Đại Phương Quảng Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười một,
Tịnh Hạnh Phẩm
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ
giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Địa
điểm: Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục
Hiệp Hội
Khởi
giảng từ ngày mồng Bảy tháng Mười Một
năm 2005
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
duyệt: Đức Phong, Huệ Trang và Minh Tiến
Lời trần t́nh
Có lẽ không một Phật tử
Đại Thừa nào không biết kinh Hoa Nghiêm là một bộ
kinh vô cùng cao sâu, huyền diệu, thường được
xưng tụng là “cảnh giới của các vị Pháp Thân
Bồ Tát, là căn bản pháp luân của Phật pháp”.
Trước nay, đă có nhiều vị pháp sư hoặc
thiện tri thức giảng giải kinh này, nhưng có lẽ,
theo sự thấy biết hạn hẹp của mạt
nhân, chưa có vị nào chú trọng giảng giải kinh này
theo quan điểm của pháp môn Niệm Phật. Các bài giảng
về kinh Hoa Nghiêm của lăo sư phụ Tịnh Không quá
dài, quá rộng, quá sâu, chẳng thể nào có đủ thời
gian để chuyển ngữ toàn bộ sang tiếng Việt
được. Chúng tôi quyết định chọn chuyển
ngữ phẩm Tịnh Hạnh này, v́ đây là một phẩm
kinh có mối quan hệ thân thiết với sự hành tŕ
trong cuộc sống của mỗi liên hữu Tịnh
Độ chúng ta. Đối với mỗi hành vi, mỗi cử
chỉ, kinh đều dạy
những cách quán tưởng, suy niệm tương ứng,
khiến cho tâm tưởng của chúng ta luôn trụ trong tịnh
niệm. Trong sự hiểu biết hạn hẹp của
chúng tôi, dường như phần lớn những bài kệ
trong Tỳ Ni Nhật Dụng đều trích từ phẩm
này. Ba câu Tam Tự Quy trong khóa tụng hằng ngày cũng
trích từ phẩm này. Có lẽ sau phẩm Phổ Hiền
Hạnh Nguyện, phẩm Tịnh Hạnh có lợi ích to
tát đối với hành nhân Tịnh nghiệp v́ nó giúp cho chúng
ta luôn dấy khởi tịnh niệm trong từng hành động
b́nh phàm trong cuộc sống. Mạt nhân trộm nghĩ, phẩm
Tịnh Hạnh chính là những hướng dẫn cụ
thể để có thể vận dụng Phổ Hiền
Hạnh Nguyện trong cuộc sống hằng ngày, tối
thiểu là thực hiện năm nguyện đầu. Thêm
nữa, do vị tổ thứ bảy của Tịnh Tông là
Tỉnh Thường đại sư đă tự trích máu
chép phẩm Tịnh Hạnh, và đặt tên Liên Xă do ngài sáng
lập là Tịnh Hạnh Xă, càng đáng cho chúng ta quan tâm học
tập phẩm kinh này. Thượng nhân thượng Tịnh
hạ Không giảng phẩm này từ tập 1463 đến
tập 1576 mới hoàn tất. Do Ngài dùng bản chú giải
Hoa Nghiêm Kinh Sớ của Thanh Lương đại sư
và Hoa Nghiêm Hợp Luận của Lư Trưởng Giả
để giảng phẩm này, cảnh giới và ngôn từ
quá sâu, văn tự của Tổ và Lư đại sĩ quá
gọn, quá súc tích, mạt nhân khôn xiết sợ hăi, chỉ
sợ chính ḿnh do nghiệp chướng sâu dầy, đầu
óc tăm tối, tam độc lừng lẫy, sẽ chuyển
ngữ lời Tổ, lời thầy sai be bét, đến nỗi
vô h́nh trung biến cam lộ thành độc dược,
nhưng v́ ḷng tham pháp, cứ
đánh liều chuyển ngữ. Ngưỡng mong Tam Bảo
từ bi gia hộ, chẳng đến nỗi tạo nên
nghiệp chướng trọng đại, hại ḿnh, hại
người, tội khôn xiết kể! Nếu việc làm
liều lĩnh này có thể giúp ích phần nào cho sự tu
tŕ của các liên hữu, nguyện do công đức ấy,
sẽ cùng nhau văng sanh Cực Lạc.
Bửu Quang Tự đệ tử Như
Ḥa đê đầu, hiệp chưởng kính bạch
Tập 1463
Chư vị
pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi
xuống. Xin xem kinh bổn “phẩm
Tịnh Hạnh thứ mười một”. Trong phần
Sớ, Thanh Lương đại sư đă khai thị:
(Sớ)
Thích thử nhất phẩm, ngũ môn phân biệt, sơ
lai ư.
(疏)釋此一品,五門分別,初來意。
(Sớ: Giải
thích phẩm này, chia thành năm môn khác nhau. Thứ nhất
là ư nghĩa v́ sao có phẩm này).
V́ sao có
phẩm này? Phẩm kinh này do đâu mà có? Chúng ta học tập,
trước hết phải biết điều này. Đại
sư bảo:
(Sớ)
Lai ư giả, phù dục giai diệu vị, tất tư thắng
hạnh. Hữu Giải vô Hạnh, hư phí đa văn. Cố
tiền phẩm minh Giải, thử phẩm biện Hạnh.
(疏)來意者,夫欲階妙位,必資勝行,有解無行,虛費多聞。故前品明解,此品辨行。
(Sớ: Ư
nghĩa duyên khởi của phẩm này: Phàm muốn đạt
lên địa vị mầu nhiệm, ắt phải cậy
vào hạnh thù thắng. Có Giải mà chẳng có Hạnh, sẽ
phí uổng đa văn. Do vậy, phẩm trước phẩm
này (tức phẩm Bồ Tát Vấn Minh) nói về Giải,
phẩm này biện định Hạnh).
[Lời
Sớ của phẩm này] tổng cộng có ba đoạn,
đây là đoạn thứ nhất. Học Phật th́ mục
tiêu của chúng ta là mong làm Phật, mong thành Phật. “Dục” (欲) là chúng ta mong mỏi,
“giai” (階) là hy vọng đạt
tới, [tức là] đạt tới quả vị Như
Lai. Nếu muốn đạt tới quả vị ấy,
nhất định phải cậy vào sự tu hành thù thắng.
Có Giải mà chẳng có Hạnh, xác thực là sẽ phí uổng
công sức đa văn! Chúng ta học tập hằng ngày,
học rồi th́ sao? Chẳng làm được! Chẳng
làm được th́ cũng như chẳng nghe!
Nếu
đối với kinh Hoa Nghiêm, từ quyển thứ nhất
đă khởi sự học tập rất nghiêm túc, công phu
của chúng ta nhất định là sẽ từng bước
theo kinh văn mà nâng cao. Quư vị đều làm được
[những ǵ kinh đă dạy] th́ mới được! Chẳng
làm được, vậy th́ sao được? Nói thật
ra, nếu chẳng làm được, chẳng thà không giảng!
Phí phạm lắm lời lẽ như thế để
làm ǵ? Phàm những ǵ chúng ta mong học tập, đều
phải là thật sự có thể làm được. Chính
v́ như thế, tại Đài Loan, khoảng hơn ba
mươi năm trước, [tức là] vào năm Dân Quốc
sáu mươi (1971) ở Đài Loan. Hiện thời, dường
như là năm Dân Quốc chín mươi mấy[1],
chín mươi mấy th́ tôi cũng không biết. Hơn ba
mươi năm trước, chúng tôi giảng kinh Hoa Nghiêm
lần thứ nhất. V́ thường ra nước ngoài,
thời gian ở Đài Loan hoàn toàn chẳng nhiều; trong
một năm, nói chung là hai phần ba thời gian là ở
ngoại quốc. Do vậy, trải qua mấy phen gián
đoạn, tôi nhớ đại khái đă mười
lăm, mười sáu năm mà kinh chỉ giảng
được một nửa. Tôi nhớ là đă giảng
đến phẩm Thập Hồi Hướng [trong Bát Thập
Hoa Nghiêm]. Khi ấy, giảng đồng thời Bát Thập
[Hoa Nghiêm] và Tứ Thập [Hoa Nghiêm], Tứ Thập Hoa
Nghiêm cũng giảng được một nửa.
Về
sau, duyên của kinh Vô Lượng Thọ chín muồi. Đối
với công án này, nhà Phật nói là “công án” (公案), người thế gian
chúng ta nói là “cố sự” (故事), tức
là chuyện trong quá khứ. Sau khi tôi xuất gia một hoặc
hai năm, tôi lại quay về Đài Trung để thân cận
thầy Lư. Tôi cảm thấy những thứ ḿnh đă học
vẫn chưa đủ. Trước khi xuất gia, tôi
theo lăo nhân gia một năm ba tháng (mười lăm tháng),
học chẳng ít. Trong mười lăm tháng, học
mười ba bộ kinh nhỏ, phân lượng đều
rất ngắn. Học được mười ba bộ
kinh nhỏ, đương nhiên là đă đủ để
dạy tại Phật Học Viện rồi. Pháp sư Bạch
Thánh mở Phật Học Viện, mời tôi đến dạy.
V́ thế, vừa xuất gia xong, tôi bắt đầu giảng
kinh, dạy học. Mỗi học kỳ, dạy một bộ
kinh, tôi có thể giảng mười ba bộ kinh. Do vậy,
Phật Học Viện ba năm là tốt nghiệp, mới
dùng sáu bộ, hăy c̣n bảy bộ chưa dùng tới. Nói
theo lẽ thường, kể như cũng được
lắm! Nhưng chúng tôi cảm thấy Phật pháp mênh mông
như biển cả, hưởng thụ đôi chút từ
những bộ kinh nhỏ ấy [dường như
chưa thỏa măn]. Người thế gian nhấn mạnh
sự ham muốn hiểu biết, nhu cầu hiểu biết
của chúng tôi xác thực là chẳng có cách nào thỏa măn
được!
H́nh
như là sau khi xuất gia ba năm, tôi quay lại Đài
Trung, lại muốn học từ thầy một bộ
kinh lớn, [trước đó], tôi đă học toàn là những
bộ kinh nhỏ. Thầy cũng rất hoan hỷ, cho nên
khi đó, thầy đưa cho tôi kinh Vô Lượng Thọ.
Tôi thấy đó là bản hội tập của lăo cư
sĩ Hạ Liên Cư do lăo nhân gia đích thân viết lời
mi chú[2].
Khi Ngài giảng bộ kinh ấy tại Đài Trung, [thời
gian] đă lâu lắm rồi, [lúc ấy] chúng tôi chưa biết
Ngài. V́ là bản kinh do chính Ngài đă giảng trước
kia, Ngài có viết lời chú giải của chính ḿnh [trong
đó]; bởi lẽ, bộ kinh ấy chẳng có sách chú giải,
v́ cụ Hạ mới hội tập mà! Khi đó, tôi đọc
lời chú giải của cụ, rất hoan hỷ. Tôi có thể
đọc hiểu, cũng rất mong giảng [bộ kinh ấy],
thầy liền ngăn cấm: “Chưa thể được!”
Tôi cũng không biết v́ sao chẳng thể. Về sau, biết
là do có những vị lăo pháp sư chẳng tán thành kinh ấy,
[thầy] sợ họ sẽ phê b́nh, tôi vừa mới xuất
gia, chẳng thể chống đỡ nổi! Thời tiết
nhân duyên chưa đến; v́ thế, buông xuống chuyện
ấy!
Sau
khi từ bỏ ư định ấy, tôi theo Ngài học kinh
Kim Cang và kinh Lăng Nghiêm, vẫn một mực không để
ư tới nữa. Măi cho đến khi lăo nhân gia văng sanh, tôi ở
Mỹ, lại t́m được bộ kinh ấy trong
rương sách cũ. T́m thấy, rất hoan hỷ. Thầy
đă văng sanh, rất nhiều người chưa từng
thấy bản ấy. Tôi tính in ra, chia ra gởi tặng mọi
người để kỷ niệm thầy. Nào ngờ
người hưởng ứng rất đông. Thuở ấy,
in tới một vạn bản, rất khó có! Bản ấy
vừa được lưu thông tại ngoại quốc,
có nhiều đồng tu đến thưa với tôi:
“Thưa pháp sư! Kinh này hay quá”. Họ tới thỉnh cầu
tôi giảng bộ kinh ấy, tôi cũng bắt đầu
nghiêm túc học tập. Đọc kỹ càng lời tựa
của lăo cư sĩ Mai Quang Hy, biết chỗ thù thắng
của bộ kinh ấy. Chỗ đặc biệt thù thắng
là như cư sĩ Bành Tế Thanh đă nói: “Kinh Vô Lượng Thọ chính là
Trung Bổn Hoa Nghiêm”. Do vậy, bèn ngưng kinh Hoa Nghiêm lại
đó. Tôi nghĩ [chính ḿnh sẽ] chuyên giảng kinh Vô Lượng
Thọ, hy vọng suốt một đời chuyên đổ
công dốc sức nơi một bộ kinh. Xác thực là khởi
sự từ thuở đó, tôi đă giảng kinh Vô Lượng
Thọ mười lần. Lần cuối cùng, giảng ở
Tân Gia Ba vẫn chưa xong; lần này là lần thứ
mười một, giảng lần này khá tỉ mỉ. Giống
như hiện thời đă giảng đến phẩm
Tam Bối Văng Sanh, đă giảng đến phẩm ấy,
mà phẩm ấy cũng c̣n chưa giảng xong. Giáo
nghĩa của kinh ấy và kinh Hoa Nghiêm hoàn toàn tương
đồng, nhưng phân lượng được thâu nhỏ
trên một mức độ to lớn. V́ thế, tôi chẳng
có ư nguyện giảng kinh Hoa Nghiêm lần nữa!
Lần
này, Hàn quán trưởng văng sanh. Trước khi bà văng sanh
hai ba ngày, lại một lần nữa yêu cầu tôi hăy giảng
kinh Hoa Nghiêm một lượt. Chúng tôi cũng không ngờ
bà ta sẽ ra đi, chỉ v́ muốn an ủi bà, bèn đáp
ứng: “Hy vọng bà chóng lành bệnh, tôi sẽ giảng
kinh, bà sẽ đến hộ tŕ”. Đáp ứng như thế,
chẳng ngờ hai ba ngày sau, bà thật sự qua đời.
Do vậy, [giảng kinh] Hoa Nghiêm lần này là do bà ta khải
thỉnh. Bà hy vọng lưu lại một bộ băng
thâu h́nh đầy đủ để hàng hậu học
dùng làm tham khảo, cũng là dụng tâm lương khổ!
Rơ ràng là biết chẳng làm được, vẫn phải
giảng bộ kinh này viên măn. Bộ kinh này có tất cả
ba mươi chín phẩm; hôm nay, chúng tôi giảng đến
phẩm thứ mười một. Sau phẩm ba
mươi tám là phẩm ba mươi chín, kinh văn rất
dài. Phẩm cuối chính là phẩm Nhập Pháp Giới, tức
Tứ Thập Hoa Nghiêm. Phẩm ấy gồm bốn
mươi quyển, tựa đề của phẩm ấy
là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Nhập
Bất Tư Nghị Giải Thoát Cảnh Giới Phổ
Hiền Hạnh Nguyện Phẩm. Tôi nghĩ rất nhiều
đồng học rất quen thuộc tựa đề
kinh ấy. Do vậy, nói theo toàn thể phân lượng,
chúng tôi giảng đến chỗ này, đại khái là một
phần mười của cả bộ kinh. Đối với
một phần mười, gần như chúng tôi đă tốn
hơn ba ngàn giờ. Muốn giảng viên măn phần kinh
văn sau đó, tối thiểu c̣n phải mất một
vạn giờ. Mỗi ngày, chúng tôi giảng bốn tiếng
đồng hồ, một năm giảng ba trăm ngày, phải
mất mười năm th́ mới có thể viên măn. Tiến
độ (進度, tốc độ tiến triển) trong phần
sau đương nhiên là phải tăng nhanh hơn.
Nhưng
đă học, nhất định là phải sử dụng
được th́ chúng ta mới có thể hưởng lợi
ích. Học rồi chẳng làm được, vô dụng!
Chúng ta chớ nên không lưu ư điều này! Thực hiện
từ nơi đâu? Trong mấy năm qua, chúng tôi đă phản
tỉnh rất sâu: V́ sao đệ tử Phật môn ngay cả
Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện đều chẳng
làm được? Chẳng làm được, sẽ chẳng
phải là đệ tử thật sự của đức
Phật! Là đệ tử thật sự của đức
Phật, lẽ đâu chẳng làm được? Các đồng
học bất luận tại gia hay xuất gia, tôi hỏi
quư vị: “Quư vị có mong chính ḿnh làm được hay
không?” Đều mong muốn, nhưng chẳng có một ai
làm được. V́ sao chẳng làm được? Trong có
phiền năo, ngoài có ác duyên và chướng duyên, quư vị chẳng
có cách nào làm được. Do vậy, chúng tôi nghĩ trong
giới kinh, đức Thế Tôn đă dạy: Học Phật
mà trước hết chẳng học từ Tiểu Thừa,
“bất tiên học Tiểu Thừa,
hậu học Đại Thừa, phi Phật đệ tử”
(chẳng trước là học Tiểu
Thừa rồi sau đó học Đại Thừa, sẽ
chẳng phải là đệ tử của đức Phật).
Học Phật có thứ tự! Ở chỗ thầy Lư,
tôi học mười ba bộ kinh, đại đa số
đều là kinh Tiểu Thừa. Tôi học bộ đầu
tiên là A Nan Vấn Sự Phật Cát Hung Kinh, bộ thứ
hai là Phật Thuyết A Di Đà Kinh. Tôi chỉ học với
thầy năm bộ, nhưng thầy dạy các đồng
học khác, tôi đều nghe. Thuở ấy, trí nhớ rất
tốt. Sau khi nghe xong, gần như là tối thiểu có thể
ghi nhớ từ chín mươi phần trăm trở lên.
Do vậy, nghe xong, gần như là tôi có thể giảng lại,
chẳng khác thầy cho mấy, có năng lực ấy. Sau
đó, sau khi đă xuất gia, lại quay về Đài Trung
theo thầy Lư học kinh Kim Cang và kinh Đại Phật
Đảnh Thủ Lăng Nghiêm.
Sau
khi rời khỏi Đài Trung, mấy người bạn học
cũ chúng tôi liên danh (tôi là một người trong số
đó) thỉnh thầy Lư giảng kinh Hoa Nghiêm. Mục
đích là ǵ? Kinh Hoa Nghiêm rất dài, nếu chưa giảng
xong, nói chung, thầy sẽ chẳng thể ra đi. Ngài
cũng nêu ra ư định: “Giảng
kinh Hoa Nghiêm viên măn, ta giảng bộ kinh Di Đà một lần
nữa rồi văng sanh”. Chúng tôi nghe nói vậy, rất vui
sướng. Thỉnh thầy giảng kinh Hoa Nghiêm là để
giữ thầy trụ thế. T́nh trạng sức khỏe
của thầy hết sức tốt đẹp. Chúng tôi phỏng
đoán, đoán rằng thầy tối thiểu có thể sống
đến một trăm hai mươi hoặc một
trăm ba mươi tuổi, căn cứ trên t́nh trạng
sức khỏe của Ngài. Nào ngờ, đúng là có rất
nhiều chuyện mà chúng ta chẳng có cách nào tưởng
tượng được, chính Ngài cũng chẳng ngờ
tới: Bị ngộ độc thức ăn. V́ thế,
ăn thứ ǵ cũng phải chú ư cẩn thận. Ngài bị
ngộ độc thức ăn hai lần. Dẫu sao Ngài
đă chín mươi bảy tuổi, tuổi tác quá cao, nay
chúng ta nói là “sức đề kháng suy yếu”. Hai lần bị
ngộ độc thức ăn, thể lực suy yếu
với một mức độ to lớn, cho nên Ngài ra
đi như thế đó. V́ thế, nay tôi tiếp tục
hoàn thành bộ kinh này, lưu lại một bộ băng
thâu h́nh. Hiện thời, băng thâu h́nh đă làm thành CD/DVD.
Quanh tôi chẳng có ai học, tôi tin tưởng là sau này: Có
người có được đĩa CD/DVD ấy, sẽ
học tập, nhất định là sẽ có cái duyên ấy.
Trong
tháng Tám, tôi đến thăm Ấn Ni (Indonesia), đây là lần
thứ bảy tôi sang Ấn Ni. Pháp sư Định Thịnh
hết sức khó có! Tôi tặng thầy ấy sáu
mươi bộ Đại Tạng Kinh. Trước mặt
tôi, thầy đă phân phát cho các đạo tràng Phật giáo
tại Ấn Độ Ni Tây Á (Indonesia). Năm mươi
ba đạo tràng, chia cho mỗi đạo tràng một bộ.
Chúng tôi thấy vậy rất hoan hỷ. Nghi thức rất
long trọng! H́nh như thầy ấy t́m bốn trăm tám
mươi người, đối với bốn bộ
Đại Tạng Kinh, mỗi người đội trên
đầu một quyển, nghênh tiếp Đại Tạng
Kinh. Hôm ấy, tứ chúng đồng học gần tới
hai ngàn người, sắp thành hàng dài hai cây số. Báo chí
và giới truyền thông của họ đều đến
chụp h́nh, quay phim, đài truyền h́nh đưa tin h́nh
như đến sáu phút, hết sức cảm động
ḷng người. Chánh phủ Ấn Độ Ni Tây Á thấy
vậy cũng rất xúc động. Bộ Tôn Giáo của
họ t́m tôi, hy vọng tôi biếu tặng họ hai
trăm bộ Đại Tạng Kinh nữa. Tôi nhận lời,
có thể là đă gởi đi rồi! Hai trăm bộ ấy
(Ấn Ni có năm tôn giáo, xứ ấy văn hóa đa
nguyên), có thể chia ra gởi tặng các thư viện,
đại học và các đạo tràng tôn giáo khác, hết sức
có ư nghĩa!
Ngôi
chùa của pháp sư Định Thịnh có tên là Nhất Thừa
Tự. Thầy hết sức hy vọng có thể lập
Phật Học Viện, bồi dưỡng
nhân tài hoằng pháp, t́m đến tôi. Tôi nói: “A! Chùa của
thầy có tên là Nhất Thừa Tự, phải nên dạy
kinh Nhất Thừa”. Kinh Nhất Thừa là kinh ǵ? Chư vị
phải biết: Đại Thừa là sở học của
Bồ Tát, Tiểu Thừa là sở học của Thanh
Văn và Duyên Giác. Nhất Thừa là đạo thành Phật.
Ở đây, [lời Sớ] viết là “dục giai diệu vị” (muốn đạt tới
địa vị mầu nhiệm), “diệu vị” (妙位) chính là
Nhất Thừa. Trong Tạng Kinh, kinh Nhất Thừa chỉ
có ba bộ, chớ nên không biết điều này! Bộ thứ
nhất là Hoa Nghiêm, bộ thứ hai là Pháp Hoa, tức Diệu
Pháp Liên Hoa Kinh, bộ thứ ba là kinh Phạm Vơng. Ba bộ
kinh ấy là kinh Nhất Thừa. Trong kinh Pháp Hoa, đức
Phật nói: “Duy hữu Nhất
Thừa pháp, vô nhị, diệc vô tam, trừ Phật
phương tiện thuyết” (Chỉ có pháp Nhất Thừa,
không hai, cũng không ba, trừ Phật nói phương tiện).
Do vậy có thể biết: Đại Thừa, Tiểu Thừa,
Tam Thừa, và Ngũ Thừa đều là do đức Phật
nói phương tiện. Nói chân thật sẽ là Nhất Thừa.
Chỉ có pháp Nhất Thừa!
Tôi
nói: “Hiện thời, tôi đang giảng kinh Hoa Nghiêm. Nếu
thầy mở Phật Học Viện, hăy chuyên dạy kinh
Hoa Nghiêm, chùa Nhất Thừa mà! Tôi sẽ không đến dạy,
chẳng có cách nào hết. Tôi gởi CD/DVD tặng thầy,
thầy có thể chiêu sinh. Mỗi ngày để cho học
tṛ nghe kinh bốn tiếng đồng hồ, nghiên cứu,
thảo luận hai tiếng đồng hồ, viết báo
cáo sau khi nghe kinh hai tiếng đồng hồ nữa. Mỗi
ngày [học kinh, nghiên cứu kinh] tám tiếng đồng hồ.
Sáng tối niệm Phật bốn tiếng đồng hồ.
Trong ba năm, Phật Học Viện của thầy chắc
chắn có thành tựu”. Thầy ấy nghe nói như vậy,
cũng rất hoan hỷ. Trong chùa của thầy ấy, có
khoảng hai mươi mấy vị pháp sư trẻ tuổi,
đều đến từ Trung Hoa. Tôi thấy vậy, rất
hoan hỷ. Tôi nói: “Dùng phương pháp ấy để dạy
bảo những người trẻ tuổi ấy, đó
là học kinh giáo. Học kinh giáo th́ phải y giáo tu hành. Tu
hành khởi đầu từ chỗ nào? Khởi đầu
bằng Đệ Tử Quy”. Tôi đặc biệt nhấn
mạnh: “Đệ Tử Quy
thay cho Tiểu Thừa”. Chẳng có Đệ Tử Quy
th́ Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện của quư vị
sẽ chẳng làm được, đúng như [lời Sớ]
ở đây đă nói “hữu
Giải vô Hạnh, hư phí đa văn” (có Giải mà
chẳng có Hạnh, uổng phí công sức đa văn).
Nghe kinh Hoa Nghiêm mà chẳng làm được, lăng phí thời
gian vô ích! Do vậy, phải khởi sự thực hiện
bằng Đệ Tử Quy, đ̣i hỏi các đồng học
phải thực hiện [Đệ Tử Quy] một
trăm phần trăm! Sau khi đă thực hiện Đệ
Tử Quy, nhất định phải thực hiện Thập
Thiện Nghiệp, tức là phải làm được [các
giáo huấn trong] kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo.
Làm được hai thứ ấy, sẽ là đệ tử
tại gia của đức Phật.
Chư
vị phải biết: Trong xă hội Trung Hoa cổ xưa,
Đệ Tử Quy chẳng phải là sách giáo khoa trong nhà
trường. Đệ Tử Quy là điều kiện
cơ bản để làm người. Quư vị có biết
làm người hay không? Quư vị có gia giáo hay không? Gia giáo là
dạy những ǵ? Chính là Đệ Tử Quy; ai dạy?
Cha mẹ, huynh trưởng. Tôi đă nói chuyện này bao
nhiêu lần, bắt đầu dạy từ khi nào? Trẻ
thơ sanh ra ba bốn ngày, đă mở mắt ra, tai đă
dựng thẳng lên, nó đă có thể thấy, có thể
nghe! Trước mặt con thơ, lời lẽ và cử
chỉ của cha mẹ chính là Đệ Tử Quy. Họ
hoàn toàn làm được để cho con thơ trông thấy,
nó có thể thấy, có thể nghe đấy nhé! Từ lúc
sanh ra, nghe suốt đến ba, bốn tuổi, nó sẽ hiểu
biết đạo làm người, rất có quy củ. V́
thế, đó là gia giáo, là văn hóa của Trung Hoa, của người
Hoa!
Hiện
thời, nền gia giáo của chúng ta đă bị gián đoạn
đại khái bảy, tám mươi năm. Thời gian bảy,
tám mươi năm là ba thế hệ. Cả ba thế hệ
đều chẳng học, cho nên xă hội hiện thời
loạn mất rồi! Con cái bất hiếu. Quư vị thấy
bao nhiêu kẻ làm cha mẹ kêu ca “con cái chẳng vâng lời”,
người làm thầy than “học tṛ chẳng thể dạy”.
Khổ khôn kể xiết! Học tṛ chẳng thể dạy,
con cái chẳng nghe lời, một trăm năm trước
chẳng thấy nói kiểu ấy! Gần đây nhất mới
có hiện tượng này! Từ bé đến lớn
đă chẳng trông thấy những tấm gương tốt
đẹp. Từ xưa, ngạn ngữ đă có câu: “Thiếu thành nhược thiên
tánh, tập quán thành tự nhiên” (Dưỡng thành từ
bé, sẽ giống như bẩm tánh, do thói quen mà trở
thành tự nhiên). “Giáo nhi anh hài”
(Dạy con từ thuở c̣n thơ), dạy con bắt
đầu từ lúc măng sữa, chẳng đợi cho
nó tṛn hai, ba tuổi. [Đợi đến hai, ba tuổi mới
dạy] th́ trễ rồi, đă quá trễ! Dạy con từ
thuở c̣n thơ! Ba, bốn tuổi nó đă được
vun bồi cội gốc. Cổ nhân thường nói “tam tuế khán bát thập, thất
tuế khán chung thân” (từ ba tuổi mà thấy
được t́nh h́nh một người vào lúc tám
mươi, từ t́nh h́nh lúc bảy tuổi mà thấy
được nhân cách suốt đời của một
người). Quư vị bèn hiểu: Từ lúc ba tuổi,
căn bản đă được kiến lập, tức
là “thiếu thành nhược
thiên tánh, tập quán thành tự nhiên”. Khi bảy tuổi,
thói quen đă trở thành tự nhiên, sẽ không biến
đổi nữa. Đối với thuận cảnh hay
nghịch cảnh, kẻ ấy đều có trí huệ
để có thể phân biệt, có định lực nên chẳng
bị ô nhiễm. Đấy chính là điểm đặc
sắc trong nền giáo dục Trung Hoa. Đáng tiếc là hiện
thời chúng ta đă vứt bỏ [gia giáo] cả ba thế
hệ!
Ba
thế hệ cũng không kể là quá ngắn, mà cũng chẳng
coi như quá dài. Hiện thời, muốn cứu văn vẫn
c̣n kịp! Thật sự phát đại tâm, khởi sự
cứu văn từ chỗ nào? Hăy bắt đầu thực
hiện từ chính ḿnh! Cũng nhất định là phải
mong sao chính ḿnh hoàn toàn thực hiện Đệ Tử Quy.
Ta có làm được th́ mới có thể ảnh hưởng
người khác. Ta chẳng làm được, đ̣i hỏi
kẻ khác thực hiện, chẳng thể nào! Người
ta sẽ hoài nghi, sẽ chất vấn: “Quư vị nói chuyện
này tốt đẹp lắm, bảo tôi làm. Cớ sao chính
quư vị chẳng làm?” Trẻ nhỏ hiện thời rất
thông minh, chính quư vị chẳng làm được, nó sẽ
chất vấn quư vị: “V́ sao quư vị chẳng làm
được? Quư vị chẳng làm được, sao lại
dạy tôi?” Người làm thầy, chính ḿnh đích thân làm
được, học tṛ sẽ chẳng nói ǵ, chẳng thể
nào không tuân phục! Hai năm gần đây nhất, trong
nước có những đồng học làm công tác giáo dục
nhi đồng, đă làm rất thành công, do nguyên nhân nào? Bản
thân họ đă làm được! Chúng tôi cũng nghe nói có
rất nhiều nơi vận động nhi đồng
đọc kinh. Sau khi làm được vài năm đều
thất bại, nẩy sanh rất nhiều vấn đề.
Do nguyên nhân nào? Chính ḿnh chẳng làm được, học
Phật càng chẳng cần phải nói nữa!
Nếu
chúng ta thật sự mong “dục
giai diệu vị”, phải tu đại hạnh. Đại
hạnh là Bồ Tát Hạnh, phải “phát Bồ Đề tâm, trọn đủ các giới,
chẳng phạm oai nghi”. Phải phát đại Bồ
Đề tâm, quư vị mới có thể học thành Bồ
Tát. Học Phật th́ c̣n phải kể thêm Phổ Hiền
Hạnh. Kinh Đại Thừa đă nói chuyện này rất
rơ ràng: Bồ Tát chẳng tu Phổ Hiền Hạnh, sẽ
chẳng thể chứng đắc Phật quả rốt
ráo. Muốn chứng đắc Phật quả rốt ráo,
quư vị nhất định phải tu Phổ Hiền Hạnh.
Phổ Hiền Hạnh ở chỗ nào? Hôm nay, chúng ta học
Đệ Tử Quy của Phổ Hiền Hạnh, [phẩm
Tịnh Hạnh] giống như Đệ Tử Quy trong
văn hóa Trung Hoa. Phẩm Tịnh Hạnh gồm một
trăm bốn mươi mốt bài kệ, mỗi câu kệ
có bốn chữ. Một bài kệ gồm mười sáu chữ,
mầu nhiệm chẳng thể nói trọn! Ở đây,
[lời Sớ viết] “tất
tư thắng hạnh” (ắt phải nhờ vào hạnh
thù thắng). “Thắng” (勝) là thù thắng.
Hạnh Bồ Tát thù thắng, chẳng phải là hạnh Bồ
Tát b́nh phàm! “Tư” (資) là nhờ
vào, nhất định phải nhờ vào hạnh Bồ
Tát thù thắng. Nói theo cách hiện thời, nhất định
là phải có đủ sự hành tŕ thù thắng của bậc
Bồ Tát th́ quư vị mới có thể lên cao tới địa
vị Phật.
Địa
vị Phật cao cỡ nào? Phá một phẩm vô minh, chứng
một phần Pháp Thân, đó là địa vị Phật.
Nói theo Lư, đoạn hết thảy chấp trước,
đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất
thế gian đều chẳng chấp trước, đoạn
phân biệt đối với hết thảy các pháp thế
gian và xuất thế gian, đấy là Bồ Tát hạnh.
Đă đoạn chấp trước mà c̣n có phân biệt
th́ là hạnh Tiểu Thừa. Tiểu Thừa đoạn
chấp trước, Đại Thừa đoạn phân biệt,
Nhất Thừa là sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu
trần đều chẳng khởi tâm, chẳng động
niệm. Bắt đầu thực hiện từ nơi
đâu? Từng ly, từng tư trong cuộc sống hằng
ngày, quư vị phải biết chuyển cảnh giới
như thế nào! Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật
đă dạy rất hay: “Nhược
năng chuyển vật, tắc đồng Như Lai”
(Nếu có thể chuyển vật, sẽ giống như
Như Lai). Tôi thường trích dẫn câu này, thay đổi
một chữ. Tôi thường nói: “Nhược năng chuyển cảnh, tắc đồng
Như Lai”. V́ hiện thời ai nấy đều nói
đến cảnh giới, [nên tôi nói là] “nếu có thể chuyển cảnh”. Nói “chuyển vật” th́ người
hiện thời chẳng thấy dễ hiểu cho lắm.
Nói “chuyển cảnh giới”,
có lẽ mọi người sẽ dễ hiểu hơn. Nếu
có thể chuyển cảnh, sẽ giống như Như
Lai. Quư vị phải biết chuyển!
Một
trăm bốn mươi mốt bài kệ ở đây
chính là nêu ra những trường hợp tiêu biểu, nhằm
dạy chúng ta cách chuyển như thế nào? Bất luận
cảnh giới nào cũng đều có thể chuyển biến
thành cảnh giới nơi quả địa của
Như Lai, tối thiểu cũng là [cảnh giới của]
Pháp Thân [đại sĩ], tức là chứng một phần
cảnh giới của Như Lai. Đối với “chư Phật” được
nói trong kinh Kim Cang, quư vị thấy cư sĩ Giang Vị
Nông chú giải: Bốn mươi mốt địa vị
Pháp Thân đại sĩ chính là chư Phật. Điều
này cũng rất đáng kể. Chư vị phải hiểu:
Đại Thừa thuộc về tứ thánh pháp giới.
Trong mười pháp giới, Bồ Tát pháp giới và Phật
pháp giới thuộc Đại Thừa. Tiểu Thừa là
Thanh Văn pháp giới và Duyên Giác pháp giới. Thanh Văn và
Duyên Giác là Tiểu Thừa, Bồ Tát và Phật là Đại
Thừa. Nhất Thừa th́ sao? Nhất Thừa chẳng
thuộc trong mười pháp giới, Nhất Thừa là Nhất
Chân pháp giới. Theo kinh Hoa Nghiêm, Nhất Chân pháp giới là
từ Sơ Trụ của Viên Giáo trở lên! Nay chúng ta
đang học phần này chính là địa vị Thập
Tín. Hàng Bồ Tát thuộc địa vị Thập Tín tu
viên măn tâm Thập Tín của Bồ Tát, sẽ tu phẩm Tịnh
Hạnh. Tu phẩm Tịnh Hạnh, sẽ lại tiến
cao hơn, dự vào địa vị Phật, biến thành
Pháp Thân Bồ Tát. Không chỉ là vượt thoát lục
đạo luân hồi, mà c̣n vượt thoát mười
pháp giới. Chúng ta chớ nên không hiểu đạo lư và sự
thật này!
V́
thế, [Thanh Lương đại sư] bảo: Phẩm
trước, tức phẩm [Bồ Tát] Vấn Minh nói về
Giải môn, khiến cho quư vị khai trí huệ. Phẩm này
biện định về Hạnh, trí huệ có thật sự
mở mang hay không? Thật sự mở mang, sẽ nhất
định là có thể chuyển cảnh giới. Chẳng
chuyển cảnh giới được, trí huệ sẽ
chẳng mở mang! V́ thế, nhất định là phải
có phẩm kinh này. Đă hiểu rơ th́ ở đây nhất
định là phải biết tu hành, uốn nắn rất
nhiều hành vi lầm lạc của chúng ta. Đó là ư
nghĩa thứ nhất.
Lại
xem [ư nghĩa] thứ hai:
(Sớ)
Hựu tiền minh nhập lư quán hạnh, kim biện tùy sự
sở hành.
(疏)又前明入理觀行,今辨隨事所行。
(Sớ: Lại
nữa, phẩm trước giảng về cách ngộ nhập
lư để quán hạnh, nay [phẩm này] biện định
cách dựa theo từng sự việc để hành).
“Quán” là để cho
quư vị biết tới Pháp Thân Bồ Tát. Chư Phật
Như Lai có cách nh́n như thế nào đối với hết
thảy các pháp thế gian và xuất thế gian? Chuyện ấy
thuộc loại quan sát, tức là Giải. Quư vị biết
Phật, Bồ Tát có cách nh́n như thế nào đối với
hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian? Phẩm
kinh này biện định về “tùy sự sở hành”, cũng có nghĩa là: Áp dụng
cách nh́n đối với vũ trụ và nhân sinh của Phật,
Bồ Tát vào cuộc sống thường ngày trước
mắt như thế nào? Cuộc sống thường ngày
chính là Sự! Từ sáng sớm thức dậy, mặc áo,
ăn cơm, làm việc, cư xử, thù tiếp người
khác, đều có thể thực hiện toàn bộ
những quan niệm của chư Phật Như Lai. Đấy
là điều quan trọng. Nếu chẳng thể thực
hiện, quư vị chỉ học suông, [như vậy th́] quư
vị học rồi có tác dụng ǵ đâu?
Thật
sự hiểu, có thể thật sự thực hiện. Học
xong, có thể áp dụng, quư vị sẽ sống cuộc
đời ǵ trong hiện tại? Sống cuộc đời
của Phật, Bồ Tát, thật sự được thọ
dụng! Trước kia, khi thầy Phương giới
thiệu Phật pháp cho tôi, [cụ đă nói]: “Học Phật là sự hưởng
thụ cao nhất trong đời người”. Hưởng
thụ cao nhất th́ chẳng thể ngừng nơi Giải!
Ngừng nơi Giải, quư vị chỉ có thể đạt
được ít phần, đọc sách cảm thấy
vui sướng, chứ cuộc sống thường ngày
th́ sao? Cuộc sống thường ngày phải làm sao có thể
giống như người đọc sách tại Trung Hoa
đă nói: “Khổng Nhan chi lạc”
(niềm vui của Khổng Tử, Nhan Hồi). Khổng
phu tử và Nhan Hồi đă đọc sách thông suốt, áp
dụng vào cuộc sống hằng ngày. V́ thế, Nhan Hồi
[nghèo tới nỗi phải] ăn cơm trong giỏ, uống
nước bằng bầu. “Cư
lậu hạng, nhân bất kham kỳ ưu, Hồi dă bất
cải kỳ lạc” (Ở trong ngơ nghèo hèn, người
khác chẳng chịu nổi sự khổ sở ấy,
Nhan Hồi vẫn vui sướng chẳng thay đổi),
thầy (Khổng phu tử) đă tán thán ông ta như vậy
đó. Niềm vui của ông ta là ǵ? Chính là như chúng tôi vừa
mới nói ở đây: Chuyển cảnh giới. Chuyện
ǵ cũng đều có thể chuyển, lẽ nào chẳng
vui? Đương nhiên là vui. Tự hành, hóa độ
người khác, tâm lượng xác thực là trọn khắp
pháp giới, hư không giới.
Gần
đây, chúng tôi đến thăm đại học Sư
Phạm Bắc Kinh ở trong nước. Các vị giáo
sư ở đó đă cùng nhau nghĩ ra hai câu viết trên
cổng chánh, khi tôi đến thăm đă trông thấy: “Học vi nhân sư, thân vi thế
phạm” (Học làm thầy người, thân là khuôn mẫu
cho cơi đời). Người tiếp đón tôi là vị
phó hiệu trưởng. Lúc ấy, tôi nói với thầy
phó hiệu trưởng: “Hai câu này chính là Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh”. Họ nghe xong cũng
sững sờ! Kinh Hoa Nghiêm là hai câu ấy ư? Bởi lẽ,
ngôn, hạnh, cử chỉ của chư Phật Như Lai
và hàng Pháp Thân đại sĩ đă nêu gương, tạo
khuôn phép cho hết thảy chúng sanh trong khắp pháp giới,
hư không giới. Chúng ta có tâm nguyện ấy hay không? Có
tâm nguyện ấy, sẽ có thể học Hoa Nghiêm. Chúng ta
thấy Thanh Lương đại sư đă khai thị
trong Hoa Nghiêm Kinh Huyền Đàm, Thanh Lương đại
sư bảo kinh Hoa Nghiêm có mười loại “đương cơ” (當機), tức
là những người nào có điều kiện, có tư
cách học kinh Hoa Nghiêm. Điều kiện thứ nhất
là Pháp Thân Bồ Tát, đương nhiên là chúng ta chẳng
có khả năng này. Cứ một mực kể xuống
dưới, chẳng có điều kiện nào phù hợp với
chúng ta, nhưng điều cuối cùng thật sự nói
đến phàm phu! “Phàm phu”
mà là đại tâm phàm phu th́ cũng trọn đủ
điều kiện để học Hoa Nghiêm. Đại
tâm phàm phu là ǵ? Chúng ta xác thực có nguyện này, chúng ta mong
nêu gương tốt nhất cho hết thảy chúng sanh trọn
khắp pháp giới hư không giới.
Sau
khi tôi trở về, ghi nhớ hai câu của ngôi trường
ấy, tôi cũng sửa lại một chữ. Câu của
họ là: “Học vi nhân sư,
thân vi thế phạm”, tôi đổi “thân” thành “hành”. Hành
(行) là hành
vi, bao gồm tư tưởng, ngôn ngữ, tạo tác, có ư
nghĩa rộng răi hơn thân! Tôi nghe nói sau này ngôi trường
đó cũng thật sự sửa lại. Một số
giáo sư từ trường đó bảo tôi: Hiện thời,
trường của họ cũng ghi là “học vi nhân sư, hành vi thế phạm”. Tốt
lắm, rất khó có. Đó là đại tâm chúng sanh, như
vậy th́ quư vị cũng có tư cách học Hoa Nghiêm.
Do
vậy, tôi thấy chùa Nhất Thừa ở Indonesia. Ở
trong chùa Nhất Thừa th́ phải đều nên là đại
tâm chúng sanh, đại tâm Bồ Tát, nhưng thực hiện
nơi Sự, tức là trong cuộc sống hằng ngày, nhất
định là Đệ Tử Quy, Thập Thiện Nghiệp
Đạo, và Sa Di Luật Nghi, ba thứ ấy là cơ bản.
Đệ Tử Quy là căn bản, là cơ sở của
truyền thống giáo dục Trung Hoa. Thập Thiện Nghiệp
là căn bản giáo học của Thích Ca Mâu Ni Phật dành
cho hết thảy chúng sanh khắp pháp giới hư không giới.
Sa Di Luật Nghi dành cho hàng đệ tử Phật, [dành
cho] đệ tử xuất gia nhà Phật, chứ chẳng
phải là tại gia. Yêu cầu dành cho hàng tại gia là Thập
Thiện Nghiệp Đạo. Yêu cầu đối với
hàng xuất gia cao hơn Thập Thiện Nghiệp Đạo
một tầng, nghiêm ngặt hơn một tầng, đó
là Sa Di Luật Nghi. Chẳng làm được ba thứ ấy,
không được rồi! Nhất định phải học
hiểu, phải thi hành ba thứ ấy th́ mới thật
sự là một người xuất gia tốt đẹp,
thật sự là học tṛ của Thích Ca Mâu Ni Phật. Do vậy,
xét theo thứ tự, nhất định sẽ là Đệ
Tử Quy thứ nhất, Thập Thiện Nghiệp Đạo
thứ hai, Sa Di Luật Nghi là thứ ba. Để là đại
tâm chúng sanh, quư vị phải học phẩm Tịnh Hạnh!
Quư vị có thể chuyển hết thảy người, hết
thảy sự, hết thảy vật, bất luận thiện
duyên hay ác duyên, thuận cảnh hay nghịch cảnh thành cảnh
giới Phật. Trong phần trước, chúng ta đă đọc
thấy “cảnh giới Phật
rất sâu”, tốc độ tu hành sẽ rất nhanh
chóng. Nếu có thể làm được một trăm bốn
mươi mốt câu trong phẩm Tịnh Hạnh, nói thật
ra, mỗi bài kệ là một câu, một trăm bốn
mươi mốt câu đều làm được, chúng ta
niệm Phật văng sanh Tây Phương thế giới Cực
Lạc, thưa cùng chư vị, sẽ chẳng ở trong
cơi Phàm Thánh Đồng Cư, mà cũng chẳng thuộc
cơi Phương Tiện Hữu Dư, sẽ đến
nơi đâu? Cơi Thật Báo Trang Nghiêm! Nâng cao cảnh giới
của quư vị như thế đó!
Trong
thế giới Sa Bà, quư vị tốn thời gian vài
năm, thật sự làm. Điều then chốt để
có thể làm hay không là ở chỗ nào? Then chốt chính là
buông xuống. Thật sự buông xuống, sẽ thật sự
đạt thành tựu. Do vậy, trong kinh, đức Phật
bảo chúng ta: “Tu hành một
ngày trong thế giới Sa Bà bằng tu hành một trăm
năm trong thế giới Cực Lạc”. Thế giới
Sa Bà chẳng có ǵ không tốt, chênh lệch to lớn như
vậy là do nguyên nhân nào? Chướng nạn trong thế giới
Sa Bà quá nhiều, quư vị chẳng dễ dàng tu được!
Dũng mănh, tinh tấn, trong thế giới này (Sa Bà) dấy
lên rồi suy vi rất mạnh; dấy lên cũng mau, mà
đọa xuống cũng chóng. Thế giới Cực Lạc
chỉ có tiến cao hơn, chẳng có đọa lạc,
nhưng tốc độ rất chậm, b́nh ổn, rất
chậm răi, đạo lư là ở chỗ này. Thế giới
Cực Lạc chẳng có lắm phiền năo ngần ấy,
chẳng có nghịch duyên nhiều ngần ấy, chẳng
có! Đối với những điều khai thị ấy
của đức Phật, chúng ta đều phải nên ghi
nhớ. Nếu thật sự hiểu biết, nghiêm túc tu tập,
nói thật ra, thế giới Sa Bà cũng là một hoàn cảnh
rất tốt đẹp, xác thực là giúp cho chúng ta tiến
cao hơn với mức độ to lớn. Nay đă hết
thời gian rồi, chúng ta nghỉ ngơi vài phút!
***
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi
xuống. Chúng ta xem tiếp câu cuối cùng trong lời Sớ
của Thanh Lương đại sư về ư nghĩa v́
sao có phẩm kinh này.
(Sớ)
Hựu, tiền Hạnh, thử Nguyện, tịnh nghĩa
thứ đệ, cố thứ lai dă.
(疏)又前行此願,並義次第,故次來也。
(Sớ: Lại
nữa, trong phần trước là Hạnh, ở đây là
Nguyện, và xét theo thứ tự của ư nghĩa, cho nên kế
tiếp là phẩm này).
Cuối
cùng, Ngài cho biết v́ sao ở đây có phẩm kinh này, nêu
ra nguyên do v́ sao nói phẩm kinh này. Trong phần trước,
cũng có thể nói về Hạnh, Giải và Hạnh đều
coi trọng. Trong Tứ Thập Hoa Nghiêm Sớ, Thanh
Lương đại sư đă nói rất hay. Trong phần
[giải thích tựa đề kinh] Ngài đă nói: “Hữu Giải vô Hạnh,
tăng trưởng tà kiến. Hữu Hạnh vô Giải,
tăng trưởng vô minh” (Có Giải mà không có Hạnh,
tăng trưởng tà kiến. Có Hạnh mà không có Giải,
tăng trưởng vô minh), đều chẳng thể
thành tựu. Thật sự biết dụng công, nhất
định là Giải Hạnh tương ứng. Giải
Hạnh hợp nhất: Giải là Hạnh, Hạnh là Giải,
Giải là tâm hạnh. Chúng ta nhận biết: Chúng ta tư
duy có khá nhiều sai lầm. Đó là hành vi nơi ư nghiệp
sai lầm, phải nhờ vào kinh giáo để sửa sang
uốn nắn.
Tu hành, quan trọng nhất là ư nghiệp. Tâm
đă chánh, ngôn ngữ, và hành tŕ há có lẽ nào bất chánh?
Tâm tà, mong cho ngôn ngữ và hành tŕ chánh đáng, cũng chẳng
thể chánh đáng được! Chư vị hiểu rơ
đạo lư này, [sẽ biết] v́ sao hiện thời chúng
ta chẳng thể thực hiện Đệ Tử Quy
được? V́ sao Thập Thiện Nghiệp chẳng
làm được? Then chốt thật sự nằm ở
ư nghiệp. Ư nghiệp của chúng ta (tức là tâm lư) bị
ô nhiễm nghiêm trọng, phiền năo và tập khí quá sâu.
Chúng ta nghe thánh nhân giáo huấn, nghe Phật, Bồ Tát
dạy bảo, bèn rất hoan hỷ, nhưng chẳng làm
được! Chẳng phải là không làm được,
mà là do ư niệm chẳng thể chuyển được!
Hễ chuyển biến ư niệm, sẽ tu hành chẳng
khó! Khi xưa, tôi theo Chương Gia đại sư, lúc
hai mươi mấy tuổi, tức là lúc hai mươi
sáu, hai mươi bảy, hai mươi tám. Năm
Chương Gia đại sư viên tịch, tôi ước
chừng đă hai mươi chín tuổi. Lăo nhân gia có ảnh
hưởng đến tôi rất sâu! Ngài dạy tôi “thấy thấu suốt, buông xuống”.
Thấy thấu suốt là Giải. Buông xuống là Hạnh.
Thấy thấu suốt giúp quư vị buông xuống; buông xuống
lại giúp quư vị thấy thấu suốt. Từ sơ
phát tâm cho đến địa vị Như Lai, hễ quư
vị nói đến chuyện tu hành, nói chung là chẳng ra
ngoài nguyên tắc ấy! Thấy thấu suốt và buông xuống
phụ giúp thành tựu lẫn nhau, từng bước tiến
cao hơn!
Đối
với Hạnh và Nguyện ở chỗ này, trong Hạnh có
Giải, trong Nguyện có Hạnh. Giải, Hạnh, Nguyện
là một chẳng hai, tuy một mà ba, tuy ba mà một,
nhưng chúng có thứ tự. Trong phần trước là Giải
và Hạnh, chỗ này thiên trọng Nguyện, nhưng những
điều được nói toàn là trong cuộc sống hằng
ngày, tức là Sự. Sự chính là Hạnh! Khi gặp Sự,
hăy dùng nguyện lực để chuyển biến nó, sẽ
chuyển được cảnh giới. Chúng ta phải học
tập điều này! Hiện thời, chúng ta hành theo Sự,
chẳng có nguyện lực; v́ thế, thuận theo Sự
mà cư xử, cho nên điều ǵ cũng đều là tạo
nghiệp! Lợi ích chúng sanh, lợi ích xă hội th́ là thiện
hạnh, v́ tự tư tự lợi th́ là ác hạnh. Thiện
hạnh cảm phước báo trong ba thiện đạo;
ác hạnh cảm khổ báo trong ba ác đạo. Cái tâm luân
hồi sẽ tạo nghiệp luân hồi. Quư vị nói xem:
Chuyện này có đáng sợ hay chăng? Tuy đáng sợ,
có mấy ai giác ngộ? Có mấy ai quay đầu? Chúng ta
hăy tư duy, quan sát cặn kẽ từ chỗ này. Xem xét
người khác xong, hăy quay trở lại, hồi quang phản
chiếu, chiếu kiến chính ḿnh. Chẳng có những tấm
gương bên ngoài ấy, bản thân chúng ta rốt cuộc
làm những ǵ? Chẳng biết! Thật đấy, chẳng
giả đâu! Chúng tôi giới thiệu phần ư nghĩa v́
sao có phẩm kinh này tới đây, lại xem tiếp đoạn
thứ hai kế đó.
(Sớ)
Thứ thích danh.
(疏)次釋名。
(Sớ:
Kế đó, giải thích tên gọi).
Giải
thích tên gọi của phẩm này. Phẩm này là phẩm Tịnh
Hạnh.
(Sớ)
Thích danh giả, Cụ Chiết La, thử vân Sở Hạnh.
Ba Lợi, thử vân Giai dă, Biến dă. Thú Đề vân thanh
tịnh dă.
(疏)釋名者。具折囉,此云所行,波利,此云皆也,遍也。戍提云清淨也。
(Sớ: “Giải
thích tên gọi, Cụ Chiết La cơi này dịch là Sở
Hành. Ba Lợi cơi này dịch là đều, là trọn khắp.
Thú Đề là thanh tịnh).
Trên
đây là nói về cách phiên âm tiếng Phạn. Cụ Chiết
La là phiên âm, nghĩa tiếng Hán là Sở Hạnh. “Thử vân”: “Thử” (此) là ở chỗ chúng ta, [ư nói] người
Hoa dịch [chữ ấy] thành Sở Hạnh. Ba Lợi
(Pari) là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán, “thử vân giai dă, biến dă”:
Ba Lợi có hai ư nghĩa. Nó có nghĩa là Giai, Giai (皆) là hết
thảy. Lại có ư nghĩa là Biến (遍, trọn khắp).
Thú Đề (Suddhi) cũng là tiếng Phạn, dịch sang
nghĩa tiếng Hán là Thanh Tịnh. Quư vị thấy nếu
nói theo tiếng Hán sẽ là “sở
hạnh giai biến thanh tịnh” (hành vi đều trọn
khắp thanh tịnh). Văn tự tiếng Hán xác thực
là rất đẹp, đă đơn giản hóa thành Tịnh
Hạnh. Ư nghĩa trong tiếng Phạn là…
(Sớ)
Vị tam nghiệp tùy sự duyên lịch, danh vi Sở Hạnh.
Xảo nguyện pḥng phi, ly quá thành đức, danh vi thanh tịnh.
(疏)謂三業隨事緣歷,名為所行。巧願防非,離過成德,名為清淨。
(Sớ: Ư
nói: Tam nghiệp duyên khắp theo mọi sự, nên gọi
là Sở Hạnh. Nguyện hay khéo ngăn ngừa sai trái,
ĺa lỗi để thành tựu đức, nên nói là “thanh tịnh”).
Ư
nghĩa này hay lắm, rất rơ ràng, rất minh bạch. “Tam nghiệp” là thân, miệng,
ư. Thân [có các nghiệp, gọi là “thân nghiệp”], khởi tâm
động niệm, phân biệt, và chấp trước
đều thuộc về tâm, là hành vi nơi ư nghiệp, khẩu
nghiệp là ngôn ngữ.
Ngôn ngữ
chẳng thể không cẩn thận, chớ nên coi nhẹ
ngôn ngữ! Quư vị thấy giáo học của Khổng
phu tử có bốn khoa mục, có thứ tự. Thứ nhất
là đức hạnh, thứ hai là ngôn ngữ, thứ ba là
chánh sự, thứ tư là văn học. Trong bốn lănh vực
dạy học của phu tử, ngôn ngữ được
xếp vào hàng thứ hai. V́ sao? Từ xưa tới nay, tổ
tiên của chúng ta đă hiểu rất rạch ṛi: “Khẩu vi họa phước
chi môn” (Miệng là cái cửa dẫn đến họa
hay phước), đúng như câu nói: “Bệnh tùng khẩu nhập, họa tùng khẩu xuất”
(Bệnh do miệng mà vào, họa do miệng mà ra). Trung gian
gây lây nhiễm bệnh tật, tuyệt đại đa số
là do ăn uống không cẩn thận, do thích ăn uống!
Thích ăn uống th́ sao? Bị ngộ độc thức
ăn. Hai ngày qua, tôi c̣n nghe thấy có đồng học kể:
Chẳng biết ở chỗ nào, có những kẻ trẻ
tuổi, đại khái là do ăn hải sản, hôm sau chết
tươi! Tối hôm ấy đi ngủ một giấc,
đến sáng ra, chết ngắc, bị ngộ độc
thức ăn! Nghiêm trọng là mất mạng, nhẹ
hơn th́ bị bệnh, mắc chứng bệnh quái lạ,
bệnh từ miệng mà vào!
Nhất
là trong giai đoạn hiện thời, bước vào mùa
Đông, thường là các bệnh ôn dịch phát sanh vào lúc
này. Nếu bệnh dịch mùa Đông chuyển biến
thành bệnh dịch mùa Xuân, sẽ khá nghiêm trọng. Hôm nay,
chúng tôi thấy nhiều nơi đưa tin về dịch
cúm gà, rất có thể sẽ kéo dài thành bệnh dịch vào
mùa Xuân. Thời gian dài như thế, từ mùa Đông lan
sang mùa Xuân, chuyện này rất nghiêm trọng! Nói theo y học
Trung Hoa, sẽ là bệnh dịch mùa Đông chuyển thành bệnh
dịch mùa Xuân. Tổ chức Y Tế Thế Giới
cũng cảnh cáo: Bệnh dịch truyền nhiễm ấy
có thể kéo dài đến mùa Xuân năm sau. Sang mùa Xuân
năm sau, càng nghiêm trọng hơn. V́ sao có căn bệnh ấy?
Phật pháp nói đến “nhân, duyên, quả báo”. Tuy người
thế gian chẳng nói, nhưng trong các tôn giáo đều có
nói, Đạo giáo cũng nói rất nhiều, cũng rất
tường tận. Đối với phi cầm tẩu
thú (chim bay, thú chạy), quư vị chẳng từ bỏ thủ
đoạn nào để bắt giết chúng, dùng đủ
mọi cách để nấu nướng, ḥng thỏa măn
cái thói tham ăn của chính ḿnh. Quư vị có nghĩ những
chúng sanh ấy sẽ báo thù hay không? Chúng nó có cam tâm t́nh nguyện
bị quư vị mổ xẻ, giết chóc hay không? Chúng nó có
cam ḷng t́nh nguyện cúng dường thịt ḿnh cho quư vị
hay không? Nếu chúng nó chẳng cam tâm, chẳng t́nh nguyện,
sẽ trở thành chuyện phiền phức rồi! Chúng
nó trả thù bằng ôn dịch!
V́
thế, phàm nhân cứ ngỡ lũ lụt, hỏa tai,
động đất, băo lốc đều là tai nạn tự
nhiên, dường như chẳng dính líu ǵ đến hành vi
trong cuộc sống của loài người chúng ta!
Nhưng trong Phật pháp, từ mấy ngàn năm trước,
đức Thế Tôn đă thường dạy: “Hết thảy các pháp sanh từ
tâm tưởng”. Hỏa tai là một pháp trong hết thảy
các pháp, lũ lụt cũng là một loại trong hết
thảy các pháp, băo tố vùng Thái B́nh Dương, băo tố
vùng Đại Tây Dương, lốc xoáy (tornado, ṿi rồng)
cũng là một trong hết thảy các pháp, động
đất, sóng thần (tsunami) vẫn là một pháp trong hết
thảy các pháp. Hết thảy các pháp đều sanh từ
tâm tưởng. Ôn dịch cũng thuộc trong hết thảy
các pháp, chẳng vượt ra ngoài hết thảy các pháp,
thế mà hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng,
vậy th́ [những tai nạn trên đây] có quan hệ với
chúng ta hay không?
Đức
Phật lại nói rất hay: “Y
báo chuyển theo chánh báo”. Y báo là hoàn cảnh sống của
chúng ta. Chánh báo là khởi tâm động niệm của
chúng ta. Nếu quư vị hiểu rơ câu nói này, mới hiểu
Cực Lạc và Sa Bà chẳng hai! Pháp “chẳng hai” là
như thế nào? Nếu cư dân trên địa cầu,
tâm mỗi người đều thuần tịnh thuần
thiện, y báo liền biến thành thế giới Cực Lạc.
Thế giới Cực Lạc chẳng có ǵ khác, người
nơi ấy toàn là người niệm Phật, tâm địa
thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần. Nếu toàn
thể người trên địa cầu này đều là
người niệm Phật, địa cầu này sẽ
biến thành thế giới Cực Lạc, chẳng khác ǵ thế
giới Cực Lạc được nói trong kinh điển.
Đại địa liền biến thành lưu ly, chẳng
phải là đất, cát. Khắp mọi nơi đều
là bảy báu, đường sá chẳng trải nhựa
đường mà bằng vàng ṛng, “hoàng kim vi địa” (vàng ṛng làm đất). Vàng
ṛng để trải đường, đường sá
lót bằng vàng. Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng,
y báo chuyển theo chánh báo. Đó là do cộng nghiệp cảm
vời!
Hiện
thời, đối với cộng nghiệp, chúng ta chẳng
có cách nào. Ai nấy đều biết người trong thế
giới Sa Bà khởi tâm động niệm không ǵ chẳng
phải là tội, v́ sao? Khởi tâm động niệm
đều là Thập Ác: Thân giết, trộm, dâm. Khẩu
nói dối, nói đôi chiều, nói thêu dệt, ăn nói thô
ác. Ư niệm th́ tham, sân, si. Khởi tâm động niệm
toàn là Thập Ác. Tự tư tự lợi, tiếng
tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần,
tham, sân, si, mạn, đáng hăi quá! Do những ư niệm ấy
biến chuyển y báo thành những ǵ chúng ta nay đang phải
tiếp nhận! Trong kinh này, đức Phật sẽ dạy
chúng ta chuyển cảnh giới như thế nào,
phương pháp quá tốt đẹp!
Tam
nghiệp là thân, khẩu, ư. “Tùy
sự” là trong cuộc sống hằng ngày. Cuộc sống
vật chất và cuộc sống tinh thần. “Duyên” (緣) là nhân sự, “lịch” (歷) là trải qua. Từ
sáng đến tối, lục căn của chúng ta tiếp
xúc cảnh giới bên ngoài, đó là “sở hành”. Câu kế tiếp, “xảo nguyện pḥng phi” (nguyện khéo léo để
ngăn ngừa sai trái). Một
trăm bốn mươi mốt bài kệ trong phẩm kinh
này chính là một trăm bốn mươi mốt nguyện.
Trong tương lai, quư vị đọc đến phần
kinh văn, sẽ thấy câu thứ hai [trong mỗi bài kệ]
là “đương nguyện
chúng sanh” (hăy nên nguyện cho chúng sanh). Đă nguyện cho
chúng sanh, đương nhiên thứ nhất sẽ là nguyện
cho chính ḿnh. Bài kệ thứ nhất là “Bồ Tát tại gia, đương nguyện chúng
sanh, tri gia tánh không, miễn kỳ bức bách” (Bồ Tát
ở nhà, nguyện cho chúng sanh, biết nhà tánh không, khỏi
bị bức bách). Câu thứ hai trong mỗi bài kệ đều
là “đương nguyện
chúng sanh”, người ấy (người hành Bồ Tát
đạo) chẳng nguyện cho chính ḿnh, mà nguyện cho
chúng sanh. Nói “chúng sanh”, chính
ḿnh cũng là một trong các chúng sanh, đă bao gồm,
nhưng nói chính ḿnh th́ chẳng thể bao gồm người
khác. “Chúng sanh” là hết thảy
chúng sanh trọn khắp pháp giới hư không giới. Quư
vị nói xem: Tâm lượng này to cỡ nào! Phổ Hiền
tâm, Phổ Hiền nguyện, Phổ Hiền Hạnh, đều
kiến lập từ chỗ này. “Xảo” (巧) là phương tiện hay khéo, là trí huệ
chân thật. Hễ sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu
trần, Phổ Hiền Hạnh Nguyện bèn thuận theo
đó mà hiện tiền. “Phi”
(非) là lầm
lỗi, nguyện tâm này sanh khởi, lỗi lầm sẽ
chẳng c̣n nữa!
“Ly quá thành đức” (Ĺa lỗi
để thành tựu đức). Đức (德) là ǵ? Hoàn toàn thuận theo pháp tắc thiên
nhiên, cũng có nghĩa là “tùy
thuận Tánh Đức”, Tánh Đức tự nhiên
lưu lộ. Quư vị chẳng có nguyện tâm ấy là do
đă mê mất Tánh Đức. Chẳng mê, niệm nào
cũng đều tương ứng với Tánh Đức,
đó gọi là “thanh tịnh”.
Thanh tịnh là Tánh Đức. Chúng ta đă học rất
nhiều: Chân thành là Tánh Đức, thanh tịnh là Tánh Đức,
b́nh đẳng là Tánh Đức, chánh giác là Tánh Đức,
từ bi là Tánh Đức. Tánh Đức vô lượng vô
biên, nói chẳng cùng tận. Đúng là “ngôn ngữ dứt bặt, tâm hành xứ diệt”.
Đức Phật hết sức từ bi, đă nói mười
chữ. “Mười” là
đại viên măn, nhằm biểu thị pháp: Tánh Đức
vô lượng vô biên. Tự tánh khởi tác dụng, nói chung
chẳng ĺa khỏi năm câu sau đây: “Chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ
bi”. Chúng ta phải dùng cái tâm như vậy để
đối đăi hết thảy chúng sanh. Chúng ta phải
dùng cái nguyện ấy, hy vọng hết thảy chúng sanh
đều có thể trở về Tánh Đức.
Chính
ḿnh tu hành là sửa đổi những hành vi bất thiện,
hẹp ḥi, lệch lạc, sai sót của chính ḿnh. Tư
tưởng và hành vi của phàm phu do mê mất tự tánh,
cũng chính là mê mất “chân
thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi”.
Chư vị hăy ngẫm xem, nếu quư vị trọn đủ
chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi, có
cần học Đệ Tử Quy hay không? Khởi tâm động
niệm, ngôn ngữ, tạo tác, sẽ tự nhiên là Đệ
Tử Quy. Vốn là t́nh trạng ấy, tự nhiên là
như vậy, hiện thời hoàn toàn tương phản
với nó. Đó gọi là “mê mất
tự tánh”. Tự tánh vốn sẵn có trí huệ, bị
biến thành phiền năo, biến thành vọng tưởng.
Sau khi mê mất, đă biến Tánh Đức và Thập Thiện
Nghiệp mà chính ḿnh vốn có thành ác nghiệp: Thân giết,
trộm, dâm, miệng nói dối, nói đôi chiều, biến
thành ác nghiệp. Chân thành biến thành hư ngụy, thanh tịnh
biến thành ô nhiễm, b́nh đẳng biến thành ngạo
mạn, chánh giác biến thành mê hoặc, từ bi biến
thành tự tư tự lợi. Đó là mê mất tự
tánh. V́ thế, hiện thời nghe giáo huấn của Phật,
Bồ Tát, chúng ta đều cảm thấy tốt đẹp,
có lư, đều tán thán, đều gật đầu,
nhưng chẳng làm được!
Tổ
sư đại đức thường dạy chúng ta: Quư
vị phải t́m cho ra nguyên nhân v́ sao chẳng làm được;
trừ khử cái nguyên nhân ấy, quư vị sẽ làm
được! Nói lời ấy rất đúng! Chúng ta phải
thường suy nghĩ: V́ sao ta chẳng làm được
Đệ Tử Quy? Quư vị t́m ra nguyên nhân; sau đấy,
tiêu trừ nguyên nhân, quư vị sẽ làm được rất
dễ dàng. Có t́m được nguyên nhân hay không? Nếu chẳng
t́m thấy ư? Hăy đọc sách cổ cho nhiều! Trong
sách cổ thường có chỉ dạy, nhưng chính quư vị
vô ư, ơ hờ, cho nên chẳng biết. Tất cả hết
thảy mê hoặc, điên đảo, lầm lỗi, đều
có cái nhân căn bản. Quư vị đă mê nơi cái nhân ấy.
Tôi nói với quư vị, bản thân quư vị hăy nghĩ xem
có đúng hay không nhé? Cái nhân ấy, nói chung, nói tổng quát
th́ như người hiện thời hay nói: Quư vị chẳng
có tâm yêu thương! Quư vị có thừa nhận hay không?
Điều thứ nhất, quư vị chẳng yêu
thương chính ḿnh. Chẳng yêu thương chính ḿnh, làm
sao có thể yêu thương người khác cho được?
Do
vậy, truyền thống giáo học của Trung Hoa từ
xưa, trước hết là dạy điều này, “phụ tử hữu thân” (cha
con có t́nh thân thiết). Trong các buổi giảng, chúng tôi
đă nói quá nhiều lần, nhưng quư vị chẳng chú
ư. Đấy là nguyên điểm (原點, điểm
gốc, điểm khởi đầu, điểm bắt
nguồn), là căn bản của căn bản trong nền
giáo dục Trung Hoa. T́nh thân ái giữa cha và con chính là Tánh
Đức, chẳng kèm thêm bất cứ điều kiện
nào. Đó là chân thành. Chân thành thân ái, thanh tịnh thân ái, b́nh
đẳng thân ái, chánh giác thân ái, từ bi là thân ái. Do quư vị
đă mê mất, cho nên hiện thời chẳng biết yêu
thương chính ḿnh, há có thể yêu người khác
được ư? Biết yêu thương chính ḿnh, biết
yêu thương hết thảy chúng sanh, lẽ nào chẳng
làm được? Khởi tâm động niệm, ngôn ngữ
và tạo tác của quư vị tự nhiên hoàn toàn phù hợp.
Quư vị hăy ngẫm xem có phải là đạo lư ấy hay
không? Chúng ta lại xem đoạn thứ hai kế đó.
(Sớ)
Hựu bi trí song vận, danh vi Sở Hạnh. Hạnh việt
phàm tiểu, cố xưng thanh tịnh. Dĩ Nhị Thừa
vô lậu, bất năng kiêm lợi, phi chân tịnh cố.
(疏)又悲智雙運,名為所行,行越凡小,故稱清淨。以二乘無漏,不能兼利,非真淨故。
(Sớ: Lại
nữa, vận dụng cả Bi lẫn Trí nên gọi là Sở
Hạnh. Hạnh vượt trỗi phàm phu và Tiểu Thừa,
nên gọi là thanh tịnh. Bởi lẽ, Nhị Thừa tuy
vô lậu, chẳng thể lợi ích kẻ khác, nên chẳng
phải là chân tịnh).
Tầng
ư nghĩa này sâu hơn tầng phía trước. Phần
trước là khái luận, ở đây, chuyên nói về Bồ
Tát Hạnh. “Bi trí song vận”:
Bi (悲) là
thương xót chính ḿnh, cũng như thương xót chúng
sanh. Chính ḿnh luân lạc trong lục đạo, luân hồi
bao kiếp dài lâu. Thế mà chính ḿnh rốt cuộc bất
tri bất giác, chẳng có trí huệ. Trong đời này, có
duyên được làm thân người, gặp Phật
pháp, nghe kinh, học giáo, trí huệ mở mang đôi chút, hiểu
rơ đôi chút, mới cảm thấy chính ḿnh phải luân hồi
bao kiếp dài lâu thật đáng buồn! Thấy đông
đảo chúng sanh bất giác, tự nhiên sanh khởi bi
tâm, tâm thương xót, thương xót chính ḿnh,
thương xót hết thảy chúng sanh. Bi là động lực
thúc đẩy chúng ta mong cầu trí. Trí lại giúp tăng
trưởng cái tâm đại từ bi của chúng ta.
Những
kẻ sơ cơ học Phật b́nh phàm, tâm từ bi vừa
mới sanh khởi bèn thương xót chính ḿnh: Cớ sao
luân hồi trong lục đạo chịu đựng nỗi
khổ oan uổng như thế? Hằng ngày tạo nghiệp,
chính ḿnh cũng chẳng biết. Sau khi đă hiểu rơ,
chính ḿnh không ngừng sửa đổi, đoạn ác, tu
thiện. Đây chẳng phải là chuyện ngày một,
ngày hai, mà là chuyện đoạn ác tu thiện trong thời
gian dài lâu. Kể từ sơ phát tâm trong hiện thời
cho đến khi nào? Cho đến địa vị Như
Lai. Đẳng Giác Bồ Tát c̣n có lầm lỗi, vẫn phải
sửa lỗi, đổi mới, phải biết điều
này! Đẳng Giác Bồ Tát c̣n có một phẩm Sanh Tướng
Vô Minh chưa phá. Đấy chính là lỗi lầm của
Ngài. Những việc làm của Ngài đều do ba nghiệp
thân, ngữ, ư tạo tác, chẳng thể đạt đến
viên măn rốt ráo, c̣n kém một phần! Huống hồ
chúng ta thuộc địa vị phàm phu, ngay cả địa
vị Sơ Tín c̣n chưa chứng đắc, chớ nên
không biết sự thật này. Người đă thật sự
hiểu rơ, tức là trí huệ đă mở mang, mới thật
sự chịu dụng công, hạ quyết tâm mong thoát ly lục
đạo luân hồi, mong thoát ly mười pháp giới.
Đấy là ǵ? Đấy chính là Trí. Xác thực là trí huệ
dấy lên hiện hành, khởi tác dụng, người ấy
mới có nguyện tâm to tát dường ấy! Trong một
đời này, có thể thành tựu hay không? Có nguyện tâm
ấy, có nghĩa là “tâm có thừa,
nhưng chẳng đủ sức”. Đoạn phiền
năo tập khí, há là chuyện dễ dàng ư? Phiền năo tập
khí do vô lượng kiếp huân tập tạo thành, quư vị
có thể đoạn được hay không?
Xác
thực là đức Phật từ bi đến cùng tột,
đă chỉ dạy chúng ta pháp môn “đới nghiệp văng sanh” này. Kinh Hoa Nghiêm là bộ
kinh đầu tiên. Quư vị nhất định phải biết,
Thích Ca Mâu Ni Phật thành đạo, kinh Hoa Nghiêm được
giảng trong Định. Bọn phàm phu chúng ta thấy Thích
Ca Mâu Ni Phật tĩnh tọa dưới cội Bồ
Đề, thời gian ngồi rất lâu, “nhị thất nhật trung” (trong mười bốn
ngày). Tức là trong hai tuần lễ, Ngài ngồi bất
động tại đó, chẳng ăn, chẳng uống
suốt hai tuần lễ. Có chỗ nói là “tam thất nhật trung” (trong hai mươi mốt
ngày) để giảng Hoa Nghiêm, “tam
thất” là hai mươi mốt ngày. Chúng ta có thể tin
tưởng chuyện này, chẳng hoài nghi. V́ sao? Lăo ḥa
thượng Hư Vân lăo nhân gia đă có lần nhập
Định hơn một tháng mới xuất Định.
Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, nhập Định
hai mươi mấy ngày, phải nên biết là chuyện rất
b́nh thường. “Tam thất”
là hai mươi mốt ngày, “nhị
thất” là mười bốn ngày, ở trong Định.
Chúng ta thấy Ngài đang nhập Định, trên thực
tế, Ngài đang giảng Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh, thính chúng là bốn mươi mốt
địa vị Pháp Thân đại sĩ. Nếu quư vị
chẳng có năng lực ấy, sẽ chẳng thể nhập
Định tham gia đại hội hoằng pháp của
Thích Ca Mâu Ni Phật. Quư vị phải có năng lực ấy
th́ mới có thể tham gia.
Do
vậy, hiện thời, hàng Tiểu Thừa chẳng tin,
chẳng thừa nhận. Họ chưa hề thấy, chẳng
trông thấy. V́ thế, họ nói “Đại Thừa chẳng phải do đức Phật
nói”. Trước hết, họ phản đối, [phủ
nhận] kinh Hoa Nghiêm do đức Phật nói. [Họ cho rằng]
kinh Hoa Nghiêm do Long Thọ Bồ Tát soạn ra, giả mạo
danh nghĩa Thích Ca Mâu Ni Phật. Trong long cung, Long Thọ Bồ
Tát đă thấy kinh này. Sau khi kinh này được giảng
xong, Đại Long Bồ Tát thu thập, đưa về
long cung cúng dường. Phân lượng quá ư là lớn!
Kinh Hoa Nghiêm hiện thời chính là lược thuật những
điểm trọng yếu trong mục lục của kinh
Hoa Nghiêm [thật sự trong long cung], giống như sách Mục
Lục Đề Yếu của Tứ Khố Toàn Thư vậy.
Hiện thời, Tứ Khố Toàn Thư được ấn
hành với số trang rút nhỏ, bản thu gọn, gồm
một ngàn năm trăm tập. Mục Lục Đề
Yếu gồm năm tập. Hiện thời, chúng ta đọc
kinh này, chính là đọc phần Mục Lục Đề
Yếu [của kinh Hoa Nghiêm]. Nói cách khác, mỗi câu đều
là một vấn đề thảo luận. Nội dung kinh
hết sức phong phú, từng câu, từng chữ đều
bao gồm vô lượng nghĩa.
Câu
này nói về ư nghĩa của chữ Sở Hạnh. Phải
hiểu rơ mối quan hệ giữa Bi và Trí. Nay chúng ta chẳng
thể phát ra Bi tâm là do chẳng có trí huệ. Hễ trí huệ
chẳng sanh khởi, sẽ chẳng có bi tâm (chẳng có tâm
từ bi). Hai điều ấy giúp đỡ nhau cùng thành tựu.
“Hạnh việt phàm tiểu, cố
xưng thanh tịnh” (Hạnh vượt trỗi phàm phu
và Tiểu Thừa, nên gọi là thanh tịnh). “Hạnh” (行) là hành
vi. Khởi tâm động niệm là hành vi nơi ư nghiệp,
ngôn ngữ là hành vi nơi khẩu nghiệp, thân tạo tác
là hành vi nơi thân. Hành vi nơi ba nghiệp thân, ngữ, ư.
Hành vi nơi tam nghiệp của Bồ Tát vượt trỗi
phàm phu, tức phàm phu trong lục đạo. Vượt trỗi
Tiểu Thừa, Tiểu Thừa là Thanh Văn, Duyên Giác. Hạnh
của phàm phu là do cái tâm luân hồi tạo cái nghiệp luân
hồi. Trong cái tâm luân hồi có thiện, ác, vô kư (không thiện,
không ác). Thiện tâm, thiện hạnh cảm vời phước
báo nhân thiên, sanh trong ba thiện đạo; ác niệm, ác hạnh
cảm tam đồ khổ báo, địa ngục, ngạ
quỷ, súc sanh, chẳng thanh tịnh! Cơi trời cũng chẳng
thanh tịnh, chẳng thoát khỏi lục đạo luân hồi,
lấy đâu ra thanh tịnh? Hưởng hết phước
trời, nhất định sẽ đọa lạc, họ
(chư thiên) chẳng có cách nào thăng lên, nhất định
là phải đọa lạc. Hưởng hết phước
báo trong nhân gian, chẳng biết làm lành, chẳng biết
tích đức, hễ hưởng hết phước báo,
nhất định sẽ đọa trong tam đồ, lấy
đâu ra thanh tịnh? Tiểu Thừa tuy thoát khỏi lục
đạo luân hồi, chẳng vượt khỏi mười
pháp giới, chẳng phải là thật sự thanh tịnh.
Do vượt trỗi Tiểu Thừa, nên gọi là “thanh tịnh”.
Chúng
ta lại thấy câu kế đó nói: “Dĩ Nhị Thừa vô lậu, bất năng kiêm lợi,
phi chân tịnh cố” (Do Nhị Thừa tuy vô lậu,
nhưng chẳng thể lợi ích người khác, cho nên
chẳng phải là chân tịnh). Đây là sợ có kẻ
nghi hoặc: A La Hán và Bích Chi Phật đă vượt thoát
lục đạo luân hồi, lẽ nào chẳng thanh tịnh?
Kinh Phật nói các vị ấy đều đă chứng
đắc quả báo vô lậu. Món cuối cùng trong sáu loại
thần thông là Lậu Tận Thông. Lậu (漏) là tên gọi
khác của phiền năo; “lậu
tận” (漏盡) là
đoạn hết phiền năo. Phiền năo được
nói ở đây chính là Kiến Tư phiền năo, chúng tôi
thường nói theo kinh Hoa Nghiêm là “vọng tưởng, phân biệt, chấp trước”,
Kiến Tư phiền năo là chấp trước. Đối
với hết thảy các pháp thế gian và xuất thế
gian, chẳng c̣n chấp trước nữa, nhưng thế
nào? Chẳng đủ trí huệ, chẳng đủ
năng lực, chẳng thể kiêm lợi (兼利, làm lợi ích cho người khác). Những
vị ấy chỉ có thể tự lợi, chẳng thể
kiêm lợi.
Chúng
tôi phải giải thích rơ ràng câu này: A La Hán có độ
chúng sanh hay không? Có độ, chẳng phải hoàn toàn là tự
tư tự lợi. Các vị ấy cũng độ chúng
sanh, nhưng chẳng giống như Bồ Tát! Các vị ấy
độ chúng sanh, quư vị t́m đến các Ngài, các Ngài sẽ
dạy quư vị. A La Hán có thần thông, nhất định
sẽ quan sát quư vị. Thần thông của A La Hán có thể
biết năm trăm đời trong quá khứ, năm
trăm đời vị lai. Có năng lực to tát như
thế, xét xem trong năm trăm đời quá khứ, quư vị
có thiện căn hay không? Có thiện căn th́ các Ngài dạy
quư vị. Chẳng có thiện căn, sẽ không dạy. Có
duyên với các Ngài, các Ngài sẽ dạy quư vị. Chẳng
có duyên, chẳng dạy quư vị, chẳng giống như
Bồ Tát. Bồ Tát chẳng có điều kiện! Quư vị
chẳng t́m đến Bồ Tát, Bồ Tát t́m đến
quư vị. Từ kinh Vô Lượng Thọ, chúng ta đă
đọc thấy: “Bồ Tát
tác bất thỉnh chi hữu” (Bồ Tát làm bạn chẳng
mời). Cầu học th́ quư vị phải tới chỗ
thầy để cầu, tôn sư trọng đạo th́
quư vị mới có thể học điều chi đó!
Nhưng Bồ Tát chẳng vậy, Bồ Tát làm “bạn chẳng mời”. Quư vị
chẳng cầu Ngài, Ngài chủ động t́m tới quư vị.
Khó có lắm, đó gọi là “kiêm
lợi”.
Bồ
Tát đến t́m quư vị, quư vị chẳng tiếp nhận
th́ làm như thế nào? Chẳng tiếp nhận, các Ngài
cũng mong gieo thiện căn cho quư vị, khiến cho
trong A Lại Da Thức của quư vị có chủng tử
Phật, gieo thiện căn xuống! Bài xích, cự tuyệt,
căn bản là chẳng tin tưởng, thậm chí nhục
mạ Ngài, Ngài chỉ cười mà thôi. Chủng tử Phật
trong A Lại Da Thức vĩnh viễn chẳng ṃn diệt.
Nói không chừng, vài năm sau, [sẽ nghĩ lại]:
“Người ấy cũng được quá đi chớ!
Tuy ta vũ nhục hắn, hắn cũng chẳng tức
giận, rất có tu dưỡng, rất khó có!” Vậy th́
thiện căn của quư vị bèn tăng trưởng,
nói không chừng là trong đời kế tiếp, nói không chừng
là trong đời sau nữa, gặp duyên, quư vị cũng
rất ưa thích Phật pháp. V́ thế, Ngài đă gieo duyên,
gieo nhân Phật pháp cho quư vị. [Quư vị] chẳng có
duyên, bèn kết duyên cho quư vị. Có duyên th́ sẽ giúp quư vị
tăng trưởng, giúp quư vị tăng tấn. Đă
tăng trưởng, bèn giúp cho quư vị chín muồi.
Bồ
Tát độ chúng sanh là chủ động, “ngàn xứ khẩn cầu, ngàn xứ ứng”, chỉ
cần chúng sanh có cảm. Có khi chúng sanh cảm mà chính họ
cũng không biết, có khi tự ḿnh biết đang cảm,
cầu Phật, Bồ Tát. Có khi tự ḿnh hoàn toàn chẳng
biết. V́ thế, đối với chuyện cảm ứng
này, trong phần trước, chúng tôi đă nói tỉ mỉ
vài lượt. Có bốn loại: Hiển cảm hiển ứng
(cảm và ứng đều rơ rệt), hiển cảm minh
ứng (cảm rơ rệt, ứng âm thầm), minh cảm hiển
ứng (cảm âm thầm, ứng rơ rệt), minh cảm minh
ứng (cảm và ứng đều ngấm ngầm). Cảm
ứng đạo giao chẳng thể nghĩ bàn! [Xét theo]
điểm này, Nhị Thừa chẳng bằng Bồ Tát,
Bồ Tát chủ động độ chúng sanh, chẳng
câu nệ bất cứ điều kiện nào! Nhưng nếu
chỗ quư vị có rất nhiều người học Phật,
học Phật th́ quư vị phải hiểu nghi thức,
quy củ trong nhà Phật, biết tôn sư trọng đạo,
nhất định phải “thỉnh
chuyển pháp luân”, tức là phải lễ thỉnh thầy
đến chỗ ấy giảng kinh, thuyết pháp cho chúng
ta! Phải lễ thỉnh! Chẳng lễ thỉnh mà chính
vị ấy đến là do nơi ấy chẳng có
người hiểu Phật pháp, chẳng cần thỉnh
mà vị ấy đến. Chúng ta phải biết điều
thường thức này. Nếu chúng ta hiểu Phật
pháp, phải nên cung kính khải thỉnh. Chẳng có ai hiểu,
trong tâm chúng ta mong muốn: “Có thể nào có một vị
pháp sư tới giảng kinh cho chúng tôi th́ hay quá”. Vị ấy
sẽ tới, chẳng ai biết, cũng chẳng có ai hiểu
quy củ. Điều này được diễn tả là: “Phật pháp coi trọng thực
chất, chẳng coi trọng h́nh thức”, thật vậy!
Nói
theo sự giáo hóa chúng sanh th́ chẳng thể thiếu h́nh thức
được! H́nh thức nhằm dành cho những người
chẳng học Phật, hoặc kẻ c̣n chưa tiếp
xúc Phật giáo, làm cho họ thấy, tác động đến
thiện căn của họ, khiến cho họ sau khi
đă thấy h́nh thức ấy, sẽ sanh tâm hoan hỷ, sẽ
tiến nhập Phật môn. Do vậy, h́nh thức là một
loại phương tiện nhằm tiếp dẫn chúng
sanh, tác động tới thiện căn trong quá khứ của
họ. Hiện thời, nói đó là một thứ
phương pháp, cũng được. Phương tiện
thiện xảo mà! Nhị Thừa chẳng có loại Bi và
Trí ấy. Do vậy, nói: Nhị Thừa chẳng phải là
thanh tịnh thật sự. Nay đă hết thời gian rồi,
chúng tôi giảng tới chỗ này.
Tập 1464
Chư vị
pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi
xuống. Xin xem phần Thích Danh của phẩm thứ
mười một, tức phẩm Tịnh Hạnh. Xem
đoạn cuối của phần Thích Danh trong lời Sớ
của Thanh Lương đại sư. Chúng tôi đọc
kinh văn một lượt.
(Sớ)
Đắc tư ư giả, cử túc, hạ túc, tận
Văn Thù tâm, kiến văn giác tri, giai Phổ Hiền Hạnh.
Văn Thù tâm cố, tâm vô trược loạn, thị viết
thanh tịnh. Phổ Hiền Hạnh cố, thị Phật
văng tu, chư Phật, Bồ Tát đồng sở hành dă. Sở
hành tức tịnh.
(疏)得斯意者,舉足下足,盡文殊心,見聞覺知,皆普賢行。文殊心故,心無濁亂,是曰清淨。普賢行故,是佛往修,諸佛菩薩同所行也,所行即淨。
(Sớ: Hiểu
ư nghĩa ấy, giở chân, đặt chân đều trọn
hết cái tâm Văn Thù, thấy, nghe, hay, biết, đều
là Phổ Hiền Hạnh. Do là tâm Văn Thù, nên tâm chẳng
có nhơ bẩn, rối loạn, cho nên nói là thanh tịnh.
Do Phổ Hiền Hạnh chính là những ǵ Phật đă
tu trong quá khứ, chư Phật, Bồ Tát cùng hành. Những
điều được hành chính là tịnh).
Đoạn
này nói rất hay, lại c̣n nói rất sâu! Nói đến cảnh
giới Hoa Nghiêm. Trước hết, Thanh Lương đại
sư bảo: “Đắc
tư ư giả” (đạt được ư ấy): Chữ
Đắc (得)
nghĩa là quư vị thật sự thông hiểu, thấu hiểu
nghĩa thú trong lời đức Phật dạy. Đối
với ư nghĩa và mục đích hướng đến
trong lời đức Phật dạy, nếu quư vị có
thể thật sự thông đạt, hiểu minh bạch;
sau đấy, hành vi trong cuộc sống hằng ngày của
quư vị sẽ tự nhiên là học Phật. Giống
như trẻ thơ học theo cha mẹ, thật sự hiểu
được, hằng ngày thấy, hằng ngày nghe, hiểu
rơ. Do hiểu rơ, chúng ta sống cuộc đời của
Phật, Bồ Tát, đó là “phá
mê, khai ngộ”, là “siêu phàm nhập
thánh”.
Siêu
phàm nhập thánh ngay trong cuộc sống hằng ngày, cuộc
sống có thay đổi hay không? Chẳng thay đổi! Vẫn
mặc áo, ăn cơm y hệt! Ở trong cảnh phú quư,
bèn sống cuộc đời phú quư. Gặp cảnh bần
tiện, sống cuộc đời nghèo hèn của chính
ḿnh. Siêu phàm nhập thánh chẳng liên quan ǵ đến bần
tiện, phú quư. Chỗ khác nhau là ǵ? Chỗ khác nhau là tâm
khai, ư giải, vui sướng khôn sánh. Trong cuộc sống
của quư vị, chẳng có ưu lự, chẳng có khổ
năo, phiền năo mỗi ngày một ít, trí huệ mỗi ngày
một tăng trưởng, sung sướng thay! Đúng
như Phu Tử đă nói: “Học
nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ?”
(Học rồi tập luyện, cũng chẳng vui sao?). “Duyệt” (悅) là vui
sướng, từ bên trong nội tâm thấu lộ ra
ngoài, giống như nước suối [từ mội
nước liên tục trào ra]. [Niềm vui sướng của]
người ấy chẳng phải là niềm vui sướng
do từ những kích thích bên ngoài, mà là từ trong nội
tâm lưu xuất, vĩnh viễn chẳng ngừng! Do vậy,
nhà Phật nói “pháp hỷ sung
măn”, thường sanh tâm hoan hỷ. Điều này phải
là bậc Bồ Tát đă đạt tới minh tâm kiến
tánh mới làm được, quyết định chẳng
có phiền năo và tập khí. Chẳng giống như A La Hán,
tuy A La Hán đă đoạn Kiến Tư, nhưng biểu
hiện trong cuộc sống hằng ngày c̣n có tập khí. Vị
này hoàn toàn chẳng có tập khí! Đấy là “đắc tư ư giả” (hiểu
được ư nghĩa ấy).
“Cử túc, hạ túc” (Giở
chân, đặt chân) là nói tới chuyện đi lại. “Tận Văn Thù tâm”, Văn
Thù Bồ Tát là tâm ǵ? Trong kinh Hoa Nghiêm, đóng vai tṛ rất
quan trọng chính là hai vị Bồ Tát ấy. Văn Thù tâm,
Phổ Hiền nguyện, hai vị này đại diện cho
toàn thể Hoa Nghiêm. “Văn Thù
tâm” là Thập Ba La Mật, [“cử
túc, hạ túc”] có nghĩa là ǵ? Từng bước đều
chẳng quên Thập Ba La Mật. Bố Thí, Tŕ Giới, Nhẫn
Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, Bát Nhă, những
điều này thường gọi là Lục Ba La Mật. Từ
Bát Nhă, lại triển khai thành Phương Tiện, Nguyện,
Lực, và Trí, [cộng với sáu điều trước
thành] Thập Ba La Mật. Từ bốn món Ba La Mật
Phương Tiện, Nguyện, Lực, và Trí, trong giáo pháp
Đại Thừa thường nói là “thiện xảo phương tiện”, tức là
Bát Nhă Ba La Mật khởi tác dụng. Nói đến Thập
Ba La Mật, Bát Nhă Ba La Mật là Thể, bốn món sau là Dụng.
Có Thể bèn có Dụng. Bát Nhă Ba La Mật là Căn Bản
Trí, bốn điều sau đó là Hậu Đắc Trí.
Cũng có thể nói, Bát Nhă Ba La Mật là Thật Trí (真實, trí huệ chân thật), bốn điều
sau đó là Quyền Trí (權智, trí huệ
quyền biến), Quyền và Thật đối ứng.
Khi nào th́ trí huệ đáng nên khởi tác dụng như thế
nào, sẽ chẳng sai lầm mảy may! Lợi ích trọn
khắp hết thảy hữu t́nh trong chín pháp giới, thực
hiện tận thiện, tận mỹ, chẳng có mảy
may khuyết điểm nào, nên nói là “tận”.
Trong
hội Hoa Nghiêm, Văn Thù Bồ Tát biểu thị Thập
Ba La Mật, Phổ Hiền Bồ Tát biểu thị mười
đại nguyện vương. Hai vị Văn Thù và Phổ
Hiền giao xen, giúp đỡ lẫn nhau. Trong Bố Thí có
mười nguyện Phổ Hiền, trong Tŕ Giới
cũng có mười nguyện Phổ Hiền. Mỗi
điều trong Thập Ba La Mật đều trọn
đủ mười nguyện Phổ Hiền. Mười
nguyện Phổ Hiền, điều thứ nhất là “lễ kính chư Phật”.
Trong lễ kính chư Phật, bao hàm viên măn Thập Ba La Mật
của Văn Thù Bồ Tát. “Xưng
tán Như Lai”, “quảng tu
cúng dường”, chẳng có một điều nào không
trọn đủ Thập Ba La Mật. Đấy gọi
là pháp Nhất Thừa, thù thắng hơn pháp Đại Thừa.
Trong pháp Đại Thừa, nói thông thường là Lục
Ba La Mật. Trong Bố Thí, nhất định bao gồm
Tŕ Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định,
Bát Nhă. Trong Tŕ Giới, nhất định có Bố Thí, Nhẫn
Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, Bát Nhă. Một
chính là sáu, sáu chính là một, nhưng trong ấy, chẳng có
mười nguyện Phổ Hiền. Trong kinh Hoa Nghiêm, mỗi
một môn [Ba La Mật] của Văn Thù Bồ Tát đều
trọn đủ mười nguyện Phổ Hiền,
khác hẳn! Nhất Thừa và Đại Thừa sai khác ở
chỗ này!
Nói
với chúng ta là đại tâm chúng sanh. Chúng ta là chúng sanh, chẳng
phải là thánh nhân, nhưng tâm lượng to lớn, “tâm bao thái hư, lượng châu
sa giới”. Khởi tâm động niệm bèn nghĩ v́
hết thảy chúng sanh trong trọn khắp pháp giới
hư không giới, nên gọi là “đại
tâm phàm phu”. Nghe Hoa Nghiêm, học Hoa Nghiêm, có thể nghe lọt
tai, có thể là nghe hiểu, hoặc có thể thấu hiểu
giáo nghĩa, có thể khế nhập cảnh giới. Chẳng
phải ai cũng là đại tâm phàm phu! Nói thật ra,
trong đời quá khứ, tuyệt đối chẳng phải
một đời, hai đời, ba đời, năm
đời, chẳng phải vậy! Mà là đă nhiều
đời nhiều kiếp từng nghe những kinh giáo Nhất
Thừa này. V́ thế, trong đời này, sau khi được
gặp gỡ, rất dễ dẫn phát thiện căn
trong đời trước, cho nên có tâm lượng to
dường ấy. Nghĩ đến chính ḿnh rất ít,
đều nghĩ v́ người khác, đều là “hy sinh, dâng hiến” như
người hiện thời hay nói. Bỏ ḿnh v́ người
khác, người ấy có tâm lượng này. Đấy
cũng là do thiện căn “tiếp xúc Đại Thừa,
tiếp xúc Nhất Thừa” trong đời trước dẫn
phát, cho nên cũng biến thành bậc đương cơ
của kinh Hoa Nghiêm, rất đáng mừng rỡ, cảm
thấy may mắn. Đó là tâm Văn Thù!
“Kiến, văn, giác, tri”: Thấy,
nghe, hay, biết là sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu
trần, đều là Phổ Hiền Hạnh. Sáu căn tiếp
xúc cảnh giới sáu trần, mười nguyện Phổ
Hiền tự nhiên sanh khởi. Trong khi chúng tôi giới thiệu
tựa đề kinh, [quư vị] đă thấy phần giới
thiệu [tựa đề kinh của] Thanh Lương
đại sư. Nếu chú tâm, chúng ta có thể thông hiểu
đôi chút: Pháp Nhất Thừa xác thực là chẳng thể
nghĩ bàn. Pháp Nhất Thừa thật sự quá khó có!
Đến đâu để t́m Nhất Thừa Bồ Tát?
Chúng ta thường nói “người
tốt bậc nhất trong thế gian”, chẳng có tự
tư tự lợi, chẳng có ganh tỵ, ngạo mạn,
chẳng có chính ḿnh, chỉ có người khác. Đấy
là căn tánh Nhất Thừa.
Kế
đó, [lời Sớ] nói: “Văn
Thù tâm cố, tâm vô trược loạn, thị viết
thanh tịnh” (Do cái tâm Văn Thù, tâm chẳng nhơ bẩn,
rối loạn, nên nói là “thanh tịnh”). Tâm chẳng nhiễm
trước. Quư vị thấy kinh Di Đà nói thế gian
này là “ngũ trược ác thế”.
Người ấy ở trong ngũ trược ác thế,
chẳng đắm nhiễm, đó là thanh tịnh, là công
phu định lực. “Bất
loạn”: Bất loạn là trí huệ, v́ sao bất loạn?
Như như bất động. Chính như kinh Kim Cang
đă dạy “bất thủ
ư tướng, như như bất động” (chẳng
giữ lấy tướng, như như bất động),
kinh Di Đà nói “nhất tâm bất
loạn”. Tâm vô trược loạn chính là nhất tâm bất
loạn, nhị tâm bèn trược loạn. Nhất tâm sẽ
chẳng trược, chẳng loạn. Định và Huệ
học cân bằng, Định và Huệ cùng vận dụng,
như trong phần trước đă nói là “Bi Trí song vận”. Định và Huệ cùng vận
dụng, đấy là thanh tịnh.
“Phổ Hiền Hạnh cố,
thị Phật văng tu”: Đối với Phổ Hiền
Hạnh, trước khi hết thảy chư Phật Như
Lai thành Phật, đều tu Phổ Hiền Hạnh. Chúng
ta biết [người ở] thế giới Cực Lạc
tu Phổ Hiền Hạnh. Từ kinh Vô Lượng Thọ,
chúng ta thấy hai vị trợ thủ của Hoa Tạng
thế giới Tỳ Lô Giá Na Phật là Văn Thù và Phổ
Hiền, chúng ta cũng thấy hai vị này [là bậc
thượng thủ] trong kinh Hoa Nghiêm. Do vậy, chúng ta hiểu:
Thế giới Hoa Tạng cũng tu Phổ Hiền Hạnh.
Do vậy, mục tiêu chung cực của sự tu hành ở
đây là Vô Thượng Bồ Đề. Đấy
cũng chính là như trong đoạn trước, trong phần
“lai ư” (ư nghĩa v́ sao có phẩm
kinh này) đă nói là “dục giai
diệu vị” (muốn đạt lên địa vị
mầu nhiệm). “Diệu vị”
là Vô Thượng Bồ Đề, là Phật quả rốt
ráo. Thế giới Cực Lạc là như thế, mà thế
giới Hoa Tạng cũng là như thế.
“Chư Phật, Bồ Tát đồng
sở hành dă” (Chư Phật, Bồ Tát cũng cùng hành). “Chư Phật” là Bồ Tát, Bồ
Tát là chư Phật, v́ Bồ Tát đang nói ở đây
chính là bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân
đại sĩ. Những vị Bồ Tát này là Phật thuộc
địa vị Phần Chứng. Tuy chẳng chứng
đắc rốt ráo, các Ngài thật sự quyết định
chẳng giả. Trí của các Ngài là chân thật, Giải là
thật, đức năng là thật, hoàn toàn là Tánh Đức
lưu lộ, chẳng giống mười pháp giới!
Trong mười pháp giới c̣n có A Lại Da Thức, tâm hiện,
thức biến, c̣n có chuyện này. Mười pháp giới
càng lên cao hơn, biên độ biến đổi càng nhỏ,
càng rất gần với Nhất Chân pháp giới. Càng
đi xuống, hướng đến lục đạo,
hướng đến tam đồ, khoảng cách càng xa,
biến hóa càng lớn, lớn đến nỗi ngay cả
Tánh Đức cũng không nhận biết. Càng hướng
lên trên, càng tiếp cận Tánh Đức. Đạo lư là
như thế đó.
Sau
khi quư vị đă hiểu đạo lư này, mới biết
chẳng thể không học “thánh
học”, tức là giáo huấn của thánh nhân. Trong các vị
thánh nhân, Phật quả viên măn rốt ráo, trong Phật pháp
gọi là Pháp Thân Phật, Báo Thân Phật, viên măn rốt ráo.
Thánh nhân thế gian chẳng ít. Chúng ta quan sát kỹ lưỡng
các vị thánh nhân trong nhiều tôn giáo, đặc biệt
là các vị sáng lập tôn giáo, Phật pháp coi họ đều
là Bồ Tát, tức Pháp Thân Bồ Tát! Ở đây nói là “chư Phật, Bồ Tát đồng
sở hành dă” (là những điều do chư Phật, Bồ
Tát cùng hành). Những điều do Phật, Bồ Tát hành,
há có lẽ nào chẳng thanh tịnh? Sở hành chính là Tịnh.
Chúng tôi giới thiệu phần Thích Danh đến đây.
Lại
xem đoạn thứ ba tiếp theo là phần Tông Thú. Tông (宗) là tông
chỉ (宗旨), tức
là cương lănh tu hành. Thú là thú hướng (趣向, hướng
về, đạt đến), tức là Quả. Tông là tu
hành, là nhân. Thú là nương theo phương pháp lư luận ấy
để tu hành, sẽ đạt được quả
báo như thế nào. Phải hiểu rơ điều này th́ mới
chẳng đến nỗi tu mù, luyện đui. Chúng ta hăy
xem Thanh Lương đại sư khai thị:
(Sớ)
Tông Thú giả, dĩ tùy sự xảo nguyện, pḥng tâm bất
tán.
(疏)宗趣者,以隨事巧願,防心不散。
(Sớ: Tông
Thú là dùng nguyện khéo thích ứng với Sự để
ngăn ngừa cái tâm, chẳng để bị tán loạn).
Nói hay lắm.
Tiếp đó, Ngài nói:
(Sớ)
Tăng trưởng Bồ Tát bi trí đại hạnh vi
Tông.
(疏)增長菩薩悲智大行為宗。
(Sớ: Tăng
trưởng đại hạnh bi trí của Bồ Tát là
Tông).
Nêu ra tông
chỉ. “Tăng trưởng Bồ
Tát bi trí đại hạnh”: Chúng ta đọc chữ Hạnh
theo giọng Khứ Thanh, không đọc là Xíng (Hành), mà
đọc Hèng (Hạnh). Hèng (Hạnh) là động từ,
Xíng (Hành) là danh từ, đọc Hạnh là [hiểu theo
nghĩa] động từ.
(Sớ)
Thành tựu Phổ Hiền thật đức vi Thú.
(疏)成就普賢實德為趣。
(Sớ: Thành
tựu thật đức của Phổ Hiền là Thú).
Nhân và quả
đều nêu ra. Thật đức của Phổ Hiền
Bồ Tát, đại hạnh của Văn Thù Bồ Tát. Thật
Đức của Phổ Hiền Bồ Tát là mười
đại nguyện vương. Bi trí đại hạnh của
Văn Thù Bồ Tát là Thập Ba La Mật. V́ thế, Tông Thú
tu hành của toàn thể kinh Hoa Nghiêm là hai mươi điều
ấy.
Thực
hiện viên măn Thập Ba La Mật và mười đại
nguyện vương, khởi sự từ chỗ nào? Bắt
đầu bằng phẩm kinh này. Do vậy, tôi nói: Phẩm
kinh này là Đệ Tử Quy trong pháp môn Nhất Thừa.
Nh́n theo mặt Sự, sẽ thấy dường như rất
đơn giản, nhưng ư nghĩa bao hàm trong ấy quá sâu,
sâu rộng vô tận, đều là trong cuộc sống hằng
ngày. Chúng ta làm mỗi ngày, nhưng mê chứ chẳng giác. V́
mê nên làm mỗi ngày, tà mà chẳng chánh. Quư vị có chuyển
hay không? Không biết chuyển, [cho nên] nhiễm chứ không
tịnh. Quư vị thấy các Ngài biết chuyển trong cuộc
sống, bất cứ chuyện ǵ cũng đều là
“giác, chánh, tịnh”. Hiện thời, đối với bất
luận khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo
tác của chúng ta từ sáng đến tối, hăy cẩn thận,
phản tỉnh, suy ngẫm, có phải thảy đều
là “mê, tà, nhiễm” hay không? Làm thế nào để chuyển
biến “mê, tà, nhiễm” thành “giác, chánh, tịnh”? Đấy
gọi là “chuyển phàm thành
thánh”. Vị thánh ấy chẳng phải là tiểu thánh,
mà là đại thánh, Pháp Thân Như Lai đấy nhé! Chẳng
phải là tiểu thánh, chẳng phải là Phật, Bồ
Tát trong mười pháp giới, mà là Phật, Bồ Tát trong
Nhất Chân pháp giới. Toàn bộ Thật Đức tức
mười nguyện của Phổ Hiền đều có
thể thực hiện.
Đệ
Tử Quy, Thập Thiện Nghiệp Đạo, Sa Di Luật
Nghi, tỳ-kheo giới, Bồ Tát giới quá cạn, giống
như nay quư vị đang học lớp tiến sĩ
trong chương tŕnh nghiên cứu sinh, nh́n lại vườn
trẻ (mẫu giáo), tiểu học, trung học, xem xét
tŕnh độ của bọn họ. Nhưng quư vị phải
hiểu: Lớp tiến sĩ cũng là học từ
vườn trẻ. Xây dựng vững vàng căn cơ
sơ học, tự nhiên là sẽ dễ dàng tiến cao
hơn. Sơ xểnh căn cơ sơ học, càng tiến
cao hơn, càng khó khăn, chớ nên không hiểu đạo
lư này! Ví như cất một căn nhà mà chẳng đắp
nền móng, quư vị chỉ có thể cất một cái
cḥi tranh, hoặc cḥi lá, chẳng thể xây một ṭa nhà lớn
được! [Cất một dinh thự lớn] sẽ sụp
đổ, nền đất chẳng thể chịu nổi.
Nhất định là phải xây dựng nền móng vững
vàng th́ mới có thể xây một ṭa nhà to, mới có thể
xây cao ốc. Nền móng chẳng xây kiên cố, xây nhà ba tầng,
năm tầng c̣n được, chứ xây mười tầng,
hai mươi tầng, chẳng được đâu nhé,
nhất định là sẽ đổ nhào! Do vậy, quư vị
thấy người dựng nhà, [phải cân nhắc] xem nền
móng có thể chịu nổi sức nặng bao nhiêu? Có thể
chịu được bao nhiêu tầng? Đạo lư là
như thế đó!
Nền
móng là ǵ? Đệ Tử Quy, Thập Thiện Nghiệp
Đạo, và Sa Di Luật Nghi là ba loại nền móng. Yêu cầu
nhất định hết sức nghiêm ngặt, trong
tương lai quư vị mới có thể cất cao ốc
một trăm tầng. Xây một trăm tầng là pháp Nhất
Thừa, là Phật quả rốt ráo viên măn. Do vậy,
sơ học chẳng nghiêm ngặt sao được? Chẳng
nghiêm, thành tựu của quư vị sẽ hữu hạn. Thầy
dạy tṛ phải tṛn hết trách nhiệm của người
thầy. Nếu thầy chẳng vun bồi căn cơ bền
vững cho tṛ, trong tương lai, nó chẳng có thành tựu
to lớn ǵ, thầy sẽ có lỗi với tṛ! Nhưng
trong hiện thời, xác thực là có chướng ngại.
Do đâu mà có chướng ngại? Chướng ngại do
nhân quyền! Nhi đồng có nhân quyền, cha mẹ chẳng
thể cai quản con nghiêm ngặt. Hiện thời, cha mẹ
chửi con, đánh con, nó tố cáo, cảnh sát liền can
thiệp, bảo quư vị ngược đăi nhi đồng,
quư vị nói có phiền phức hay là không? Do vậy, hiện
thời, trẻ nhỏ được pháp luật của
quốc gia bảo đảm, chúng chẳng yêu thương
cha mẹ, bất kính đối với cha mẹ, chẳng
nghe theo giáo huấn cha mẹ. Chuyện này khó khăn quá!
Chính tôi
c̣n nhớ, chúng tôi sanh trưởng ở nông thôn. Khi tôi c̣n
bé, c̣n nghe nói quốc gia có một đạo luật gọi
là “thân quyền xử phân” (親權處分, quyền
phân xử của cha mẹ). Đạo luật này h́nh
như bị phế trừ vào khoảng năm Dân Quốc 20 (1931). Thân quyền xử phân là
ǵ? Cha và mẹ của quư vị có quyền lực của
cha mẹ. Quư vị bất hiếu, chẳng làm tṛn trách nhiệm,
cha mẹ có thể thưa quư vị ra ṭa: “Đứa con
này bất hiếu, quư vị hăy đem bắn nó
đi”. Sau khi ṭa án nhận được đơn
thưa, lập tức thi hành án, chẳng cần tra hỏi,
chẳng cần biện hộ. Đó là “thân quyền xử
phân”. V́ sao? Cha mẹ há có lẽ nào chẳng đau đáu
yêu thương con cái? Cha mẹ chẳng cần quư vị nữa,
quư vị c̣n có tư cách ǵ để làm người trong xă
hội? Do vậy, cha mẹ đi thưa, chẳng có ai biện
hộ, chẳng hề có! Thân quyền xử phân đấy
mà! Do vậy, vào thời ấy, dẫu con cái bất hiếu,
vẫn phải giả bộ hiếu thảo. V́ sao? Cha mẹ
đâm đơn thưa quư vị, không có ai cứu quư vị
đâu nhé! Quan ṭa hành h́nh ngay lập tức, chẳng có luật
sư nào có thể biện hộ cho quư vị. Sau khi đă
phế trừ [đạo luật ấy], chẳng c̣n nữa,
con cái bất hiếu, cha mẹ đối với chúng nó chẳng
có một tí biện pháp nào cả! V́ thế, trong hiện thời,
có nhiều kẻ trẻ tuổi thấy con cái bất hiếu,
làm thế nào đây? Chẳng muốn có con nữa! Những
kẻ trẻ tuổi trong hiện thời đều có ư
nghĩ như thế, phiền toái rất lớn!
Do
vậy, giáo huấn của thánh nhân mấy ngàn năm chẳng
biến đổi, duy tŕ sự an định và ḥa b́nh trên
thế giới và trong xă hội, nó có đạo lư ở
trong ấy, chẳng phải là không có lư do! Khi đă có nhân
quyền, cha mẹ chẳng thể dạy con cái, thầy
chẳng thể dạy học tṛ! Những kẻ trẻ
tuổi cậy vào đâu để học đạo đức,
thành tựu học vấn? Quá khó khăn! V́ thế, hiện
thời nói đến chuyện hoằng dương Phật
pháp, không chỉ là khó khăn gấp mười lần quá
khứ, chẳng phải là chuyện dễ dàng. Hiện thời
cậy vào đâu? Nương vào thiện căn, phước
đức, nhân duyên. Trong đời quá khứ, đă gieo
thiện căn sâu dầy, [vậy th́] dễ dạy, kẻ
ấy vừa nghe sẽ tiếp nhận. Kẻ ấy có thể
tiếp nhận, có thể biện định những thứ
này là tốt đẹp!
Chế
độ xă hội cũng là như vậy. Tôi cũng
thường gặp mấy người, câu thứ nhất
họ hỏi tôi, đại khái là vào sáu, bảy năm
trước, pháp sư Diễn Bồi [đă từng hỏi
tôi đúng câu ấy]. Chúng tôi là bạn bè cũ, hơn hai
mươi năm chẳng gặp mặt. Tôi sang Tân Gia Ba giảng
kinh, Sư sống ở Tân Gia Ba. Trong quá khứ, Sư
đă từ Đài Loan di dân sang đó, ở bên ấy
đă hai mươi lăm năm. Tôi và Sư gặp nhau tại
đó, Sư mời tôi ăn cơm. Trong khi nói chuyện gẫu,
Sư đột nhiên hỏi tôi một câu: “Pháp sư Tịnh
Không! Ông tán thành chuyên chế, hay tán thành dân chủ?” Hỏi
tôi một câu như thế đó. Tôi nói: “Tôi tán thành có hoàng
đế. Hoàng Thượng chuyên chế, tôi tán thành. Tôi chẳng
tán thành dân chủ”. Sư hỏi v́ sao? Tôi nói: “Hoàng đế
chịu trách nhiệm. Ông ta phải v́ quốc gia bồi
dưỡng những người lănh đạo rất tốt,
lănh trách nhiệm ấy. Thế hệ kế tục của
ông ta chẳng tốt đẹp, chánh quyền của ông ta
sẽ bị kẻ khác lật đổ”. Tôi nói cho Sư
nghe đạo lư ấy.
Được
tuyển cử theo kiểu dân chủ, một nhiệm kỳ
là bốn năm, hay năm năm. Đă trúng cử, do nhiệm
kỳ chẳng dài, cái tâm trách nhiệm của kẻ ấy
chẳng sâu nặng. Khi tranh cử, đă hao tổn bao nhiêu
tâm huyết, tốn kém bao nhiêu tiền bạc. Sau khi nhậm
chức, nói chung là muốn gỡ gạc lại, chẳng
thể lỗ vốn. Tới nhiệm kỳ sau, chẳng
biết lần sau sẽ là ai giữ chức? V́ thế, nói
đến trách nhiệm chánh trị, dân chủ chẳng bằng
chuyên chế. Quư vị thấy lịch đại đế
vương Trung Hoa, các đế vương khai quốc chọn
người thừa kế hết sức chú ư cẩn thận,
toàn tâm toàn lực bồi dưỡng. Hoàng đế chẳng
dễ làm, từ bé đă bị quản giáo nghiêm ngặt,
chẳng thể có một tí sai lầm, sợ ǵ? Sợ thân
nát nhà tan, quốc phá gia vong. Hoàng đế đời cuối
của mỗi triều đại đều là những kẻ
chẳng vâng theo giáo huấn của tổ
tông, chẳng nghe lời dạy bảo của thầy,
thích như thế nào bèn làm như thế ấy! Kết quả
là bị kẻ khác lật đổ. Do vậy, xă hội
an định! Tôi nói: “Tôi tán thành chuyên chế, chẳng
tán thành dân chủ”. Sư nói: “Sao đầu óc thầy suy
nghĩ ngoan cố dường ấy!” Sư bảo tôi có ư
nghĩ ngoan cố!
Nói
thật ra, dân chủ và chuyên chế là vấn đề chế
độ. Chế độ có tốt xấu hay không? Quư vị
nói xấu hay tốt rất hữu hạn, vấn đề
thật sự là ở nơi đâu? Vấn đề thật
sự ở nơi con người. Khổng Tử đă
nói rất hay: “Nhân tồn chánh
cử, nhân vong chánh tức” (Con người c̣n th́ chánh
quyền tồn tại, con người đă mất th́
chánh quyền chấm dứt). Câu nói ấy đă nói đến
nơi đến chốn [thực chất của vấn
đề]. Bất luận quư vị là chuyên chế, hay là
dân chủ, người lănh đạo có đức hạnh,
có tâm yêu thương, thật sự có thể hy sinh, dâng hiến,
th́ dân chủ cũng được, mà chuyên chế cũng
được. Nếu quư vị chẳng có luân lư, đạo
đức, hoàn toàn v́ lợi hại cá nhân, tiếng tăm,
lợi dưỡng, th́ dân chủ chẳng tốt mà chuyên
chế cũng bất hảo! Do vậy, từ xưa tới
nay, Trung Hoa đề xướng, chẳng nói tới vấn
đề chế độ mà nói ǵ? Nói tới giáo học
trước. “Kiến quốc,
quân dân, giáo học vi tiên” (Xây dựng đất nước,
cai trị nhân dân, giáo học làm đầu). Quan trọng nhất
là giáo dục. Thực hiện giáo dục tốt đẹp,
chế độ ǵ cũng đều tốt đẹp. Nếu
quư vị chẳng thực hiện giáo dục tốt đẹp,
bất cứ chế độ nào cũng đều xuất
hiện khuyết điểm! Trong xă hội hiện tại,
chư vị lắng ḷng quan sát sẽ thấy: Giáo dục
quan trọng nhất!
Giáo
dục nhất định lấy con người làm gốc.
Mục đích của giáo dục thời cổ là dạy
con người làm thánh, làm hiền. “Độc thư chí tại thánh hiền” (Đọc
sách, dốc chí nơi thánh, nơi hiền). Đấy là
tông chỉ giáo dục. Giáo dục trong nhà Phật là “thành tựu Phổ Hiền Thật
Đức”, câu này nên giải thích như thế nào? Thập
Ba La Mật của Văn Thù, mười nguyện Phổ
Hiền, thực hiện viên măn. Bất luận là chế
độ nào, dân chủ tốt đẹp, quân chủ
cũng tốt đẹp, chuyên chế tốt đẹp,
chẳng có ǵ không tốt đẹp. Người lănh đạo
ấy chính là thánh nhân, là hiền nhân. Chỉ cần người
lănh đạo là “thánh” (thánh
minh, sáng suốt tột bậc), văn vơ bá quan dưới
quyền nhất định là hiền nhân, nhân dân hưởng
phước, xă hội nhất định là an ḥa, lợi
lạc. V́ thế, giáo dục tốt đẹp hơn bất
cứ thứ ǵ khác. Đúng là đại đức, đại
năng, đại trí.
Như
Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng làm quốc vương, v́ sao?
Làm quốc vương, quư vị hy sinh, hiến dâng, tạo
phước cho nhân dân một nước. Phạm vi chẳng
lớn, chẳng thể v́ người trong thiên hạ tạo
phước. Vượt khỏi ranh giới quốc gia, phải
tạo phước cho người trong thiên hạ. Đối
với tất cả các quốc gia, tất cả các nhóm
dân, nhằm tạo phước cho mọi người, phải
vượt ra ngoài chánh trị. Thuở ấy, lại chẳng
có Liên Hiệp Quốc. Do vậy, nói theo kiểu hiện thời:
Suốt một đời, Thích Ca Mâu Ni Phật theo đuổi
công tác giáo dục xă hội văn hóa đa nguyên. Ngài chẳng
làm quốc vương, chẳng làm quan. Các nghề nghiệp
trong xă hội rất nhiều, Ngài chẳng chọn một
nghề nào, mà chuyên dạy học, nêu gương mẫu
cho chúng ta nh́n vào!
V́
thế, Phật Thích Ca cao hơn Khổng Tử. V́ sao? Khổng
Tử chu du liệt quốc, mục đích là muốn làm
quan ḥng thi thố hoài băo của chính ḿnh. Chư hầu các
nước (tức vua các nước) biết người
này là một người tốt, có đạo đức,
có học vấn, có năng lực, nhưng chẳng dám dùng
ông ta. Do vậy, tới khi tuổi đă cao, sáu mươi
tám tuổi, Khổng Tử mới bỏ ư niệm làm quan,
quay về quê nhà dạy học, qua đời lúc bảy
mươi ba tuổi. V́ thế, thời gian Ngài dạy học
là năm năm. Năm năm mà được người
đời sau tôn sùng là Vạn Thế Sư Biểu (萬世師表, bậc
thầy gương mẫu của muôn đời). Tôi
thường nói: Thuở tại thế, Khổng Tử có nằm
mộng cũng không ngờ đến chuyện ấy. Nếu
Ngài nghĩ đến, ắt sẽ học theo Thích Ca Mâu Ni
Phật. Ngài “tam thập nhi lập”,
tức là khi ba mươi tuổi hăy nên theo đuổi công
tác giáo dục, suốt đời theo đuổi công tác
giáo dục th́ sự thành tựu của Ngài quyết chẳng
thua kém Thích Ca Mâu Ni Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật có địa
vị quốc vương mà chẳng cần đến, cứ
theo đuổi công tác giáo dục, chúng ta phải hiểu
rơ, phải minh bạch chuyện ấy. Giáo dục là sự
nghiệp thanh cao, hết sức có ư nghĩa, bồi dưỡng
nhân tài thật sự có đức hạnh, có học vấn
cho quốc gia, cho xă hội, cho hết thảy chúng sanh trên
cả thế giới. Trong tương lai, những nhân tài ấy
sẽ ở trong xă hội, bất luận theo đuổi
nghề nghiệp ǵ, tự nhiên là sẽ có thể hy sinh,
dâng hiến, tạo phước cho nhân dân! Đấy mới
là thành tựu đức năng và trí huệ chân thật.
Chúng ta học phần Tông Thú đến đây.
Đoạn
thứ tư gọi là Giải Phương, Giải (解) là giải
thích, Phương (妨) là phương ngại (妨礙, trở ngại,
ngăn trở). Thứ ǵ gây trở ngại? Nghi hoặc
là trở ngại, người ấy đối với
pháp này có nghi vấn. Tu hành bị trở ngại, chứng
quả bị trở ngại, đều là do có nghi vấn.
“Nghi” là chướng ngại lớn nhất của Bồ
Tát. V́ thế, [Giải Phương là] nói đến chuyện
“phá nghi, sanh tín”, thật sự
có tín tâm. Quư vị chẳng nghi th́ [lực dụng của
pháp môn đang học] mới sanh khởi. Học tốt
đẹp như thế, Thích Ca Mâu Ni Phật hiếu học,
Khổng Tử hiếu học, Mạnh Tử hiếu học.
Quư vị thấy trong Luận Ngữ, Phu Tử đă nói: “Ngô thường chung nhật bất
thực, chung dạ bất tẩm, dĩ tư vô ích, bất
như học dă” (Ta thường suốt ngày không ăn,
suốt đêm không nghỉ để suy nghĩ vô ích, chẳng
bằng học vậy). Suốt ngày đêm chẳng ăn uống,
chẳng ngủ nghê, cứ suy nghĩ, đương nhiên
là suy nghĩ rất nhiều. Cuối cùng kết luận:
“Chẳng có lợi ích ǵ! Chẳng bằng học hành”. Học
ǵ vậy? Học theo thánh nhân, học theo hiền nhân.
Khổng
phu tử học Nghiêu, Thuấn, học Châu Công. Trong tâm mục
của Ngài, ba vị ấy đáng bội phục nhất,
đáng ngưỡng mộ nhất. Châu Công pḥ tá Châu Thành
Vương. Thuở đầu, ông giúp đỡ anh ḿnh, tức
Châu Vũ Vương. Châu Công là em của Vũ Vương.
Vũ Vương chết đi, ngôi vua truyền cho con. Châu
Công là chú của Thành Vương, pḥ tá cháu, thật sự
là bậc thánh nhân. Khổng Tử rất muốn học
theo Châu Công, chẳng có ai dùng Ngài! Nếu thuở ấy có
chư hầu dùng Khổng Tử, địa vị của
Khổng Tử trong xă hội sẽ chẳng giống
như hiện thời. Trong sự suy nghĩ của chúng
tôi, [nếu được chư hầu sử dụng],
Khổng Tử sẽ là nhân vật bậc nhất như
Châu Công, Quản Trọng, Gia Cát Lượng, là danh thần
một thuở, chẳng thể nào trở thành Vạn Thế
Sư Biểu, chẳng thể nào!
V́ Thích Ca Mâu Ni Phật có quan
niệm hoàn toàn khác với Khổng Tử, đương
nhiên là có sự nhận thức khác hẳn. Hơn nữa,
Thích Ca Mâu Ni Phật tâm lượng rộng lớn, đúng
như trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện đă nói: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện
độ”. Chẳng có giới hạn quốc gia, chẳng
có giới hạn chủng tộc, cũng chẳng có giới
hạn tôn giáo, tín ngưỡng. Chúng ta xem kinh Phật, sẽ
thấy: Thuở đó, khá nhiều tín đồ tôn giáo, hoặc
người lănh đạo tôn giáo, hoặc những thầy
truyền giáo đều đến bái Thích Ca Mâu Ni Phật
làm thầy, tự ḿnh t́nh nguyện làm học tṛ của
Thích Ca Mâu Ni Phật, học tập theo Thích Ca Mâu Ni Phật.
Có thay đổi tôn giáo của người ta hay không? Chẳng
có! V́ thế, Phật giáo chẳng phải là một tôn giáo,
Phật giáo là giáo dục. Quư vị thấy kinh có nói, trong
kinh Địa Tạng mà mọi người thường
niệm, cô gái Bà La Môn và cô Quang Mục đều chẳng
phải là Phật tử, đều là những tín đồ
giáo khác đến học Phật. Chúng ta xem năm
mươi ba lần tham học [của Thiện Tài Đồng
Tử] trong kinh Hoa Nghiêm, [sẽ thấy] bà-la-môn Thắng
Nhiệt và ngoại đạo Biến Hành đều là những
nhà truyền giáo hoặc nhân vật lănh đạo của
các tôn giáo thuở ấy, đều làm học tṛ của
Thích Ca Mâu Ni Phật, chẳng thay đổi tín ngưỡng
tôn giáo của họ. Quư vị tin theo tôn giáo nào cũng
đều được, Phật giáo nhằm nâng cao đạo
đức và trí huệ của quư vị. À! Chúng ta nghỉ
ngơi mười phút.
***
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời
ngồi xuống. Tiếp tục xem phần thứ tư,
tức phần Giải Phương của phẩm Tịnh
Hạnh. Xin xem lời Sớ:
(Sớ)
Giải phương giả, vấn: “Văn trung đản
biện nhất bách dư nguyện, hà hữu hạnh da?”
(疏)解妨者,問,文中但辨一百餘願,何有行耶。
(Sớ: Giải
thích nhằm đoạn trừ chướng ngại. Hỏi:
“Trong kinh văn chỉ biện định hơn một
trăm nguyện, há có hạnh ư?”)
Ư
nghĩa của lời hỏi rất rơ ràng. Do phẩm kinh
này có tất cả một trăm bốn mươi mốt
nguyện, bèn thắc mắc: Những nguyện ấy chẳng
nói đến hạnh, cớ sao nói là phẩm Tịnh Hạnh?
V́ sao không nói là phẩm Tịnh Nguyện, mà nói là phẩm Tịnh
Hạnh? Dưới đây, Thanh Lương đại
sư đă giải đáp, giả thiết là có người
hỏi như thế.
(Sớ)
Đáp: Văn trung biện hạnh, lược hữu sổ
trùng, vị tựu sở lịch sự trung, thỉ tự
xuất gia, chung ư ngọa giác, giai sự hạnh dă.
(疏)答,文中辨行,略有數重,謂就所歷事中,始自出家,終於臥覺,皆事行也。
(Sớ:
Đáp: Kinh văn biện định về Hạnh, nói
đại lược là có đến mấy tầng,
nghĩa là lần lượt trải qua các sự, bắt
đầu từ xuất gia cho đến cuối cùng là nằm
mà giác ngộ (thị hiện nhập Niết Bàn) đều
là Hạnh thuộc về mặt Sự vậy).
Đấy
là Sự, cớ sao [nói là] chẳng có Hạnh cho được?
Ở đây, Thanh Lương đại sư đă chỉ
rơ: Xác thực là Nguyện và Hạnh chẳng tách rời,
nói chung là có mười bốn chuyện, giống như
cách sắp xếp trong Đệ Tử Quy vậy. Đệ
Tử Quy có tất cả bảy chuyện, gồm một
trăm mười ba câu. Phẩm kinh này có tất cả một
trăm bốn mươi mốt bài kệ, trong ấy nói tới
mười bốn chuyện. Trước hết, chúng tôi
nói sơ lược; sau đấy, đối với từng
đoạn kinh văn [qua phân tích, quư vị] sẽ đều
có thể nh́n ra được.
Hạnh
có Sự Hạnh, Lư Hạnh và Trí Hạnh, đó là ba loại.
Loại thứ tư là Đại Bi Hạnh, thứ
năm là Bi Trí Vô Ngại Hạnh. Lại có Chỉ Hạnh,
Quán Hạnh, Chỉ Quán Song Vận Hạnh. Trong Tam Quán, có
Giả Quán, Không Quán, và Trung Quán. Có Tam Đế Quán Hạnh,
đó là Nhất Tâm Tam Quán. Có Thập Độ Tề Tu Hạnh
(hạnh mười độ đều cùng tu), có Tứ
Hoằng Thệ Nguyện Hạnh, sao lại bảo là chẳng
có Hạnh? Quư vị thấy nói gộp lại, sẽ gồm
mười bốn điều. Mười bốn Hạnh
ấy thuộc trong một trăm bốn mươi mốt
nguyện, nhất định là trước hết phải
hiểu rơ ràng. Nếu không, người ta đọc phần
kinh văn này, rất có thể là sẽ nêu câu hỏi
như thế này: Trong ấy có Nguyện mà chẳng thấy
có Hạnh!
Chúng
ta xem phần giải đáp trong lời Sớ. “Văn trung biện Hạnh,
lược hữu sổ trùng” (Kinh văn biện định
về Hạnh, đại lược có mấy tầng).
Điều thứ nhất là “vị
tựu sở lịch sự trung, thỉ tự xuất
gia” (nghĩa là trong các sự đă được trải
qua, bắt đầu từ xuất gia), những điều
này đều là Sự, “chung
ư ngọa giác” (kết thúc bằng nằm mà giác ngộ).
Đấy là nói về cuộc đời Thích Ca Mâu Ni Phật
từ khi xuất gia cho đến khi lăo nhân gia viên tịch,
thị hiện nhập Bát Niết Bàn tại Song Thụ
Lâm, thảy đều là hạnh, hiện tướng cho
chúng ta thấy.
(Sớ)
Tri gia tánh Không, Lư Hạnh dă. Xúc cảnh bất mê, thiện
đạt Sự Lư, Trí Hạnh dă.
(疏)知家性空理行也。觸境不迷善達事理智行也。
(Sớ:
Biết tánh của nhà là Không, tức Lư Hạnh. Tiếp xúc
cảnh chẳng mê, khéo thông đạt sự lư, tức Trí
Hạnh).
Trong
bài kệ tụng [đầu tiên của phẩm Tịnh Hạnh],
“tri gia tánh Không” (biết tánh
của nhà là Không) thuộc loại Lư Hạnh. “Xúc cảnh bất mê, thiện
đạt Sự Lư” (Tiếp xúc cảnh chẳng mê, khéo
thông đạt Sự Lư) chính là Trí Hạnh. Chúng ta có Sự
mà chẳng hiểu Lư. Người trong thế gian, có ai chẳng
có nhà? Chẳng biết tánh của nhà là Không, chẳng biết!
Nhà là “Tướng có, Tánh không,
Sự có, Lư không”. Nhất là đối với người
hiện thời, người hiện thời cũng dần
dần có quan niệm yếu ớt, hời hợt đối
với nhà! Chỗ nào là nhà? Trong một đời, chẳng
biết đă dọn nhà bao nhiêu lần? Chỗ nào là nhà?
Thường xuyên dọn nhà có ưu điểm là dễ thấu
hiểu tánh của nhà là Không, quan niệm [chấp trước]
đối với nhà dần dần nhẹ mỏng. Chẳng
giống như trong xă hội trước kia. Xă hội
xưa kia nói đến “lăo gia”
(老家, quê nhà), sống tại
một nơi, hễ sống ở đâu, bèn sống suốt
mấy trăm năm, con cháu đời đời truyền
thừa, ở đâu cũng có thể thấy những gia
tộc lâu đời lưu truyền đến ba trăm
năm. Đó là “gia”.
Có
lần, tôi đến chơi Hoàng Sơn. Sau khi xuống
núi, đến thăm khu văn hóa Huy Châu ở Hoàn Nam[3].
Nghe nói hiện thời họ c̣n giữ được khoảng
từ mười mấy đến hai mươi thôn
trang, là những nơi ở xưa cũ từ ba trăm
năm trở lên, rất đáng đến thăm viếng.
Tuy người nhà ra ngoài làm việc, buôn bán, viễn du, cuối
cùng đều là “lá rụng về
cội”. Ở bên ngoài đều là tạm cư, lữ
du, thật sự có nhà! Suốt cả một đời v́
gia tộc phục vụ, suốt một đời chẳng
quên quê nhà. Loại t́nh cảm thân thiết ấy, nói thật
ra là do truyền thống giáo dục Trung Hoa hun đúc thành
công. Sau khi thấy như vậy, chúng tôi rất xúc động,
rất đáng khiến cho kẻ khác hâm mộ. Đó là
cơ sở để xă hội an định và thế giới
hài ḥa, chúng ta chẳng thể không coi trọng!
Hiện
thời, thế giới này động loạn, là do nguyên
nhân nào? Chẳng có nhà! Giống như cây cỏ chẳng có
rễ, như bèo trôi trên mặt nước, sóng cuốn bồng
bềnh, chẳng có gốc rễ! Chẳng có rễ, sẽ
không tăng trưởng được! Nỗ lực suốt
một đời mà chẳng có thành tựu. Hiện thời,
có rất nhiều đại xí nghiệp chẳng thể
sánh bằng những tiệm buôn xưa cũ của Trung
Hoa. Những cửa hàng xưa cũ, con cháu đời
đời có người truyền thừa. Tiệm
xưa, bảng hiệu xưa, c̣n các xí nghiệp kinh doanh hiện
thời, do chẳng phải là xí nghiệp của gia
đ́nh, mà do nhiều cổ đông (股東, kẻ
góp vốn) hợp thành. Nếu chẳng có người thừa
kế tốt đẹp, thường là khi chính ḿnh đă
già, công ty phải sập tiệm, tuyên bố phá sản. Tốt
hơn một chút th́ phải cải tổ, chẳng giống
như thời cổ. Nói cách khác, sự nghiệp hiện
đại trôi nổi, sự nghiệp thời cổ là có
căn bản. Sáng lập cơ nghiệp gian nan, giữ ǵn
những ǵ đă thành tựu chẳng dễ dàng. Do vậy,
hết sức coi trọng giáo dục. Chuyện này có lư lắm!
“Thiện đạt sự lư”
(Khéo thông đạt sự lư). Trong câu này, quan trọng nhất
là Thiện. Phương tiện thiện xảo, thông đạt
Sự Lư. Trong cuộc sống, trong công việc, trong đăi
người, tiếp vật, người ấy đều
có thể làm hết sức viên măn, đấy mới gọi
là Thiện. Do vậy, Thiện là vận dụng trí huệ
cao độ, vận dụng viên măn. Từ những việc
làm của Phật, của Bồ Tát, chúng ta quan sát cẩn
thận, sẽ có thể thấy, thấu hiểu Thiện
có ư vị như thế nào. Đó gọi là Trí Hạnh.
Đoạn
thứ hai nói:
(Sớ)
Dĩ Nguyện đạo Trí, bất trệ tự lợi,
Đại Bi Hạnh dă. Thượng nhị Bất Nhị
Bi Trí Vô Ngại Hạnh dă.
(疏)以願導智不滯自利大悲行也。上二不二悲智無礙行也。
(Sớ: Dùng
Nguyện để hướng dẫn Trí, chẳng vướng
vào tự lợi, chính là Đại Bi Hạnh. Hai điều
trên đây chính là Bất Nhị Bi Trí Vô Ngại Hạnh).
Trí chẳng
thể không có Nguyện. Nếu Trí chẳng có Nguyện, sẽ
chẳng khởi tác dụng. V́ thế, ở đây, kinh nói
một trăm bốn mươi mốt nguyện, dùng Nguyện
để hướng dẫn trí huệ khéo thông đạt
Sự Lư! Trí huệ bèn nẩy sanh sự viên dung vô ngại
nơi sự tướng, đạt tới hiệu quả
thật sự đáng gọi là “tận
thiện, tận mỹ”. Do vậy có thể biết,
Trí, Nguyện, Hạnh tuy một mà ba, tuy ba mà là một. V́
thế, người ấy chẳng dừng nơi tự lợi,
mà niệm niệm đều nhằm lợi ích chúng sanh, tức
lợi tha. Tự lợi là lợi tha, lợi tha là tự lợi,
tự và tha chẳng hai! Chẳng giống như phàm phu, Tiểu
Thừa! Tiểu Thừa phần nhiều tự lợi, ít
lợi tha. Phàm phu càng chẳng cần phải nói nữa! Tự
lợi chiếm tám mươi phần trăm, lợi tha có
thể đạt tới hai mươi phần trăm là
đă khá quá rồi, hăy c̣n biết nghĩ tới người
khác! Có kẻ thật sự thuần là tự lợi, chẳng
có ư nguyện lợi tha. Hễ làm một tí chuyện tốt
ḥng lợi tha đều là có điều kiện. Đối
với chuyện tốt mà chẳng có điều kiện
th́ một cái lông cũng chẳng nhổ[4],
chẳng chịu làm, [khi] hưởng hết phước
báo, quả báo sẽ là trong tam đồ. Điều này thuộc
Đại Bi Hạnh. “Thượng
nhị Bất Nhị Bi Trí Vô Ngại Hạnh dă” (Hai loại
trên đây, chính là Bất Nhị Bi Trí Vô Ngại Hạnh):
Đấy là Đại Bi Hạnh và Bi Trí Vô Ngại Hạnh,
thuộc loại thứ ba.
Câu
thứ ba dưới đây nói về Chỉ Quán.
(Sớ)
Ngộ vi thuận cảnh, tâm bất tŕ tán, Chỉ Hạnh
dă.
(疏)遇違順境,心不馳散,止行也。
(Sớ: Gặp
cảnh thuận thảo hay trái nghịch, tâm chẳng tán loạn.
Đó là Chỉ Hạnh).
“Ngộ vi” (遇違) là gặp
phải nghịch cảnh mà chính ḿnh chẳng ưa thích. “Thuận” (順) là thuận
cảnh, thứ ǵ đều vừa ḷng, tâm chẳng tán loạn.
Điều này có nghĩa là: Ở trong nghịch cảnh, chẳng
sanh ḷng sân hận; trong thuận cảnh, chẳng dấy
ḷng tham ái. Tâm chẳng tán loạn, vĩnh viễn ǵn giữ
“thanh tịnh, b́nh đẳng,
giác” của chính ḿnh. Điều này thuộc loại Chỉ
Hạnh. Sách Đại Học có nói: “Tri Chỉ nhi hậu hữu Định, Định
nhi hậu năng tĩnh, tĩnh nhi hậu năng an, an nhi
hậu năng lự, lự nhi hậu năng đắc”
(Do đă biết ngưng dứt, nên sau đó bèn có Định.
Sau khi đă Định, bèn có thể tĩnh. Sau khi đă có
thể tĩnh, bèn có thể an. Sau khi đă an, sẽ có thể
suy nghĩ. Sau khi đă suy nghĩ, sẽ có thể đạt
được). “Lự” (慮) chính là
trí huệ sanh khởi.
(Sớ)
Trí bất trầm một, Quán Hạnh dă.
(疏)智不沈沒,觀行也。
(Sớ: Trí
chẳng ch́m đắm, chính là Quán Hạnh).
“Trầm một” (沈沒) là trí chẳng
khởi tác dụng. Chẳng có đại nguyện lợi
ích chúng sanh, trí sẽ đắm ch́m. Đắm ch́m là chẳng
có phương tiện thiện xảo. Chẳng đắm
ch́m! Trí đối ứng Sự là phương tiện thiện
xảo, viên dung tự tại, viên dung vô ngại. Đấy
là Quán Hạnh.
(Sớ)
Tức Chỉ Quán song vận hạnh dă.
(疏)即止觀雙運行也。
(Sớ:
Chính là cùng vận dụng Chỉ Hạnh và Quán Hạnh).
Đây là
tổng kết phần trên. “Chỉ
Quán song vận” là trong Chỉ có Quán, trong Quán có Chỉ.
Quán (觀) là rành mạch, minh bạch,
Chỉ (止) là như như bất
động. Chỉ Quán là Thiền Định, dịch theo
ư nghĩa này. Thiền Định là danh từ dịch từ
tiếng Phạn. Thiền (Dhyana) là tiếng Phạn, dịch
sang nghĩa tiếng Hán, có ư nghĩa là Quán, ngụ ư “hiểu
rơ”. V́ thế, Thiền Na được dịch thành
Tĩnh Lự. Tĩnh (靜) là Chỉ, Lự (慮) là Quán, Lự là hiểu
rơ. Cũng là như kinh Kim Cang đă dạy: “Bất thủ ư tướng, như như bất
động” (Chẳng giữ lấy tướng,
như như bất động). “Chẳng giữ lấy
tướng” là không chấp tướng. “Không chấp
tướng” là Thiền, “như như bất động”
là Định. “Chẳng chấp tướng” là Quán,
“như như bất động” là Chỉ. Chỉ và Quán
cùng vận dụng, trong Quán có Chỉ, trong Chỉ có Quán.
Quán là Huệ, Chỉ là Định. Quán là điều ǵ
cũng đều biết rơ ràng, đều hiểu rơ; Chỉ
là như như bất động. Chẳng khởi tâm,
không động niệm, há có phân biệt, chấp trước?
Phật pháp nói “tu hành”, tu ǵ
vậy? Tu những điều này! Chỉ là danh tướng
được nói bởi các tông, các phái, các pháp môn chẳng
giống nhau; thật ra, ư nghĩa đều như nhau.
Quư vị
nói xem: Pháp môn Niệm Phật, tu Tịnh Độ của
chúng ta là tu ǵ vậy? Kinh Di Đà đă dạy rất rơ
ràng: “Nhất tâm bất loạn,
tâm chẳng điên đảo”. Nhất tâm là Chỉ, bất
loạn là Quán; nhất tâm là Định, bất loạn là
Huệ, Định và Huệ cùng vận dụng. Nay chúng ta
niệm Phật, chỉ là niệm A Di Đà Phật. Trong A
Di Đà Phật không có Chỉ mà cũng chẳng có Quán, cho
nên niệm suốt một đời, ngay cả công phu
thành phiến cũng chẳng đạt được!
Nguyên nhân là ǵ? Chẳng biết niệm! Học theo người
khác niệm một câu Nam-mô A Di Đà Phật, trong ấy chẳng
có Định và Huệ, cho nên chẳng thể thành tựu.
Đối với Định, Huệ, quư vị nhất
định phải hiểu đạo lư và phương
pháp niệm Phật. Quư vị phải hiểu v́ sao cần
niệm Phật? Dùng phương pháp Niệm Phật để
tu Thiền Định, tu Định Huệ đẳng
tŕ (giữ cho Định và Huệ cân bằng), Định
và Huệ cùng vận dụng. Chúng ta phải chọn lấy
phương pháp này, phương pháp Tŕ Danh Niệm Phật
rất thuận tiện! Dùng phương pháp này để
tu Thiền Định. Dùng phương pháp này để tu
Bát Nhă. Dùng phương pháp này để tu Chỉ Quán, phải
hiểu điều này. Sau khi đă hiểu, quư vị gặp
các pháp môn khác th́ mới có thể như như bất động,
chẳng do dự, sẽ chẳng tam tâm nhị ư [đến
nỗi] bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển, thâm nhập
một môn, thành tựu cuối cùng hoàn toàn như nhau. V́ thế
mới nói: “Pháp môn b́nh đẳng,
chẳng có cao thấp”. Tu thành công, quyết định
là b́nh đẳng. Khi chẳng thành công, dường như
là có cao hay thấp. Thật ra, chẳng có cao thấp, phải
biết điều này!
(Sớ)
Hựu đối ư sự cảnh, thiện liễu tà
chánh. Đương nguyện chúng sanh, giai Giả Quán dă.
(疏)又對於事境,善了邪正,當願眾生,皆假觀也。
(Sớ: Lại
nữa, đối với sự cảnh, khéo hiểu rơ tà,
chánh, “hăy nên nguyện cho chúng sanh” đều là Giả Quán).
Đây là
nói theo giáo nghĩa Thiên Thai, Tam Chỉ Tam Quán. Một
trăm bốn mươi mốt nguyện trong phẩm kinh
này thảy đều trọn đủ [Tam Chỉ, Tam
Quán]. Đối với sự cảnh, sự hạnh, sáu
căn của chúng ta đối ứng với cảnh giới
bên ngoài, đó là “sự cảnh”,
khéo hiểu rơ tà và chánh. Người thế gian như Nho
gia [chẳng hạn] có thể hiểu rơ tà và chánh, nhưng
chẳng phải là khéo hiểu rơ! Chữ Thiện hay khéo
cùng cực, thế nào là Thiện Liễu (善了)? Thiện
(善) chính là
trí huệ chân thật, thấy thấu suốt vạn sự
vạn vật. Có tà hay không? Có chứ! Có chánh hay không? Có chứ!
Tướng có, Tánh không! Tánh Không: Tánh của tà là trọn chẳng
thể được, mà tánh của chánh cũng là trọn
chẳng thể được. “Tánh
chẳng thể được” chính là Pháp Tánh, là chân
tánh. Trong tánh, chẳng có tà hay chánh. Do đâu mà có tà và chánh? Từ
giác và mê mà có; trong pháp tánh, chẳng có [tà hay chánh]. Đă giác,
chẳng có một pháp nào bất chánh. Mê rồi, chẳng có
pháp nào không tà! Đó là chân tướng sự thật. Sau
khi đă liễu giải, sẽ đối với chánh pháp
như như bất động, mà đối với tà
pháp cũng là như như bất động. Đấy
là cảnh giới ǵ? Cảnh giới của Pháp Thân Bồ
Tát.
Nói
theo phía chúng sanh trong lục đạo, sẽ là khuyên họ
cải tà quy chánh, v́ sao? Do tà tri, tà kiến, tà hạnh, mà cảm
khổ báo trong địa ngục. Do chánh tri, chánh kiến,
chánh hạnh, sẽ cảm vời phước báo nhân thiên.
Tuy đều là giả, đều chẳng thật,
nhưng khổ và lạc khác nhau! Lục đạo đều
chẳng thật. Vĩnh Gia đại sư đă nói rất
hay: “Trong mộng rành rành phô sáu
nẻo”, nằm mộng mà! Nhưng đối với
người này, mộng thấy mộng đẹp, kẻ
kia mơ thấy ác mộng! Khuyên can bọn họ, đối
với người đang gặp ác mộng, chẳng bằng
mơ một giấc mộng đẹp. Phật, Bồ
Tát giáo hóa chúng sanh trong lục đạo là do ư nghĩa
như thế đó. Đấy đều là phương
tiện quyền xảo, mục đích thật sự là
khiến cho quư vị giác ngộ, khiến cho quư vị liễu
giải chân tướng sự thật. Sau đấy, bản
thân quư vị phát nguyện, ĺa bỏ lục đạo luân
hồi, từ trong giấc mộng lớn tỉnh lại.
Đó là ư nghĩa thật sự của việc Phật, Bồ
Tát giáo hóa chúng sanh. Bảo quư vị đoạn ác tu thiện,
chẳng đọa trong ba ác đạo, sanh trong thiện
đạo; đấy là phương tiện, tạm thời.
V́ quư vị vẫn chưa đạt đến tŕnh độ
này, vẫn chưa trông thấy, vẫn chưa lănh hội
được. Do vậy, hoàn toàn nương theo căn
tánh của chúng sanh, nên dùng thân ǵ để đắc độ,
bèn hiện thân h́nh ấy, nên dùng phương pháp ǵ để
đắc độ, bèn nói pháp ấy. Phật, Bồ Tát
chẳng có thân tướng nhất định, chẳng có
h́nh tướng, mà cũng chẳng có pháp nhất định
để có thể nói, đó là Thiện! Trí huệ của
chúng ta dẫu cao tới đâu đi nữa, phương
pháp dẫu xảo diệu cỡ nào đi nữa, hễ
đem so với Phật, Bồ Tát, chúng ta cũng là rất
vụng về, chẳng phải là khéo hiểu, mà là ngốc
nghếch, vụng về. Đấy là Giả Quán. Từ
câu “đương nguyện
chúng sanh” trở đi, quư vị đều có thể thấy,
[đó chính là] Giả Quán.
(Sớ)
Tri thân không tịch, tâm vô nhiễm trước, Không Quán dă.
(疏)知身空寂,心無染著,空觀也。
(Sớ: Biết
thân rỗng rang, vắng lặng, tâm chẳng đắm nhiễm,
chính là Không Quán).
Kinh Kim
Cang nói: “Vô ngă tướng, vô
nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả
tướng”. Có thân hay không? Có thân, thân là “Tướng có, Tánh không, Sự có, Lư không”. Khoa học
hiện thời có thể chứng thực chuyện này.
Thân thể của chúng ta và tất cả vạn sự, vạn
vật sanh diệt trong từng sát-na, chẳng phải là
vĩnh hằng. V́ thế, Phật pháp thường nói: “Chư pháp vô thường”
(Các pháp vô thường), “vô
thường” tức là nó chẳng tồn tại
vĩnh cửu. Phải nói lời thật cùng quư vị:
Căn bản là nó chẳng tồn tại! Cớ sao chẳng
tồn tại? Sanh diệt trong từng sát-na! Hết thảy
vạn sự vạn vật, tất cả các hiện
tượng trong thế gian, xác thực là giống như
chúng ta nh́n những h́nh ảnh trên màn h́nh của TV, hay trên
màn bạc của phim ảnh. Đúng là như thế
đó, sanh diệt trong từng sát-na. V́ tốc độ
sanh diệt của chúng quá nhanh, mắt chúng ta chẳng có
cách nào cảm nhận được, chẳng nhận biết
chúng là sanh diệt, cứ ngỡ chúng là chân thật. Tướng
trong điện ảnh thô thiển, một giây sanh diệt
hai mươi bốn lần, chúng ta xem phim đă chẳng
biết tướng sanh diệt ấy. Tốc độ của
h́nh ảnh trên TV nhanh hơn, mọi người đều
biết nguyên lư ấy: Từ những điểm (pixel) biến
thành tia, từ tia biến thành mặt[5]. Tốc
độ ánh sáng quá lớn, một giây là ba mươi vạn
cây số. V́ thế, màn ảnh huỳnh quang chẳng lớn,
do bao nhiêu tia sáng hợp thành? Mọi người cũng biết
chuyện này, dùng tốc độ của sóng điện từ.
Tốc độ của sóng điện từ chẳng kém
tốc độ ánh sáng cho mấy. V́ thế, nó chỉ là một
phần ngàn giây, hoặc một phần vạn giây, h́nh ảnh
[hiện ra] cũng rất đầy đủ, làm sao quư vị
biết nó là giả cho được!
Trong
cuộc sống hiện thực của chúng ta, những thứ
“hiện thực” đều
là giả định, há có hiện thực? Đều là
nói phương tiện, đừng coi là thật, chẳng
có hiện thực đâu nhé! Tất cả hết thảy
các hiện tượng trong hoàn cảnh hiện thực,
nói theo kinh Nhân Vương, chúng tôi đă từng giảng
kinh Nhân Vương, là do đức Thế Tôn nói
phương tiện, chẳng phải là nói chân thật. Nói
phương tiện th́ dùng Toán Học
hiện thời để tính toán: Trong một giây, sanh diệt
bao nhiêu lần? Trong một giây là hai lần mười vạn
tám ngàn (2x108.000 = 216.000). Nói cách khác là hai mươi mốt vạn
sáu ngàn lần sanh diệt. Hai mươi mốt vạn sáu
ngàn lần sanh diệt, vẫn ít hơn khi so với ánh sáng
và sóng điện từ! Ánh sáng trong một giây đi
được ba mươi vạn cây số (300.000km).
Trong kinh Nhân Vương, đức Phật đă nói: Hiện
tượng sanh diệt của hết thảy vạn sự
vạn vật, trong một giây là hai mươi mốt vạn
sáu ngàn lần sanh diệt. Đấy là đức Thế
Tôn nói phương tiện. Trên thực tế th́ sao? Trên thực
tế, trong hiện thời, tướng của tất cả
hết thảy mọi vật sanh diệt trong một phần
ngàn vạn giây, một phần ức vạn giây, một phần
trăm ức vạn, hoặc một phần ngàn ức vạn
của một giây, chẳng có cách nào tưởng tượng
được! Do vậy, trong kinh Phật có một câu rất
hay: “Sanh diệt đồng thời”.
Có sanh diệt hay không? Có sanh diệt, nhưng gần như
chẳng có cách nào cảm nhận hiện tượng sanh
diệt ấy. V́ thế, chúng ta thấy tướng
tương tục (tướng liên tục tồn tại),
bèn tưởng là chân thật. Trên thực tế, toàn là
tướng tương tục sanh diệt, tốc độ
quá nhanh mà!
Các
khoa học gia hiện thời đă biết điều
này, cũng hiểu tất cả các hiện tượng
đều chẳng thật. Đặc biệt là khoa học
gia cận đại đă nêu báo cáo: Không gian chẳng có thật.
Thời gian cũng chẳng thật. Chư vị phải
biết: Có thứ ǵ có thể ĺa khỏi thời gian và
không gian? Đă là không gian và thời gian chẳng có thật,
vậy th́ vạn sự vạn vật đương nhiên
cũng chẳng phải là thật! Không gian và thời gian
giống như màn ảnh huỳnh quang, vạn sự vạn
vật giống như tướng được hiện
trên màn ảnh huỳnh quang. Nếu màn ảnh huỳnh quang
đă chẳng có, lấy đâu ra hiện tướng? Phải
hiểu đạo lư này!
Trong
kinh Đại Thừa, đức Phật đă bảo
chúng ta: Vạn hữu trong vũ trụ và sanh mạng do
đâu mà có? Các nhà khoa học xưa nay đă thăm ḍ cả
trăm, cả ngàn năm, [nêu ra] khá nhiều cách giải
thích, nhưng đều chẳng thể khiến cho người
ta tâm phục, khẩu phục. Xác thực là chỉ có ḿnh
Phật pháp, sau khi quư vị đọc, đúng là chẳng
bàn ra tán vào được nữa, Phật pháp nói hay quá!
Kinh Lăng Nghiêm đă nói rất rơ ràng: Từ một niệm
bất giác mà sanh. Một niệm bất giác được
gọi là vô minh. “Vô minh bất
giác sanh ra ba tế tướng. Cảnh giới làm duyên,
tăng trưởng sáu thô tướng”. Đấy là
nói về sự h́nh thành của vũ trụ, cũng
như cội nguồn của sanh mạng, [chính là] ba tế
tướng, sáu thô tướng. Ba tế tướng và sáu
thô tướng nói theo thời gian, sẽ là h́nh thành trong một
phần ức vạn giây. Bởi thế, tất cả các
hiện tượng đều là động, chẳng có
thứ ǵ bất động. Thứ ǵ bất động?
Pháp Tánh bất động. Pháp Tánh giống như Chân Không
mà chúng ta đang nói trong hiện thời, nó là thật, bất
động. Trong Chân Không, tất cả hết thảy các
hiện tượng đều là động, v́ sao? Vô minh
là động. Tất cả hết thảy các hiện
tượng thảy đều phát sanh từ vô minh, bản
thể của vô minh là động, [vậy th́] các hiện
tượng được phát sanh bởi nó, có lẽ nào bất
động cho được? Khoa học hiện thời
nói đến sự dao động. Toàn thể đại
vũ trụ, nói theo nhà Phật chính là “y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới”
đều là các hiện tượng dao động. Ngoại
trừ sự dao động, thứ ǵ cũng đều
chẳng có! Các nhà khoa học cận đại đă nói rất
chánh xác, kinh Phật nói theo kiểu ấy.
Do
đó, sau khi quư vị đă biết chân tướng, sẽ
bất động, chẳng c̣n khởi tâm động niệm
nữa, chớ nên có phân biệt, chấp trước nữa,
đă thật sự giác ngộ. Không Quán là giác ngộ. Biết
vạn sự vạn tượng rốt ráo là chuyện
như thế nào, há c̣n so đo cùng kẻ khác ư? Đạt
đến cảnh giới ấy, tâm quư vị đă định,
quư vị mới thật sự có thể đạt đến
tự tại tùy duyên. Trong mười nguyện Phổ Hiền,
có hai nguyện dạy chúng ta: “Hằng
thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức”. Chúng sanh thiện
tâm, bèn tùy thuận họ; chúng sanh tạo ác th́ cũng tùy
thuận kẻ đó, v́ sao? Biết kẻ đó tạo ác
hay làm lành, đều là không tịch, chẳng có một pháp
nào là chân thật! Quư vị tùy thuận họ, giúp đỡ
họ. Hễ tùy thuận, họ sẽ hoan hỷ. Quư vị
giáo hóa họ, họ sẽ tiếp nhận; giúp họ giác
ngộ, giúp họ liễu giải chân tướng sự
thật.
Câu
cuối cùng…
(Sớ)
Kiến như thật lư, Trung Quán dă.
(疏)見如實理,中觀也。
(Sớ: Thấy
lư như thật, đấy là Trung Quán).
Giả
là Sự, Không là Tánh. Lư và Sự chẳng hai, Tánh, Tướng
như nhau, đấy là Trung Quán. Điều này được
kinh Bát Nhă gọi là “chư pháp
Thật Tướng” (Thật Tướng của các
pháp). Thấy Lư như thật, thấy Sự như thật,
Lư và Sự là một, không hai. Đó là quư vị thật sự
thấy Thật Tướng của các pháp. Nói đến ư
nghĩa “thấy thật lư của
các pháp” th́ Thật Tướng chính là Sự và Lư thảy
đều hiểu rơ. Giáo Hạ gọi cảnh giới
như vậy là “đại
khai viên giải”. Tri kiến của quư vị đă viên,
chẳng có thiên kiến, viên dung vô ngại. Thiền Tông [gọi
cảnh giới ấy] là “minh
tâm kiến tánh”. Danh từ khác nhau! Trong Tịnh Độ
Tông gọi là “Lư nhất tâm bất
loạn”, cảnh giới giống hệt. Ba thứ danh
tướng khác nhau, cùng là một chuyện! V́ thế mới
nói: “Pháp môn b́nh đẳng, chẳng
có cao, thấp”. Vấn đề là chúng ta phải biết
học.
Kế
đó, lại nói đến phương thức tu hành của
tông Thiên Thai, căn tánh của mỗi người khác nhau:
(Sớ)
Hoặc tiên Không, hậu Trung, hoặc nhất, hoặc nhị,
hoặc nhất niệm đốn cụ.
(疏)或先空後中,或一或二,或一念頓具。
(Sớ: Hoặc
là trước [tu tập] Không, sau [tu tập] Trung, hoặc
chỉ tu một pháp, hoặc tu hai pháp, hoặc trong một
niệm nhanh chóng có trọn đủ [cả ba phép Quán]).
Căn
tánh không giống nhau. Có người thuộc loại
căn tánh trước là tu Không Quán, sau tu Trung Quán. Lại
có một loại căn tánh, trước là tu Giả Quán,
sau là tu Trung Quán. Hoặc là có loại người chỉ tu
một phép Quán, tu Giả Quán, hoặc Không Quán, hoặc tu
Trung Quán, chỉ có tu một phép Quán, hoặc tu cả hai
phép Quán. Trong thí dụ vừa mới nêu, người ấy
[tu tập] có trước sau, c̣n “hoặc
nhị” (或二) chính là đồng thời. “Hoặc nhất niệm đốn cụ” chính là
Tam Quán đồng thời, tông Thiên Thai gọi cách này là Nhất
Tâm Tam Quán. Tam Quán đồng thời là bậc căn cơ
nhạy bén nhất, tốc độ nhanh nhất. Kế
đó nói:
(Sớ)
Tư vi diệu đạt Tam Đế Quán chi hạnh dă.
(疏)斯為妙達三諦觀之行也。
(Sớ:
Đấy chính là hạnh để khéo đạt đến
Tam Đế Quán).
Nói rơ một
trăm bốn mươi mốt nguyện trong phẩm Tịnh
Hạnh tương ứng với Thiên Thai Giáo Quán. Tam Đế
Tam Quán của tông Thiên Thai: Chân Đế, Tục Đế,
Trung Đế [là Tam Đế]. Danh tự của Tam Quán
trong phần trước đă có, tức Giả Quán, Không
Quán và Trung Quán, đều được bao gồm trong ấy.
Nói rơ một trăm bốn mươi mốt chuyện này
triển khai ra, sẽ chẳng sót một chuyện nào trong
khắp pháp giới hư không giới. Nó được gọi
là Phổ Hiền Hạnh, là cơ sở của Phổ Hiền
Hạnh, hoặc là Đệ Tử Quy trong Phổ Hiền
Hạnh Môn! Chúng ta muốn học kinh Hoa Nghiêm, quư vị phải
biết nhập môn từ chỗ này. Nhưng quư vị chớ
nên không biết cơ sở này, cơ sở này được
kiến lập trên Thập Thiện Nghiệp Đạo.
Quư
vị thấy đức Thế Tôn giảng kinh Thập
Thiện Nghiệp Đạo đă nói tuyệt hay: “Thanh Văn Bồ Đề,
Duyên Giác Bồ Đề”, đó là Tiểu Thừa. “Vô Thượng Bồ Đề”
chính là Đại Thừa, cho đến pháp nhân thiên, cho nên
biến thành Ngũ Thừa, không ǵ chẳng lấy Thập
Thiện làm căn cơ. Thập Thiện Nghiệp Đạo
là pháp cơ bản của Phật pháp, là Đệ Tử
Quy của toàn thể Phật pháp. Chẳng có Thập Thiện,
trong kinh này, đức Phật đă sánh ví Thập Thiện
như đại địa, coi hết thảy các pháp ví
như cây cối, hoa cỏ, hết thảy chúng sanh trên mặt
đất. Hết thảy chúng sanh, cây cối hoa cỏ
đều phải nương cậy đại địa
th́ mới có thể sanh trưởng, mới có thể kiến
lập. Chẳng có đất, thứ ǵ cũng đều
chẳng có. Vô lượng pháp môn đều nương vào
Thập Thiện Nghiệp Đạo để kiến lập.
Vô Thượng Phật quả, Bồ Tát quả báo, Thanh
Văn, Duyên Giác quả báo, nhân thiên quả báo, thảy đều
nương vào Thập Thiện mà thành tựu. Thập Thiện
là đại địa! Cớ sao chúng ta sơ sót? Do sơ
sót, hết thảy các pháp tất cả đều hoàn toàn
thất bại. Chúng ta chớ nên không biết điều
này!
Do
vậy, ở đây, Thanh Lương đại sư dùng
chữ “diệu đạt”,
“đạt” (達) là thông
đạt. Chư vị hiểu: Tu Thiên Thai Chỉ Quán mà muốn
có thể tu đến Nhất Tâm Tam Quán chẳng phải
là chuyện dễ dàng đâu nhé! Nếu từ phẩm Tịnh
Hạnh để tu Tam Chỉ Tam Quán của Thiên Thai Tông sẽ
dễ dàng hơn, cho nên gọi là “diệu đạt”. Nếu chúng ta mong thành Phật
viên măn ngay trong một đời, pháp môn Niệm Phật là
diệu đạt. Trong thời kỳ Mạt Pháp, hết
thảy các pháp môn đều chẳng dễ thành tựu. Chỉ
riêng pháp môn Niệm Phật là thành tựu ổn thỏa,
thích đáng. Đó là ư nghĩa “diệu
đạt”. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng
tôi nói tới chỗ này!
Tịnh
Hạnh Phẩm
Phần 1 hết
[1] Ḥa Thượng giảng phẩm này vào năm 2005, chính là năm Dân Quốc 94.
[2] Mi chú (眉註): Lời chú giải viết bằng cỡ chữ nhỏ hơn ngay trên đầu một câu hoặc một đoạn văn, mang tính cách ghi note để nhớ những ư nghĩa sẽ nói khi giảng giải, không phải là viết một tác phẩm chú giải hoàn chỉnh.
[3] Hoàn Nam (皖南) là khu vực phía Nam Hoàng Sơn ở tỉnh An Huy. Thông thường, Hoàn Nam bao gồm vùng đất từ Trường Giang cho đến các thành phố Mă Yên Sơn, Vu Hồ, Đồng Lăng, Tuyên Thành, Hoàng Sơn và Tŕ Châu. Thánh địa Cửu Hoa Sơn cũng thuộc trong khu vực này. Cửu Hoa Sơn thuộc huyện Thanh Dương, trực thuộc thành phố Tŕ Châu.
[4] Đây là cách nói của Dương Chu, người chủ trương thuyết Vị Ngă (tức ích kỷ đến tột cùng). Ông ta nói để làm lợi cho người khác dẫu nhỏ nhặt như nhổ một cái lông cũng không làm!
[5] Đây là nói theo cách hiển thị h́nh ảnh của các loại TV kiểu cũ, tức loại màn h́nh c̣n sử dụng loại bóng đèn bầu to (CRT- cathode-ray tube), không phải các loại TV sử dụng màn h́nh LED hoặc HDMI như hiện thời. Khi TV nhận được tín hiệu truyền đến, nó sẽ tách các h́nh ảnh thành nhiều luồng điện tử truyền dọc theo cuống bóng đèn h́nh. Các điện cực có từ tính sẽ tách các luồng điện tử thành tia, bắn thẳng vào màn h́nh quang đă phủ một lớp hóa chất (thường gọi là phosphors) để tạo nên những chấm sáng. Chúng sẽ được điều khiển để quét ngang màn h́nh theo từng hàng một cho đến hết với tốc độ rất nhanh để tạo thành h́nh ảnh. Do vậy, xem TV theo lối cũ hoặc nh́n vào màn h́nh máy điện toán (monitor) kiểu cũ sẽ mỏi mắt v́ chúng chớp nháy liên tục.