Đại
Phương Quảng Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ
mười một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 10
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh
Không
Địa điểm: Hương Cảng
Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ ngày mồng Bảy
tháng Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ
tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ
Trang và Minh Tiến
Tập 1481
Chư vị đồng học,
xin mời ngồi xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh
thứ mười một, cuối đoạn thứ
tư trong phần trường hàng c̣n có một câu chưa
giảng xong. Chúng ta đọc kinh văn một lượt:
(Kinh) Vân hà đắc nhân lực,
dục lực, phương tiện lực, duyên lực, sở
duyên lực, căn lực, quan sát lực, xa-ma-tha lực, tỳ-bát-xá-na
lực, tư duy lực?
(經)云何得因力。欲力。方便力。緣力。所緣力。根力。觀察力。奢摩他力。毘缽舍那力。思惟力。
(Kinh:
Làm thế nào để đắc
nhân lực, dục lực, phương tiện lực,
duyên lực, sở duyên lực, căn lực, quan sát lực,
xa-ma-tha lực, tỳ-bát-xá-na lực, tư duy lực?)
Trong
buổi trước, chúng ta đă học đến đoạn
thứ mười của phần khai thị trong bộ
[Hoa Nghiêm Kinh] Sớ Sao của Thanh Lương đại
sư:
(Sớ)
Thập tức thử Phổ Môn chi trí vi chủ, cố
đốn chiếu Phổ Môn pháp giới thời, tất
nhiếp nhất thiết vi bạn, vô tận vô tận, thị
thử Hoa Nghiêm sở cầu Chỉ Quán.
(疏)十即此普門之智為主,故頓照普門法界時,必攝一切為伴,無盡無盡,是此華嚴所求止觀。
(Sớ:
Mười
là dùng trí Phổ Môn ấy làm chủ, cho nên khi nhanh chóng chiếu
soi pháp giới Phổ Môn, ắt sẽ gồm thâu hết
thảy làm bạn, vô tận, vô tận. Đấy chính là Chỉ
Quán được mong cầu trong Hoa Nghiêm).
Đoạn này hết sức trọng yếu, [Thanh
Lương đại sư] đă chỉ ra pháp Chỉ
Quán được nói trong kinh Hoa Nghiêm. Phạm vi của Chỉ
Quán hết sức rộng lớn, Hoa Nghiêm dùng ǵ để
Chỉ Quán? Chúng ta đọc bộ đại kinh này, [sẽ
thấy] ở đây, ngài Thanh Lương cho chúng ta biết
[cảnh giới Chỉ Quán] phát xuất từ câu thứ
chín [trong lời Sớ]. Câu thứ chín đă viết: “Sự tắc trùng trùng vô tận,
Chỉ Quán diệc phổ nhăn tề chiếu” (Sự là
trùng trùng vô tận, Chỉ Quán cũng là phổ nhăn cùng chiếu).
Kinh Hoa Nghiêm lấy chuyện này làm chủ; v́ thế nói “tức thử Phổ Môn chi trí
vi chủ” (lấy ngay trí Phổ Môn này làm chủ). “Phổ” (普) là
phổ biến, Môn (門) là pháp môn. Chúng ta thường gọi Phổ Môn là “vô lượng pháp môn”, nhưng
nhất định phải hiểu, “vô lượng là một, một là vô lượng, một
và nhiều chẳng hai”, đấy mới là trí, đấy
mới gọi là Phổ Môn, dùng trí ấy làm chủ. Trí là Chỉ
Quán, trong phần trước, chúng ta đă học: “Chỉ thật sự sẽ nhất
định có Quán, Quán thật sự sẽ nhất định
có Chỉ. Chỉ và Quán chẳng hai. Chỉ chính là Quán, Quán chính
là Chỉ”. Đấy mới là chân thật. Nói thành hai
phương diện, trên thực tế là một chuyện,
[đó là] hai mặt của một Thể. Tu học Phật
pháp, chúng ta nói “tu hành Phật
pháp” là tu ǵ vậy? Hai chữ Chỉ Quán đă bao gồm
trọn hết! V́ thế, Chỉ Quán thâu nhiếp viên măn hết
thảy các pháp!
Tôi
cũng từng đặc biệt thưa tŕnh với mọi
người, thầy dạy tôi, Ngài đă thay đổi
danh từ, v́ khi ấy tôi mới học Phật, vừa mới
tiếp xúc Phật giáo chưa đầy một tháng,
điều ǵ cũng đều chẳng hiểu. Tôi hướng
về lăo nhân gia thỉnh giáo, thưa: “Con biết Phật
pháp tốt đẹp, Phật pháp thù thắng, có
phương pháp ǵ khiến cho con có thể khế nhập
rất nhanh hay không?” Hỏi vấn đề ấy
đúng là lớn quá! Lăo nhân gia quả thật có
phương tiện thiện xảo, Ngài dạy tôi: “Thấy thấu suốt, buông xuống”.
Thấy thấu suốt là Quán, buông xuống là Chỉ, Ngài
chẳng dùng [từ ngữ] Chỉ Quán. Nếu Ngài nói Chỉ
Quán, sẽ khiến cho tôi hồ đồ! Ngài dùng chữ “thấy thấu suốt, buông xuống”,
dường như tôi nghe cũng có thể hiểu ư
nghĩa, cũng có thể tiếp nhận. Đấy là
phương tiện thiện xảo. Dạy kẻ sơ học
như thế nào? Thầy đă làm gương cho chúng tôi thấy,
chẳng cần phải nói bằng những danh từ, thuật
ngữ [chuyên biệt]! [Dùng] danh từ thuật ngữ [để
giảng giải] th́ có nói cả buổi cũng chẳng
nói rơ ràng được! V́ thế, đây là tổng cương
lănh, tổng nguyên tắc tu hành trong Phật pháp, từ sơ
phát tâm cho đến địa vị Như Lai, quư vị
đều chẳng rời khỏi nguyên tắc này. Chỉ
giúp đỡ Quán, [nghĩa là] thấy thấu suốt giúp buông
xuống, buông xuống lại giúp thấy thấu suốt.
Hai chuyện ấy lần lượt làm chủ và khách cho
nhau, dùng làm Thể và Dụng cho nhau, giống như lên cầu
thang, [trèo lên] từng tầng một đạt tới viên
măn rốt ráo.
Tôi
cũng thường thưa tŕnh cùng các đồng học:
Chúng ta buông xuống hết thảy chấp trước, chẳng
c̣n chấp trước hết thảy các pháp thế gian và
xuất thế gian, sẽ là A La Hán. Buông xuống hết thảy
phân biệt, đối với hết thảy các pháp thế
gian và xuất thế gian đều không phân biệt, quư vị
thấy tâm thanh tịnh lắm, thanh tịnh là trí. Tâm thanh tịnh
khởi tác dụng, chiếu kiến cảnh giới bên
ngoài; sự chiếu kiến ấy là Quán. Chỉ chính là Quán,
Chỉ là Thể. Quán là Dụng của Chỉ. Quán là Thể,
Chỉ là Dụng. Nhằm đảm bảo cảnh giới
định tĩnh ấy nhất định được
nâng cao hơn, phải Quán. Chẳng thấy thấu suốt,
quư vị sẽ không buông xuống được! Đối
với người thế gian, khi tiếng tăm, lợi
dưỡng, ngũ dục, lục trần hiện tiền,
mọi người tranh nhau mong cầu, đoạt lấy.
Chỉ có người thấy thấu suốt, người
ấy thấy thấu suốt như thế nào? Người
ấy biết thế gian này là giả, là rỗng không. “Phàm những ǵ có h́nh tướng
đều là hư vọng”,
“hết thảy pháp hữu vi như mộng, huyễn, bọt,
bóng”, vạn pháp vô thường,
người ấy đă thấy thấu suốt. Đă thấy
thấu suốt, sẽ như thế nào? Người ấy
chẳng tranh, chẳng c̣n chấp trước nữa. Thấy
thấu suốt giúp buông xuống. Sau khi đă buông xuống,
sẽ có năng lực giúp cho quư vị thấy thấu suốt
thêm một tầng, tăng cao hơn!
Thấy
thấu suốt những ǵ? Thấy thấu suốt Dục
Giới Thiên. Dục Giới gồm có sáu tầng trời, thù
thắng hơn nhân gian của chúng ta quá nhiều. Mỗi tầng
trời sau đều thù thắng hơn tầng trời trước!
Tuy phước báo lớn, thọ mạng dài, vẫn chẳng
ĺa khỏi sanh, lăo, bệnh, tử. Đó là thấy thấu
suốt! Sau khi đă thấy thấu suốt, có c̣n hâm mộ
Dục Giới Thiên hay không? Chẳng hâm mộ! Đối
với thiên vương cũng chẳng hâm mộ. Đối
với Ngọc Hoàng đại đế như người
Hoa đă nói, cũng không hâm mộ. Vậy là đă tiến
lên một “tầng lầu” cao hơn nữa, quư vị đă
buông Dục Giới xuống. Đă buông Dục Giới xuống,
Sắc Giới hiện tiền. Trong Sắc Giới Thiên chẳng
có dục, chẳng có những thứ dục như tài, sắc,
danh vọng, ăn uống, ngủ nghê. Họ có sắc tướng,
có sắc thân, nhưng chẳng có ăn uống, ngủ nghê,
nam nữ, chẳng có những thứ ấy, thanh tịnh
hơn Dục Giới nhiều lắm! Quan sát cẩn thận,
sẽ thấy Sắc Giới có mười tám tầng trời,
tuy chẳng có Khổ Khổ, vẫn c̣n có Hoại Khổ,
vẫn chẳng phải là rốt ráo y như cũ! Chư
thiên Dục Giới thấy những điều đó hết
sức hâm mộ. V́ thế, sau khi đă thấy thấu suốt,
có c̣n mong muốn mười tám tầng trời của Sắc
Giới nữa không? Chẳng cần, buông xuống!
Lại
lên cao hơn nữa, sẽ là Vô Sắc Giới Thiên. Vô Sắc
Giới Thiên ngay cả thân thể cũng chẳng cần.
Lũ b́nh phàm chúng ta thường gọi [Vô Sắc Giới
Thiên] là “linh giới” (spirit
world), họ chẳng có nhục thể. Lăo Tử đă nói
như thế này: “Ngô hữu
đại họa, vi ngô hữu thân”, [nghĩa là] Ngài nói ta
có mối lo âu rất lớn, là ǵ vậy? Ta có thân thể!
Chẳng có thân thể, sẽ tốt hơn nhiều! Lăo Tử
nghĩ như vậy. Xác thực là chư thiên trong Vô Sắc
Giới Thiên chẳng cần thân thể. Thân thể là thứ
thừa thăi, phiền toái; v́ thế, [Vô Sắc Giới] càng
thanh tịnh hơn Sắc Giới, nhưng như thế
nào? Chẳng có cách nào phá vô minh, chẳng có cách nào thoát khỏi
lục đạo. Cảnh giới tuy tốt đẹp,
thọ mạng lâu dài. Đức Phật bảo thọ mạng
của Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Thiên là tám vạn
đại kiếp, chẳng có cách nào tính toán! Thế
nhưng tám vạn đại kiếp tuy dài, vẫn là có số
lượng, có lúc kết thúc hay không? Đương nhiên
là có lúc kết thúc. Đă kết thúc th́ vẫn phải
đọa lạc xuống dưới, v́ phía trên chẳng
có ǵ nữa, chẳng thể tiến lên cao hơn nữa.
Hiện tượng luân hồi mà! Do vậy, quư vị
đă thấy thấu suốt th́ mới có thể buông xuống!
Hiện
tượng luân hồi là ǵ? Nguyên nhân căn bản là chấp
trước. Chấp trước là không buông xuống
được! Đối với lục đạo, chẳng
buông xuống t́nh chấp ấy! Sau khi đă buông xuống, quư
vị mới có thể vượt thoát lục đạo,
chuyện này quan trọng hơn bất cứ điều
ǵ khác! Khi nào sẽ buông xuống? Lúc nào cũng đều
phải buông xuống, quư vị mới chẳng bị chướng
ngại. Chẳng phải là nói “ta đến khi nào đó sẽ
buông xuống”, chẳng thể được! Lúc nào
cũng đều buông xuống, tâm địa sạch làu làu,
thứ ǵ cũng đều chẳng có. Nếu chúng ta mong
văng sanh thế giới Cực Lạc, trong tâm chỉ có A Di
Đà Phật, chỉ có thế giới Cực Lạc, những
thứ khác thảy đều chẳng có, vậy th́ mới
được! Hễ quư vị có mảy may lưu luyến
nào, sẽ chẳng thể văng sanh! Hễ có mảy may
lưu luyến thế gian này, quư vị chẳng có cách nào
thoát ĺa thế gian này; nhưng quư vị lại phải hiểu
rơ: Trong thế gian này, thân người khó có! Hăy ngẫm
đến chính ḿnh, trong một đời này, đạo
đức làm người cơ bản ta có làm được
hay không? Nói theo người Hoa, “cơ
bản” sẽ là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín; nói theo Phật
pháp, sẽ là Ngũ Giới, Thập Thiện, quư vị có
làm được hay không?
Đối
với Ngũ Giới, Thập Thiện, phải đạt
tiêu chuẩn là sáu mươi điểm, đời sau mới
có thể chẳng đánh mất thân người, [nghĩa
là] lại sanh trong thế gian, chẳng bị mất thân
người. Nếu chúng ta đối với Ngũ Giới,
Thập Thiện chẳng đạt tới sáu mươi
điểm, sẽ vào tam đồ, tức súc sanh, ngạ
quỷ, địa ngục! V́ thế, người thế
gian thường nói “người
đă chết sẽ làm quỷ”; người đă chết
bèn thành quỷ, nói kiểu ấy không hợp lư! Người
ta sau khi đă chết, đời sau có đến sáu chỗ
để đầu thai, quỷ là một trong sáu nơi ấy,
lẽ nào lại nói người đă chết đều
vào quỷ đạo? Nói kiểu này chẳng suông! Nhưng
nghĩ kỹ, câu nói ấy cũng chẳng phải là vô lư!
Nghĩa là sao? Người ta sau khi đă chết, đúng là
quá nửa đều vào quỷ đạo. Nghiệp nhân của
quỷ là ǵ? Xan tham! Quư vị hăy ngẫm xem, trong thế
gian hiện thời, cái tâm tham của chúng ta có nặng hay
không? Cái này cũng muốn, cái kia cũng muốn, do như
vậy nên cũng chẳng thể xả để tặng
cho người khác. Do như vậy mà chẳng nỡ ḷng
cúng dường! Xan tham mà! Xan tham là nghiệp nhân của ngạ
quỷ đạo; v́ thế, ngạn ngữ có câu “người đă chết đều
biến thành quỷ”, ngẫm
ra cũng có lư! Trong thế gian này, có mấy ai như nay
chúng ta đang nói, làm được Đệ Tử Quy, giữ
được Ngũ Giới, Thập Thiện, quyết
định chẳng đánh mất thân người? Đời
sau, người ấy nhất định sanh trong cơi trời
người, tuyệt đối chẳng đọa trong ba
ác đạo. Chúng ta nghĩ xem: Trong xă hội hiện thời,
có mấy ai làm được? Chẳng cần nghĩ
tưởng ai khác, hăy quay lại xét chính ḿnh. Chính ḿnh có làm
được hay không? Nếu bản thân ta chẳng làm
được, quư vị phải có ḷng cảnh giác cao
độ. Đời sau, quư vị sẽ có phần trong
tam đồ, chẳng có phần trong nhân thiên! Điều
này đáng sợ quá!
Do
vậy, bất nhân, bất nghĩa, vô lễ, ngu si, vọng
ngữ lừa người, tôi nói những điều ấy
là ǵ? Tương phản với Ngũ Thường! Trung
Hoa thường nói đến “nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín”. Vô nhân, vô nghĩa, vô lễ, ngu
muội (ngu muội là vô tri), lừa gạt người
khác là vô tín, đấy là nghiệp nhân của tam đồ.
Có người nói: “Nếu nay chúng ta nói nhân, nghĩa, lễ,
trí, tín, nhưng người khác đối với ta chẳng
bận tâm [tuân thủ những điều ấy], chẳng
phải là ta bị thua thiệt, bị lừa gạt
ư?” Không sai! Quư vị không chịu bị thua thiệt, bị
lừa gạt, vậy th́ đời sau quư vị sẽ vào
trong tam ác đạo. Quư vị chịu bị thua thiệt,
chịu bị lừa, đời sau sẽ chẳng đọa
tam đồ. Hăy tính toán chuyện này cho kỹ, chớ nên
sơ ư, chớ nên qua loa! Chuyện phải nên ngưng dứt
th́ phải ngưng dứt, phải nên buông xuống. Chuyện
đáng nên thông đạt, hiểu rơ, quư vị phải thấy
rơ ràng, thấy minh bạch, đó là thấy thấu suốt,
tức là Quán. Có Chỉ, có Quán!
Đạt
đến “phổ nhăn”, trong
phần trước, tôi đă nói với chư vị, [“phổ nhăn”] là nói về bậc
Địa Thượng Bồ Tát, chẳng phải là phàm
nhân! Nói nghiêm ngặt, sẽ là từ Thất Địa trở
lên, rất gần với quả vị rốt ráo, [đó
là] phổ nhăn. Phổ Môn, “phổ
nhăn tề chiếu”, [nghĩa là] đối với toàn
thể vũ trụ và nhân sinh, chúng ta thường nói là hoàn
toàn thấy thấu triệt “tánh,
tướng, lư, sự, nhân, quả”, chẳng có mảy
may sai lầm nào, th́ gọi là Đại Bồ Tát, chẳng
phải là phàm nhân! Trong lục đạo, điều quan
trọng nhất là nhân quả. Thiện nhân nhất định
cảm thiện quả, ác nhân nhất định mắc
ác báo, nhân quả báo ứng chẳng sai sót mảy may! Cổ
nhân thường nói: “Bất thị
bất báo, thời hầu vị đáo” (Chẳng phải
là không báo ứng, chỉ là chưa đến lúc). Khi đă
đến lúc, hối hận chẳng kịp đâu nhé! Hăy
thừa dịp chưa đến lúc mà gấp rút quay đầu,
đó là đúng! Chỉ cần một hơi thở
chưa dứt, hăy triệt để quay đầu, sẽ
được cứu. V́ thế, Chỉ Quán của Hoa
Nghiêm có thể nói là Chỉ Quán đạt đến rốt
ráo viên măn, lấy trí Phổ Môn làm chủ; đấy chính
là trí huệ Bát Nhă vốn sẵn có trong tự tánh, tức là
Căn Bản Trí, [hoặc c̣n gọi là] Thật Trí.
“Cố đốn chiếu Phổ
Môn pháp giới” (V́ thế, nhanh chóng chiếu soi pháp giới
Phổ Môn). Chúng ta thường gọi “Phổ Môn pháp giới” là “trọn khắp pháp giới hư không giới”. “Đốn chiếu”: Một
chiếu, hết thảy đều chiếu, chẳng sót một
thứ ǵ! “Tất nhiếp nhất
thiết vi bạn” (Ắt đều gồm thâu hết
thảy làm bạn). “Tất”
(必) là nhất định. Nhiếp hết thảy các
pháp môn làm bạn, Hoa Nghiêm là chủ, chủ và bạn chẳng
hai! “Vô tận, vô tận”:
Đấy là [cảnh giới] của Hoa Nghiêm Chỉ Quán, chúng
ta có thể thấu hiểu câu này. Nói đến Chỉ
Quán được mong cầu trong kinh Hoa Nghiêm th́ đấy
chính là cảnh giới của bậc Sơ Trụ trong Viên
Giáo trở lên. Phần kinh văn chúng ta đang đọc
hiện thời [chính là cảnh giới của] hàng Thập
Tín Bồ Tát, c̣n chưa đạt đến [Sơ Trụ],
nhưng đă mấp mé gần đến, tiến lên cao
hơn một cấp, sẽ là Sơ Trụ trong Viên Giáo, sẽ
khế nhập cảnh giới ấy, phá một phẩm
vô minh, chứng một phần Pháp Thân. Quư vị thấy
đó, buông xuống Kiến Tư phiền năo, Kiến
Tư phiền năo là chấp trước, buông xuống Trần
Sa phiền năo, Trần Sa phiền năo là phân biệt, Vô Minh phiền
năo cũng buông xuống, Vô Minh phiền năo là vọng tưởng,
chẳng ở trong mười pháp giới, đă vượt
thoát mười pháp giới. Vượt thoát mười
pháp giới, sẽ là thế giới Hoa Tạng. Do vậy,
chúng ta hiểu: Hàng Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo trở
lên, sẽ đạt được Hoa Nghiêm Chỉ Quán.
Tuy
trong thế giới Hoa Tạng c̣n có bốn mươi mốt
tầng cấp, chư vị hăy ngẫm xem: Vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước thảy đều buông xuống.
Tôi nói “vọng tưởng”
là khởi tâm động niệm. Nói cách khác, chẳng khởi
tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, không chấp
trước, ở trong cảnh giới ấy, lấy đâu
ra tầng cấp? Nếu c̣n có Thập Trụ, Thập Hạnh,
Thập Hồi Hướng, Thập Địa, nói cách khác,
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước sẽ
thảy đều trọn đủ, toàn bộ đều
tồn tại, chính là như thế đó! Vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước đều hoàn toàn chẳng
có, lấy đâu ra tầng cấp? Thật sự là chẳng
có tầng cấp! Chẳng có tầng cấp, [thế mà]
đức Phật dạy có tầng cấp, những tầng
cấp ấy do đâu mà có? Do tập khí vô thỉ vô minh chẳng
đoạn, [tức là hành nhân] chẳng có vô minh, đă buông
xuống [vô minh], nhưng chưa đoạn tập khí.
Đối với tập khí, trong phần trước, tôi
[đă nói] cổ nhân dùng mùi của cái b́nh đựng rượu
để tỷ dụ tập khí, tỷ dụ ấy dễ
hiểu. Cần phải tốn một thời gian dài, tự
nhiên [mùi rượu trong b́nh] chẳng c̣n nữa. Cổ nhân
nói: Ở đây, vận dụng [các phương pháp trừ
phiền năo], sẽ chẳng đắc lực. V́ sao? Chẳng
thể khởi tâm động niệm. Khởi tâm động
niệm, tức là vô minh dấy lên hiện hành. Căn bản
là chẳng khởi tâm, không động niệm, thanh tịnh
tịch diệt; đấy là chân trí. Do vậy, phép Quán của
người ấy có thể quán Phổ Môn pháp giới, tức
là trọn khắp pháp giới hư không giới. Lại
c̣n là pháp giới trùng trùng vô tận, người ấy
đều thấy rơ ràng, đều thấy minh bạch.
Trọn khắp pháp giới hư không giới là một Thể,
một pháp giới, cho nên mới gọi là Nhất Chân. Pháp
giới mới gọi là Nhất Chân. Từ chỗ này,
chúng ta sẽ lănh hội đôi chút, thấu hiểu ít phần.
Chỗ khác biệt giữa Pháp Thân Bồ Tát và chúng ta là ǵ?
Đă nói rơ ràng [ở đây]!
Sau
đó, c̣n có [lực] thứ mười, lực thứ
mười là tư duy, tức “tư
duy lực”.
(Sớ)
Tư duy giả, trù lượng ưng tác bất ưng tác
cố.
(疏)思惟者,籌量應作不應作故。
(Sớ: Tư duy là suy tính có nên làm hay không nên làm).
Nay
chúng ta nói [tư duy] là “suy xét”. Quư vị suy nghĩ nhiều
lẽ, nếu đều hiểu minh bạch, rơ ràng mọi
thứ, chẳng thể nói là “hiểu rơ mười phần”,
có những thứ chỉ hiểu được một,
hai phần, quư vị hăy suy nghĩ: “Trong thế gian hiện
thời, chuyện nào ta nên làm? Chuyện nào ta chẳng nên
làm?” Chuyện chẳng nên làm, quyết định chớ nên
làm nữa! Chuyện đáng nên làm, sẽ thực hiện tốt
đẹp; đó là đúng. Đại Thừa Phật pháp
có Thể và Dụng. Nói theo phía bản thân ta: Không ngừng
nâng cao cảnh giới của chính ḿnh là chuyện nên làm.
Chuyện gây chướng ngại khiến cho cảnh giới
chẳng thể nâng cao chính là chuyện chớ nên làm; phải
hiểu điều này! Đối với người khác
mà nói: Giúp chúng sanh ĺa khổ được vui, đáng nên
làm. Khiến cho chúng sanh v́ ta mà chịu khổ, đấy
là chuyện chớ nên làm. Chúng ta phải thực hiện,
phải thật sự hành! Ta thật sự tu hành, thật
sự đúng lư, đúng pháp, tự nhiên sẽ gia tŕ người
khác. [Nghĩa là] người khác trông thấy, sẽ sanh tâm
hoan hỷ, tán thán, học tập theo quư vị; đấy
là lợi tha. Do vậy, tự lợi là lợi tha, lợi
tha là thật sự tự lợi, Tự và Tha chẳng hai.
Biết chuyện ǵ đáng nên làm, chuyện ǵ đừng nên
làm, chuyện này quan trọng hơn bất cứ chuyện
ǵ khác!
Thanh
Lương đại sư nói mười câu này rất
hay, cả mười câu đều nói là Lực. Những
lực ấy có thể giúp chúng ta tăng trưởng đạo
nghiệp, có thể giúp chúng ta nâng cao cảnh giới,
mười loại lực mà! Đương nhiên, những
ǵ kinh đă nói đều là nêu ra những trường hợp
tiêu biểu. Hiểu rơ đạo lư này, [sẽ biết]
phàm những lực nào giúp chúng ta tăng trưởng đạo
nghiệp, chúng ta thảy đều phải làm. Đó là Tăng
Thượng Duyên cho sự tu hành của chúng ta. Lại xem
đoạn kinh văn thứ năm tiếp theo. Đoạn
thứ năm nói về Thiện Xảo. Chúng ta đọc
một đoạn kinh văn:
(Kinh)
Vân hà đắc Uẩn thiện xảo, Giới thiện xảo,
Xứ thiện xảo, Duyên Khởi thiện xảo, Dục
Giới thiện xảo, Sắc Giới thiện xảo, Vô
Sắc Giới thiện xảo, Quá Khứ thiện xảo,
Vị Lai thiện xảo, Hiện Tại thiện xảo?
(經)云何得蘊善巧。界善巧。處善巧。緣起善巧。欲界善巧。色界善巧。無色界善巧。過去善巧。未來善巧。現在善巧。
(Kinh:
Làm thế nào để đắc Uẩn thiện xảo,
Giới thiện xảo, Xứ thiện xảo, Duyên Khởi
thiện xảo, Dục Giới thiện xảo, Sắc Giới
thiện xảo, Vô Sắc Giới thiện xảo, Quá Khứ
thiện xảo, Vị Lai thiện xảo, Hiện Tại
thiện xảo?)
Chúng
ta xem phần Sớ của Thanh Lương đại
sư, đây là đoạn thứ tư trong phần Biệt
Thuyết.
(Sớ)Đệ
tứ ư pháp thiện xảo, giai ước lưu chuyển
dĩ minh.
(疏) 第四於法善巧,皆約流轉以明。
(Sớ:
Thứ tư, thiện xảo đối với các pháp,
đều dựa theo sự lưu chuyển để minh
định [những ư nghĩa này])
Đoạn
này hoàn toàn nói về Sự, chẳng nói về Lư, mà hoàn toàn
là luận định Sự! Mười câu này được
chia thành ba đoạn, bốn câu đầu là “lưu chuyển chi Thể” (cái
Thể của sự lưu chuyển). Chúng ta gọi “lưu chuyển” là luân hồi
trong lục đạo, chẳng thoát ra được! V́
thế, những lời này nhằm chuyên nói với chúng sanh
trong lục đạo, có thể nói như thế đó! “Uẩn, Giới, Xứ, Duyên Khởi”
là Thể của sự lưu chuyển. Dục Giới, Sắc
Giới, Vô Sắc Giới là nơi chốn để lưu
chuyển, quư vị lưu chuyển tại nơi nào? Lưu
chuyển trong tam giới, trong ṿng tam giới. Tam giới là
lục đạo, chẳng thoát ra được. “Quá khứ, vị lai, hiện tại”
là nói tới thời gian, “tam thế,
lưu chuyển chi thời” (ba đời là thời gian
lưu chuyển). Các nhà khoa học hiện đại khá thông
minh, họ đă phát hiện thời gian và không gian chẳng
thật. Dưới một điều kiện nào đó, không
gian bằng zéro, chẳng có không gian! Dưới điều
kiện nào đó, thời gian bằng zéro! Thời gian và không
gian đều chẳng chân thật, từ ba ngàn năm
trước, đức Phật đă nói rơ điều này!
Sách
giáo khoa sơ học nhập môn của Tướng Tông là Bách
Pháp Minh Môn Luận. Trong tài liệu giảng dạy ấy, đức
Phật đă nói về không gian và thời gian. Đức Phật
chia hết thảy các pháp thành năm loại lớn:
-
Loại thứ nhất là tâm pháp.
-
Loại thứ hai là tâm sở pháp, tức là hiện tượng
tâm lư, hoạt động tâm lư.
-
Loại thứ ba nói về sắc pháp. Sắc pháp là vật
chất. Tâm và Tâm Sở đều chẳng phải là vật
chất, chúng ta gọi chúng là tinh thần, c̣n sắc pháp là
vật chất.
-
Thứ tư là nói đến Bất Tương Ứng
Hành Pháp. Có một thứ như thế đấy, nó lại
chẳng phải là tâm pháp, mà cũng chẳng phải là Tâm Sở
Pháp. Nó cũng chẳng phải là sắc pháp, nhưng cũng
chẳng có cách nào ĺa khỏi những pháp ấy. Nói theo cách
hiện thời, loại này chính là những khái niệm trừu
tượng, chẳng thật! Thật ra, [bách pháp] cũng đều
chẳng thật, nhưng thứ này (Bất Tương Ưng
Hành Pháp) quá giả!
-
Loại thứ năm là pháp vô vi. Chúng là thật, vĩnh hằng
bất biến.
Trong
năm loại lớn ấy, không gian và thời gian đều
thuộc loại Bất Tương Ứng Hành Pháp. Nói theo
cách hiện thời, do đâu mà có thời gian và không gian? Do
khái niệm trừu tượng, tuyệt đối chẳng
là sự thật. Từ ba ngàn năm trước, Thích Ca
Mâu Ni Phật đă dạy chuyện này, đến nay giới
khoa học phát hiện.
Các
khoa học gia nói “dưới một
loại điều kiện nào đó”, điều kiện
ấy là ǵ? Trong Phật pháp, điều kiện ấy
được gọi là Chỉ Quán, Chỉ Quán là Thiền
Định. Bởi lẽ, danh từ Thiền Định là
Phạn Hoa hợp dịch, gồm hai chữ. Thiền (禪) tức là chữ phiên âm [rút gọn] của Thiền
Na (Dhyāna). Định (定) là văn tự Trung Hoa. V́ trong Thiền Na quả thật
có ư nghĩa Định trong tiếng Hán; do vậy, người
phiên dịch đă dịch Thiền Na thành Thiền Định.
Giải thích, Thiền Định là Tĩnh Lự, Tĩnh
(靜) là vắng lặng. Lự (慮) có nghĩa là sự tĩnh chỉ ấy chẳng chết
cứng, mà là sống động. V́ thế, nó có Quán. Nếu
nói nó Tĩnh chẳng có Lự, hoặc có Chỉ mà chẳng
có Quán, cảnh giới cao nhất sẽ là Vô Tưởng
Thiên trong Tứ Thiền Thiên. Người ấy có Định,
công phu định lực rất sâu, nhưng trong Định
chẳng có quán chiếu. V́ thế, Định ấy là loại
Định chết cứng, chẳng khởi tác dụng. Định
ấy chẳng sanh trí huệ, Định ấy vĩnh viễn
chẳng khai ngộ. Sai mất rồi! Phật pháp nói trong Định
có cảnh giới, cảnh giới ấy là Quán.
Những
điều này đă được nói trong phần trước.
Những điều đă nói trong phần trước, có
phạm vi to lớn, “phổ
nhăn tề chiếu”, “đốn
chiếu Phổ Môn pháp giới”. Phạm vi này to lớn,
hàng Bồ Tát minh tâm kiến tánh mới có thể làm
được. Những kẻ tu hành trong tam giới chẳng
đạt đến, chẳng có Định sâu như thế.
Do đó, chẳng có năng lực Chiếu to lớn như
vậy. Người đắc tiểu định sẽ
có năng lực quán chiếu nhỏ, đại định
sẽ có năng lực quán chiếu to hơn. Công phu Định,
nói nghiêm ngặt, mỗi cá nhân khác biệt! Cùng là một người,
nếu người ấy thật sự tu hành, mỗi năm
sẽ khác hẳn, mỗi năm sẽ một sâu hơn, trí
huệ mỗi năm một lớn hơn, người ấy
hằng ngày có tiến bộ! Đức Phật chỉ v́
chúng ta nói khái lược. Nếu nói chi tiết, sẽ chẳng
có cách nào nói được! Mỗi người mỗi khác!
Ngay như mỗi cá nhân, mỗi năm đều khác nhau, mỗi
tháng chẳng giống nhau. V́ thế, Tĩnh Lự hay Tịch
Chiếu đều là dịch từ chữ Thiền Định.
Tịch (寂) là tịch
diệt, tịch diệt là Chỉ; Chiếu (照) là chiếu kiến. Đấy là Quán.
“Thiện xảo” (善巧) hoàn toàn nói theo Quán, thấy những hiện tượng
trong vũ trụ, thời gian và không gian cũng hết sức
thiện xảo. Thiện (善) là tốt, Xảo (巧) là khéo! Chúng ta không xem phần kinh văn này, nhưng nếu
chúng ta quan sát kỹ lưỡng thân thể con người,
quư vị hăy nói xem, có phải là thiện xảo đến
tột cùng hay chăng? Mắt có thể nh́n, tai có thể
nghe, mũi có thể ngửi, lưỡi có thể nếm,
thân có thể tiếp xúc, ư có thể biết. Quư vị thấy
chuyện này, trên thực tế, trong ấy đều có! Đó
là ǵ? “Uẩn thiện xảo”.
Những điều tôi đă nói đều được
bao gồm trong Uẩn. Uẩn chính là Ngũ Uẩn (Pañca Skandha), tức
Sắc (Rūpa), Thọ
(Vedanā), Tưởng (Saṃjñā), Hành (Saṃskāra), Thức (Vijñāna). Sắc là vật chất, nay chúng ta nói là Nhăn Căn,
Nhĩ Căn, Tỵ Căn, Thiệt Căn, Thân Căn, Ư
Căn. Ư Căn thuộc loại tâm pháp; năm căn
trước đó, tức Nhăn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân,
đều là sắc pháp. Trong tâm pháp có Thọ, Tưởng,
Hành, Thức. Đó là Ngũ Uẩn. Quư vị quan sát, tư
duy cẩn thận, chúng có phải là thiện xảo tột
bậc hay không? “Xảo” (巧) là xảo diệu. Có hai con mắt, hai con mắt th́ mới
điều chỉnh tiêu cự (focal length); có [điều
chỉnh] tiêu cự th́ mới hiển thị xa gần. Nếu
chỉ có một con mắt, xa gần sẽ nh́n chẳng
ra. Rơ rệt nhất là như khi chúng ta dùng máy chụp h́nh:
Khi dùng một máy chụp h́nh, h́nh chụp sẽ là hai chiều.
Nếu dùng hai máy chụp ảnh, điều chỉnh tiêu cự
đúng mức, sẽ là h́nh lập thể (ba chiều, 3D).
Ở Mỹ, tôi đă từng xem phim 3D, chẳng có ǵ khác,
chỉ là hai máy chiếu phim đồng thời, khiến
cho quư vị cảm nhận rơ ràng cảm giác lập thể!
Uẩn thiện xảo đấy!
“Giới thiện xảo”, Giới
là mười tám giới. Sáu căn, sáu trần, sáu thức,
đấy là mười tám giới. Sáu căn: Mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân, ư là sáu căn. Sáu trần là sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp. Trong sáu trần, pháp trần
là đối tượng của ư căn. Sáu thức là [các
thức nơi] mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ư.
Mười tám món gồm sáu căn, sáu trần, sáu thức ấy
đă gồm thâu toàn thể vũ trụ. Toàn thể vũ
trụ chẳng ra ngoài mười tám giới ấy. “Giới” (界) là “giới hạn, giới phần”, chẳng ra khỏi
mười tám [giới hạn ấy]. Sáu căn, sáu thức
nơi bản thân loài người chúng ta, đó là Căn Thân
của chúng ta. Căn (根) là sắc thân, chúng ta gọi Thức là “tinh thần”.
Cái thân của động vật là một hiện tượng
do tinh thần và vật chất ḥa hợp như thế đó.
Cảnh giới bên ngoài gồm có lục trần, tức sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp, đă bao gồm toàn thể
vũ trụ. Nay đă hết thời gian rồi, hăy nghỉ
ngơi mấy phút.
***
Chư
vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Chúng
ta xem tiếp:
(Kinh)
Uẩn thiện xảo, Giới thiện xảo, Xứ thiện
xảo.
(經)蘊善巧。界善巧。處善巧。
(Kinh: Uẩn thiện xảo, Giới thiện xảo,
Xứ thiện xảo).
“Xứ” (處, Āyatana) là
mười hai xứ (Dvadasayatanani).
Trong kinh giáo, khi đức Phật khai thị cho đại
chúng, đă dựa theo căn tánh bất đồng của
chúng sanh. Nói theo kiểu hiện thời, tinh thần cùng vật
chất được Phật pháp gọi là “sắc, tâm”. Sắc là vật
chất, Tâm là tinh thần. Đối với kẻ mê Sắc
nhẹ, mê tâm nặng nề, tức là đối với
phương diện tinh thần, người ấy mê nặng
nề, đối với phương diện vật chất,
người ấy mê nhẹ hơn, đức Phật nói Ngũ
Uẩn. Quư vị thấy Ngũ Uẩn, Sắc chỉ nói
một điều, Tâm nói đến bốn điều, tức
là Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Đấy là đức
Phật thuyết pháp thiện xảo. Mười hai xứ
[là để nói với kẻ] hoàn toàn tương phản
với hạng người trước, kẻ đó mê tâm
nhẹ, mê sắc nặng, tức là đối với
phương diện vật tướng (物相, h́nh tướng của vạn vật) bèn mê rất
nặng. V́ thế, đức Phật nói nhiều về sắc
tướng. Trong Sắc, nói ra sáu trần, tức sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp, nêu ra sáu loại trần.
Đối với thân bèn nói năm căn. Năm căn là mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, mười một điều
ấy, tức là năm căn cộng với sáu trần,
mười một món đều là sắc pháp, chỉ có ư
căn là tâm. Như vậy là đối với tâm pháp chỉ
nói một điều, sắc pháp nói mười một điều.
Đấy là kẻ mê tâm pháp nhẹ, mê
sắc pháp nặng, đức Phật liền nói theo cách ấy.
Nếu
đối với sắc và tâm đều mê rất nặng,
đức Phật bèn nói mười tám giới (Astādaśa Dhātavah). Trong mười tám giới, tâm pháp được
nói thành bảy món, sáu thức là tâm pháp, tức Nhăn Thức,
Nhĩ Thức, Tỵ Thức, Thiệt Thức,
Thân Thức, Ư Thức, sáu món, đấy là tâm pháp. Trong lục
căn, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, năm căn ấy
là sắc pháp, ư căn là tâm pháp. Do vậy, trong mười
tám giới, tâm pháp nói ra bảy món, sắc pháp nói ra mười
một món, gộp chung lại là mười tám món. Đấy
là đức Phật thuyết pháp thiện xảo, cho nên
có ba cách thuyết pháp là Uẩn, Xứ, Giới. Ba cách thuyết
pháp ấy mở rộng ra sẽ là toàn thể vũ trụ,
quư vị hăy cẩn thận quan sát, chẳng có ǵ không thiện
xảo!
Chúng
ta xem con người. Con người được sanh ra,
như trong hiện thời, dùng khoa học kỹ thuật
để tạo ra con người, tạo kiểu nào cũng
chẳng tạo được! Thiện xảo mà! Quư vị
lại xem các tiểu động vật. Quư vị thấy
trứng gà nở ra một con gà con. Con gà con vừa
được sanh ra, quư vị hăy quan sát nó cẩn thận.
Chúng ta dùng khoa học kỹ thuật tạo ra con gà con, có
thể tạo ra một quả trứng nở ra gà giống
như vậy, tinh xảo dường ấy hay không? Vũ
trụ tạo ra vạn vật, thiện xảo đến
tột cùng. Để h́nh dung chuyện ấy, bọn phàm
phu chúng ta chỉ đành dùng bốn chữ “chẳng thể nghĩ bàn”. Chúng ta thấy muôn
h́nh muôn vẻ trong vũ trụ, v́ sao có thể thiện xảo
dường ấy? Do vậy, các tôn giáo đều nói những
thứ ấy do thần tạo ra, chẳng phải do con người
làm ra, mà là do thần tạo ra. Nhưng [cách nói ấy] lại
có vấn đề: Thần tạo ra vạn vật, ai tạo
ra thần? [Nếu bảo] “thần không do ai tạo”, nói kiểu
ấy chẳng suông! Thần không do ai tạo mà có, vậy
th́ vạn vật chẳng bắt buộc phải do thần
tạo ra, mà cũng có thể tự ḿnh có. Mâu thuẫn trong
cách nói này hết sức nhiều! Chúng ta thấy đức
Phật giải thích như thế nào? Đức Phật nói
tới duyên khởi, vạn pháp do nhân duyên sanh. Duyên hết
sức phức tạp; nay chúng ta miễn cưỡng gọi
Duyên là “điều kiện”. Nó phải trọn đủ
khá nhiều điều kiện, hiện tượng do vậy
sẽ phát sanh. Các điều kiện ấy nếu thiếu
một, hai điều, hiện tượng sẽ chẳng
thể phát sanh. V́ thế, đức Phật giải thích hiện
tượng vạn hữu trong vũ trụ bằng “nhân,
duyên, quả”, nói đến ba điều; nhưng Ngài chẳng
nói đến nhân mà nói về duyên!
Cái
nhân của y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới,
chính là các chủng tử nghiệp tập được chứa
đựng trong A Lại Da Thức, gần như hết
thảy chúng sanh thảy đều có. Do vậy, trong A Lại
Da Thức của mỗi người, cũng là trong nội
tâm của quư vị, có chủng tử Phật, có chủng
tử Bồ Tát, có chủng tử Thanh Văn, [chủng tử]
Duyên Giác, có chủng tử trời, có chủng tử
người, mà cũng có chủng tử ngạ quỷ,
địa ngục, súc sanh, thảy đều trọn
đủ. Trong tâm thảy đều trọn đủ! Chủng
tử nào sẽ dấy lên hiện hành? Phải nhờ vào duyên.
Chủng tử chẳng có duyên, nó sẽ không thể dấy
lên hiện hành, cũng có nghĩa là nó sẽ không thể hiện
tướng, nhất định phải cậy vào duyên. V́
lẽ này, Phật pháp nói “duyên
sanh”, chẳng nói “nhân sanh”,
[luôn luôn] nói là “duyên sanh”.
Bốn
pháp duyên sanh là Thân Nhân Duyên, Sở Duyên Duyên, Vô Gián Duyên, và Tăng
Thượng Duyên. Đấy là nói đại lược.
Đức Phật quy nạp vô lượng nhân duyên thành bốn
loại lớn. Trong bốn loại lớn ấy, ba loại
lớn đầu tiên bản thân chúng ta đều có, chỉ
có một loại Tăng Thượng Duyên là ở ngoài, là trợ
duyên bên ngoài, c̣n ba thứ kia chính bản thân ta đều trọn
đủ.
Sở
Duyên Duyên là những ǵ chúng ta mong mỏi. Chúng ta mong mỏi
chủng tử nào sẽ dấy lên hiện hành; đấy
là Sở Duyên Duyên. Trong kinh giáo, đức Phật thường diễn tả điều này bằng
câu: “Hết thảy các pháp sanh
từ tâm tưởng”. Sở Duyên Duyên là tâm tưởng.
Thật sự là chủng tử của mười pháp giới
chúng ta đều có. Nay chúng ta đang tâm tâm niệm niệm
mong muốn điều ǵ? Mong sanh về Tây Phương Cực
Lạc thế giới làm Phật, ư niệm ấy chính là Sở
Duyên Duyên. Sở Duyên Duyên thù thắng, thù thắng khôn sánh! Quư
vị chẳng nghĩ ǵ khác, mong làm Phật. Vậy th́ v́
sao rất nhiều người niệm Phật chẳng thể
văng sanh? Tâm niệm của họ chẳng chuyên! Tuy tưởng
Tây Phương Cực Lạc thế giới, nhưng vẫn
nghĩ tới tiếng tăm, lợi dưỡng, vẫn
nghĩ tưởng ngũ dục, lục trần, vậy
là chẳng có cách nào hết! Tâm tưởng của họ
chẳng thuần, tạp loạn. V́ thế, người ấy
chẳng thể văng sanh được! Đạo lư ở
chỗ này.
Do
vậy, kinh Vô Lượng Thọ đă dạy: “Phát Bồ Đề tâm, nhất
hướng chuyên niệm”, sẽ thành công. Phát Bồ
Đề tâm, một mực chuyên niệm, thưa cùng
chư vị, đều thuộc loại Sở Duyên Duyên. Một
mực chuyên niệm cũng là Vô Gián Duyên. Quư vị chẳng
thể gián đoạn chuyện này. Gián đoạn sẽ
không được, niệm tại đâu, nghĩ tại đó.
Quư vị chớ nên thay đổi ư niệm. Ư niệm thay
đổi, nhất niệm sẽ bị gián đoạn.
Do vậy, chúng ta quan sát cẩn thận, quan sát chính ḿnh, quan
sát người khác, [sẽ thấy] nguyên nhân khiến cho công
phu niệm Phật chẳng đắc lực, chẳng thể
thành tựu là ở chỗ nào? Tạp niệm quá nhiều!
Kẻ ấy chẳng phải là chuyên niệm, chẳng phải
là nhất tâm, mà là loạn tâm, quá nhiều vọng niệm!
Vọng niệm, tạp niệm, làm sao có thể thành công
cho được? Há có lẽ ấy! Nếu nhất tâm
chuyên niệm, sẽ thành công.
Niệm
niệm chẳng quên, đấy là chuyên niệm. Nói thật
thà, chẳng cần một thời gian rất dài, ba năm
hoặc năm năm. Thông thường, phần lớn là ba
năm, tối đa là năm năm, quư vị sẽ thành
công. Sau khi đă niệm thành công, văng sanh tự tại, quư
vị muốn văng sanh, sẽ thật sự văng sanh. Chẳng
muốn trụ trong thế gian này, đi sớm một chút,
dẫu có thọ mạng mà chẳng cần đến, quư
vị có công phu này. Có công phu này, vẫn ở trong thế
gian thêm mấy năm nữa, đó là ǵ? Đó là v́ có duyên
phận. “Duyên phận” là
trong thế gian này c̣n có khá nhiều người có thể
tiếp nhận sự giáo huấn, tiếp nhận sự
khuyên dạy của quư vị, họ chịu nghe theo.
Người khác khuyên họ niệm Phật, họ không tin
tưởng, quư vị có duyên với họ. Vậy th́ quư vị
do giúp đỡ kẻ hữu duyên, bèn trụ trong thế
gian này thêm mấy năm nữa. Cái hay là quư vị thật
sự đắc công phu thành phiến, chưa phải là nhất
tâm. Hễ công phu thành phiến, sanh tử bèn tự tại.
Khi
nào muốn ra đi, bèn ra đi lúc ấy; muốn trụ thêm
mấy năm nữa cũng được, chẳng trở
ngại. Đó gọi là “sanh tử
tự tại”. Đối với thế gian này, xác thực
là chẳng nhiễm mảy trần. Đối với những
thứ tốt đẹp kiểu nào đi nữa, chẳng
hề tham luyến, chẳng động niệm. Đối
với những thứ chẳng tốt đẹp đến
mấy đi nữa, cũng sẽ chẳng dấy lên ác niệm,
chẳng có sân khuể. Nói cách khác, lục căn tiếp xúc
hết thảy người, sự, vật, xác thực là
chẳng dấy lên tham, sân, si, mạn, nghi, những điều
ấy đều gọi là vọng niệm, chẳng khởi
lên những thứ ấy! Ư niệm ấy là ǵ? Xác thực
là Chỉ Quán như vừa mới nói trong phần trước!
Không khởi tâm động niệm là Chỉ, hiểu rành mạch,
rơ ràng, minh bạch là Quán. Quán là Huệ, có Định và Huệ.
Định là không khởi tâm, không động niệm, chẳng
có chuyện ǵ không hiểu rơ ràng, không hiểu rành rẽ, Quán
đấy! Có Chỉ, có Quán.
Trong
một đời, chúng ta phải đổ công dốc sức,
thật sự đổ công dốc sức ở chỗ này,
công phu có thể đắc lực, tức là quư vị thật
sự có thể buông xuống. Quư vị thật sự mong
công phu đắc lực, nhưng lại không buông xuống
được, vậy là không có cách chi hết! V́ sao bao
nhiêu người công phu không đắc lực? Do chẳng
buông xuống cảnh duyên. “Cảnh”
(境) là nói đến vật chất, “duyên” (緣) là nói tới nhân sự. Quư vị
c̣n có người thân ái, hoặc người ưa thích
không buông được. Đấy là “duyên”. Quư vị c̣n
có tài sản, c̣n có tiếng tăm, lợi dưỡng không
buông xuống được. Đấy là vật chất,
thuộc về cảnh giới. Thảy đều phải
buông xuống! Không chỉ là nhân gian phải buông xuống, mà
cảnh giới trên cơi trời tốt đẹp ngần ấy
cũng đều phải buông xuống. Nếu quư vị chẳng
buông xuống được, sẽ như thế nào? Không buông
xuống được, trong tương lai sẽ sanh lên
trời, chẳng đến thế giới Cực Lạc
được!
Vô
Trước, Thiên Thân, và Sư Tử Giác là ba anh em học Phật,
công phu đều khá lắm. Các Ngài tu Duy Tâm Thức Định,
tu đến mức độ khá lắm. Sư Tử Giác văng
sanh trước, các Ngài cầu sanh về Di Lặc Tịnh
Độ trong Đâu Suất Thiên. Ba người ước
định, người nào đi trước, đến đó,
phải nhanh chóng trở về báo tin. Sau khi Sư Tử
Giác văng sanh, từ đầu tới cuối chẳng trở
về, chẳng có tin tức chi hết! Sau đấy, Vô
Trước Bồ Tát cũng văng sanh, sau khi sanh lên Đâu Suất
Thiên, ngay lập tức quay về, báo với Thiên Thân Bồ
Tát. Thiên Thân Bồ Tát hỏi: “V́ sao ba năm anh mới trở
lại báo tin?” Ngài nói: “Ta gặp mặt Di Lặc Bồ Tát,
ngay lập tức trở về. Cơi trời và nhân gian thời
gian sai khác rất lớn. Một ngày trong Đâu Suất
Thiên là bốn trăm năm trong nhân gian” Quư vị nghĩ
xem, ba năm, người ta ở trên đó vừa gặp
mặt liền quay về ngay, đă mất ba năm! Một
ngày trên đó là bốn trăm năm trong nhân gian. Thiên Thân bèn
hỏi: “Sư Tử Giác th́ sao?” Vô Trước nói Sư Tử
Giác đă tới tầng trời thứ tư của Dục
Giới là Đâu Suất Thiên. Đâu Suất Thiên có ngoại
viện, những thiên nữ ở ngoại viện rất
đẹp, [Sư Tử Giác] bị thiên nữ mê hoặc, hiện
thời c̣n chưa đến nội viện! Hăy nghĩ phước
báo trên cơi trời nhân gian chẳng thể sánh bằng, gặp
cảnh giới ấy, quư vị có thể bỏ được
hay không? Quư vị có thể buông xuống hay không? Có thể
thấy thấu suốt hay không? V́ lẽ ấy, lục
đạo rất khó vượt thoát. Chuyện này cũng
khó trách đức Phật dạy đệ tử, “lấy giới làm thầy, lấy
khổ làm thầy”, có đạo lư đấy!
Chớ
nên tham cầu hưởng thụ. Tập khí tham cầu hưởng
thụ rất nặng, thuận cảnh thiện duyên hiện
tiền, ngay lập tức quư vị đọa lạc. Phải
bỏ, trong lúc b́nh thường phải bỏ, càng bỏ sạch
càng hay! V́ sao? Chẳng có vướng mắc! Đối với
chuyện này, nói “bỏ” nghĩa
là trong tâm không chấp trước, thật sự buông xuống.
Nhưng có cần phải buông xuống nơi Sự hay không?
Sự có thể ảnh hưởng đến cái tâm của
quư vị; v́ thế, đức Phật dạy kẻ sơ
học phải buông xuống từ Sự. C̣n như người
tu hành trong tứ thánh pháp giới, do đă vượt thoát
lục đạo luân hồi, có buông xuống nơi Sự
hay không, chẳng sao cả! Tâm họ đă thanh tịnh, quyết
định chẳng có tham nhiễm. [Nếu] họ có tham
nhiễm, sẽ không thoát khỏi lục đạo. A La Hán
thoát khỏi lục đạo, [tức là] trong Kiến
Tư phiền năo, [các Ngài] chẳng có năm Lợi Sử,
mà năm Độn Sử[1] cũng
chẳng có. Kiến Tư phiền năo bao gồm Thân Kiến,
Biên Kiến, Kiến Thủ Kiến, Giới Thủ Kiến,
Tà Kiến, [những kiến chấp ấy] đều chẳng
có, tham, sân, si, mạn, nghi chẳng có, thảy đều
đoạn hết sạch, sẽ chứng quả A La Hán.
Có Sự hay không, chẳng liên quan chi hết, chẳng tiêm
nhiễm mảy may nào! Người ấy thật sự thấy
thấu suốt.
Phàm
phu không được! Quư vị thấy sắc nghe tiếng
bèn khởi tâm động niệm, hỏng mất rồi!
Khi ấy, làm như thế nào? Giống như chúng ta cũng
mong cầu đới nghiệp văng sanh, hăy tận hết sức
tránh né, tận hết sức trừ bỏ, ĺa khỏi cảnh
duyên. Đấy là hợp lư! Quư vị công phu chẳng đủ,
chẳng thấy thấu suốt, chỉ đành dùng phương
pháp này. Sử dụng phương pháp này lâu dài, sẽ dần
dần trở thành thói quen, rất có hiệu quả; khi lâm
chung, niệm Phật chẳng nẩy sanh chướng ngại.
Phải hiểu [điều này]! Do vậy, đối với
kinh này, trong các phần trước, tôi đă tŕnh bày cùng quư
vị: Kinh chẳng thể không nghe, chẳng thể không đọc,
chẳng thể không niệm Phật, chẳng thể không
tŕ giới, chẳng thể không tu phước, chẳng thể
không cầu sanh Tịnh Độ. Như vậy th́ mới
có thể bảo đảm chúng ta văng sanh Tịnh Độ
trong một đời này. Kẻ mới học, người
tu lâu, đều phải thời thời khắc khắc
nhắc nhở chính ḿnh.
(Kinh)
Duyên khởi thiện xảo.
(經)緣起善巧。
(Kinh:
Duyên khởi thiện xảo).
Trong
một phẩm thuộc phần trước, chương
thứ nhất là “duyên khởi
thậm thâm” (duyên khởi rất sâu), Thanh Lương đại
sư đă chú giải: “Duyên khởi,
Lục Địa quảng minh”,
nghĩa là đến phần sau, trong phẩm Thập Địa,
nơi chương Lục Địa, sẽ nói rất cặn
kẽ [về duyên khởi]. Trong phần trước, chúng
ta đă thấy duyên khởi quá sâu. Bốn câu “Uẩn, Xứ, Giới, Duyên Khởi” chính là
Thể của sự lưu chuyển. Xác thực là ai
đang lưu chuyển luân hồi trong lục đạo?
Bốn điều ấy đều có dính líu! Ngũ Uẩn,
mười tám giới, mười hai xứ, “duyên khởi” (Pratītya Samutpāda) có thể nói là Thập Nhị Nhân Duyên (Dvādaśanidāna). Trong Thập
Nhị Nhân Duyên, có quá khứ, hiện tại, vị lai, mười
hai nhân duyên trong ba đời! Chúng tôi giới thiệu
đơn giản đôi chút về danh từ Thập Nhị
Nhân Duyên. Thứ nhất là Vô Minh (Avidyā), thứ
hai là Hành (Saṃskāra), thứ ba là Thức (Vijñāna), thứ tư là Danh Sắc (Nāmarūpa),
thứ năm là Lục Nhập (Ṣaḍāyatana), thứ sáu là Xúc (Sparśa), thứ
bảy là Thọ (Vedanā), thứ tám là Ái (Tṛṣṇā), thứ chín là Thủ (Upādāna), thứ mười là Hữu (Bhava), thứ
mười một là Sanh (Jāti), thứ mười hai là Lăo Tử
(Jarāmaraṇa), mười hai danh tướng ấy. Vô Minh ở
đây chẳng phải là Căn Bản Vô Minh, trong kinh luận,
đức Phật bảo: Đấy chính là Chi Mạt Vô Minh.
Vô Minh [trong Thập Nhị Nhân Duyên] là Chi Mạt Vô Minh, chẳng
phải là Căn Bản Vô Minh (Mūlāvidyā). Vô Minh duyên Hành, Vô Minh ở đây là tập khí phiền
năo, là chủng tử trong A Lại Da Thức. Chủng tử
gặp duyên, duyên là ǵ? Duyên là hạnh nghiệp. Gặp duyên,
người ấy sẽ đầu thai, Thức bèn đầu
thai. V́ thế, Vô Minh và Hành là cái nhân trong đời quá khứ,
từ Thức đến Thọ là quả báo trong đời
này. Trong Phật pháp, có Dẫn Nghiệp và Măn Nghiệp. Hành
chính là Dẫn Nghiệp, dẫn dắt quư vị đi
đầu thai.
Đầu
thai cũng phải có điều kiện, chẳng phải
là vô điều kiện. Con cái và cha mẹ có bốn loại
duyên, đức Phật dạy điều này! Nếu chẳng
có cái duyên ấy, nó sẽ chẳng thể đầu thai vào
nhà quư vị:
1)
Loại thứ nhất là báo ân. Trong quá khứ, quư vị có
ân đối với nó, nó hết sức cảm ơn, sẽ
đầu thai làm con cái trong nhà quư vị. Đứa con ấy
từ bé cũng rất ngoan ngoăn, hiếu tử hiền tôn
(con hiếu, cháu hiền). Do có cái nhân từ đời quá
khứ, đấy là báo ân.
2)
Thứ hai là báo oán. Trong đời quá khứ, quư vị quá
trớn đối với nó, có cừu oán, oán hận, đời
này nó đến báo cừu. Nó sẽ là đứa con ngỗ
nghịch, bất hiếu, bại hoại gia đ́nh, có thể
khiến cho quư vị tan cửa nát nhà, đến báo cừu
mà!
3)
Loại thứ ba là trả nợ. Trong đời quá khứ,
quư vị đă bố thí cho nó rất nhiều, hoặc là nó
thiếu nợ quư vị rất nhiều. Đời này gặp
gỡ, nó c̣n có phước báo, bèn đến để trả
nợ. Như vậy th́ con cháu sẽ cung phụng quư vị
về mặt vật chất chẳng thiếu thốn, tuy
chẳng có hiếu tâm, chẳng có ḷng cung kính đối với
cha mẹ, nhưng sẽ chiếu cố đời sống
của cha mẹ. Lại c̣n tùy thuộc vào nợ nhiều
hay ít. Nếu thiếu nhiều, nó sẽ trả nhiều,
cuộc sống vật chất của quư vị rất
sung túc. Nếu thiếu nợ ít, nó sẽ trả ít, miễn
cưỡng làm cho quư vị có thể sống qua ngày, quư vị
chẳng được dư dả chi cả!
4)
Lại c̣n có một loại là đ̣i nợ, tức là cha mẹ
thiếu nợ nó. Thiếu nợ ít, đại khái là trẻ
sanh ra, sống đến ba bốn tuổi bèn chết ngắc,
nó bỏ đi. Thiếu nợ nhiều, mười mấy
tuổi, hai mươi tuổi mới chết, nó đă ra đi.
Quư vị vun quén cho nó học hành, học đến khi tốt
nghiệp đại học, chết ngắc, [cha mẹ] tốn
không ít tâm huyết, hao tốn chẳng ít tiền. Đ̣i nợ
đấy mà!
Bốn
thứ duyên đấy nhé! Chẳng có bốn loại duyên ấy,
sẽ chẳng sanh vào nhà đó!
V́
thế, hiện thời, chúng tôi thấy rất nhiều người
làm cha mẹ than với tôi trẻ nhỏ khó dạy. Do nguyên
nhân nào? Đại khái đều là do báo oán, đều là do
đ̣i nợ. V́ thế, chính ḿnh phải suy nghĩ, quư vị
có phải là ưa thích bố thí, thích cúng dường, thích
giúp đỡ những người khổ sở, khó khăn
hay không? Quư vị bố thí ân đức, vậy th́ con cái quư
vị sẽ tốt đẹp, đều đến
để báo ân, đều đến để trả nợ,
chẳng phải là báo oán, chẳng nhằm đ̣i nợ. Làm
sao chẳng tốt đẹp cho được? Nếu khởi
tâm động niệm đều là ích kỷ, luôn mang ư niệm
tổn người, lợi ḿnh, thôi rồi! Trong tương
lai, con cháu của quư vị toàn là đến đ̣i nợ,
hoặc đến báo oán, chuyện này phiền toái to lớn!
Một
người trong một đời, bất luận là ai, những
chuyện gặp gỡ suốt một đời trong thế
gian này đều có mối quan hệ nhân quả báo ứng
với đời trước. Nếu quư vị hiểu rơ
ràng, sẽ chẳng oán trời, sẽ chẳng hờn người.
V́ sao? Tự làm tự chịu, quư vị có thể trách ai
được chớ? Đức Phật đă giảng
những chuyện này quá rơ ràng. Người một nhà, con
hiếu, cháu hiền, chẳng phải là chuyện dễ!
Trong đời quá khứ, đă bố thí ân đức, làm
lành tích đức; do vậy, người ấy mới có
quả báo tốt lành đó. Phàm là những kẻ ích kỷ,
tổn người, lợi ḿnh, tuyệt đối chẳng
có con cháu tốt đẹp! Chư vị hăy xem xét kỹ càng
lịch sử Trung Hoa và ngoại quốc, rồi quư vị
lại nh́n kỹ xă hội hiện thời, xem xét những
ḍng họ quư tộc đầy quyền thế, hăy xem con
cháu họ có thể hưng vượng mấy đời?
Hai đời là đă khá lắm rồi, chẳng hề có ba
đời đâu nhé! Do đạo lư nào? Quư vị học
nhiều Phật pháp sẽ hiểu rơ, chẳng cần phải
hỏi ai khác!
V́
thế, Vô Minh (無明) và Hành (行) là chủng
tử của nghiệp tập đời trước,
đời này gặp duyên, tức là quư vị và cha mẹ có
bốn loại duyên ấy, sẽ đầu thai vào nhà họ.
Đầu thai là Thức, người Hoa gọi Thức là
“linh hồn”, nó đến
[đầu thai].
Kế
đó là Danh Sắc (名色). Đại khái, Danh Sắc là thọ mạng trong một,
hai tuần. Nó chỉ là một khối thịt, gọi bằng
ǵ cũng đều không được, cho nên gọi nó là
Danh Sắc. “Danh” là nói tới
tinh thần, “Sắc” là nói về
vật chất. Nó là tinh thần và vật chất hỗn hợp
trong cùng một khối thịt.
Danh
từ kế tiếp là Lục Nhập (六入). Lục Nhập là thai nhi đă thành h́nh người,
có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Nó có h́nh dáng giống
như một người, nhưng chưa thể gọi là
người, bèn gọi là Lục Nhập.
Măi
cho đến khi nó sanh ra, khi sanh ra bèn gọi là Xúc (觸). Nó tiếp xúc cảnh giới bên ngoài, thoát khỏi
thân mẹ bèn tiếp xúc cảnh giới bên ngoài. Xúc là từ
sanh ra cho đến già chết, hằng ngày quư vị luôn tiếp
xúc cảnh giới bên ngoài.
Thọ
(受) là quư vị cảm nhận. Cảm
nhận khổ, lạc, ưu, hỷ, xả.
Đấy
là năm thứ quả báo trong đời hiện tại,
tức Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ. Ba
thứ đầu trong năm loại này là khi đang ở
trong thai, khi c̣n đang ở trong thai mười tháng. Sanh ra
th́ gọi là Xúc, bèn có Thọ. Do vậy, Xúc và Thọ là suốt
đời cho đến khi già, chết. Đó là quả! Thọ
khổ, thọ lạc, lục căn tiếp xúc khổ, lạc,
ưu, hỷ, xả, trong Phật pháp gọi những điều
này là Măn Nghiệp, tức là những quả báo đạt được
trong đời này từ những việc hành thiện, tạo
ác trong đời trước.
Trong
đời hiện tại, ngoài việc hứng chịu quả
báo ra, kẻ ấy sẽ c̣n tạo tác. Tạo tác dẫu
nhiều, đức Phật đă quy nạp chúng thành ba
điều, tức là ba chi trong hiện tại, là ǵ vậy?
Chính là nghiệp nhân cho đời sau. Điều thứ nhất
là Ái (愛). Ái là Vô Minh, Ái là phiền năo. Ư nghĩa
này là hiểu theo nghĩa rộng. Người mà ta ưa thích
thường mong mỏi ở chung một chỗ. Kẻ ta
chẳng ưa, hy vọng hắn sẽ xa ĺa ta. [Những điều ấy] đều dùng chữ này (Ái) để
biểu thị. Do vậy, hàm nghĩa (ư nghĩa được
bao hàm) trong chữ này rất rộng, rất sâu.
Ái
là một ư niệm. Hễ có ư niệm ấy, kẻ đó
sẽ mong đạt được. V́ thế, [chi nhân
duyên] tiếp theo gọi là Thủ (取), tức là đạt được. “Thủ” ở đây hiểu
theo nghĩa rộng, [có ư nghĩa] ham thích, mong mỏi ta sẽ
đạt được; đối với thứ ta chẳng
ưa thích, mong mỏi sẽ xa ĺa. Những điều ấy
đều thuộc về Thủ, dùng chữ này để
biểu thị. Chúng ta chia hết thảy cảnh duyên bên
ngoài, “cảnh” (境) là hoàn cảnh vật chất, “duyên” (緣) là hoàn cảnh
nhân sự, thành hai loại lớn: Một là yêu, hai là ghét, tức
là chán ghét nó. Chia thành hai loại lớn ấy! Do vậy, Ái
có hai loại lớn, Thủ cũng có hai loại lớn. Ưa
thích th́ mong mỏi đạt được, chẳng ưa
thích th́ mong mỏi vứt bỏ, đều thuộc về
Thủ. Tạo tác đấy nhé! Hiện thời đang tạo
tác. Do tạo tác, trong A Lại Da Thức của quư vị lại
có chủng tử. Hễ có chủng tử thiện ác, bèn có
một cái Hữu (有). Chủng
tử thiện ác ấy chính là Vô Minh và Hành trong đời
sau. Hiện tại gọi nó là Hữu, đời sau gọi
nó là Vô Minh và Hành. V́ thế, đời sau, quư vị sẽ
lại đi đầu thai!
Hai
chi trong vị lai, tức là đời sau quư vị lại
có Sanh. Hễ có Sanh bèn có già chết. “Sanh” là không nhất định thọ sanh vào một
đường nào trong lục đạo. Bất luận ở
trong đường nào, đều có lăo, đều có tử.
Đức Phật nói mười hai chữ, mười
hai danh từ, chỉ rơ nhân quả ba đời, chúng ta chớ
nên không biết chuyện này! Nếu quư vị biết đạo
lư này, dẫu trong đời này có rất nhiều chuyện
chẳng như ư, ta hiểu đấy là ǵ? Chính là trong
đời quá khứ, ta đă tạo tác hết thảy quả
báo bất thiện! Đă hiểu, ta sẽ sửa lỗi,
đổi mới, nhất định sẽ đoạn
ác tu thiện trong một đời này. Như vậy th́ sẽ
có thể biến đổi quả báo trong một đời
này!
Gần
đây, có không ít đồng học đă quay Liễu Phàm Tứ
Huấn thành phim bộ nhiều tập. Quay phim sớm nhất
là Mă Lai, phim chỉ có hai tập, dài hai tiếng đồng
hồ, cũng khá hay khéo, tôi đă xem rồi. Sau này, tại
Bắc Kinh, chúng tôi đă một lần cho quay phim dài sáu tiếng.
Trong sáu tiếng ấy, có những chỗ không thỏa
đáng cho lắm; v́ thế, sau đó, rút gọn thành bốn
giờ. C̣n có rất nhiều đồng học khác đưa
kịch bản cho tôi xem, đều mong mỏi sẽ được
quay thành phim. Bản thân chúng tôi cũng sang Bắc Kinh t́m một
người bạn, chúng tôi muốn quay một bộ phim
TV nhiều kỳ dài đến hai mươi tập. Phim
hai, ba tập, đài truyền h́nh chẳng tiếp nhận,
tối thiểu là hai mươi tập, phim Liễu Phàm Tứ
Huấn đấy nhé. Sửa đổi vận mạng như
thế nào? Vận mạng chắc chắn là có, do nghiệp
nhân trong đời trước, đời này hứng chịu
quả báo, mạng đă định sẵn rồi! Tuy vận
mạng đă định, vẫn có thể sửa vận mạng,
chẳng phải là không thể sửa. V́ sao? Cái nhân do chính
ḿnh đă tạo, đương nhiên là chính ḿnh hứng chịu
cái quả! Đă là chính ḿnh tạo nhân, chính ḿnh sẽ có thể
sửa đổi cái nhân đó! Do vậy, quư vị nhất
định phải hiểu: Kẻ khác đến giúp quư vị
sửa đổi, đó là giả trất, gạt người!
Xem tướng, đoán mạng, sửa đổi Phong Thủy
ǵ đi nữa, toàn là lừa người! Hăy sửa từ
khởi tâm động niệm của chính quư vị. V́ thế,
Liễu Phàm Tứ Huấn là một giáo huấn rất tốt.
Ngoài
ra, c̣n có một bộ sách là Du Tịnh Ư Ngộ Táo Thần
Kư cũng hết sức hay! Nếu quay thành phim nhiều tập,
tôi tin là c̣n hay khéo hơn Liễu Phàm Tứ Huấn. Nhưng
tài liệu về ông ta chẳng phong phú như tiên sinh Liễu
Phàm, chỉ có một người đồng hương là
La tiên sinh viết một thiên truyện kư về ông ta, tức
là tác phẩm Ngộ Táo Thần Kư (kư sự về chuyện
gặp ông Táo), viết rất hay! Hai hôm nay, pháp sư Ngộ
Đạo đem đến một kịch bản phim truyền
h́nh cho tôi xem. Tôi xem xong, thấy không dài, sáu tập. Đấy
là [kịch bản phim] Du Tịnh Ư Ngộ Táo Thần Kư được
viết rất tốt, khá lắm, có thể quay thành phim
để lưu thông, nhằm dạy người ta sửa
đổi vận mạng như thế nào. Đấy gọi
là “phùng hung hóa cát, ngộ nạn
thành tường” (gặp hung hiểm mà thành tốt lành,
gặp nạn bèn thành may mắn).
Đức
Phật giảng về nghiệp nhân quả báo rất sâu,
rất rộng, rất kín nhiệm. Ở đây, điều
quan trọng nhất là trong một niệm có trọn đủ
mười hai nhân duyên. Chớ nên chẳng chú ư đến ư
niệm, chớ nên không cẩn thận. Một niệm sanh
ái (yêu mến) tức là Vô Minh dấy lên. Vô minh là ǵ? Chẳng
liễu giải chân tướng sự thật, quư vị mới
có thể khởi tâm động niệm. Nếu quư vị liễu
giải chân tướng sự thật, chân tướng sự
thật là ǵ? “Hết thảy
các pháp vô sở hữu, rốt ráo không, trọn chẳng thể
được”, người liễu giải chân tướng
sự thật, tâm địa thanh tịnh, bất luận
cảnh giới ǵ hiện tiền, đều như
như bất động, hiểu rành mạch. Đấy
là Quán Chiếu, là Định Huệ. “Như như bất
động” là Định; “hiểu rành mạch” là Huệ.
Do vậy, tâm quư vị vừa động một niệm,
chúng ta nói là “dấy động
cảm t́nh”, vô minh bèn khởi lên. Do cảm t́nh, quư vị
mới tạo nghiệp, đó là Hành. Quư vị chuyên tâm nghĩ
tới nó, đó là Thức. Thức kết hợp với Sắc
thành Danh Sắc. Lục căn, tức mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, đều chuyển theo ư niệm của quư
vị, đó gọi là Lục Nhập. Lục Nhập xúc
động sự cảm nhận, tức là Xúc. Ba thứ cảm
nhận là khổ, lạc, vô kư đều tự nhiên dấy
lên. Đó là Thọ. Triền miên chẳng bỏ là Ái. Ở
đây, hăy ghi nhớ, ghét bỏ, ôm nỗi oán hận, chẳng
vui thích, cũng chẳng chịu buông xả, khó chịu mất
vài ngày. Những điều này đều thuộc về Ái.
Nay
đă hết thời gian rồi, phía sau hăy c̣n có mấy điều
chúng tôi chừa lại để lần sau có thời gian,
sẽ học tập tỉ mỉ cùng các vị đồng
học. Những điều ấy sẽ giúp cho chúng ta quan
sát chân tướng sự thật.
Tập 1482
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống.
Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười một, đoạn
thứ năm trong phần trước của phần
trường hàng. Chúng tôi đọc kinh văn một
lượt để quư vị ḍ đúng chỗ.
(Kinh) Vân hà đắc Uẩn thiện xảo, Giới thiện
xảo, Xứ thiện xảo, Duyên Khởi thiện xảo?
(經)云何得蘊善巧。界善巧。處善巧。緣起善巧。
(Kinh: Làm thế nào để đắc Uẩn thiện
xảo, Giới thiện xảo, Xứ thiện xảo,
Duyên Khởi thiện xảo?)
Chúng
ta đọc tới chỗ này. Đối với mười
thiện xảo trong đoạn này, bốn câu đầu
trong phần mười thiện xảo nói về “lưu chuyển chi Thể” (cái
Thể của sự lưu chuyển), “lưu chuyển” (流轉) là sanh tử luân hồi, luân hồi trong lục
đạo. “Uẩn, Giới, Xứ”
tức là Ngũ Uẩn, mười tám giới, mười
hai xứ, và duyên khởi, đều là nói về Thể. Tiếp
đó, Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới là
nói tới nơi chốn để quư vị lưu chuyển,
luân hồi. Quư vị luân hồi ở nơi đâu, ở
chỗ nào, nêu ra nơi chốn. Sau đấy nói “quá khứ, vị lai, hiện tại”
là nói về thời gian. Chúng ta có thể nói Dục Giới,
Sắc Giới, và Vô Sắc Giới là không gian; “quá khứ,
hiện tại, vị lai” là thời gian. Ở trong không
gian và thời gian nào sẽ phát sanh hiện tượng sanh
tử luân hồi? Trong phần trước, đă giới
thiệu Ngũ Uẩn, mười tám giới, mười
hai xứ. Hôm nay, chúng tôi nói về Duyên Khởi thiện xảo
để biết sanh tử luân hồi rốt cuộc là
chuyện như thế nào? Thông thường, nói theo Phật
pháp, điều này thuộc về nhân duyên, tức là nhân
duyên quan. Bích Chi Phật trong tứ thánh [pháp giới] học
tập điều này. Trong kinh luận, đức Phật
đă nói về những chuyện này rất nhiều!
Trước
hết, chúng tôi phải giới thiệu duyên khởi đôi
chút. Duyên khởi là ǵ? Phật pháp thường nói ba chữ
“nhân, duyên, quả”. Trong giáo
pháp Đại Thừa, đức Phật thường nói
về bốn thứ duyên sanh ra pháp:
-
Duyên thứ nhất trong bốn duyên là Thân Nhân Duyên; nói thật
ra là nhân.
-
Duyên thứ hai gọi là Sở Duyên Duyên.
-
Duyên thứ ba là Vô Gián Duyên.
-
Duyên thứ tư là Tăng Thượng Duyên.
Tâm
và tâm sở pháp nếu thiếu một trong bốn duyên ấy,
sẽ chẳng thể sanh, chẳng thể dấy lên hiện
hành. Nếu chúng ta nói tới thực vật, thực vật
và khoáng vật chỉ cần hai loại duyên, một loại
là Thân Nhân Duyên, loại kia là Tăng Thượng Duyên. Chúng
chẳng cần Sở Duyên Duyên, chẳng có Vô Gián Duyên! Hữu
t́nh và vô t́nh sai biệt ở chỗ này. Nói chung, hữu t́nh
lẫn vô t́nh thảy đều là duyên khởi. Phàm là duyên
khởi (được sanh khởi bởi duyên), phàm là duyên
sanh hay duyên khởi, đều chẳng có tự tánh, chẳng
có tự thể, thường nói là “đương thể tức Không” (chính cái bản
thể của nó là Không), trọn chẳng thể được.
Bậc Duyên Giác quan sát từ chỗ này mà giác ngộ, chúng
ta nói là “tỉnh ngộ”, các
Ngài mới có thể chứng đắc cảnh giới Niết
Bàn. Niết Bàn có cạn và sâu. Cạn là Thiên Chân Niết Bàn
của Tiểu Thừa, sâu là Vô Trụ Niết Bàn của Đại
Thừa. Chúng ta đều phải hiểu rơ ư nghĩa của
những danh tướng ấy.
Nay
chúng tôi giới thiệu đơn giản duyên khởi đôi
chút. “Duyên Khởi thiện xảo”
là biết hết thảy sự, hết thảy vật
trong vũ trụ phát sanh như thế nào. Nếu xét theo những
điều Phật pháp đă dạy, tất cả hết
thảy sự vật đều chẳng có cách nào rời
khỏi duyên, đều là “đăi
duyên nhi khởi” (đợi duyên mà dấy lên), “đăi” (待) là chờ đợi. Nói theo cách hiện thời, Duyên
là điều kiện. Điều kiện thảy đều
trọn đủ, sẽ dấy lên hiện tượng. Nếu
điều kiện chẳng đầy đủ, hiện
tượng ấy sẽ chẳng thể phát sanh. Bất
luận là hữu t́nh hay vô t́nh, người hiện thời
gọi “hữu t́nh” là động
vật, gọi “vô t́nh” là thực
vật và khoáng vật cùng với hiện tượng thiên
nhiên, đều là có khá nhiều điều kiện, giống
như kinh Đại Thừa đă nói là “vô lượng nhân duyên” th́ mới sanh khởi hiện
tượng ấy, chẳng phải là rất đơn thuần.
Chỉ có Phật và Pháp Thân Bồ Tát hiểu rơ ràng chuyện
này, các Ngài hiểu rơ ràng; điều đó gọi là chân
tướng của vũ trụ và nhân sinh.
Người
hiểu rơ chân tướng là giác ngộ, giác chứ không mê.
Bọn phàm phu chúng ta, không chỉ riêng loài người, mà phàm
phu trong lục đạo đều chẳng giác ngộ. Tứ
thánh pháp giới tuy giác ngộ, nhưng chẳng viên măn, phải
hiểu điều này. Tứ thánh là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ
Tát, Phật; “Phật” ở đây là Phật trong mười
pháp giới, chính là Tương Tự Tức Phật như
Thiên Thai đại sư đă nói. Nói cách khác, các vị ấy
chẳng phải là chân Phật. “Chân”
được định nghĩa như thế nào? “Chân” là phải phá một phẩm
vô minh, thấy một phần chân tánh, chứng một phần
Pháp Thân. Đó là Chân, giáo pháp Đại Thừa cũng gọi
vị ấy là Pháp Thân Bồ Tát. Pháp Thân Bồ Tát là chân Phật,
Thiên Thai đại sư gọi vị ấy là Phần Chứng
Tức Phật. Tuy Ngài chẳng viên măn, Ngài là [Phật] thật,
chẳng giả. Sở dĩ Ngài không viên măn là v́ tập khí
vô thỉ vô minh chưa đoạn sạch. Trong những phần
trước, chúng tôi đă nói điều này rất nhiều.
Tập
khí vô thỉ vô minh rất khó đoạn, phải mất một
thời gian rất dài sẽ tự nhiên chẳng c̣n. V́ thế,
giáo pháp Đại Thừa thường nói tới bốn
mươi mốt địa vị Pháp Thân đại
sĩ. Điều này có nghĩa là trong Nhất Chân pháp giới
có giai cấp hay không? Thưa cùng chư vị, chẳng có!
Nếu c̣n có giai cấp, [tức là] c̣n có sai biệt, sẽ
chẳng gọi là Nhất Chân. Đă là chẳng có sai biệt,
v́ sao đức Phật lại nói bốn mươi mốt
địa vị Pháp Thân đại sĩ? Bốn
mươi mốt địa vị ấy chẳng phải
là bốn mươi mốt giai cấp hay sao? Kinh Hoa Nghiêm đă
nói rất rơ ràng, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập
Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, bốn
mươi mốt địa vị. Nói thật ra, chẳng
thể nói bốn mươi mốt địa vị ấy
là có. Nhất Chân pháp giới là b́nh đẳng, người
tu hành đạt đến cảnh giới ấy chẳng
khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt,
không chấp trước, thảy đều là như vậy.
Chẳng khởi tâm, không động niệm, lấy đâu
ra giai cấp? Trong thế gian này, trong mười pháp giới,
sanh ra giai cấp như thế nào? Vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước! Vọng tưởng là khởi
tâm động niệm. Do quư vị khởi tâm động
niệm, v́ quư vị có phân biệt, có chấp trước,
cho nên mới có nhiều thứ bậc như vậy, mới
có lắm sai biệt ngần ấy. Trong Nhất Chân pháp giới
chẳng có sai biệt, trong thế giới Cực Lạc chẳng
có sai biệt.
Nhưng
quư vị nghe [nói như vậy], sẽ cảm thấy kỳ
quái! Thế giới Cực Lạc có bốn cơi, ba bậc,
chín phẩm, ư nghĩa này và ư nghĩa của bốn
mươi mốt địa vị trong thế giới Hoa
Tạng chẳng sai biệt cho mấy! Đó là ǵ? Chính là v́
tập khí vô minh chẳng đoạn. Trong thế giới
Hoa Tạng, xác thực là vô minh tập khí (tập khí vô thỉ
vô minh) chưa đoạn, trong thế giới Cực Lạc
chẳng phải vậy. Trong thế giới Cực Lạc,
không chỉ là tập khí vô thỉ vô minh, mà c̣n kèm thêm tập
khí Kiến Tư và Trần Sa, đúng là chẳng dễ
dàng! Điều này gọi là “đới
nghiệp văng sanh”, vẫn đèo thêm những thứ ấy!
V́ thế, đức Phật nói thế giới Cực Lạc
có bốn cơi: Có cơi Phàm Thánh Đồng Cư, có cơi Phương
Tiện Hữu Dư, có cơi Thật Báo Trang Nghiêm, có cơi Thường
Tịch Quang Tịnh Độ. Chư vị phải hiểu:
Trong thế giới Cực Lạc, chẳng có những danh
xưng ấy! Trong thế giới Hoa Tạng cũng chẳng
có [những danh xưng ấy]! Đức Phật v́ chúng ta
[nói ra những điều ấy], cho nên chẳng thể nói
chúng là có, mà cũng chẳng thể nói là chúng không có. V́ sao chẳng
thể nói chúng là không có? Xác thực là xét theo phía người
tu hành, tập khí vô thỉ vô minh đúng là có dầy hay mỏng
khác nhau! Chẳng hạn như Thập Địa Bồ
Tát tập khí rất ít, rất mỏng; các vị Bồ Tát
thuộc địa vị Tam Hiền tập khí khá nặng!
Nhưng chư vị phải biết: Chúng chẳng phải
là Kiến Tư, chẳng phải là Trần Sa, mà là vô thỉ
vô minh. Chúng ta chẳng có cách nào lănh hội, chớ nên không
biết điều này!
Trong
kinh, đức Phật đă dạy: “Nhất thiết chi hữu vi pháp, giai tự duyên nhi
khởi giả” (Hết thảy các pháp hữu vi đều
do duyên của chúng mà dấy lên). “Hữu
vi” là có sanh, có diệt; chư vị hăy ngẫm xem, có pháp
nào chẳng sanh diệt? Trong kinh, đức Phật thường
nói đến động vật, loài người chúng ta là
động vật, có sanh, lăo, bệnh, tử, thực vật
có sanh, trụ, dị, diệt, khoáng vật (là địa cầu,
tinh cầu) có thành, trụ, hoại, không. Phàm những ǵ có các
hiện tượng ấy, sẽ đều gọi là pháp
hữu vi. Theo Bách Pháp Minh Môn Luận, trong một trăm
pháp, có chín mươi bốn pháp hữu vi, sáu pháp cuối cùng
gọi là pháp vô vi. Đối với pháp vô vi, chẳng thể
nói tới duyên được. Nó chẳng phải là đợi
duyên mà sanh, nó thật sự tự nhiên tồn tại, tồn
tại vĩnh hằng. Trong các pháp vô vi, chỉ có một pháp
là vô vi thật sự (tức Chân Như vô vi), năm thứ
khác đều là tương tự vô vi, chúng chẳng thể
gộp vào trong các pháp hữu vi. Như hư không, hư không
là vô vi. Chúng ta chẳng thấy hư không có sanh diệt, chẳng
thấy sự biến hóa của nó, hư không thuộc về
pháp vô vi. Rơ ràng là bất cứ loại nào, động, thực,
khoáng vật, hiện tượng tự nhiên, thảy đều
là do có duyên mà sanh. Nay chúng ta gọi Duyên là điều kiện.
Nếu trọn đủ những điều kiện sanh
sản ấy, nó sẽ sanh khởi, hiện tượng sẽ
hiện tiền.
Trong
Trung Quán Luận Sớ có giải thích đơn giản.
(Sớ)
Trung Quán Luận Sớ, thập.
(疏)中觀論疏十。
(Sớ: Trung Quán Luận Sớ, quyển mười).
“Thập” là quyển thứ mười.
Cuối quyển thứ mười, có mấy câu như thế
này.
(Sớ)
Duyên khởi giả, thể tánh khả khởi.
(疏)緣起者體性可起。
(Sớ: “Duyên khởi” là Thể Tánh có thể dấy
lên).
Cần
phải nói rơ điều này. Thể tánh là nhân, Thể là Pháp
Thân, Tánh là Pháp Tánh. Quư vị thấy trong các kinh Đại
Thừa, trong các kinh luận Đại Thừa, đức
Phật luôn dạy: Vũ trụ do đâu mà có? Sanh mạng
do đâu mà có? Đức Phật đă nói rất hay: “Duy tâm sở hiện, duy thức
sở biến”. Ở đây, cái tâm và cái thức ấy
được gọi là Thể Tánh. Thể tánh là nhân, nó có
thể hiện, có thể biến, đấy là duy tâm sở
hiện. Nhất Chân pháp giới do thể tánh hiện khởi,
y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới đợi
duyên mà sanh khởi. Các vị thuộc tông Pháp Tướng đă
gọi “đợi duyên để
sanh khởi” là “duy thức sở
biến”, chúng thuộc vào mười pháp giới. Thức
là ǵ? Thức là Thể Tánh đă mê th́ gọi là Thức. Giác
ngộ th́ gọi là Tánh. Nói theo Thể, nó là thật, là chân tâm.
Nói theo Tướng, nó là hư vọng. V́ thế, chúng ta nói
A Lại Da Thức là chân vọng ḥa hợp.
Chúng
ta là chúng sanh trong mười pháp giới, tứ thánh pháp giới
cũng là chúng sanh. Chúng ta phải hiểu rơ ư nghĩa của
danh từ này. Do các duyên ḥa hợp cùng sanh khởi th́ gọi
là Chúng Sanh. Đợi duyên để phát khởi chính là chúng
sanh. Duyên quá nhiều, vô lượng, vô biên, chẳng đơn
thuần; do vậy, hễ là “duyên
sanh” (pháp được sanh bởi các duyên) th́ đều
gọi là chúng sanh! “Chúng sanh”
có ư nghĩa hết sức rộng lớn, chúng ta thường
gọi loài người là chúng sanh, đấy là nói theo ư nghĩa
rất hẹp! Tất cả động vật là chúng sanh,
tất cả thực vật là chúng sanh, tất cả khoáng
vật là chúng sanh, tất cả các hiện tượng tự
nhiên đều là chúng sanh, [bởi lẽ, chúng đều]
do các duyên mà phát khởi, ḥa hợp, sanh ra các hiện tượng.
Phải hiểu rơ ràng hai chữ “chúng
sanh”, phải hiểu rơ ràng ư nghĩa của nó!
V́
thế, “thể tánh khả khởi”.
Có thể khởi mà nó chẳng phát khởi được
là v́ lẽ nào? Duyên không trọn đủ. Ví như loài người
chúng ta, đức Phật nói, hết thảy chúng sanh đều
có Phật Tánh; lại nói, tất cả hữu t́nh chúng sanh,
“hữu t́nh chúng sanh” là nói
đến động vật, đương nhiên bao gồm
loài người trong ấy, “đều
có trọn đủ cái nhân
của mười pháp giới”. Nay trong các hữu t́nh,
chúng ta chỉ nói đến loài người, trong các hữu
t́nh chúng sanh, chúng ta chỉ nói một loại này. Mỗi người
chúng ta đều có Phật Tánh. Nói cách khác, đều có thể
tánh làm Phật. Trong thể tánh của chúng ta có Phật, v́
sao nay chẳng phải là Phật? Duyên chẳng trọn
đủ! Nay chúng ta tu hành, tu là ǵ? Tu là duyên, hy vọng sẽ
khiến cho cái duyên thành Phật (điều kiện làm Phật)
thảy đều trọn đủ. Nhân đă có, ai nấy
đều có cái nhân Bồ Tát. Trong mười pháp giới,
cái nhân thứ nhất cũng là duyên. Cái duyên thứ nhất
quan trọng nhất. Đức Phật nói [cái duyên ấy]
chính là tâm Phật b́nh đẳng. Có ai trong chúng ta chẳng
có tâm b́nh đẳng? Có chứ! B́nh đẳng th́ là Phật!
Quư
vị hăy ngẫm xem, giáo pháp Đại Thừa thường
dạy chúng ta: Nếu có thể thật sự buông xuống
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, quư
vị chính là Phật! Nay quư vị niệm Phật mà chẳng
thể thành Phật, là v́ quư vị có vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước, cho nên quư vị bị đọa
lạc thành phàm phu. Phàm phu và Phật sai biệt ở chỗ
này! Chúng ta nh́n vào tứ thánh pháp giới, sẽ hiểu rất
rơ ràng. Quư vị buông chấp trước xuống, chẳng
c̣n chấp trước hết thảy các pháp thế gian và
xuất thế gian nữa, quư vị là A La Hán. Tiến cao hơn
một bước, không chỉ là chẳng có chấp
trước, mà phân biệt cũng chẳng có, quư vị là Bồ
Tát. Nếu tiến hơn bước nữa, không chỉ là
chẳng có vọng tưởng, chấp trước, mà khởi
tâm động niệm cũng chẳng có. Chẳng khởi
tâm, không động niệm, quư vị là Phật. Quư vị
hăy ngẫm xem, chúng ta có phải đều là trọn đủ
hay không? Vấn đề ở chỗ nào? Chẳng buông xuống
được! V́ không buông xuống được, cho nên
mới làm phàm phu, cho nên mới đọa lạc trong lục
đạo luân hồi.
Đức
Phật dạy chúng ta lư luận thoát luân hồi là một câu
này: “Buông chấp trước xuống!” Chấp trước
là Kiến Tư phiền năo, buông chấp trước xuống
tức là đoạn Kiến Tư phiền năo, vượt
thoát lục đạo, chứng quả A La Hán. Buông xuống
phân biệt, phân biệt là Trần Sa Hoặc. Đoạn
trừ Trần Sa Hoặc, chứng quả vị Bồ Tát.
Khởi tâm động niệm là vọng tưởng, là Vô
Minh Hoặc. Chẳng khởi tâm, không động niệm, đă
phá vô minh, buông xuống vô minh, sẽ thành Phật. Nói theo Thể
Tánh, chúng ta đều trọn đủ. Cái nhân làm Phật
đă trọn đủ, cái nhân làm Bồ Tát đă trọn
đủ, cái nhân làm Thanh Văn, Duyên Giác thảy đều
trọn đủ. Nghiệp nhân của thiên đạo là Tứ
Vô Lượng Tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả, cộng thêm
Thượng Phẩm Thập Thiện, sẽ sanh thiên. Chúng
ta có [những cái nhân ấy] hay không? Có chứ! V́ sao biết
là có? Ngay cả Nho gia cũng nói, tức là như trẻ nhỏ
tại Trung Hoa học Tam Tự Kinh, câu đầu tiên là “nhân chi sơ, tánh bổn thiện”
(con người thoạt đầu tánh vốn lành). Đấy
là ǵ vậy? Cái nhân để sanh lên cơi trời!
Bản
tánh của loài người đều là thiện lương,
v́ sao lại biến thành bất thiện? Chẳng có ai dạy
họ, học theo thói xấu! V́ thế, Trung Hoa hết sức
coi trọng giáo dục, có kinh nghiệm hết sức phong
phú. Người Hoa biết: Thánh nhân là do dạy dỗ mà có,
thiện nhân cũng là do dạy dỗ mà ra, kẻ xấu cũng
là do dạy dỗ mà ra. Xă hội hiện thời loạn
dường ấy, người tốt ngày càng ít, kẻ xấu
ngày càng đông là chuyện như thế nào? Do dạy dỗ
mà ra! Trước kia có nhiều người tốt, đó
là ǵ? Trong thế gian, thánh nhân và quân tử nhiều, [đại
chúng trong xă hội] chịu ảnh hưởng của họ.
Trong xă hội hiện thời, có lắm kẻ ích kỷ, khởi
tâm động niệm toàn là tổn người, lợi ḿnh.
Học từ đâu ra? Học từ TV, học từ
Internet, học từ điện ảnh, những thứ ấy
đă dạy họ. Dạy người ta những thứ
ấy. Quư vị nói xem, TV, Internet trong hiện thời, tôi
không xem những thứ ấy, chúng có nội dung là ǵ? Các
đồng học đă kể với tôi, [toàn là] sắc dục,
bạo lực, giết, trộm, dâm, dối. Quư vị giáo
dục kiểu đó, đương nhiên là xă hội này đều
ngả theo bạo lực, sắc dục, ngả theo giết,
trộm, dâm, dối, lẽ nào xă hội chẳng loạn
cho được? Do dạy dỗ mà ra! Giáo dục quan trọng
hơn bất cứ điều nào khác!
Mấy
hôm trước, lần này chúng tôi ngừng giảng mười
ngày, tôi sang Mă Lai tham dự hội nghị ḥa b́nh quốc tế.
Trong hội nghị ấy, tôi đă giới thiệu cùng mọi
người tham gia đại hội về nền giáo dục
luân lư đạo đức của Trung Hoa vào thời cổ.
Nếu muốn hóa giải xung đột, thật sự thực
hiện thế giới ḥa b́nh, ngoài giáo dục ra, chẳng
có cách nào khác! Dùng thủ đoạn chiến tranh, chỉ
khiến cho vấn đề này càng thêm phức tạp. Hội
nghị khai mạc, đây là lần thứ sáu tôi tham dự
hội nghị quốc tế. Bắt đầu từ năm
1970, Liên Hiệp Quốc đă khởi xướng, hy vọng
có thể xúc tiến ḥa b́nh trên thế giới. Chẳng biết
hằng năm đă mở không biết bao nhiêu cuộc họp,
đầu tư nhân lực, vật lực, tài lực suốt
ba mươi lăm năm, chẳng biết đă họp
bao nhiêu lần, [thế mà] thế giới này mỗi năm
một loạn hơn, tai nạn mỗi lần càng nghiêm trọng
hơn!
Từ
sự thật này, chúng ta hiểu ra: Hội nghị chẳng
thể giải quyết vấn đề, chiến tranh chẳng
thể giải quyết vấn đề! Giải quyết
vấn đề bằng phương pháp nào? Vẫn là như
người Hoa đă nói: “Kiến
quốc, quân dân, giáo học vi tiên” (Xây dựng đất
nước, cai trị dân chúng, dạy học làm đầu).
Năm ngàn năm qua, Trung Hoa đă dựa vào đâu mà khiến
cho quốc gia, dân tộc này đứng sừng sững trên
thế giới chẳng bị suy thoái? Nguyên nhân chẳng có
chi khác, chính là giáo dục. Người Hoa biết giáo dục,
coi trọng giáo dục. V́ vậy, giáo dục tại Trung
Hoa có lịch sử năm ngàn năm, năm ngàn năm kinh
nghiệm, năm ngàn năm trí huệ, năm ngàn năm phương
pháp, năm ngàn năm nội hàm, năm ngàn năm hiệu
quả, chớ nên xem nhẹ điều này! Quư vị có thể
vận dụng cách thức này của Trung Hoa để hóa
giải, bất cứ xung đột nào trên thế giới
cũng đều có thể hóa giải, bất cứ là ai
cũng đều có thể hợp tác, thế giới an định,
ḥa b́nh. Quư vị chẳng dùng giáo dục th́ dùng ǵ đây?
Khi
tôi tham gia những hội nghị quốc tế ấy,
đều giới thiệu quan niệm trọng yếu ấy
với mọi người. Những người tham gia hội
nghị đều là các nhân sĩ thiện tâm, đúng là chẳng
t́m ra phương pháp thích đáng, biết tánh chất nghiêm
trọng của vấn đề, nhưng chẳng t́m
được biện pháp cứu vớt! Tại Trung Hoa,
Hồ Diệu Bang đề xướng xă hội ḥa hài,
thực hiện bằng cách nào? Tôi bảo mọi người,
hài ḥa phải thực hiện từ tâm hạnh của
chính ḿnh, phải dốc sức từ chỗ ấy. Hài ḥa
thực hiện từ nhà ta, hài ḥa thực hiện từ
thôn của ta, hài ḥa bắt đầu từ trấn của
ta, hài ḥa bắt đầu từ huyện của ta. Dần
dần mở rộng, từ huyện mở rộng đến
tỉnh, từ tỉnh mở rộng ra quốc gia, từ
quốc gia mở rộng ra thế giới. Nhất định
phải thực hiện từ chính bản thân ta th́ mới
có thể thâu được hiệu quả. Nếu quên bẵng
[chẳng thực hiện hài ḥa từ chính ḿnh], quên bẵng
nhà ḿnh, quư vị mong cầu thế giới ḥa b́nh, há có lẽ
ấy? Kinh Phật nói điều này là “vô hữu thị xứ” (chẳng có lẽ ấy);
v́ thế, phải biết bắt đầu từ chỗ
nào! Quan trọng là khái niệm, v́ sao phải hài ḥa? Kinh Phật
đă nói thấu triệt. Hai mươi câu hỏi của
[Trí Thủ] Bồ Tát trong đoạn kinh văn này đều
là những vấn đề to lớn. Quư vị thấy Văn
Thù Bồ Tát giải đáp, một hỏi, một đáp,
chúng ta nghe hiểu minh bạch, sẽ khai trí huệ, biết
hiện tượng vạn pháp trong vũ trụ, biết chính
ḿnh phải nên làm như thế nào!
Thể
tánh có thể khởi, đợi duyên để phát khởi.
Trong phẩm Phương Tiện của kinh Pháp Hoa cũng
có nói: “Phật chủng tùng duyên
khởi” (Ḍng giống Phật khởi từ duyên). Tổ
sư đại đức trích dẫn câu này, Phật chủng
sanh từ duyên, hợp lư quá! Chúng ta học Phật, bởi
lẽ, Phật pháp coi trọng duyên, chẳng nói là “nhân
sanh”, mà nói là “duyên sanh”, rất có lư! V́ nhân, tức là các chủng
tử trong A Lại Da Thức đều có trọn đủ,
nhưng chúng tùy thuộc duyên. Trong phần trước, chúng
tôi đă nói, những cái nhân trong tứ thánh pháp giới, tức
Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, chúng ta thảy
đều có. Đối với lục đạo, chúng tôi
cũng nói: Con người tánh vốn lành. “Tánh con người vốn lành” th́ chính là thiên
đạo và nhân đạo. Đối với ba ác đạo,
ngạ quỷ là do tâm tham, xan tham là ngạ quỷ, sân khuể
là địa ngục, ngu si là súc sanh. Trong A Lại Da Thức
của quư vị, thảy đều có [những chủng tử
ấy]. Vậy th́ nay quư vị hăy xét xem, duyên của nghiệp
nhân nào thù thắng nhất? Chúng ta nghĩ tới xă hội
hiện thời, quư vị hăy lắng ḷng quan sát, sau đấy,
quay lại nghĩ về chính ḿnh. Nh́n ra bên ngoài, bên ngoài là một
tấm gương, từ gương hăy hồi quang phản
chiếu, soi xét chính ḿnh: Trong A Lại Da Thức của ta có
tham, sân, si; tham, sân, si là nghiệp nhân của ba ác đạo.
Hiện thời, trong cuộc sống hằng ngày, nếu
chúng ta tăng trưởng duyên tham, sân, si, sẽ phiền
toái, đời sau sẽ sanh về đâu, quư vị tự
hiểu rành rành! Tâm tham nặng nề, nhất định
đọa ngạ quỷ. Tâm sân khuể nặng nề, hay
cáu giận, sẽ đọa địa ngục. Ngu si là chẳng
hiểu rơ đúng, sai, không biện định tà hay chánh; ngu
si sẽ đọa súc sanh đạo.
Trong
xă hội hiện thời, chúng tôi nói những ǵ TV, Internet,
phim ảnh, xă hội đều là dạy quư vị tham, sân,
si, đều dạy quư vị khởi tâm động niệm,
ngôn ngữ, tạo tác tổn người lợi ḿnh. Tổn
người lợi ḿnh sẽ tăng trưởng tham, sân,
si. Nói cách khác, đều nhằm dạy con người vào
trong ba ác đạo, chẳng phải là dạy con người
sanh lên trời hay làm Phật, chẳng phải vậy! Quư vị
nói xem, có đáng sợ lắm hay không? Chúng ta được
làm thân người, nghe Phật pháp, hết sức khó khăn!
Đă được làm thân người, nghe Phật pháp,
ngay trong một đời này, chúng ta phải vứt bỏ
tham, sân, si, chẳng cần những thứ ấy!
Tôi
[bắt đầu] học Phật lúc hai mươi sáu tuổi,
lần đầu tiên trong đời đến thưa hỏi
một vị thiện tri thức là Chương Gia đại
sư. Đấy là lần đầu tiên qua lại cùng người
xuất gia. Tôi thỉnh giáo lăo nhân gia: “Nay con biết Phật
pháp tốt đẹp, Phật pháp hết sức thù thắng”,
tôi thưa: “Có cách nào khiến cho con có thể khế nhập
rất nhanh hay không?” Lăo nhân gia dạy tôi sáu chữ. Tôi nói
“có cách nào hay không?” Ngài bảo có, “thấy
thấu suốt, buông xuống”. Tôi nghe rồi dường
như hiểu, câu nói ấy rất đơn giản. Tôi
thỉnh giáo lăo nhân gia: “Thực hiện từ chỗ nào?”
Ngài dạy tôi: “Bố thí”, [nghĩa là] hăy thực hiện từ
bố thí. V́ sao? Lúc trẻ, tập khí tham, sân, si rất nặng
nề. Tôi lại c̣n sanh trưởng ở nông thôn, hoàn cảnh
gia đ́nh hết sức nghèo khó, cuộc sống rất
gian khổ; v́ thế, chẳng có tâm bố thí, chẳng có ư
niệm ấy. Thầy dạy tôi học bố thí, giảng
cho tôi biết Tài Bố Thí, Pháp Bố Thí, và Vô Úy Bố Thí.
Bố thí là buông xuống, giúp quư vị thấy thấu suốt;
thấy thấu suốt là trí huệ. “Buông xuống” là buông
xuống phiền năo, bố thí xan tham, bố thí sân khuể,
bố thí tập khí phiền năo. Do vậy, tâm thanh tịnh
hiện tiền. Tâm thanh tịnh sanh trí huệ, do trí huệ
mới có thể thấy thấu suốt, mới có thể
liễu giải chân tướng của vạn hữu trong
vũ trụ. Đấy là Phật pháp, là sự giáo dục
của đức Phật. V́ thế, Phật giáo xác thực
là chẳng giống những tôn giáo thông thường.
Các
tôn giáo thông thường nói vũ trụ do đâu mà có? Do thần
tạo ra, đều là do một vị chân thần nào đó
tạo ra vũ trụ. Tôi qua lại với rất nhiều
tôn giáo trên thế giới, chúng tôi lại c̣n là bạn bè hết
sức thuận thảo. Tôi đă từng nói với họ,
theo như Thánh Kinh của Thiên Chúa Giáo và Cơ Đốc
Giáo đă nói, vũ trụ do Chúa tạo ra, tức Thượng
Đế tạo ra. Bảy ngày tạo xong vũ trụ, tạo
ra con người. Đạo Y Tư Lan (đạo Hồi)
nói vũ trụ do An Lạp (Allah) tạo ra. Họ gọi [thượng
đế] là An Lạp, có nghĩa là Thượng Đế.
Ấn Độ giáo nói vũ trụ do Đại Phạm
Thiên tạo ra. V́ thế, tôi hỏi họ: “Vũ trụ chỉ
có một, do vị thần nào tạo? Quư vị có từng
nghĩ đến vấn đề này hay không? Hay là quư vị
có nhiều vị thần trong các tôn giáo như thế, mọi
người cùng nhau tạo ra? Hay là các vị thần cùng
nhau kiến tạo?” Họ chẳng thừa nhận chuyện
các vị thần cùng tạo, họ thừa nhận có một
vị chân thần duy nhất. Tôi nói: “Đúng vậy! Tôi cũng
tin tưởng là do một vị chân thần tạo ra”.
Tôi
hỏi họ: “Quư vị có tin chân thần có trí huệ viên măn
hay không?” Họ đều tin chuyện này: Chân thần trí huệ
vô lượng, chúng ta không có cách nào tưởng tượng.
Chân thần có thần thông hay không? Ngài có thể biến hóa
hay không? Họ đều tin tưởng chuyện này, tin
tưởng chân thần có biến hóa, có thần thông. Tôi nói:
“Vậy th́ dễ biện định rồi! Vị chân thần
ấy ở Trung Hoa, Ngài biến hóa thành Khổng Tử, Mạnh
Tử, Lăo Tử, Trang Tử. Ngài có thể biến, chân thần
hóa thân. Trong Phật giáo, Ngài biến thành Thích Ca Mâu Ni. Trong Cơ
Đốc Giáo, Ngài biến thành Gia Tô (Jesus). Trong Do Thái Giáo,
Ngài biến thành Ma Tây (Moses). Trong đạo Hồi, biến
thành Mục Hăn Mặc Đức (Mohamed). Quư vị có tin hay
không?” Bọn họ nghe nói đều ngây người, cuối
cùng đồng ư với cách nh́n của tôi. Tôi nói: “Đều
là một vị chân thần. V́ sao trên thế giới, vị
chân thần ấy phải tạo ra nhiều tôn giáo như
vậy? Phải hóa thân nhiều ngần ấy? Đối
với chuyện hóa thân, mọi người chẳng hoài
nghi, v́ trong kinh điển đều có nói. Chỉ v́ trong
thời đại ấy, giao thông chẳng phát triển, chẳng
có thông tin, phạm vi sống trong một đời của
nhân dân (tức là phạm vi sinh hoạt) rất nhỏ, tới
khi già chết, chẳng qua lại với nhau. Thần muốn
giáo hóa chúng sanh, phải đến các nơi hóa thân, sáng lập
tôn giáo, tùy thuận phong tục, t́nh cảm và tập quán sống
của người từng địa phương, cho nên
mới có nhiều hiện tượng tôn giáo khác biệt
phát sanh!”
Hiện
thời, trên quả địa cầu này, khoa học kỹ
thuật phát triển, thông tin phát triển, giao thông nhanh chóng,
thuận tiện, [dân cư trên] địa cầu đă biến
thành người một nhà. Hiện thời, [đă công nhận]
những vị thần ấy đều là hóa thân của
chân thần, chúng ta cũng phải gộp họ lại
để xem như một chỉnh thể th́ mới có thể
đạt được trí huệ rất sâu. Họ có thể
tiếp nhận và đồng ư với cách nh́n này của tôi.
Do vậy, tôi kết giao với họ,
tôi thường đọc kinh Phật, mà cũng đọc
Tân Cựu Ước. Tôi đọc Tân Cựu Ước
th́ tôi là tín đồ Cơ Đốc kiền thành, hoặc
tín đồ Thiên Chúa Giáo kiền thành. Tôi đọc
kinh Cổ Lan (Qur'an), tôi là Mục Tư Lâm (Muslim, tín đồ Hồi Giáo)
kiền thành, chẳng có giới hạn. Chẳng thể nói
họ là ngoại đạo! Nếu quư vị [thấy có]
một kẻ ngoại đạo, quư vị c̣n có một vạch
giới hạn, chẳng đạt được giáo huấn
thật sự trong kinh điển! Chúng ta phải thấy
như thế nào? Đấy là hóa thân của Phật. Nhà Phật
nói: “Đáng nên dùng thân nào để độ, bèn hiện
thân ấy. Đáng nên dùng phương pháp nào để giáo
hóa, bèn dùng phương pháp ấy”. Phật chẳng có h́nh
tướng nhất định, Phật, Bồ Tát chẳng
có một pháp nhất định để có thể nói, [điều
này thường được diễn tả là] “vô hữu định pháp khả
thuyết”. Như vậy th́ chúng ta mới biết trí huệ
viên măn, đức dụng viên măn.
Tôi
vốn cho rằng trong lần tiếp xúc ấy, c̣n có những
người chẳng thể tiếp nhận, vẫn cần
mất một thời gian dài để biện luận, thế
mà trong những năm qua, tại các nơi trên thế giới
đều
thuận buồm xuôi gió, [người nghe] đều có thể
tiếp nhận. Lăo ḥa thượng Trung Thôn Khang Long
(Nakamura Kouryuu)[2] của Nhật Bản, năm nay đă một
trăm lẻ một tuổi, mỗi lần sang Nhật,
tôi đều đến gặp Ngài. Lần đầu tiên
tôi gặp Ngài (vào năm năm trước), khi ấy, Ngài
đă chín mươi sáu tuổi. Ngài bảo tôi: “Tất cả những người
sáng lập tôn giáo trên toàn thể thế giới đều
là hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát. Ba mươi hai ứng
thân của Quán Thế Âm Bồ Tát đều là Quán Âm Bồ
Tát”. Tôi nghe nói rất hoan hỷ. Vị lăo ḥa thượng
ấy nói như thế đó! Sau khi tôi rời đi, những
đồ đệ của Ngài bảo tôi: “Suốt đời,
lăo ḥa thượng chưa hề nói lời ấy, [thế
mà] Ngài lại bảo thầy điều ấy!” Lăo ḥa
thượng tạo tín tâm cho tôi, cách nghĩ và cách nh́n ấy
của tôi không sai! Lăo nhân gia đă chứng thực cho tôi,
tôi rất cảm kích Ngài!
Chúng
ta nhất định phải khẳng định điều
này, toàn thể vũ trụ, quư vị thấy đức Phật
dạy rất hay. Đức Phật không nói đến chân
thần, đức Phật nói ǵ? Ngài nói Pháp Tánh, Pháp Thân, đấy
chính là “chân thần” như
những kẻ khác đă nói. Tâm hiện, thức biến,
chân thần là ǵ? Chân thần là tánh thức. Tánh thức, quư
vị nói thông tục hơn một chút, sẽ là chân tâm và vọng
tâm. Chân tâm có thể hiện, vọng tâm có thể biến,
thức là vọng tâm. Chân và vọng là một, không hai, v́
sao? Chân tâm mê, bèn gọi nó là A Lại Da Thức; A Lại Da
Thức giác ngộ, sẽ là Chân Như bản tánh. Do vậy,
Pháp Tướng Tông nói A Lại Da Thức là chân và vọng
ḥa hợp. Từ phương diện mê th́ gọi là A Lại
Da, từ phương diện ngộ th́ gọi là Pháp Tánh; cách
nói khác nhau, nhưng có cùng một ư nghĩa. Từ cơ sở
này, từ quan niệm này, có thể đoàn kết các loại
tôn giáo khác nhau trên thế giới, người một nhà mà!
Hăy nên đối đăi b́nh đẳng, cư xử ḥa thuận,
hăy nên hỗ trợ hợp tác, phải giúp cho người thế
gian giác ngộ. Khổ do mê mà có, lạc do giác mà có. Chỉ
cần giác ngộ, sẽ có thể ĺa khổ được
vui.
Phật
pháp nói đến bốn loại duyên khởi, bốn loại
duyên khởi ấy được nói trong Hoa Nghiêm.
1)
Loại thứ nhất là nghiệp cảm duyên khởi, thuộc
giáo pháp Tiểu Thừa. Giáo pháp Tiểu Thừa nói đến
nghiệp cảm. “Nghiệp”
là thiện nghiệp hoặc ác nghiệp do quư vị đă
tạo, chúng chiêu cảm, sanh khởi hiện tượng.
2)
Loại thứ hai là A Lại Da duyên khởi. Lại Da duyên
khởi là Đại Thừa Thỉ Giáo. [Loại duyên khởi
này] do Pháp Tướng Tông nêu ra.
3)
Loại thứ ba là Như Lai Tạng duyên khởi, thuộc
về Đại Thừa Chung Giáo, Như Lai Tạng
được nói đến trong kinh Đại Phật Đảnh
Thủ Lăng Nghiêm.
4)
Loại thứ tư là pháp giới duyên khởi; đấy
là Viên Giáo. Kinh Hoa Nghiêm luôn nói về pháp giới duyên khởi.
Hoa Nghiêm nói ngũ giáo, tức Tiểu, Thỉ, Chung, Đốn,
[Viên]. [Cách biện định duyên khởi này] thiếu
Đốn, nhưng có Viên. V́ sao không nói đến Đốn?
Riêng loại trừ Đốn là v́ Đốn giáo chẳng
chấp tướng, nó chẳng có ngôn ngữ, lấy “vô tướng, rời ĺa ngôn ngữ”
làm tông, đạo lư ở chỗ này! Chúng ta phải hiểu
điều này!
Hoa Nghiêm nói
Thập Huyền, tức là mười huyền môn. Trong phần
trước của kinh Hoa Nghiêm, chúng tôi đă giới thiệu
điều này. Đến khi nào mới giải thích tỉ
mỉ? Tôi nghĩ phải cho đến khi giảng xong toàn
bộ kinh Hoa Nghiêm, cuối cùng, sẽ dùng phần Huyền
Nghĩa của Thanh Lương đại sư để
làm tổng kết. V́ đối với Huyền Nghĩa, tức
là đối với toàn thể một bộ kinh mà nếu
chẳng có sự nhận thức khái lược, cứ đàm
huyền thuyết diệu, sẽ giống như vướng
vào trong màn sương rộng năm dặm, quư vị chẳng
ṃ được ngằn mé. Đă thông thuộc kinh Hoa
Nghiêm, năm tầng Huyền Nghĩa sẽ có ư vị vô
cùng. Do vậy, tôi không giảng ở đằng trước,
mà đặt ra sau để giảng, đạo lư ở
chỗ này! Mười huyền môn ấy chính là pháp giới
duyên khởi, nói về pháp giới duyên khởi. Chúng tôi giới
thiệu đại ư của Duyên Khởi đến
đây. Nay đă hết thời gian rồi, chúng ta nghỉ
ngơi mấy phút.
***
Chư
vị đồng học, chư vị pháp sư, xin mời
ngồi xuống. “Duyên khởi
thiện xảo”, quan trọng nhất là nói rơ đạo
lư và chân tướng sự thật của sanh tử luân hồi.
Học Phật, bất luận tu học tông phái nào, hay pháp
môn nào, chẳng thể không biết chuyện này! Điều
này thuộc về chân tướng của vũ trụ và
nhân sinh. Đức Phật đă dạy mười hai duyên
khởi thuộc về ba đời. Tôi nêu thí dụ để
nói, [chẳng hạn như] một người, kinh gọi
là một hữu t́nh (một người được
nêu lên ở đây chính là một hữu t́nh chúng sanh), nay
chúng ta gọi hữu t́nh chúng sanh là động vật,
duyên khởi lưu chuyển trong ba đời quá khứ, hiện
tại, vị lai. Điều này chỉ rơ: Bất cứ một
chúng sanh nào, kẻ đó có quá khứ, có hiện tại, có vị
lai, [những điều ấy] gọi là “nhân quả ba đời”. Nhân quả ba đời
được chia thành mười hai đoạn để
thuyết minh. Điều này được gọi là Thập
Nhị Duyên Khởi, hoặc gọi là Tam Thế Thập Nhị
Nhân Duyên.
Đầu
tiên, chúng ta phải hiểu rơ ràng mười hai danh từ ấy.
Tốt nhất là quư vị có thể ghi nhớ, những
danh từ ấy cũng hết sức quan trọng. Nói
chung, nếu có thể hiểu rất rơ ràng, rất minh bạch,
đối với sự tu hành của chính ḿnh, giới thiệu
cho người khác, quư vị sẽ chẳng mê hoặc tí nào!
Danh từ thứ nhất trong mười hai danh từ ấy
là Vô Minh, thứ hai là Hành, thứ ba là Thức, thứ tư
là Danh Sắc, thứ năm là Lục Nhập, thứ sáu là
Xúc, thứ bảy là Thọ, thứ tám là Ái, thứ chín là Thủ,
thứ mười là Hữu, thứ mười một là
Sanh, thứ mười hai là Lăo Tử. Phải ghi nhớ mười
hai danh từ ấy. Đức Phật dạy, trong giáo
pháp Đại Thừa, [từ ngữ Thập Nhị Duyên
Khởi] là nói theo lối tân dịch. Tân và cựu là dựa
theo Huyền Trang đại sư để nói. Phiên dịch
kể từ Huyền Trang đại sư về sau
được gọi là tân dịch, trước ngài Huyền
Trang sẽ gọi là cựu dịch. Trong Phật môn, thường
nói “tân dịch” và “cựu dịch” là do lấy chuyện này
làm tiêu chuẩn. Tân dịch gọi là Thập Nhị Duyên Khởi,
cựu dịch gọi là Thập Nhị Nhân Duyên. Trên thực
tế là nói cùng một chuyện, nhưng giữa tân dịch
và cựu dịch, có [danh xưng] khác biệt đôi chút!
Duyên
khởi là nhân duyên, lại gọi bằng một danh xưng
đơn lẻ là Nhân Duyên Quán. Nhân Duyên Quán chính là Bích Chi Phật,
c̣n gọi là Chi Phật Quán. [Chi Phật tức là] Bích Chi Phật,
coi pháp ấy là Quán môn của Bích Chi Phật. Quán môn là phương
pháp tu hành của Ngài. Quán: Như trong phần trước,
tôi đă nói với quư vị về Chỉ Quán. [Nếu] nói
một chữ, bèn nói là Chỉ. Trong Chỉ có Quán; nói Quán,
trong Quán có Chỉ. Chỉ và Quán chẳng tách rời. Chỉ
là buông xuống, Quán là thấy thấu suốt. Do vậy, Chương
Gia đại sư dạy tôi, sau khi tôi
khế nhập Phật môn, đối với phương
tiện giáo học thiện xảo của lăo nhân gia hết
sức bội phục. Quư vị ngẫm xem, tôi mới nhập
môn, chẳng biết ǵ hết, nghiễm nhiên nêu ra một vấn
đề lớn như vậy. Nếu Ngài giảng về
Chỉ Quán, có giảng suốt một tháng tôi nghe cũng
chẳng hiểu rơ, sẽ khiến cho tôi hồ đồ,
mơ màng! Ngài thay đổi danh từ thành “thấy thấu suốt, buông xuống”. Thấy
thấu suốt là Quán, buông xuống là Chỉ, cao minh tột
bậc! Đối đăi thành phần trí thức trong hiện
thời phải có phương tiện thiện xảo. Ư
nghĩa vẫn là như vậy, nhưng cách nói khác đi,
khiến cho họ dễ dàng lư giải, rất dễ tiếp
nhận. Đấy là thiện xảo, là thật sự cao
minh. Đó gọi là “thâm nhập
thiển xuất” (thâm nhập, nhưng diễn tả nông
cạn). Thuyết pháp th́ nhất định là quư vị phải
khiến cho đối phương nghe hiểu, nhất
định là phải khiến cho đối phương có
thể khế nhập. Như vậy tức là đạt
được hiệu quả, chúng ta và họ học tập
chẳng uổng công!
Mười
hai điều ấy nhằm nói đến duyên khởi
theo thứ tự của sự luân hồi trong lục
đạo trải khắp ba đời của chúng sanh. Do
vậy, Huyền Trang đại sư dịch là Duyên Khởi.
Dịch theo lối cổ là Nhân Duyên, chẳng sai, nhưng dịch
là Duyên Khởi th́ có lẽ ư nghĩa sẽ cạn hơn một
chút, càng dễ lư giải hơn đôi chút. V́ thế, gộp
hai lối tân và cựu dịch lại để xem, chúng ta
sẽ hiểu rơ. Mười hai chữ ấy nói về ba
đời, hai tầng nhân quả trong ba đời. Trong kinh
giáo, đức Phật thường nói: “Dục tri tiền thế nhân, kim sanh thọ giả
thị” (Muốn biết nhân đời trước, những
ǵ phải hứng chịu trong đời này chính là nó đấy).
Ta nghĩ trong đời quá khứ đă làm những ǵ ư?
Quả báo ta hứng chịu trong một đời này chính
là nó đấy. Có nhân th́ sẽ có quả. Đức Phật
dạy: “Dục tri lai thế
quả, kim sanh tác giả thị” (Muốn biết quả
trong đời sau, những ǵ đă làm trong đời này
chính là nó đấy). Nếu lại nghĩ quả báo trong
đời sau của ta sẽ ở đâu ư? Quả báo
của ta tốt hay xấu? Đức Phật dạy, những
ǵ quư vị đă tạo tác trong đời này chính là nó. Tạo
tác trong đời này là nhân, là cái nhân cho đời sau,
đời sau sẽ cảm quả báo. Do vậy, hai tầng
nhân quả trong ba đời, đă tạo nhân trong đời
quá khứ, đời này chịu quả báo. Tạo nhân
trong đời này, đời sau chịu quả báo. Hai tầng
nhân quả, ba đời!
Trong
rất nhiều tôn giáo, toàn là quan niệm hai đời, [tức
là] chỉ có đời này và đời sau, chẳng nói
đến đời quá khứ. Chẳng hạn như Cơ
Đốc Giáo, Thiên Chúa Giáo, Y Tư Lan Giáo đều là quan
niệm hai đời, chẳng nói đến ba đời.
Nhưng chúng ta xem kinh cho kỹ, sẽ nhận thấy trong
kinh [của các tôn giáo] thật sự có ba đời. Do vậy,
tôi đặc biệt dùng bút đỏ khoanh những đoạn
kinh văn ấy. Tức là trong kinh Cổ Lan, Chân Chúa (Allah)
đă nói. Chân Chúa là Thượng Đế, là chân thần. Ông
ta nói: “Ta dựa theo sự tiền
định để sáng tạo vạn vật”. Thượng
Đế tạo ra vạn vật, Thượng Đế
tạo ra con người, hoặc là cho quư vị hưởng
phước hay chịu tội trong đời này, có phải
là do ư nghĩ của Thượng Đế hay không? Chẳng
phải. Thượng Đế nói Ngài dựa theo sự tiền
định, “tiền định”
chính là những điều thiện hay ác do quư vị đă
tạo từ trước! Đời trước, quư vị
làm lành, đời này Thượng Đế sẽ ban
phước cho quư vị, quư vị là người hưởng
phước. Nếu đời trước quư vị làm ác,
Thượng Đế sẽ khiến cho quư vị đời
này phải chịu khổ, phải mắc nạn. Đấy
là có đời trước! Tôi đưa đoạn kinh
văn ấy cho họ xem: “Trong kinh điển của quư vị
có nói đến đời trước!”
Kinh
Cổ Lan nói đến sáu thứ tín, tức là tín điều
cơ bản có sáu thứ. Trong sáu thứ ấy, thứ nhất
là tin vào Allah, tức là phải tin một vị chân thần
duy nhất. Allah là Thượng Đế của họ, là
chân thần duy nhất, phải tin vào Allah! [Thứ hai là]
Tin thiên sứ, Allah đă phái những thiên sứ như Mục
Hăn Mặc Đức (Mohamed) thuộc loại thiên sứ,
do Thượng Đế hóa thân, quư vị phải tin
tưởng thiên sứ. [Thứ ba là] tin kinh điển, phải
tin tưởng kinh Cổ Lan. [Thứ tư là] tin vào tận
thế, tức là ngày tận thế như kinh Cổ Lan đă
nói. [Thứ năm là] tin vào tiền định, điều
này trọng yếu. “Tiền
định” là có đời trước! Nhất định
là quư vị có đời trước. Đó là cái nhân, đời
này quư vị hưởng quả báo. Do vậy, t́m ṭi trong kinh
điển, t́m ṭi cẩn thận, sẽ thấy quả thật
cũng là có tam thế. V́ thế, Thượng Đế chẳng
phải tùy tiện định ra chuyện cát, hung, họa,
phước cho bất cứ ai. Chẳng phải là ta thích
kẻ đó, kẻ đó tin ta, ta ưa chuộng hắn, sẽ
ban phước cho hắn. Kẻ đó chẳng tin ta, ta liền
giáng tai họa cho hắn! Chẳng phải như vậy,
[mà là] tiền định, căn cứ trên tiền định,
điều này nói rất có lư.
Đương
nhiên, nói tỉ mỉ nhất, rơ ràng nhất, minh bạch và
thấu triệt nhất, sẽ là kinh Phật. Mười
hai nhân duyên nhân quả ba đời, nói khá tỉ mỉ. Thứ
nhất là Vô Minh. Vô Minh là phiền năo tập khí từ đời
quá khứ. Nếu chẳng có phiền năo tập khí, tức
là quư vị chẳng tạo nghiệp. Nói tổng quát, đức
Phật quy nạp phiền năo thành ba loại lớn: Vô Minh
phiền năo, Trần Sa phiền năo, Kiến Tư phiền
năo; nói chung, chẳng ra ngoài ba loại lớn phiền năo tập
khí ấy! V́ tập khí phiền năo, quư vị mới tạo
nghiệp. Tạo nghiệp chính là điều thứ hai, tức
Hành. Hành là hành vi. Hành vi là ǵ? Dựa vào phiền năo trong
đời quá khứ mà tạo tác hạnh nghiệp thiện
hay ác. V́ thế, Hành là tạo tác. Tạo tác có thiện và ác.
Đấy là nghiệp.
Vô
minh là duyên, nghiệp là nhân, phải hiểu rơ mối quan hệ
này. Nếu chúng ta dùng ba đời để tỷ dụ,
Vô Minh giống như ông nội, Hành là cha, Thức ở sau
đó mới là chính ḿnh. Đấy là quả báo. V́ Vô Minh
nên mới có Hành, do Hành nên mới có Thức, Thức ấy
đầu thai. Cái nhân gần với sự đầu thai
nhất, được gọi là Thân Nhân Duyên. Cái xa xôi
hơn, xa hơn một chút, sẽ gọi là Tăng Thượng
Duyên, nó chẳng phải là Thân Nhân Duyên. Nó có nhân và duyên, chúng
ta phải phân định rơ, cái nào là nhân? Cái nào là duyên? Cái
nào là quả? Do v́ có duyên mới sanh ra các nghiệp nhân. Trong
đời quá khứ đă tạo tác nghiệp nhân thiện
hay ác, hiện tại thọ quả báo. Điều thứ
nhất trong quả báo là đầu thai, [tức là] Thức
nương theo cái nghiệp trong đời quá khứ để
nhận lấy một niệm thọ thai trong đời
hiện tại. Thức là thần thức, người Hoa
gọi nó là “linh hồn”,
trong Phật pháp gọi là Thức. Ai đến đầu
thai? Nó (Thức) đến đầu thai. Thức ấy
là A Lại Da Thức. A Lại Da Thức của chính chúng
ta đến đầu thai.
Đầu
thai cũng cần có duyên, tức là có duyên với cha mẹ.
Chẳng có duyên, quư vị sẽ chẳng thể đến
chỗ họ để đầu thai được! V́
thế, đức Phật thường nói quan hệ cha
con có bốn loại duyên. Bốn loại duyên là:
1)
Báo ân: Trong đời quá khứ, ta và kẻ khác có ân, tức
là kẻ khác đối với ta có ân, ta thấy người
ấy bèn sanh ḷng hoan hỷ, ta đến báo đáp kẻ ấy.
Đứa con đến đầu thai để báo ân sẽ
là con hiếu, cháu hiền, do quan hệ trong đời
trước dẫn khởi, cha mẹ có ân đối với
con.
2)
Loại thứ hai hoàn toàn trái nghịch, tức là báo oán. Đời
trước cha mẹ và con là cừu nhân. Lần này, sau khi
trông thấy, bèn đến đầu thai trong nhà kẻ thù
để báo cừu. Báo cừu th́ lúc bé nhất định
sẽ khiến cho cha mẹ hết sức yêu quư, sau khi
trưởng thành, con sẽ bất hiếu, là phá gia chi tử,
nhất định sẽ khiến cho quư vị nhà tan, người
chết! Bất luận là hữu ư hay vô t́nh, đều là do
nghiệp lực dẫn dắt. Chuyện này rất đáng
sợ!
3)
Loại thứ ba là đ̣i nợ. Trong quá khứ, cha mẹ
thiếu tiền con, nó đến đ̣i nợ. Sanh vào nhà quư
vị, quư vị chăm sóc, nuôi nấng nó kỹ càng, nó cũng
khiến cho cha mẹ vui sướng lắm. Hai, ba tuổi
chết tươi. Đấy là ǵ? Thiếu nợ ít, quư vị
đổ tâm huyết, tốn kém tiền bạc cho nó, nó đ̣i
xong rồi, đi mất! Nếu mắc nợ nhiều,
đại khái đến hai mươi tuổi, ví như
quư vị chăm chút nó, rất vất vả vun vén cho nó
trưởng thành, tốt nghiệp, giành được học
vị Tiến Sĩ, tự ḿnh có thể dấn thân vào xă hội,
bèn chết ngắc, đi mất rồi! Món tiền quư vị
phải chi dụng, nó đă đ̣i xong, đ̣i xong xuôi bèn ra đi.
Nó với quư vị chẳng có mối quan hệ nào khác, nó
đến đ̣i nợ, là quỷ đ̣i nợ.
4)
Loại thứ tư là trả nợ. Trả nợ là ǵ? Đời
trước, con cái thiếu tiền cha mẹ. V́ thế,
đời này, nó phải kiếm tiền nuôi nấng cha mẹ.
Nếu nó thiếu cha mẹ rất nhiều, nó phụng
dưỡng cũng rất sung túc, cha mẹ thứ ǵ cũng
chẳng thiếu. Nếu nó thiếu nợ ít, sẽ có thể
chiếu cố cuộc sống của cha mẹ, nhưng
chẳng phụng dưỡng sung túc. Chúng ta quan sát xă hội
này cẩn thận, sẽ có thể thấy được.
Quư vị sẽ thấy những đứa trẻ đến
đ̣i nợ, đến trả nợ, đến báo ân,
hay là đến báo oán.
V́
thế, hiện thời có rất nhiều kẻ làm cha mẹ
đến kể với tôi, con cái bất hiếu, khó dạy!
Do nguyên nhân nào? Chính ḿnh phải nên hiểu, chúng ta có phải
là đời đời kiếp kiếp bố thí ân đức
cho hết thảy chúng sanh hay không? Nếu tâm địa quư
vị quả thật thiện lương, bố thí ân
đức, trong nhà quư vị sẽ có nhiều con hiếu
cháu hiền, đều là đến báo ân. Nếu chúng ta khởi
tâm động niệm đều là tổn người lợi
ḿnh, quư vị sẽ kết cừu oán với người khác,
con cháu của quư vị [là những kẻ] đến báo oán.
V́ thế, làm người, quyết định chớ nên có
tà niệm, chớ nên mong chiếm tiện nghi của người
khác. Quư vị phải biết: Chẳng thể chiếm tiện
nghi của kẻ khác đâu nhé! Quư vị chiếm tiện
nghi [lúc này], trong tương lai, sẽ phải đền
trả kẻ đó! Phật pháp nói rất hay, như khi ăn
thịt th́ đức Phật dạy: “Người chết làm dê, dê chết làm người”.
Quư vị ăn nó nửa cân, trong tương lai sẽ phải
đền nó tám lượng, chuyện là như thế đó.
Há có dễ dàng như vậy! Quư vị ăn nó, chẳng đền
trả nó, chẳng có lẽ ấy! Thiếu nợ cũng
giống như thế, nay quư vị nghĩ trọn mọi
phương pháp để mưu đoạt tài sản của
người khác về tay ḿnh, kết quả là ǵ? Đời
sau, quư vị vẫn phải đền trả cho họ, nhân
duyên quả báo chẳng sai sót mảy may! V́ thế, làm sao có
thể tùy tiện đoạt tài sản hoặc tùy tiện
gây hại người khác cho được? Chẳng thể.
Dẫu quư vị có phương cách trốn tránh luật pháp
thế gian, thường nói là “t́m kẽ hở luật pháp”,
nhưng nhân quả sẽ trốn chẳng thoát!
Trong
xă hội hiện tại, con hiếu cháu hiền ít ỏi, đó
là v́ nguyên nhân nào? Người hiện thời chẳng biết
bố thí ân đức, chẳng biết dùng thiện tâm
thành ư đối với người khác, nguyên nhân ở
ngay chỗ này! V́ thế, hiện thời chúng tôi đề
xướng giáo dục điều ấy. Tôi thường
nói, trong mỗi lần hội nghị quốc tế, tôi nhất
định sẽ nói, v́ người tham gia hội nghị
mỗi lần khác nhau. Tôi luôn nói ba loại giáo dục có thể
hóa giải xung đột, có thể giúp thế giới này
khôi phục an định, ḥa b́nh. Thế giới này vốn
an định, ḥa b́nh. V́ thế, tôi không nói là “xúc tiến”,
mà nói là “khôi phục”. Ba loại giáo dục nào vậy? Thứ
nhất là giáo dục luân lư, thứ hai là giáo dục nhân quả,
quư vị phải hiểu nhân quả trong Thập Nhị Nhân
Duyên. Sau khi đă hiểu rơ đạo lư ấy, làm sao chúng
ta có thể dùng ác ư đối với kẻ khác cho
được? Tuyệt đối chẳng thể! Quư vị
biết chân tướng sự thật, sẽ kết thiện
duyên cùng hết thảy chúng sanh.
Tôi
thường nói (các đồng học thường thân cận
tôi đều biết) muỗi cắn chúng ta, muỗi chích
chúng ta, quư vị hăy ngẫm xem, v́ sao nó nhất định
phải chích quư vị? Vẫn chẳng phải là v́ đói
mà muốn ăn no một bữa hay sao? Ư nghĩa là như
vậy đó. Nếu quư vị chịu bố thí, cúng dường
cho nó, cho nó ăn, nó ăn no xong, để cho nó tự bay đi.
Nó chẳng phạm tội chết. Quư vị đập nó
chết tươi, sẽ kết oán với nó, oan oan tương
báo, chẳng hết, chẳng xong! Quư vị phải biết:
Trong tương lai, nó biến thành người, quư vị biến
thành muỗi. Quư vị chích nó, nó cũng đập bốp
một phát, đánh chết quư vị. Oan oan tương báo!
Quư vị không chịu bố thí, đuổi nó đi là
được rồi, nó chẳng đáng tội chết,
cớ sao phải giết hại nó? Ngay cả muỗi, kiến,
quư vị đều biết thương yêu, giúp đỡ
nó, chẳng tổn hại nó, đó là từ bi, là bố thí
ân đức. Không sát sanh, không ăn thịt, [chính là] vô úy bố
thí, quả báo là khỏe mạnh, sống lâu!
Do
tài bố thí được của cải. Do pháp bố thí,
được thông minh, trí huệ. Do vô úy bố thí,
được khỏe mạnh, sống lâu. V́ sao không tu bố
thí? [Quư vị viện cớ] “tôi chẳng có tiền”, chẳng
có tiền th́ càng phải tu tài bố thí. V́ sao? Trong tương
lai, của cải quư vị chẳng thiếu dùng! Nếu quư
vị chẳng chịu bố thí, đời đời kiếp
kiếp nghèo túng, đời này khốn quẫn, vất vả
hơn đời trước! Nếu chúng ta chẳng gặp
được thầy giỏi, chẳng gặp gỡ Phật
pháp, làm sao hiểu được đạo
lư này? Giáo dục luân lư là dạy người khác làm người
tốt, chẳng phải là dạy người ta làm quan to,
chẳng phải là dạy người ta phát tài to. V́ sao? Chức
vị, phát tài th́ phải có vận mạng, đă định
sẵn bởi đời trước. Đời trước
quư vị chẳng tu, đời này chẳng đạt
được, đó là đạo lư nhất định.
Nhưng quư vị chỉ cần làm người tốt, chịu
tu, chịu học, gieo cái nhân cho đời sau. Đời
này ta tu nhân, đời sau có quả báo tốt lành, chẳng
cần hưởng quả báo trong đời này! Đời
này tu cái nhân tốt, đời này làm người tốt,
đấy là giáo dục luân lư, giáo dục nhân quả, đạt
đến viên măn rốt ráo là giáo dục tôn giáo. Chỉ có giáo
dục tôn giáo mới có thể nói rơ ràng, minh bạch chân
tướng của vũ trụ và nhân sinh là chuyện như
thế nào!
V́
thế, quư vị thấy đó, Vô Minh duyên Hành, hai điều
này là cái nhân trong đời quá khứ, thuộc về đời
quá khứ. Đời này đạt được quả
báo, năm điều từ Thức cho đến Thọ là
quả báo. Thức, nương theo nghiệp trong đời
quá khứ mà thọ một niệm thụ thai trong đời
này. Gặp được duyên, cha mẹ là duyên, tức là
bốn loại duyên như tôi vừa mới nói. Chỉ cần
có bốn loại duyên ấy, sau khi gặp gỡ, một
niệm dấy lên, người ấy bèn nhập thai, ở
trong thai, chúng ta nói là “đầu
thai”, là chuyện như thế đó. Chẳng có kẻ
nào làm chúa tể. Quỷ thần làm chúa tể, Diêm La làm chúa
tể ư? Chẳng có chuyện ấy! Chính là một niệm
của chính quư vị, do có duyên với cha mẹ mà dấy động
một niệm. Một niệm ấy chính là phiền năo dấy
lên hiện hành, sẽ vào trong thai. Niệm ấy là ǵ vậy?
Ái dục!
Điều
kế tiếp là Danh Sắc. Danh Sắc là ở trong thai, thân
tâm dần dần tăng trưởng, gọi bằng danh
xưng này. Danh là v́ nó là sống động, Sắc là vật
chất. Nó là một khối thịt trong thai mẹ, nhưng
khối thịt ấy sống động, chẳng chết
cứng. Nó tăng trưởng dần dần, dần dần
tăng trưởng trở thành h́nh dáng con người. Khi
đă hoàn toàn h́nh thành h́nh dạng con người, bèn gọi
là Lục Xứ (Lục Nhập). Lục Xứ là sáu căn,
tức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân đều đă
trưởng thành. Dần dần, sáu căn thảy đều
trọn đủ, kẻ ấy bèn xuất thai, bèn sanh ra. V́
thế, từ khi thai nhi h́nh thành mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, măi cho đến trước khi được sanh ra,
đều gọi là Lục Xứ, đều gọi bằng
danh xưng là Lục Xứ.
Kế
đó là Xúc. Nói “Xúc” tức là nói theo kiểu trước
kia. Xúc là ǵ? Đứa bé vừa xuất thai, tiếp xúc cảnh
giới bên ngoài. V́ thế, phải biết Xúc là xuất
thai, tức là sanh ra. Sanh ra, sáu căn (mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân) của nó tiếp xúc với thế giới
bên ngoài thân thể mẹ, nó có cảm xúc. Quư vị thấy
nó sanh ra bèn khóc, v́ sao? Đau khổ. Ở trong thai mẹ là
một hoàn cảnh sống, khi rời khỏi thai mẹ, sẽ
là một hoàn cảnh bất đồng vời vợi, nó chịu
không nổi. V́ thế, nó rất đau khổ. Nó phải tập
quen dần dần, tập quen với bên ngoài thai mẹ, tập
quen với hoàn cảnh bên ngoài thân thể mẹ, nó phải
tập quen dần. V́ thế, khi trẻ nhỏ sanh ra, chẳng
có đứa nào không khóc. Quư vị nghe kỹ tiếng khóc,
[sẽ thấy là] “Khổ a! Khổ a!” Kêu khổ, đến
thế gian này sẽ phải khổ suốt đời! Quư
vị thấy trẻ nhỏ nào vừa sanh ra bèn cười
to ha hả? Chẳng có! V́ thế, quư vị nh́n từ những
hiện tượng ấy, quan sát cẩn thận, sẽ liễu
giải đời người xác thực là khổ. Do vậy,
Xúc là tiếp xúc, từ khi sanh ra măi cho đến lúc già chết,
có ngày nào chẳng tiếp xúc? Tiếp xúc xă hội bên ngoài,
tiếp xúc hết thảy người, sự, vật. Đó
là Xúc.
Kế
đó là Thọ. Trước kia, Thọ là sau khi đă sáu, bảy
tuổi; hiện thời, Thọ sớm hơn. Chúng ta thấy
điều này rất rơ ràng. Trước kia, xác thực là
sau sáu, bảy tuổi, dần dần trẻ nhỏ đối
với hết thảy sự vật, do nhận biết khổ
lạc khác biệt mà có cảm nhận. Hiện thời như
tôi thấy, thông minh một chút th́ trẻ nít một tuổi
đă có Thọ. Trẻ nít một, hai tuổi đă có thể
quan sát sắc mặt, suy xét lời nói [của người
lớn], lợi hại quá! Học từ đâu ra? Tôi nghĩ
là học từ TV. Quư vị thấy sau khi nó vừa sanh ra,
c̣n ngủ trong nôi, mỗi ngày xem những ǵ? Mỗi ngày xem TV.
Cha mẹ chẳng dạy mà là TV dạy nó. Nó học
được rất nhiều thứ từ TV. Tuy nó chưa
thể nói chuyện, chẳng đi được, trong tâm
nó biết rất rơ ràng, rất minh bạch. Nhất cử
nhất động của người lớn, nó mắt
thấy, tai nghe, sẽ có phản ứng. Chỉ cần quư
vị nh́n từ phản ứng, bèn biết là nó có Thọ,
có ưa thích, có chán ghét, có những cảm nhận khổ lạc,
có thể thấy rất rơ ràng.
Thọ
là do có cảm nhận mà dấy lên, cũng là măi cho đến
khi già, chết, mỗi ngày quư vị đều đang Thọ.
Trong cuộc sống, quư vị đều thọ, thọ
trong công việc, lại c̣n thọ trong xử sự, đăi
người tiếp vật. Thọ là ǵ? Đức Phật
nói năm loại [cảm nhận] lớn là khổ, lạc,
ưu, hỷ, xả. Suốt một đời, nói chung, quư
vị chẳng vượt ra khỏi năm chữ ấy.
Thân có khổ, lạc, tâm có ưu, hỷ; khi khổ, lạc,
ưu, hỷ tạm ngừng th́ gọi là Xả. Nói chung,
chẳng ra ngoài năm loại lớn ấy. V́ thế, gọi
là Ngũ Thọ. Năm tầng cấp từ Thức đến
Thọ là quả báo. Trong ấy, quư vị đến đầu
thai, Phật pháp nói rất rơ ràng, Dẫn Nghiệp, tức
là thiện ác đă tạo trong đời quá khứ dẫn
dắt quư vị đi đầu thai, chẳng phải là có
chúa tể khác biệt. Xác thực là đúng như kinh Cổ
Lan đă nói, Allah đă dựa theo tiền định để
ban cho quư vị, chẳng phải do ư nghĩ của chính ông
ta, mà là dựa theo tiền định. Phật pháp nói rất
thấu triệt, trong đời quá khứ từng tŕ Ngũ
Giới, từng tu Thập Thiện, [vậy th́] Ngũ Giới,
Thập Thiện sẽ dẫn dắt quư vị đến
đầu thai trong nhân gian. Chuyện là như thế đó,
dẫn dắt quư vị [đi đầu thai]! Khổ, lạc,
ưu, hỷ, xả trong một đời này [gọi
chung] là Măn Nghiệp.
V́
thế, chúng ta sanh trong nhân đạo, Dẫn Nghiệp giống
nhau, Măn Nghiệp khác nhau. Măn Nghiệp là do những điều
thiện ác đă làm trong đời quá khứ tích lũy lại,
cảm lấy quả báo trong đời này, tức là quả
báo do khổ, lạc, ưu, hỷ, xả trong đời này.
V́ vậy, giáo dục hết sức trọng yếu. Do người
Hoa hiểu đạo lư này, [họ nhận biết] giáo dục
có thể giúp quư vị cải thiện. Ví như trong quá khứ
đă tạo ác nghiệp quá nhiều, trong đời này, quư
vị phải chịu khổ. Nếu quư vị được
giáo dục rất tốt, giác ngộ, trong một đời
này, nếu sửa đổi tập khí, tật xấu, đoạn
ác, tu thiện, tích lũy công đức, sẽ có thể chuyển
đổi vận mạng của chính ḿnh. Quư vị thấy
Liễu Phàm Tứ Huấn là một tấm gương rất
tốt. Du Tịnh Ư Công Ngộ Táo Thần Kư toàn là sự thật,
hoàn toàn chẳng giả. Hiện thời, có đồng tu
muốn quay Du Tịnh Ư Ngộ Táo Thần Kư thành phim, làm thành
phim nhiều tập, đem kịch bản đến chỗ
tôi. Tôi đọc thấy viết rất khá, chỉ sửa
chữa sơ lược đôi chút, tổng cộng chỉ
có sáu tập. Tôi nghĩ trong tương lai, chư vị
đều có thể xem [bộ phim ấy]. Cách sửa đổi
và quả báo đạt được của Du Tịnh Ư c̣n
thù thắng hơn tiên sinh Liễu Phàm.
Điều
này cho chúng ta biết: Có mạng vận hay không? Có! Có định
số (vận số nhất định). Những ǵ đă
tạo trong đời trước chính là định số;
nhưng quư vị phải hiểu, ngoài định số c̣n
có biến số. Biến số là ǵ? Những ǵ ta đă tạo
trong đời này. Trong đời quá khứ, tạo ác nhiều,
đời này chẳng làm ác, chuyên làm lành, điều thiện
trong đời này đủ để che lấp những điều
ác trong quá khứ. Như vậy là quư vị có thiện, chẳng
có ác, mạng của quư vị hoàn toàn sửa đổi. Chúng
ta thấy tiên sinh Liễu Phàm sửa đổi có hiệu
quả, thu nhập hằng năm gia tăng. Đấy là
do Tài Bố Thí mà tăng thêm, tăng trưởng thông minh,
trí huệ. Thi cử hằng năm, Khổng tiên sinh tiên đoán
cho ông ta, tiên đoán thứ tự đỗ đạt [của
Viên Liễu Phàm] trong mỗi lần khảo thí đều
chẳng sai. Ông Viên gặp thiền sư Vân Cốc, biết
sửa lỗi, đổi mới, dốc hết tánh mạng
nỗ lực tu thiện. Lại đi dự thi, thứ tự
[đỗ đạt] cao hơn. Có một lần Khổng
tiên sinh coi bói cho ông Viên, nói ông Viên sẽ đậu hạng
ba, kết quả, ông Viên đậu hạng nhất, tiến
cao hơn. Hiệu quả chẳng thể nghĩ bàn! Do vậy,
nếu người thật sự hiểu nhân quả, hăy nên
nỗ lực đoạn ác tu thiện, tích lũy công đức,
sáng tạo vận mạng mới toanh cho chính ḿnh. Đấy
mới gọi là người thông minh, có trí huệ.
Đến
đây là một tầng nhân quả, là một thứ nhân quả
trong hai đời, tức quá khứ và hiện tại. Cái
nhân trong quá khứ là Vô Minh, Hành là duyên (nhân duyên), đời
này là quả báo. Nhưng trong một đời này, chúng ta vẫn
có thể tạo tác; do vậy, tạo nghiệp. Tạo
nghiệp th́ dùng ba chữ đă bao gồm, tức là Ái, Thủ.
Hữu. Giải thích Ái th́ sau mười bốn, mười
lăm tuổi, sanh ra các thứ ái dục mạnh mẽ. Hiện
thời, độ tuổi này đă sớm hơn, đại
khái là mười tuổi đă có ái dục rất mạnh
mẽ, thậm chí bảy, tám tuổi, ái dục mạnh mẽ
đă hiện tiền. Do nguyên nhân nào? Giáo dục. Người
hiện thời từ bé đă được dạy thói ích
kỷ! Giáo dục phương Tây đă dạy điều
ǵ từ nhỏ? Cạnh tranh! Cứ làm như không có cạnh
tranh, sẽ chẳng thể sanh tồn! Từ nhỏ đă
dạy cạnh tranh, cạnh tranh là “có ta, sẽ chẳng có
ngươi”. Do vậy, trong quan niệm toàn là tổn
người, lợi ḿnh, đấy là tạo ác nghiệp.
Chúng ta biết cạnh tranh ở mức độ cao hơn
sẽ là đấu tranh, đấu tranh nâng cao hơn th́ là
chiến tranh. Do vậy, quan niệm giáo dục đi vào tử
lộ. Chúng ta hồi tưởng cổ thánh tiên hiền dạy
người khác, từ nhỏ đă dạy ǵ? Dạy nhân
nhượng, dạy tôn trọng người khác. Mọi
chuyện đều biết nhường nhịn, lễ
độ, nhún nhường. Đấy là hài ḥa.
Nho
gia nói đến lễ. Tinh thần của Lễ là “tự ty, tôn nhân” (chính ḿnh khiêm
tốn, nhún nhường, tôn trọng người khác), hoàn
toàn tương phản với quan niệm giáo dục của
phương Tây. Chúng ta phải chú tâm suy nghĩ, những thứ
truyền thống của chúng ta tốt đẹp, hay những
thứ của ngoại quốc tốt hơn? Quư vị phải
hiểu rơ ràng, v́ nó có liên quan đến hạnh phúc của
quư vị trong một đời này, liên quan đến quả
báo trong đời sau! Do vậy, chúng ta thật sự tin
tưởng nhân quả ba đời. Có ư niệm ái dục,
ư niệm dục vọng sanh khởi, do có dục vọng,
kẻ ấy sẽ Thủ, [tức là] sẽ muốn đoạt
lấy. Hiện thời, chẳng phải là sau khi đă
trưởng thành [mới là như vậy]! Hiện nay,
thanh thiếu niên đă là như thế. Ái dục càng mạnh,
kẻ rong ruổi theo các cảnh để giành lấy những
điều mong cầu ḥng thỏa măn dục vọng của
chính ḿnh. Danh từ mới mẻ hiện thời là “cạnh tranh với kẻ khác”,
nhất định phải chiến thắng, nhất
định là chính ḿnh phải giành phần thắng. Hễ
quư vị thắng, kẻ khác sẽ thua. Chẳng biết
những thứ ấy vốn có trong mạng, chẳng phải
là ai cũng có thể tranh giành được! V́ thế, nói
đến mạng, chẳng thể không tin tưởng!
Có
Thủ, Thủ là tạo nghiệp, sau đấy bèn kết
nghiệp! Hữu chính là phiền năo nương tựa vào Ái
và Thủ. Tạo các thứ nghiệp, chắc chắn sẽ
có quả trong tương lai. Nghiệp ấy là ǵ? Kết
nghiệp trong A Lại Da Thức; nghiệp ấy giống
như chúng ta trong đời này nói đến Hành trong đời
trước vậy. Những ǵ chúng ta đă làm trong đời
này, Ái và Thủ thuộc về Vô Minh. Ái là vô minh, là mê hoặc,
thứ ǵ cũng đều mong chiếm hữu, đấy
là tạo nghiệp. Nghiệp là như thế nào? Nghiệp
sẽ cảm vời quả báo trong đời sau. Do vậy,
nghiệp dẫn đến hậu hữu. Quư vị lại
có nhân duyên cho đời sau, bèn có đời sau. V́ vậy, Ái,
Thủ, Hữu là nghiệp nhân đă tạo trong đời
này, cảm vời Sanh và Lăo Tử trong đời sau. Quư vị
thấy đức Phật dùng phương pháp đơn
giản như vậy để giảng rơ ràng, giảng
minh bạch nhân quả ba đời. Bích Chi Phật lănh ngộ
từ chỗ này, hiểu được ǵ? Từ vô lượng
kiếp đến nay, sanh tử luân hồi không ngừng, vốn
là chuyện như thế đó!
Làm
thế nào để thoát ly luân hồi? Hăy đổ công dốc
sức ngay nơi Ái, Thủ, Hữu. Có thể thật sự
buông xuống ái dục, chẳng c̣n tham ái, đối với
thứ ưa thích chẳng tham ái, đối với thứ
không ưa thích chẳng nóng giận. Sống trong thế
gian này, đối với hết thảy hoàn cảnh, hoàn cảnh
nhân sự cũng thế, mà hoàn cảnh vật chất cũng
thế, thảy đều dùng cái tâm b́nh đẳng để
đối đăi, dùng cái tâm thanh tịnh để đối
đăi, chẳng mê hoặc. Sống trong thế gian này, bất
luận làm chuyện ǵ, đều là tùy duyên, chứ không
phan duyên, [đó là] chẳng Thủ. Hễ Thủ, quư vị
sẽ tạo nghiệp. Bởi lẽ, phan duyên bèn tạo
nghiệp, tùy duyên chẳng tạo nghiệp. Tự ḿnh nhất
định chớ nên nghĩ ta phải làm chi đó. Đấy
là tạo nghiệp, hăy tùy duyên! Những chuyện đă làm
đều là v́ chúng sanh. Người học Phật là v́
hai chuyện, một là v́ chánh pháp tồn tại lâu dài, hai là
v́ lợi lạc hữu t́nh, chẳng v́ chính ḿnh. Chẳng
có chính ḿnh, quư vị sẽ không tạo nghiệp, như vậy
th́ mới có thể liễu sanh tử, thoát tam giới. Kinh
Kim Cang đă dạy chúng ta cách Quán, dạy chúng ta cách sửa
đổi quan niệm sai lầm ấy. Quư vị thấy
kinh dạy rất hay: “Nếu Bồ
Tát có ngă tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng,
thọ giả tướng, sẽ chẳng phải là Bồ
Tát!” Chúng ta phải thường nghĩ tưởng câu kinh
văn này, ḥng cảnh tỉnh chính ḿnh. Chính ḿnh dấy lên một
ư niệm bất thiện, dấy lên ư niệm ích kỷ, hăy
niệm mấy câu kinh văn này nhiều lượt. “Phàm những ǵ có h́nh tướng
đều là hư vọng”,
“hết thảy các pháp hữu vi đều như mộng,
huyễn, bọt, bóng”, niệm
mấy câu này nhiều lượt, sẽ tỉnh lại,
chẳng c̣n mê hoặc. Có muốn hay không? Chớ nên muốn!
Hễ muốn, quư vị sẽ bị phiền toái!
Thích
Ca Mâu Ni Phật lăo nhân gia suốt cả một đời đă
nêu gương tốt nhất. Thích Ca Mâu Ni Phật có lập
đạo tràng hay không? Chẳng có. Suốt đời Ngài
hướng dẫn một tăng đoàn khá lớn, đệ
tử thường tùy là một ngàn hai trăm năm mươi
lăm vị! Trụ ở nơi đâu? Nghỉ đêm dưới
gốc cây, ăn th́ sao? Khất thực! Giữa trưa ăn
một bữa, tối nghỉ dưới cội cây. Thích
Ca Mâu Ni Phật chẳng dựng đạo tràng, phải ghi
nhớ điều này. Quốc vương, đại thần,
trưởng giả, cư sĩ cúng dường đạo
tràng là tạm thời. Có lúc thỉnh Ngài đến giảng
kinh, bèn cung cấp hoàn cảnh [cư trụ cho Tăng đoàn],
giảng xong bèn ra đi. Đức Phật xuất gia, nếu
quư vị lại dựng đạo tràng, chẳng phải là
lại biến thành có nhà ư?
Đạo
tràng là thập phương đạo tràng, chẳng phải
là của cá nhân, nhằm cung cấp phương tiện cho
người tu hành chân chánh. Chúng ta cung cấp tứ sự cúng
dường, hiện thời c̣n cúng dường đạo
tràng, cúng dường cơ sở, khiến cho quư vị an
tâm ở đấy tu đạo, phải hiểu đạo
lư này. Nếu chiếm đạo tràng ấy làm của riêng
tư, làm đạo tràng của ta, được thôi!
Đời sau quư vị có thể ĺa khỏi đạo tràng
hay không? Chẳng thể! Nhưng người ở trong đạo
tràng là người xuất gia, chẳng có nam nữ giao phối,
đời sau quư vị đầu thai vào đạo tràng này,
sẽ đầu thai thành ǵ? Trong đạo tràng có chuột,
có gián, có kiến, chúng nó giao phối, đời sau quư vị
sanh trong ngôi tự viện ấy, sẽ sanh trong những
loài đó. V́ sao? Quư vị chấp trước đạo
tràng ấy là của quư vị, chẳng chịu buông bỏ,
chẳng chịu buông xuống, đời sau sẽ biến
thành những loài ấy. Trong kinh giáo đă nói rất rơ ràng,
rất minh bạch. Người xuất gia buông xuống muôn
duyên, sáu căn thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần,
đấy mới là hợp lư!
V́
lẽ này, người học Phật bất luận tại
gia hay xuất gia, chẳng thể không đọc kinh, chẳng
thể không nghe kinh, chẳng thể không tu hành. Nhất
định phải hiểu tu hành là uốn nắn hành vi sai
lầm của chính ḿnh. Chúng ta khởi tâm động niệm,
ngôn ngữ, tạo tác chẳng giống như kinh luận đă
nói, chúng ta đă sai mất rồi! Phải nương theo kinh
luận, uốn nắn những sai lầm của chính ḿnh;
đấy là tu hành. Chớ nên không hiểu điều này!
V́ thế, tu hành là sửa chữa hành vi sai lầm của chính
ḿnh. Đức Phật dạy chúng ta phải lễ kính
chư Phật, phải xưng tán Như Lai. Chư Phật
là ǵ? Chư Phật có quá khứ Phật, hiện tại Phật,
vị lai Phật. Quá khứ, hiện tại được
nói trong kinh, c̣n vị lai Phật là ǵ? Vị lai Phật là hết
thảy chúng sanh. Tôi mỗi lần lên xuống thang, đều
thấy có nhiều đồng tu chăm sóc, ngăn cản
người khác để cho tôi lên xuống trước.
Chuyện này dường như là đối xử lễ
kính đối với tôi, nhưng chẳng công bằng đối
với người khác. Có cần phải lễ kính người
khác hay không? Họ có phải là chư Phật hay không? Phải!
Phải b́nh đẳng, phải lễ ngộ, phải
khách sáo, phải đều chiếu cố trọn khắp,
như vậy th́ trong tâm người ta mới sanh ḷng hoan hỷ.
Quư vị một mực ích kỷ, ta phải đi trước,
các vị theo sau, chẳng tốt! Hành vi ấy là sai lầm.
Hy vọng các đồng học chúng ta phải giác ngộ,
phải sửa đổi. Đối với bất luận
người nào, cũng đều đối đăi b́nh
đẳng, đối với bất cứ ai cũng đều
phải tôn kính, đều phải lễ phép, nhân nhượng,
như vậy th́ mới nên! A! Hôm nay đă hết thời
gian rồi, chúng tôi nói tới đây!
Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười
một, Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 10 hết
[1] Lợi Sử
chính là năm thứ kiến (Kiến phiền năo), tức Thân Kiến, Biên Kiến, Kiến Thủ Kiến, Giới
Thủ Kiến, Tà Kiến. Độn Sử (Tư phiền
năo) là tham, sân, si, mạn, nghi.
[2] Vị ḥa
thượng này sanh năm 1906, viên tịch năm 2008, pháp
hiệu Tâm Dự, là môn chủ đời thứ tám
mươi sáu của tổ đ́nh Tri Ân Viện (Chion-in)
thuộc Tịnh Độ Tông (Jōdo-shū) Nhật
Bản, chi phái Tây Sơn (Seizan, chi phái được sáng lập
bởi ngài Chứng Không, đồ đệ của tổ
Pháp Nhiên) và chi phái Trấn Tây (Chinzei). Ngài từng đảm
nhiệm chức vụ Giám Học Trưởng của
đại học Đại Chánh, là pháp chủ của chùa
Tăng Thượng, kiêm hội trưởng hội Phật
giáo Nhật Bản.