tinh thần càng chẳng bị ô nhiễm. Cùng vi cực diệu lời lẽ h́nh dung, cùng () nghĩa cùng tận, [cùng vi cực diệu là] vi diệu tới cùng cực, chẳng cách nào diễn tả được! Ánh sáng từ nơi ấy rạng ngời như gương soi vậy. Triệt chiếu thập phương[nghĩa là] chiếu soi mười phương thế giới ràng, chiếu hết sức tỉ mỉ.Xúc quang an lạcnghĩa chúng sanh trong mười phương thế giới đều thể tiếp xúc ánh sáng ấy. Thế giới [Sa Bà] này thuộc trong phạm vi của ánh sáng ấy hay không? Có! Tại sao chúng ta không cảm thấy? Trong kinh Đại Thừa, đức Phật đă nói điều này rất nhiều, đó chúng ta chướng ngại. Thí dụ như lúc mặt trời chiếu sáng khắp mặt đất, chúng ta ra ngoài cứ khăng khăng che dù, không để ánh mặt trời chiếu tới. chúng ta che nên ánh mặt trời không chiếu tới, đó chính ḿnh chướng ngại. Hiện thời, chướng ngại của chúng ta ǵ? Kinh đă nói rất ràng, chướng ngại của chúng ta chính tập khí phiền năo. Phiền năo lượng biên, nhằm dạy học thuận tiện, đức Phật đă quy nạp lượng biên phiền năo thành ba loại lớn: Loại thứ nhất Căn Bản Minh. minh ǵ? chúng ta đă mê. Trong Phật pháp đă nói rất rơ: Hết thảy chúng sanh vốn Phật. Thật ra, chúng ta chẳng khác Tỳ Giá Na Phật, chẳng khác A Di Đà Phật; thật vậy, chẳng giả! Tại sao nay lại khác biệt lớn như vậy? Các Ngài giác ngộ, c̣n chúng ta hoặc. Do đó, phiền năo thứ nhất mê, mất tự tánh, chẳng biết ḿnh ǵ, đây phiền năo thứ nhất, gọi Căn Bản Phiền Năo. Thứ nh́ phân biệt, thứ ba chấp trước. Phân biệt c̣n gọi Trần Sa Phiền Năo, chữ trần sa (cát bụi) h́nh dung những ư niệm phân biệt rất nhiều. Ư niệm trước vừa diệt, ư niệm sau liền khởi lên, nên dùng trần sa để tỷ dụ. Chấp trước c̣n gọi Kiến Phiền Năo; Kiến kiến giải, tưởng, cũng nghĩa quư vị đối với người, đối với sự, đối với hết thảy vạn vật, quư vị nh́n sai lầm, suy nghĩ sai lầm. Những Phật pháp dạy chúng ta chẳng ngoài chuyện nhận biết Thật Tướng của các pháp, tức chân tướng của hết thảy các pháp. Khi quư vị đă nhận biết chân tướng, sẽ không nữa, sẽ không phân biệt nữa, cũng không chấp trước nữa, chướng ngại sẽ bị diệt trừ. Đến lúc đó, quư vị sẽ thấy Phật quang đích thực đang chiếu soi nơi này, chúng ta sẽ cảm nhận được, thật sự biết Phật quang đang chiếu đến thân chúng ta.

Câu kế tiếp nói đến sự lợi ích sẽ đạt được [do Phật quang chiếu soi], thứ nhất cấu diệt, thứ nh́ thiện sanh. Cấu () nghĩa nhiễm ô, nghĩa phiền năo. [Cấu diệt là] phiền năo sẽ đoạn dứt, khi Phật quang chiếu tới th́ phiền năo liền dứt. Khi phiền năo chẳng c̣n, thiện căn sẽ sanh khởi. Cấu diệt thiện sanh lợi ích quá lớn. Trong giáo pháp Đại Thừa, chữ Thiện này được gọi minh tâm kiến tánh, chẳng phải Thiện thông thường, chẳng phải Thiện trong thiện - ác b́nh thường, thiện kiểu ấy chẳng đáng kể. Thiện đây kiến tánh, tức thành Phật, quư vị chư Phật Như Lai cùng một cảnh giới. Không chỉ Quang, c̣n Hương. Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới, chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh(Mùi hương xông khắp mười phương thế giới, chúng sanh ngửi thấy đều tu Phật hạnh), Phật quang Phật hương chúng ta đều có. Không chỉ riêng chúng ta có, hết thảy hiện tượng vật chất đều có, tại sao? chẳng ĺa tự tánh, đó đức tánh vốn sẵn trong tự tánh. Sau khi mất tự tánh, đức tướng đó bị biến chất, chẳng c̣n tác dụng như thuở đầu, chúng ta phải hiểu sự thật này, phải hiểu này. Mười mấy năm qua, tiến Giang Bổn Thắng Nhật đă làm thí nghiệm với nước, nước khoáng vật, [những cuộc thí nghiệm ấy] chứng minh nước thể thấy, thể nghe, hiểu được ư nghĩ của con người. Chúng ta dùng thiện niệm đối với nó, trong pḥng thí nghiệm, quư vị [dùng kính hiển vi để nh́n] sẽ thấy nước kết tinh cùng đẹp đẽ. Nếu dùng ác niệm đối với nó, nước sẽ phản ứng bằng cách kết tinh rất xấu xí. Thí nghiệm mấy triệu lần đều chứng tỏ điều này thật, chứ chẳng giả. Đại Thừa Phật pháp thường diễn tả điều này bất cứ hiện tượng vật chất nào cũng đều kiến, văn, giác, tri, tiến Giang Bổn Thắng đă thí nghiệm chứng minh điều ấy. Phản ứng th́ sao? Phản ứng gồm sắc, thanh, hương, vị, hiện nay ông ta chỉ thấy được phản ứng nơi sắc thôi, c̣n hương th́ chưa thí nghiệm được, âm thanh mùi vị cũng chưa thí nghiệm được! Tôi nói với tiến Giang Bổn Thắng:Phật pháp khoa học cao cấp. Hiện thời, ông mới phát hiện một điều, c̣n ba điều chưa làm được, nhưng chúng chắc chắn có, hăy tiếp tục nghiên cứu”. Không chỉ nước mới có, cát, bụi, tro cũng có. Sau đó, ông nghiên cứu phân tử, nguyên tử, điện tử, hạt bản. Hiện tại, các nhà Lượng Tử Lực Học đă nghiên cứu, nhận thấy c̣n một thứ nhỏ hơn nữa tiểu quang tử, lẽ hạt nhỏ nhất, chẳng thể phân chia nhỏ hơn nữa, họ đă thấy được thứ này. Tiểu quang tử nhỏ như vậy cũng kiến, văn, giác, tri.

Trong kinh Phật nói, quư vị thấy rất nhiều người niệm Tâm Kinh, kinh này rất phổ biến, câu đầu tiên Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhă Ba La Mật Đa thời chiếu kiến Ngũ Uẩn giai không. Ngũ Uẩn được nói trong Phật pháp chính tiểu quang tử. Một hạt nguyên tử hoặc điện tử cũng do Ngũ Uẩn hợp thành. Sắc hiện tượng vật chất, Thọ, Tưởng, Hành, Thức hiện tượng tinh thần, chắc chắn những thứ do (nguyên tử hoặc điện tử) phát ra sẽ h́nh tướng, âm thanh, hương vị. Do đó, trong Phật pháp, toàn thể trụ sống động, chẳng phải chết cứng. Đối với âm thanh, chúng ta cũng phóng quang, nhưng quang minh của chúng ta xen tạp tập khí phiền năo nên quang minh ấy chẳng tốt đẹp. Phật chẳng phiền năo, chẳng lo lắng, chẳng thị phi, nhân ngă, chẳng tập khí, nên quang minh của Phật quang minh nguyên sơ, chẳng bị biến chất mảy may, c̣n quang minh của chúng ta đă biến chất. Các khoa học gia nói mỗi người đều một đài phát xạ, tưởng của chúng ta quang minh, khởi tâm động niệm đều quang minh. Làn sóng ánh sáng ấy vừa phát ra, bèn lan truyền trọn khắp pháp giới không giới, toàn thể đều một hiện tượng dao dộng. trụ một màng lưới dao động, giống như mạng Internet trong hiện tại. Khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác, chỉ cần dấy lên một ư niệm, tốc độ của làn sóng chấn động bởi ư niệm ấy rất nhanh. Làn sóng từ vật chất phát ra chẳng thể sánh bằng làn sóng phát ra từ tinh thần. Khi ư niệm vừa khởi lên, [làn sóng ấy] liền lập tức trọn khắp không giới. Sóng của hiện tượng vật chất c̣n hạn chế, hiện thời chúng ta cho rằng [tốc độ của] sóng ánh sáng nhanh nhất, ba trăm ngàn cây số trong một giây, đó nói về vật chất. Nhưng khi chúng ta khởi ư niệm, sóng ư niệm nhanh hơn sóng ánh sáng rất nhiều, chẳng thể so sánh. Khi ư niệm vừa khởi lên, toàn thể pháp giới không giới đều nhận được. Hằng ngày chúng ta cũng nhận sóng từ trụ, bản thân chúng ta cũng phát ra sóng, nhưng chính chúng ta cũng không biết. Đến lúc tâm thanh tịnh th́ sẽ nhận biết.

Kinh dạy chúng ta mục tiêu tu hành, thứ nhất tâm thanh tịnh, thứ nh́ tâm b́nh đẳng, thứ ba giác. Giác nghĩa đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh. Trong ba tầng cấp này, A La Hán chứng đắc thanh tịnh, Bồ Tát chứng đắc b́nh đẳng, Phật chứng đắc giác. Ba tầng lớp ấy, cao nhất giác, thấp nhất thanh tịnh. Ngày nay chúng ta học tập, tầng thấp nhất cũng chưa đạt được. Chúng ta nhất định phải đạt được thanh tịnh th́ mới thật sự được thọ dụng trong Phật pháp. Sự thọ dụng ấy đúng sự hưởng thụ cao nhất trong đời người như tiên sinh Phương Đông Mỹ đă nói vào thuở trước. Đối với sự hưởng thụ cao nhất, trong Phật pháp, câu đầu tiên Ĺa Khổ Được Vui. Chuyện này chẳng dính dáng đến địa vị hội, chẳng liên quan đến của cải, giàu sang. Nếu thật sự đạt được, quư vị sẽ vui sướng khôn sánh, mỗi ngày quư vị đều sống trong thế giới vui sướng, cùng hạnh phúc! Đó ǵ? Do tâm thanh tịnh có, quư vị vốn [sự vui sướng ấy], chẳng đến từ bên ngoài. Những t́m từ bên ngoài đều chẳng thật, lại c̣n tác dụng phụ. [Chúng ta] phải t́m sự vui sướng từ nội tâm. Trong Luận Ngữ ghi lại cảnh giới của Khổng lăo phu tử: Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ” (học rồi thực tập, cũng chẳng vui sướng sao), chữ duyệt () hỷ duyệt (vui sướng), do đâu có? Từ học tập có. Học tập, chữ tập () nghĩa ǵ? Những ta học đều thể áp dụng, thực hành trong đời sống, trong công việc, trong lúc xử sự, đăi người, tiếp vật, những học xong đều thể áp dụng, quư vị sẽ vui sướng. Sự vui sướng đó chẳng đến từ bên ngoài, từ trong tâm lộ ra, thật sự vui sướng! Phật pháp nói thanh tịnh, b́nh đẳng, giác lại càng cao hơn cảnh giới [của Khổng Tử]. Do vậy, trong phần trước đă nói Phật quang phổ chiếu, đó chính tự tánh, đức quang của tự tánh chiếu trọn khắp. Câu thứ nh́ kỳ hương phổ huân (hương ấy xông khắp), đó tự tánh, toàn thể đều thuộc về tự tánh. Do đó, Quang chiếu trọn pháp giới không giới, Hương cũng trọn khắp pháp giới không giới; c̣n hai thứ nữa âm thanh mùi vị vi diệu. Chúng sanh được thật sự tiếp xúc giai tu Phật hạnh(đều tu Phật hạnh). Phật nghĩa Chánh Giác, thật sự giác ngộ, ngôn hạnh của Ngài chẳng hoặc, thể hoàn toàn ǵn giữ [sự giác ngộ].

Câu kế tiếp kiến Bồ Đề thụ, chứng Sanh Nhẫn(thấy cây Bồ Đề, chứng Sanh Nhẫn), đây cây Bồ Đề trong cơi Cực Lạc, chẳng phải cây Bồ Đề trong cơi này. Nếu quư vị thấy cây Bồ Đề trong cơi Cực Lạc, liền thể chứng Sanh Nhẫn. Sanh Nhẫn ǵ? Trước hết hăy nói về chữ Nhẫn. Nhẫn () nghĩa đồng ư, chấp thuận, khẳng định. Nhẫn ba nghĩa ấy. Sanh ǵ? Hết thảy các pháp bất sanh, bất diệt. Trong Phật pháp, trong pháp Đại Thừa, người nào thể chứng đắc [Vô Sanh]? Kinh giáo Đại Thừa nói Thất Địa Bồ Tát, Bát Địa Bồ Tát, Cửu Địa Bồ Tát chứng đắc Sanh Pháp Nhẫn. Thất Địa Bồ Tát chứng đắc hạ phẩm, Bát Địa chứng đắc trung phẩm, Cửu Địa chứng đắc thượng phẩm. Lên cao hơn nữa Tịch Diệt Nhẫn, tức thành Phật. Thập Địa Bồ Tát chứng đắc hạ phẩm Tịch Diệt Nhẫn, Đẳng Giác chứng đắc trung phẩm, Diệu Giác chứng đắc thượng phẩm. Tầng cấp cao như vậy, chúng ta thử nghĩ cây Bồ Đề trong cơi Cực Lạc tác dụng ǵ? tác dụng dạy học, tuyệt đối chẳng phải tầm thường. Nơi cây Bồ Đề, bất cứ điều quư vị cũng thể thấy, giống như chúng ta xem TV, quư vị thể thấy h́nh ảnh trong khắp mười phương thế giới. Đương nhiên những được hiển thị nhiều nhất nơi cây ấy cũng thuận theo ư niệm của quư vị. Ta thể thấy các Bồ Tát tu hành chứng quả trong mười phương, đem lại cho quư vị rất nhiều khải thị ngộ xứ, thể khởi lên tác dụng ấy. Nếu chẳng phải như vậy, tác dụng ấy do đâu có? Giống như tỳ-kheo Pháp Tạng theo thầy của Ngài Tự Tại Vương Như Lai tham quan, khảo sát hết thảy cơi nước chư Phật, những cảnh giới ấy đều xuất hiện nơi cây Bồ Đề.

Diệu hiển Cực Lạc thế giới nhất trần nhất mao tất giai viên minh cụ đức (thế giới Cực Lạc hiển hiện đẹp đẽ, mỗi hạt bụi, mỗi sợi lông đều viên minh cụ đức). Mỗi hạt bụi, mỗi sợi lông nói tới vật nhỏ nhất, y báo nhỏ nhất trong thế giới một vi trần. Vi trần được nói trong kinh Phật thật ra nguyên tử, lạp tử (hạt cơ bản), điện tử như các nhà khoa học đă nói hiện thời. Nhất mao sợi lông trên thân chúng ta, đó chánh báo, chánh báo nhỏ nhất đầu sợi lông này, đầu sợi lông rất nhỏ. Nhất mao, nhất trần những vật nhỏ nhất trong chánh báo y báo. Những vật nhỏ nhoi này đều trọn đủ viên minh cụ đức, viên viên măn, minh quang minh, cụ đầy đủ, đức đức năng. Đức ǵ? Thí dụ như đầu sợi lông rất nhỏ, nhưng thể dung nạp toàn thể trụ, quư vị thể tin chuyện này hay không? Chẳng thể nào tưởng tượng được. Một hạt bụi, một điện tử cũng thể dung nạp cả trụ, giới tử nạp Tu Di, Tu Di nạp giới tử” (hạt cải dung nạp núi Tu Di, núi Tu Di dung nạp hạt cải). Vật lớn dung nạp vật nhỏ th́ chúng ta dễ hiểu; nhưng vật nhỏ thể dung nạp vật lớn, chúng ta chẳng cách nào chấp nhận, chẳng thể hiểu điều này, nhưng sự thật như vậy. Nh́n vào khoa học hiện thời, quư vị thường dùng máy điện toán, dùng những con chip trong cell phone, đại khái [một con chip] chỉ lớn bằng móng tay, chứa đựng bao nhiêu dữ kiện trong ấy, bao nhiêu thông tin trong ấy, đó cũng chỉ những phát minh trong ṿng vài năm gần đây. Vẫn c̣n thua xa khi so với Phật pháp! Phật pháp nói trong một hạt nguyên tử, thậm chí một hạt quang tử, chứa đựng thông tin của toàn thể trụ. Nếu so sánh hai việc này, q vị sẽ thấy khoa học chẳng kỳ lạ, hiếm hoi ǵ, thua xa Phật pháp! Càng chẳng thể nghĩ bàn hơn nữa thế giới chứa đựng trong một hạt vi trần lớn bằng thế giới bên ngoài, trong thế giới ấy lại vi trần, trong hạt vi trần ấy lại thế giới, trùng trùng tận! Khoa học chưa nói đến điều này, chưa phát hiện vấn đề này. Kinh Phật nói người nào thể đi vào trong thế giới ấy để tham quan, t́m hiểu? Phổ Hiền Bồ Tát. Kinh Hoa Nghiêm nói Phổ Hiền Bồ Tát thể đi vào thế giới bên trong một vi trần. Vậy th́ chúng ta thử hỏi ai Phổ Hiền Bồ Tát? Mỗi người văng sanh thế giới Cực Lạc đều Phổ Hiền Bồ Tát. Phẩm thứ hai của kinh này phẩm Đức Tuân Phổ Hiền, kinh văn đă nói ràng: Người trong thế giới hàm cộng tuân tu Phổ Hiền đại chi đức(đều cùng tu theo đức của Phổ Hiền đại sĩ). Chúng ta biết Hoa Nghiêm cảnh giới Phổ Hiền, Lượng Thọ cảnh giới viên măn rốt ráo của Phổ Hiền đại sĩ. Những chuyện này chúng ta thể không học hay sao?

Do [những ǵ] được các khoa học gia quốc tế phát hiện trong hiện tại ngày càng gần với Đại Thừa Phật pháp, chúng tôi cũng nhắn nhủ các nhà khoa học ấy, bảo họ, hiện thời c̣n một số vấn đề khoa học lẫn triết học đều chưa giải quyết được, [giải đáp của] những vấn đề ấy hoàn toàn nằm trong kinh điển Đại Thừa do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói từ ba ngàn năm trước. Những người nghiên cứu thế giới mô, khoa học hiện tại phát triển theo hai đối cực:  

- Một nhóm nghiên cứu thế giới mô, quan sát trụ, trụ mênh mông. Họ dùng các dụng cụ khoa học tối tân nhất để quan sát trụ. Họ kết luận: Chỉ thấy mười phần trăm trụ, c̣n chín chục phần trăm trụ họ chưa thấy được.

- Nhóm thứ nh́ nghiên cứu thế giới vi mô, tức Lượng Tử Lực Học. Nay họ đă hiểu ràng, rành rẽ trụ do đâu có. Bản chất của vật chất tinh thần, tinh thần do đâu có? Vật chất do tinh thần có, vậy th́ tinh thần do đâu có? Hiện thời họ đă tổng kết: trung sanh hữu(Cái sanh từ cái Không), tinh thần sanh từ Không. Không làm sao sanh ra Có? Phật pháp đă sớm giải thích ràng, minh bạch những vấn đề ấy. C̣n chín chục phần trăm kia của trụ sẽ đi về đâu? Trở về tự tánh, trở về Thường Tịch Quang. Thường Tịch Quang chẳng phải vật chất, cũng chẳng phải tinh thần. thế, quư vị chẳng thể nào thăm ḍ, trắc lường được.

[Những người nghiên cứu] thế giới vi nói tới sự khởi nguyên của trụ, khởi nguyên của các hiện tượng vật chất, hiện tượng tinh thần hiện tượng tự nhiên do đâu có? Phật pháp bảo duy tâm sở hiện, duy thức sở biến,một niệm bất giác, nên minh. Niệm thứ nhất bất giác, nên gọi minh. Một niệm chẳng nguyên nhân, chẳng do, nhưng niệm thứ nh́ sẽ nguyên nhân: Niệm thứ nhất nhân, niệm thứ hai quả. Niệm thứ nhất chẳng nguyên do, bèn gọi Thỉ Minh. Thỉ Minh ǵ? Chẳng khởi đầu! Chẳng khởi đầu ǵ? Chẳng quá khứ, chẳng tương lai, chẳng khoảng cách, vấn đề ngay trong lúc đó. Các khoa học gia chẳng nói điều này. Do vậy, chúng tôi do để tin tưởng rằng hai ba chục năm sau, Phật giáo sẽ chẳng phải tôn giáo nữa. Phật giáo khoa học cao cấp nhất trên thế giới này, chẳng phải tôn giáo nữa. Các khoa học gia phải [nghiên cứu] Đại Thừa sâu hơn th́ mới thể thật sự giải quyết những vấn đề nan giải trên quả địa cầu này.

Quư vị nói tai nạn đang bày trước mắt, mọi người đều rất lo lắng, [một trong các lời dự đoán tai nạn năm] 2012 do người Mỹ đề xướng. Trong các khoa học gia trên thế giới hiện nay, phân nửa tin tai nạn thể xảy ra, c̣n phân nửa kia th́ nói chẳng thể. Rốt cuộc th́ chuyện này thật hay giả? Vậy th́ phải đến năm 2012 sẽ biết, sẽ rơ. Nhưng các khoa học gia đă đưa ra một cách giải thích gồm ba câu rất đơn giản, đó kết luận của một người Mỹ. Ông Bố Lai Đăng[1] một khoa học gia Mỹ, khi nhận định về lời tiên đoán tai nạn 2012, đă phủ nhận chuyện ấy. Ông nói rất thú vị, cho rằng năm 2012 hội để toàn thể nhân loại bỏ ác, đề cao điều thiện, cải quy chánh, hết thảy mọi người hăy nên đoan chánh tâm niệm, hướng dẫn thế giới đạt đến chỗ tốt đẹp hơn. Trong câu này chỉ mười hai chữ, quan trọng nhất bỏ ác hướng thiện, cải quy chánh, đoan chánh tâm niệm, [làm được mười hai chữ trên đây th́] sẽ thể giải quyết vấn đề này. Cách nói ấy rất giống với cách nói trong Phật pháp. Phật pháp bảo: Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng. Nếu chúng ta buông bỏ hết thảy những ư niệm không chánh đáng, những ư niệm sai lầm, quay về giáo dục luân lư, đạo đức, nhân quả tôn giáo th́ vấn đề sẽ được giải quyết. Tại sao vậy? Tai nạn do những ư niệm bất chánh cảm vời. Thủy tai do tham lam, tâm tham nước. Bất luận tham điều ǵ, chỉ cần quư vị tâm tham th́ sẽ thủy tai (nạn lụt) xảy ra. Sân khuể hỏa tai, núi lửa bùng nổ, nhiệt độ địa cầu tăng lên, đều thuộc về hỏa, [con người] nổi nóng. Ngu si phong tai, [tức là] ngu si sẽ chiêu cảm nạn gió. Ngạo mạn bất b́nh đẳng chiêu cảm động đất. Do đó, đức Phật dạy: Siêng tu Giới, Định, Huệ, diệt trừ tham, sân, sith́ tai nạn cũng chẳng xảy ra. Bản thân quư vị sẽ được thân tâm khỏe mạnh, trăm bệnh chẳng sanh. Người ta thường nói bệnh chẳng thuộc về Hàn, bèn thuộc Nhiệt. Hàn ǵ? tâm tham. Nhiệt ǵ? tâm sân hận, hai thứ ấy nguyên nhân sanh ra bệnh tật. Tâm quư vị chẳng tham niệm, chẳng sân niệm th́ quư vị sẽ chẳng bị bệnh. Từ nhân đạt được thân thể khoẻ mạnh, cho đến gia đ́nh hạnh phúc mỹ măn, hội hài ḥa, thiên hạ thái b́nh, tai nạn trên địa cầu hoàn toàn được hóa giải, tất cả đều từ một đạo lư, đều từ tâm niệm của mỗi người chúng ta.

Như vậy th́ điều quan trọng? Giáo học quan trọng! C thánh tiên hiền, đại thánh đại hiền đều theo đuổi công việc giáo học. Thích Ca Mâu Ni Phật rất phi phàm, xuất thân hoàng tử. Nếu không xuất gia, Ngài sẽ quốc vương, nhưng Ngài vứt bỏ ngôi vua, sống cuộc đời khổ hạnh của một vị Tăng, sao? trong đó Lạc. Phật pháp dạy chúng ta ĺa khổ được vui. Nếu chẳng Vui, ai chịu theo? Quư vị xem nhé, Ngài bắt đầu dạy học từ lúc ba mươi tuổi, đến bảy mươi chín tuổi bèn viên tịch, dạy học suốt bốn mươi chín năm, chưa từng nghỉ một ngày nào, mỗi ngày đều vui thích, chẳng chán ngán. Học tṛ của Ngài kết tập [lời Phật dạy] thành kinh điển nhiều ngần ấy, khiến cho bọn hậu học chúng ta thông hiểu ư Ngài, thông hiểu ư nghĩa kinh điển. Nếu quư vị chẳng học theo cách của Ngài, sẽ chẳng hiểu ư ấy. Cách của Ngài ǵ? Chính buông xuống, buông xuống hết thảy thân tâm thế giới. Nói theo cách hiện thời, Ngài chẳng bị áp lực (stress) chút nào, bất luận xét theo phương diện tinh thần hay vật chất, Ngài chẳng mảy may áp lực ǵ! Những Ngài đă nói dạy chúng ta, chính Ngài đều làm được, thánh nhân như vậy đó! Người Ấn Độ gọi Phật Đà, chúng ta gọi Thánh Nhân, Phật Đà nghĩa Thánh Nhân. Bồ Tát nghĩa Hiền Nhân, A La Hán nghĩa Quân Tử. Người Trung Quốc gọi Thánh, Hiền, Quân Tử, c̣n Ấn Độ gọi Phật Đà, Bồ Tát, A La Hán. Các Ngài chẳng phải thần, cũng chẳng phải tiên. Thần tiên thuộc về thiên đạo hay quỷ đạo; c̣n Phật, Bồ Tát thuộc về nhân đạo, chẳng khác chúng ta. Nói theo cách hiện thời, th́ các Ngài đích thực triết học gia hay khoa học gia đại nhất trên thế gian.

sao các nhà khoa học thuở trước chẳng phát minh, sáng tạo những thứ khoa học kỹ thuật giống như các nhà khoa học hiện thời cho chúng ta sử dụng? Tại sao vậy? đây, một đạo rất đơn giản: Nếu khoa học kỹ thuật vượt trội luân đạo đức sẽ đem đến tai nạn cho nhân loại. Thế giới này thể bị hủy diệt hay không? thể lắm! Khả năng duy nhất chiến tranh nguyên tử; đối với bom nguyên tử hiện thời, chỉ cần một quả bom đă thể hủy diệt cả thành phố. Từ mạng Internet, chúng ta thấy những tin tức cho biết vào năm 2012, người Mỹ chuẩn bị thiết kế hệ thống hỏa tiễn mới, các hỏa tiễn ấy thể bắn tới bất cứ nơi nào trên thế giới. Trong tương lai, nếu chiến tranh xảy ra, cần dùng lục quân, hải quân, không quân hay chăng? Chẳng cần. Ngồi trong nhà bấm nút thể hủy diệt cả thành phố, cả quốc gia. Đó tác dụng phụ của khoa học, lúc chẳng chiến tranh th́ đem lại nỗi lo sợ, lúc chiến tranh bèn đem lại sự hủy diệt. Do đó, Phật, Bồ Tát không làm những chuyện ấy, chẳng phát triển theo phương hướng ấy, thánh hiền Trung Quốc cũng chẳng phát triển theo hướng ấy. Những thứ như kim chỉ nam thuốc súng đều do người Trung Quốc phát minh đầu tiên, nhưng người Trung Quốc dùng những thứ ấy để tạo niềm vui, chẳng dùng trong chiến tranh. Gia Cát Lượng phát minh ngựa gỗ để giới hóa sự vận chuyển. Lúc ông mất bèn hủy diệt những kỹ thuật ấy, không lưu lại cho đời sau, chẳng phải ích kỷ, từ bi, nhân ái. Đây sự khác biệt giữa nền giáo dục phương Đông phương Tây. Người phương Đông chú trọng nhân đạo, người phương Tây chú trọng lợi ích bất kể phương tiện. Từ hai ngàn năm trăm năm trước, Mạnh Tử đă nói đến chuyện chú trọng đạt lợi ích bất kể phương tiện. Lúc Mạnh Tử gặp Lương Huệ Vương, Mạnh T sanh nhằm thời Chiến Quốc cũng thời đại động loạn nhiễu nhương. Lương Huệ Vương tiếp đón Ngài, câu đầu tiên bèn hỏi:Ông tới nước ta sẽ đem lại lợi ích ǵ?Mạnh Tử đáp: Vương tất viết lợi, diệc hữu nhân nghĩa nhi dĩ hỹ (vua cần phải nói tới lợi ích, chỉ nhân nghĩa được rồi). Nếu mọi người đều tranh lợi, nước ấy sẽ tan vỡ, thượng hạ giao chinh lợi, kỳ quốc nguy hỹ(trên dưới đều tranh lợi, nước đó sẽ lâm nguy), chẳng cần người khác đến đánh, chính quư vị sẽ tự diệt vong. Lợi vật người ta cần thiết, chẳng thể thiếu, nhưng vừa phải được rồi, chớ nên thái quá, chớ nên tranh giành!

Thế giớiđại đồng” chẳng phải chuyện tưởng. Trung Quốc đă từng thực hiện. Quư vị đọc lịch sử Trung Quốc, [sẽ thấy] ba đời Nghiêu, Thuấn, Đại cơi đời đại đồng. Sau khi vua chết đi, truyền ngôi cho con Vương Khải, đây nhà Hạ. Kể từ Vương Khải trở đi Tiểu Khang[2], th́ chẳng thể gọi Đại Đồng nữa. Trong thời Đại Đồng, những người lănh đạo quốc gia luôn nghĩ tới dân chúng, chẳng nghĩ cho chính ḿnh. Nơi vua sống giống như nhà của b́nh dân, nên gọi ty cung thất (cung điện thấp hèn); chẳng chú trọng ăn uống ngon lành, nghĩa sao? Ăn chỉ một món, chẳng bày đầy một bàn! Họ thường nghĩ đời sống như vậy tốt đẹp lắm rồi, c̣n nhiều kẻ chẳng cơm để ăn nữa kia! người c̣n chẳng nữa? Chẳng quần áo để mặc! Niệm niệm đều nghĩ tới những chuyện ấy. đọc cổ thư Trung Quốc, quư vị mới hiểu Trung Quốc, mới nhận biết tổ tiên của dân Trung Hoa như thế nào. Người ta gọi họ là cổ thánh tiên vươngchẳng phải nịnh hót, sự thật. Thánh nghĩa giác ngộ, hiểu rơ, chẳng phải kẻ hồ đồ. H đức hạnh, học vấn, niệm niệm đều mưu cầu phúc lợi cho dân, đó thánh nhân, chắc chắn chẳng mảy may tự tự lợi. Tự ḿnh cai trị rất tốt đẹp, hy vọng kẻ nối ngôi càng làm tốt hơn nữa. Họ tuyển chọn kẻ kế vị, phàm nhân chưa chắc nhận biết ai, chỉ thánh nhân mới nhận biết thánh nhân. Do đó, nhiều đời, nhiều triều đại đều giữ được sự hưng vượng dường ấy, hội ḥa hài, nhân dân thật sự hạnh phúc.

Đối với hội giống như ngày nay, cổ thánh tiên vương thuở xưa dùng phương pháp ǵ? Chẳng khác, dùng Giáo Học. Phật pháp th́ sao? Phật pháp cũng Giáo Học. Khi gặp tai nạn, người nhà Phật đều biết, chúng ta tổ chức pháp hội Nhân Vương Hộ Quốc, làm pháp hội này ḥng tiêu tai miễn nạn. Pháp hội Nhân Vương Hộ Quốc hiện nay đă bị biến chất, [cứ tưởng] kinh nóit́m một trăm người xuất gia hợp lại tụng kinh Nhân Vương” được rồi. Chẳng ư nghĩa như vậy. Từ ngữmột trămchẳng phải con số, nhằm tiêu biểu pháp.Một trăm những người xuất gia trên cả nước, tức [toàn thể] Phật giáo. Thích Ca Mâu Ni Phật kêu gọi hết thảy các đệ tử phải thực hiện giáo dục luân lư, đạo đức, giới luật, nhân quả, giúp đỡ quốc gia giáo hóa chúng sanh, ư nghĩa như vậy, quư vị chớ nên hiểu sai! Phải giảng chuyện này cho ràng, rành rẽ! Chính ḿnh lại c̣n phải làm mẫu, nêu gương cho người khác nh́n theo, làm theo cách như vậy th́ mới giúp quốc gia giải quyết tai nạn được. Hiện thời đă hoàn toàn sai lầm! lẽ đó, dẫu niệm kinh Nhân Vương bao nhiêu lần cũng chẳng giúp được ǵ. Nếu quư vị chẳng thể buông xuống tham, sân, si, mạn, ích đâu? Khuyên người khác buông xuống th́ chính ḿnh phải dẫn đầu. Do vậy, quư vị chẳng thể không nỗ lực học tập kinh điển. Nếu quư vị thật sự hiểu rơ th́ những lời dạy trong kinh điển mới ư nghĩa, thật sự thể giúp chúng ta giải quyết vấn đề. Từ vấn đề nhân của quư vị cho đến vấn đề của quốc gia, cho đến vấn đề thế giới, cho đến vấn đề trong cả trụ, hết thảy đều thể giải quyết, quư vị nghĩ xem, vui sướng biết bao! Thật đấy, chẳng giả, một hạt bụi, một sợi lông đều trọn đủ viên minh cụ đức.

Thị dĩ, thử tứ liệt ư nguyện đầu(V́ vậy, bốn câu này được đặt đầu lời nguyện), bốn câu kinh văn này được đặt phần đầu [các lời nguyện],biểu hạ nhất nhất các nguyện, mạc bất như thị(biểu thị: Không nguyện nào trong các nguyện sẽ được tŕnh bày dưới đây lại chẳng giống như vậy). Điều này cùng quan trọng; phần sau bốn mươi tám nguyện, nguyện nào cũng đủ các ư nghĩa trong bốn câu ấy. Bốn câu ấy chính như kinh văn đă nói: Ngă nhược chứng đắc Thượng Bồ Đề, thành Chánh Giác (Nếu tôi chứng đắc Thượng Bồ Đề, thành Chánh Giác xong), nói Ngài đă làm được, sở Phật sát, cụ túc lượng bất khả nghị công đức trang nghiêm(ở trong cơi nước đầy đủ lượng công đức trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn), tiếp đó nguyện văn của mỗi lời nguyện. Chúng ta phải dùng cách này để học bốn mươi tám nguyện th́ mới thật sự hiểu được các nguyện ấy chẳng thể nghĩ bàn. Nhất nhất chi nguyện giai thị vị chúng sanh, nhất nhất chi nguyện giai thị Di Đà bổn diệu minh tâm chi hiển hiện, nhất nhất chi sự tướng giai thị thanh tịnh cú, giai thị chân thật trí huệ vi Pháp Thân (mỗi nguyện đều chúng sanh, mỗi nguyện đều hiển hiện bổn tâm diệu minh của Phật Di Đà, mỗi sự tướng đều câu thanh tịnh, đều chân thật trí huệ vi Pháp Thân). Nói cách khác, mỗi chữ, mỗi câu đều ba thứ chân thật, từ ngữ Chân Thật Chi Tế chỉ bản tánh của chúng ta. Trong Tam Tự Kinh câu: Nhân chi sơ, tánh bổn thiện(con người ban sơ, tánh vốn lành), tổ tiên Trung Quốc nói bản tánh vốn thiện, Phật nói càng hay hơn nữa: Hết thảy chúng sanh vốn Phật. Hai câu ấy ư nghĩa hoàn toàn giống nhau. Nói tới thiện, điều thiện rốt ráo viên măn chẳng hơn Phật, do đó bản tánh vốn thiện chính vốn Phật, cùng một ư nghĩa. Ngày nay chúng ta bất thiện, bất thiện tập tánh, bản tánh vốn thiện, tập tánh không thiện, tập tánh tập quán. Người xưa nói gần mực th́ đen, gần son th́ đỏ, điều này quan hệ rất lớn với giáo dục. Quư vị theo thánh nhân, quân tử, tự nhiên sẽ biến thành thánh nhân, quân tử. Quư vị theo một nhóm tiểu nhân, cũng sẽ không hay không biết trở thành tiểu nhân. Quư vị bị hoàn cảnh ô nhiễm, đạo như vậy đó! Mục đích của việc đề cao giáo dục ǵ? Mục đích nhằm dạy quư vị vĩnh viễn giữ được tánh bổn thiện rời khỏi sự bất thiện, đó giáo dục. Toàn thể thế giới hiện thời chẳng giáo dục nữa, giáo dục trên toàn thế giới từ lớp tuổi nhà trẻ cho tới lớp nghiên cứu sinh đều truyền dạy kỹ thuật, chẳng nói tới đạo làm người, chẳng dạy làm người. Giáo dục thời cổ Trung Quốc dạy luân lư, luân dạy về quan hệ giữa người với người, nghĩa vụ của người với người, nói tới Ngũ Thường, nói tới Tứ Duy, Bát Đức. Đó nền giáo dục của người Trung Quốc.

Tôi tin giáo dục truyền thống của Trung Quốc chẳng thua người Ấn Độ. Người Ấn Độ nói họ truyền thống hơn một vạn năm, tôi tin đúng như vậy. Giáo dục của người Trung Quốc tối thiểu cũng lâu hơn một vạn năm, [nếu kể cả khoảng thời gian] văn tự chưa được phát minh, văn tự được phát minh vào đời Hoàng Đế, kể từ lúc văn tự ghi chép cho đến ngày nay khoảng bốn ngàn năm trăm năm. Trước đời Hoàng Đế Thần Nông Thị, tức Viêm Đế. Trước đó Phục Hy, từ Phục Hy đến Hoàng Đế một ngàn năm. Trong một ngàn năm ấy, tôi tin tưởng văn hóa cổ Trung Quốc đă được thành lập, nhưng chưa văn tự để ghi chép, chỉ truyền khẩu. Đến thời Khổng Tử, cổ nhân dùng văn tự ghi chép những lời truyền thuật của cổ nhân cổ thánh tiên hiền ḥng truyền cho đời sau, đó gọi Tập Đại Thành. Khổng Phu Tử cùng thành thật, Ngài nói cả đời Ngài chỉ thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ(chỉ thuật lại chứ không sáng tác, tin tưởng ưa thích những thứ cổ nhân để lại). Hai câu này nghĩa ǵ? Nói theo cách hiện thời, nghĩa suốt đời Ngài chẳng sáng tạo, chẳng phát minh, Ngài người thật thà. Tín nhi hiếu cổ nghĩa Ngài tin tưởng những cổ thánh tiên hiền truyền lại, Ngài yêu thích, ưa chuộng. Nói cách khác, những Khổng Tử đă học, đă tu, đă dạy cả đời toàn những thứ của cổ thánh tiên hiền, lăo nhân gia đă nêu gương tốt cho chúng ta. Trước thời Khổng Tử, tôi tin tưởng không chỉ hai ngàn năm trăm năm, người Trung Quốc nói năm ngàn năm lịch sử, Khổng Tử thuộc vào khoảng giữa, tính đến nay khoảng hai ngàn năm trăm năm. Kể từ đời Khổng Tử trở về trước hai ngàn năm trăm năm thời Phục Hy, chắc chắn [văn hóa truyền thống Trung Hoa] không phải chỉ bao nhiêu đó thôi.

Những thứ cổ thánh tiên hiền truyền lại nhất định rất đơn giản, dễ ghi nhớ, nên chẳng bị lưu truyền sai lạc. Thí dụ như Ngũ Luân, Ngũ Luân chỉ hai mươi chữ, tôi tin tưởng dẫu truyền mười vạn năm cũng chẳng bị truyền sai. Tôi truyền cho quư vị, quư vị truyền cho người khác, chỉ truyền năm câu sau đây: Phụ tử hữu thân, quân thần hữu nghĩa, phu phụ hữu biệt, trưởng ấu hữu tự, bằng hữu hữu tín(Cha con t́nh thân, vua tôi nghĩa, vợ chồng khác biệt, lớn nhỏ thứ tự, bạn chữ tín). Quư vị nghĩ xem: Truyền mười vạn năm thể truyền sai hay không? Chẳng thể nào! Người ta nhớ được! Phần sau càng đơn giản hơn nữa, Ngũ Thường chỉ năm chữ Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, đây tiêu chuẩn làm người. Thường nghĩa vĩnh hằng chẳng biến đổi, tiêu chuẩn của con người. Nếu con người chẳng Ngũ Thường, sẽ chẳng khác súc sanh. Nhân giả ái nhân(người ḷng nhân yêu thương con người) điều thứ nhất, trong Phật pháp nói không sát sanh. Thứ hai Nghĩa, “Nghĩa giả tuần (Nghĩa noi theo lư), nghĩa khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác phải hợp t́nh, hợp lư, hợp pháp, đó Nghĩa. Lễ nghĩa lễ tiết, cùng quan trọng. Chẳng thể nói mỗi ngày đều gặp nhau bèn thể buông tuồng đôi chút. Hễ buông tuồng, sẽ xảy ra vấn đề. Nhất định phải cẩn thận, lễ tiết nhỏ nhoi cũng phải ghi nhớ, phải làm được, giống như sách Đệ Tử Quy đă dạy, phải thực hiện những lời dạy ấy trong đời sống. Lễ tiết, Lễ nghĩa chừng mực, không quá đáng, cũng chẳng thể thiếu sót. Lễ nghĩa quá đáng th́ vẻ giống như nịnh hót. Lễ nghĩa không đủ th́ vẻ ngạo mạn, nhất định phải giữ lễ đủ mức. thế, nói dụng Trung, Trung tức Lễ. Nóigiữ Lễ đúng mựcchính dụng Trung. Quư vị thấy điện Tứ Thiên Vương trong nhà Phật, vị thứ nhất trong bốn vị Thiên Vương Tŕ Quốc Thiên Vương tiêu biểu ư nghĩa Dụng Trung. Tŕ Quốc Thiên Vương tay cầm đàn tỳ bà. Tỳ đàn dây, ư nghĩa ǵ? Dây đàn chùng quá sẽ không kêu, căng quá dễ đứt, nhất định phải lên dây vừa mức. Vừa mức tốt, sẽ phát ra âm thanh rất hay. Vừa mức nghĩa Lễ, do vậy, Lễ rất quan trọng. Nếu chẳng Lễ, Nho Giáo sẽ không c̣n nữa. Chẳng Giới, Phật giáo không c̣n nữa. Nếu người khác chẳng [Lễ], chúng ta tự làm đúng Lễ được rồi, đừng quan tâm người khác [có giữ L hay không]. Hết thảy đều yêu cầu chính ḿnh, đừng đ̣i hỏi kẻ khác! Chúng ta tự ḿnh nỗ lực học tập được rồi, sẽ thọ dụng. [Điều thứ là] Trí, Trí trí, chớ nên sử dụng cảm t́nh. Điều cuối cùng Tín, con người phải tín nhiệm. Quư vị thấy đó, tôi tin tối thiểu cũng phải hơn một vạn năm về trước, tổ tiên đă truyền lại năm chữ Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín dạy về đạo làm người, chẳng thể ĺa khỏi [năm chữ ấy], đó đạo. Đạo giả, bất khả tu du ly dă” (Đạo những chẳng thể ĺa khỏi trong chốc lát), một phút, một giây cũng chẳng thể ĺa khỏi, phải giữ chặt mấy chữ ấy. Trong Phật pháp, những điều đó chính Ngũ Giới, trong truyền thống Trung Quốc bèn Ngũ Thường. Tứ Duy bốn chữ Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ. Bát Đức Hiếu, Đễ, Trung, Tín, Nhân, Ái, Ḥa, B́nh. Đó những thứ thuộc về truyền thống Trung Quốc, quư vị phải dạy những thứ này cho kẻ khác ḥng đời đời truyền thừa. Tôi tin tưởng dẫu truyền mười vạn năm cũng chẳng truyền sai, những thứ ấy rất đơn giản, dễ dàng. Nếu tôi hoàn toàn làm trọn hết, tôi sẽ thánh hiền, quân tử. Làm trọn hết, chẳng vi phạm điều nào, bèn thánh nhân. Nếu c̣n chút lỗi lầm, quá nhi năng cải, thiện mạc đại yên(nếu sai thể sửa, chẳng tốt lành to tát hơn), đó hiền nhân. Kém hơn nữa quân tử. Đó tiêu chuẩn [trong đạo làm người] của người Trung Quốc. Tiêu chuẩn của Phật pháp ǵ? Phật pháp triết học cao cấp, khoa học cao cấp, vượt trỗi lục đạo, vượt trỗi mười pháp giới, thậm chí vượt khỏi cả trụ, một môn học vấn to lớn, phi thường. Nếu quư vị thật sự phát hiện, sẽ vui thích chẳng chán. Do vậy, nhà Phật nói đến Bảo th́ kinh điển được gọi Pháp Bảo, kinh điển món quư báu thật sự, chẳng trong thế gian thể sánh bằng! Đúng của báu. Do đó, đây nói rất ràng: Mỗi một nguyện đều chúng sanh, chẳng nguyện nào chính ḿnh, tại sao vậy? Chính ḿnh chúng sanh đều cùng một Thể, đó chính luân được nói trong Phật giáo. Luân nói về quan hệ, Nho gia chẳng giảng cao như vậy, chỉ Phật pháp nói toàn thể trụ chính ḿnh một Thể. Lăo Tử cũng nói, nhưng chẳng nói kỹ. Lăo Tử chỉ nói: Thiên địa dữ ngă đồng căn, vạn vật dữ ngă nhất thể” (trời đất ta cùng một cội rễ, vạn vật ta cùng một Thể), chẳng nói cặn kẽ hơn. Đức Phật nói tỉ mỉ hơn, thấu triệt hơn, tại sao lại một Thể, tại sao cùng một cội rễ, tất cả đều nói cho quư vị biết.

Câu kế tiếp [cho biết] mỗi một nguyện, nói thật ra, mỗi một nguyện, mỗi một hạnh, mỗi một sự, mỗi một quả báo giai thị A Di Đà Phật bổn diệu minh tâm chi hiển hiện(đều do bổn diệu minh tâm của A Di Đà Phật hiển hiện), do tâm của A Di Đà Phật hiện, cũng do tâm của chính chúng ta hiện. Nếu tâm chúng ta không hiện, tâm A Di Đà Phật cũng chẳng hiện, cùng một đạo lư! Nhất nhất sự tướng, giai thị thanh tịnh (mỗi một sự tướng đều câu thanh tịnh), câu thanh tịnh giai thị chân thật trí huệ vi Pháp Thân(đều Pháp Thân chân thật trí huệ vi). Chân thật trí huệ trí huệ Bát Nhă sẵn trong tự tánh, giống như Huệ Năng đại lúc minh tâm kiến tánh đă nói ra cảnh giới của Ngài, chỉ dùng hai mươi chữ: kỳ tự tánh bổn tự thanh tịnh, bổn bất sanh diệt(nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh, vốn chẳng sanh diệt), chẳng sanh diệt,bổn tự cụ túc(vốn tự đầy đủ), trong đó câu này, đầy đủ ǵ? Đầy đủ trí huệ, đầy đủ đức năng, đầy đủ tướng hảo, vốn sẵn đầy đủ. Câu thứ bổn động dao(vốn chẳng dao động), đó tự tánh vốn định. Câu cuối cùng năng sanh vạn pháp(có thể sanh vạn pháp). Do đó, hết thảy vạn pháp được sanh bởi tự tánh, đều do tự tánh hiện ra. Tự tánh bản thể của hết thảy vạn pháp, hết thảy đều sanh ra từ đó. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đă dùng biển cả làm tỷ dụ. Biển cả như tự tánh, bọt nước trong biển cả như chúng sanh. Từng bọt nước trồi trên mặt biển ngỡ ḿnh độc lập, chẳng biết [đến biển cả]. Lúc bọt nước vỡ tan, mới biết [chính ḿnh và] biển cả vốn một. Đức Phật dùng tỷ dụ này nhằm bảo chúng ta: Tất cả hết thảy chúng sanh chính ḿnh cùng một Thể. Do vậy, thương chúng sanh chính thương ḿnh, quan tâm chúng sanh chính quan tâm chính ḿnh, giúp đỡ chúng sanh chính giúp đỡ chính ḿnh, tự tha chẳng hai. Quư vị phải làm như vậy th́ mới minh tâm kiến tánh, mới thể hiểu chân tướng sự thật. Chúng tôi chỉ nói ư nghĩa tổng quát của bốn câu này tới đây thôi. Tiếp theo đây sẽ nói về bốn mươi tám nguyện. [Theo cách Khoa Phán, bốn mươi tám nguyện] được gọi Biệt Đề, c̣n gọi tế mục (các đề mục vi tế). Trong phần này bốn mươi tám điều. Nguyện thứ nhất là:

 

(Kinh) hữu địa ngục, ngạ quỷ, cầm thú, quyên phi nhuyễn động chi loại.

() 獄、餓 鬼、禽 獸、蜎

(Chánh kinh: Chẳng địa ngục, ngạ quỷ, cầm thú, các loài ngọ nguậy, bay lượn, trườn).

 

Đây nguyện cơi nước không ác đạo. Chúng ta thấy kinh Hoa Nghiêm hai phẩm, một phẩm Hoa Tạng Thế Giới Phẩm giảng về trụ, nói [đặc điểm của] thế giới này trong trụ, nay chúng ta gọi [thế giới] tinh cầu, [trong không gian có] lượng biên hệ tinh cầu. Phẩm thứ nh́ Thế Giới Thành Tựu Phẩm, cho biết những thế giớiy từ đâu có. Trước hết, bảo quư vị hăy nh́n, sau đó giảng giải cho quư vị biết trụ do đâu có. Từ trụ, quư vị phát hiện: Trong phần lớn các thế giới đều lục đạo luân hồi. thế giới nào chẳng lục đạo hay không? chứ! Số lượng cũng khá nhiều, các thế giới chẳng lục đạo đều thế giới thanh tịnh, trong các thế giới đó, chẳng kẻ tạo ác. một số thế giới giống hệt thế giới Cực Lạc, chỉ cơi Thật Báo, chẳng mười pháp giới, chúng ta thể gọi chúng thuần tịnh độ. Thế giới Cực Lạc rất kỳ lạ, rất đặc biệt, thuần tịnh độ, nhưng trong đó người trời; trong mười pháp giới, chẳng ba ác đạo. Nói cách khác, trong mười pháp giới, thế giới Cực Lạc chẳng ba cơi ác, bảy cơi c̣n lại đều có. Tuy bảy pháp giới, nhưng thế giới Cực Lạc cơi thuần tịnh, rất chẳng thể nghĩ bàn. Đây điểm đặc biệt của thế giới Cực Lạc, khác hẳn những cơi Phật khác, đó cũng nguyên nhân khiến cho hết thảy chư Phật đều tán thán. Chúng ta biết ba đường ác do đâu có, chúng ta phải hiểu việc này, chẳng nhân th́ sẽ chẳng quả, chúng ta phải hiểu như thế.   

Chúng ta coi đoạn kế tiếp [trong lời Chú Giải], hạ minh, ngă thử Phật sát trung, hữu địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh(Đoạn kế tiếp nói rơ: Trong nước của tôi chẳng ba ác đạo địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh). Tiếp đó một đoạn ghi chú về súc sanh, kinh trung thường cầm thú quyên phi nhuyễn động chi loại biểu súc sanh đạo(trong kinh thường dùngcầm thú, các loài ngọ nguậy, bay lượn, trườnđể biểu thị súc sanh). Hôm nay, đây, chúng tôi nói hơn, ba ác đạo ấy do đâu có. Hăy nhớ trong kinh đă một câu giảng cương lănh nguyên tắc chung, tuyệt đối đừng quên câu ấy: Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng. Hiện nay, các nhà khoa học đă thừa nhận hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng. Nói cách khác, tam ác đạo do chính chúng ta suy tưởng ra. Quư vịtưởngth́ sẽ biến đổi, cảnh giới bèn thay đổi. Địa ngục do đâu có? Địa ngục sanh từ tâm sân khuể, đố kỵ. Đương nhiên rất nhiều nguyên nhân, nhưng trong lượng nhân duyên, chắc chắn phải một nhân duyên chánh yếu, đức Phật đă chỉ ra nhân duyên chánh yếu ấy, đó sân khuể, đố kỵ. Từ tâm sân khuể, đố kỵ, sẽ dẫn tới rất nhiều hành vi, hành động bất thiện, thậm chí dẫn tới chiến tranh, độc hại, tội nghiệp rất nặng!

Trong Phật pháp, kinh điển thường nói nghiệp nhân của địa ngục Ngũ Nghịch, Thập Ác. Trong tội Ngũ Nghịch, thứ nhất giết cha, thứ nh́ giết mẹ. Ân đức của cha mẹ quá lớn, cha mẹ sanh ra quư vị, nuôi dưỡng quư vị, quư vị không biết hiếu thuận, chẳng biết báo ân! Nếu quư vị giết hại cha mẹ, chắc chắn sẽ đọa địa ngục. Thứ ba giết A La Hán. Nói thật ra, A La Hán đâu quư vị chẳng t́m thấy. A La Hán tiêu biểu ǵ? Tiêu biểu thầy. nói thật ra, A La Hán, Bồ Tát, Phật đều thầy, các Ngài đến thế gian này để giáo hóa chúng sanh, làm công việc giáo học. Nếu quư vị giết một vị thầy tốt th́ cũng như quư vị giết A La Hán, tội ấy sẽ đọa địa ngục. Thứ làm cho thân Phật chảy máu. Trí huệ phước báo của Phật đều viên măn, nên kẻ nào muốn giết Phật cũng chẳng thể giết được, đức Phật thần hộ pháp theo hộ tŕ. Đây nói đến chuyện Đề Đạt Đa muốn giết hại Thích Ca Mâu Ni Phật. Ông ta biết đức Phật mỗi ngày đi khất thực thường đi ngang một sườn núi, phải đi dưới sườn núi, nên núp trên núi đặt sẵn một tảng đá lớn, toan tính lúc đức Phật đi ngang, sẽ đẩy tảng đá xuống đè chết đức Phật, câu chuyện như vậy. Nhưng lúc ông ta đẩy đá xuống, thần hộ pháp Vi Đà Bồ Tát dùng chày Kim Cang đỡ tảng đá ấy, đánh tan nó, một mảnh vụn rơi trúng chân đức Phật khiến cho chân Ngài chảy máu. chuyện như vậy, nên gọi làm cho thân Phật chảy máu, tức làm cho Ngài bị thương. Đối với tội này, đức Phật đại thánh nhân, Ngài đến thế gian ḥng cứu vớt hết thảy chúng sanh, cho nên kết tội (luận tội) này chẳng phải đức Phật luận tội. Đức Phật đại từ đại bi, dẫu quư vị thật sự thể giết Ngài, đức Phật cũng chẳng trách quư vị. Tội này tính từ chỗ nào? Tính từ chỗ chúng sanh. quư vị tạo tội ấy chúng sanh chẳng thể nghe Phật pháp. Tội lỗi ấy nặng lắm! Quư vị đoạn dứt Pháp Thân huệ mạng của chúng sanh [nên mắc đại tội], chứ quư vị chẳng tạo tội với Phật. thế, nói thật ra, Phật, Bồ Tát, A La Hán đều đại từ đại bi, quư vị giết hại các Ngài, các Ngài vẫn chẳng trách quư vị, chẳng oán hận mảy may, thật đấy! Vậy th́ tại sao [kết tội nặng như vậy]? Luận tội luận theo phía chúng sanh, quư vị khiến cho chúng sanh bị mất một vị thầy giỏi, chẳng thể nghe Phật pháp, luận tội từ chỗ này. Do đó, tội này nặng lắm. Quư vị cũng chẳng thể thay thế Phật, Bồ Tát giáo hóa chúng sanh, [nên đă] đoạn dứt Pháp Thân huệ mạng của chúng sanh. thế, chúng ta phải hiểu nguyên nhân của tội này, đó tội đọa địa ngục.

Tội thứ năm phá ḥa hợp Tăng, tức phá hoại Tăng đoàn. Tăng đoàn đây phải Tăng đoàn ḥa hợp. Tăng đoàn ḥa hợp Tăng đoàn thật sự tŕ giới, y giáo tu hành, chẳng phải những đạo tràng thông thường. Trong tội này c̣n bao gồm điều ǵ? Pháp giảng kinh, pháp dạy học, giảng kinh, trong Tăng đoàn ḥa hợp nhất định pháp giảng kinh. Nếu không, chẳng thể nào Tăng đoàn ḥa hợp được! Ḥa hợp phải nhờ giáo dục, chắc chắn Tăng đoàn ấy phải giáo học. vậy, chúng ta phải biết Phật pháp kể từ lúc đức Phật Thích Ca khởi đầu luôn luôn giáo dục. Thuở đức Phật tại thế, đức Phật dạy học mỗi ngày. Lúc đó, hết thảy các nghi thức tôn giáo như hiện thời đều chẳng có, ngay cả công khóa sáng tối cũng chẳng có. Do vậy, người xưa câu phụ dẫn vào cửa, tu hành do nhân. Quư vị nghe giảng, nghe giảng xong đă hiểu rơ, bèn áp dụng những đạo phương pháp ấy vào đời sống hằng ngày, thực hiện trong đời sống, trong việc làm, trong sự đăi người, tiếp vật; đó Phật pháp, chúng ta chớ nên không biết việc này. Hơn nữa, suốt một đời, đức Phật chẳng dựng đạo tràng, Ngài chẳng chùa miếu, sống cuộc đời du mục, đêm nghỉ ngơi nơi đâu? Ngài nghỉ dưới gốc cây, mỗi ngày ăn một bữa, đêm nghỉ dưới gốc cây. Đức Phật quy định, mỗi gốc cây chỉ thể trú một đêm, hôm sau phải đến cội cây khác. Tại sao? Sợ quư vị khởi tâm tham: Cội cây này tốt lắm, rất lớn, tàng cây che rộng, tốt lắm! Mỗi đêm tôi đều dưới gốc cây này, khởi tâm tham! Do vậy, quy định chỉ tạm nơi đó một đêm, hôm sau phải đổi sang cội cây khác. Cả đời Ngài sống như người du mục, chẳng để cho quư vị khởi lên một mảy tâm tham, xả hết sạch, tài sản cả đời chỉ ba y, một bát, nêu gương cho chúng ta thấy. Từ lúc mười chín tuổi bèn sống cuộc đời như vậy, đến bảy mươi chín tuổi viên tịch, Ngài cũng viên tịch trong rừng cây, chẳng phải trong nhà, buông xuống triệt để, làm gương cho hàng hậu học. Tóm lại, tội Ngũ Nghịch tội rất nặng, phải đọa địa ngục A Tỳ.

Tội Thập Ác gồm sát sanh, trộm cắp, dâm, nói dối, nói đôi chiều, nói thêu dệt, nói lời thô lỗ, cộng thêm tham, sân, si, đó Thập Ác. Ngũ Nghịch, Thập Ác tội đọa địa ngục. Do vậy, thể biết Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng những kẻ đó, nên cơi ấy chẳng địa ngục. Nói cách khác, quư vị tu hành trong hoàn cảnh đó, thấy toàn Bồ Tát, chư Phật Như Lai. Quư vị chẳng t́m thấy một kẻ ác nào trong thế giới đó. chẳng duyên, tuy gốc rễ tham, sân, si c̣n chưa dứt, mang theo nghiệp, [tức là] đới nghiệp văng sanh, nhưng trong thế giới Cực Lạc chẳng duyên ấy. Những quư vị thấy đều vừa ḷng thỏa ư, chẳng chọc quư vị nổi giận. đó, đúng ai cũng người tốt, chuyện cũng chuyện tốt, làm sao quư vị nổi giận cho được? vậy, [Cực Lạc] chẳng duyên địa ngục, cũng chẳng nhân địa ngục. Quư vị sống nơi đó lâu ngày, dần dần tham, sân, si đều đoạn dứt. Đây nói về địa ngục, địa ngục khổ lắm, trong phần sau sẽ nói kỹ hơn.

Thứ nh́ ngạ quỷ, ngạ quỷ cũng rất khổ, nhân của ngạ quỷ ǵ? tham lam. Do vậy, tâm tham ngạ quỷ đạo. Tham ngũ dục, lục trần, tham tài, tham danh, tham sắc. Nói thật ra, người học Phật hiện thời dẫu học Phật vẫn thể đọa làm ngạ quỷ, thể đọa địa ngục, tại sao vậy? Sức tham, sân, si quá mạnh, tập khí phiền năo quá nặng. Học Phật rồi vẫn không chịu nhường nhịn kẻ khác, chẳng thể nhường nhịn! Thắp hương phải thắp cây hương đầu tiên, nếu thắp cây thứ nh́, họ sẽ nổi giận, sẽ chửi rủa kẻ khác. Đó nguyên nhân khiến cho người học Phật cũng đọa địa ngục, đố kỵ chướng ngại, chúng ta thấy những điều này [được chép] trong kinh điển. Kinh Di Lặc Sở Vấn vừa mở đầu liền kể chuyện hai vị tỳ-kheo, xuất gia giảng kinh, thuyết pháp, pháp duyên rất thịnh, thính chúng rất hoan hỷ. Hai vị tỳ-kheo khác thấy hai vị ấy pháp duyên quá tốt đẹp bèn khởi tâm đố kỵ, t́m mọi cách để phá hoại, loan tin đồn, bịa chuyện trong thính chúng. Họ nói hai vị pháp ấy giảng kinh rất hay, khẩu tài, nhưng hành vi chẳng tốt, phá giới, tạo tội nghiệp. Sau khi thính chúng nghe tin đồn này bèn mất ḷng tin đối với hai vị pháp giảng kinh. lẽ đó, hội giảng kinh phải giải tán. Hai vị tỳ-kheo phá hoại đạo tràng, phá hoại sự giảng kinh của người khác chết đi, đọa địa ngục A Tỳ. Sau một thời gian rất dài chịu tội trong địa ngục, thọ hết tội địa ngục xong, thoát ra, h́nh như năm người đó sanh trong nhân gian. Kinh gọi họ Ngũ Phiến Đề La, tức năm cu-li, năm người làm nghề khiêng kiệu, khiêng kiệu cho một phụ nữ giàu có. Nguyên nhân ǵ? Do lúc trước một vị hộ tŕ đạo tràng, năm người ấy phá hoại đạo tràng, nên [sau khi thọ tội xong], đời này sanh làm người, phải làm kẻ khiêng kiệu để hầu hạ người [hộ tŕ đạo tràng] ấy. Nghiệp nhân quả báo hào chẳng sai. lẽ đó, thiện nhân tạo thiện quả, ác nhân tạo ác báo, chẳng phải không báo, chưa đến lúc. Hễ đă tới lúc, hết thảy đều phải chịu báo! Trong phần sau, [sách Chú Giải] c̣n một đoạn văn dài giảng kỹ hơn về ngạ quỷ đạo. Đây chuyện rất phiền phức.

 Súc sanh đạo ngu si; ngu si chẳng thể phân biệt giả, thật, tà, chánh, đúng, sai, thiện, ác, nay chúng ta nói quan niệm về giá trị sai lầm, tạo thành sự đọa lạc. Chúng ta đọc sách Mạnh Tử, [sẽ thấy] quan niệm về giá trị của Mạnh Tử nhân nghĩa, quan niệm về giá trị của Lương Huệ Vương danh lợi. Nhưng Lương Huệ Vương cũng rất thông minh, tiếp nhận sự dạy bảo của Mạnh Tử, thâu liễm trở lại, rất đáng quư! Con người rốt cuộc c̣n thiện căn, chỉ cần người hiểu sự việc chỉ điểm cho họ, họ thể quay lại, trở thành một người tốt, chớ nên không biết điều này. Người xưa nói rất hay, Phật pháp cũng nói giống như vậy, thân người khó có, Phật pháp khó được nghe. Trong lục đạo, nói thật ra, con người tuy không cao quư, nhưng dễ giác ngộ, đáng quư chỗ này! Cơi trời tốt hơn cơi người, do phước báo lớn nên [họ chỉ biết] hưởng phước, chẳng biết tu hành. lẽ đó, Phật, Bồ Tát hoằng pháp trên cơi trời chẳng hiệu quả lớn cho mấy, chỉ gieo một chút thiện căn cho họ thôi. Tại sao vậy? Cơi trời chẳng khổ, chỉ sung sướng, [vậy th́] tôi học Phật để làm ǵ? Do đó, Phật pháp nói giàu sang khó học đạo, họ chẳng dễ tiếp nhận. Tam ác đạo như kẻ bần cùng, ba bữa ăn c̣n chưa no, lấy đâu ra thời gian theo quư vị học đạo? Do vậy, nghèo hèn học đạo cũng khó. Cơi người chính giữa, được coi tiểu khang, chẳng giàu cũng chẳng nghèo, cuộc sống cũng tàm tạm, người như vậy rất dễ tiếp xúc [Phật pháp]. lẽ đó, Phật, Bồ Tát tu hành chứng quả đều trong cơi người. Chúng ta cũng biết Phật, Bồ Tát giảng kinh, dạy học, chẳng bao giờ thị hiện tu hành chứng quả trên cơi trời, chẳng có, cũng chẳng thị hiện trong ba cơi ác. Do vậy, thể biết thân người đáng quư, thân người khó được, điều đáng quư con người dễ giác ngộ, xác thực con người thể dạy bảo, chỉ cần hoàn cảnh thuận lợi. Chúng tôi cảm thấy toàn thể thế giới ngày nay tuy hội động loạn, nhưng chẳng phải không cứu được. Nếu trong quá khứ, [trông thấy] cả thế giới động loạn như hiện tại, chúng tôi cảm thấy rất bi thương, tại sao? [V́ lúc ấy, chúng tôi nghĩ] đúng ngày tàn của thế giới, ai thể cứu vớt thế giới này?

Tại sao hiện thời chúng tôi cách nh́n khác với lúc trước? Ngày nay, khoa học kỹ thuật phát triển, công cụ tốt nhất truyền h́nh, truyền thông đại chúng. Nếu trong hệ thống truyền thông, thật sự những vị chánh nhân quân tử, giảng luân lư, giảng đạo đức, giảng nhân quả, giảng những giáo huấn của cổ thánh tiên hiền, ngày nào cũng giảng, vừa mở truyền h́nh quư vị thể nghe được, thể tiếp nhận, tôi tin khoảng một năm, trật tự trong toàn thể thế giới sẽ được khôi phục, trở thành b́nh thường. Chẳng thể không dạy học! Công cụ dạy học hiện thời quá tốt, thể đem sự giáo học đến tận nhà quư vị, chẳng cần ra khỏi cửa, quư vị nhà cũng học được. Thế nhưng, công cụ tốt như vậy phải người biết dùng. Nếu chẳng biết dùng, các công cụ ấy sẽ giống như nước, thể nâng thuyền, cũng thể lật thuyền. thể cứu quư vị, cũng thể hủy diệt quư vị. Tôi nhớ lần tôi nhà giáo Phương Đông Mỹ, nhằm đúng hôm đó ba vị quan chức của bộ Giáo Dục Đài Loan đến nhà thầy Phương thỉnh giáo:Làm thế nào để thể phục hưng văn hóa truyền thống Trung Quốc?Họ đặt ra câu hỏi ấy, lúc đó, tôi cũng mặt. Sau khi họ nêu câu hỏi, thầy Phương hết sức nghiêm túc, lặng thinh suốt năm, sáu phút, trầm mặc hết năm, sáu phút rồi thầy mới trả lời:. Họ hỏi:Phương pháp ǵ?Thầy trả lời, điều thứ nhất lúc bấy giờ Đài Loan ba đài truyền h́nh, thầy nói phải đóng cửa ba đài truyền h́nh ấy. C̣n khoảng hai, ba chục đài truyền thanh, đài tuyến truyền thanh chẳng h́nh ảnh, cũng phải đóng cửa. Cuối cùng phải đóng cửa tất cả những báo chí, tạp chí hiện đang lưu hành lúc đó. Họ nghe xong bèn đáp:Thưa thầy, những biện pháp ấy chẳng thể nào thực hiện được!Thầy nói:Những thứ này hằng ngày đều đang phá hoại văn hóa truyền thống Trung Quốc. Chỉ cần chúng tồn tại, quư vị làm sao thể nói đến chuyện phục hưng cho được?Lời ấy đúng quá, chẳng sai! Quư vị thấy truyền h́nh, thuở ấy c̣n chưa mạng Internet, mạng Internet hiện thời c̣n lợi hại hơn truyền h́nh. Hết thảy truyền thanh, điện ảnh, tạp chí, báo chí đều dạy con người những ǵ? Đều dạy quư vị giết, trộm, dâm, dối. Đó chính điềm báo ngày tàn của thế giới, ngay trước mắt, quư vị nên chẳng biết hay sao?

Do vậy, thầy nói:Truyền h́nh một công cụ rất tốt. Nếu thể dùng trong giáo dục, khôi phục truyền thống luân đạo đức cổ truyền, quốc gia sẽ được cứu văn, thế giới sẽ được cứu văn. Tôi tin họ cũng chẳng dám đăng báo lời thầy đă nói hôm đó, chỉ nghe qua rồi thôi, đúng như vậy. Thời gian tôi theo thầy học rất dài. Đối với truyền h́nh, thầy nhắc nhở nhiều lần:Truyền h́nh công cụ rất tốt, phải ghi nhớ. Nếu duyên th́ phải lợi dụng . Lúc đó, tôi nghe vậy, chẳng dám tưởng tượng. Chuyện này đ̣i hỏi tiền vốn quá cao, chi phí [phát h́nh] tính theo từng giây, làm sao chúng tôi chịu được? Do vậy, đời này toàn do Phật, Bồ Tát gia tŕ, chúng tôi nằm cũng không tưởng được, chẳng dám nghĩ tới. Chúng tôi dạy học cả đời, dạy hằng ngày chẳng gián đoạn suốt năm mươi hai năm. Chúng tôi đă dùng mạng Internet khoảng mười mấy năm, đại khái khoảng mười lăm năm. Đă dùng [truyền h́nh] vệ tinh tám năm rồi, bắt đầu dùng vệ tinh từ Tết Nguyên Đán năm 2003, quả thật ảnh hưởng rất lớn, toàn thế giới đều thể thâu h́nh. Do đó, đối với chuyện này, tôi khái niệm rất sâu: Nếu quốc gia biết vận dụng luân lư, đạo đức, vận dụng giáo huấn của cổ thánh tiên hiền khiến cho ḷng người đoan chánh, chỉ cần mời năm mươi giáo đủ rồi. Mỗi ngày giảng giải giáo huấn của cổ thánh tiên hiền. Năm mươi vị giáo dùng chương tŕnh dạy học từ xa (telecourses), dùng phương pháp ấy. Phát h́nh mỗi ngày hai mươi bốn giờ chẳng gián đoạn. Quư vị một đài truyền h́nh đài giáo dục hội, dùng đài truyền h́nh phát h́nh hai mươi bốn giờ không gián đoạn, chẳng nhận học phí, quốc gia thể thực hiện. Sau khi đài này xuất hiện, tôi tin những đài truyền h́nh khác sẽ chẳng ai coi nữa. sao hiện thời người coi? họ chẳng những tiết mục nào khác để coi. Nếu một đài truyền h́nh nội dung tốt đẹp như vậy, họ sẽ không coi đài khác. Chính chúng tôi cũng biết, tôi giảng kinh dùng truyền h́nh vệ tinh, trong ṿng tám năm nay, rất nhiều đồng tu nói với tôi, họ chỉ coi đài giảng kinh này, không coi những chương tŕnh truyền h́nh khác nữa. Thậm chí một nhà từ già tới trẻ đều coi chương tŕnh này, đều thích coi đài này. Do đó, thể thấy bản tánh của con người hiếu thiện (ham chuộng điều lành), người hiếu thiện cũng c̣n rất nhiều. Tại sao không làm như vậy? Chúng ta thể quay trở lại, cả nhà đích thực hạnh phúc mỹ măn, hội an định hài ḥa, rất nhiều xung đột trên thế giới đều thể hóa giải, trên địa cầu cũng sẽ chẳng nhiều tai nạn như hiện tại. Đây điều mọi người đều mong mỏi, đă phương pháp để thể đạt được, cớ sao không làm? Do chúng ta đă biết nghiệp nhân của địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, nếu chúng ta thể tiêu trừ những nghiệp nhân ấy th́ trong thế gian này sẽ không c̣n ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Ba đường ác do tâm hạnh bất thiện của chúng ta biến hiện, duy thức sở biến. Đức Phật nói rất đơn giản, do tham, sân, si biến ra, tâm tham biến ra ngạ quỷ, tâm sân hận biến ra địa ngục, ngu si biến ra súc sanh.

Giáo học một việc rất vui sướng. Nếu chẳng thật sự vui sướng, Thích Ca Mâu Ni Phật c̣n làm việc ngớ ngẩn này ư? Ngài thông minh như vậy, [không lẽ lại làm việc ngớ ngẩn sao]. Nói thật ra, Khổng lăo phu tử hơi khác đức Phật Thích Ca. Khổng Tử c̣n muốn t́m một, hai chức quan để phô trương tài năng, nhưng Ngài đúng một người đạo đức, tuyệt đối chẳng dùng thủ đoạn phi pháp, chu du các nước suốt mười mấy năm chẳng ai dám dùng Ngài, thời đó thời loạn mà! Đến lúc sáu mươi tám tuổi, đă già rồi, thôi đi, Ngài mới buông bỏ ư niệm ấy, trở về quê dạy học. Lăo nhân gia mất lúc bảy mươi ba tuổi, trên thực tế, chỉ dạy học năm năm, từ sáu mươi tám tuổi dạy tới lúc bảy mươi ba tuổi. Năm năm dạy học ảnh hưởng đối với Trung Quốc, đối với toàn thế giới to lớn ngần ấy, quư vị thấy sự nghiệp ấy ư nghĩa như vậy. Thích Ca Mâu Ni Phật biết [lợi ích của sự giáo dục], nên sau khi giác ngộ, Ngài không làm khác, chuyên tâm dạy học, dạy suốt bốn mươi chín năm, vui sướng ấy cùng. Đức Phật Thích Ca địa vị, ngôi vua đang đợi Ngài, nhưng Ngài từ bỏ, chẳng làm! Làm vua, dẫu cai trị tốt đẹp cách mấy đi nữa, cũng chỉ giới hạn trong một nước nhỏ bé. Quư vị đi dạy học, bao nhiêu người được lợi ích! Sự giáo học của Ngài chẳng phân chia quốc tịch, chẳng phân chia chủng tộc, cũng chẳng phân chia tôn giáo, tín ngưỡng. Chỉ cần quư vị chịu đến học, Ngài liền dạy, đúng người đến không từ chối, người đi không lưu giữ, dạy suốt cả đời, ảnh hưởng toàn thế giới. Hiện nay, trên thế giới thông thường nói tới tôn giáo, mọi người bèn nói tới Phật giáo. Tôi nghe nói trên toàn thế giới, người tin theo Phật giáo ước chừng sáu, bảy trăm triệu người, ảnh hưởng lớn như vậy. Tôi cũng đi theo con đường này, do thầy tôi khuyên. Năm xưa, lúc tôi mới bắt đầu học Phật, do thầy Phương Đông Mỹ giới thiệu, tôi bước vào ngưỡng cửa Phật giáo, nhận thức Phật giáo. Chương Gia đại đă giúp tôi đặt vững sở học Phật. Tôi học theo Ngài ba năm, Ngài mất lúc sáu mươi tám tuổi. Khi tôi bắt đầu theo học, Ngài đă sáu mươi lăm tuổi. Ngài khuyên tôi xuất gia, dạy tôi học theo Thích Ca Mâu Ni Phật. Đời này tôi chẳng phụ Ngài, làm một người học tṛ ngoan của Ngài.

      Thích Ca Mâu Ni Phật suốt đời dạy học; tôi cũng đi theo con đường ấy, sống cuộc đời rày nay mai đó, chẳng ở nhất định một chỗ nào. Chỗ nào có duyên bèn tới đó. Nhưng tôi muốn giúp đỡ một số người trẻ tuổi có chí học tập, v́ trong xă hội hiện thời, không chỉ là đạo Nho, đạo Phật, đạo Lăo thiếu nhân tài, mà những tôn giáo khác cũng không ngoại lệ. Tôi thấy chuyện này rất nhiều, nhân tài rất quan trọng. Làm thế nào để vun bồi nhân tài? Trong các buổi giảng kinh, tôi đă nêu ra các phương pháp ấy. Thật sự nương theo phương pháp của cổ nhân để tu học, phương pháp của cổ nhân được ghi trong tám câu đầu của Tam Tự Kinh, đó là nguyên tắc giáo huấn thế hệ sau cao nhất do tổ tiên truyền lại. Câu đầu tiên là “nhân chi sơ, tánh bổn thiện” (con người thoạt đầu tánh vốn lành). Nếu quư vị muốn tiến hành giáo dục th́ trước hết phải khẳng định tánh con người vốn thiện. Nếu quư vị học Phật, dạy người khác học Phật th́ trước hết phải khẳng định hết thảy chúng sanh vốn là Phật. Quan niệm ấy quan trọng hơn bất cứ ǵ khác. Tôi dạy học với mục đích ǵ? Học Phật th́ phải giúp họ thành Phật; tôi dạy văn hóa truyền thống của Trung Quốc là để giúp họ thành thánh nhân, được như vậy th́ sự giáo học ấy mới có ư nghĩa; đây là khái niệm cơ bản quan trọng nhất.

      Câu thứ hai giải thích v́ sao quư vị phải dạy học: “Tánh tương cận, tập tương viễn” (bản tánh của con người vốn giống nhau, tập tánh khác nhau). Nói theo bản tánh, bản tánh vốn lành, bản tánh của người nào cũng giống nhau, nhưng tập tánh khiến cho chúng ta càng ngày càng cách xa bản tánh vốn lành ấy, đó là ǵ? Chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh. Hiện tại, hoàn cảnh ảnh hưởng con người nhiều nhất là truyền h́nh và Internet, những thứ ấy đều dạy hư con người, rất đáng sợ! “Cẩu bất giáo, tánh năi thiên” (nếu chẳng dạy, tánh sẽ biến đổi), đây là lư do khiến cho giáo dục phát sanh. V́ sao cần phải tiến hành giáo dục? Nếu quư vị không dạy, con người trong tương lai sẽ trở thành hư hỏng hết.

      Dạy như thế nào? “Giáo chi đạo, quư dĩ chuyên” (phương pháp dạy học, quư ở chỗ chuyên nhất). Tám câu ấy! Đối với phương pháp này, Phật giáo cũng giống như vậy, luôn chủ trương “chuyên công”, tức là dồn sức vào một môn, đừng học nhiều thứ quá. Một môn đă thông suốt, các môn khác cũng sẽ thông suốt. Đó là quan niệm trong lối giáo dục của phương Đông. “Một môn thông suốt” là thông suốt điều ǵ? Kiến tánh, khai ngộ. Nếu chẳng khai ngộ, chứng tỏ quư vị chưa thông suốt. Do vậy, dạy quư vị phương pháp, đó là giữ quy củ. Giữ quy củ chính là tŕ giới. Tŕ giới đă lâu, có thể tŕ ba, bốn năm, những người b́nh phàm có căn tánh hạng trung, tŕ trong ṿng ba bốn năm, tâm sẽ thanh tịnh. Tôi nghĩ kẻ căn tánh độn hơn một chút th́ bốn hay năm năm sẽ đắc tâm thanh tịnh. Đó là đắc Định, đắc Định hai ba năm bèn mở mang trí huệ. Trí huệ mở mang, quư vị sẽ hiểu bộ kinh này, hết thảy các kinh đều thông suốt. Không chỉ thông suốt Phật pháp, mà hết thảy các pháp thế gian cũng đều thông suốt, quư vị thấy như vậy th́ sẽ tiện lợi biết bao! Nếu quư vị không biết phương pháp này, cứ học rộng nghe nhiều, học càng nhiều, chỉ học được tri thức, hiểu được rất nhiều việc, nhưng những ǵ quư vị chưa học sẽ không hiểu. Đối với những thứ của Trung Quốc, khi quư vị đă thật sự hiểu một thứ, đối với những thứ chưa học cũng hiểu, vừa tiếp xúc liền hiểu, vừa nh́n, vừa nghe, vừa tiếp xúc, quư vị liền biết hết. Đó là ǵ? Đó là trí huệ vốn có trong tự tánh của quư vị, quư vị phải lấy trí huệ trong tự tánh ra [để sử dụng]. Lối dạy học truyền thống của Trung Quốc và lối dạy học trong Phật pháp đều chú trọng phương pháp này, rất có hiệu quả, các phương pháp khác chẳng thể sánh bằng. Tôi nhớ một câu nói của tiên sinh Tôn Trung Sơn, thời đó, tiên sinh đă nói: “Người ngoại quốc chỉ mạnh hơn người Hoa hai chuyện, một là cơ khí, hai là khoa học kỹ thuật. Ngoài hai thứ đó ra, điều ǵ người ngoại quốc cũng chẳng bằng Trung Quốc”. Nói rất đúng! Đối với chánh trị và triết học th́ người ngoại quốc phải học theo người Trung Quốc, nói chẳng sai tí nào. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tới đây thôi!

Tập 196

 

Chư vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Lượng Thọ Kinh Giải, trang hai trăm ba mươi mốt, hàng thứ hai, bắt đầu từ câu thứ hai, bắt đầu từ chữđịa ngục:

Địa ngục, thử vi Hán ngữ” (Địa ngục tiếng Hán), đây là tiếng Trung Quốc, “Phạn ngữ vi Na Lạc Ca, Nê Lê đẳng” (tiếng Phạn là Na-lạc-ca (Naraka) hay Nê-lê (Nairya) v.v...), chữ Đẳng nghĩa là trong tiếng Phạn c̣n có nhiều danh từ khác nữa, chỉ nêu sơ lược hai thứ. “Nhiếp Đại Thừa Luận Âm Nghĩa viết, thử dịch hữu tứ nghĩa” (sách Nhiếp Đại Thừa Luận Âm Nghĩa nói: “Dịch ra [tiếng Hán], Nê Lê có bốn nghĩa”), tức là nói trong tiếng Phạn, danh xưng Địa Ngục có bốn ư nghĩa. Thứ nhất là “bất khả lạc” (chẳng thể vui sướng), nghĩa là nơi ấy chẳng an vui, vậy th́ càng chẳng thể có vui sướng, chỉ có khổ, chẳng có vui, chúng ta thường nói là “khổ chẳng nói nổi”!

Ư nghĩa thứ hai là “bất khả cứu tế” (chẳng thể cứu vớt). Ngay cả Phật, Bồ Tát muốn cứu giúp cũng không giúp nổi, tại sao vậy? Do nghiệp lực bất thiện của chính ḿnh chiêu cảm mà có. Khi xưa, lúc tôi mới học Phật, cụ Châu Kính Trụ kể cho tôi nghe một câu chuyện, chuyện có thật. Bố vợ của cụ là ông Chương Thái Viêm, thuở ấy, cụ Chương hết sức nổi tiếng, hầu như những người có học thức chẳng ai không biết đến tên tuổi cụ. Cụ Chương là bậc thầy về Quốc Học trong thời đầu Dân Quốc. Có một thời gian, cụ Chương bị Đông Nhạc Đại Đế mời làm phán quan. Đông Nhạc đại đế là đại quỷ vương. Trung Quốc có Ngũ Nhạc, nghĩa là [lănh thổ Trung Quốc] chia ra năm vùng, mỗi vùng gồm có mấy tỉnh. Đông Nhạc Đại Đế cai quản Thái Sơn, miếu thờ của Ngài ở Thái sơn thuộc tỉnh Sơn Đông. [Đại Đế] mời cụ Chương làm phán quan, phán quan là chức quan ǵ? Giống như Bí Thư Trưởng vậy, chức vị này rất cao. Mỗi tối, có hai tên tiểu quỷ khiêng kiệu cho cụ đi làm, trời gần sáng th́ đưa cụ về nhà. Ban ngày bận làm việc cơi người, ban đêm bận làm việc cơi quỷ, vô cùng khổ nhọc. Một hôm, cụ dùng giấy vàng để viết đơn xin nghỉ, đốt tờ giấy đó trước cửa th́ đêm đó tiểu quỷ chẳng đến t́m cụ nữa, giống như Đông Nhạc Đại Đế chấp thuận cho cụ nghỉ phép. Cụ là một người thư sinh, học rất giỏi.

Có một hôm, cụ kiến nghị với Đông Nhạc Đại Đế, cụ nghe nói h́nh phạt bào lạc (ôm cột đồng) dưới địa ngục quá tàn khốc. H́nh phạt này là dùng cột sắt đốt cho nóng đỏ rực lên, rồi bắt tội nhân ôm cột cháy đỏ rực ấy, h́nh phạt như vậy đó. Cụ Chương nói: “Như vậy là quá tàn nhẫn, có thể phế trừ h́nh phạt đó hay không?” Đông Nhạc Đại Đế nghe xong, bảo cụ hăy đi xem thử. Vua liền sai hai tiểu quỷ dẫn cụ đến hiện trường (nơi đang xử phạt) để xem. Đi một lúc lâu mới tới, tiểu quỷ nói: “Đă tới rồi” và chỉ [nơi đang xử phạt ở] ngay trước mặt, cụ Chương chẳng nh́n thấy ǵ cả! Lúc đó, cụ Chương mới đột nhiên hiểu ra, v́ cụ cũng là tín đồ Phật giáo, là đệ tử của Phật môn, liền biết đó là do nghiệp lực của tội nhân biến hiện, chẳng liên quan đến vua Diêm La. Chẳng phải vua Diêm La lập ra h́nh phạt ấy, cũng chẳng do thần thiết kế, cũng chẳng do Bồ Tát, đều chẳng dính dáng ǵ cả, mà do nghiệp lực của người đó biến hiện, tự làm tự chịu. Nếu chẳng có nghiệp lực ấy, quư vị cũng chẳng nh́n thấy. Lúc đó, cụ mới hiểu sự việc là như vậy, nên gọi là “chẳng thể cứu”. Quư vị thấy lăo cư sĩ Chương Thái Viêm có ḷng từ bi, hy vọng có thể phế trừ h́nh phạt ấy, vừa nh́n liền biết chẳng thể nào phế trừ chuyện ấy, trừ phi người đó chịu hồi tâm, thật sự sám hối, sửa lỗi đổi mới, cảnh giới ấy mới mất đi. Nhưng người đang chịu tội do quá khổ, chẳng nhớ sám hối, vấn đề ở chỗ này. Ông Chương là người có thiện căn sâu dầy.

Trong địa ngục cũng có Phật, Bồ Tát, Địa Tạng Vương thường ngự trong địa ngục để nhắc nhở những hạng người nào? Đối với những người gần giác ngộ, nhưng chưa giác ngộ, vừa nhắc nhở, họ liền có thể thật sự sám hối, liền có thể thoát khỏi địa ngục. Nếu không phải ngay trong giây phút quyết định đó, quư vị có nhắc họ cũng không được, họ chẳng nghe, v́ họ đang bị sự khổ bức bách, chỉ tập trung chú ư nỗi khổ, chịu khổ, chịu nạn, chẳng để ư người bên cạnh đang nhắc nhở họ. Đây là nói chư Phật, Bồ Tát độ chúng sanh, giúp đỡ chúng sanh, phải có duyên phận và cơ duyên nhất định. [Duyên phận là lúc] họ sắp ngộ nhưng chưa ngộ, lúc đó là một cơ hội, Bồ Tát có thể nắm lấy cơ hội này. Do vậy, chúng sanh trong địa ngục có niệm Phật văng sanh Tịnh Độ hay không? Cũng có! Khi Phật, Bồ Tát vừa chỉ điểm, họ liền sám hối, sửa lỗi, đổi mới, liền thoát khỏi địa ngục, địa ngục liền biến mất. Nếu một niệm ấy là niệm Phật [liền văng sanh], v́ sao họ biết niệm Phật? Trong đời quá khứ đă từng là người niệm Phật, nên trong A Lại Da Thức có sẵn chủng tử, khi Phật, Bồ Tát vừa nhắc nhở, họ liền niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Họ vừa niệm một câu A Di Đà Phật, một niệm hay mười niệm, chắc chắn được văng sanh, thật vậy, chẳng giả! Chúng sanh trong địa ngục có thể văng sanh thế giới Cực Lạc, huống hồ con người? Điều quan trọng là có thể quay lại hay không, có thể đoạn ác tu thiện hay không, có thể đoan chánh cái tâm của chính ḿnh hay không, thật sự giác ngộ. Đây là ư nghĩa thứ hai.

Ư nghĩa thứ ba là “ám minh” (tối tăm). Trong địa ngục chẳng thấy mặt trời, cũng chẳng thấy mặt trăng, cũng chẳng thấy tinh tú, mỗi ngày bầu trời đều tối om. Giống như cơi người chúng ta lúc trời mưa, lúc mưa quá nhiều, mây đen giăng đầy, trong địa ngục cũng giống như vậy nhưng chẳng có nước mưa, chỉ có mây đen giăng kín, hoàn cảnh giống như vậy đó. Địa ngục càng nghiêm trọng th́ mức độ tối tăm càng cao.

Ư nghĩa thứ tư là “địa ngục”, ngục là nhà tù, [địa ngục] là nhà tù dưới đất. Địa ngục có bốn ư nghĩa như vậy. “Kim kinh ngôn địa ngục năi kỳ trung chi nhất nghĩa” (chữ “địa ngục” dùng trong kinh này chỉ là lấy một trong bốn nghĩa trên đây), trong bốn nghĩa ấy, chúng ta thường dùng ư nghĩa địa ngục, tức là chỉ dùng ư nghĩa thứ tư.

Tiếp đó, trích dẫn “Bà Sa Luận”, tức là Đại Tỳ Bà Sa Luận có nói [như thế này]: “Thiệm Bộ Châu hạ” (phía dưới châu Thiệm Bộ), Thiệm Bộ Châu (Jambudvīpa) tức là Nam Thiệm Bộ Châu, là địa cầu của chúng ta. [Địa ngục ở] phía dưới bề mặt địa cầu, do vậy, địa ngục là lửa. Chúng ta biết trung tâm của trái đất đích thực là lửa, các khoa học gia hiện thời cũng đă chứng minh điều ấy. Nó là lửa, trong đó vô cùng khổ sở, là một biển lửa. “Quá ngũ bách du-thiện-na” (hơn năm trăm du-thiện-na), du-thiện-na là một danh từ, phía dưới sẽ có giải thích, “năi hữu địa ngục” (có địa ngục). Du-thiện-na (Yojana) c̣n gọi là “do-tuần, Thiên Trúc lư số chi danh” (do-tuần là đơn vị dùng để tính số dặm tại Thiên Trúc), Thiên Trúc là Ấn Độ, là danh xưng của đơn vị tính số dặm ở Cổ Ấn Độ. “Duy Ma Kinh Triệu Chú” (bản chú giải kinh Duy Ma của ngài Tăng Triệu), theo bản chú giải của Tăng Triệu đại sư, “thượng do-tuần lục thập lư” (thượng do-tuần là sáu mươi dặm), giống như Trung Quốc, “trung do-tuần ngũ thập lư, hạ do-tuần tứ thập lư” (trung do-tuần là năm mươi dặm, hạ do-tuần là bốn mươi dặm), Tăng Triệu đại sư nói như vậy. Nhưng chúng ta cũng thấy trong cách phiên dịch của các pháp sư khác, thượng do-tuần là tám mươi dặm, trung do-tuần là sáu mươi dặm, hạ do-tuần là bốn mươi dặm. Có hai cách nói như trên, cả hai cách nói đều có căn cứ, rốt cuộc là cách nào đúng, rất khó nói! Tóm lại, đơn vị dặm của Ấn Độ lớn hơn của Trung Quốc. Dùng tiểu do-tuần để nói, tức là hạ do-tuần, tiểu do-tuần cũng đến bốn mươi dặm, đại khái chuyện này chẳng có vấn đề. Có rất nhiều chỗ [kinh luận] nói tiểu do-tuần bằng bốn mươi dặm, nhưng trung do-tuần và đại do-tuần th́ khác nhau. Có thể thấy: Cứ lấy tiểu do-tuần để tính, một do-tuần là bốn mươi dặm, sâu năm trăm do-tuần dưới mặt đất chính là địa ngục.

 “Cố thường ngôn địa ngục, dĩ ngục tại địa hạ dă” (Như vậy, ta thường nói “địa ngục” là chỉ cái ngục ở dưới đất), nói địa ngục ở dưới đất, “đản ưng tri giả, địa ngục bất cẩn tại địa hạ” (nhưng thật ra hăy nên biết là địa ngục chẳng phải chỉ ở dưới đất). Kinh Phật ghi chép rất nhiều, “hoặc tại sơn gian” (hoặc ở trên núi), trên núi cao cũng có, bờ biển cũng có, hoặc trong đồng hoang, dưới cội cây, giữa không trung đều có địa ngục. Do đó, có thể biết địa ngục chẳng thuộc cùng một chiều không gian với chúng ta, khắp nơi đều có, trong phần sau, sẽ giới thiệu chi tiết. Tuy là chi tiết, nhưng [chỉ là nói] cặn kẽ hơn ở đây một chút. Muốn thật sự hiểu rơ nó th́ trong kinh Phật có nói rất nhiều, trong rất nhiều kinh luận cũng đă giải thích rơ ràng. Chúng tôi đă từng tra t́m hết thảy có hơn hai mươi bộ kinh luận, đức Phật nói về địa ngục rơ ràng hơn Đạo giáo, chép hết những chỗ ấy lại, biễn soạn thành một cuốn sách gọi Chư Kinh Phật Thuyết Địa Ngục Tập Yếu (tập hợp những điểm trọng yếu về địa ngục do đức Phật đă dạy trong các kinh). Nếu chúng ta muốn biết đức Phật đă nói về địa ngục [như thế nào], có thể t́m trong cuốn sách ấy. Chúng tôi cũng hy vọng tương lai có cơ duyên, sẽ có họa sĩ phát tâm vẽ một bức Địa Ngục Biến Tướng Đồ, vẽ đúng theo kinh Phật. Lúc trước đă có người vẽ, nhưng là dựa theo Ngọc Lịch Bảo Sao của Đạo gia, dựa theo sách ấy để vẽ rất nhiều. V́ Ngọc Lịch Bảo Sao được lưu hành rất rộng, trong dân gian có rất nhiều người đă từng đọc, sách ấy có tác dụng rất lớn trong giáo dục nhân quả. Sách ấy nói đến quả báo rất nhiều, nhưng các quả báo ấy do nghiệp nhân ǵ tạo ra, sách chẳng nói rơ, kinh Phật giảng về chuyện này rất rơ. Kinh Phật dạy rơ nhân ǵ sẽ tạo thành quả báo ǵ, nói tường tận, hay khéo hơn sách của Đạo gia, có thể nhắc nhở chúng ta phải nâng cao sự cảnh giác trong cuộc sống hằng ngày, tuyệt đối đừng tạo tội nghiệp địa ngục. Tại sao vậy? V́ quả báo trong địa ngục khổ lắm, rất đáng sợ, thời gian đọa địa ngục lại dài đằng đẵng. Trong phần sau, chúng tôi sẽ nói tới ư này.

Câu cuối cùng là “tổng chi, địa ngục hữu tam loại” (nói chung, địa ngục có ba loại), ở đây bèn giới thiệu đơn giản, nói ra cả ba loại. Thứ nhất là “căn bản địa ngục, năi bát đại địa ngục cập bát hàn địa ngục” (căn bản địa ngục, tức là tám đại địa ngục và tám địa ngục lạnh), [căn bản địa ngục] là tên chung của địa ngục, ở đây là đại địa ngục. “Bát đại địa ngục đối bát hàn nhi ngôn, diệc danh bát nhiệt địa ngục” (nói có tám đại địa ngục là so với tám địa ngục lạnh mà nói, chúng cũng được gọi là tám ngục nóng). Địa ngục là một biển lửa, v́ nó ở trong ḷng đất. Hiện nay, chúng ta đều biết trung tâm quả đất là lửa, nhiệt độ rất cao. “Thiệm Bộ Châu địa hạ ngũ bách do-tuần hữu địa ngục, danh vi Đẳng Hoạt, tùng thị y thứ nhi hạ chí đệ bát ngục, danh vi Vô Gián” (phía dưới mặt đất Thiệm Bộ Châu năm trăm do-tuần, có địa ngục tên là Đẳng Hoạt. Từ đấy, lần lượt tính xuống đến địa ngục thứ tám tên là Vô Gián). Đây là nói tổng quát, Căn Bản địa ngục gồm có tám chỗ, tên của tám địa ngục ấy được ghi ở đây. Tám địa ngục ấy có rất nhiều địa ngục phụ, địa ngục thứ nhất tính từ mặt đất xuống, địa ngục thứ nhất được gọi là Đẳng Hoạt. Nói thật ra, thọ tội trong địa ngục này nhẹ nhất. Nặng nhất là ngục thứ tám, tức địa ngục Vô Gián, địa ngục Vô Gián đáng sợ nhất! “Thử bát ngục năi tằng tằng thụ lập giả dă” (tám địa ngục ấy chồng lên nhau theo chiều dọc), đây là từ trên xuống dưới theo từng tầng một, địa ngục Vô Gián ở dưới cùng, càng xuống dưới th́ sự đau khổ càng nhiều. Đây là [liệt kê tên gọi của địa ngục] theo cách sắp xếp theo chiều dọc.

Cứ Câu Luận kiêm khảo Đại Luận(dựa theo luận Câu cũng như tham khảo Đại Luận), Đại Luận Đại Trí Độ Luận, khảo khảo cứ (考據: tra cứu). Luận Câu Đại Luận nói tám địa ngục ấy. Ngục thứ nhất trong tám ngục ấy tên Đẳng Hoạt.Bỉ trung tội nhân ngộ chủng chủng chước thích ma đảo(tội nhân trong ấy bị chém, đâm, xay, giă), chước () dao chém, chúng ta gọi chém đầu. Thích () đâm chết, ma đảo (磨擣: xay, giă), chẳng khó hiểu. Khổ cực thân tử, nhiên lănh phong xuy chi, nhục hoàn sanh, đẳng ư tiền hoạt (khổ quá chết đi, chợt cơn gió lạnh thổi qua, thịt da sanh lại, sống lại như trước). Đây kẻ tạo tội Ngũ Nghịch, Thập Ác trong thế gian, đọa địa ngục do tạo tội nghiệp cực nặng, Ngũ Nghịch Thập Ác tội nghiệp cực nặng, họ phải chịu quả báo này. Trong Phật pháp, tội này được gọi tánh tội, [nghĩa là] chính cái nghiệp ấy đă tội. Ngoài việc chịu tội trong địa ngục ra, tương lai thoát khỏi địa ngục, đă chịu hết tội này rồi, giống như bị phạt tù, bị ṭa phán nằm bao nhiêu năm, chịu hết h́nh phạt trong sẽ thể thoát ra. Địa ngục cũng vậy, chịu hết tội xong, quư vị sẽ được ra khỏi địa ngục, ra khỏi rồi đi về đâu? Do quư vị hăy c̣n quả báo nhẹ, phải vào đường ngạ quỷ hoặc súc sanh. Cuối cùng thể được làm thân người, đại khái lúc được làm thân người cũng rất khổ, nghèo túng, hạ tiện, rất khổ! Trong cơi súc sanh hoặc trong nhân gian th́ phải trả nợ, thiếu nợ mạng bèn đền mạng, thiếu tiền th́ đền tiền. Thật sự hiểu ràng luận chân tướng sự thật của nhân quả, đời này chúng ta làm người sẽ rất cẩn thận, tuyệt đối chẳng kết oán thù với người khác. Chịu thiệt tḥi một chút cũng không sao, cổ đại đức dạy chúng ta chịu thiệt tḥi phước, tại sao vậy? Cởi mở những oán kết trước kia. Nếu tôi thiếu người ta th́ tôi phải trả, người ta thiếu tôi th́ thôi, chẳng quan tâm đến, được như vậy th́ mới thể cởi mở mối oán kết đó, mới thuận buồm xuôi gió trên đường Bồ Đề.

Người học Phật hiện thời, rất nhiều đồng học đều biết oan gia chủ nợ cả đống, họ t́m đến chúng ta gây rối. Nói thật thà, từ thỉ kiếp đến nay, chúng ta chẳng được nghe Phật pháp, chẳng nghe giáo huấn của thánh nhân, đă tạo nghiệp quá nhiều, quá nặng! Do vậy, quư vị mới biết tại sao những mối oán kết ấy, cổ nhân gọi việc này tiễn bất đoạn, hoàn loạn(cắt không đứt, càng sắp xếp càng loạn), vấn đề này quá phức tạp. Sau khi học Phật, bèn dần dần hiểu rơ, khế nhập cảnh giới như kinh giáo đă nói mới thật sự biết chớ nên làm chuyện sai trái. Làm người th́ đầu tiên phải chấp thuận số phận của ḿnh, nhưng chẳng phải tinh thần A Q.[3] như người ta thường nói, chẳng phải vậy! Cam chịu số phận thuận theo thiên lư, đời này bất luận giàu sang hay nghèo hèn, tôi nhất định phải an phận giữ ḿnh, chẳng vượt quá bổn phận của chính ḿnh. Nếu nghèo hèn th́ ta sống đời nghèo hèn, không tạo tội nghiệp. Nếu giàu sang, bèn sống đời giàu sang, bèn giúp đỡ người khác, làm lành, tích đức, được như vậy th́ tiền đồ của quư vị sẽ từ từ nâng cao, sẽ được cát tường như ư. Nếu chẳng giữ bổn phận, lợi dụng chức quyền để thỏa măn danh lợi trước mắt, thể làm được hay không? Chẳng làm được! Nếu kẻ làm được, trong mạng của kẻ đó vốn sẵn có. Trong mạng ḿnh chẳng có, bất luận dùng thủ đoạn cũng không thể làm giàu, quư vị cũng chẳng thể thăng quan! Quư vị làm quan to cỡ nào cũng đều do trong mạng đă định sẵn, quư vị giàu tới mức nào th́ cũng trong mạng đă định sẵn, chẳng thể vượt hơn vận mạng, chẳng lẽ ấy! Nếu vượt hơn th́ không mắc bệnh, cũng sẽ gặp tai họa ngang trái, tại sao vậy? quư vị chẳng phước phần. Đạo này rất sâu, sự tướng rất phức tạp, chẳng đơn giản đâu nhé!

Nếu tôi dùng thủ đoạn không chánh đáng để đạt được quyền cao, chức trọng, của cải, giàu sang, những đạt được khi dùng thủ đoạn không chánh đáng đều trong mạng ḿnh vốn có. Không chỉ do trong mạng đă có, cái sẵn ấy c̣n bị chiết khấu (giảm bớt). Thí dụ như trong mạng quư vị, địa vị thể làm tới chức Bộ Trưởng, sau khi bị chiết khấu th́ sao? Quư vị chỉ làm tới chức Ty Trưởng, hoặc Xứ Trưởng, địa vị của quư vị bị hạ thấp! Thí dụ như tài sản trong mạng quư vị một ngàn triệu đồng, quư vị dùng thủ đoạn bất chánh chỉ đạt được năm trăm triệu, bèn cảm thấy tài giỏi lắm, nhưng thật ra đă bị chiết khấu rồi. Sai rồi! Nếu quư vị vẫn tuân thủ quy củ th́ quư vị sẽ của cải nhiều hơn mức đó, nhiều hơn rất nhiều. Nếu thể dùng sự giàu sang của ḿnh để giúp đỡ người nghèo khổ, làm các việc thiện, th́ chức Bộ Trưởng của quư vị thể tăng cao lên thành chức Thủ Tướng. Thật đấy! Quư vị hăy đọc kỹ Liễu Phàm Tứ Huấn sẽ biết rơ, một miếng ăn, một miếng uống, đều đă định sẵn, lẽ nào thể tranh giành được ư? Ngày nay luôn nói đến cạnh tranh, tranh chẳng được đâu nhé! Nếu cạnh tranh tranh được th́ Khổng phu tử đă cạnh tranh rồi, Thích Ca Mâu Ni Phật cũng đă cạnh tranh rồi. Chẳng lẽ ấy! Do vậy, đạo nhân quả rất sâu, chớ nên không biết. Nhân quả từ đâu có, trong phần trước chúng tôi đă nói rất nhiều, Sự ấy đều xuất hiện cùng lúc với trụ, phát sanh cùng lúc, chính A Lại Da, do một niệm bất giác bèn sanh minh, vũ trụ hiện ra, giống như Huệ Năng đại đă nói: kỳ tự tánh năng sanh vạn pháp” (nào ngờ tự tánh thể sanh ra vạn pháp), nhân quả sanh khởi cùng lúc với sự năng sanh vạn pháp này, chúng ta chớ nên không biết chuyện này!

Tuy chịu đau khổ cùng, thân thể chết đi, nhưng khi gió vừa thổi qua, kẻ đó liền sống lại. Sống lại để tiếp nhận h́nh phạt lần nữa, phải chịu h́nh phạt đến năm nào mới hết? Phiền phức lớn lắm! Người chịu tội trong mỗi địa ngục, thời gian dài ngắn chẳng giống nhau. Do tội nghiệp của họ phân ra nặng nhẹ, nên h́nh phạt của họ cũng chia thành nặng nhẹ, thời gian dài ngắn khác nhau. Tuy trong phần sau, chúng ta cũng thấy [Câu Luận nói tới] một tội nhẹ, nhưng thời gian chịu tội nhẹ ấy chúng ta chẳng cách tưởng tượng được!

Địa ngục thứ nhất Đẳng Hoạt địa ngục. Thứ nh́ Hắc Thằng địa ngục: Tiên hắc thằng phược tội nhân chi thể, nhi hậu trảm cứ(Hắc Thằng địa ngục: Trước hết dùng những sợi dây đen đủi trói chặt ḿnh mẩy tội nhân, rồi mới chém, cưa). Đó địa ngục Hắc Thằng. Từ chỗ này, chúng ta hăy suy nghĩ, những người đó tạo tội ǵ? Đại khái tội Ngũ Nghịch Thập Ác, tâm lại c̣n rất ương bướng, rất bạc bẽo, khắc nghiệt, rất so đo, chuyện cũng so đo. Do vậy mới sợi dây đen chia quư vị thành từng đoạn để rồi chém, xay quư vị. Phải biết hết thảy những h́nh phạt ấy đều do nghiệp lực của chính ḿnh biến hiện ra, chẳng phải ai khác thiết kế. H́nh phạt trong thế gian này do người ta thiết kế, c̣n h́nh phạt trong địa ngục chẳng do người nào thiết kế, hiện tượng tự nhiên. Đây địa ngục Hắc Thằng, [người đọa địa ngục này] tội nặng hơn địa ngục thứ nhất.

Thứ ba Chúng Hợp địa ngục: Chúng đa khổ cụ, câu lai bức thân, hợp đảng tương hại(Chúng Hợp địa ngục: Nhiều thứ h́nh cụ (dụng cụ tra tấn) độc ác cùng đến ép thân, kết làm hại). Chữ Đảng () nghĩa cùng nhau, cộng đồng, cùng một lúc phải chịu rất nhiều h́nh phạt, nên gọi Chúng Hợp địa ngục. Trong địa ngục bao nhiêu h́nh phạt bèn phải chịu cùng lúc, quư vị đều phải nhận lănh.

Thứ Hiệu Khiếu địa ngục, bức ư chúng khổ, phát bi hiệu oán khiếu chi thanh (Hiệu Khiếu địa ngục: Bị các nỗi khổ bức bách, lên những tiếng đau đớn, than oán). bị đau khổ cùng cực, tội nhân sẽ kêu gào, cầu xin cứu vớt. Họ không biết sám hối c̣n oán thán, đến khi cầu cứu xin tha bèn khởi lên ư niệm sám hối.

Thứ năm Đại Khiếu địa ngục: Bức ư kịch khổ, cánh phát đại khốc thanh(Đại Khiếu địa ngục: Bị khổ sở quá mức, vang tiếng kêu khóc ầm ĩ), miêu tả t́nh trạng lúc chịu tội, do vậy đặt tên này.

Thứ sáu Viêm Nhiệt địa ngục: Hỏa tùy thân khởi, viêm châu vi, khổ nhiệt nan kham(Viêm Nhiệt địa ngục: Lửa bốc từ trong thân cháy ra, ngọn lửa tỏa khắp, cái khổ nóng bức khó ḷng chịu đựng nổi). Trong địa ngục, chính yếu lửa.

Thứ bảy Đại Nhiệt địa ngục: Nhiệt trung chi cực, cố viết Đại Nhiệt(Đại Nhiệt địa ngục: Sức nóng dữ dội nhất nên gọi Đại Nhiệt).

Cuối cùng địa ngục thứ tám, Gián địa ngục: Thụ khổ gián, hữu gián hiết(Vô Gián địa ngục: Chịu khổ không gián đoạn, không lúc nào ngớt).

Từ sách Tam Tạng Pháp Số, chúng tôi trích ra một đoạn ghi chép từ Thành Thật Luận nói về địa ngục Ngũ Gián. [Ngũ Gián trong địa ngục ấy có] năm loại [vô gián]. gián chẳng gián đoạn. Nói cách khác, trong bảy địa ngục trước, lúc thọ tội c̣n lúc ngưng nghỉ, c̣n địa ngục Gián th́ chẳng lúc nào được ngưng nghỉ. Từ lúc bước vào, liền bắt đầu chịu h́nh phạt, măi cho đến lúc hết tội được thoát ra th́ mới chấm dứt. Nói cách khác, sự chịu tội ấy chẳng một giây, một phút nào chấm dứt, bảy địa ngục trước c̣n lúc ngưng nghỉ chốc lát. Lúc đổi h́nh phạt c̣n được ngưng một lát, nhưng chỗ này th́ không.

Thứ nhất Thú Quả Gián, vị hữu cực trọng tội giả(Thú Quả Gián ư nói kẻ tội cực nặng), những tội cực nặng ấy đều thuộc về tội Ngũ Nghịch Thập Ác, một lát nữa, tôi sẽ giải thích cho quư vị hiểu rơ, tội cực nặng tức hướng bỉ ngục thọ kỳ quả báo, hữu gián hiết(tức từ lúc thọ quả báo trong ngục ấy, chẳng lúc gián đoạn, tạm ngưng). Đạo đây tội này thuận theo ác nghiệp đă tạo lúc hiện tiền, tức tội đă tạo trong hiện tại, hoặc thuận theo sanh nghiệp của họ. Sanh nghiệp khác hiện nghiệp, tuy đều ác nghiệp, nhưng hiện nghiệp nghiệp đang tạo trong hiện tại, sanh nghiệp nghiệp trong tâm. Chúng ta nóitâm kẻ đó tàn nhẫn, thủ đoạn độc ác, tuy chẳng thực hiện trong hiện tại, nhưng tâm kẻ ấy rất hung dữ, rất ác độc, niệm niệm đều muốn hại người, muốn mưu hại kẻ khác, tâm sân hận rất lớn, tâm tranh giành danh lợi rất mạnh. Lúc tạo tội lúc thọ báo chẳng tách ĺa, quư vị đọa vào địa ngục [ngay trong lúc tạo tội ấy]. Thí dụ như thông thường chúng ta nói người chết đi bèn thân Trung Ấm, phần lớn thân Trung Ấm kéo dài bốn mươi chín ngày. [Kẻ đọa] địa ngục Gián chẳng thân Trung Ấm, vừa đứt hơi thở liền vào thẳng địa ngục, chẳng [khoảng thời gian] gián đoạn đổi thành thân Trung Ấm. Thân Trung Ấm thể kéo dài từ bảy ngày cho tới bốn mươi chín ngày, sanh vào địa ngục Gián bèn chẳng thân Trung Ấm. ba loại người sau khi chết chẳng thân Trung Ấm, quả báo lập tức hiện ra. Thứ nhất kẻ đọa địa ngục, tức Gián địa ngục, chẳng thân Trung Ấm. Thứ nh́ sanh lên trời, đó kẻ phước báo lớn, vừa dứt hơi thở liền sanh lên cơi trời. Thứ ba văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng vừa dứt hơi thở liền đến thế giới Cực Lạc. Ba hạng người ấy chẳng thân Trung Ấm, ngoài ra, tất cả mọi người đều thân trung ấm. Trung Ấm nghĩa kẻ đó một giai đoạn, con người sáu nẻo luân hồi, lúc chưa vào sáu nẻo luân hồi th́ một giai đoạn Trung Ấm, kẻ đọa Gián địa ngục chẳng một đoạn thời gian gián cách giữa ấy. Đây điều thứ nhất.

Thứ nh́ Thọ Khổ Gián. Điều thứ nhất chẳng Trung Ấm, thứ hai chịu khổ, vị chí bỉ ngục, thọ chư thống khổ, hữu gián hiết(nghĩa đến địa ngục ấy, chịu đựng các nỗi đau khổ chẳng hề ngưng nghỉ). Trong địa ngục này, địa ngục rất lớn, địa ngục lớn hay nhỏ cũng do nghiệp lực của chính ḿnh chiêu cảm. Trong địa ngục bao nhiêu h́nh phạt, quư vị phải chịu bấy nhiêu khổ đau, toàn do quư vị tạo các thứ ác nghiệp chẳng giống nhau, tất cả quả báo đều xảy đến một lượt, chẳng phải từng thứ một, đều đến một lượt, do đó sự phiền phức này rất lớn! Sự đau khổ này chẳng lúc ngừng nghỉ, từ lúc bước vào đến lúc thoát ra mới dứt, do vậy, cùng phiền phức.

Thứ ba Thời Gián. Thời thời gian, vị chí bỉ ngục, thọ khổ thời tiết hữu gián hiết nói thời gian đọa vào địa ngục đó chẳng gián đoạn), chẳng lúc ngừng nghỉ, giống như chúng ta ban ngày đi làm, ban đêm c̣n được nghỉ ngơi; ngục thế gian ban ngày chịu h́nh phạt, ban đêm c̣n được nghỉ, c̣n địa ngục Gián th́ không được ngừng nghỉ.

Thứ Mạng Gián, vị bỉ địa ngục, thọ mạng nhất trung kiếp(Mạng Gián nghĩa thọ mạng trong địa ngục ấy một trung kiếp), quư vị thấy thọ mạng của họ một trung kiếp. Một trung kiếp hai mươi tiểu kiếp. Tiểu kiếp được tính như thế nào? Trong kinh Phật cũng nhiều cách giải thích. Thuở trước, chúng tôi học Phật, thầy dạy một cách giải thích đơn giản. Thọ mạng con người ngắn nhất mười tuổi. Chúng ta nói tới tuổi trung b́nh th́ tuổi trung b́nh hiện nay bảy mươi tuổi. Mười tuổi như thế nào? Mười tuổi ngắn nhất, mỗi một trăm năm bèn tăng lên một tuổi, tăng tới tám vạn bốn ngàn tuổi, đây tuổi thọ dài nhất, đấy trong Kiếp Tăng. Từ thấp dần dần tăng lên, tăng tới tám vạn bốn ngàn tuổi cao nhất. Sau đó, tám vạn bốn ngàn tuổi cứ mỗi một trăm năm giảm một tuổi, giảm cho đến mười tuổi. Nay chúng ta đang trong Kiếp Giảm, một lần tăng một lần giảm [như vậy] gọi một tiểu kiếp. Hiện thời chúng ta đang thuộc kiếp giảm. Lúc Thích Ca Mâu Ni Phật ra đời, tuổi thọ trung b́nh một trăm tuổi, mỗi một trăm năm giảm một tuổi, Thích Ca Mâu Ni Phật tịch diệt tới nay ba ngàn lẻ ba mươi bảy năm, đă giảm hết ba mươi lần. Do đó, hiện nay tuổi thọ trung b́nh bảy mươi tuổi. Một trăm năm sau lại giảm một tuổi, pháp vận của đức Phật Thích Ca c̣n được chín ngàn năm, sau chín ngàn năm đó c̣n bao nhiêu năm mới tới [tuổi trung b́nh] mười tuổi? Hiện nay bảy mươi, [cứ đếm] hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, sáu ngàn năm, [sẽ thấy] sáu ngàn năm sau bèn giảm tới mười tuổi. Sáu ngàn năm sau th́ [cứ một trăm năm] lại tăng lên một tuổi, c̣n tăng thêm ba ngàn năm nữa. Pháp vận của đức Phật Thích Ca c̣n chưa hết, lúc đó, Phật pháp c̣n chưa dứt, vẫn c̣n tồn tại trong thế gian này. Do vậy, người khác nói chuyện địa cầu hủy diệt th́ người học Phật không tin, pháp vận của đức Phật hăy c̣n chín ngàn năm, chẳng mau như vậy, nhưng chắc chắn tai nạn sẽ xảy ra, chẳng cách nào tránh khỏi, chẳng phải ngày tận thế trên trái đất pháp vận của đức Phật hăy c̣n.

Một chu kỳ tăng giảm gọi một kiếp, tức một tiểu kiếp. Hai mươi tiểu kiếp một trung kiếp. Quư vị nghĩ coi, thọ mạng của kẻ đọa vào địa ngục Gián dài chừng nào? Hai mươi tiểu kiếp! Như vậy th́ phiền phức lớn lắm! Nếu quư vị đọa vào đó, sẽ phải đọa một thời gian dài như vậy. Quư vị thấy một tiểu kiếp [khoảng thời gian tuổi thọ của con người] từ mười tuổi tăng đến tám vạn bốn ngàn tuổi, rồi từ tám vạn bốn ngàn tuổi lại giảm đến mười tuổi, đó một tiểu kiếp. [Trải qua chu kỳ] một trăm năm tăng một tuổi rồi [một chu kỳ mỗi trăm năm] giảm một tuổi, thể tính ra chuyện này. Tôi không giỏi toán lắm, quư vị thể tự ḿnh tính thử xem, tính xong, quư vị sẽ biết dễ sợ lắm! Do đó, nhất định chớ nên tạo tội Ngũ Nghịch, Thập Ác! Người hiện thời tạo tội này rất nhiều, người nào tạo tội nhiều? Bất hiếu với cha mẹ, chẳng tôn kính trưởng, đó chính tội đọa địa ngục A Tỳ. Trong tội Ngũ Nghịch, thứ nhất giết cha, [thứ hai là] giết mẹ, bất hiếu với cha mẹ. Quư vị chưa giết cha, giết mẹ, nhưng quư vị không tôn kính cha mẹ, bất hiếu với cha mẹ, đó tội nhẹ nhất trong tội giết cha, giết mẹ, như vậy th́ trong tám tầng địa ngục, đại khái thể đọa vào hai tầng trên cùng! Nếu thật sự giết cha giết mẹ, chắc chắn sẽ đọa vào địa ngục Gián, quư vị nghĩ đáng sợ hay không?

Bởi lẽ đó, đời này chịu khổ một chút, không sao hết! Tuyệt đối đừng nên tạo tội nghiệp. Chịu khổ ǵ? Chịu khổ tiêu tội nghiệp. Đời quá khứ chẳng tích công lũy đức, chẳng tu thiện nghiệp, nên đời này mới nghèo hèn, mới khổ năo. Hiểu như thế rồi sẽ an phận nghèo hèn. Giống như Nhan Hồi, ông ta hiểu đạo này. So với Nhan Hồi, hiện thời chúng ta đỡ hơn ông ta quá nhiều. Đó một vị thánh hiền, Khổng Tử hết sức tán thán. Nhan Hồi học tṛ ngoan, ngộ tánh rất cao, Phu Tử nói chuyện, người khác chưa hiểu, ông ta đă hiểu rồi. Quư vị thấy đời sống của ông ta như sau: lậu hạng, nhất đan thực, nhất biều ẩm (sống trong hẻm nghèo, một giỏ cơm, một bầu nước). Phu Tử nói: Nếu người khác, sẽ cảm thấy đời sống như vậy khổ sở chẳng nói nổi, nhưng Nhan Hồi th́ mỗi ngày đều vui vẻ khôn sánh: Hồi dă, bất cải kỳ lạc(Nhan Hồi cũng chẳng thay đổi niềm vui ấy). Ông ta vui chỗ nào? Đời sống vật chất cùng nghèo nàn, hàn vi, nhưng đời sống tinh thần quá phong phú. Điều khiến ông ta vui với đạo, vui với thanh tịnh, vui với điều thiện! Nhan Hồi làm mẫu, nêu gương cho chúng ta. Trong Phật pháp, so giữa đời sống của đức Phật Thích Ca với Nhan Hồi, chỉ hơn, chứ chẳng thua kém. Nhan Hồi c̣n một căn nhà dột nát để ở, đức Phật Thích Ca chẳng có, Ngài chỉ dưới gốc cây, mỗi ngày ăn một bữa, phải đi khất thực. Đối với chúng ta nói, Ngài sống cuộc đời của kẻ ăn xin, đức Phật Thích Ca sống cuộc đời như vậy, vui sướng khôn cùng! Mỗi ngày dạy học, khuyên người ta đoạn ác tu thiện, vui sướng, không mệt chán. Đức Phật làm gương cho chúng ta thấy, chúng ta noi theo gương này để tu học, lẽ đâu chẳng vui sướng cho được? Sau khi chết sẽ đi về đâu? Sanh lên trời. Nhưng đức Phật không sanh lên trời, sao? Cơi trời chẳng rốt ráo, Ngài phải vượt thoát hai mươi tám tầng trời, vượt thoát mười pháp giới, Ngài đi làm Phật. Phật đây nói theo cảnh giới; giữa các cảnh giới trong trụ, đây một cảnh giới cao nhất, Ngài đến cảnh giới đó, chẳng phải chuyện đơn giản.

A Di Đà Phật rất phi phàm, nói tới chỗ này, tự nhiên chúng ta khởi lên niềm tôn kính, khởi lên tâm niệm cảm ân Ngài. Nếu Ngài không xây dựng thế giới Cực Lạc, tiếp dẫn chúng ta đến đó tu học, trong đời này, chúng ta muốn dựa vào sức ḿnh để đoạn phiền năo, chứng Bồ Đề, mấy ai thể làm được? Từ lúc Phật pháp được truyền vào Trung Quốc đến nay đă gần hai ngàn năm, trong hai ngàn năm ấy, người thật sự thành tựu, chúng ta chẳng cách nào tính hết, chỉ thể phỏng đoán lược thôi, tối thiểu cũng phải trên ba ngàn người, tỷ lệ không cao lắm. Trong ṿng hai ngàn năm dài lâu như vậy, nhân số đông như vậy, người thật sự thành tựu hơn ba ngàn người, đây nói những người thành tựu thông thường. Người niệm Phật thành công không phải chỉ bao nhiêu đó thôi, tôi cho rằng những người niệm Phật văng sanh Tịnh Độ tối thiểu cũng gấp mười lần con số ba ngàn đó, khẳng định trên ba vạn người. Điều này đă tỏ sự khó dễ, tu các pháp môn khác khó khăn, tu pháp môn Niệm Phật dễ dàng. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, nếu chúng ta bỏ pháp môn này, làm sao quư vị thành tựu cho được? Chẳng thể đoạn phiền năo! Pháp môn này không cần đoạn phiền năo, đới nghiệp văng sanh, tuy sanh trong cơi Đồng Cư, nhưng cơi Đồng chính cơi Thật Báo. Trong hết thảy các kinh khác, đức Phật chẳng nói đến chuyện này, chỉ riêng bộ kinh này là có. B́nh đẳng chẳng khác sai biệt, sai biệt bằng với b́nh đẳng, đây pháp môn chẳng thể nghĩ bàn. Các bạn đồng học chúng ta đă hiểu ràng, rành rẽ, từ hôm nay trở đi phải đặt A Di Đà Phật trong tâm ḿnh, dẹp sạch hết những rác rưởi trong tâm. Những tâm niệm bất kể thiện, ác, tốt, xấu, tất cả đều quét sạch hết. Trong tâm chỉ A Di Đà Phật, ngoài A Di Đà Phật ra, thứ cũng chẳng có, được như vậy th́ quư vị sẽ nắm chắc Tây Phương Cực Lạc thế giới, chắc chắc văng sanh. Lúc nào sẽ văng sanh cơi Cực Lạc chỉ vấn đề thời gian thôi, chắc chắn được văng sanh, tại sao không chịu làm? Đây chuyện ai cũng thể làm được! Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói ràng hết thảy chúng sanh vốn đều Phật, nghĩa nói quư vị vốn Phật, bây giờ đặt A Di Đà Phật trong tâm, cũng tức nóiđời này tôi nhất định sẽ làm Phật. Quư vị thấy [chúng ta] vốn Phật, lại hạ quyết tâm nhất định phải làm Phật, c̣n sai chạy chỗ nào nữa chăng? Khẳng định quư vị sẽ làm Phật. Học Phật lợi ích ǵ? Làm Phật lợi ích ǵ? Bộ kinh này nói rất thấu triệt, một bộ kinh này đủ rồi, [học một bộ kinh này] sẽ hiểu ràng, sẽ rành rẽ.

Mọi người đều biết hiện thời tai nạn xảy ra rất nhiều, cũng rất nhiều người tiết lộ tin tức cho tôi biết. Tự độ như thế nào? Cũng làm thế nào để tự cứu ḿnh, làm thế nào cứu người nhà, làm thế nào cứu con, bạn bè, giúp hội này, giúp các chúng sanh đang chịu khổ nạn trên thế giới này? Một bộ kinh Lượng Thọ, một câu A Di Đà Phật đủ rồi! Do vậy, hiện nay tôi đang nóng ḷng làm sao để thể giảng hoàn tất bộ kinh này sớm hơn. Hy vọng mỗi ngày tôi thể giảng bốn giờ, dự tính tới khoảng giữa năm sau thể giảng xong. Đối với địa phương Hương Cảng này, chỗ tôi cách nơi đây khá xa, giao thông thường bị kẹt xe, chẳng thuận tiện, buổi trưa chẳng thời gian nghỉ ngơi. Nếu buổi trưa thể chỗ rất an tịnh để nghỉ ngơi một giờ, buổi sáng tôi giảng hai tiếng đồng hồ, buổi chiều giảng hai giờ, được như vậy th́ sẽ giảng nhanh hơn. Nếu tôi Úc hoặc Lai Á, chỗ tôi rất gần pḥng thâu h́nh, nên đều thể giảng bốn giờ đồng hồ, rút ngắn thời gian. Chỉ thật sự nghe hiểu bộ kinh này, thật sự hiểu ràng, củng cố vững chắc ḷng tin, củng cố tâm nguyện của quư vị, quư vị mới cam tâm hết ḷng niệm câu Phật hiệu này đến cùng. Buông xuống vạn duyên, đối với hết thảy sự việc trong thế gian, tùy duyên, đừng phan duyên, được như vậy, quư vị sẽ tự tại biết bao! Thật sự hạnh phúc, thật sự sự hưởng thụ cao nhất trong đời người. Trong trụ này, tánh, tướng, Lư, Sự, nhân, quả, đều thông suốt, tự tại biết bao.

Điều thứ năm trong Ngũ Gián H́nh Gián. H́nh thân thể, vị bỉ địa ngục thọ tội chúng sanh, sanh nhi phục tử, tử hoàn sanh, thân h́nh hữu gián yết nói: Chúng sanh thọ tội trong địa ngục, sanh rồi lại chết, chết rồi lại sanh, thân h́nh chẳng lúc gián đoạn). [Chúng sanh trong] địa ngục hóa sanh, do tâm tưởng của họ biến hóa ra. Địa ngục lớn chừng nào, thân thể của họ sẽ lớn chừng ấy. Do đó, đối với những h́nh phạt trong địa ngục, quư vị đều phải chịu phạt cùng lúc, thân thể của quư vị lớn bằng địa ngục. Như trong kinh đă nói: Địa ngục quảng đại, bát vạn do-tuần(địa ngục rộng lớn tám vạn do-tuần), thân thể của quư vị cũng tám vạn do-tuần, các h́nh phạt trong địa ngục chẳng thể tránh được thứ nào! Nhưng sau khi chết đi, gió vừa thổi qua liền sống lại. Sống lại liền phải tiếp tục chịu tội, chẳng ngưng nghỉ. Chẳng phải chết đi sống lại c̣n một thời gian thể tạm dừng, chẳng hề ngưng nghỉ! Chịu những h́nh phạt ấy, thân h́nh chịu khổ chẳng gián đoạn. Đó địa ngục Ngũ Gián, trong đoạn này, chúng tôi giới thiệu đơn giản tới đây.

Xem tiếp đoạn kế, thượng bát đại địa ngục ngoại, cánh hữu bát hàn băng ngục (phía ngoài tám địa ngục trên đây, lại tám địa ngục lạnh), địa ngục Hàn Băng. Tám đại địa ngục nói trên địa ngục nóng, đó phần chính, xếp theo chiều dọc từng tầng từng tầng xếp lớp. Tám địa ngục lạnh ngang hàng, xếp theo chiều ngang; do vậy cánh hữu bát hàn băng ngục, y thứ hoành liệt(lại tám địa ngục lạnh hàn băng, xếp theo chiều ngang theo thứ tự). Tên gọi của các địa ngục ấy quá nửa dựa theo t́nh h́nh của tội nhân để đặt tên tức dùng h́nh dung từ để đặt tên.

Thứ nhất Ngạch Bộ Đà. Ngạch Bộ Đà tiếng Phạn, dịch nghĩa Pháo (: phồng rộp lên),nghiêm hàn bức thân, thể thượng sanh pháo(Thân bị rét cóng nên sưng phồng lên). Giống như Trung Quốc, vào mùa Đông chúng ta thể thấy [hiện tượng được gọi là] đống sang (凍瘡: bị thương lạnh cóng, frost bite), da sưng phồng lên. Lúc nhỏ, chúng tôi cũng đă bị rồi, nhà quê thiết bị giữ ấm chẳng đủ nên thân sưng phồng lên. Ngạch Bộ Đà tức một loại thương tích lạnh cóng, đó c̣n nhẹ.

Nghiêm trọng hơn nữa Ni Lạt Bộ Đà, cực hàn bức thân, thể phân pháo liệt(Ni Lạt Bộ Đà: Thân bị rét quá, ḿnh mẩy nứt nẻ, vỡ ra). Lúc lạnh hơn nữa th́ vết thương lạnh cóng sẽ vỡ ra, vỡ ra th́ càng đau đớn.

Thứ ba A La La, đây h́nh dung từ, quá lạnh đến nỗi trong miệng phát ra âm thanh kỳ lạ, [dùng từ ngữ này] để h́nh dung sự khổ trong địa ngục này.

Thứ A , thứ năm Hổ Hổ , đều dùng âm thanh để h́nh dung sự đau khổ khi bị lạnh cóng.

Thứ sáu Ốt Bát La, Ốt Bát La (Utpala) dịch sang nghĩa tiếng Hán hoa sen xanh, nghiêm hàn bức bách, thân phân(bị lạnh buốt quá mức, ḿnh mẩy nứt gẫy), lúc thân thể bị lạnh quá nên bị nứt toác ra, nứt toác ra giống như thế nào? Giống như hoa sen xanh, đây dùng hoa sen để h́nh dung.

Thứ bảy Bát Đặc Ma(Padma) nghĩa hoa sen đỏ. Thân thể găy nát [tươm máu] như hoa sen hồng, nghiêm trọng hơn loại trước.

Thứ tám nặng nhấtMa Ha Bát Đặc La, nghĩa hoa sen đỏ lớn, thân thể găy nát như hoa sen đỏ lớn.

đây, tôi bổ sung một câu, thọ mạng ngắn nhất trong địa ngục, nếu dùng thời gian trong cơi người để tính, ngắn nhất ba ngàn bảy trăm năm mươi năm bằng một ngày địa ngục. Nếu tính như trong nhân gian, một tháng ba mươi ngày, một năm mười hai tháng, hăy nhớ một ngày địa ngục bằng ba ngàn bảy trăm năm mươi năm trong cơi người. Trung Quốc thường nói năm ngàn năm lịch sử, c̣n chưa bằng hai ngày trong địa ngục! Thọ mạng địa ngục dài bao nhiêu? Trong phần trước đă nói một trung kiếp, tức hai mươi tiểu kiếp. người dùng toán học để tính, thọ mạng ngắn nhất địa ngục một vạn tuổi, như tôi vừa nói hồi năy, một ngày địa ngục bằng ba ngàn bảy trăm năm mươi năm [trong nhân gian], vậy th́ một vạn tuổi trong địa ngục bằng mười ba tỷ rưỡi năm trong nhân gian (13.500.000.000 năm)! Quư vị thấy đọa địa ngục rất dễ, thoát ra quá khó! Cách tính toán ấy chép trong Phật Học Đại Tự Điển, quư vị thể xem. Tạo tội nghiệp ấy làm chi? Ai khiến quư vị tạo tội ấy? Đến lúc nào mới thể thoát khỏi?

Nói theo Lư, đây chân lư, chẳng phải giả, địa ngục hoàn toàn biến hóa. Lục đạo của chúng ta cũng huyễn hóa, khi giác ngộ, sẽ không c̣n nữa. Nếu quư vị chấp trước, nếu quư vị chưa giác ngộ, thật. Giống như ǵ? Giống như nằm mộng, mộng thật hay giả? Lúc quư vị nằm mộng, mộng ấy rất giống thật, cùng chân thật, đến lúc quư vị tỉnh mộng, mới biết giả. Đức Phật dạy phàm những tướng đều vọng, lục đạo chẳng thật, địa ngục cũng thuộc về lục đạo. Trong Chứng Đạo Ca, thiền Vĩnh Gia đă nói rất hay: Trong mộng rành rành phô sáu nẻo, giác rồi ba cơi rỗng toang hoang. Lúc quư vị chưa giác ngộ, thật sự có, lục đạo đều có; hễ quư vị giác ngộ, lục đạo chẳng c̣n nữa. Giác ngộ như thế nào? Trừ học Phật ra, quư vị chẳng cách nào giác ngộ! Thuở Phật Thích Ca tại thế, thể nói Ấn Độ thời ấy một nước nhiều tôn giáo nhất trên toàn thế giới, [là một nước có] tôn giáo triết học phát triển nhất. Giới học thuật tôn giáo của họ đều tu Thiền Định, Thiền Định mức độ cao thể đột phá các tầng cấp không gian, nay ta gọi các chiều không gian, họ thể đột phá. Khi chiều không gian bị đột phá, các nhà khoa học hiện thời đă chứng thực chuyện này, không gian chẳng tồn tại, thời gian cũng chẳng tồn tại. Trong phần trước, chúng tôi nói thời gian một trăm ba mươi lăm ức năm thọ mạng của người đọa địa ngục. Do sau khi giác ngộ, không gian thời gian đều chẳng c̣n nữa, nên lục đạo chẳng c̣n nữa. Nếu mức Thiền Định sâu hơn bèn thể đột phá nhiều hơn, mười pháp giới chẳng c̣n, lúc đó cơi Thật Báo của chư Phật Như Lai sẽ hiện tiền. Cơi Thật Báo lượng thọ. Nếu tập khí thỉ minh cũng đoạn, lúc đó sẽ xuất hiện một cảnh giới mới, cơi Thật Báo cũng không c̣n nữa, đúng như đức Phật đă nói phàm những h́nh tướng đều vọng, ngay cả cơi Thật Báo Độ cũng mất luôn, lúc đó sẽ hiện tượng xảy ra? Quay về tự tánh, Thường Tịch Quang hiện tiền quay về tự tánh. vậy, chỉ trong Phật pháp mới đạt đến cảnh giới rốt ráo viên măn này.

Hiện nay khoa học, triết học được tôn sùng coi trọng. Khoa học Triết học càng ngày càng tiếp cận Đại Thừa. thế, vào thập niên bảy mươi trong thế kỷ hai mươi này, tiến Thang Ân Tỷ (Arnold Joseph Toynbee) Anh đă nói một câu rất lư. Ông ta nói: Muốn giải quyết vấn đề hội của thế kỷ hai mươi mốt, chỉ học thuyết Khổng Mạnh của Trung Quốc Đại Thừa Phật pháp thôi. Học thuyết Khổng Mạnh Đại Thừa Phật pháp đều Trung Quốc. Đại Thừa Phật pháp Trung Quốc đă lâu hai ngàn năm, thành tích cùng ưu tú, người Trung Quốc phải nên học hỏi cho tốt để giải quyết những vấn đề của chính ḿnh, vấn đề gia đ́nh, vấn đề hội, vấn đề quốc gia, thậm chí vấn đề của toàn thế giới. Chúng ta phải trân quư kho tàng quư báu này do tổ tiên, Phật, Bồ Tát, tổ đại đức để lại cho chúng ta, chúng ta thọ dụng chẳng hết. Nhưng muốn hưởng thụ kho tàng này, cần phải điều kiện căn bản, tức đức hạnh. Tổ tiên ban cho chúng ta luân thường, đạo đức, chúng ta phải thực hiện. Phật, Bồ tát ban cho chúng ta Ngũ Giới, Thập Thiện, chúng ta cũng phải thực hiện. Sau đó, dùng thời gian hai năm để học văn chương Văn Ngôn, được như vậy th́ quư vị mới phần nơi kho tàng ấy. Ai thật sự khả năng này, tôi sẽ tặng sách cho người đó. Gần đây, tôi đặt Thế Giới Thư Cục Đài Loan in một trăm bộ Tứ Khố Hội Yếu. Nếu vị nào thật sự đă gốc rễ luân lư, đạo đức, văn chương Văn Ngôn cũng học giỏi rồi, quư vị hăy viết thư cho tôi, nếu tôi cảm thấy văn chương Văn Ngôn của quư vị chẳng vấn đề ǵ, tôi sẽ gởi tặng quư vị một bộ sách, bộ sách ấy hết sức hay! Tôi c̣n thể tặng quư vị một bộ Đại Tạng Kinh, đây Phật pháp. Những thứ thuộc về truyền thống Trung Quốc [đều trong] Tứ Khố Hội Yếu, tôi sẽ tặng quư vị một bộ. Quư vị hăy học cho tốt, học trong ṿng mười năm. Nếu quư vị học Nho giáo, sẽ thành thánh hiền. Nếu quư vị học Đạo giáo, sẽ thành thần tiên. Nếu quư vị học Phật pháp, sẽ Phật, Bồ Tát. Tôi sẽ cúng dường quư vị những bộ sách ấy, hy vọng mọi người hăy sốt sắng nỗ lực.

Chúng ta hăy xem tiếp Thử thượng vi căn bản địa ngục, hạ tự cận biên địa ngục, độc địa ngục(Trên đây căn bản địa ngục, tiếp theo đây, sẽ lược thuật về cận biên địa ngục độc địa ngục). Đây những địa ngục nhỏ cạnh căn bản địa ngục, dành cho những kẻ tạo tội nhẹ hơn một chút, họ tạo tội ǵ? Hết thảy đều chẳng tách rời Ngũ Nghịch Thập Ác. thế, chúng tôi thấy phải để cho các vị pháp trẻ tuổi giảng kỹ tội Ngũ Nghịch Thập Ác cho quư vị biết; giảng kỹ về Ngũ Nghịch Thập Ác th́ quư vị mới biết rơ. Thứ nh́ thập lục du tằng địa ngục(mười sáu du tằng địa ngục), đây cận biên địa ngục, cạnh đại địa ngục. Bát đại địa ngục trung, mỗi nhất đại ngục giai hữu tứ môn (trong số tám đại địa ngục nói trên, mỗi đại địa ngục đều bốn cửa), giống như cửa thành, bốn cửa. Mỗi nhất môn ngoại, mỗi phụ tăng tứ ngục(ngoài mỗi cửa lại thêm bốn ngục phụ), danh vi (tên là), ngục thứ nhất mang tên Đường Ổi Tăng. Chữ Đường Ổi (Úy) (煻煨) này chắc nhiều người không hiểu, nghĩa lửa đốt bằng than, bên ngoài [lớp tro] nh́n không thấy lửa, nhưng bên trong lửa. Bên ngoài một lớp tro, bên trong rất nóng. Lúc nhỏ, chúng tôi thôn quê, sống trong làng quê, trẻ nhỏ hái các loại dưa, khoai lang ngoài đồng đem về vùi vào bếp tro. Trong bếp nấu cơm xong c̣n tro, vùi khoai vào đống tro ấy, hai giờ sau khoai sẽ chín, chín nhừ luôn. Quư vị thấy tro đó nóng ghê lắm, vùi khoai trong tro nóng khoảng hai giờ chín khét. Nếu người ta trong đống tro đó th́ sao? Cũng sẽ chín khét luôn. Đây một loại địa ngục nhỏ. Thứ hai Thi Phẩn Tăng, phân đă hôi thối khó ngửi. Chẳng phải phân người, phân của xác chết, quư vị mới thể h́nh dung sự hôi thối ấy! Trước kia, thầy giảng kinh nói thầy không sợ địa ngục, nhưng khi nói tới địa ngục Thi Phẩn này, thầy rùng ḿnh. Thầy nói địa ngục này quá đáng sợ, con người bị chôn trong đống phân xác chết, cảm giác đó quả thật rất khủng khiếp, trông thấy liền kinh hăi, những thứ khác th́ c̣n được, không dễ sợ. Thứ ba Phong Nhận Tăng, [h́nh dung] những mũi dao giống như núi đao, rừng kiếm, [người ta thường nói]lên núi đao, rừng kiếmtức thuộc loại này. Thứ Liệt Tăng, sông đây sông máu, người rơi vào đó bị chết ngộp. Một đại địa ngục bốn cửa, [phía ngoài] mỗi cửa bốn ngục phụ, nên bốn cửa tất cả mười sáu ngục. Mười sáu ngục ấy gọi Du Tằng địa ngục. Tám đại địa ngục tất cả một trăm hai mươi tám ngục phụ, [các ngục phụ ấy] c̣n gọi Cận Biên địa ngục, nghĩa những địa ngục nhỏ kế bên địa ngục lớn. Đây loại thứ nh́.

C̣n một loại nữa, tội nhẹ hơn một chút, gọi Độc địa ngục. độc địa ngục, tại sơn gian, khoáng dă, thụ hạ, không trung. Kỳ loại số, thọ khổ lượng. Địa ngục khổ quả, kỳ tối trọng xứ, nhất nhật chi trung bát vạn tứ thiên sanh tử, kinh kiếp lượng(Cô Độc địa ngục giữa núi, đồng hoang, dưới cội cây, hoặc không trung. Loại này số, chịu khổ lượng. Chỗ khổ quả nặng nề nhất trong địa ngục một ngày đến tám vạn bốn ngàn lần chết đi, sống lại, trải qua lượng kiếp). Tám vạn bốn ngàn lần chết đi sống lại nghĩa thọ tội xong người ấy liền chết, gió thổi qua bèn sống lại, sống lại để tiếp tục thọ tội, mỗi ngày cứ lập đi lập lại [như vậy] để thọ tội này. Chúng ta biết điều khổ nhất trong thế gian này ǵ? sanh tử, sanh ra đă khổ, chết càng khổ hơn! Cớ sao biết sanh tử khổ? Quư vị thấy trẻ thơ mới sanh, quư vị hăy quan sát kỹ, trẻ thơ vừa sanh ra liền khóc oa oa. Tại sao vậy? khổ quá! Nếu không khổ, khóc để làm ǵ? Quư vị thấy trẻ con vừa sanh ra liền cười bao giờ chưa? Đó vui. Nếu vui th́ mới cười; nếu khổ th́ khóc [chứ cười sao nổi]. Từ chỗ này, chúng ta lắng ḷng quan sát, sẽ biết rất khổ, cùng đau khổ. Quư vị thấy lúc người ta chết, chỉ người niệm Phật văng sanh, cả đời tích lũy công đức th́ lúc người ấy chết mới cười ra đi. Thông thường, lúc người ta chết, gương mặt rất dễ sợ, khổ chẳng nói nổi mà! Nỗi khổ sanh lăo bệnh tử, hễ lắng ḷng quan sát, quư vị sẽ biết. Nỗi khổ lớn nhất trong đời người tử khổ, không biết khổ gấp bao nhiêu lần nỗi khổ lúc bệnh. Mỗi ngày chết đi sống lại tám vạn bốn ngàn lần, làm sao chịu nổi? Đó nỗi khổ trong địa ngục, trải qua lượng kiếp.

 Sách Phụ Hoằng nói nghiệp nhân của tội này:Phụ Hoằng vân:Tác thượng phẩm Ngũ Nghịch, Thập Ác giả cảm chi (chỉ tối cực ác nghịch giả)(Sách Phụ Hoằng Kư chép: “Kẻ tạo tội Ngũ Nghịch, Thập Ác thượng phẩm (chỉ tạo tội ác nghịch nặng nhất) sẽ cảm lấy [quả địa ngục này] (chỉ kẻ ác nghịch tột bậc)”). Tội Ngũ Nghịch Thập Ác nặng nhất sẽ đọa vào Gián địa ngục. đây, chúng tôi nói sài thôi, hai danh từ này nhất định phải t́m thời gian để tŕnh bày kỹ càng với quư vị, đây giáo dục nhân quả. Trong tội Ngũ Nghịch, giết cha, giết mẹ hai tội đầu. Thứ ba giết A La Hán, trong thế gian này, A La Hán phước báo, quư vị chẳng giết nổi. Tội giống như tội này được gọi đẳng lưu tội (tội tương đương), tội vậy? Giết thầy. Phàm những người theo đuổi công tác giáo dục luân lư, đạo đức, bất luận tại gia hay xuất gia, nam, nữ, già, trẻ, nếu quư vị giết họ th́ tội tương đương với tội giết A La Hán, chúng ta phải biết điều này. sao? Những người ấy xả ḿnh người, chẳng chính ḿnh. Tự hành, dạy người khác, chính họ học thánh, học hiền, học Bồ Tát, học Phật, làm gương mẫu đạo đức cho đại chúng trong hội. Nếu quư vị giết họ, tổn thương họ, tạo tội không phải tạo tội đối với nhân họ. Những người như họ, quư vị giết họ, họ cũng chẳng trách quư vị, họ cũng sẽ không trả thù, cũng không ghi nhớ hận thù. Do đó, chẳng phải tội đối với họ, tội với ai? tội đối với những kẻ được họ dạy dỗ, giáo dục.

Quư vị giết một vị thầy giáo giỏi, hội được giáo dục của nhiều người bị đoạn dứt, sự giáo huấn của họ ảnh hưởng bao lớn, thời gian ảnh hưởng bao lâu, món nợ này sẽ tính trên thân quư vị. Chúng ta gọi những vị ấy thiện tri thức. Luận tội chẳng dính líu đến vị thiện tri thức hay vị thầy ấy. Vị thầy ấy thấy chuyện bị giết chẳng sao cả, tuyệt đối chẳng trách quư vị, chẳng ghim chuyện bị hại trong ḷng. Giống như Thích Ca Mâu Ni Phật đời trước hành Bồ Tát đạo, làm Nhẫn Nhục Tiên Nhân. Quư vị thấy vua Ca Lợi róc thịt trên thân thể Ngài, hại Ngài, thuộc loại tội này. Vua Ca Lợi đọa địa ngục, sau khi thoát khỏi địa ngục, lời nguyện của Nhẫn Nhục Tiên Nhân đă phát thuở đó đă trở thành hiện thực. Ngài nói:Trong tương lai, lúc tôi thành Phật, người đầu tiên tôi độ sẽ vua Ca Lợi. Quư vị thấy Ngài chẳng kết tội nhà vua, cớ sao vua Ca Lợi đọa địa ngục? Do vua phạm tội đối với chúng sanh, chúng sanh bị mất đi một vị thầy tốt, đoạn mất Pháp Thân huệ mạng của chúng sanh, tội ấy phiền phức lớn lắm! Giết người tội nhỏ, đoạn mất huệ mạng của người ta mắc tội lớn lắm. Do vậy chúng ta phải hiểu sự luận tội này, phải hiểu ràng, đối với một người th́ tội nhỏ, đối với chúng sanh th́ tội lớn. Quư vị giết hại cha mẹ, tại sao tội đó rất nặng? Thứ nhất, cha mẹ ân dưỡng dục với chúng ta, quư vị không biết báo ân c̣n báo oán, c̣n giết hại cha mẹ, đó tánh tội. Thứ nh́, quư vị gây ảnh hưởng xấu cảnh giới hội: Nếu cha mẹ kẻ khác giáo huấn con cái nghiêm khắc đôi chút, hừm, [đứa con ấy] thấy quư vị giết cha mẹ, cũng bắt chước giết cha mẹ. L thói ấy một khi được khai mào, làm sao chịu nổi? Quư vị phải chịu trách nhiệm nhân quả hay không? Do đó, phải nêu gương tốt cho đại chúng trong xă hội, ch nên nêu gương xấu. Tạo gương xấu sẽ có ảnh hưởng rất lớn, tội đó nặng lắm! S phán định tội có đạo lư như vậy đó, chúng ta phải hiểu đạo này, phải hiểu ràng.

Thứ làm thân Phật chảy máu. Hiện thời, đức Phật chẳng tại thế, điều này ch chuyện ǵ? Phá hoại Phật giáo tội tương đương với tội này, tức tội giống như tội làm thân Phật chảy máu, [tức là tội] do ác niệm, ác ư phá hoại Phật giáo. Phật giáo nền giáo dục tốt đẹp trong thế gian, chúng ta phải biết điều này. Nó có lợi ích to lớn đối với hết thảy đại chúng, giúp chúng sanh trong đời này siêu phàm nhập thánh, vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi. T́m đâu ra một nền nền giáo dục tốt đẹp dường ấy? Quư vị phá hoại Phật giáo, khiến cho nhiều người không được hưởng s giáo dục tốt đẹp, đoạn dứt cơ hội thoát khỏi luân hồi của rất nhiều người. V́ l đó, tội này là tội đọa địa ngục A Tỳ. Địa ngục A Tỳ tức địa ngục Gián. [Tội làm thân Phật chảy máu] là tội đọa địa ngục Gián.

Thứ năm phá ḥa hợp Tăng, tức phá hoại Tăng đoàn. Tăng đoàn [nói đây] nhất định phải Tăng đoàn tu Lục Ḥa Kính. Nếu chẳng Lục Ḥa Kính, chẳng th gọi Tăng đoàn. Thuở tôi mới học Phật, khi ấy, đă đi giảng kinh, nhằm lúc bốn mươi mấy tuổi. Tôi theo thầy Lư học Phật pháp, khi đó, thầy quy định nếu chưa đầy bốn mươi tuổi, chẳng được đi ra ngoài giảng kinh, chỉ được luyện tập giảng kinh trong nhà. Đài Trung hai nơi luyện tập giảng kinh, một chùa Linh Sơn, hai Đài Trung Liên Xă, hai nơi ấy nơi thầy huấn luyện học tṛ học giảng kinh. Chùa Linh Sơn [đạo tràng] của phái nam, Đài Trung Liên [đạo tràng] của phái nữ. Mỗi tuần, bốn người lên giảng đài giảng một lần: Buổi sáng hai người, buổi chiều hai người. Những người không lên giảng đài luyện tập th́ không đi giảng những nơi khác. Không chỉ chẳng được ra ngoài giảng, phải trên bốn mươi tuổi mới được ra ngoài giảng. Người quá trẻ sợ bị hội dụ dỗ, hoặc, nên thầy [đặt ra luật lệ] nghiêm ngặt này để ngăn ngừa. Phong khí hội ngày nay so với thuở trước ngày càng đi xuống. Thế h của chúng tôi cách biệt hiện tại sáu mươi năm, phong khí hội sáu mươi năm trước kể ra cũng c̣n khá. Hiện thời, sức dụ dỗ quá mạnh, nên bốn chục tuổi vẫn chưa được, l tối thiểu cũng phải là sáu mươi tuổi th́ mới không bị dụ dỗ, hoặc, dưới sáu mươi tuổi vẫn không chắc. Thầy yêu cầu chúng tôi mức bốn mươi tuổi, c̣n nay chúng tôi yêu cầu các vị đồng học mức sáu mươi tuổi, thật vậy, chẳng giả! Do đó, người thật sự y giáo phụng hành, thật sự hoằng pháp lợi sanh, bất luận tại gia hay xuất gia, nam, nữ, già, trẻ, chớ nên giết hại những người ấy. Nếu giết hại họ, phải đọa địa ngục Gián. Đó nói về tội Ngũ Nghịch. Đối với Thập Ác, trong kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo nói: Khi quư vị ác ư sát sanh, trộm cắp, dâm, nói dối, nói lưỡi đôi chiều, nói lời ác độc, nói lời thêu dệt, tham, sân, si, trong tâm quư vị mười thứ ấy [th́ là Thập Ác]. Mười thứ ấy càng mạnh th́ tội càng nặng. Mười quan niệm ấy nhẹ th́ quư vị tạo nghiệp nhẹ. Kết tội nặng hay nhẹ dựa trên quan niệm của quư vị, sau đó mới xét sự việc quư vị đă làm, dựa trên hai phương diện này để luận tội. Đây đoạn thứ nhất nói về địa ngục. Phải nhớ câu cuối cùng trong sách Phụ Hoằng là: Người tạo tội Ngũ Nghịch Thập Ác thượng phẩm chiêu cảm [quả báo địa ngục Gián]. Trong ba cơi ác, đây nói về cơi thứ nhất, tức cơi địa ngục.

Lại xem tiếp cơi th hai: Ngạ Quỷ giả, Đại Thừa Nghĩa Chương bát viết: tùng tha cầu cố, danh ngạ quỷ(cơi Ngạ Quỷ, trong quyển tám sách Đại Thừa Nghĩa Chương, chữngạ quỷđược giảng như sau:Do cầu nơi người khác nên gọi ngạ quỷ). Ngạ quỷ phải thường xin thức ăn của người khác, thường phải chịu đói khổ, nên gọi Ngạ Quỷ (quỷ đói). Hựu thường hư, cố danh vi Ngạ. Khủng khiếp, đa úy, cố danh vi Quỷ (Lại thường đói khát, nên gọi Ngạ, khủng khiếp, lắm nỗi sợ hăi, nên gọi Quỷ). Hiểu điều này, con người khỏi phải sợ quỷ, một câu ngạn ngữ rất lư: Người ba phần sợ quỷ, quỷ tới bảy phần sợ người”. Do đó, quỷ sợ người nhiều hơn người sợ quỷ. Nếu quư vị không hiểu đạo này, sẽ bị quỷ dọa, rất oan uổng. Nếu quư vị nói lớn tiếng một chút th́ quỷ chạy mất. Do đó phải biết quỷ c̣n nhát gan hơn con người, con người to gan hơn quỷ. Do đây hiểu lầm, nên quư vị mới sợ quỷ. Nếu quư vị liễu giải chân tướng sự thật, từ nay trở đi chẳng sợ quỷ nữa! Chỉ quỷ sợ người, lẽ nào người lại sợ quỷ? Nếu quư vị sợ quỷ, tức c̣n thua quỷ, sai mất rồi!

  Sa Luận vân(Tỳ Bà Sa Luận chép), trong luận Đại Tỳ Sa ghi:Quỷ giả úy dă, vị khiếp đa úy(Quỷ sợ, tức khủng khiếp, lắm nỗi sợ hăi). Câu này nói tâm của quỷ luôn luôn sợ sệt, cái cũng sợ. Do đó, mới câu ngạn ngữ: Nhát gan như quỷ. Câu ấy rất đúng, nhát gan giống như quỷ vậy, chuyện cũng không dám làm, cái cũng sợ! Hựu oai dă, năng linh tha úy kỳ oai (Quỷ cũng nghĩa oai, thể khiến kẻ khác sợ cái oai của ḿnh), đây quỷ nhát gan; con quỷ nhát gan sợ [những con] quỷ khác. Hựu hy cầu danh quỷ, vị bỉ ngạ quỷ hằng tùng tha nhân, hy cầu ẩm thực tự hoạt tánh mạng (Lại do mong cầu nên gọi Quỷ, tức là: Loài ngạ quỷ thường đi theo người khác, mong được thức ăn để duy tŕ tánh mạng). Quỷ đến kiếm người ta nhất định phải điều cầu xin đó. Các đồng tu học Phật trong quá khứ cũng thường nằm mộng thấy người nhà, quyến thuộc, nhưng lâu quá nên đă quên mất, cũng chẳng mộng thấy, chứ lúc học Phật chưa được bao lâu th́ thường mộng thấy người nhà, quyến thuộc. sao? Kinh Địa Tạng giải thích rất ràng, đó quư vị học Phật bèn khả năng giúp đỡ họ, nên họ đến t́m quư vị. Lúc quư vị chưa học Phật, họ không t́m quư vị, t́m th́ cũng chẳng giúp được quư vị không tin. Họ t́m quư vị để làm ǵ? Để xin quư vị đốt cho họ một số tiền giấy, cúng dường họ chút ít, đến xin những thứ đó, xin quư vị giúp đỡ, chúng ta phải hiểu điều này. Mộng thấy người nhà, quyến thuộc đă qua đời, người học Phật chúng ta bèn vào ngày mồng Một, ngày Rằm cúng ít đồ chay cho họ, giống như mời họ dùng cơm, tốt nhất tụng kinh hồi hướng cho họ, khuyên họ niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Thay họ xin thọ Tam Quy, giảng Ngũ Giới, Thập Thiện cho họ, hay giảng Đệ Tử Quy cho họ đều được. Những điều ấy sẽ giúp họ rất nhiều, họ c̣n cảm ơn nữa. Đối với chúng ta, đây hội giáo dục, nếu họ không đến t́m chúng ta, chúng ta không biết, họ đến t́m th́ chúng ta nên làm cho họ. Mỗi ngày, chúng ta niệm Phật, tụng kinh, hoặc nghe giảng kinh đều nên hồi hướng công đức cho họ. Đây nói rơ: Do họ cần, nên đến xin quư vị giúp đỡ. Lúc chưa học Phật, chẳng thường nằm mộng thấy, quư vị chẳng cách nào giúp họ, cũng không hiểu những sự thật này. Do quư vị rất khó tiếp nhận, nên họ không đến t́m quư vị.

Hựu vân, hữu thuyết khát tăng (Luận c̣n viết thêm: thuyết bảo do chúng (các ngạ quỷ) đói khát dữ dội), chữ tăng () nghĩa tăng thêm, thêm nhiều hơn, họ cảm thấy hết sức đói khát. Trong loài ngạ quỷ, đặc biệt Diệm Khẩu Quỷ, do trong đời quá khứ đă tạo nghiệp rất nặng, nên thức ăn vừa tới miệng liền phực lửa, cháy thành tro. Do vậy, loài quỷ này rất đáng thương, phải chịu đói khát rất lâu. Nhà Phật từ bi, một phương pháp gọi Phóng Diệm Khẩu, chuyên nhờ sức kinh chú gia tŕ khiến cho loài quỷ này thể ăn được đôi chút đồ ăn. [Do đó, lễ] Phóng Diệm Khẩu mang ư nghĩa mời quỷ ăn cơm, mời họ dùng cơm. Đây một h́nh thức bố thí, trong đó tụng kinh, tài bố thí, pháp bố thí. Hữu thuyết bị khu dịch cố, danh Quỷ(Có thuyết bảo do chúng thường bị sai phái, nên gọi Quỷ). Họ bị quỷ thần cấp cao hơn thường sai khiến làm chuyện này, chuyện nọ. Hằng vi chư thiên xứ xứ khu dịch tŕ tẩu (Ở nơi nào cũng thường bị chư thiên sai khiến phải rong ruổi). Phần đông bị ai sai phái? Tứ Thiên Vương, Tứ Thiên Vương c̣n gọi Quỷ Vương, họ cai quản các quỷ thần, các loại quỷ thần đều nghe lệnh của Tứ Thiên Vương. Cơi trời Đao Lợi cũng có, từ trời Dạ Ma trở lên th́ ít [sai khiến các loài quỷ thần này], tại sao vậy? Địa vị càng cao, chẳng cần dùng những loài này. Quá nửa những tầng trời phía dưới của Dục Giới thường dùng các loài quỷ này để phục dịch, sai khiến.

 Thử đạo diệc biến chư thú(Loài này mặt trong mọi cơi), nghĩa loài quỷ mặt khắp các cơi trời, cơi người, A Tu La, La Sát, hữu phước đức giả, tác sơn lâm trủng miếu thần(những người phước đức th́ làm thần trong núi, rừng, mả, miếu thờ), đây những vị phước đức th́ làm thần núi, thần thổ địa, họ quỷ phước đức. Trong loài quỷ, họ hạng địa vị, [địa vị] to như Thành Hoàng th́ phước đức càng cao hơn nữa. Thành Hoàng cũng giống như thị trưởng, huyện trưởng trong cơi người. Chúng ta gọi chung Thành Hoàng, thật ra, họ cấp bậc cao thấp. Cao hơn nữa, như Ngũ Nhạc, Đông Nhạc Thái Sơn được gọi Đế, tức Đông Nhạc Đại Đế. Trung Quốc Ngũ Nhạc, Nam Nhạc Hành Sơn, Trung Nhạc Tung Sơn, [những vị cai quản Ngũ Nhạc] đại quỷ vương, đều thuộc về quỷ đạo, chẳng thuộc thiên đạo. phước đức giả(những kẻ thiếu phước đức), đời trước không tu phước đức, hoặc họ tu phước đức nhưng c̣n tham, sân, si, sẽ đọa ác đạo. Trong ác đạo cũng hưởng phước, làm đại quỷ vương phước báo rất lớn. Những kẻ chẳng phước đức, [tức làm] quỷ chẳng phước đức th́ bất tịnh sở, bất đắc ẩm thực, thường thọ tiên đả, điền tắc hải, thọ khổ lượng(ở chỗ chẳng sạch, chẳng được ăn uống, luôn bị đánh đập, ngăn sông, lấp biển, chịu khổ lượng). Đây nói những kẻ chẳng phước, tạo tội nghiệp tham, sân, si, chẳng tu phước. Người tu phước, nói thật ra, quá nửa đều tu trong cửa Phật. Trong Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo th́ tu phước trong cửa Phật hiệu quả nhất, được quả báo cũng nhanh nhất. Chẳng bỏ tham, sân, si tu phước, sẽ đọa vào cơi quỷ hoặc cơi súc sanh để hưởng phước. Trong cơi quỷ, những quỷ phước đức ngần ấy, được nhân gian cúng tế, lễ bái, họ hưởng thụ những sự cúng tế ấy. Đối với cơi súc sanh th́ hiện thời thường thấy nhất những con thú cưng (pet), chúng thuộc loài súc sanh, nhưng được cưng yêu, chiều chuộng. Ai trong gia đ́nh nuôi cũng thích nó, chăm sóc từng chút, c̣n hưởng phước hơn bất cứ ai trong nhà. Súc sanh cũng nhiều phước như vậy! Cũng thể đến để đ̣i nợ, người trong nhà thiếu nợ nên nay phải trả nợ cho nó. Quư vị thiếu tiền tài, nên quư vị phải chăm sóc thật tốt. Quư vị c̣n thiếu thân t́nh, nên quư vị hết sức thương yêu, chiều chuộng nó. Nghiệp nhân quả báo hào chẳng sai, chúng ta phải hiểu những đạo này. Chúng những kẻ sanh vào cơi súc sanh để hưởng phước, toàn những kẻ [tu phước nhưng] chẳng buông bỏ tham, sân, si, nguyên nhân như vậy.

 Tiếp đó,Phụ Hoằng Kư vân, hạ phẩm Ngũ Nghịch, Thập Ác giả cảm chi(sách Phụ Hoằng nói:Hạ phẩm Ngũ Nghịch Thập Ác cảm lấy [quả báo ngạ quỷ]). Tôi thấy chỗ này, chữ Hạ phải đổi thành chữ Trung, hạ phẩm sanh trong súc sanh đạo, phải đổi thành trung phẩm Ngũ Nghịch Thập Ác cảm lấy quả báo ngạ quỷ, nghĩa tội nghịch ác khá nhẹ, chẳng phải nhẹ nhất, nhẹ nhất hạ phẩm. Tức lúc họ c̣n sống tạo tội Ngũ Nghịch Thập Ác khá nhẹ, chẳng nghiêm trọng như đă nói trên đây. Nghiêm trọng nhất bèn cảm lấy quả báo địa ngục, nhẹ hơn bèn đọa ngạ quỷ. Ngạ quỷ khổ hơn súc sanh, đoạn sau sẽ nói về súc sanh. Theo đúng lẽ, súc sanh phải hạ phẩm Ngũ Nghịch Thập Ác, nghĩa họ tạo các tội ấy, nhưng tạo tội nhẹ. Tuy vậy, đây chúng ta phải ghi nhớ, tạo tội Ngũ Nghịch Thập Ác không biết sám hối, chẳng biết quay lại [th́ sẽ đọa ác đạo]. Nếu họ biết sám hối, biết quay lại, chẳng đọa ác đạo! Trong Phật pháp đă nói điều này rất ràng, rành rẽ.

Cổ nhân Trung Quốc hết sức chú trọng sửa lỗi. câu: Con người chẳng phải thánh hiền, ai thể không lỗi. lỗi thể sửa đổi th́ chẳng điều thiện nào lớn hơn, đây đạo sửa lỗi. lỗi đừng sợ, nhưng phải biết sửa lỗi đổi mới! Nhờ đó thánh hiền tu thành tựu, Phật, Bồ Tát cũng nhờ vậy thành tựu, chúng ta hăy nên biết điều này. Đặc biệt các vị tổ đại đức thường nhắc nhở chúng ta chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm, niệm ư niệm, thiện niệm ác niệm. Nói thông thường, đặc biệt trong thời đại hiện tại, chắc chắn ác niệm nhiều, thiện niệm ít, chắc chắn như vậy. Nếu không, lẽ đâu lắm tai nạn ngần ấy? Nhưng bất kể thiện niệm hay ác niệm, ư niệm vừa khởi lên bèn lập tức giác ngộ, lập tức biết ngay, vừa biết như vậy, liền dùng câu Phật hiệu để thay thế nó. Như vậy biết niệm Phật. Thật sự biết niệm Phật, ư niệm vừa dấy lên, bènA Di Đà Phật, quay trở về A Di Đà Phật ngay! A Di Đà Phật ư niệm thiện nhất trong thế gian xuất thế gian, ư niệm cùng thiện, tại sao vậy? thể giúp quư vị văng sanh thế giới Cực Lạc để làm Phật. Quư vị xem thử c̣n ư niệm nào công đức to tát ngần ấy hay chăng? Chẳng thể nào kiếm được. Chỉ ư niệm này, niệm niệm thông đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, niệm niệm cảm ứng đạo giao cùng A Di Đà Phật. Người thật sự niệm Phật, mỗi niệm đều được mười phương chư Phật hộ niệm, long thiên thiện thần bảo vệ, hộ tŕ quư vị, sao quư vị không chịu niệm Phật? Người niệm Phật thân tâm khoẻ mạnh, gia đ́nh ḥa thuận, tai nạn xa ĺa. Cổ nhân câudẫn cát, tránh hung, gặp nạn hóa thành cát tường. lẽ đó, phải nên niệm Phật, đổi hết thảy tâm niệm thành A Di Đà Phật, như vậy th́ mới đúng. Hôm nay đă hết thời gian, chúng ta học tới đây.

Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa

Phần 98 hết

 



[1] Gregg Braden từng là chuyên viên điện toán địa chất cho công ty dầu hỏa Phillips Petroleum vào những năm 1970, rồi làm chuyên viên thiết kế cao cấp cho hệ thống điện toán của hăng dịch vụ quốc pḥng hàng không Martin Marietta. Năm 1991, ông từng làm Quản Trị Trưởng của phân bộ Dịch Vụ Kỹ Thuật trong hăng Cisco (hăng chuyên sản xuất các máy móc và các nhu liệu phục vụ kỹ thuật điều hành, quản trị hệ thống máy tính). Các tác phẩm nổi tiếng của ông là The Isaiah Effect, The God Code (mật mă của Thượng Đế), The Divine Matrix (Ma trận thiêng liêng), The Spontaneous Healing of Belief (tạm dịch Liệu Pháp Tự Phát Bằng Niềm Tin). Tờ Thời Báo Nữu Ước (Newyork Times) đă đánh giá ông là tác giả có sách bán chạy nhất vào năm 2008.

[2] Tiểu Khang quan niệm của Nho gia về một thời đại thịnh trị, nhân dân an lạc, giàu có, chánh trị ổn định. Tuy những biến động hoặc loạn lạc nhỏ, nhưng nh́n chung cuộc sống ổn định, ḥa b́nh, vua biết thương dân, sử dụng vương đạo để cai trị, quan lại đa số thanh liêm, dân chúng phong tục thuần phác, lễ nghĩa, nhường nhịn, tuân thủ pháp luật. Nho gia thường đánh giá các đời vua Thành Thang, Châu Văn Vương, Châu Vương Tiểu Khang.

[3] Thành ngữ này phát xuất từ một truyện ngắn của nhà văn Lỗ Tấn, tên A Q. chánh truyện. Trong tác phẩm ấy, A Q. (Lỗ Tấn nói anh chàng này chẳng biết tên Quư, Quy hay Quế, nên gọi xách Q. theo kiểu âm phương Tây) một anh chàng thất học, nghèo kiết, văn dốt dát, thô lỗ, nhưng luôn ra vẻ ta đây người có ăn học, ḍng dơi cao quư. Do thường bị kẻ khác giày xéo, chà đạp, hắt hủi, ức hiếp, nên để tự an ủi, anh ta thường huyễn hoặc ḿnh cao sang hơn người khác, vận dụng cái gọi thắng lợi tinh thầnđể tự an ủi ḿnh. Chẳng hạn khi bị kẻ khác đánh đập tàn nhẫn, bèn lầm bầm: đánh ḿnh cũng như con bất hiếu đánh bố, mày đánh tao tức con đánh bố.