Phẩm
thứ mười một,
Tịnh
Hạnh Phẩm
Phần 11
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh
Không
Địa điểm: Hương Cảng Phật
Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ ngày mồng Bảy
tháng Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ
tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ
Trang và Minh Tiến
Tập 1483
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời
ngồi xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ
mười một, đoạn thứ năm trong phần trường
hàng. Đoạn này là mười món thiện xảo, chúng ta
vẫn chưa học xong, hôm nay học tiếp. Chúng tôi
đọc trước kinh văn một lượt.
(Kinh)
Vân hà đắc Uẩn thiện xảo, Giới thiện xảo,
Xứ thiện xảo, Duyên Khởi thiện xảo?
(經)云何得蘊善巧。界善巧。處善巧。緣起善巧。
(Kinh:
Làm thế nào để đắc Uẩn thiện xảo,
Giới thiện xảo, Xứ thiện xảo, Duyên Khởi
thiện xảo?)
Chúng
ta đọc đến đoạn này. Học tập đoạn
kinh văn này, xác thực là khiến cho chúng ta quan sát nghĩa
thú của thiện xảo rất sâu! Ngũ Uẩn, mười
tám giới, mười hai xứ đều là nói về bản
thân chúng ta. Mọi người đều biết Ngũ Uẩn
là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Sắc là vật
chất, Thọ, Tưởng, Hành, Thức là tinh thần.
Mười tám giới là Ngũ Uẩn được mở
rộng. Đấy chính là cách thuyết pháp thiện xảo
của đức Phật dành cho ba loại người
khác nhau. [Nói] Ngũ Uẩn đối với kẻ mê tâm
pháp nặng nề, mê sắc pháp nhẹ. Do vậy, Ngài nói Sắc
gồm một điều, nói tâm pháp gồm bốn điều.
Quư vị coi trọng điều ǵ, phải nói cặn kẽ
điều ấy. Mười tám giới là nhằm vào kẻ
mê sắc và tâm đều nặng; do vậy, sắc lẫn
tâm đều phải nói cặn kẽ. Mười hai xứ
dành cho kẻ mê sắc pháp nặng, mê tâm pháp nhẹ. V́ thế,
nói tâm pháp có một điều, nói sắc pháp đến mười
một điều, [cả ba cách nói ấy] đều là
nói về bản thân chúng ta.
Chúng
ta hăy ngẫm xem, Duyên Khởi được giảng rất
khéo, nói đến chuyện quư vị đi đầu thai,
do nguyên nhân ǵ mà đầu thai? Trong phần trước,
chúng ta đă học những điều ấy, v́ sao quư vị
có thể đi đầu thai? Nhưng được làm
thân người, quư vị nói xem, thân người là thiện
hay bất thiện, là khéo léo hay không khéo léo? Từ trong thân thể
mẹ, quư vị có đầy đủ trọn vẹn tất
cả các khí quan nơi toàn thân, do ai tạo ra? Chẳng phải
do con người tạo ra! Nếu con người có thể
tạo, vậy th́ quư vị hăy nh́n vào động vật, quư
vị thấy những con chim nhỏ, có một câu ngạn
ngữ rất hay: “Ma tước
tuy tiểu, ngũ tạng câu toàn” (Chim sẻ tuy bé,
ngũ tạng[1] đều đầy
đủ). Quư vị hăy xem kỹ, chim sẻ bé tí xíu như
vậy, nhưng Ngũ Uẩn, mười tám giới,
mười hai xứ, nó thảy đều trọn đủ!
Quư vị quan sát kỹ càng, nó phá vỡ vỏ trứng nở
ra; sau khi sanh ra, thứ ǵ cũng đều
trọn đủ. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân [bên
ngoài], ngũ tạng, lục phủ[2] bên
trong, chẳng có ǵ không đầy đủ, chẳng có ǵ
thừa thăi, mà cũng chẳng hề thiếu khuyết thứ
ǵ! Đấy là thiện, đấy là xảo diệu, tự
nhiên là như vậy. Phật pháp gọi điều
này là “chẳng thể nghĩ
bàn”. Quư vị tư duy, nhưng chẳng thể nghĩ
tưởng được, nghĩ không ra, chẳng thể
diễn tả sự vi tế, khéo léo ấy, tối đa
là chỉ có thể nói được một h́nh trạng của
nó. Đối với Thể, Tướng, Dụng, quư vị
có thể nói về Tướng và Dụng, chứ chẳng
có cách nào diễn tả Thể. Lư Thể chẳng phải
là thứ mà ngôn ngữ, tư duy có thể đạt
được, thiện xảo đến cùng cực!
Có
một loại chúng sanh do căn tánh mà quan sát sự thiện
xảo ấy, họ giác ngộ, hiểu rơ, Phật pháp gọi
loại chúng sanh ấy là Duyên Giác, hoặc gọi là Độc
Giác. Duyên Giác tức là họ có thầy giảng về Duyên
Khởi thiện xảo, bèn khai ngộ. Hạng người
ấy được gọi là Duyên Giác. Độc Giác cao
minh hơn! Họ xuất hiện trong thế gian này, chẳng
gặp thầy, chẳng gặp gỡ Phật pháp, do quan
sát hiện tượng tự nhiên, quan sát sự thiện xảo
chẳng thể nghĩ bàn, bèn hiểu rơ, giác ngộ. V́ thế,
trong giáo pháp Đại Thừa có nói đến chuyện
quán duyên khởi, phá chấp trước. Chúng ta biết: Chấp
trước là căn cội của sự luân hồi trong lục
đạo. Nếu chúng ta buông xuống chấp trước,
lục đạo sẽ chẳng c̣n nữa, quư vị sẽ
vượt thoát lục đạo. Chỉ cần quư vị
c̣n có chấp trước, sẽ chẳng thoát khỏi lục
đạo luân hồi, các đồng học niệm Phật
phải đặc biệt chú ư điều này. Quư vị thấy
từ xưa đến nay, câu “khẩu
đầu Thiền” của vị đường chủ
Niệm Phật Đường là: “Buông xuống muôn duyên, nhất tâm chuyên niệm”.
Đấy là câu khẩu đầu Thiền của vị
đường chủ. Thân, tâm, thế giới, hết thảy
[đều phải] buông xuống, quư vị mới có thể
văng sanh. Nếu quư vị có một chuyện chẳng thể
buông xuống, sẽ chẳng thể văng sanh. [Dẫu] niệm
Phật mà vẫn chẳng thể văng sanh, quư vị nói chuyện
này có quan trọng lắm hay không? Đời này, chúng ta niệm
Phật, đời này cầu nguyện văng sanh, đến
cuối cùng, lúc sắp ra đi, quư vị c̣n có điều
ǵ không buông xuống được, sẽ chẳng thể
văng sanh! Chẳng văng sanh, phải đợi tới cơ hội
lần sau! Cơ hội lần sau nói không chừng là đời
kế tiếp, vậy th́ rất gần; nói không chừng
là đời sau. Đời sau là ǵ? Là từ đời thứ
ba trở đi măi cho đến vô lượng kiếp,
đều gọi là “đời sau”!
Chư
vị nhất định phải ghi nhớ, trong kinh,
đức Phật đă khẩn thiết khuyên dạy chúng
ta: “Thân người khó
được, Phật pháp khó gặp”. Được
làm thân người, chẳng dễ dàng! Đă được
làm thân người, gặp gỡ Phật pháp, có thể gặp
pháp môn Tịnh Độ, há dễ dàng ư? Các vị hăy ngẫm
xem, hiện thời, nhân loại trên địa cầu gần
đến bảy mươi ức; trong bảy
mươi ức người, có bao nhiêu người
được gặp Phật pháp? Chúng ta nói rộng
hơn một chút, người học Phật trên toàn thế
giới có mười ức người, trên thực tế,
sợ rằng chẳng đạt đến con số này!
Phải là khoảng sáu bảy ức người, tức
là một phần mười [dân số toàn thế giới].
Một phần mười [nhân loại] được
nghe, được thấy tượng Phật, biết
có Phật pháp, quư vị thấy đó, c̣n có chín phần
mười nhân loại không biết! Trong một phần
mười ấy, tức là trong bảy ức người
đó, có bao nhiêu người có thể nghe giáo pháp Đại
Thừa? Chỉ sợ là chẳng được một phần
mười có thể nghe giáo pháp Đại Thừa! Chúng ta
nói khái lược, tối đa là một phần trăm,
[nói cách khác], trong một trăm người mới có một
người nghe giáo pháp Đại Thừa. Có thể nghe pháp
môn Tịnh Độ trong giáo pháp Đại Thừa, có thể
lại là một phần trăm nữa. Cứ loại trừ
dần dần, [sẽ thấy người được
nghe pháp môn Tịnh Độ] chẳng được mấy
người. Chư vị đồng học phải biết
điều này! Gặp gỡ pháp môn Tịnh Độ, thật
sự có thể văng sanh trong đời này hay không? Vậy
th́ phải hỏi chính quư vị: Có thật sự buông xuống,
triệt để buông xuống hay không? Hễ có mảy
may lưu luyến, hoặc vướng mắc đối
với thế gian này, sẽ đều chẳng thể văng
sanh! Do vậy, đối với lời dạy bảo chân
thật này của đức Phật, chúng ta phải cảm
ơn. Đời này có thành tựu hay không, mấu chốt
là ở chỗ này, phải buông xuống!
Nếu
quư vị thấy thấu suốt Mười Hai Nhân Duyên, [sẽ
thấy] nó giảng về nhân quả ba đời theo hai tầng.
Trong phần trước, tôi đă thưa tŕnh cùng chư vị;
ở đây, quư vị thấy tướng “tam thế tương tục” (ba đời tiếp
nối nhau). Phá Đoạn Kiến, biết vạn sự
vạn vật trong vũ trụ chẳng phải là “chỉ
có trong hiện tại, trong tương lai chẳng có”. Kẻ
b́nh phàm cứ ngỡ người đă chết th́ thứ
ǵ cũng đều chẳng có, chẳng có đời sau.
[Quan niệm] “chẳng có đời
sau” là Đoạn Kiến. Từ Mười Hai Nhân Duyên,
quư vị thấy nghiệp nhân và nghiệp duyên trong đời
quá khứ, quả báo trong đời này. Trong đời này,
lại tạo nghiệp nhân và nghiệp duyên cho đời
sau. V́ thế, quyết định là có hậu thế!
Như vậy th́ mới hiểu: Đă chết, chẳng phải
là không c̣n ǵ nữa. [Nếu] đă chết sẽ chẳng có
ǵ nữa, dễ quá rồi! Tôi thường nói chuyện
này đă bao nhiêu năm, “tử,
bất đắc”, v́ sao? Đă chết th́ đă tiêu tùng
rồi, nói thật đấy! Trong đời này, chúng ta phải
tu pháp bất tử thành công! “Bất
tử” là như thế nào? Văng sanh thế giới Cực
Lạc chẳng phải là chết. V́ sao? Văng sanh là ra đi
trong khi c̣n sống, chẳng phải là chết rồi mới
đi! Đă chết, rất khó văng sanh. Ra đi trong lúc c̣n
sống, cho nên khi lâm chung, biết trước lúc mất. Chư
vị thấy chuyện này rất nhiều, [có những
hành nhân Tịnh Độ] lúc lâm chung, thần thức sáng
suốt, tỉnh táo, bảo người bên cạnh: “Phật
đến tiếp dẫn ta, nay ta theo Phật ra đi”. Ra
đi trong khi c̣n sống! Sau khi đă đi, chẳng cần
đến thân thể này nữa, vứt bỏ, chẳng có
mảy may vướng mắc, ra đi như thế
đó. Đến thế giới Cực Lạc, đấy
cũng là đời sau, cũng là “tương tục” (相續, liên tục, tiếp nối).
V́
thế nói “hễ đă chết th́ thứ ǵ cũng đều
chẳng có”, đấy chính là tri kiến sai lầm. [Tri kiến
ấy] được gọi là Đoạn Kiến. [Cứ
tưởng] sau khi đă chết, đời này ta là người,
đời sau vẫn là người, chó chết th́ đời
sau vẫn là chó, quan niệm ấy được gọi
là Thường Kiến. Hai thứ kiến giải ấy
đều là sai lầm. Sau khi đă hiểu Mười Hai
Nhân Duyên, [sẽ biết] sanh diệt trong từng sát-na. [Do
biết] sanh diệt trong từng sát-na, sẽ phá Thường
Kiến. [Do thấy biết] ba đời tương tục,
sẽ phá Đoạn Kiến. Có thể phá trừ cả
hai thứ kiến giải sai lầm. [Do thấy] hai đời,
có thể phá Ngă Chấp. Người thế gian chấp
trước thân thể này là chính ḿnh, đấy là sai lầm.
Thân thể rốt cuộc là chuyện như thế nào? Thân
thể do cha mẹ lưu lại, đâu phải là chính ḿnh?
Cũng giống như nói cha mẹ để lại di sản
cho quư vị hưởng thụ, có ư nghĩa ấy, quư vị
chẳng thấy rơ ràng chân tướng sự thật đó.
V́ vậy, Phật pháp hiểu rất rơ thân thể này chẳng
phải là ta, thân là cái ta sở hữu, chẳng phải là
ta. Do đâu mà có thân? Thân do cha mẹ để lại. Các vị
hăy suy ngẫm xem chuyện này có đúng hay chăng? Có phải
là chân tướng sự thật hay không? Đấy là di sản
do cha mẹ lưu lại, ta được thọ dụng,
trong ấy chẳng có ta! Quư vị thật sự thấy
rơ ràng, thấy minh bạch, sẽ thấu hiểu!
Nếu
nói theo Mười Hai Nhân Duyên trong một niệm như kinh
Đại Tập đă nói, sẽ phá Pháp Chấp. V́ sao? Niệm
tâm sanh diệt thuộc loại vô thường. Tánh có hay
không? Có! Nó chẳng phải là tinh thần, mà cũng chẳng
phải là vật chất. Nó là Pháp Tánh. Nếu quư vị chấp
trước những danh từ do đức Phật đă
nói là thật, hoặc chấp trước những thứ
ấy đều chẳng có, đều là sai lầm! V́ sao?
Quư vị đều đọa lạc trong vô minh, thảy
đều phải buông xuống! V́ thế, trong Khởi Tín
Luận, Mă Minh Bồ Tát đă nói rất hay. Ngài dạy các
đồng học học Phật chúng ta ắt phải chuẩn
bị tâm thái học tập tốt đẹp. Điều
thứ nhất trong tâm thái học tập ấy chính là “ĺa tướng ngôn thuyết”.
Thích Ca Mâu Ni Phật đă v́ chúng ta giảng kinh, thuyết
pháp, đối với ngôn thuyết của Ngài bèn chẳng
chấp trước, quư vị chỉ cần nghe. Nghe hiểu
th́ tốt lắm, nghe chẳng hiểu, không sao hết! Chẳng
cần suy nghĩ, càng nghĩ càng trật! Đức Phật
là “không nói mà nói”, chúng ta phải
là “không nghe mà nghe”, quư vị
mới có thể khế nhập cảnh giới. V́ sao? Chẳng
chấp trước, [tức là] không chấp trước tướng
ngôn thuyết. Không chấp trước tướng danh tự.
Vô Minh, Hành, Thức, Danh Sắc đều là danh tự. Danh
tự là phương tiện để thuyết pháp của
đức Phật, là phương tiện thiện xảo,
chớ nên chấp trước! Nhưng nghe những danh tự
ấy, quư vị có thể lănh hội ư nghĩa của
chúng. Đó là đúng, đó gọi là “ĺa tướng danh từ, ĺa tướng tâm duyên”.
Tướng tâm duyên quyết định chẳng thể
tư duy được; do vậy, chẳng thể nghiên cứu
nó.
Những
thứ thế gian có thể nghiên cứu, chứ Phật
pháp chẳng thể nghiên cứu. Nghiên cứu là ǵ? Nghiên cứu
là tướng tâm duyên. Tâm quư vị đang phan duyên, tâm
đă bị động. V́ thế, nhà Phật nói “tham cứu”, chẳng nói “nghiên cứu”. “Tham cứu” là
ǵ? Chính là ĺa ngôn thuyết, ĺa danh tự, ĺa tâm duyên, cũng
là như kinh Hoa Nghiêm nói “ĺa chấp
trước, ĺa phân biệt, ĺa vọng tưởng”.
Đó là “tham” (參). Nghiên cứu sẽ chẳng
ĺa khỏi vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước. Nghiên cứu kèm theo vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước, chắc chắn là nghiên cứu
sẽ chẳng thấu đạt chân tướng. V́ sao? Vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước chướng
ngại quư vị; do những thứ ấy, quư vị chẳng
thể kiến tánh. V́ lẽ này, giáo pháp Đại Thừa
đă nói rất rơ ràng:
-
Buông xuống chấp trước, quư vị sẽ là Chánh Giác.
-
Lại buông xuống phân biệt, quư vị sẽ là Chánh
Đẳng Chánh Giác.
-
Lại buông xuống vọng tưởng, quư vị sẽ
là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Quư
vị biết vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước là chướng ngại, chướng ngại
trí huệ, chướng ngại đức tướng sẵn
có trong tự tánh, lẽ nào quư vị chẳng buông xuống?
Do
vậy, quan sát cẩn thận Mười Hai Nhân Duyên, sẽ
có thể phá vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước. Đoạn Thường (Đoạn Kiến
và Thường Kiến) là phân biệt, Ngă Chấp là chấp
trước, Pháp Chấp là vô minh. Pháp Mười Hai Nhân
Duyên này, sẽ có thể phá trừ vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước. Chúng ta cũng chớ nên
xem nhẹ Bích Chi Phật. Đương nhiên là các Ngài khế
nhập có tầng lớp cao hay thấp khác nhau, giống
như kinh Hoa Nghiêm đă nói bốn mươi mốt địa
vị Pháp Thân đại sĩ vậy. Phương pháp của
các Ngài khác nhau, nhưng tầng bậc chứng nhập chẳng
có ngoại lệ, giống như bốn cơi, ba bậc, chín
phẩm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới đều
thuộc về loại này. Chúng ta phải nên biết điều
này.
Chúng
ta lại xem phần Giảng Nghĩa bổ sung. Những
ǵ chúng ta đă học ngày hôm qua là giảng về hai tầng
nhân quả. Hôm nay, chúng ta xem tiếp hai thứ Ái và Thủ,
chúng chính là Hoặc trong hiện tại, [tức là] trong một
đời này chúng ta mê hoặc. Người Hoa gọi chữ
Ái này là “thất t́nh”, tức
mừng, giận, buồn, vui, yêu, ghét, ham muốn. Đấy
là thất t́nh. Lục căn tiếp xúc cảnh giới sáu
trần bên ngoài, chúng ta nói là “t́nh
đă động”. [Để chỉ] t́nh đă động,
trong Mười Hai Nhân Duyên, dùng một chữ Ái. Quư vị
đă động tâm, sự động tâm ấy chính là vô
minh khởi tác dụng. Sau khi tâm đă động, quư vị
bèn có Thủ, tức là mong mỏi đạt được.
Đấy là nghiệp. Hai thứ [thuộc về] quá khứ
trong Mười Hai Nhân Duyên chính là Hành (hạnh nghiệp), [tức
là] quư vị có hành động, đang tạo nghiệp
trong ấy. Đức Phật quy nạp các nghiệp
đă tạo thành ba loại lớn: Thiện nghiệp, ác
nghiệp, vô kư nghiệp. Những nghiệp ấy chiêu cảm
quả báo trong đời sau. Đó chính là “những ǵ
đă làm trong kiếp này, sẽ phải hứng chịu
trong đời sau”. V́ lẽ này, đức Phật nói rất
hay: “Muốn biết cái nhân
trong kiếp trước, những ǵ phải chịu trong
kiếp này chính là nó”. Những ǵ ta hứng chịu trong đời này chính là quả báo do nghiệp
nhân đă tạo trong đời trước cảm vời.
“Muốn biết quả đời sau”, đời sau
ta sẽ như thế nào? “Những
ǵ đă làm trong kiếp này chính là nó đấy”. Trong đời
này, chúng ta xử sự, đăi người, tiếp vật,
khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác, sẽ
có thể cảm vời quả báo trong đời sau. Đấy
là nhân quả ba đời. Do vậy, Ái và Thủ là Hoặc
trong hiện tại.
Có
Ái, có Thủ, đương nhiên là có Hữu. Hữu là nghiệp.
Quư vị thấy đó, theo thói quen ngôn ngữ, chúng ta thường
nói là “sự nghiệp”. Trong
khi quư vị đang tạo tác, khi ấy bèn gọi là Sự.
Khi đă tạo tác xong, đă gieo chủng tử vào A Lại
Da Thức, sẽ gọi là Nghiệp. Hễ quư vị có nghiệp,
nghiệp sẽ cảm quả báo trong đời sau. Cái quả
được cảm ấy thuộc loại Dị Thục
Quả. Trong phần trước, chúng ta đă học
điều này, [cái quả ấy] thuộc loại Dị
Thục Quả. Do vậy, trong hiện thời, quư vị tạo
Hữu nghiệp, nghiệp ấy sẽ cảm quả báo
trong đời sau. Duyên theo cái nhân Hoặc nghiệp trong hiện
tại, sẽ cảm cái quả “sanh và già chết” trong vị
lai. Đấy là một tầng nhân quả hiện tại
và vị lai. Nói gộp lại, sẽ thành hai tầng nhân quả
(“nhân quả quá khứ - hiện tại” và “nhân quả hiện
tại - vị lai”). Đấy chính là hai tầng nhân quả
trong ba đời.
(Sớ)
Y thử lưỡng trùng chi nhân quả, nhi tri luân hồi
chi vô cực.
(疏)依此兩重之因果,而知輪迴之無極。
(Sớ:
Nương vào hai tầng nhân quả ấy để biết
luân hồi chẳng có cùng cực).
“Vô cực” có nghĩa là “vô tận”. Nghiệp nhân và hiện
tượng luân hồi có ư nghĩa ấy.
(Sớ)
Cái kư kiến hiện tại chi Hoặc nghiệp.
(疏)蓋既見現在之惑業。
(Sớ:
Ấy là v́ đă thấy Hoặc nghiệp trong hiện tại).
Hoặc nghiệp trong hiện
tại chính là Ái, Thủ, Hữu. Ái, Thủ, Hữu là nghiệp
thuộc loại phiền năo trong hiện tại.
(Sớ)
Do hiện tại chi khổ quả (Thức năi chí Thọ)
nhi sanh, tắc tri quá khứ chi Hoặc (vô minh), nghiệp hạnh diệc tùng quá khứ
(quá khứ hoàn hữu quá khứ) khổ quả nhi sanh. Kư
kiến hiện tại chi khổ quả (Thức năi chí Thọ).
(疏)由現在之苦果(識乃至受)而生,則知過去之惑(無明)、業行,亦從過去(過去還有過去)苦果而生。既見現在之苦果(識乃至受)。
(Sớ:
Do cái khổ quả trong hiện tại (từ Thức cho
đến Thọ) mà sanh, nên biết Hoặc (vô minh) và nghiệp
hạnh trong quá khứ cũng sanh từ khổ quả
trong quá khứ (đời quá khứ c̣n có quá khứ).
Đă thấy khổ quả trong hiện tại (từ Thức
cho đến Thọ)).
“Kư kiến hiện tại chi khổ
quả” (Đă thấy khổ quả trong hiện tại):
Đấy chính là từ lúc đầu thai trong hiện tiền
cho đến những ǵ quư vị đă hứng chịu
trong một đời này.
(Sớ)
Sanh hiện tại chi nghiệp (Hữu).
(疏)生現在之業(有)。
(Sớ:
Sanh ra cái nghiệp trong hiện tại, tức Hữu).
Hữu
là kết nghiệp.
(Sớ)
Diệc tri vị lai chi khổ quả.
(疏)亦知未來之苦果。
(Sớ:
Cũng biết khổ quả trong vị lai)
“Khổ quả trong vị lai”
là sanh, lăo, tử trong vị lai.
(Sớ)
Sanh vị lai chi nghiệp.
(疏)生未來之業。
(Sớ:
Sanh ra cái nghiệp của vị lai).
Nếu quư vị có thể quan sát như
vậy, ngược về trước [cho đến] vô
thỉ trong quá khứ…
(Sớ)
Thượng tố chi, tắc quá khứ chi Hoặc nghiệp,
cánh tùng quá khứ chi khổ quả nhi lai.
(疏)上溯之,則過去之惑業,更從過去之苦果而來。
(Sớ:
Truy ngược lên, [sẽ thấy] Hoặc nghiệp trong quá
khứ rốt cuộc là từ khổ quả trong quá khứ
mà có).
Nh́n
về sau:
(Sớ)
Hạ sấn chi, vị lai chi khổ quả cánh sanh vị
lai chi Hoặc nghiệp. Quá khứ vô thỉ, vị lai vô
chung, thử vi vô thỉ vô chung chi sanh tử luân hồi.
(疏)下趁之,未來之苦果更生未來之惑業。過去無始,未來無終,此為無始無終之生死輪迴。
(Sớ: Xét về sau, khổ
quả trong vị lai lại sanh ra Hoặc nghiệp trong vị
lai. Quá khứ không có khởi đầu, vị lai chẳng
có kết thúc, đấy chính là sanh tử luân hồi chẳng
có khởi đầu và chẳng có kết thúc vậy).
Quư
vị mới thấy rơ ràng chân tướng sự thật.
V́ sao có luân hồi? Luân hồi do đâu mà có? Ai tạo ra
luân hồi? Ai dẫn dắt luân hồi? Toàn là do hạnh
nghiệp của chính ḿnh.
Tôi
xem kinh Cổ Lan (Qur’an). Trong sáu niềm tin của kinh Cổ
Lan, có một điều là “tin
vào tiền định”, nhưng
họ cũng giải thích khá cao minh, tuy chẳng thấu
triệt như Phật pháp. Tin vào tiền định, tiền
định nói đến chỗ rốt ráo sẽ là như
đức Phật đă dạy. Chỗ rốt ráo là ǵ?
Chính là như kinh Hoa Nghiêm đă nói: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và
đức tướng của Như Lai”. Đấy là
tiền định, thật sự là tiền định.
V́ sao? Tánh Đức! Lại c̣n là b́nh đẳng. Hết
thảy chúng sanh và Như Lai chẳng sai biệt, mười
pháp giới hoàn toàn b́nh đẳng, những tôn giáo khác chẳng
hề nói điều này. Trong giáo pháp của họ, Chân Chúa
(Allah, tức là Thượng Đế) dựa trên tiền
định để sáng tạo vạn vật. Đấy
chính là Duyên Khởi thiện xảo th́ mới có thể nói
suông sẻ được! Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Duy tâm sở hiện, duy thức
sở biến”. [Có nghĩa là] y báo và chánh báo trang nghiêm
trong mười pháp giới, toàn thể đại vũ trụ,
Pháp Thân [đều là do] “tâm hiện,
thức biến”. Nhưng họ (các tôn giáo khác) bảo:
Những ǵ Thượng Đế ban cho mỗi người
hoàn toàn dựa vào ư nghĩ tiền định của chính
ḿnh mà ban họa, phước, cát, hung cho người ấy
trong suốt một đời! Ai đáng hưởng phước,
ai đáng chịu tội, họ chẳng nói chuyện này rất
rơ ràng! Nhưng có bậc cổ đại đức chú giải:
“Con người cũng có ư chí tự do để làm lành hay
làm ác. Làm lành, trong tương lai sẽ lên thiên đường.
Làm ác, trong tương lai sẽ xuống địa ngục”.
Họ có cách nói ấy. Lên thiên đường hay xuống
địa ngục chính là nghiệp cảm. Trong kinh Phật,
Mười Hai Nhân Duyên đă được nói thấu triệt.
Bọn họ (các tôn giáo khác) chỉ nói đến hai đời,
c̣n Mười Hai Nhân Duyên [nhằm dạy rơ] luân hồi là cảnh
giới không có ngằn hạn! Quá khứ chẳng có khởi
đầu, tương lai chẳng có kết thúc. Cách nói này
mới là biện luận thấu triệt, thật sự
giảng giải thấu triệt!
(Sớ)
Bích Chi Phật quán chi, nhất dĩ yếm sanh tử, nhất
dĩ tri vô thường thật chi ngă Thể.
(疏)辟支佛觀之,一以厭生死,一以知無常實之我體。
(Sớ:
Bích Chi Phật quán sát, một là v́ vậy mà chán ngán sanh tử,
hai là do vậy mà biết bản thể của Ngă thật
sự là vô thường).
Bích
Chi Phật: Bích Chi (Pratyeka) là tiếng Phạn. Cả ba chữ
Bích Chi Phật là tiếng Phạn. Bích Chi là Duyên, Phật là
Giác, tiếng Hán gọi là Duyên Giác, [Duyên ở đây] là chữ
Duyên (緣)
trong nhân duyên, [vị này] được gọi là Duyên Giác.
Ngài do nghe đức Phật giảng Mười Hai Nhân
Duyên mà giác ngộ; do vậy, được gọi là Bích
Chi Phật, hay gọi tắt là Chi Phật. Từ Mười
Hai Nhân Duyên, Ngài biết hết thảy các pháp vô thường.
Kiến tánh từ chỗ này, đă thật sự hiểu
minh bạch.
(Sớ)
Toại đoạn Hoặc nghiệp nhi chứng Niết
Bàn.
(疏)遂斷惑業而證涅槃。
(Sớ:
Bèn đoạn Hoặc nghiệp, chứng Niết Bàn).
“Đoạn” (斷) ở đây là buông xuống,
tức là buông xuống mê hoặc. Mê hoặc là ǵ? Ái và Thủ
là mê hoặc, tạo tác là nghiệp.
Tôi
thường khích lệ các đồng học, “người
học Phật phải buông xuống hết thảy”, buông
xuống những ǵ? Buông từ nơi đâu? Đầu
tiên là phải buông xuống ư niệm đối lập với
hết thảy người, hết thảy sự, hết
thảy vật. Quư vị hăy thực hiện từ chỗ
này, đừng nên đối lập với kẻ khác nữa!
Phải biết: Hễ đối lập, sẽ chẳng b́nh
đẳng; hễ đối lập, sẽ có chướng
ngại. Người khác đối lập với ta, ta chẳng
đối lập với họ! Người khác đối
lập với ta, không nhằm nḥ chi hết! Chẳng
chướng ngại ta thành Phật. Chính chúng ta có ư niệm
đối lập với kẻ khác, sẽ chướng ngại
chính ḿnh. V́ thế, chướng ngại là do bản thân ta,
chẳng do bên ngoài. Những vị thánh nhân thế gian đều
hiểu đạo lư này. Quư vị thấy Khổng, Mạnh,
cổ thánh tiên hiền thường nói: “Hành hữu bất đắc, phản cầu chư
kỷ” (Hễ có chuyện ǵ chẳng làm được,
phải xét lại chính ḿnh). Quư vị gặp chướng
ngại, thử thách, đừng nh́n bên ngoài. Nh́n ra bên ngoài,
chẳng thể giải quyết vấn đề. Hăy phản
tỉnh, chắc chắn là [vấn đề phát sanh] từ
chính ḿnh. Chỉ cần trong tâm của chính ḿnh chẳng có
chướng ngại, sẽ thuận buồm xuôi gió trên
đường Bồ Đề, mà trên đường thế
gian cũng chẳng có chướng ngại.
Bởi
lẽ, chướng ngại xác thực là ở trong nội
tâm. Điều này rất quan trọng, hăy buông xuống quan
niệm đối lập. Đấy là nhân tố quan trọng
bậc nhất, là điều kiện đầu tiên để
tu hành chứng quả. Phụ trợ điều kiện
này là một quan niệm hết sức trọng yếu;
trong đời này, chúng ta quyết định chớ nên có
ư niệm chiếm tiện nghi của kẻ khác. Chớ nên
có ư niệm ấy! Ư niệm chiếm tiện nghi của kẻ
khác chính là chướng ngại. Phật pháp gọi cái tâm ấy
là “đạo tâm” (盜心, cái tâm trộm
cắp)! Có ư niệm ấy, tuy quư vị chẳng có hành vi
trộm cắp, nhưng đă có cái tâm trộm cắp, cái
tâm ấy bất hảo! Quyết định là chẳng có
ư niệm tổn thương, gây hại kẻ khác. Tổn
thương, gây hại kẻ khác chính là “sát tâm” (殺心, cái tâm giết
chóc). Quư vị thấy đó, chẳng sát sanh, không trộm
cắp. Chẳng thể có ư niệm tổn thương,
gây hại đối với người khác, quư vị sẽ
viên măn “chẳng sát sanh”, quư vị sẽ viên măn giới
điều ấy. Chẳng có mảy may ư niệm “chiếm
tiện nghi của người khác một chút”, quư vị sẽ
viên măn giới “không trộm cắp”. Viên măn hai điều
này, những điều khác thảy đều viên măn. Các vị
hăy ngẫm xem, không tà dâm, tà dâm có phải là chiếm tiện
nghi của kẻ khác hay không? Người thật sự chẳng
có mảy may ư niệm chiếm tiện nghi của người
khác, hoặc tổn thương, gây hại kẻ khác,
người ấy có thể làm chuyện tà dâm hay không? Người
ấy có thể thốt lời vọng ngữ hay không?
Người ấy có thể nói đôi chiều hay không? Những
điều ấy thảy đều chẳng có.
Hai
điều này là căn bản; thực hiện viên măn hai
giới điều “chẳng
giết, chẳng trộm”, [những điều khác] thảy
đều viên măn. Khởi tâm động niệm đều
nhằm lợi ích chúng sanh, đều là xả ḿnh v́
người khác. Đối với xă hội, đối với
quốc gia, đối với hết thảy chúng sanh, chỉ
có lợi ích, chẳng hề tổn thương, gây hại.
Nếu quư vị nói v́ sao ư? Chỉ có đức Phật
hiểu “vũ trụ là một
Thể, chúng sanh và Phật chẳng hai. Chúng sanh và ta là một
Thể, Tự và Tha chẳng hai”. Vũ trụ giống
như một thân thể, các quốc gia khác nhau, các sắc
tộc khác nhau, các tôn giáo khác nhau, giống như các khí quan
khác nhau trên thân thể. Ngoài là mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, trong là ngũ tạng, lục phủ, hợp thành một
thân thể. Mỗi cá nhân chúng ta giống như mỗi tế
bào trong thân thể. Các nhà khoa học hiện thời nói các
nguyên tử và các lạp tử hợp thành các khí quan, do từ
các khí quan mà hợp thành thân thể này. Vạn vật trong vũ
trụ là một Thể. [Đă là] một Thể, lẽ
đâu chẳng chiếu cố lẫn nhau? Tay trái ta bị đau,
ngứa, tay phải nhất định xoa găi giúp. Quư vị
nói xem: Có c̣n phải bàn điều kiện ǵ hay chăng?
C̣n phải hỏi lư do ư? [Có c̣n thắc mắc] v́ sao ta phải
giúp nó?
Hiện
thời, chúng sanh quên bẵng chân tướng sự thật
“một Thể”, chẳng biết
là một Thể. V́ thế, phải bàn điều kiện,
phải hỏi v́ sao. Hễ hỏi “v́ sao”, tức là đă mê
hoặc; đă mê hoặc, làm sao có thể chẳng tạo
nghiệp? Đă tạo nghiệp, làm sao có thể không bị
quả báo? Do vậy, pháp giới vốn là Nhất Chân, v́
sao trở thành mười pháp giới? Do đă mê, v́ mê, nên Nhất
Chân mới hiện thành mười pháp giới. V́ sao hiện
thành mười pháp giới? Do quư vị mê cạn hay sâu
khác nhau. Trong mười pháp giới, mê cạn sẽ rất
gần với Nhất Chân; mê sâu, sẽ xa rời Nhất
Chân. V́ thế, mười pháp giới theo thứ tự, gần
gũi với Nhất Chân [lần lượt] là Phật
pháp giới, Bồ Tát pháp giới, Duyên Giác [pháp giới], và
Thanh Văn [pháp giới]. Xa cách Nhất Chân, xa nhất chính
là địa ngục pháp giới, ngạ quỷ pháp giới,
và súc sanh pháp giới, rồi đến nhân pháp giới,
thiên pháp giới, h́nh thành như vậy đó. Chúng ta chớ
nên không hiểu những đạo lư này! Sau khi đă hiểu,
quư vị c̣n có ác niệm hay không? Chẳng có! Ư niệm là
có. Nếu chẳng có ư niệm, quư vị đă thành Phật.
Người thuộc mười pháp giới đều có ư
niệm; trong Nhất Chân pháp giới chẳng có ư niệm. Do
chẳng có ư niệm, bèn vượt thoát mười pháp giới.
Hễ quư vị c̣n có ư niệm, chắc chắn sẽ ở
trong mười pháp giới, chẳng thoát ra được!
Tứ thánh pháp giới hết sức gần với Nhất
Chân. Trong lục phàm, có thiện, ác, vô kư; vô kư khá gần [với
Nhất Chân], nhưng đức Phật bảo nó chẳng
thật. V́ sao chẳng thật? Nó c̣n có thể dấy lên ư
niệm thiện hay ác, chẳng thể vĩnh viễn ǵn giữ
vô kư, đạo lư ở chỗ này! V́ vậy, xác thực là
Bích Chi Phật rất thông minh.
Trong
Phật pháp, kinh luận đă giảng về Mười
Hai Nhân Duyên rất nhiều. Nếu muốn học, phải
xem những kinh luận ấy, phải nghiêm túc học tập.
Học tập nói chung chẳng ĺa cuộc sống hằng
ngày, tức là trong cuộc sống, công việc, xử sự,
đăi người, tiếp vật, “học” là học ngay
trong những chỗ ấy. Đó gọi là “thật sự
học”. Học xong, sẽ ứng dụng được,
th́ trong học tập, quư vị mới có thể lănh ngộ.
Nếu nói những ǵ chúng ta đă học tách ĺa cuộc sống,
chẳng dùng được những ǵ đă học, sẽ
biến thành huyền học, biến thành triết học,
vô dụng! Chắc chắn là quư vị chẳng đạt
được lợi ích chân thật! Chúng ta phải hiểu
nghĩa thú trong việc đức Phật giáo hóa chúng sanh, phải
hiểu rơ ư nghĩa và sự thú hướng: Đức Phật
nhằm dạy con người khai ngộ, dạy con
người quay về tự tánh. Tự tánh là thanh tịnh,
b́nh đẳng, chẳng có pháp nào không trọn đủ.
V́ thế mới nói: “Hết thảy
chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của
Như Lai”.
Mười
Hai Nhân Duyên trong một niệm như kinh Đại Tập
đă dạy chính là loại thứ nhất trong bốn loại
Thập Nhị Nhân Duyên. Bốn loại là “sát-na, liên tục, phần vị và viễn tục”.
Có bốn loại Thập Nhị Nhân Duyên như thế
đó. Sát-na như kinh Đại Tập đă nói chính là: Trong
một sát-na mà kiến lập mười hai chi [nhân duyên]
này. Mười hai chi ấy chính là từ Vô Minh, Hành, Thức
cho đến Lăo Tử. Sát-na [được nói ở đây]
có ư nghĩa khác với sát-na mà ta thường nói khi xét theo tốc
độ. Kinh Nhân Vương đă nói về tốc độ
của sát-na [hiểu theo nghĩa thông thường] rất
hay: “Nhất đàn chỉ hữu
lục thập sát-na”, tức là một phần sáu
mươi [của thời gian khảy ngón tay một cái]
được gọi là “một
sát-na”. [Sát-na được] nói trong Mười Hai Nhân
Duyên, chẳng phải là ư nghĩa ấy. Nó được
nói theo một niệm, tức là từ lúc vọng niệm
dấy lên măi cho đến khi quư vị tạo nghiệp,
thời gian ấy cũng chẳng dài, được gọi
là “một sát-na”.
V́
thế, đối với Mười Hai Nhân Duyên trong một
sát-na, Vô Minh là một niệm sanh ái khi Căn tiếp xúc Trần.
Chúng ta phải hiểu “một
niệm sanh ái” theo nghĩa rộng, chẳng phải là nghĩa
hẹp, người Hoa thường nói là “một niệm sanh t́nh”. Ư nghĩa này dễ hiểu
hơn “một niệm sanh ái”.
“T́nh” (情) là t́nh thức;
yêu là t́nh, mà hận cũng là t́nh. Hễ tiếp xúc, trong tâm
chẳng hoan hỷ, trong tâm bực bội! [Đấy cũng
gọi là Ái]. Đối với cái Ái ấy, một niệm
sanh ái, quư vị bèn mong chiếm hữu nó, sẽ tạo
nghiệp, đấy là Hành. Nếu một niệm sân hận,
quư vị sẽ bài trừ nó, bài trừ nó cũng là tạo
nghiệp. Do vậy, phải hiểu nó theo nghĩa rộng,
chẳng phải là theo nghĩa hẹp. Sau khi tâm quư vị
đă động, tiếp đó, sẽ có hành vi, [tức là]
Hành đă dấy lên, tiếp nối dấy lên! Vô Minh vừa
sanh, Hành sẽ ngay lập tức dấy lên theo; kế
đó, Thức sẽ dấy lên. Thức là ǵ? Chí tâm chuyên niệm,
giống hệt như đầu thai. Đấy là đă trụ
thai, là quả. Trong tâm quư vị đă có, sẽ thường
nghĩ tới chuyện ấy, hoặc là hận, hoặc
là yêu. Đối với người, đối với sự,
đối với vật, phạm vi của nó rất rộng.
Quư vị suy nghĩ từ chỗ này, sau đấy, mới
suy tưởng. Đó gọi là Mười Hai Nhân Duyên trong
một sát-na. Trong một sát-na, từ sát-na cho đến
cái tướng tương tục ấy, quư vị càng nh́n
càng thấy phức tạp, càng nh́n, càng rơ ràng, càng hiểu
rành rẽ vũ trụ rốt cuộc là chuyện như
thế nào? Sau đấy, quư vị mới biết đức
Phật giáo học xác thực là chẳng thể nghĩ bàn.
Đối với “thiện xảo”
như kinh đă nói, quư vị mới thật sự thấu
hiểu ư vị thiện xảo. Nay đă hết thời
gian rồi, chúng ta nghỉ ngơi mấy phút.
***
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời
mọi người ngồi xuống. Trong phần trước,
chúng tôi đă nói đến Mười Hai Nhân Duyên trong một
sát-na. Đấy là nêu rơ: Hiện tiền, chúng ta dấy lên
một ư niệm, nếu quan sát tỉ mỉ, sẽ thấy
trong một niệm, thảy đều trọn đủ Mười
Hai Nhân Duyên. V́ thế, có thể nói Mười Hai Nhân Duyên là
hai tầng nhân quả trong ba đời, chẳng biết
trong từng sát-na, nó liên tục chẳng ngừng, chúng ta chớ
nên không hiểu chân tướng sự thật ấy. Do vậy,
trong Phật pháp c̣n có cách quán sanh, diệt, thuận, nghịch,
tức là quư vị nh́n theo kiểu nào, quan sát nó (Mười
Hai Nhân Duyên) như thế nào?
Từ
hai lối quán sanh và diệt…
(Sớ)
Sanh Quán, quán duyên Vô Minh sanh Hành, duyên Hành sanh Thức, năi chí
duyên Sanh sanh Lăo Tử, thứ đệ sanh khởi chi
tướng dă. Giá thị Lưu Chuyển môn.
(疏)生觀,觀緣無明生行,緣行生識,乃至緣生生老死,次第生起之相也,這是流轉門。
(Sớ:
Sanh Quán là quán duyên Vô Minh sanh Hành, duyên Hành sanh Thức, cho
đến duyên Sanh mà sanh ra Lăo Tử, [tức là quán] tướng
sanh khởi theo thứ tự. Đấy là Lưu Chuyển
Môn).
“Lưu Chuyển” (流轉)
là ǵ? Lưu chuyển là luân hồi, tức là sanh tử luân
hồi. Do vậy, quư vị thấy rơ ràng hiện tượng
sanh tử luân hồi.
(Sớ)
Diệt Quán, khiếu Hoàn Diệt, quán Vô Minh diệt tắc
Hành diệt, năi chí Sanh diệt tắc Lăo Tử diệt, thứ
đệ diệt hoại chi tướng dă, thị vi Hoàn Diệt
môn.
(疏)滅觀,叫還滅,觀無明滅則行滅,乃至生滅則老死滅,次第滅壞之相也,是為還滅門。
(Sớ:
Diệt Quán, gọi là Hoàn Diệt, quán Vô Minh diệt ắt
Hành diệt, cho đến Sanh diệt th́ Già Chết sẽ
diệt, [tức là quán] tướng diệt hoại theo thứ
tự. Đấy là Hoàn Diệt Môn).
Do
quư vị nh́n ngược lại, v́ thế, sẽ t́m
được đường nẻo thoát khỏi luân hồi.
Nhưng chúng ta ắt cần phải hiểu, Vô Minh diệt,
ắt Hành diệt, chẳng thể nh́n vào quá khứ. Trong
Sanh Quán, tức Lưu Chuyển Môn, quư vị phải xét tới
quá khứ, tức là Vô Minh và Hành trong quá khứ chiêu cảm
quả báo trong đời này, nhưng một đời này
lại khởi Hoặc tạo nghiệp. “Khởi Hoặc” chẳng gọi là Vô Minh, cũng
chẳng gọi là Hành, mà gọi là ǵ? Là Ái, Thủ, Hữu.
V́ thế, đối với đời sau, Ái và Thủ
được gọi là Vô Minh. Đối với đời
sau, Hữu được gọi là Hành. Do vậy, lại
có quả báo cho đời sau.
Quư
vị thật sự hiểu rơ ràng, hiểu minh bạch, sẽ
hiểu Bích Chi Phật dụng công ở chỗ nào? Dụng
công nơi Ái, Thủ, Hữu! Trong ba điều ấy, chỉ
cần đoạn một điều, sẽ đoạn luân
hồi! Đương nhiên, tốt nhất là đổ
công dốc sức nơi Ái. Ái là khởi tâm động niệm,
người Hoa nói là “thất
t́nh, ngũ dục”. Khi lục căn tiếp xúc cảnh
giới sáu trần chính là lúc quư vị dụng công. Phàm phu
thuận theo sự phát triển của thất t́nh, ngũ
dục; đấy là phàm phu, cho nên tạo nghiệp luân hồi.
Nếu chúng ta muốn tu Đại Niết Bàn, liễu sanh
tử, thoát tam giới, hăy xoay ngược lại từ chỗ
này, phải buông xuống Ái, Thủ, Hữu. Buông xuống một
điều là được rồi! Ái là động tâm,
tâm đă bị động. Sau khi đă động tâm, nếu
quư vị chẳng Thủ, sẽ chẳng có chuyện ǵ cả!
Do quư vị chẳng Thủ, được rồi, sẽ
chẳng có Hữu sau đó, sẽ chẳng có nghiệp
đời sau. Như vậy th́ đối với phần
đầu của Mười Hai Nhân Duyên, trong đời
quá khứ có Vô Minh, nhưng chẳng có Hành, cho nên người
ấy sẽ chẳng cảm nhận quả báo luân hồi
trong đời sau, sẽ chẳng bị!
Tốc
độ phải nhanh chóng, cổ đại đức
thường nói: “Chẳng sợ
niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. “Niệm” chính là khởi tâm
động niệm, ở đây nói đến Ái, tức
là nói về khởi tâm động niệm. Sau khi đă khởi
tâm động niệm, chẳng có Thủ. Tôi thường
khuyên lơn, khích lệ các đồng học, người
công phu thật sự đắc lực, sẽ đối
với hết thảy người, sự, vật, đều
chẳng có ư niệm chiếm hữu. Chiếm hữu là Thủ.
Chẳng có ư niệm khống chế, điều này rất
ư quan trọng! Trong cuộc sống hằng ngày, đối
với người, đối với sự, đối với
vật, ta chẳng có ư niệm khống chế, cũng chẳng
có ư niệm chiếm hữu. Ư niệm chiếm hữu nặng
nề hơn [ư niệm] khống chế. Khống chế
là nhẹ nhàng, chiếm hữu là nghiêm trọng, v́ sao? Nó sẽ
dẫn đến các hành vi sau đó. Chẳng có ư niệm,
lấy đâu ra hành vi? Hành vi chính là Hữu! Đấy là
chúng ta dụng công trong cuộc sống hằng ngày, bất
luận quư vị tu pháp môn nào, công phu đều đắc
lực.
Tông Môn nói: “Chẳng
sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Ư niệm
khống chế của chúng ta dấy lên, ư niệm chiếm
hữu dấy lên. Hễ niệm ấy dấy lên, chớ
nên để cho nó phát triển nữa. Hễ phát triển,
nó sẽ tạo nghiệp, sẽ lại có hành vi. Khi ấy,
chỉ là ư niệm dấy lên. Giác là ǵ? Một câu A Di Đà
Phật. Tịnh Độ là một câu như thế
đó, ư niệm vừa dấy lên bèn “A Di Đà Phật”, xóa sạch ư niệm ấy,
khôi phục thanh tịnh, khôi phục b́nh đẳng, trừ
bỏ ư niệm ấy. Dùng một niệm A Di Đà Phật
để trừ bỏ ư niệm khống chế và chiếm
hữu đối với hết thảy người, sự,
vật. Đó gọi là niệm Phật, là công phu.
Nếu
vừa niệm Phật, vừa dấy lên ư niệm khống
chế và chiếm hữu; đó gọi là “xen tạp”. Trong Phật hiệu của ta, đă
bị xen tạp ư niệm khống chế và chiếm hữu.
Ư niệm khống chế và chiếm hữu xen lẫn vào
Phật hiệu, Phật hiệu sẽ chẳng đắc
lực. Niệm như vậy, dẫu niệm mười
năm, trăm năm, chẳng mong chi đạt được
công phu thành phiến, làm sao có thể văng sanh cho được?
Văng sanh là bảo quư vị hăy buông xuống muôn duyên. Buông xuống
muôn duyên, quan trọng nhất là phải buông xuống ư niệm.
Nói chung, đối với chuyện sáu căn tiếp xúc cảnh
giới sáu trần, kinh nói tới “ư niệm Ái và Thủ”, nói kiểu ấy chẳng
dễ hiểu cho lắm. Tôi nói là “ư niệm khống chế và chiếm hữu”, mọi
người đều dễ hiểu. Khống chế là Ái,
chiếm hữu là Thủ, tôi dùng cách nói này cho dễ hiểu,
có cùng một ư nghĩa, quyết định chớ nên [có
những ư niệm ấy]! Không chỉ là vật ngoài thân chẳng
nên ghim trong ḷng, thân thể cũng chớ nên ghim trong ḷng.
Nói chung, hăy tùy duyên, đừng phan duyên. Trong tùy duyên, chẳng
có Ái, Thủ, Hữu. Như vậy th́ mới có thể văng
sanh, niệm Phật mới chẳng bị chướng ngại.
Do vậy, chướng ngại đích xác chẳng ở
bên ngoài. Chướng ngại là do Ái, Thủ, Hữu, tức
là ở chính ḿnh, chứ bên ngoài chẳng có chướng ngại.
V́ thế, Phật pháp chẳng thể cầu từ bên ngoài,
phải cầu từ trong nội tâm của chính ḿnh. Phật
pháp được gọi là Nội Học, kinh Phật
được gọi là Nội Điển, đều là
hướng nội, chẳng có ǵ dạy quư vị hướng
ra ngoài. Phật pháp gọi hướng ra ngoài là “ngoại đạo”. Quư vị
cầu pháp ngoài tâm, sai mất rồi! [Nói] “ngoại đạo” chẳng phải là chửi
người khác, chẳng phải là hạ thấp kẻ
khác, chẳng phải vậy! “Ngoại
đạo” là nói chính ḿnh cầu pháp ngoài tâm, chẳng biết
hướng nội để cầu, có ư nghĩa này.
C̣n
có hai phép Quán thuận và nghịch:
(Sớ)
Thuận sanh tử quán, quán hữu lậu nghiệp vi nhân.
(疏)順生死觀,觀有漏業為因。
(Sớ:
Thuận sanh tử Quán: Quán nghiệp hữu lậu làm
nhân).
Hữu
lậu: “Lậu” (漏) là tên gọi chung của
phiền năo, tức là có tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến,
đấy là cái “nhân”.
(Sớ)
Ái Thủ đẳng vi duyên.
(疏)愛取等為緣。
(Sớ:
Ái, Thủ v.v… là duyên).
Đấy
đều là nói về đời hiện tại này.
(Sớ)
Cảm Thức đẳng năi chí Lăo Tử đẳng sanh
tử quả chi tướng dă.
(疏)感識等乃至老死等生死果之相也。
(Sớ:
Cảm tướng trạng của quả sanh tử từ
Thức v.v… cho đến già, chết v.v…)
Đấy
là lục đạo luân hồi, sanh sanh tử tử, tử
tử sanh sanh, chẳng hết, chẳng xong, quư vị thấy
hiện tượng ấy. Ngược lại…
(Sớ)
Nghịch sanh tử quán, quán vô lậu chi chánh huệ vi nhân,
chánh hạnh vi duyên, chứng Niết Bàn quả chi tướng
dă.
(疏)逆生死觀,觀無漏之正慧為因,正行為緣,證涅槃果之相也。
(Sớ:
Nghịch sanh tử Quán: Lấy quán chánh huệ vô lậu làm
nhân, chánh hạnh làm duyên, đó là tướng chứng quả
Niết Bàn).
Tương
phản là chánh huệ, [nói] “chánh
huệ” nhằm phân biệt chẳng phải là tà huệ.
Phân biệt tà và chánh từ chỗ nào? Từ Giới và
Định sanh ra chánh huệ; nhân Giới đắc Định,
nhân Định khai Huệ. Nói cách khác, tôi thường chẳng
dùng những danh từ Pháp Tướng ấy, mà dùng [những
danh từ khác] cho mọi người dễ hiểu, tôi nói
là “thanh tịnh, b́nh đẳng”.
Từ cái tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng, tâm thanh tịnh
là Giới, tâm b́nh đẳng là Định. Tựa đề
kinh Vô Lượng Thọ ghi là “thanh
tịnh, b́nh đẳng, giác”, đấy chính là nhân Giới
đắc Định, nhân Định khai Huệ.
Thanh
tịnh là Giới, b́nh đẳng là Định, giác là Huệ,
đấy là chánh huệ. Sau khi chánh huệ đă khai, đối
đăi hết thảy vạn vật, quyết định
là đại từ, đại bi. V́ thế, đại từ,
đại bi do đâu mà có? Sanh từ chánh huệ. Ái tâm trọn
khắp pháp giới, thiện ư đầy ắp Sa Bà,
đó là đại từ, đại bi. “Chánh hạnh làm duyên”: Chánh hạnh chính là Lục Độ,
Tứ Đẳng của Bồ Tát. Ngài hành những ǵ? Bố
Thí, Tŕ Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định,
Bát Nhă, từ, bi, hỷ, xả, tứ vô lượng tâm. Tiếp
xúc cùng hết thảy đại chúng, chẳng ngoài Tứ
Nhiếp, tức là Bố Thí, Ái Ngữ, Lợi Hành, Đồng
Sự, [đấy là] chánh hạnh. Trong giáo pháp Đại,
Tiểu Thừa, đức Phật thường nói ba
mươi bảy đạo phẩm, [đó là] chánh hạnh.
Lục Độ của Bồ Tát là chánh hạnh. Do những
điều ấy làm duyên, người ấy mới có thể
chứng quả Niết Bàn. Niết Bàn là liễu sanh tử,
thoát tam giới. Không chỉ là thoát tam giới, mà c̣n thoát khỏi
mười pháp giới. V́ thế, thuận sanh tử quán,
nghịch sanh tử quán, [cũng như] hai phép Quán sanh và diệt
đă nói trong phần trước có cùng một ư nghĩa.
Chúng
tôi giới thiệu Duyên Khởi thiện xảo đến
đây. Trong phần chú giải bốn câu này, Thanh
Lương đại sư đă nói rất hay: Bốn câu
ấy (Uẩn Thiện Xảo, Giới Thiện Xảo, Xứ
Thiện Xảo, Duyên Khởi Thiện Xảo) chính là “lưu chuyển chi Thể”,
nghĩa là cái Thể của sanh tử luân hồi. V́ sao có sanh
tử luân hồi? Quư vị hiểu rơ ràng những điều
này, sẽ hiểu minh bạch: Duyên Khởi thuộc trong
luân hồi, bốn thứ thiện xảo ấy đều
thuộc trong luân hồi. Kế đó là…
(Kinh)
Dục Giới thiện xảo, Sắc Giới thiện xảo,
Vô Sắc Giới thiện xảo.
(經)欲界善巧。色界善巧。無色界善巧。
(Kinh:
Dục Giới thiện xảo, Sắc Giới thiện xảo,
Vô Sắc Giới thiện xảo).
Ba
câu này nói về “lưu chuyển
chi xứ” (chỗ lưu chuyển). Quư vị luân hồi
ở chỗ nào? Ở những nơi nào? Ở ngay trong tam
giới. Trong hết thảy [các loài] chúng sanh, con người
[luân hồi] rơ ràng nhất, tạo ác, tạo thiện, tạo
vô kư. Khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác,
quy nạp lại sẽ đều chẳng ra ngoài ba loại
ấy, tức là thiện, ác, vô kư. Vô kư (無記) là chẳng
thiện chẳng ác, chẳng thể nói là thiện hay ác
được, như vậy chẳng phải là rất tốt
hay sao? Chẳng sai! Rất tốt, nhưng kẻ ấy ngừng
nơi vô minh, cho nên chẳng khai trí huệ. Nói cách khác, vẫn
chẳng thể giải quyết vấn đề, nhất
định phải là chánh huệ th́ mới được.
V́ thế, chúng ta tu hành, nói chung là phải nắm được
cương lănh. Bất luận học pháp môn nào, tám vạn
bốn ngàn pháp môn, đó là phương pháp; tuy đường
lối không giống nhau, nhưng mục tiêu và phương
hướng tu hành chắc chắn giống nhau. Mục tiêu
và phương hướng là ǵ? “Thanh
tịnh, b́nh đẳng, giác” là tổng phương
hướng, tổng mục tiêu. Bất luận
phương pháp nào, cũng đều nhằm tu cái tâm thanh
tịnh, tu tâm b́nh đẳng, cuối cùng đều là
đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh.
Đấy sẽ là giác, là chánh đạo, là đạo Đại
Niết Bàn.
Dục
Giới, từ Tha Hóa Tự Tại Thiên trở xuống
đều là Dục Giới. Dục Giới có sáu tầng
trời. Tầng trời cao nhất là Tha Hóa Tự Tại Thiên,
tức là tầng thứ sáu, tầng thứ năm là Hóa Lạc
Thiên, tầng thứ tư là Đâu Suất Thiên, tầng thứ
ba là Dạ Ma Thiên, tầng thứ hai là Đao Lợi Thiên.
Ngọc Hoàng Đại Đế như chúng ta thường
nói chính là chúa cơi trời Đao Lợi. Thượng Đế
được nói trong khá nhiều tôn giáo cũng chính là [chúa
tể] Đao Lợi Thiên. Phía dưới Đao Lợi
Thiên là Tứ Vương Thiên, dưới đó là nhân gian, đều
có thất t́nh, ngũ dục. Ngũ dục là tài, sắc,
danh vọng, ăn uống, ngủ nghê. Chúng sanh trong ấy
(Dục Giới) đều tham cầu tài, sắc, danh vọng,
ăn uống, ngủ nghê. Thấp
hơn nữa, sẽ là súc sanh, ngạ quỷ, địa
ngục. Trong những cơi ấy, càng nghiêm trọng hơn, [tức
là] tham, sân, si càng nghiêm trọng hơn. Nếu đối với
ngũ dục, lục trần, hoặc là “thất t́nh, ngũ dục” như người Hoa
thường nói, cái tâm của chúng ta càng mỏng, sẽ
càng tiến cao hơn.
V́
sao Dục Giới có sáu tầng trời? Là v́ có người
xem những món dục ấy rất nhẹ [hoặc rất
nặng khác nhau], nên chia thành sáu tầng. Càng lên cao hơn,
[tham dục] càng mỏng hơn. Cho đến Sắc Giới,
sẽ chẳng có nữa. Sắc Giới quyết định
chẳng có tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ
nghê. Chúng ta sẽ hỏi: “Chẳng phải là họ đă
đoạn trừ [ngũ dục] ư?” Họ đă
đoạn, nhưng là phục đoạn (伏斷, đoạn
trừ bằng cách chế ngự, khuất phục, đè
nén, chẳng cho nó dấy lên), chẳng phải là diệt đoạn
(滅斷, dứt hẳn, diệt hẳn). V́ họ
có công phu định lực, những tạp niệm ấy
quyết định chẳng thể dấy lên hiện hành,
cho nên là “phục đoạn”.
Đến Vô Sắc Giới, ngay cả thân thể cũng
chẳng có, chẳng cần đến thân thể nữa!
Lăo Tử nói: “Ngô hữu đại
hoạn, vi ngô hữu thân”, tức là Lăo Tử nói: Ta có mối
lo âu lớn nhất, là ǵ vậy? Ta có thân thể, chẳng
có thân thể sẽ rất tốt! Quư vị thấy có thân
thể, sẽ có ăn, mặc, ở, đi lại. Chẳng
có thân thể, tốt hơn nhiều, chẳng cần tới
những thứ ấy! Tuy Sắc Giới Thiên không cần ăn
uống, do họ có thân thể, vẫn phải có chỗ
để cư trụ, nhưng nhẹ nhàng hơn Dục Giới
Thiên rất nhiều! Chẳng có ăn uống, quá phiền
toái! Vô Sắc Giới Thiên ngay cả thân thể cũng chẳng
cần, đương nhiên là chế phục thất t́nh, ngũ
dục càng sâu hơn, nhưng chưa đoạn. Nếu
đă đoạn, họ sẽ thoát khỏi lục đạo
luân hồi, sẽ vượt thoát. Ai đă đoạn? A
La Hán đă đoạn; do vậy, A La Hán chẳng ở
trong lục đạo luân hồi. Bích Chi Phật đă
đoạn, Bồ Tát đă đoạn, các Ngài ở trong tứ
thánh pháp giới, ở ngoài tam giới.
V́
thế, luân hồi thuộc trong tam giới. Đạt
đến Vô Sắc Giới, công phu định lực khá
lắm, Tứ Thiền, Bát Định, đă đạt tới
tột đỉnh trong thế gian định, công phu định
lực duy tŕ bao lâu? Trong kinh, đức Phật đă nói:
Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên, đấy là
tầng cao nhất trong Tứ Không Thiên, thọ mạng là tám
vạn đại kiếp. Một đại kiếp, đức
Phật nói là [thời gian để] thế giới này
[hoàn tất một chu kỳ] “thành, trụ, hoại, không”.
Cứ một lần “thành, trụ, hoại, không” là một
đại kiếp. Nếu thế giới này trải qua “thành,
trụ, hoại, không” tám vạn lần, thọ mạng của
họ sẽ hết, hết rồi th́ sao? Đă hết, sẽ
chẳng c̣n sanh lên cao hơn được nữa! Chẳng
thể lên cao hơn nữa; do vậy, phiền năo dấy
lên hiện hành, tham, sân, si, mạn dấy lên, ngay lập tức
đọa lạc xuống dưới. Đúng như ngạn
ngữ đă nói: “Trèo càng cao,
rơi càng nặng”. Họ đọa lạc chẳng phải
là đọa xuống Dục Giới Thiên, chẳng phải
là đọa trong nhân đạo, ngay cả ngạ quỷ,
súc sanh cũng chẳng đọa vào! Họ đọa thẳng
vào địa ngục, trèo càng cao, rơi càng nặng! Những
tập khí phiền năo trong A Lại Da Thức thảy đều
bùng lên, hủy báng thánh hiền. V́ bản thân họ đối
với cảnh giới đă chứng đắc, cứ tưởng
chính ḿnh đă thành Phật, cứ tưởng chính ḿnh đă
chứng đắc Đại Niết Bàn, bất sanh, bất
diệt. Rốt cuộc, đến khi đó, thọ mạng
đă hết, vẫn phải đọa lạc xuống
dưới, họ bèn nói “giáo huấn của cổ thánh tiên
hiền, Phật, Bồ Tát toàn là giả trất”. Tội
nghiệp ấy chính là báng Phật, báng Pháp, báng Tăng, [sẽ
đọa] trong A Tỳ địa ngục. Đọa vào A
Tỳ địa ngục, lại chẳng biết phải
trải qua bao nhiêu kiếp, biến thành ngạ quỷ, biến
thành súc sanh, [sau đấy] mới có thể sanh vào nhân
đạo. Sự luân hồi ấy vĩnh viễn chẳng
có ngằn mé, rất đáng sợ!
Quư
vị hăy ngẫm xem đại chúng hiện tiền
đang có mặt ở nơi đây, quư vị đă từng
sanh vào Dục Giới Thiên hay chưa? Đương nhiên là
có. Đă từng sanh vào Sắc Giới Thiên hay chưa? Đă
từng sanh vào Vô Sắc Giới Thiên hay không? Thảy đều
có, không biết đă bao nhiêu lần. Có từng vào địa
ngục, ngạ quỷ, súc sanh hay không? Cũng chẳng biết
là đă vào đó bao nhiêu lần? Do bị mê khi cách ấm,
quên tuốt! Tuy quên tuốt, nếu quư vị chú tâm, sẽ
có thể cảm nhận. Cảm nhận từ chỗ nào?
Ban đêm quư vị ngủ có nằm mộng hay không? Trong mộng,
có không ít cảnh giới chẳng thuộc về nhân gian!
Tâm chúng ta chẳng thanh tịnh, tập khí phiền năo rất
nặng, đại khái là mộng cảnh toàn là ác mộng.
Trong ác mộng, có ngạ quỷ, địa ngục, súc sanh.
Người tu hành công phu niệm Phật có đôi chút đắc
lực, sẽ không bị ác mộng, có thể mộng thấy
những chuyện thuộc cơi trời hay nhân gian. Từ những
chỗ này, nếu quư vị chú tâm, lưu ư quan sát, sẽ biết:
Trong quá khứ, chúng ta đă đời đời kiếp
kiếp trôi lăn trong lục đạo chẳng biết
bao nhiêu lần, chẳng phải là một hai lần, mà là từ
vô lượng kiếp đến nay! Chúng ta phải hiểu
những sự thật và đạo lư này! Đối với
tam giới, trong các phần trước đă nói rất nhiều
rồi, chẳng cần phải nói cặn kẽ nữa.
Đấy là phạm vi hoạt động của lục
đạo phàm phu trong đời đời kiếp kiếp.
Ba câu cuối cùng…
(Kinh)
Quá khứ thiện xảo, vị lai thiện xảo, hiện
tại thiện xảo.
(經)過去善巧。未來善巧。現在善巧。
(Kinh:
Quá khứ thiện xảo, vị lai thiện xảo, hiện
tại thiện xảo).
Đây
là nói về thời gian lưu chuyển trong tam giới.
Trong phần trước là nói về không gian. Tam giới là
nói về không gian, tam thế (ba đời) là nói về thời
gian. Chúng ta thấy Thanh Lương đại sư chú giải:
(Sớ)
Tam khoa chi nghĩa, lược như tiền thích.
(疏)三科之義,略如前釋。
(Sớ: Xét đại
lược, ư nghĩa của
ba khoa như đă giải thích trong phần trước).
Ba khoa là ba đoạn như
trong phần trước đă nói[3].
(Sớ)
Quảng như biệt chương.
(疏)廣如別章。
(Sớ:
[Lời giải thích] chi tiết sẽ ở trong một
chương khác).
Chẳng
nói cặn kẽ ở đây, trong phần sau, sẽ c̣n có
chỗ nói chi tiết.
(Sớ)
Duyên khởi, Lục Địa quảng minh.
(疏)緣起,六地廣明。
(Sớ:
Duyên khởi sẽ được nói chi tiết trong
chương Lục Địa).
Duyên
khởi sẽ được giảng hết sức chi tiết
trong chương Lục Địa Bồ Tát [của phẩm
Thập Địa]. Ở đây, chúng tôi chỉ giới
thiệu đại lược.
(Sớ)
Tam giới, tam thế, như tiền hậu thích.
(疏)三界三世,如前後釋。
(Sớ:
Tam giới, ba đời, như trong phần trước
và sau có giải thích).
Trong
phần trước đă có nói, trong phần sau sẽ lại
nói đến, đều nói…
(Sớ)
Giai ngôn thiện xảo giả.
(疏)皆言善巧者。
(Sớ:
Đều nói là thiện xảo v́…)
Đoạn
này cũng rất trọng yếu, có ba điểm. Thứ
nhất là…
(Sớ)
Thiện tri bỉ pháp, không, vô sở hữu.
(疏)善知彼法,空無所有。
(Sớ:
Khéo biết các pháp ấy là Không, chẳng có sở hữu).
Quư
vị thấy đó, nói đến tam giới, tức là
nói đến quá khứ, hiện tại, vị lai, nói tới
Ngũ Uẩn, mười tám giới, mười hai xứ,
duyên khởi, có những pháp ấy hay không? Có chớ! Chẳng
thể nói chúng chẳng có. Tuy có, bản thể của chúng
là Không, trọn chẳng thể được. V́ thế, “khéo biết các pháp ấy”, “các pháp ấy” chính là hết
thảy các pháp. Mười câu [thiện xảo] trong phần
trên bao gồm hết thảy các pháp. Chúng đều là Không,
vô sở hữu. Kinh Bát Nhă dạy rất chánh xác: “Phàm những ǵ có tướng đều
là hư vọng”. Trong kinh Đại Bát Nhă có dạy: “Hết thảy các pháp vô sở hữu,
rốt ráo không, chẳng thể được”, kể cả cái thân của
chính chúng ta! Thân c̣n chẳng thể được, th́ đối
với những ǵ sở hữu bởi cái thân này, làm sao quư
vị có thể đạt được? Phải hiểu
điều này, đấy mới gọi là thiện xảo!
Có nghĩa là “Sự có, Lư không,
Tướng có, Tánh không”. V́ thế, quư vị chẳng thể
nói chúng là có, mà cũng chẳng thể nói chúng là không! Quư vị
nói chúng là không, chúng hiện tướng mà! Quư vị bảo
nó là có, nhưng bản thể của cái tướng ấy
chính là Không, sanh diệt trong từng sát-na, trọn chẳng
thể được! Điều thứ hai…
(Sớ)
Thiện tri bất hoại giả danh, phân biệt pháp tướng.
(疏)善知不壞假名,分別法相。
(Sớ:
Khéo biết giả danh là bất hoại mà phân biệt pháp
tướng).
Câu
trước chính là biết chân tướng của vạn
pháp trong vũ trụ. Câu thứ hai nhằm chỉ rơ quư vị
khéo biết chư Phật, Bồ Tát giáo hóa chúng sanh. Hết
thảy chúng sanh đang mê, chẳng liễu giải chân
tướng sự thật. Quư vị thấy đức Phật
dùng đủ mọi phương tiện giúp chúng sanh phá mê
khai ngộ, trở về tự tánh. Do vậy, nhằm giảng
kinh thuận tiện, đức Phật đă lập ra khá
nhiều danh tự. Những danh tự ấy đều là
giả danh. “Phật, Bồ Tát,
Chân Như, tự tánh”, có những danh tự ấy hay
chăng? Chẳng có! Những danh tự ấy đều
là giả lập. Những giả danh ấy được
giả lập ra, nhằm giáo học thuận tiện mà kiến
lập những danh từ chuyên biệt ấy!
Quư
vị phải hiểu tất cả danh tướng đều
chẳng chân thật. Vừa mở đầu [Đạo
Đức Kinh], Lăo Tử đă nói chuyện này rất rơ
ràng: “Đạo khả đạo,
phi thường đạo; danh khả danh, phi thường
danh” (Cái đạo mà có thể diễn tả được,
chẳng phải là đạo thường hằng. Cái danh
mà gọi tên được, chẳng phải là cái danh
thường hằng). “Danh”
là danh tự, hết thảy các danh tướng, “thường danh” là vĩnh hằng
bất biến th́ gọi là Thường. Quư vị thấy
đức Phật gọi một chuyện bằng rất
nhiều danh tự. V́ sao? Khiến cho quư vị hiểu rơ
danh tự là giả lập, chẳng thật! Từ chỗ
giả lập ấy, quư vị sẽ ngộ nhập chân
thật, v́ chân thật là không thốt nên lời, chẳng
có cách nào nói được! Chân thật cũng chẳng thể
suy tưởng. V́ vậy, quư vị cũng chẳng thể
tư duy. Quư vị tư duy, tưởng tượng, sẽ
vĩnh viễn nghĩ sai, vĩnh viễn chẳng thể
tưởng được. Ĺa khỏi tư duy, ĺa khỏi
ngôn thuyết, chân tướng ở ngay trước mặt,
chẳng hề xa ĺa quư vị. Ở ngay trước mặt,
thế mà quư vị chẳng nhận ra. Chư Phật, Bồ
Tát giả lập những danh tướng ấy nhằm dẫn
dắt quư vị ngộ nhập chân thật. Bởi lẽ
ấy, quư vị cũng không cần phải phá hoại những
danh tướng ấy! Quư vị biết chúng là giả lập,
biết tác dụng của chúng. Đấy là thiện xảo.
V́ thế, đức Phật dùng ngôn ngữ, dùng những danh
tướng ấy để nói rành mạch, rơ ràng Thật
Tướng, nay chúng ta gọi [Thật Tướng] là “chân
tướng”, quư vị có thể ngộ nhập hay không? Chẳng
có! Nếu quư vị hiểu rơ ràng, hiểu minh bạch, hết
thảy vọng tưởng, phân biệt, chấp trước
đều buông xuống, quư vị sẽ ngộ nhập. Do
vậy, sợ nhất là quư vị chấp trước những
danh tướng ấy. Điều này được gọi
là “chết cứng nơi danh
tướng”, hỏng bét! Vĩnh viễn chẳng thể
ngộ nhập.
Do
vậy, trong Khởi Tín Luận, Mă Minh Bồ Tát đă nói rất
hay: “Ĺa tướng ngôn thuyết”.
Có cần nghe hay không? Nghe, nhưng chẳng chấp trước
ngôn thuyết. “Ĺa tướng
danh tự”: Đức Phật
nói khá nhiều danh từ, thuật ngữ, cũng đều
nghe, nhưng không chấp trước. “Ĺa tướng tâm duyên”: Sau khi nghe, hiểu bao
nhiêu th́ hay bấy nhiêu, quyết chẳng nghiên cứu. Bởi
lẽ, quư vị chẳng nghiên cứu được! Càng
nghiên cứu, càng trật! Người hiện thời chuộng
nghiên cứu, khó khăn ở chỗ này! Phật pháp yêu cầu
quư vị ĺa vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước; [thế mà] nghiên cứu dẫn khởi vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, vậy th́ làm
sao được? Do vậy, mọi người (người
Hoa [nói riêng]) hễ nhắc tới Phật giáo, đều
bội phục Lục Tổ Huệ Năng của Thiền
Tông năm vóc sát đất. Lục Tổ Huệ Năng có
bản lănh ǵ vậy? Nói toạc ra cùng quư vị, đối
với ba chuyện như Mă Minh Bồ Tát đă dạy, Ngài
thảy đều làm được. Trong cuộc sống
hằng ngày, lục căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần,
xác thực là ĺa tướng ngôn thuyết, ĺa tướng
danh tự, ĺa tướng tâm duyên. Bất luận là thấy
sắc, hay nghe tiếng, Ngài đều triệt ngộ tự
tánh, chẳng cần học hành, chẳng cần nghiên cứu!
V́
sao nay chúng ta chẳng làm được? Chẳng buông
điều này xuống được! Chứ buông xuống
được th́ có khác ǵ Ngài? Chính là v́ chẳng thể
buông xuống! Người ta đă biểu diễn, thị
hiện cho chúng ta biết: “Buông
xuống là được”. Vậy mà quư vị chẳng
chịu buông xuống! Quư vị hăy tự trách ḿnh, chẳng
thể trách móc ai khác! Chư Phật, Bồ Tát, tổ
sư đại đức, không một vị nào chẳng
khuyên chúng ta buông xuống. Tôi theo thầy học Phật,
ngày đầu tiên gặp mặt, thầy dạy tôi “thấy thấu suốt, buông xuống”.
Ư nghĩa ấy quá sâu! Nói chung, quư vị phải buông xuống.
Quư vị buông xuống được bao nhiêu, mới có thể
khế nhập bấy nhiêu! Nếu quư vị chẳng chịu
buông xuống, sẽ là phàm phu. Đúng vậy đó! Hằng
ngày nghe kinh, hằng ngày niệm Phật, chẳng vào
được cửa, [nguyên nhân là v́] quư vị chẳng
đoạn tập khí phiền năo!
Ư
nghĩa thứ ba…
(Sớ)
Gia năng nhiếp vô tận, di tận thiện xảo.
(疏)加能攝無盡,彌盡善巧。
(Sớ:
Lại có thể nhiếp vô tận, thiện xảo trọn
khắp).
Điều
này nhằm nói: Bất cứ một pháp nào, hoàn toàn chẳng
nói một pháp [nhất định] nào, bất cứ một
pháp nào cũng đều có thể nhiếp hết thảy
các pháp. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Một
chính là hết thảy, hết thảy là một”. “Một” chẳng phải là một
cái chuyên nhất nào, mà bất cứ cái nào! Do vậy, bậc
giác ngộ trong Tông Môn khi nói năng thường nêu thí dụ
là một sợi lông, bé tí ti! Một sợi lông trên thân chúng
ta, nhổ lấy một sợi, [các công án thường nói
là] “nhất mao”. “Nhất trần”
lại càng nhỏ hơn nữa, tức là một hạt vi
trần, trong ấy có thể gồm thâu đại thiên thế
giới. Trong quá khứ, chúng tôi nghe lời ấy chẳng
hiểu. Một sợi lông, một sợi tóc, tức “nhất mao” mà trong ấy có thể
dung nạp đại thiên thế giới, dung nạp vô tận
đại thiên thế giới, làm sao có thể nghe hiểu
cho được? [Nghe giống hệt như chuyện] thần
thoại!
Hiện
thời, các nhà khoa học đă chứng minh [chuyện ấy]
là thật, chẳng giả. Đấy cũng là chuyện
vào bốn hoặc năm năm trước, gần
đây. Các nhà khoa học thuộc tổng cục không gian của
Hoa Kỳ đă phát hiện một bí mật mới và công bố: 1) Điều thứ nhất là thời
gian và không gian chẳng thật. Trước kia, chưa hề
nói đến chuyện này! Dưới một điều
kiện nào đó, không gian sẽ bằng zéro. Không gian bằng
zéro, sẽ chẳng có khoảng cách. Dưới một
điều kiện nào đó, thời gian bằng zéro. Thời
gian bằng zéro, sẽ chẳng có trước, sau. Đó là
thế giới ǵ? Chẳng có cách nào tưởng tượng!
Tôi xem bản báo cáo ấy xong, rất hoan hỷ, v́ sao? Giống
hệt như kinh Hoa Nghiêm đă nói. Trong kinh, đức Phật
đă dạy chúng ta: Pháp giới là Nhất Chân. Trong Nhất
Chân pháp giới, chẳng có khoảng cách, chẳng có trước,
sau, hoàn toàn giống như họ (các nhà khoa học) đă
nói. V́ thế, họ đă phát hiện Nhất Chân pháp giới.
Trong mười pháp giới có thời gian và không gian, trong Nhất
Chân pháp giới chẳng có!
Phát
hiện ấy rất lỗi lạc, nhưng hiện thời
họ chẳng biết dùng phương pháp ǵ [để chứng
thực]; bởi lẽ, họ không biết điều kiện
ấy [là ǵ]. Trong Phật pháp th́ có, điều kiện ǵ vậy?
Thiền Định. Trong Thiền Định rất sâu, chúng
ta thường nói là “đột
phá kích thước không gian”, và cũng là “đột phá thời gian”. Trong Thiền Định,
có thể trở lại quá khứ, có thể tiến nhập
vị lai. Quá khứ và vị lai quư vị
đồng thời đều có thể thấy, v́ chẳng
có thời gian. Cơi này, phương khác quư vị đều thấy,
v́ chẳng có khoảng cách! V́ thế, quư vị thấy
trong Phật pháp, từ ba ngàn năm trước, Thích Ca Mâu
Ni Phật chẳng hề có những máy móc khoa học, Ngài thảy
đều biết. Không chỉ là trong Phật giáo, tại Ấn
Độ, trước Phật giáo là Bà La Môn giáo, từ
trong Thiền Định, họ cũng thấy hiện
tượng sanh tử luân hồi trong lục đạo.
V́ thế, trong Thiền Định, thời gian và không gian
đều bị đột phá, trạng huống lục
đạo đều ở trước mặt. Đấy
là một phát hiện.
2) Phát hiện thứ hai: Vật chất sanh
ra từ Vô, trong Vô mà sanh ra Hữu. Điều này giống
như kinh Phật đă dạy. Pháp Tướng Duy Thức
có nói, tướng cảnh giới sanh từ đâu? Sanh từ
Kiến Phần. Duy Thức nói Tâm và Tâm Sở có bốn loại
đặc tánh, tức là Kiến Phần, Tướng Phần,
Tự Chứng Phần, và Chứng Tự Chứng Phần.
Pháp Tướng đề ra bốn phần ấy. Vật
chất là Tướng Phần, tinh thần là Kiến Phần,
vật chất và tinh thần đều từ Tự Chứng
Phần biến hiện. Tinh thần và vật chất là một,
không hai; v́ thế mới nói “hết
thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”, đạo lư ở
chỗ này. Đấy là phát hiện khoa học gần
đây nhất, vật chất chẳng có thật, từ trong
Vô sanh ra Hữu. Thời gian nó tồn tại hoàn toàn chẳng
dài, lại trở về Vô. Điều này đúng như Tâm
Kinh đă nói: “Sắc tức là
Không, Không tức là Sắc, Sắc chẳng khác Không, Không chẳng
khác Sắc”. Đấy là phát hiện thứ hai.
3)
Phát hiện thứ ba, nguyên điểm của vũ trụ.
Rốt cuộc, vạn hữu trong vũ trụ do đâu
mà có? Hiện thời, rất nhiều nhà khoa học tin
tưởng vũ trụ là [hậu quả] của một
vụ bùng nổ (Big Bang), do một vụ bùng nổ vĩ
đại sanh ra. Bởi lẽ, nh́n qua viễn vọng
kính, [họ thấy] vũ trụ vẫn c̣n đang ph́nh ra.
Ph́nh ra th́ đương nhiên là do hiện tượng bùng
nổ, nó mới có thể có hiện tượng sanh
trưởng, ph́nh ra không ngừng. [Nói] bùng nổ th́ cái ǵ
bùng nổ? Nói chung là phải có một thứ chi đó. Nay
các nhà khoa học nói thứ ấy là một “nguyên điểm”. Nguyên điểm to cỡ nào?
C̣n nhỏ hơn một sợi tóc! Họ nói là một sợi
tóc. Ví như chúng ta dùng một sợi tóc để tỷ dụ,
dùng dao cắt ngang sợi tóc ấy, mặt cắt ngang của
sợi tóc sẽ có h́nh tṛn. H́nh tṛn ắt có đường
kính. Trên đường kính đó, sắp được
bao nhiêu nguyên điểm của vũ trụ? Con số này
tôi không nhớ rơ ràng lắm, nhưng trong thí dụ ấy, tôi
nhớ họ nói trên đường kính ấy có thể sắp
xếp ba chữ Ức sau con số một trăm vạn,
tức là một trăm vạn ức ức ức nguyên
điểm của vũ trụ. Trong mỗi nguyên điểm
của vũ trụ, chứa đựng toàn thể vũ
trụ, đấy chính là “năng
nhiếp vô tận, di thiện xảo dă” (có thể nhiếp
vô tận, thiện xảo trọn khắp) đang nói ở
đây vậy! Nguyên điểm của vũ trụ đấy
nhé!
Hiện
thời, khoa học kỹ thuật rất phát triển. Một
tinh phiến (một con chip điện tử) c̣n nhỏ
hơn cái móng tay, có thể dung nạp rất nhiều thứ.
Tôi tin là trong tương lai sẽ càng tiến bộ
hơn! Đại khái là một bộ Đại Tạng
Kinh có thể chỉ cần một con chíp to bằng ngón tay
như vậy là có thể dung nạp toàn bộ. Khoa học
kỹ thuật như vậy th́ sao? Chẳng có ǵ đặc
biệt hết! V́ sao? Nguyên điểm vũ trụ của
người ta c̣n bé hơn thứ này nhiều, bé đến
nỗi quư vị chẳng có cách nào trông thấy, nh́n dưới
kính hiển vi cũng chẳng trông thấy. Nó dung nạp
bao nhiêu? Dung nạp toàn thể vũ trụ, quư vị thấy
một bộ Đại Tạng Kinh thấm vào đâu? Kinh
Hoa Nghiêm nói “lớn, nhỏ chẳng
hai”. Trong Nhất Chân pháp giới, chẳng có lớn hay
nhỏ, chẳng có trước hay sau, chẳng có xa hay gần,
pháp giới là Nhất Chân. Dùng ba ư nghĩa ấy để
bàn về thiện xảo, [đúng là]
thiện xảo tột cùng. Đấy chính là như trong phần
sau kinh Hoa Nghiêm đă nói: “Lư Sự
vô ngại, Sự Sự vô ngại”, vô chướng ngại
pháp giới. Hiện thời, khoa học đă dần dần
chứng minh, rất thú vị. Do vậy, tôi cũng rất
thích tiếp xúc những kiến thức khoa học ấy,
dùng chúng để giải thích kinh điển, khiến cho
chúng ta càng có tín tâm sâu đậm đối với kinh
điển. Đáng tiếc là những nhà khoa học
chẳng học kinh Hoa Nghiêm. Nếu họ học Hoa Nghiêm,
tôi tin là họ sẽ có tiến bộ lớn hơn nữa.
Bây giờ đă hết thời gian rồi!
Tập 1484
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời
ngồi xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ
mười một, xem từ đoạn thứ sáu trong phần
trường hàng.
(Kinh)
Vân hà thiện tu tập Niệm Giác Phần, Trạch Pháp
Giác Phần, Tinh Tấn Giác Phần, Hỷ Giác Phần, Y
Giác Phần, Định Giác Phần, Xả Giác Phần,
Không, Vô Tướng, Vô Nguyện?
(經)云何善修習念覺分。擇法覺分。精進覺分。喜覺分。猗覺分。定覺分。捨覺分。空。無相。無願。
(Kinh:
Làm thế nào để khéo tu tập Niệm Giác Phần, Trạch
Pháp Giác Phần, Tinh Tấn Giác Phần, Hỷ Giác Phần,
Y Giác Phần, Định Giác Phần, Xả Giác Phần, Không,
Vô Tướng, Vô Nguyện?)
Trong
mười câu này, “vân hà thiện
tu tập” (làm thế nào để khéo tu tập) vẫn
là một mực xuyên suốt những câu sau đó, xuyên suốt
cả mười câu này. Những câu sau [không nói “vân hà thiện tu tập”] là v́
tỉnh lược. Nếu đọc thành câu hoàn chỉnh,
sẽ là “vân hà thiện tu tập
Niệm Giác Phần, vân hà thiện tu tập Trạch Pháp
Giác Phần”, cho đến “vân
hà thiện tu tập Không, vân hà thiện tu tập Vô Tướng,
vân hà thiện tu tập Vô Nguyện”, mọi người
hiểu [mười câu ấy, câu nào] cũng đều là như
vậy. Thanh Lương đại sư chú giải đoạn
kinh văn này không nhiều, nhưng cũng nói rất rơ
ràng, rất minh bạch.
(Sớ)
Tu Niết Bàn nhân.
(疏)修涅槃因。
(Sớ:
Tu cái nhân Niết Bàn).
Trong
cả đoạn lớn, đoạn này thuộc về đoạn
thứ năm.
(Sớ)
Thất Giác, Tam Không, Thập Địa phẩm quảng
thuyết.
(疏) 七覺三空,十地品廣說。
(Sớ:
Thất Giác, Tam Không được nói rộng trong phẩm
Thập Địa).
V́
thế, ở đây chỉ là nêu ra danh mục, trong phần
trước [của đoạn này] là Thất Giác Chi, c̣n Không,
Vô Tướng, Vô Nguyện trong phần sau là Tam Không. Khi
đến phần kinh văn trong phẩm Thập Địa,
sẽ nói cặn kẽ. Nhưng hiện thời, chúng ta c̣n
cách phẩm Thập Địa khá xa; do vậy, học tập
đoạn này, chúng tôi cũng nói tóm tắt.
Thất
Giác, Tam Không là ǵ? Thất Giác Chi là một khoa mục trong ba
mươi bảy đạo phẩm. Ba mươi bảy
đạo phẩm có tất cả bảy khoa, tức là Tứ
Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ư Túc,
Ngũ Căn, Ngũ Lực; tiếp đó là Thất Giác
Chi, Bát Chánh Đạo. Do vậy, Thất Giác Chi cũng là một
khoa mục mà Đại Tiểu Thừa giáo ắt cần
phải học tập, đều áp dụng trong cuộc sống
thường ngày. Trong giáo pháp Đại Thừa, nó thường
được gọi là Trợ Đạo Phẩm. Bất
luận tu học pháp môn nào, ba mươi bảy trợ đạo
phẩm là một khoa mục học tập cơ bản. Tám
vạn bốn ngàn pháp môn là tám vạn bốn ngàn
phương pháp khác nhau, tu ǵ vậy? Nói chung, chẳng ĺa ba
mươi bảy khoa mục này.
Ba
mươi bảy khoa được chia làm bảy đoạn,
nói theo cách nói thông thường trong hiện thời là “đơn nguyên” (unit), [bảy
khoa] là bảy đơn nguyên. [Thất Giác Chi] là một
trong số đó. Đơn nguyên này gồm bảy khoa, khoa
thứ nhất là Niệm, tức Niệm Giác Phần. Chúng
ta học tập Niệm Giác Phần như thế nào? Điều
này rất trọng yếu. Khi tâm t́nh của chúng ta trầm
trệ, phiền muộn, chúng ta thường nói là “tinh thần
chẳng thể phấn chấn nổi”, niệm Phật,
tĩnh tọa, chúng tôi không nói tới Tham Thiền, chúng tôi
nói “tĩnh tọa”. Trong Niệm Phật Đường,
tôi nghĩ rất nhiều đồng học
đă từng thấy, gần như trong Niệm Phật
Đường, mỗi ngày đều xuất hiện hiện
tượng ấy. Có những người niệm Phật
mà hôn trầm, ngủ gật. Hiện tượng này dễ
phát sanh nhất khi chỉ tĩnh. Sau khi nhiễu Phật
mấy ṿng, mọi người ngồi xuống. Khi chỉ
tĩnh, sẽ có người ngủ ngay. Ngồi ở
đó mà ngủ gật. Hiện tượng ấy thường
có, đấy gọi là “hôn trầm”,
tinh thần chẳng thể phấn chấn được!
Đức Phật dạy chúng ta, khi ấy, phải khởi
lên ư niệm sau đây: Chúng ta phải chọn lựa pháp
môn ǵ để đối trị, ḥng phấn chấn tinh
thần của chính ḿnh? Do vậy, bảy điều này của
Thất Giác Chi nhằm giúp chúng ta giác ngộ, giúp chúng ta tỉnh
táo, quư vị thấy có quan trọng lắm hay không?
Chúng
ta chọn lựa phương pháp, đấy là
phương tiện trong Tịnh Tông, chúng ta chọn lựa
phương pháp Niệm Phật. Niệm Phật cũng có
phương pháp, trong khi đang hôn trầm th́ làm như thế
nào? Niệm lớn tiếng. Quư vị niệm lớn tiếng
có thể gây ồn đến người khác hay không? Quư vị
nhiễu loạn trật tự của đại chúng
cũng không hay! Do vậy, cách chọn lựa thông thường,
tuy là Chỉ Tĩnh, người ấy có thể đứng
lên lạy Phật trong khi ấy. Có thể dùng phương
pháp ấy để trừ khử sự hôn trầm của
chính ḿnh. Hoặc là đại chúng chỉ tĩnh, quư vị
vẫn có thể tiếp tục nhiễu Phật, dùng phương
pháp ấy cũng được. Hiện thời, những
máy móc khoa học phát triển, chẳng hạn như dùng
máy nghe cá nhân. Chúng ta có thể thâu lại [tiếng niệm]
Phật hiệu trong Niệm Phật Đường. V́
sao? Khi niệm Phật trong Niệm Phật Đường,
thanh điệu và âm điệu của mọi người
phải ăn khớp th́ mới chẳng đến nỗi
hỗn loạn. Đấy là trang nghiêm đạo tràng. Sau
khi thâu xong, chúng ta có thể lưu trong máy nghe cá nhân, trong lúc
hôn trầm, chúng ta có thể mở lớn âm thanh để
chính ḿnh nghe mà người ngoài chẳng nghe thấy, chẳng
làm phiền người khác, đấy cũng là một biện
pháp. Hiện thời, dùng cách này th́ được, chứ
trước kia, chẳng có những máy móc ấy, chẳng
có cách nào cả! V́ thế, người thuở trước
chỉ đành chọn lựa lạy Phật hay nhiễu
Phật để khỏi làm phiền người khác, dùng
những phương pháp ấy. Cổ đại đức
dạy chúng ta: Quư vị dùng Trạch Pháp Giác Phần, Tinh Tấn
Giác Phần, và Hỷ Giác Phần trong phần sau, dùng ba loại
ấy để trừ khử hôn trầm. Trong phần
sau, chúng tôi sẽ giới thiệu Trạch Pháp, Tinh Tấn,
Hỷ từng điều một, dùng phương pháp ấy.
Một
hiện tượng khác là điệu cử (掉舉, c̣n đọc là “trạo cử”), tức là thấp
thỏm, bộp chộp, hoàn toàn tương phản với
hôn trầm. Thấp thỏm, bộp chộp là v́ vọng niệm
tơi bời. Có rất nhiều người nói: “Khi tôi không
niệm Phật, không tĩnh tọa, chẳng có vọng niệm.
Hễ vừa tĩnh tọa, chẳng biết vọng niệm
do đâu mà có? Cớ sao nhiều ngần ấy?” Họ bị
vọng niệm dọa đến mức nào? Họ bị
dọa đến nỗi chẳng dám tĩnh tọa. Đấy
là sai lầm! Nhất định phải
hiểu: Chẳng phải là khi tĩnh tọa mới có vọng
niệm, mà là ǵ? Khi tĩnh tọa, quư vị mới phát hiện
[chính ḿnh có vọng niệm]; khi ta không tĩnh tọa, [vọng
niệm vốn đă] nhiều ngần ấy. V́ tâm niệm
của quư vị chẳng tập trung, nên quư vị chẳng
phát hiện. Sau khi mong muốn tĩnh lặng, mới phát
hiện vọng niệm nhiều dường ấy. Thông
thường, khi chúng ta dụng công, hai loại tật xấu
ấy thường hiện tiền. Một là chẳng thể
phấn chấn tinh thần, hai là thấp thỏm, bộp
chộp, vọng niệm quá nhiều! Kinh Phật gọi
đó là Điệu Cử. Trong trạng huống ấy, quư
vị có thể dùng Khinh An, dùng Định, dùng Xả,
dùng ba món Giác Chi ấy để đối trị.
Do
vậy, có thể biết: Thất Giác Chi nhằm đối
trị hai thứ phiền năo thường dấy lên khi
chúng ta dụng công. Một là đối trị hôn trầm,
hai là nhằm đối trị điệu cử (tức
là cái tâm phập phều, bộp chộp). Khi dụng công
đắc lực, trong cuộc sống thường ngày,
cũng sẽ có t́nh h́nh ấy. Trong cuộc sống hằng
ngày, trong khi làm việc, xử sự, đăi người,
tiếp vật, th́ hôn trầm tức là tinh thần uể
oải, khá ít; chứ trong hiện thời, [cái tật] thấp
thỏm, bộp chộp gần như là thấy rất phổ
biến. Bất luận quư vị ở nơi đâu, chỉ
cần lắng ḷng quan sát, [sẽ thấy] người b́nh
phàm hiện thời luôn vội vă, xáo động. Cũng có
thể biết là họ có lắm vọng tưởng, nhiều
phân biệt, nhiều chấp trước, tâm t́nh chẳng ổn
định, rất dễ dàng nổi giận. Điều
này thuộc loại Điệu Cử, cũng có nghĩa là
tâm họ chẳng định được. Giống
như trong xă hội xưa kia, bất luận sĩ, nông, công,
thương, ta trông thấy mọi người đều
rất ổn định, ôn ḥa, ăn nói thong thả, động
tác cũng thong dong. Chúng ta xem gia thư, gia huấn của
ông Tăng Quốc Phiên, quư vị thấy ông ta dạy dỗ
con em, viết khá nhiều gia thư, gia huấn [luôn nhấn
mạnh vấn đề trấn định tâm t́nh]. Do vậy,
có thể biết, ông ta rất coi trọng vấn đề
này. Những kẻ trẻ tuổi phải học ổn trọng.
Học ổn trọng bắt đầu từ đâu? Hết
thảy đều thong thả, chớ nên khiến cho
người khác thấy vội vàng, gấp rút. Bất luận
gặp vấn đề gian nan như thế nào đi nữa,
tâm địa đều là như như bất động,
có lư lắm! Trong kinh, đức Phật đă dạy rất
rơ ràng, tâm thanh tịnh sanh ra trí huệ, trí huệ mới có
thể giải quyết vấn đề. Bộp chộp,
loi choi sẽ sanh phiền năo, phiền năo th́ làm sao mà giải
quyết vấn đề cho được? Phiền năo
chỉ có thể khiến cho vấn đề càng thêm phức
tạp, chẳng phải là phương pháp để giải
quyết vấn đề!
Do
vậy, có thể biết, đối với tông chỉ của
Thất Giác Chi, dùng một câu đơn giản nhất để
nói sẽ “dạy chúng ta phải
học ổn trọng trong tư tưởng, ngôn ngữ,
động tác”. Trong đời này, tôi thấy một
người là Chương Gia đại sư đă gây cho
người khác ấn tượng: Ngài đi, đứng,
ngồi, nằm, đều ở trong Định. Bất
cứ lúc nào quư vị nh́n Ngài, đều thấy như
Ngài đang nhập Định. Ít nói, tốc độ rất
chậm, động tác cũng ít, cũng rất thong thả.
Khi quư vị gặp mặt Ngài, tự nhiên chẳng dám buông
lung. Ngài có sức nhiếp thọ, [người khác] tự
nhiên tôn kính Ngài. Đời này tôi chỉ thấy một
người như thế, hai vị thầy kia chẳng giống
Ngài, là người tu hành chân chánh. Các vị thấy trong ảnh
chụp, lăo nhân gia mặc quần áo, một năm bốn
mùa đều ăn mặc như nhau. Quần áo rất dầy,
đương nhiên là mùa Đông không sao, nhưng mùa Hè, Ngài
cũng mặc như thế.
Có
một năm, Đài Loan khởi sự ấn hành Đại
Tạng Kinh lần thứ nhất, dùng Đại Chánh Tạng[4] của
Nhật Bản làm bản gốc, Đài Loan in lại, in lại
lần đầu tiên. Những vị thuộc hội Phật
giáo đi tuyên truyền khắp đảo Đài Loan, hy vọng
mọi người nhận biết Đại Tạng Kinh,
sẽ nhiệt liệt ủng hộ, thỉnh Đại
Tạng Kinh. V́ bộ sách ấy rất lớn, giá thành rất
cao, xác thực là chẳng dễ dàng, bèn cầu thỉnh Chương
Gia đại sư cầm đầu phái đoàn ấy
đi giới thiệu khắp đảo. Thuở ấy, cũng
có những pháp sư trẻ tuổi đi theo. Trong số
đó, có một vị tuổi trẻ hơn đại
sư. Thuở ấy, đại sư khoảng sáu
mươi tuổi, các vị khác chỉ hơn bốn
mươi tuổi, thấy Chương Gia đại
sư mặc quần áo nhiều như vậy, hỏi Ngài:
“Lăo nhân gia có nóng hay không?” Khi đó là mùa Hè, những pháp
sư trẻ tuổi đều cầm quạt, Chương
Gia đại sư chẳng có, họ liền hỏi: “Lăo
nhân gia, Ngài có nóng hay không?” Đại sư trả lời bằng
một câu rất tuyệt: “Tâm
tịnh, tự nhiên lương” (Tâm thanh tịnh, tự
nhiên mát mẻ). Những vị pháp sư ấy nghe xong, cảm
thấy hết sức hổ thẹn. Đấy là v́ tâm
địa Ngài thanh tịnh, mùa Đông Ngài chẳng lạnh,
mùa Hè cũng chẳng nóng. Nói thông thường, đấy
là công phu tu hành, cũng có nghĩa là tâm quư vị có đạt
đến mức độ thanh tịnh ấy hay không!
Vĩnh
viễn chẳng hôn trầm, chẳng điệu cử,
đó là hiện tượng công phu đắc lực. Hôn
trầm và điệu cử đều là công phu chẳng
đắc lực, người niệm Phật phải
đặc biệt lưu ư điều này. V́ sao? Có hai thứ
hiện tượng ấy, sẽ chướng ngại văng
sanh. Chướng ngại quư vị trong hiện tiền, chẳng
cần nói là nhất tâm bất loạn, mà là chướng
ngại quư vị đạt tới công phu thành phiến,
chướng ngại ngộ môn, khiến cho quư vị chẳng
thể khai ngộ. Do vậy, nói theo phương diện tu
hành, Thất Giác Chi là một khoa mục rất quan trọng.
Nó có thể giúp quư vị trừ khử hôn trầm, điệu
cử, khiến cho quư vị thật sự đạt
được Định Huệ cân bằng. Định
và Huệ cân bằng, đấy chính là Thiền. Niệm Phật
cũng là Thiền, chẳng cần dùng tham cứu, mà
cũng chẳng dùng quán tâm, dùng phương pháp Tŕ Danh để
đạt tới hiệu quả chẳng khác Thiền
Định. V́ thế, trong kinh Đại Tập, đức
Phật đă bảo niệm Phật, đặc biệt
là Tŕ Danh Niệm Phật, chính là Vô Thượng Thâm Diệu
Thiền. Đức Phật đă nói điều ấy!
Ĺa khỏi Thiền, sẽ chẳng phải là Phật pháp.
Chỉ cần là Phật pháp, chúng ta biết tám vạn bốn
ngàn pháp môn chính là tám vạn bốn ngàn loại phương
thức khác nhau để học Thiền! Đấy là Niệm,
đúng như bậc đại đức trong Tông Môn
thường nói: “Chẳng sợ
niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Niệm dấy
lên, ngay lập tức nhận biết. “Niệm” ở đây là giác. Hôn trầm hoặc
điệu cử vừa dấy lên, vọng tưởng,
tạp niệm vừa mới dấy lên, bèn lập tức
giác ngộ, biết dùng phương pháp ǵ để đối
trị.
Điều
thứ hai là Trạch, tức Trạch Pháp. “Trạch” (擇) là chọn lựa,
chọn lựa dùng phương pháp ǵ để đối
trị. Nói đơn giản, trong cuộc sống thường
ngày của chúng ta, sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu
trần bên ngoài, nói theo cơ bản, quư vị phải thấy
rơ ràng cảnh giới bên ngoài, chớ nên bị những thứ
ấy mê hoặc. Trong các kinh điển tại Trung Hoa, có
thể nói kinh Kim Cang nổi tiếng nhất. Kinh điển
Phật giáo rất nhiều, rất ít người có thể
kể ra, nhưng ai nấy đều biết có một bộ
kinh là Kim Cang. Do vậy, có thể biết, trong xă hội
Trung Hoa, kinh Kim Cang được nhiều người hoan
nghênh dường ấy. Không chỉ là người học
Phật ắt đọc, người không học Phật,
chỉ cần là người có học, kẻ suốt
đời bảo ḿnh chưa hề đọc kinh Kim Cang
quá ư là ít, [ai nấy] đều đă từng đọc.
V́ sao? Khai trí huệ, giúp quư vị chọn lựa pháp. V́ thế,
quư vị có thể khéo giác, khéo có thể phân biệt pháp nào
là thật, pháp nào là giả.
Đức
Phật quy nạp hết thảy các pháp thành sáu chuyện, “tánh, tướng, lư, sự, nhân,
quả”. Sáu chữ ấy bao gồm hết thảy các
pháp, chẳng có một pháp nào có thể vượt ra ngoài
những thứ ấy được. Quư vị hiểu ǵ
là thật, ǵ là giả, cho nên quư vị mới có thể chọn
lựa chẳng sai lầm. Bản tánh là tâm thanh tịnh, là
chân tâm, vốn trọn đủ vô lượng trí huệ và
đức tướng. Trong kinh Đại Thừa, đức
Phật thường nói “vốn
sẵn trọn đủ”, đấy là thật! Nhưng
chúng sanh rất bất hạnh, từ vô thỉ kiếp tới
nay, do một niệm vô minh mà mê mất chân tâm, mê mất bản
tánh, tùy thuận ngoại duyên, dấy lên vô lượng vô
biên phiền năo. Chư vị phải hiểu, vô lượng
vô biên phiền năo là hiện tượng sanh ra sau khi vô
lượng vô biên trí huệ và đức tướng bị
mê hoặc. Thể của mê và ngộ là một, tướng
của mê và ngộ khác nhau! Chúng ta nói “tánh, tướng, mê, ngộ”; tánh là một, không
hai. Ngộ là tánh, mê cũng là tánh. Tánh chẳng có mê hay ngộ.
Nhưng sau khi đă mê, tướng [của mê] là y báo và
chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới. Tướng
của giác ngộ là Nhất Chân pháp giới, khác hẳn! Đă
giác ngộ, kinh Hoa Nghiêm nói là “bốn
mươi mốt địa vị Pháp Thân đại
sĩ”. Tướng của mê là y báo và chánh báo trang nghiêm
trong mười pháp giới. Lục đạo mê sâu, tứ
thánh pháp giới mê cạn. Phải biết điều này, phải
nhận thức rơ ràng.
Kinh
Kim Cang nói: “Phàm những ǵ có
h́nh tướng, đều là hư vọng”.
Đừng bị những huyễn tướng (tướng
hư vọng) gạt gẫm, quư vị chấp trước
những tướng hư vọng ấy, kiên cố chẳng
bỏ, sai mất rồi! Kiên cố chẳng bỏ những
tướng hư vọng ấy; đấy chính là căn
bản của sự luân hồi trong lục đạo! V́
sao quư vị không thể thoát khỏi luân hồi? Đời
đời kiếp kiếp, quư vị chẳng thoát khỏi
luân hồi, là v́ quư vị chấp trước những thứ
hư vọng ấy, ngỡ chúng là thật. Sai lầm ở
chỗ này! Chẳng biết “phàm
những ǵ có tướng đều là hư vọng”, chẳng
biết ngă tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng,
thọ giả tướng đều là giả trất, chẳng
thật! V́ thế, đức Phật dạy hàng Bồ Tát
phải buông tứ tướng xuống, chớ nên chấp
trước. Không chỉ là chớ nên chấp trước,
mà cũng chớ nên phân biệt. Chấp trước sẽ
biến ra lục đạo luân hồi; phân biệt, biến
ra mười pháp giới. Do vậy, ĺa phân biệt và chấp
trước, không chỉ là chẳng có lục đạo,
mà mười pháp giới cũng chẳng có.
Giáo
pháp Đại Thừa giảng đạo lư này rất nhiều.
V́ sao đức Phật ngàn lời vạn lẽ rát miệng
dặn đi dặn lại? Chúng ta mê quá sâu! Tuy nghe đức
Phật giảng kinh, trong chốc lát giác ngộ, giống
như một tia chớp xẹt sáng ḷa, thời gian rất
ngắn ngủi, tạm bợ. Rời khỏi giảng
đường, ngay lập tức mê muội! Đức Phật
biết đấy là chứng bệnh cũ, là tập khí của
chúng sanh, cho nên dạy như thế nào? Ắt phải là
ngàn lần, vạn lần, vô số lần nhắc nhở,
khiến cho họ được kinh giáo huân tập trong một
thời gian dài. Huân tập dầy đặc, sẽ sanh ra tác
dụng. Chư Phật, Bồ Tát thành tựu như thế
đó, huân tập dầy đặc lâu dài, sẽ giác ngộ.
Chúng ta học Phật, quư vị biết là “một ngày nóng, mười ngày lạnh”, công phu chẳng
thể thành tựu! Thảy đều là nói tới sự
huân tập. Người thế gian chẳng huân tập
điều thiện, sẽ huân tập điều ác.
Người học Phật chẳng huân tập Phật
pháp, sẽ huân tập thế tục! Huân tập thế tục
chính là huân tập luân hồi. Huân tập Phật pháp chính là
huân tập Niết Bàn, khác hẳn!
Nay
chúng ta hăy ngẫm xem, một ngày hai mươi bốn tiếng
đồng hồ, chúng ta tiếp nhận Phật pháp huân tập
mấy giờ? Chúng ta tiếp nhận pháp thế gian huân tập
mấy giờ? Đến khi nào th́ công phu mới đắc
lực? Thưa cùng chư vị, nếu mỗi ngày có thể
huân tập Phật pháp hai mươi tiếng đồng hồ,
huân tập pháp thế gian bốn giờ, khẳng định
là quư vị sẽ thành tựu trong đời này. V́ sao biết?
Từ sự giáo học thuở đức Thế Tôn c̣n tại
thế mà nhận biết. Thích Ca Mâu Ni Phật hướng
dẫn một đoàn học tṛ, mỗi ngày giảng kinh,
thuyết pháp, nghiên cứu, thảo luận với họ, gần
như chẳng nghỉ ngơi, Ngài có mệt mỏi hay
không? Chúng tôi nghĩ Ngài không mệt. V́ sao? “Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt
hồ” (Học rồi thường tập luyện, há
chẳng vui sao), pháp hỷ sung măn, Ngài mệt sao được?
Mỗi ngày nghỉ ngơi vào lúc trung dạ (“trung dạ” là bốn tiếng
đồng hồ), ngủ nghỉ bốn tiếng đồng
hồ. Nhưng các Ngài dùng tĩnh tọa thay cho giấc ngủ.
Chúng ta thường gọi là “bất
đảo đơn” (不倒單, chẳng ngả
ḿnh xuống giường), các Ngài dùng cách nhập Định
để khôi phục thể lực. Đúng là “buông xuống muôn duyên, chẳng
sanh một niệm”, hiệu quả c̣n thù thắng
hơn chúng ta ngủ nghỉ! V́ ngủ nghê sẽ hôn trầm,
nhập Định chẳng hôn trầm. Thất Giác Chi nhằm
điều chỉnh quư vị nhập Định, giúp quư vị
tiến nhập cảnh giới Thiền Định. Cảnh
giới Thiền Định là “Định
Huệ đẳng tŕ”, [tức là] Định và Huệ
là b́nh đẳng. Nếu Huệ nhiều hơn Định,
sẽ thấp thỏm, chao động. Nếu Định
nhiều hơn Huệ, sẽ hôn trầm. Đấy là hai
loại hiện tượng mà kẻ sơ học chẳng
có cách nào tránh được!
Do
vậy, biết chọn lựa pháp môn, ư nghĩa này sâu rộng
không ngằn mé. Trong quá tŕnh tu học cả đời của
chúng ta, nhất định phải biết căn tánh của
chính ḿnh, biết hoàn cảnh sống, hoàn cảnh học tập
của chính ḿnh, pháp môn nào sẽ thích đáng hơn! Trong
hoàn cảnh hiện thời, do chúng ta là căn tánh b́nh phàm,
Tŕ Danh Niệm Phật thuận tiện nhất, mà cũng
là nhanh chóng nhất, ổn thỏa thích đáng nhất, thù
thắng nhất, hăy chọn lựa pháp môn này. Sau khi đă
chọn lựa, đă chọn được pháp môn rồi,
tiếp đó là phải chọn lựa thầy. Chẳng
có một vị thầy giúp đỡ, chỉ đạo
quư vị, dẫu chọn đúng pháp môn cũng rất khó
thành tựu, cũng rất chẳng dễ dàng! Trong đời
này, chúng ta có thể thành tựu hay không, thầy có quan hệ
quá lớn! Đă có thầy, c̣n phải chọn lựa
đồng học, rất trọng yếu! Nếu có thầy
mà chẳng có đồng học, giống như quư vị
đi đường, trơ trọi một ḿnh chẳng
có bạn lữ, sẽ đi rất vất vả. Đồng
học rèn giũa, khích lệ lẫn nhau, trên đường
Bồ Đề có bạn. Thầy chỉ đường,
chẳng phải là người sẽ cùng đi với quư
vị. Đồng học cùng đi với quư vị, khác hẳn!
Chớ nên không biết điều này!
Điều
khác nữa là phải chọn lựa hoàn cảnh tu học,
cuộc đời mỗi người có phước báo
khác nhau, căn tánh không giống nhau, duyên phận chẳng giống
nhau! Do vậy, đều chẳng phải là chuyện dễ
dàng! Nếu thật sự là lợi căn, sẽ thuận
tiện hơn nhiều. V́ sao? Người ấy đạm
bạc, bẩm tánh nhu ḥa, chẳng tranh giành với kẻ
khác, chẳng cầu cạnh cơi đời. Bất luận
thuận cảnh hay nghịch cảnh, người ấy
đều có thể giữ ǵn thân tâm b́nh tĩnh. Đấy
là điều kiện tu đạo tốt nhất! Từ
hạng trung trở lên, tức là hạng căn tánh từ
bậc trung trở lên, nếu gặp vị thầy giỏi
giảng giải đạo lư này rơ ràng, minh bạch, người
ấy sẽ có thể nghe hiểu, có thể lư giải, y
giáo phụng hành. Đó là tốt, có thể nâng căn tánh từ
bậc trung lên cao hơn thành căn tánh thượng thượng.
Trong lịch sử, chúng ta thấy trường hợp này
rất nhiều!
V́
thế, người ta sống trong cơi đời, có rất
nhiều người hỏi tôi: “Cuộc sống trong thế
gian có ư nghĩa ǵ? Giá trị là ǵ?” Người hỏi rất
nhiều! Tôi cũng thật thà bảo họ: - Tôi cảm
thấy đời người có ư nghĩa nhất, có giá
trị nhất, chẳng phải là thăng quan, phát tài, chẳng
phải là hiện thời có địa vị, có quyền
thế trong xă hội. Chẳng phải vậy, mà là ǵ? Nâng
cao cảnh giới của chính ḿnh! Có thể không ngừng
nâng cao linh tánh của chính ḿnh. Điều ấy có giá trị
và ư nghĩa. Chúng ta biết con người chẳng phải
là [sống hết] một đời này rồi thôi, bất
cứ người nào cũng đều có quá khứ, có vị
lai. Quá khứ đă trôi qua, những nghiệp thiện hay
ác đă tạo tuy chính ḿnh không biết, quên bẵng rồi,
nhưng chủng tử tập khí ở trong A Lại Da chẳng
hề đứt mất. Nó không chỉ ảnh hưởng
đời này, mà c̣n ảnh hưởng đến đời
sau. Đấy là chuyện phiền toái, chớ nên không biết!
Đời này thời gian ngắn ngủi, dẫu sống
một trăm năm, khảy ngón tay đă qua, có ư nghĩa
ǵ chăng? Nhưng đời sau thời gian dài lâu, trong lục
đạo, trong bất cứ đường nào cũng đều
dài hơn trong loài người. Chúng ta chớ nên không biết
điều này!
Nhưng
có người sẽ hỏi, “thọ mạng của súc
sanh chẳng dài như con người”, nhất là chúng ta nói
đến những động vật bậc thấp, thọ
mạng của chúng nó chỉ có mấy tiếng đồng
hồ, đó gọi là “sáng sống,
tối chết” rất nhiều. Nói như thế nào?
Đức Phật bảo chúng ta: Những động vật
ấy ngu si, súc sanh ngu si. V́ thế, chúng nó có niềm chấp
trước kiên cố. Chúng chấp trước thân h́nh ấy
là chính ḿnh; do vậy, sẽ như thế nào? Sau khi đă
chết, lại đầu thai vào loài ấy! Như kiến
chết đi lại làm kiến. Trong kinh Phật, có một
câu chuyện: Thuở ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật ngự tại
Kỳ Thụ Cấp Cô Độc Viên. Khi đó, Kỳ Thụ
Cấp Cô Độc Viên đang xây cất. Thích Ca Mâu Ni Phật
thấy một tổ kiến; thấy xong, Ngài cười.
Những đệ tử vây quanh bèn hỏi đức Phật:
“Ngài thấy kiến có ǵ đáng cười?” Đức Phật
đáp: “Tổ kiến này, bảy đức Phật đă
xuất thế, đă qua hết rồi, mà chúng nó chẳng
ĺa thân kiến!” Chẳng phải là kiến có thọ mạng
dài ngần ấy! Bảy vị Phật xuất thế, thời
gian ấy dài lắm! Những con kiến ấy sau khi
đă chết, vẫn sanh làm kiến con trong tổ kiến
ấy. Đời đời kiếp kiếp đều
làm kiến, chẳng biết thoát ly thân kiến, [vẫn thuộc
vào] súc sanh đạo.
Đức
Phật nói lời ấy đă cảnh giác chúng ta rất lớn,
tức là chớ nên vào trong ba ác đạo. Vào rất dễ
dàng, thoát ra hết sức khó khăn. Quư vị nói trong súc
sanh đạo chẳng có giáo huấn của Phật, Bồ
Tát ư? Khẳng định là có. Chư Phật, Bồ
Tát đại từ đại bi, chúng sanh nào có cảm,
Ngài bèn ứng hiện, thị hiện nơi ấy.
Nhưng bọn chúng có niềm chấp trước kiên cố,
chẳng thể tiếp nhận chánh pháp. Vậy th́ thôi,
để cho chúng nó chịu khổ! Chịu khổ cho
đến khi nào chúng nó thật sự giác ngộ, đức
Phật mới có thể giúp được. Để từ
súc sanh lại biến thành người, cần phải tốn
thời gian rất dài, chẳng phải là rất đơn
thuần. Chúng ta phải nên hiểu điều này!
V́
thế, chẳng thể không Trạch Pháp cẩn thận, chuyện
này cần đến trí huệ. Chẳng có trí huệ, quư vị
sẽ chọn sai. Đối với trí huệ, bọn
sơ học như chúng ta chẳng có trí huệ, phải nương
tựa thầy, phải trông cậy thầy giúp đỡ.
Trí huệ chưa mở mang, chẳng thể rời khỏi
thầy! Trước kia, theo một vị thầy tu học,
khi nào sẽ tốt nghiệp, quư vị có thể xuất
sư. Trước kia gọi là “xuất sư”, nay gọi
là “tốt nghiệp”. Khi nào có thể xuất sư? Quư vị
có trí huệ, có năng lực phân biệt chân, vọng, tà,
chánh, đúng, sai, thiện, ác, lợi, hại. Có năng lực
phân biệt, thầy sẽ gật đầu: “Con có thể
tốt nghiệp”. Chẳng có năng lực ấy, chẳng
thể tốt nghiệp. V́ thế, có người theo thầy
suốt đời, có người theo thầy hai ba
mươi năm, chẳng giống nhau! Đương
nhiên cũng có người rất thông minh, trí huệ, thời
gian [theo thầy] ngắn ngủi, ba năm hoặc năm
năm sẽ rời thầy. Nhưng chúng ta thấy những
người theo thầy hai, ba mươi năm, thậm
chí suốt đời chẳng rời khỏi thầy, chỗ
nào cũng có! Sợ lạc lối mà!
Tinh
Tấn Giác Phần: “Tinh” (精) là chuyên nhất,
ṛng rặt, không xen tạp. Tấn chứ không thoái, quư vị
mới có tiến bộ. V́ thế, thêm vào Tinh Tấn. Đặc
biệt là trong tu đạo. Trong tu đạo, quan trọng
nhất là phải có năng lực phân biệt thị, phi,
thiện, ác, tà, chánh. Nếu ngay cả chuyện này mà chẳng
thể phân biệt, sự tu hành của quư vị quyết
định nẩy sanh chướng ngại. Người
thật sự dụng công thường lăng phí rất nhiều
thời gian để học tập những thứ khổ
hạnh vô ích, rất đáng tiếc! Đức Phật
tán thán khổ hạnh [khi những] khổ hạnh ấy
có thể giúp cho Giới, Định, Huệ của quư vị.
Nếu loại khổ hạnh ấy chẳng thể giúp
ǵ cho Giới, Định, Huệ, Phật pháp gọi nó là “khổ
hạnh vô ích”, chẳng có lợi ích, chớ nên không hiểu
điều này. Do vậy, nay chúng ta nói là đối với
hết thảy người, hết thảy sự, hết
thảy vật, đối với người, sự, vật,
đối với pháp thế gian, Phật pháp, tà, chánh, thị,
phi, thiện, ác, ắt cần phải có năng lực phân
biệt, sự tinh tấn của quư vị là giác chứ
không mê. Thế gian tinh tấn theo kiểu mê muội cũng
chẳng ít. Chúng ta phải tinh tấn giác. Bảy khoa ấy
đều là giác, phải tinh tấn giác, chớ nên tinh tấn
mê th́ mới có thể thật sự thọ dụng.
Chúng
ta tu Tịnh Độ, hy vọng là trong một đời
này có thể thành tựu, đấy là thù thắng khôn sánh.
Đúng như cư sĩ Bành Tế Thanh đă nói: “Một ngày hiếm có khó gặp
từ vô lượng kiếp đến nay”. Chúng ta trong
một đời này, hiếm có khó gặp từ vô lượng
kiếp đến nay, niệm Phật như thế nào th́
mới có thể văng sanh? Đấy mới là chuyện lớn
duy nhất của chúng ta trong một đời này, những
chuyện khác thảy đều chẳng khẩn yếu! V́
sao? Trong pháp thế gian, chẳng có một điều ǵ là
chân thật! Nho gia nói con người khi c̣n sống phải
lập công, lập đức, lập ngôn, chẳng sai!
Đó là dạy quư vị làm chuyện tốt, dạy quư vị
làm người tốt, trong việc giáo dục, nhất
định phải hiểu điều này. Bậc thánh hiền
dạy người, mục đích là dạy quư vị làm hảo
nhân, dạy quư vị làm thiện nhân, tuyệt đối
chẳng phải là dạy quư vị thăng quan, phát tài, chẳng
phải vậy! Chẳng phải là dạy quư vị
được tiếng tăm, lợi dưỡng, chẳng
phải là những thứ ấy. V́ sao? Thăng quan phát tài th́
trong mạng phải có. Vận mạng của quư vị chẳng
có chuyện ấy, sẽ chẳng cầu được.
Trong mạng đă có th́ nhất định sẽ có; trong mạng
chẳng có, chớ cưỡng cầu. Phải hiểu
đạo lư này. Nay đă hết thời gian rồi, chúng
ta nghỉ ngơi mấy phút.
***
Chư
vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Chúng
ta lại xem tiếp điều thứ tư trong Thất
Giác Phần.
(Kinh)
Hỷ Giác Phần.
(經)喜覺分。
(Kinh:
Hỷ Giác Phần).
Hỷ
hết sức quan trọng. Cổ ngạn ngữ có câu: “Nhân phùng hỷ sự, tinh thần
sảng” (Người gặp chuyện vui, tinh thần sảng
khoái). V́ thế, tôi nói Hỷ thật sự là chất bổ
dưỡng tốt nhất cho đời người. Bất
luận đối với thân thể, đối với
dung mạo, hay đối với tinh thần, đều là
hết sức hoàn thiện, hoàn mỹ. Bất luận là
pháp thế gian hay Phật pháp, phàm là tu học khế nhập
cảnh giới, sẽ đều hiểu được.
Người hiện thời nói “hoan hỷ” là “có cảm giác thành tựu”. Người
ấy học tập thứ ǵ đó có thành tựu, đặc
biệt là nắm được thành tích rất khả
quan, Phật pháp gọi là “pháp
hỷ sung măn”. Đối với Nho gia, quư vị xem câu
đầu tiên trong Luận Ngữ. Câu đầu tiên đă
nói về vấn đề ấy: “Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt
hồ” (Học rồi thường tập luyện,
cũng chẳng vui sao). Ở đây, chúng ta gọi Duyệt
là Hỷ Giác Phần, Phật pháp nói là “pháp hỷ sung măn”, lẽ đâu tinh thần
người ấy chẳng tốt đẹp ư?
Người
thế gian từ tuổi trung niên trở lên, đều rất
coi trọng sức khoẻ bản thân. Thật đấy!
Đối với tuổi trung niên trở lên, phước
báo là ǵ? Khỏe mạnh là phước. Dẫu quư vị có
địa vị cao tới đâu đi nữa, lại có
quyền thế to lớn, lại giàu có, nhưng thân thể
chẳng khỏe mạnh, đấy chẳng phải là
phước! Thuở trước, tôi ở Đài Loan. Tại
Đài Loan, mọi người biết có một ông vua khai
thác quặng than tên là Lư Kiến Hưng, tôi và ông ta rất
thân thuộc. Tuổi già, ông ta mắc chứng si ngốc của
người già (Alzheimer's disease), mười
mấy năm nằm bẹp trên giường. Đấy
thật sự là hưởng phước! Mỗi ngày có ba
nhóm y tá trông nom, chưa tắt thở [thế mà đối
với] con cháu trong nhà và thân nhân [ông ta] đều chẳng
nhận biết. Kiểu ấy có thể coi là phước
báo hay không? Có thể coi là hưởng phước ư?
Người
con dâu thứ hai của ông ta là Phật tử kiền thành,
từng đến hỏi tôi làm thế nào để giúp bố
chồng. Tôi nói: - Phương pháp th́ có, nhưng người
nhà của bà sẽ không tiếp nhận. Phương pháp ǵ
vậy? Trong Phật pháp đă nói rất rơ ràng, “tu phước”!
Tu phước là bố thí cúng dường. Trong nhà bà có của
cải, hăy làm nhiều sự nghiệp phước lợi
xă hội ḥng giúp đỡ những kẻ khổ nạn.
Ngạn ngữ có câu: “Xả
tài tiêu tai”. Bà thấy tiền thuốc thang của bố
chồng mỗi năm tốn kém cỡ nào! Bà có thể
quyên tặng món chi phí thuốc men ấy, sẽ sanh ra hai loại
hiệu quả đối với lăo nhân gia:
1)
Một là nếu ông ta c̣n có thọ mạng, sẽ dần dần
khỏe mạnh, khoẻ mạnh bèn khôi phục, xả tài
tiêu tai đấy!
2)
Nếu chẳng có thọ mạng, ông ta sớm ra đi. Khi
ra đi, mọi người đều b́nh an. Người
già trong nhà ngă bệnh lâu năm, cả nhà đều mệt
nhọc. Người ấy chẳng có thọ mạng,
nhưng có ǵ? Người ấy chưa hưởng hết
phước báo; v́ thế, nằm ở đấy hưởng
phước, tiêu tiền tại đó. Người ấy
dùng chưa hết tiền mà! Đạo lư là như thế
ấy. Nếu quư vị thật sự nghĩ thông suốt,
hăy ngẫm xem, một năm phải tốn tiền nhiều
ngần ấy, mười năm sẽ cần phải tốn
bao nhiêu? Quư vị hăy dùng món tiền ấy làm chuyện tốt.
Nhưng người trong nhà không tin, bà chỉ có một
ḿnh, nói sẽ không suông. Đành phải để mặc
ông ta, chính ḿnh niệm Phật, mỗi ngày đều hồi
hướng cho ông ta. Trừ việc này ra, chẳng giúp ǵ
được!
Hỷ
Giác Phần rất trọng yếu. Bất luận là pháp
thế gian hay Phật pháp, Hỷ là chánh pháp, chẳng phải
là tà pháp. Đọc sách thánh hiền, đạt được
pháp hỷ th́ là chánh pháp. Học Phật, đạt
được pháp hỷ th́ là chánh pháp. Trong ấy, chẳng
có tác dụng phụ. Hiện thời, người thế
gian hằng ngày t́m kiếm hỷ lạc, toàn là những thứ
phản diện! Nay đă gần Tết, chúng tôi nghe nói mọi
người (các đồng học kể với tôi) cuồng
hoan. Cuồng hoan là hỷ, bất giác! Người ấy
chẳng phải là Hỷ Giác Phần, mà là Hỷ Mê Phần,
mê hoặc, điên đảo, chẳng giác ngộ. Trong ấy
có tác dụng phụ. Trong cơn cuồng hoan, tạo ra rất
nhiều tội nghiệp, là giảm phước, chẳng
phải là tăng phước. Chúng ta chớ nên không hiểu
minh bạch những chuyện này. Đức Phật dạy
chúng ta, khi hôn trầm, hăy dùng ba pháp ấy để đối
trị. Trong khi chúng ta phập phều, thấp thỏm,
trong phần sau có ba phương pháp dùng để đối
trị thấp thỏm, xáo động. Thứ nhất là
Khinh An, tức là Khinh An Giác Phần. Trong kinh này, nó
được gọi là:
(Kinh)
Y Giác Phần.
(經) 猗覺分。
(Kinh:
Y Giác Phần).
Chư
vị phải biết Y Giác Phần chính là Khinh An Giác Phần.
Chúng ta phải nhận biết rơ ràng chữ này. “Y” (猗) có ư nghĩa mềm mỏng, nhu thuận,
mang ư nghĩa nhu ḥa. Thông thường, đều dịch
là Khinh An, [Y và Khinh An] có ư nghĩa giống nhau. Đoạn
trừ những phiền năo thô nặng nơi thân và miệng,
ăn nói nhu ḥa, hành vi ổn trọng. Như thế th́ quư vị
sẽ tự nhiên xa ĺa phiền năo, hiển lộ nhu ḥa, xa
ĺa thô bạo. Đấy là trong cuộc sống hằng
ngày, các đồng học, kể cả bản thân chúng tôi,
phải thời thời khắc khắc phản tỉnh.
V́ sao? Những tật xấu ấy thường phạm,
nhất là ngôn ngữ. Ngôn ngữ bất tri bất giác thô bạo,
hữu ư hay vô t́nh, rốt cuộc là do nguyên nhân nào? Chúng ta biết
[những tật xấu ấy do] phiền năo tập khí tạo
thành, do từ bé chẳng được học giáo dục
của thánh hiền. Chẳng thể trách chúng ta được!
Trong kinh Vô Lượng Thọ, đức Phật đă nói
rất hay: “Tiên nhân vô tri, bất
thức đạo đức, vô hữu ngữ giả”
(Người đời trước vô tri, chẳng biết
đến đạo đức, không có ai nói cho). Đức
Phật nói hay quá!
Chúng
ta thoát ĺa giáo dục của thánh hiền, tối thiểu
đă ba thế hệ, chẳng phải là thời gian ngắn
ngủi. Ba thế hệ sẽ có thể khiến cho chuyện
này bị quên sạch sành sanh! Nay chúng ta từ nhỏ đến
lớn chẳng tiếp nhận gia giáo, giáo dục trong nhà
trường và giáo dục trong xă hội! Mọi người
càng thấy rơ ràng hơn, chẳng cần phải nói nữa.
Do vậy, dưỡng thành những tập khí tật xấu
ấy. Hiện thời, người học Phật tiếp
nhận giáo huấn của thánh hiền. Sau khi đă tiếp
nhận, chúng ta phải nghiêm túc học tập, phải nghiêm
túc sám hối, sửa ác, hướng lành. Các tôn giáo b́nh phàm
nói “như vậy th́ mới có
thể cứu”. Do đó, giáo dục nhân quả hết sức
trọng yếu. Nếu ai có thể tin tưởng giáo dục nhân quả, người ấy
c̣n được cứu, có thể đắc độ.
Quư vị thấy tiên sinh Viên Liễu Phàm và tiên sinh Du Tịnh
Ư đă quay đầu. Quay đầu từ chỗ nào? Nói
thật ra, đều là từ nhân quả mà quay đầu!
Tại
Trung Hoa, từ xưa tới nay, giáo dục nhân quả
được giảng dạy bởi miếu Thành Hoàng.
Tôi thường nói, dân tộc Trung Hoa chống chọi
năm ngàn năm, chẳng đọa lạc, chẳng bị
biến mất trên thế gian này, dựa vào đâu? Dựa
vào giáo dục. Ba thứ giáo dục, từ bé là gia giáo, do
cha mẹ biểu hiện giáo dục luân lư, tức là Đệ
Tử Quy. Đệ Tử Quy là thân giáo của cha mẹ
đối với con cái. Cha mẹ đều làm được,
trẻ nhỏ nh́n vào cha mẹ từ bé. Trên làm, dưới
học theo, vun quén bền vững căn cội, nó học
hiểu. Giáo dục trong nhà trường là giáo dục đạo
đức, do Phu Tử đề xướng (Khổng Tử
đề xướng). Bốn khoa mục giáo học của
Khổng Tử, thứ nhất là đức hạnh, tức
giáo dục đạo đức, thứ hai là ngôn ngữ, thứ
ba là chánh sự[5],
thứ tư là văn học. Văn học xếp cuối
cùng. Trong Đệ Tử Quy, có nói [chuyện này]. Thật
ra, [câu ấy] trong Đệ Tử Quy chính là một câu nói
của Phu Tử trong Luận Ngữ: “Quư vị có dư sức th́ mới có thể học
văn”. Ba chuyện trước quư vị đều phải
làm được th́ mới có thể học
những thứ văn nghệ. Chẳng làm được
ba thứ trước, không được rồi! Ba thứ
trước chính là chánh sự. Loại thứ ba là giáo dục
nhân quả.
....Từ xưa tới nay, đă được
hun đúc bởi ba thứ giáo dục ấy. Ba thứ giáo
dục ấy hết sức phổ biến. Quư vị thấy
mỗi huyện thị đều có từ đường,
từ đường dạy luân lư, dạy
hiếu đễ, đều có Khổng miếu, Khổng
miếu dạy đạo đức, ngũ luân, bát đức.
Hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ,
trung, hiếu[6], nhân,
ái, tín, nghĩa, ḥa b́nh, Nho gia dạy những điều ấy.
Cũng chớ nên xem thường miếu Thành Hoàng. Miếu
Thành Hoàng dạy nhân quả.
Gần
đây nhất, vào thời đầu Dân Quốc, Ấn
Quang đại sư đă thấy rơ
ràng. Ngài là bậc tổ sư lỗi lạc của Tịnh
Độ Tông, suốt đời gần như toàn tâm toàn
lực đề xướng giáo dục nhân quả. Ngài
cũng đề xướng Nho và Phật, nhưng chẳng
tích cực bằng giáo dục nhân quả, do nguyên nhân nào? Thế
giới đă loạn, giáo dục luân lư tuy tốt
đẹp, phải tốn thời gian rất dài, chẳng
cứu nạn gấp được! Giáo dục Phật
pháp tuy tốt đẹp, cũng phải tốn một thời
gian dài hun đúc, chẳng thể cứu chữa trong khi cấp
bách. Để cứu chữa trong lúc gấp rút, chỉ có
nhân quả. Nếu ai nấy đều liễu giải lư
luận và chân tướng sự thật nhân quả, tôi tin
là khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác của
họ sẽ có thể tự nhiên thâu liễm, đạo
lư ở chỗ này.
V́
thế, lăo nhân gia đề xướng ba bộ sách, Liễu
Phàm Tứ Huấn, Cảm Ứng Thiên Vựng Biên, An Sĩ
Toàn Thư, suốt đời đề xướng ba quyển
sách ấy. Ba thứ ấy vốn là giáo dục nhân quả,
Ngài in tặng với số lượng lớn. Nhưng ba
quyển sách ấy đều viết bằng Văn Ngôn,
hiện thời mà in tặng với số lượng lớn,
người ta đọc sẽ không hiểu. Viết vào thời
lăo nhân gia, gần như là một trăm năm trước,
thuở ấy, người đọc sách vẫn c̣n đọc
Văn Ngôn, chẳng có vấn đề ǵ, có thể lưu
thông. Hiện thời, tŕnh độ tiếng Hán thông
thường đă đọa lạc ngàn trượng! [Người
thông thường] đọc ba quyển sách ấy sẽ không
hiểu! Chúng ta suy tưởng nỗi khổ tâm của tổ
sư, nỗi khổ tâm cứu đời, đối với
người Hoa mà nói, chính là cứu văn quốc gia, dân tộc,
khiến cho truyền thống năm ngàn năm chẳng
đến nỗi bị gián đoạn, phải nhờ
vào những thứ ấy để cứu tế. Do vậy,
chúng ta thấu hiểu nỗi khổ tâm và dụng ư của
tổ sư, làm thế nào để phát huy rạng rỡ
phổ biến giáo dục nhân quả? Vẫn là do ba quyển
sách của Ngài! V́ thế, chúng tôi đă nghĩ: Hiện thời,
phổ biến nhất là phim truyện nhiều tập, tôi
bèn lớn tiếng hô hào quay ba cuốn sách ấy thành phim
truyện nhiều tập.
Phim
truyện nhiều tập Liễu Phàm Tứ Huấn gồm
hai mươi tập, đại khái là trong tháng Hai, hoặc
tháng Ba năm sau, sẽ có thể phát hành, đài truyền
h́nh có thể phát sóng. Tiếp đấy, c̣n có Du Tịnh Ư
Ngộ Táo Thần Kư gồm sáu tập, gộp chung với
phim trước bèn có tất cả hai mươi sáu tập,
được lắm! Tiếp đó, chúng ta c̣n phải
làm, Thái Thượng Cảm Ứng Thiên ba mươi tập,
An Sĩ Toàn Thư ba mươi tập. An Sĩ Toàn Thư
có tất cả bốn bộ phận, nay chúng ta xem xét: Dục
Hải Hồi Cuồng răn dâm, Vạn Thiện Tiên
Tư răn giết, Văn Xương Đế Quân Âm Chất
Văn có tánh chất chẳng khác Cảm Ứng Thiên cho mấy.
Chuyện nhân quả báo ứng trong ấy rất nhiều,
có thể quay thành ba mươi tập, lưu thông toàn thế
giới. Đó là hoằng nguyện cứu đời của
tổ Ấn Quang. Chúng ta kế thừa giáo huấn của
tổ sư, nhất định phải toàn tâm toàn lực
thúc đẩy.
Trừ
chuyện này ra, tôi thỉnh thầy Giang Dật Tử vẽ
một bức Địa Ngục Biến Tướng
Đồ[7], rất nhiều
đồng học đă thấy bức vẽ ấy.
Địa Ngục Biến Tướng Đồ thuộc
về bộ phận quan trọng nhất trong sự giáo dục
nhân quả của miếu Thành Hoàng, tức là Diêm
Vương Điện. Tôi tiếp nhận sự giáo dục
ấy, ấn tượng khắc họa hết sức
sâu xa, ảnh hưởng suốt đời, tôi biết chỗ
hay của nó. Thuở bé, trước khi lên mười, hằng
năm mẹ tôi sẽ có vài lần đến dâng
hương tại miếu Thành Hoàng. Khi cụ dẫn anh em
chúng tôi đến miếu Thành Hoàng dâng hương, sẽ
đến xem Diêm Vương Điện, cụ sẽ bảo
chúng tôi: “Làm chuyện xấu như thế nào, các con thấy
sẽ chịu quả báo như thế ấy! Núi đao, rừng
kiếm, vạc dầu”. Khắc họa ấn tượng
hết sức sâu đậm! Suốt đời, khởi
tâm động niệm chẳng dám hại người, hữu
ích rất lớn trong việc học Phật. Trong một
đời, xử sự, đối đăi với người
khác, luôn luôn là nhường nhịn, chưa từng cạnh
tranh cùng người khác, luôn nhường nhịn. Nhưng
rất lạ lùng, càng nhường càng thù thắng, mới
thật sự hiểu lời cổ nhân dạy: “Ngật khuy thị phước”
(Bị thua thiệt là phước). Bị thua thiệt
chẳng phải là thật sự bị thua thiệt, mà là
có phước về sau. “Nan
đắc hồ đồ” (Hồ đồ khó có). Hai
câu ấy rất có lư. Chúng tôi đă thể nghiệm trong
đời này. V́ thế, đối với những lư luận
và sự thật này, tin sâu, chẳng nghi!
Hiện
thời, tôi không chỉ giới thiệu điều này với
các đồng học, trong nhiều trường hợp,
tôi c̣n giới thiệu [vấn đề này] với khá nhiều
học giả nổi tiếng trên quốc tế. Mở
Địa Ngục Biến Tướng Đồ ra xem, họ
đều rất hoan hỷ, tác phẩm nghệ thuật,
đáng giá để ǵn giữ. Hiện thời, chúng ta
đă làm thành đĩa CD, rất thuận tiện, giá thành
lại rất thấp, vừa có văn tự, lại vừa
có lời thuyết minh. Như trong dịp Tết, người
nhà quư vị xem đĩa CD ấy, xem Liễu Phàm Tứ Huấn,
sẽ thật sự đạt được lợi ích,
đó là đại phước báo, khiến cho quư vị
thân tâm an ổn, chắc chắn chẳng giống những
thứ giải trí thông thường, quư vị sẽ được
hưởng lợi ích thật sự. V́ thế, chúng ta thời
thời khắc khắc đều được khinh an.
Đó là sự thọ dụng chân chánh. Điều kế
tiếp là…
(Kinh)
Định Giác Phần.
(經)定覺分。
(Kinh:
Định Giác Phần).
Bất
luận Phật pháp hay pháp thế gian đều rất coi
trọng chữ này. Đối với phương pháp tu học
trong Nho gia, bộ sách chỉ đạo cao nhất là Đại
Học. Đại Học là phương pháp, Trung Dung là lư
luận. Sách Đại Học mở đầu bằng
câu: “Tri chỉ nhi hậu hữu
định” (Biết trụ nơi chí thiện th́ sau
đó sẽ có Định), rất coi trọng, nói rất
hay. Nhà Phật chẳng nói “tri
chỉ”, nhưng Phật pháp dạy mọi người
hăy buông xuống. “Tri chỉ”
và “buông xuống” tuy nói khác nhau, nhưng ư nghĩa như
nhau. Định là chân tâm, tương phản của Định
là loạn. Hễ loạn, sẽ suy nghĩ lung tung; đó
là vọng tâm. Làm thế nào để trừ bỏ vọng
tâm, khôi phục chân tâm? Chân tâm sanh ra trí huệ. Do vậy, ba
thứ Vô Lậu Học trong Phật pháp, nhân Giới sanh
Định, nhân Định khai Huệ, Huệ mới có thể
giải quyết vấn đề. Trong ấy, Định
là then chốt. Chúng ta tŕ giới, v́ sao tŕ giới? Tŕ giới
v́ nó giúp đắc Định. Giới là buông xuống, là “tri chỉ” như sách Đại
Học đă nói, sau đấy mới có Định. “Định nhi hậu năng tĩnh,
tĩnh nhi hậu năng an, an nhi hậu năng lự, lự
nhi hậu năng đắc” (Sau khi đă định bèn có thể tĩnh. Sau khi
đă tĩnh bèn có thể an. Sau khi đă an có thể tư
duy. Sau khi đă tư duy bèn có thể đạt được).
Trong
Phật pháp, tiếng Phạn gọi Định là tam-muội.
Tam-muội dịch sang nghĩa tiếng Hán là Định,
hoặc dịch là Thiền Định, c̣n dịch là Chánh
Thọ. Tam là Chánh, Muội là Thọ. Dịch theo ư nghĩa th́
là Chánh Thọ. Chánh Thọ là sự hưởng thụ chánh
đáng. Sự hưởng thụ chánh đáng chính là chân
tâm hiện tiền. Vọng tâm chẳng phải là sự
hưởng thụ chánh đáng; trong vọng tâm có quá nhiều
tạp niệm. Người nào có Chánh Thọ? Nay nói là
người tu hành công phu thật sự đắc lực sẽ
có Chánh Thọ, chẳng có tạp niệm, chẳng có loạn
tưởng. Do vậy, tâm người ấy là Định.
Khi niệm Phật đến lúc công phu thành thục, chẳng
sanh vọng niệm, trong mười hai thời đều
có thể tương ứng với Phật hiệu. Trong mỗi
niệm đều là một câu Phật hiệu, tâm người
ấy là Định, tâm thanh tịnh. Bất luận cảnh
giới nào hiện tiền, thuận cảnh hay nghịch cảnh,
người ấy đều là một câu “nam-mô A Di Đà Phật”. Đấy là chánh xác, là Niệm
Phật tam-muội. Chánh Thọ là do từ niệm Phật
mà có.
Nói
theo Phật pháp, Niệm Phật tam-muội thù thắng khôn
sánh, là vua trong các tam-muội, dễ tu hơn các tam-muội
khác! Chỉ cần quư vị chịu niệm, khi niệm
bèn buông xuống muôn duyên. Buông xuống muôn duyên chính là “tri chỉ”, biết hết thảy
các pháp thế gian và xuất thế gian đều chẳng
chân thật. Chỉ có Niệm Phật tam-muội là chân thật,
quư vị có thể mang theo được; tất cả hết
thảy các pháp khác trong thế gian này đều chẳng thể
mang theo. Chẳng thể mang theo th́ là không thật. Thứ
không mang theo được, hăy sớm buông xuống! Chớ
nên chờ đến lúc ta lâm chung mới buông xuống.
Đến khi ấy chẳng kịp, lúc lâm chung chưa chắc
đă chịu buông xuống. Không buông xuống được,
vẫn phải luân hồi trong lục đạo y như
cũ! V́ thế, phải buông xuống trong hiện tiền,
chớ nên chấp trước nữa. Sống như thế
nào? Tùy duyên. Tùy duyên là sung sướng nhất, chớ nên
phan duyên. Phan duyên là ta muốn làm như thế này, như thế
nọ, đó là phan duyên. Tùy duyên là chẳng có ư nghĩ của
riêng ḿnh, tùy thuận đại chúng, tùy thuận hoàn cảnh,
chẳng có ǵ không tốt, điều này nghĩa là sao? Quư vị
thảy đều chẳng phân biệt, không chấp
trước, [mọi thứ] sẽ đều tốt
đẹp. Hễ có phân biệt, có chấp trước, sẽ
c̣n có cảnh ngộ tốt, xấu. Chẳng có tốt, xấu,
vậy là chẳng có ǵ không tốt, sẽ hữu ích rất
lớn cho việc tu hành. Trong nghịch cảnh, học chẳng
sân khuể. Trong nghịch cảnh, chẳng sanh sân khuể.
Trong thuận cảnh, chẳng khởi tham ái. Đấy
đều là tu hành.
Đức
Phật dạy chúng ta: “Siêng tu
Giới, Định, Huệ, dứt diệt tham, sân, si”.
Chúng ta dùng một câu Phật hiệu để diệt dứt
tham, sân, si, điều này là trọng yếu. Phàm thánh sai
khác ở chỗ thánh nhân chẳng có tham, sân, si, các Ngài có Giới,
Định, Huệ. Phàm phu chẳng có Giới, Định,
Huệ, chỉ có tham, sân, si. Tham, sân, si th́ sẽ phải
luân hồi trong lục đạo. Giới, Định, Huệ
sẽ liễu sanh tử, thoát tam giới. Do vậy, người
niệm Phật phải ghi nhớ, đức Thế Tôn dạy
chúng ta tŕ giới, niệm Phật. Trong kinh giáo, đă có dạy:
Đức Phật chẳng tại thế, hăy lấy giới
làm thầy, lấy khổ làm thầy. Chẳng sợ chịu
khổ, chúng ta chịu khổ, chịu nạn, đời
này thấm vào đâu? Thời gian rất ngắn, hăy nên chịu
khổ. Thường chịu khổ, quư vị sẽ chẳng
sanh ḷng tham luyến đối với thế gian này. Nếu
phước báo to lớn, người hầu đông đảo,
quư vị sẽ chẳng mong muốn ĺa khỏi thế
gian, sẽ dấy lên tham tâm, sẽ sanh phiền năo. V́ thế,
cuộc sống thanh bần một chút sẽ tốt
hơn!
Hiện
thời đă là Tết rồi, người Hoa coi trọng
[Tết] âm lịch. Bữa cơm Giao Thừa, quư vị thấy
đều là một bàn đầy ắp mười mấy
món ăn, tôi thấy có khi hai mươi mấy món! Chúng ta người
học Phật, người học Phật nhiều nhất
là sáu món, không c̣n phải so đo nữa! “Tam đức lục vị”, thông thường,
khi chúng ta dùng cơm, nói thật ra, ba món cũng rất
được, tối đa th́ chẳng thể nhiều
hơn sáu. Chúng ta cúng Phật, cúng Phật là “ba đức, sáu vị”. Cúng Phật tối thiểu
là ba món ăn, tối đa là sáu món đồ ăn. Chúng ta
phải học theo Phật, đừng học theo phàm nhân.
Hiện thời, trên quốc tế, tôi thường tham gia
các hội nghị quốc tế, những bữa tiệc
trong những hội nghị quốc tế và quốc yến
đều là ba món đồ ăn. Tôi đă tham dự bữa
tiệc của tổng thống Bố Hy (George Bush), tiệc
tối cũng là ba món ăn, “ba
đức, sáu vị”. Nhưng tiệc tùng của
người Hoa có quá nhiều món ăn, không chỉ là ba món.
Gần như là tôi tham dự quốc yến chánh thức tại
Nhân Dân Đại Hội Đường ở Bắc Kinh,
tôi theo phái đoàn tôn giáo Nam Dương viếng thăm
Trung Hoa, dường như là có sáu, bảy món ăn. Đấy
là chuyện cần phải biết trong việc học Phật
hiện thời.
Khoa
học kỹ thuật tiến bộ, tài nguyên phong phú
hơn xưa kia, nhưng đối với chuyện ăn
uống, chúng ta vẫn phải tiết kiệm, kiên tŕ ăn
chay. Ăn chay chắc chắn có lợi cho sức khỏe,
chẳng gây hại. Khi tôi mới học Phật, rất
nhanh chóng chọn lựa ăn chay. Tôi học Phật nửa
năm bèn ăn chay trường. Khi ấy, tôi vẫn c̣n
đi làm. Cấp trên, bạn bè, bạn học thấy tôi
như vậy, quở: “Sao mà ngươi mê tín quá vậy? Học
Phật th́ được, ăn chay chớ nên! Chẳng
đủ dinh dưỡng!” Tôi vẫn kiên tŕ như cũ.
Thuở ấy, tôi cũng rất cẩn thận, mỗi nửa
năm đi khám sức khỏe toàn thân một lần. Kiểm
nghiệm thấy rất b́nh thường, tôi tiếp tục
kiên tŕ. Đại khái là thời gian ba năm như vậy,
sau này trở thành thói quen. Tôi ăn chay năm mươi bốn
năm, mọi người thấy h́nh dáng của tôi hiện
thời cũng đều rất hoan hỷ, thân thể chẳng
suy yếu hơn người ăn thịt, ngược lại
c̣n khỏe hơn họ. Do vậy, h́nh tượng này
đă độ chẳng ít người. Rất nhiều bạn
bè ngoại quốc nói: “Thưa pháp sư! Thân thể thầy
khá lắm (họ nghe nói tôi đă lớn tuổi như vậy),
thầy bảo dưỡng như thế nào?” Tôi bảo họ:
“Có hai phương pháp, một là ăn chay, hai là tâm thanh tịnh”.
Tôi nói: “Chẳng có ǵ khác, sống đơn giản, công việc
cũng đơn giản, hằng ngày đọc kinh, dạy
học. Trừ những điều ấy ra, tôi chẳng
quan tâm chuyện ǵ cả! Buông xuống muôn duyên, nhất tâm
niệm Phật, đạo dưỡng sanh tự nhiên ở
ngay trong ấy”. V́ thế, cái tâm phải Định.
Theo
đuổi học vấn thế gian hay xuất thế
gian, tu đạo mà mong thành tựu, quư vị thấy Tam Tự
Kinh đă dạy, đều là giáo huấn của cổ
thánh tiên hiền: “Giáo chi đạo,
quư dĩ chuyên” (Đạo dạy dỗ, chú trọng
nơi chuyên nhất). Chớ nên tạp, học quá nhiều,
không được! Thâm nhập một môn, huân tu lâu dài
đến một mức độ nhất định, sẽ
là Định. Định có thể khai trí huệ. Sau khi
đă khai trí huệ, hễ tiếp xúc bèn thông suốt. Cổ
đức nói chẳng sai: “Một
kinh thông, hết thảy các kinh đều thông”. Chúng ta
tu học, thông suốt một pháp môn, tất cả các pháp
môn đều thông suốt. Một kinh đă thông, ngàn kinh
muôn luận đều thông. Một pháp môn đă thông, tám vạn
bốn ngàn pháp môn đều thông, đó gọi là “tiệp kính” (捷徑, đường
tắt). Kỵ nhất là quư vị học cho lắm vào, học
rất tạp, chẳng khai trí huệ! Kiến thức
phong phú mà chẳng khai trí huệ, sẽ chẳng thể giải
quyết vấn đề. Để giải quyết vấn
đề, phải cậy vào trí huệ chân thật, chúng ta
chớ nên không biết điều này! Người liễu
giải chuyện này rơ ràng nhất chính là cổ thánh tiên hiền,
chư Phật, Bồ Tát, các Ngài đă liễu giải.
Điều cuối cùng…
(Kinh)
Xả Giác Phần.
(經)捨覺分。
(Kinh:
Xả Giác Phần).
“Xả” là khi bỏ cảnh giới
sở duyên, có thể khéo hiểu cảnh giới lấy
hay bỏ đều là hư ngụy, sau đó, chẳng có
hối hận. Xả là buông xuống, biết trong cuộc
sống hằng ngày, những cảnh giới sở duyên, nói
thông thường là cảnh giới nhân sự, cảnh giới
vật chất, đều là hư huyễn, chẳng thật.
Đấy chính là như kinh Bát Nhă đă nói: “Phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư
vọng”, chẳng thật. V́ thế, quư vị phải
buông xuống! Xả chẳng phải là không cần nữa.
[Nếu hiểu Xả là bỏ sạch, không làm ǵ cả], đă
sai mất rồi! Có rất nhiều người nghe chúng
tôi nói “buông xuống”, đă hiểu lầm, họ nhất
tâm nhất ư học Phật, buông luôn công việc, thôi việc,
chẳng cần làm việc nữa, gia đ́nh cũng chẳng
màng tới! Sau hai ba tháng, họ viết thư cho tôi, kể
lể: “Hiện thời, chẳng có thâu nhập, cuộc sống
nẩy sanh vấn đề, làm như thế nào đây?” Trong
bộ kinh nào đức Phật dạy quư vị chẳng
cần có nhà, chẳng cần làm việc? Đức Phật
chẳng hề dạy mọi người như vậy!
Đức Phật dạy quư vị xả, nghĩa là hăy
buông xuống vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước trong cái tâm, [xả là bỏ] những thứ ấy,
chẳng phải là buông hết mọi sự! Nếu buông hết
mọi sự, vậy th́ Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện
thành Phật, nhập Bát Niết Bàn, v́ sao Ngài c̣n phải vất
vả giảng kinh, thuyết pháp, giáo hóa chúng sanh suốt bốn
mươi chín năm? Như vậy chẳng phải là
đa sự hay sao? Do vậy, hễ nói đến Sự,
chẳng hề buông xuống! Sự có gây trở ngại
hay không? Chẳng gây trở ngại, Lư Sự vô ngại, Sự
Sự vô ngại. Sự vẫn làm, trong tâm chẳng vướng
mắc vết tích nào; đó gọi là Xả Giác Phần. Nếu
quư vị thảy đều bỏ sạch, vứt hết,
quư vị là bất giác, vẫn mê. Xả th́ phải giác, chớ
nên v́ mê mà xả, phải hiểu đạo lư này!
Nếu
là tại gia, hăy khéo học Phật. V́ lẽ này, trong những
năm qua, chúng tôi cực lực đề xướng
Đệ Tử Quy, đề xướng Thập Thiện
Nghiệp Đạo; đấy là ǵ? Căn bản để
làm người, căn bản để tu hành. Chẳng có
căn bản, sẽ giống như cất nhà mà chẳng
có nền móng. Làm sao quư vị có thể cất nhà thành công
cho được? Hơn nữa, Phật pháp là sư đạo,
nhất định phải hiểu điều này: Sư đạo
được kiến lập trên cơ sở hiếu
đạo. Bất hiếu với cha mẹ, làm sao có thể
tôn sư trọng đạo cho được? Kẻ tôn
sư trọng đạo, chẳng có ai không hiếu thuận
với cha mẹ. Sư đạo lấy hiếu đạo
làm cơ sở, dưỡng thành hiếu đạo là do gia
giáo. V́ thế, căn bản của giáo dục là gia
đ́nh. Chẳng có gia giáo, những loại giáo dục khác
đều chẳng có căn cội, rất khó thành tựu!
Hiện
thời, khoa học kỹ thuật phát triển, do các khoa học
gia chẳng có gia giáo về hiếu, đễ, trung, tín, họ
đă phát minh những thứ gây tổn hại cho con
người, đem lại những nỗi kinh hoảng cho
người khác. Có một lần, hội nghị ḥa b́nh quốc
tế mở tại Cát Long Ba (Kuala Lumpur), có rất nhiều
người hô hào, mong mỏi các nhà khoa học đừng
nên phát minh những vũ khí có tầm sát thương rộng
lớn nữa, đừng nên phát minh những thứ ấy,
mà hăy vận dụng khoa học kỹ thuật để tạo
phước lợi cho cuộc sống nhân dân nhiều hơn.
Như thế là tốt, chớ nên chế tạo những
vũ khí chiến tranh ấy. Vậy th́ phải xem các nhà
khoa học có thể tiếp nhận điều này hay
không? Nếu các nhà khoa học từ bé đă được
tiếp nhận sự giáo dục đạo đức và
luân lư hiếu thân tôn sư, chắc chắn là họ sẽ
không dám! Ở Trung Hoa, đă có tiền lệ. Cổ thư
Trung Hoa ghi chép vào đời Hán có người nghiên cứu
khoa học kỹ thuật. Vào thời Tam Quốc, Gia Cát
Lượng phát minh “mộc
ngưu, lưu mă” (trâu gỗ, ngựa máy), tức là
phương tiện vận chuyển được cơ
giới hóa. Nhưng trước khi chết, ông ta đă hủy
diệt toàn bộ kỹ thuật ấy, chẳng để
lại cho người đời sau. Có người cảm
thấy họ rất ích kỷ, chẳng chịu truyền
những thứ tốt đẹp cho người khác! Chẳng
phải vậy, họ thấy rất xa! Nếu những
thứ ấy lọt vào tay kẻ chẳng có luân lư, đạo
đức, sẽ đem lại tai nạn cho xă hội và
thế gian, chẳng phải là chuyện tốt đẹp.
V́ thế, thà chịu hủy diệt chúng, chẳng truyền
cho đời sau. Đấy là chịu trách nhiệm đối
với lịch sử, đối với đời sau,
đấy là hiệu quả được sanh bởi giáo
dục luân lư, đạo đức, chúng ta chớ nên không
biết. Hôm nay, chúng ta học Thất Giác Phần đến
chỗ này. Phần sau c̣n có Tam Không, chúng ta sẽ lại học
tập tiếp trong buổi học sau.
Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười
một, Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 11 hết
[1] Ngũ tạng:
Tim, gan, lá lách, phổi và thận.
[2] Lục phủ:
Sáu khí quan bên trong thân thể con người, bao gồm ruột
già, ruột non, bao tử, bàng quang, tam tiêu, và mật.
[3] Tức là
như trong phần trước đă nói:
- Uẩn thiện xảo,
Giới thiện xảo, Xứ thiện xảo, Duyên Khởi
thiện xảo là Thể của sự lưu chuyển.
- Tam giới thiện xảo
là nơi chốn lưu chuyển.
- Tam thế thiện xảo
là thời gian lưu chuyển.
[4] Đây là bản
Đại Tạng Kinh được ấn hành trong niên hiệu
Đại Chánh (niên hiệu của thiên hoàng Đại
Chánh (Taishō), con trai của thiên
hoàng Minh Trị (Meiji), tên thật là Gia Nhân (Yoshihito), làm vua
nước Nhật từ năm 1912 đến năm 1926), cho nên tạng
kinh này có danh xưng đầy đủ là Đại Chánh
Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taishō Shinshū Daizōkyō) do Đại
Chánh Nhất Thiết Kinh San Hành Hội ấn hành suốt
mười năm mới xong. Bộ kinh này dựa theo
Đại Tạng Kinh Trung Hoa, gồm một trăm tập,
có thêm những trước tác của luận sư Nhật
Bản, đặc biệt là có các tác phẩm của Nhật
Liên Tông (những tác phẩm của Nhật Liên Tông không
được Phật giáo Trung Hoa tán đồng v́ mang nhiều
tư tưởng quá khích, thiên kiến). Công tŕnh này do các học
giả như Takakusu Junjiro (Cao Nam Thuận Thứ Lang),
Watanabe Umiakira (Độ Biên Hải Húc)…
chủ tŕ. Thông thường, tạng Đại Chánh
được coi là tiêu chuẩn nhất v́ đă tổng hợp
các tạng kinh có trước đó từ Thục Bản
đời Tống, Tích Sa Tạng (đời Tống), Liêu
Tạng, Kim Tạng, Hoằng Pháp Tạng (đời
Nguyên), Bắc Tạng (đời Minh), Kính Sơn Tạng
(đời Minh) v.v… và có giảo chánh, đối chiếu với
âm tiếng Phạn.
[5] “Chánh sự” ở đây
được diễn giải là những kỹ năng cần
thiết để sinh tồn trong xă hội, những kỹ
năng nghề nghiệp v.v… Hay nói rộng hơn là huấn
luyện năng lực để có thể kiếm sống
bằng một nghề.
[6] Đây không phải
là lỗi typo. Ḥa thượng nói gộp nhiều khái niệm
với nhau, tám chữ “trung, hiếu,
nhân, nghĩa, tín, nghĩa, ḥa, b́nh” được gọi
là bát đức.
[7] Biến
Tướng (變相) là một từ
ngữ dịch nghĩa chữ Phạn Parinama, có nghĩa là
“chuyển biến, chuyển hiện”, hàm nghĩa: Thể
hiện những câu chuyện, thí dụ, luân lư, sự
tướng trong Phật giáo bằng những h́nh tướng
cụ thể như một phương tiện giáo dục
trực quan. Biến Tướng bao gồm hội họa,
điêu khắc hay kiến trúc. Biến Tướng Đồ
tức là h́nh thức tạo tác Biến Tướng bằng
tranh vẽ. Trong một chừng mực nào đó, các bộ
Mạn Đà La cũng có thể coi như là Biến Tướng
Đồ.