Đại
Phương Quảng Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ
mười một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 12
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh
Không
Địa điểm: Hương Cảng
Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ ngày mồng Bảy
tháng Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ
tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ
Trang và Minh Tiến
Tập 1485
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin
xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười một,
đoạn thứ sáu trong phần trường hàng. Chúng
tôi đọc kinh văn một lượt để quư vị
ḍ cho đúng chỗ.
(Kinh) Vân hà thiện
tu tập Niệm Giác Phần, Trạch Pháp Giác Phần, Tinh
Tấn Giác Phần, Hỷ Giác Phần, Y Giác Phần, Định
Giác Phần, Xả Giác Phần, Không, Vô Tướng, Vô Nguyện?
(經)云何善修習念覺分。擇法覺分。精進覺分。喜覺分。猗覺分。定覺分。捨覺分。空。無相。無願。
(Kinh: Làm thế nào để
khéo tu tập Niệm Giác Phần, Trạch Pháp
Giác Phần, Tinh Tấn Giác Phần, Hỷ Giác Phần, Y Giác Phần,
Định Giác Phần, Xả Giác Phần, Không, Vô Tướng,
Vô Nguyện?)
Trong
lời Sớ, Thanh Lương đại sư đă bảo:
Mười chuyện được hỏi trong đoạn
này chính là…
(Sớ)
Tu Niết Bàn nhân, Thất Giác, Tam Không, Thập Địa
phẩm quảng thuyết.
(疏)修涅槃因,七覺三空,十地品廣說。
(Sớ: Cái nhân để tu Niết Bàn. Bảy Giác
Phần và ba món Không đă được nói chi tiết
trong phẩm Thập Địa).
V́ thế, ở đây Ngài chẳng
chú giải thêm, [v́] trong phẩm Thập Địa đă giảng
rất cặn kẽ. Trong phần trước, tôi đă giới
thiệu đại lược Thất Giác cùng chư vị.
Sau đấy là Tam Không, tức “Không,
Vô Tướng, Vô Nguyện”. Tam Không c̣n gọi là ba tam-muội,
ba Tam-ma-địa, ba Đẳng Tŕ, kinh Nhân Vương gọi
nó là Tam Không. Hữu Lậu Định được gọi
là “ba tam-muội”, chư vị
phải liễu giải chỗ này. Ba tam-muội là Tam Không,
hoặc Hữu Lậu Định. Nếu nói đến Vô
Lậu Định, sẽ gọi là Tam Giải Thoát Môn.
Hữu
lậu là ǵ? Vô lậu là ǵ? Kinh Hoa Nghiêm gọi Lậu là “vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước”. Nếu chẳng
đoạn những thứ ấy, bất luận là đối
với pháp thế gian hay pháp xuất thế gian, ta c̣n có chấp
trước, c̣n có phân biệt, c̣n khởi tâm động niệm,
ba thứ Tam-ma-địa này đều thuộc về Hữu
Lậu Định. Nếu đối với hết thảy
các pháp thế gian và xuất thế gian, vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước, chúng ta đều đă đoạn,
sẽ gọi là Tam Giải Thoát Môn, tức là ba thứ giải
thoát. Giải (解) là giải trừ, giải trừ ǵ vậy? Chẳng
có phiền năo! Chư vị phải hiểu, giáo pháp Đại
Thừa gọi chấp trước là Kiến Tư phiền
năo, phân biệt là Trần Sa phiền năo, vọng tưởng
là Vô Minh phiền năo. Giải trừ ba thứ phiền năo, đó
là thật sự giải phóng. Thoát (脫) là thoát ly. Không chỉ
là thoát ly lục đạo, [mà c̣n] vĩnh viễn thoát ly
mười pháp giới. V́ thế, gọi là ba món giải
thoát môn. Có tất cả ba loại, [nhằm đối trị]
ba loại đại phiền năo như chúng tôi vừa mới
nói.
Không
tam-muội tương ứng với hai hành tướng
Không và Vô Ngă trong Khổ Đế. Tam-muội (Samādhi) là tiếng
Phạn, Không là tiếng Hán. V́ thế, danh từ này
được gọi là “Phạn
Hoa hợp dịch”. “Không”
là Hoa văn, Tam-muội là Phạn văn, danh từ này được
hợp thành như thế đó. Tam-muội là dịch âm
(phiên âm), dịch theo nghĩa sẽ là Chánh Thọ. Tam là
Chánh, Muội là Thọ. Đấy là ư nghĩa trong tiếng
Phạn. Như chúng ta thường thấy trong kinh điển,
[một từ ngữ] rất quen thuộc là A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Từ ngữ này
hoàn toàn là phiên âm tiếng Phạn. A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề: Tam Bồ Đề (Saṃbodhi), Bồ
Đề là Giác, Tam là Chánh. V́ thế, Tam Bồ Đề là
Chánh Giác, dịch sang tiếng Hán sẽ là Chánh Giác; Tam Miệu
(Samyak), Tam là Chánh, Miệu là Đẳng, [Tam Miệu Tam Bồ
Đề là] Chánh Đẳng Chánh Giác. Do Tam là Chánh, ở
đây, [Tam-muội] là Chánh Thọ. Chánh Thọ là sự
hưởng thụ b́nh thường, chánh đáng.
Chư
vị phải biết: Không chính là sự hưởng thụ
chánh đáng, b́nh thường. “Không”
những ǵ? Ngă đă Không, Ngă Sở đă Không. Chẳng có
hai thứ ấy; do vậy, quán hết thảy các pháp đều
là sanh từ nhân duyên. Quán các pháp, kể cả thân thể của
chúng ta, đều là sanh từ nhân duyên. Hễ là pháp sanh bởi
nhân duyên, chắc chắn là chẳng có Ngă. Ngă c̣n chẳng có,
lấy đâu ra Ngă sở hữu? Đấy là Thật
Tướng của các pháp. V́ thế, nếu quư vị có một
sự Chánh Thọ như vậy, [tức là] sự hưởng
thụ b́nh thường, chánh đáng, chẳng có Ngă, mà
cũng chẳng có Ngă Sở, thưa cùng chư vị, sẽ
chẳng có lục đạo luân hồi! Vậy th́ chúc mừng
quư vị, quư vị đă vĩnh viễn thoát ly lục
đạo luân hồi. Chỉ cần quư vị có Ngă, chấp
trước một cái Ngă, chấp trước có Ngă Sở,
Ngă Sở là những cái mà ta sở hữu, [chẳng hạn
như] của cải của ta, quyến thuộc của
ta, vinh dự của ta, địa vị của ta, chỉ
cần quư vị có cái “sở hữu bởi ta”, sẽ có phiền
phức. Do vậy, đức Phật dạy người
khác xuất gia, v́ sao? Sản nghiệp, đất đai,
nhà cửa, ruộng vườn trong gia đ́nh đều
là sở hữu của ta, quư vị sẽ chẳng thoát khỏi
lục đạo luân hồi! V́ thế, xuất gia, quan trọng
nhất là phải liễu giải chân tướng sự
thật này.
Đă
hiểu rơ chân tướng sự thật, [sẽ biết]
có những vị Đại Thừa Bồ Tát không xuất
gia nơi h́nh tướng, mà xuất gia nơi tâm địa.
Như cư sĩ Duy Ma, Ngài có nhà, cũng có vợ, cũng
có con cái, cũng có đất đai, tài sản, thảy
đều có hết; trên thực tế, Ngài là ǵ? Ngài xuất
gia, tâm xuất, chứ thân không xuất. Có phải là thật
sự xuất gia hay không? Thật sự xuất gia. Ngài tuy
có [vợ con, tài sản v.v…], nhưng trong tâm đă buông xuống,
tâm hoàn toàn chẳng chấp trước, tâm thái xuất gia
hoàn toàn giống như Thích Ca Mâu Ni Phật. Có những thứ
ấy th́ có gây trở ngại hay không? Chẳng ngăn ngại!
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lư Sự vô ngại,
Sự Sự vô ngại”. Chỉ cần trong tâm quư vị
thật sự buông xuống. Do vậy, có thể biết: Đức
Thế Tôn v́ chúng ta thị hiện là biểu diễn
nơi sự tướng, ngài Duy Ma cũng là một vị
Phật, đồng thời thị hiện trên thế
gian, nhằm giảng Lư cho chúng ta. Đức Phật thị
hiện nơi Sự, ngài Duy Ma thị hiện nơi Lư. Lư và
Sự chẳng hai, tánh và tướng như nhau, quư vị
phải hiểu đạo lư này!
Nhưng
người sơ học tu tập từ Sự sẽ dễ
hơn, dần dần cũng sẽ rỗng không nơi Lư,
nhập môn dễ dàng hơn! Giống như năm
mươi ba lần tham học của Thiện Tài đồng
tử ở cuối kinh Hoa Nghiêm. Năm mươi ba lần
tham học chính là hết thảy người, sự, vật,
nam, nữ, già, trẻ, các nghề nghiệp mà lục
căn của chúng ta tiếp xúc từ sáng đến tối
trong hiện tiền. Trong pháp Đại Thừa, hằng
ngày tiếp xúc có gây trở ngại hay chăng? Chẳng có
trở ngại! V́ sao? Người ấy đă hoàn toàn Không.
Không chỉ là “Không”, người ấy c̣n thật sự
làm được, thực hiện Vô Tướng và Vô Nguyện.
Nói cách khác, chúng ta chẳng có Không. Chúng ta trụ trong nhân đạo
của lục đạo, các Ngài sống cùng một chỗ
với chúng ta, nhưng an trụ nơi đâu? Các Ngài trụ
trong Nhất Chân pháp giới, chẳng trụ trong lục
đạo, cũng chẳng trụ trong mười pháp giới.
Các Ngài đến hiện thân thuyết pháp trong lục
đạo, trong mười pháp giới, rộng độ
chúng sanh, chẳng nhiễm mảy trần. Đúng như tổ
sư đại đức trong Tông Môn đă nói: “Bách hoa tùng trung quá, phiến diệp
bất triêm thân” (Đi qua rừng trăm hoa, chẳng
dính một chiếc lá), đó gọi là “thật sự nhập
giải thoát môn”. Do vậy, chúng ta phải hiểu ư
nghĩa này, điều quan trọng nhất là phải vứt
bỏ quan niệm của ta, quyết định chớ
nên có! Hễ có Ngă, có Ngă Sở, sẽ chẳng thoát khỏi
lục đạo luân hồi.
Kế
đó, điều thứ hai là Vô Tướng tam-muội,
chính là tam-muội tương ứng với bốn hạnh
Diệt, Tĩnh, Diệu, Ly trong Diệt Đế. Niết
Bàn ĺa mười tướng, tức là năm pháp Sắc,
Thanh, Hương, Vị, Xúc, hai tướng nam nữ, và ba
tướng hữu vi. Phải nhớ trong “mười tướng”
ấy, những tướng trước là Sắc, Thanh,
Hương, Vị, Xúc, đấy là năm tướng, cộng
thêm hai tướng nam và nữ, thành bảy tướng. Ba
tướng hữu vi là trừ trụ tướng ra, [tức
là sanh, dị, diệt]; nói thật ra, [hữu vi có] bốn
tướng. Bốn tướng là “sanh, trụ, dị, diệt”,
chẳng phải là “thành, trụ, hoại, không”, mà là “sanh,
trụ, dị, diệt”. Đấy gọi là ba tướng
hữu vi. “Thành, trụ, hoại, không” là nói về khí thế
gian. V́ sao không nói đến Trụ? V́ sợ [nói đến]
Trụ, kẻ b́nh phàm sẽ dấy lên sự hiểu lầm:
“Trụ được quá đi chớ, trụ tốt lắm!”
Họ sẽ chẳng dễ ǵ buông xuống được.
Do vậy, nói gộp chung Trụ và Dị lại.
Chư
vị phải hiểu, hết thảy các pháp có trụ hay
không? Chẳng có! Hiện thời, chúng ta thấy dường
như có Trụ. Trên thực tế, nó là tướng
tương tục (相續相, tương tục tướng, tướng tiếp
nối, liên tục); trong những phần trước, tôi
đă nói về chuyện này rất nhiều. Điều này
nói rơ chuyện ǵ? Nói rơ vạn pháp vô thường, sanh diệt
trong từng sát-na. Sự sanh diệt ấy chính là “tướng tương tục”,
chúng ta ắt phải hiểu rơ ràng, hiểu minh bạch. V́
thế, Phật, Bồ Tát dạy kẻ sơ học, sợ
kẻ sơ học thấy điều này sẽ chẳng
nỡ buông xuống; do đó, chẳng nói đến Trụ.
Đối với bốn tướng hữu vi ấy, chỉ
nói ba tướng là Sanh, Dị, Diệt, chỉ nói ba điều
ấy. Phía trước ba tướng ấy, c̣n có thêm bảy
tướng, nên gọi là “mười tướng”. Thảy
đều rời ĺa những tướng ấy, đều
chẳng có. Tướng là có, nhưng trong tâm ngay cả dấu
vết cũng không vướng mắc. V́ thế, gọi
là Vô Tướng.
Vô
Tướng, nói đơn giản, là các tướng “nam, nữ,
một, khác” đều chẳng thể được. Đấy
là nêu ra một tỷ dụ như thế, cũng có
nghĩa là “phàm những ǵ có
h́nh tướng đều là hư vọng”, “hết thảy pháp hữu vi,
như mộng, huyễn, bọt, bóng”, chẳng có một
pháp nào để quư vị có thể đạt được.
Kinh Bát Nhă đă nói rất hay: “Hết
thảy các pháp, vô sở hữu, rốt ráo không, chẳng thể
được”.
Vô
Tướng tam-muội là Chánh Thọ. Loại hưởng
thụ ấy chính là ǵ? Biết vạn sự vạn vật
trong vũ trụ là có hay không có? Chẳng thể nói chúng là
có, mà cũng chẳng thể nói là chúng không có! Quư vị nói
chúng chẳng có, [thế nhưng] chúng có thể hiện
tướng. Quư vị nói chúng là Có, tướng ấy sanh
diệt trong từng sát-na, trọn chẳng thể
được. Tướng ấy là huyễn tướng,
chẳng thật. Trong Phật pháp, nói đến chân hay huyễn,
th́ huyễn là chẳng trụ, là tướng sanh diệt
trong từng sát-na. Phật pháp dựa trên định
nghĩa này, dựa theo tiêu chuẩn này để nói. Phàm những
ǵ vĩnh hằng, bất biến, sẽ được gọi
là Chân. Phàm những thứ có thể biến
đổi, đều là Giả. Quư vị thấy động
vật có sanh, lăo, bệnh, tử, chúng chẳng thể thường
trụ. Thực vật có sanh, trụ, dị, diệt.
Khoáng vật th́ như quả địa cầu này có thành,
trụ, hoại, không. Quan sát bằng viễn vọng kính
thiên văn, chúng ta thấy trong vũ trụ, hằng
ngày đều có tinh cầu biến mất, tức là “quả
địa cầu” ấy chẳng c̣n nữa, đă hư
hoại. Mỗi ngày, cũng phát hiện những tinh cầu
mới. Tinh cầu mới th́ phải là “thành, trụ”, [khi nó] hư hoại sẽ là “hoại, không”. V́ thế, tinh
cầu thành, trụ, hoại, không, chẳng phải chỉ
có “thương hải tang
điền” (biển xanh [biến thành] ruộng dâu)!
Trong
kinh, đức Phật nói đến Kiếp (Kalpa), tức
là nói về thời gian. Quư vị thấy có tiểu kiếp,
trung kiếp, đại kiếp. Đại kiếp là
như thế nào? Đại kiếp là [thời gian] một
tinh cầu [trải qua các giai đoạn] “thành, trụ, hoại,
không” một lượt, được gọi là một
đại kiếp. Thời gian ấy dài lắm. Chư vị
phải chú tâm suy nghĩ, “thành, trụ, hoại, không” chính
là hiện tượng luân hồi của vũ trụ. Hiện
tượng luân hồi ấy liên quan chặt chẽ với
hiện tượng luân hồi trong lục đạo. Kinh
Phật đă dạy rất rơ ràng. Người tạo tội
nghiệp cực trọng, đọa vào A Tỳ địa
ngục, hoặc người tu Thiền Định sanh vào
Vô Sắc Giới Thiên, thọ mạng đều luận
định theo kiếp để tính toán. Thọ mạng của
Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên là tám vạn
đại kiếp, quư vị có biết tám vạn đại
kiếp lâu cỡ nào hay không? Địa cầu này và Thái
Dương Hệ thành, trụ, hoại, không tám vạn lần;
nếu phải tính ngày tháng năm [cụ thể], sẽ
không có cách nào tính ra. Quư vị mới hiểu chuyện này
phiền phức lắm! Lên cao hơn c̣n được, cuộc
sống dễ thở hơn, chứ vào trong tam đồ,
sẽ bị phiền phức to lớn! Trong địa ngục,
địa ngục A Tỳ ngũ vô gián, thời gian đọa
trong đó cũng tính toán bằng số kiếp, chẳng
khác cơi cao nhất là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ
Thiên cho mấy!
Vậy
th́ có kẻ hỏi: “Nếu quả địa cầu này
hư hoại, thái dương hệ bị hủy diệt,
người đọa trong địa ngục A Tỳ sẽ
như thế nào?” Kẻ đó sẽ tự nhiên sanh vào thế
giới nào vẫn c̣n tồn tại trong lúc đó, trong thế
giới ấy có địa ngục, họ sẽ
được chuyển tới đó, đến trụ
trong đó. Thế giới ấy hư hoại, họ sẽ
đổi chỗ trụ, cũng là thường xuyên thay
đổi. Đến khi thế giới này đă thành, lại
quay lại thế giới này. V́ thế, đối với
địa ngục và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ
Thiên, chẳng dễ ǵ đến được Phi Tưởng
Phi Phi Tưởng Xứ Thiên, [để đến cơi trời
ấy], cần phải tu Tứ Thiền, Bát Định, nhưng
đọa vào địa ngục Ngũ Vô Gián rất dễ
dàng! Các đồng tu niệm Phật vào lúc lâm chung, nếu
như trong một niệm cuối cùng, vẫn chẳng thể
buông xuống, sẽ chẳng thể văng sanh được!
Chẳng văng sanh, sẽ phải lưu chuyển theo nghiệp.
Quư vị chẳng thoát khỏi lục đạo luân hồi,
vậy th́ vẫn phải chịu quả báo trong ba thiện
đạo hay ba ác đạo. Do vậy, có thể biết:
Buông xuống trọng yếu như thế đó!
Sắc,
Thanh, Hương, Vị, Xúc là ngũ trần, chúng có phạm
vi lớn hơn tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ
nghê trong ngũ dục. Chúng chính là cảnh giới
được tiếp xúc bởi năm căn. Chuyện
nam nữ được đặc biệt nêu lên, v́ sao? Nó
là căn bản của sanh tử trong lục đạo.
Do vậy, trong kinh đức Phật đă dạy: “Ái chẳng nặng, chẳng sanh
Sa Bà”. “Ái” trong câu ấy là nói về t́nh ái nam nữ. Nếu
quư vị chẳng ngưng dứt ái, chắc chắn là sẽ
phải luân hồi trong lục đạo, thuộc vào Dục
Giới trong lục đạo, chẳng có phần trong Sắc
Giới. “Niệm chẳng nhất,
chẳng sanh Tịnh Độ”, hai câu ấy nói rất
hay! Nếu quư vị nghĩ thông suốt, sẽ bỏ ái dục,
sẽ buông xuống, nhất tâm chuyên niệm A Di Đà Phật
th́ mới có thể “hoành siêu Cực
Lạc” (vượt khỏi tam giới theo chiều
ngang, sanh về Cực Lạc) ngay trong một đời này,
mới coi như là đă thực hiện viên măn ổn thỏa
chuyện của chính ḿnh trong một đời này!
Điều
thứ ba là Vô Nguyện tam-muội. Vô Nguyện tam-muội
là biết hết thảy các pháp vô tướng, vô sở tác
(không tạo tác). V́ thế, thuở trước,
[môn tam-muội này] được dịch là Vô Tác tam-muội.
Phải ghi nhớ điều này: Hết thảy các pháp vô
tướng, vô sở tác. Nó lại c̣n được gọi
là Vô Khởi tam-muội, tức là môn tam-muội tương
ứng với hai hành tướng là Khổ và Vô Thường
trong Khổ Đế, bốn hành tướng Nhân, Tập,
Sanh, Duyên của Tập Đế. Khổ, Vô Thường
của Khổ Đế và Tập Đế đáng chán
ghét, c̣n bốn hành tướng Đạo, Như, Hành, Xuất
của Đạo Đế giống như tỷ dụ “phiệt dụ” (筏喻, tỷ dụ về chiếc bè) trong kinh Kim Cang: Như
thuyền, bè ắt phải bỏ đi! [Nghĩa là] quư vị
đă vượt sông, ngồi thuyền đă tới bờ
kia, quư vị lên bờ, nhất định phải bỏ
thuyền. Nói chung, chẳng mong muốn, ưa thích [chiếc
bè nữa sau khi đă lên tới bờ]; v́ thế, dùng nó làm
duyên, gọi là Vô Nguyện tam-muội.
Nói
cách khác, khi chúng ta chưa thành tựu, Phật pháp giống
như thuyền, bè, giúp chúng ta vượt qua bờ kia.
Chúng ta có cần Phật pháp hay không? Hiện thời th́ cần,
không cần sẽ chẳng được! Khi đă tới
bờ kia, có c̣n cần Phật pháp nữa hay không? Chớ nên
cần, phải như thế nào? Nếu cần, quư vị
sẽ ở trên thuyền, vĩnh viễn chẳng thể lên
được bờ kia. V́ vậy, phải hiểu thuyền
bè là một thứ công cụ. Đến lúc ấy, nhất
định phải bỏ. Trong kinh Bát Nhă, đức Phật
đă dạy về chuyện này: “Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp”
(Pháp c̣n nên bỏ, huống hồ phi pháp). “Pháp” ở đây là Phật pháp. Hiện thời, chúng
ta phải dùng Phật pháp; khi đă tới bờ kia, phải
bỏ Phật pháp, nhất định phải hiểu
điều này! Khi nào là bờ kia? Minh tâm kiến tánh là bờ
kia, đại triệt đại ngộ là bờ kia. Trước
khi đạt tới triệt ngộ, phải cần có pháp.
Sau khi đă triệt ngộ, chẳng cần nữa! Khi nào
quư vị có thể ngộ nhập? Chính ḿnh biết, chẳng
cần phải hỏi ai khác! Đoạn hết phiền
năo, kinh giáo Đại Thừa thường nói là “đoạn hết sạch Kiến
Tư phiền năo, Trần Sa phiền năo, và Vô Minh phiền
năo”, sẽ phải buông xả pháp. Trong kinh Hoa Nghiêm, có
nói: Đă đoạn hết vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước, sẽ tự nhiên buông xả pháp! Nếu
quư vị chẳng xả, sẽ chẳng thể thoát ĺa
mười pháp giới. Sau khi đă xả, mười pháp
giới chẳng c̣n nữa. Chẳng có, th́ khi ấy sẽ
là cảnh giới ǵ? Nhất Chân pháp giới. Nhất Chân
pháp giới hiện tiền.
Nói
đến chỗ này, chúng tôi tổng kết đơn giản
để chúng ta có thể biết rất rơ ràng ư nghĩa
được bao hàm trong ba danh từ pháp tướng này,
cũng như phương pháp tu học. Thứ nhất,
chúng ta phải tin tưởng vào chân tướng của
vũ trụ và nhân sinh như đức Phật đă dạy:
Vạn pháp đều là Không. Đấy là nói về tổng
tướng, “vạn pháp đều
Không, trọn chẳng thể được”. Nếu
quư vị có thể thật sự hiểu đạo lư này,
tin sâu giáo huấn của đức Phật, chẳng hoài
nghi, tất nhiên là đối trước hết thảy
người, sự, vật, chúng ta thường nói là “khán đạm” (看淡,không coi trọng quá mức một sự việc ǵ
đó), quư vị có c̣n cạnh tranh nữa hay chăng? Chẳng
thể nào! Quư vị thảy đều buông xuống cả
rồi! Người b́nh phàm nói: “Mọi thứ đều
buông xuống, ta sẽ sống bằng cách nào? Ta c̣n có thân
thể này!” Người ấy vẫn chưa buông xuống!
V́ sao? Người ấy c̣n có thân thể. Hễ có thân thể,
đương nhiên là sẽ có tất cả những
điều kiện duy tŕ, nuôi nấng thân thể này, [nếu
nghĩ như vậy] sẽ chẳng buông xuống
được!
Do
vậy, Phật, Bồ Tát dạy chúng ta: Sau khi đă buông
xuống, hăy tùy duyên, đừng nên bận ḷng bất cứ
chuyện ǵ, chớ nên khởi tâm động niệm,
đến lúc đó, những thứ ẩm thực cần
dùng sẽ tự nhiên có, chẳng cần phải quan tâm, v́
sao? Phải nh́n lại điều này. Người thế
gian nói “vận mạng”, trong mạng quư vị có, đă
có th́ vứt đi cũng không được! Trong mạng
chẳng có, chẳng cầu được! Đối với
nhân quả, không chỉ là pháp thế gian, mà pháp xuất thế
gian cũng chẳng tách rời pháp tắc nhân quả, phải
hiểu đạo lư này. Có như vậy, quư vị mới
chịu yên ḷng buông xuống. Hy vọng các đồng học
nghe tôi giảng kinh này, chớ nên nẩy sanh hiểu lầm!
V́ trong quá khứ, có người nghe tôi nói “thấy thấu suốt, buông xuống”, người
ấy chẳng muốn làm việc nữa, bỏ việc,
chẳng màng đến gia đ́nh! Sau mấy tháng, chẳng
có cách nào sống được, đến hỏi tôi: “Nay
tôi mọi thứ đều buông xuống hết, nhưng
tôi chẳng có tiền, chẳng có cái ăn, chẳng có cái mặc,
làm như thế nào đây?” Sai mất rồi! Chẳng phải
là tôi bảo quư vị buông xuống nơi Sự, mà là bảo
quư vị hăy buông xuống nơi tâm. Đối với hết
thảy người, sự, vật trước mắt,
quư vị đều tùy duyên, chẳng c̣n chấp trước,
chẳng c̣n phân biệt. Bảo quư vị buông xuống những
thứ ấy, c̣n mức cao nhất sẽ là chẳng c̣n khởi
tâm động niệm nữa!
Chỉ
cần quư vị chẳng chấp trước hết thảy,
sẽ vượt thoát lục đạo, tướng ấy
có hay không, chẳng sao hết! Lư Sự vô ngại, Sự Sự
vô ngại. Cái có thể nẩy sanh chướng ngại chính
là do quư vị phân biệt, chấp trước, chính những
thứ ấy sanh ra chướng ngại. Chớ nên có phân
biệt, chấp trước! Đối với pháp thế
gian, đức Phật đă nói rất hay, điều
đáng tiếc là khá nhiều đồng tu học Phật
chẳng tin tưởng. Đó gọi là “chẳng tin Phật”.
Do vậy, có thể biết, tin Phật khó khăn dường
ấy! Đối với những lời đức Phật
dạy, quư vị đều có thể tin tưởng,
đều có thể làm theo, y giáo phụng hành, quả báo sẽ
là tự nhiên. Những điều người thế gian
mong cầu, bất luận là tại Trung Hoa hay ngoại quốc,
xă hội hiện thời bất hảo, tất cả các
loại giáo dục bất đồng, nói chung bằng một
câu, dạy ǵ? Đều là dạy quư vị “tổn người, lợi ḿnh”,
toàn dạy điều ấy! Dạy quư vị cách tổn
thương, gây hại cho người khác như thế
nào, đoạt lấy những thứ của người
khác để chính ḿnh sở hữu. Đấy có phải
là bản lănh của kẻ đó hay không? [Nếu hiểu đó
là bản lănh của hắn], sai mất rồi! Trong các buổi
giảng, chúng tôi thường nói về vấn đề
này, hễ có cách nghĩ như vậy, có hành vi như vậy,
sẽ chiết giảm phước báo của chính ḿnh!
Ví
như trong mạng quư vị có của cải đến một
ức. V́ quư vị tin vào lư luận trong xă hội hiện
thời, dốc hết sức làm những chuyện khiến
cho lương tâm tăm tối, hại người, ngỡ
là như vậy th́ chính ḿnh sẽ có thể đạt được
lợi ích! Như vậy th́ một ức của cải
trong mạng của quư vị bị chiết khấu. Suốt
đời này, quư vị hại kẻ khác cách nào đi nữa,
cũng chỉ có được năm ngàn vạn, thậm
chí c̣n bị hao hụt, chiết giảm nhiều hơn nữa.
Nếu quư vị hại người chẳng nề hà thủ
đoạn, hại rất nhiều người, chỉ sợ
một ức cũng sẽ biến thành chỉ c̣n một
trăm vạn. Quư vị vẫn nghĩ chính ḿnh ghê gớm
lắm, kiếm được một trăm vạn, chẳng
biết trong mạng của chính ḿnh vốn có một ức!
Đức Phật đă dạy những đạo lư này rất
nhiều, tài sản trong mạng do đâu mà có? Do Tài Bố Thí
mà có; đời đời kiếp kiếp trong đời
quá khứ, quư vị gặp gỡ thiện tri thức, biết
tu Tài Bố Thí. Nhiều đời nhiều kiếp tu Tài Bố
Thí, đời này mới có của cải sung túc, mà cũng
chẳng phải là do tu trong một hai đời! Thông minh,
trí huệ là [quả báo của] Pháp Bố Thí. Khỏe mạnh
sống lâu là [quả báo của] vô úy bố thí. Trong pháp thế
gian, tất cả hết thảy những thứ thọ dụng
không có ǵ chẳng do bố thí mà có!
Đối
với người Hoa, các vị hăy đọc kỹ Liễu
Phàm Tứ Huấn, đọc những câu chuyện
được nêu trong Cảm Ứng Thiên Vựng Biên, toàn
là sự thật. Quư vị bèn hiểu: Nghiệp nhân quả
báo chẳng sai sót mảy may! Thiện nhân nhất định
có thiện quả, ác nhân nhất định có ác báo; nhân
duyên quả báo chẳng sai suyển mảy may! Chớ nên có
đôi chút ư nghĩ chiếm tiện nghi của người
khác. Hễ có tâm chiếm tiện nghi, sai mất rồi,
đă khiến cho phước báo của chính ḿnh bị hao
hụt bất luận về phương diện nào! V́ thế,
quư vị đă hiểu đạo lư này, hiểu rơ nhân quả,
quư vị khởi tâm động niệm sẽ chú tâm, cẩn
thận. Chúng ta khởi tâm động niệm phải vun bồi
phước, phải tăng thêm phước, chớ nên giảm
thiểu. Đó là đúng, phước báo càng ngày càng lớn!
Người
hiện thời hết sức đáng thương, chưa
từng tiếp nhận chánh giáo, [tức là] chưa từng
tiếp nhận sự giáo dục thuần chánh, chẳng hề
tiếp nhận giáo huấn thuần chánh của cổ
thánh tiên hiền, giáo huấn của Phật, Bồ Tát. V́
thế, quá nửa đều nh́n theo điều ǵ? Hết
sức coi trọng mối lợi nhỏ nhoi trước mắt,
coi trọng điều ấy! Chuyện này cũng chẳng
thể trách họ được! Tại Trung Hoa, nền
giáo dục truyền thống tối thiểu là đă bị
sơ sót đến ba thế hệ. Ba thế hệ là bảy,
tám mươi năm. Thời gian tuy chẳng kể là dài,
nhưng cũng không thể coi là ngắn. Người thuộc
ba thế hệ chẳng được tiếp nhận nền
giáo dục ấy, quên hết những thứ giáo dục ấy!
Hiện thời, khá nhiều người lo âu xă hội
động loạn, ḷng người biến đổi, trở
nên hết sức ích kỷ. Ích kỷ đến nỗi tổn
thương, gây hại cho người nhà. Đối với
người nhà, kẻ đó cũng là tổn người,
lợi ḿnh! Chúng ta thấy chuyện này rất nhiều, tôi
tin là chư vị biết càng nhiều hơn tôi! Tôi nghe thầy
Thái (Thái Lễ Húc) giảng Đệ Tử Quy, kể một
câu chuyện có thật phát sanh tại tỉnh Tứ Xuyên,
Trung Hoa. Một đứa trẻ mười bốn tuổi
giết chết cha mẹ, do nguyên nhân nào? Nó muốn lấy
tiền bảo hiểm của cha mẹ; lấy để
làm ǵ? Mua điện thoại di động (cell phone). Nó muốn
mua một cái cell phone, [đó là] tự lợi. Đoạt
lấy một chút tiền của cha mẹ. Tiền bảo
hiểm của cha mẹ nó chỉ được
hơn một vạn nhân dân tệ. V́ chút tiền ấy mà
chẳng nuối tiếc, giết chết cha mẹ,
[đó là] tổn hại người khác! Tổn hại cha
mẹ để lợi ḿnh, vụ án phát sanh từ đó! Hỏi
nó, nó chẳng biết đó là sai. Từ bé, chẳng có ai dạy
nó! Trong hiện thời, chuyện như vậy cũng chẳng
thể coi là ngẫu nhiên, thường sẽ có chuyện ấy
phát sanh. Trung Hoa và ngoại quốc đều như nhau,
tôi đă nghe rất nhiều!
Khi
tôi ở Ba Lê, ở Luân Đôn, có nói với các đồng
học: Hiện thời, trong một tuần chúng ta có thể
nghe tin tức như vậy một, hai lần, con giết
cha mẹ, cũng có khi cha mẹ giết con, đáng sợ
quá! Mười năm sau, mỗi năm có thể nghe hai ba
mươi lần. Hai mươi năm sau, mỗi năm
nghe [tin tức như vậy] hơn trăm lượt, thế
giới này trở thành thế giới ǵ? Tôi nói: - Trong nhiều
tôn giáo đă nói đến tận thế. Tôi thấy “tận thế” chẳng phải
là địa cầu bị hủy diệt, cũng chẳng
phải là chiến tranh vũ khí nguyên tử, mà là hoàn toàn chẳng
có luân lư đạo đức, giữa người với
người chẳng có cảm t́nh, chỉ có lợi, hại.
“Chỉ cần có lợi cho ta, ta có thể giết chết
ngươi!” Quư vị thấy đó, ngay cả cha mẹ
mà c̣n có thể giết, có ai c̣n chẳng thể giết
được nữa chớ? Đáng sợ quá! Đó gọi
là “ngày tàn của thế giới”.
Chư
vị phải biết, luân lư đạo đức là giáo dục
tại Trung Hoa; ở ngoại quốc là giáo dục tôn giáo.
Giáo dục tôn giáo ở ngoại quốc sa sút, chẳng có
người tin tưởng vào thần, cũng chẳng tin
tưởng vào sự phán xét mai sau, họ chẳng tin
tưởng. Tại Trung Hoa, luân lư đạo đức chẳng
được nhắc đến. Vậy th́ mười
năm, hai mươi năm sau, thế giới này sẽ
làm như thế nào đây? Năm nay, tôi đă tám
mươi tuổi, mười năm, hai mươi
năm sau, có lẽ tôi cũng không nh́n thấy, các vị trẻ
tuổi phải suy nghĩ cho nhiều, cứu văn như thế
nào? Ngoài khôi phục giáo dục ra, chẳng có phương
pháp thứ hai nào để có thể cứu văn! Nếu quư
vị suy nghĩ, nh́n vào t́nh h́nh trước mắt: Trước
mắt, những ǵ giáo dục đại chúng trong xă hội?
TV, phim ảnh, ca múa, âm nhạc, nhật báo, tạp chí,
đại chúng trong xă hội hằng ngày đều cần
đọc, cần xem những thứ ấy, họ tiếp
nhận sự giáo dục của chúng. Nội dung trong ấy
là giết, trộm, dâm, dối, bạo lực, t́nh dục,
toàn là dạy những thứ đó. V́ thế, mọi
người học theo, trở thành vô cảm, giết
người chẳng hề áy náy chi hết! Con người hiện thời hễ nhắc
đến những phần tử khủng bố đều
lo âu, nhưng mười năm, hai mươi năm sau,
phần tử khủng bố ở ngay bên cạnh quư vị.
Con có thể giết cha th́ con là phần tử khủng bố
đối với cha, là phần tử khủng bố trong
các anh em, mà cũng là phần tử khủng bố trong ṿng
bạn bè. Quư vị nói xem, c̣n làm thế nào được
nữa? Quư vị ngăn ngừa bằng cách nào? Đúng là
quá đáng sợ, càng nghĩ càng thấy đáng sợ! Chúng
tôi suy nghĩ, ngoại trừ giáo dục luân lư đạo
đức, giáo dục nhân quả, giáo dục tôn giáo, c̣n có
biện pháp tốt đẹp nào nữa chăng? Tôi
nghĩ không ra!
Thầy
tôi là lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam, một ngày trước
hôm thầy văng sanh, đă bảo các học sinh đang vây
quanh: “Thế giới đă loạn rồi! Phật, Bồ
Tát, thần tiên hạ phàm đều chẳng trị
được. Sanh lộ duy nhất của chúng ta trong hiện
thời là niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ”.
Đấy là di ngôn cuối cùng của lăo nhân gia, Ngài nói chẳng
sai tí nào! Nhưng nay chúng ta sống trong thế gian này, thế
gian c̣n có không ít người bận tâm v́ chuyện này, cũng
đă suy nghĩ trọn hết mọi phương pháp ḥng
nỗ lực cứu văn. Chúng ta biết chuyện này, hăy nên
cống hiến công sức. Họ nghe nói cũng gật
đầu, đến cuối cùng th́ sao? Chẳng thể thực
hiện! Đối với nền giáo dục truyền thống
của cổ thánh tiên hiền và giáo dục tôn giáo, vẫn
giữ thái độ hoài nghi y như cũ: “Được
quá chớ! Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, tốt
lắm, có thể làm được hay không?” Đánh mấy
dấu hỏi, chẳng có tín tâm!
Do
vậy, ba môn giải thoát này của Phật giáo, do Không mà
giải thoát lục đạo, do Vô Tướng và Vô Nguyện
mà giải thoát mười pháp giới. Ư nghĩa này mỗi
tầng một sâu hơn. Thật sự y giáo tu hành, Luận
Ngữ đă nói rất hay: “Học
nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ” (Đă
học rồi thường tập luyện, cũng chẳng
vui sao), pháp hỷ sung măn. V́ sao? Quư vị nâng cao [cảnh giới]
từng tầng một, khế nhập từng tầng một,
vượt thoát lục đạo, vượt thoát mười
pháp giới. Cổ nhân có thể làm được, người
thời nay cũng có thể làm được, chỉ sợ
quư vị không làm! Tôi thường nói, người thời
nay có thể làm được, th́ sẽ vượt xa cổ
nhân nhiều lắm! V́ sao? Xă hội của cổ nhân là xă
hội luân lư, xă hội phương Tây là xă hội tôn giáo,
xă hội an định, trật tự xă hội tốt
đẹp, dẫu có động loạn, ảnh hưởng
chẳng lớn, thời gian bị ảnh hưởng
cũng chẳng dài, chẳng giống như xă hội hiện
thời. Quư vị hăy lắng ḷng suy nghĩ: Xă hội hiện
thời sẽ bị hủy diệt trong tay ai? Trong quá khứ,
thầy tôi là tiên sinh Phương Đông Mỹ đă bảo
tôi: “Bị hủy diệt bởi TV”. Lời ấy thật
có lư!
Nếu
muốn cho gia đ́nh, con cái của quư vị chẳng c̣n tiếp
nhận sự giáo dục mang tánh chất hủy diệt ấy,
dùng phương pháp ǵ? Không xem TV, không nghe radio, không xem nhật
báo, không xem tạp chí, giữ ǵn tâm địa thanh tịnh,
ḥa b́nh, quư vị có thể làm được hay không?
Người có gia đ́nh sẽ khá khó khăn! Tôi thưa với
chư vị đồng học, hơn bốn mươi
năm qua, tôi chẳng xem TV, nhật báo, tạp chí, tôi đều
buông xuống. Có những tin tức trọng đại, các
đồng tu và đạo hữu của chúng tôi sẽ kể
tóm tắt cho tôi biết. Do vậy, mỗi tuần tôi tiếp
xúc với tin tức đại khái chẳng hơn mười
tin, mới có thể giữ ǵn sự thanh tịnh. Hôm nay
chúng ta học tập đoạn này tới đây, hăy nghỉ
ngơi mấy phút.
***
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi
xuống. Xin xem tiếp đoạn kinh văn thứ bảy.
(Kinh)
Vân hà đắc viên măn Đàn Ba La Mật, Thi Ba La Mật, Sạn
Đề Ba La Mật, Tỳ Lê Da Ba La Mật, Thiền Na Ba
La Mật, Bát Nhă Ba La Mật, cập dĩ viên măn từ bi hỷ
xả?
(經)云何得圓滿檀波羅蜜。尸波羅蜜。羼提波羅蜜。毘黎耶波羅蜜。禪那波羅蜜。般若波羅蜜。及以圓滿慈悲喜捨。
(Kinh: Làm thế nào để đắc viên măn
Đàn Ba La Mật, Thi Ba La Mật, Sạn Đề Ba La Mật,
Tỳ Lê Da Ba La Mật, Thiền Na Ba La Mật, Bát Nhă Ba La Mật,
cùng với viên măn từ, bi, hỷ, xả?)
Thanh
Lương đại sư chú giải đoạn này rất
đơn giản.
(Sớ) Đệ lục măn Bồ Tát hạnh,
sơ Lục Độ, Tứ Đẳng, tu tức Sĩ
Dụng, măn tức Ly Hệ, trị chư tệ cố.
(經)第六滿菩薩行,初六度四等,修即士用,滿即離繫,治諸蔽故。
(Sớ: Điều thứ sáu là viên măn Bồ Tát hạnh,
thoạt đầu là Lục Độ, Tứ Đẳng,
[khi đang c̣n] tu th́ là Sĩ Dụng Quả, viên măn th́ là Ly
Hệ Quả, đối trị các khuyết điểm).
Chú
giải chỉ có vỏn vẹn như thế đó,
nhưng đă nói rất rơ ràng: Lục Ba La Mật và Tứ
Vô Lượng Tâm viên măn Bồ Tát hạnh. Bồ Tát tu hành
viên măn [những pháp ấy], sẽ viên măn mười chuyện
này, chúng ta phải biết điều này. Khi chưa tu học
viên măn, cái quả là Sĩ Dụng Quả; khi viên măn, sẽ
là Ly Hệ Quả. “Hệ”
(繫) là ǵ? Phiền năo. Hoàn toàn đoạn phiền năo, Bồ
Tát hạnh sẽ viên măn. V́ thế, câu cuối cùng của
Ngài là “trị chư tệ cố”, “tệ” (蔽) chính là khuyết điểm.
V́
thế, chúng ta phải hiểu: Lục Độ là tu ǵ? Nếu
chúng ta nói “thí tài, đắc
tài”, đó là đạo lư nhất định. Thí tài chẳng
hề không đạt được của cải, thí
pháp được thông minh, trí huệ, thí vô úy nhất
định được khỏe mạnh, sống lâu. Nếu
chúng ta nghe nói vừa được phát tài, lại c̣n thông
minh, lại khỏe mạnh, sống lâu, chúng ta bèn vội
vă tu Thí Ba La Mật, vội vă tu bố thí. Đấy là pháp
thế gian; chẳng phải là Phật pháp, mà là pháp thế
gian. V́ sao? Người ấy cầu quả báo, mong cầu
quả báo trong thế gian. Bồ Tát tu ba loại bố thí này,
chẳng cầu quả báo. Không cầu, có quả báo hay
không? Càng thù thắng hơn! Tuy càng thù thắng hơn, quyết
định chẳng tham đắm. Đấy chính là Bồ
Tát.
Bồ
Tát có nhiều tiền của bèn bố thí chúng sanh khổ nạn.
Bồ Tát nhiều trí huệ bèn giúp
đỡ chúng sanh giác ngộ. Bồ Tát khỏe mạnh, sống
lâu, thường trụ trong thế gian, v́ chúng sanh, không v́
chính ḿnh. V́ sao? Đối với Bồ Tát, bố thí nhằm
độ điều ǵ? Độ xan tham. Tập khí phiền
năo của hết thảy chúng sanh là vô lượng, vô biên, đức
Phật quy nạp chúng thành sáu loại lớn, tức là sáu
loại bệnh khổ nghiêm trọng nhất của chúng sanh.
Sáu loại ấy chính là những “căn bệnh” đ̣i mạng!
Thứ nhất là xan tham, chính ḿnh tuy có [tiền của]
nhưng chẳng nỡ bố thí. Chính ḿnh chẳng có [tiền
của], sẽ luôn hy vọng đạt được. Bất
luận là danh, hay lợi, hay dưỡng (tiếng tăm,
lợi dưỡng), ngũ dục, lục trần, tâm tham
vĩnh viễn chẳng thỏa măn. Đối với tiếng
tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần,
đến khi nào mới thỏa măn? Có được một
quốc gia, vẫn mong thôn tính thế giới. Nay đă có
thế giới này, vẫn mong chinh phục tinh cầu khác, vĩnh
viễn chẳng thỏa măn!
Bố
thí là bỏ xan tham. Ở đây, [chánh kinh nói] “viên măn Đàn”, [Đàn (Dāna)] là tiếng Phạn, dịch sang tiếng
Hán là Thí (施), tức
là Bố Thí. Ba La Mật (Pāramitā) nghĩa là viên măn. [Phần chánh kinh]
tiếng Hán chỉ dùng [từ ngữ] “viên măn” một lần, nhưng cả mười
điều sau đó đều là viên măn, chẳng có điều
nào không viên măn. Ba La Mật là viên măn trong tiếng Phạn, [nói
“viên măn Đàn” tức là] Hoa
và Phạn thảy đều có. Bố thí viên măn là ǵ? Quư vị
chẳng có tâm tham, chẳng có tâm keo kiệt, thấy chúng
sanh bị khổ nạn, liền bố thí trọn hết
những thứ ḿnh đang có để giúp đỡ
người khác, Bố Thí Ba La Mật của quư vị sẽ
viên măn. Nếu thấy chúng sanh có khổ nạn, tuy ta c̣n rất
nhiều, nhưng vẫn phải lưu lại một chút
cho chính ḿnh, vậy là quư vị chẳng viên măn. V́ sao? Vẫn
nghĩ đến chính ḿnh. Quư vị chẳng buông xuống
cái Ngă của chính ḿnh, chẳng buông xuống Ngă và Ngă sở
hữu, chẳng dễ dàng! Do vậy, thường là trong
quá tŕnh tu học, nói chung là [tu tập] dần dần, mỗi
năm một buông xuống nhiều hơn, đấy là có
tiến bộ. Tâm tham, tâm keo kiệt mỗi năm một mỏng
hơn, mỗi năm một nhẹ hơn; trong phần
trước, điều này được gọi là Sĩ
Dụng Quả. Phiền năo nhẹ nhàng, trí huệ nhất
định tăng trưởng. Đấy là đạo
lư nhất định.
Do
vậy, tu Bồ Tát hạnh, bố thí đúng là càng thí, càng
[đạt được] nhiều, nhiều hơn th́
sao? Càng nhiều sẽ càng thí. Chính ḿnh quyết định
chẳng tham cầu hưởng thụ, chẳng hề có.
Thích Ca Mâu Ni Phật suốt đời đều sống
bằng cách khất thực, tuyệt đối chẳng
v́ Tài Bố Thí nhiều, tài cúng dường nhiều mà Ngài
hưởng thụ. Chẳng hề có! Các vị tổ
sư đại đức tại Trung Hoa cũng giống
như thế. Chúng ta thấy vị đại đức
gần nhất là lăo pháp sư Ấn Quang. Đức hạnh
của tổ Ấn Quang cảm động trong ngoài nước.
Không chỉ là trong nước, ngoài nước có bao nhiêu
người đến núi Linh Nham để tham học, hướng
về Ngài thỉnh giáo, quy y dưới ṭa lăo nhân gia. Do vậy,
mười phương cúng dường, chẳng biết
là bao nhiêu! Lăo ḥa thượng trọn chẳng dùng những
thứ cúng dường ấy để cải thiện cuộc
sống của chính ḿnh, quần áo vẫn vá chằng vá
đụp. Hiện thời, quư vị đến Linh Nham
Sơn Tự, có thể thấy những di vật của
lăo nhân gia, quư vị sẽ có thể thấy rơ. Ngài dùng tiền
cúng dường để làm ǵ? Lăo nhân gia xác thực là “thâm nhập một môn, huân tu lâu
dài”, nêu gương rất tốt cho chúng ta [noi theo]: Thảy
đều dùng để in kinh, thực hiện Pháp Bố Thí.
Ngài dùng khoản tiền ấy để mở xưởng
in tại chùa Báo Quốc ở Tô Châu ḥng in kinh sách, đặt
tên là Hoằng Hóa Xă.
Hoằng
Hóa Xă là do Ngài dùng tiền cúng dường của tứ
chúng để lập ra, là một nơi lưu thông kinh Phật,
chuyên môn in thiện thư, kinh sách, dùng những thứ ấy
để khuyên dạy xă hội. Ngài dùng tiền vào chuyện
này, chỉ sử dụng cho mục đích ấy, chẳng
làm chi khác. Từ bài giảng kư trong lần tổ sư giảng
diễn tại Thượng Hải Tức Tai Pháp Hội,
tôi thấy: Nhằm đúng lúc đó, miền Bắc Trung
Hoa gặp tai nạn, tổ Ấn Quang đă rút ba ngàn đồng
từ khoản tiền in kinh để cứu chẩn nạn
nhân. Do vậy, tôi mới biết lăo nhân gia chỉ làm một
chuyện. Đối với tiền cứu chẩn nạn
nhân, hoàn toàn chẳng có khoa mục từ thiện cứu tế
riêng biệt, chẳng có! Để cứu tế từ thiện,
tạm thời bèn rút từ khoản tiền in kinh, chúng ta
phải hiểu điều này. Tôi học Phật, bèn học
theo lăo nhân gia điểm này, toàn tâm toàn lực dùng hết
thảy những thứ được cúng dường
để làm chuyện này. Hiện thời, khoa học kỹ
thuật phát triển, cho nên chúng tôi dùng truyền h́nh vệ
tinh, mạng lưới Internet, dùng đĩa CD, hiện thời,
thậm chí chúng tôi đang làm phim truyền h́nh (phim truyền
h́nh nhiều tập) ḥng đề xướng, quảng bá
từ phương diện này. Hoàn toàn dùng [tiền bạc
được cúng dường] vào giáo dục, tức là
giáo dục luân lư đạo đức, giáo dục nhân quả,
giáo dục Đại Thừa.
Tôi
học Phật là học từ tiên sinh Phương Đông
Mỹ. Thầy Phương giới thiệu kinh Phật
cho tôi, thầy nói là “Triết Học
trong kinh Phật”, tôi theo thầy học Triết Học.
V́ thế, thầy giới thiệu: Kinh Phật là Triết
Học, lại c̣n là Triết Học cao nhất trên thế
giới. Sau đó, thầy c̣n nói thêm một câu: “Học Phật là sự hưởng
thụ cao nhất trong đời người”. Tôi bị
câu nói ấy của thầy kéo vào Phật môn. Đúng là chẳng
sai tí nào! Suốt đời tôi cảm kích lăo nhân gia, v́ sao? Xác
thực là trong đời này, từ lúc hai mươi sáu tuổi
cho đến hiện thời tôi đă tám mươi tuổi,
đă được sống trong sự hưởng thụ
cao nhất trong đời người. Nếu thầy chẳng
giới thiệu, tôi làm sao biết thế gian có thứ tốt
đẹp dường ấy? Do chẳng biết, sẽ
chẳng thể nào học Phật! Thật sự là viên măn
rốt ráo! V́ thế, đấy là giáo dục của đức
Phật, tôi từ chỗ này mà nhập môn. Suốt đời,
tôi chẳng coi Phật giáo là tôn giáo, [theo như tôi thấy],
Phật giáo là giáo dục, từ kinh điển mà thấy
được điều này. Kinh điển ghi chép sự
giáo học của đức Thế Tôn trong thuở ấy.
Chẳng phải là ghi chép ngay trong lúc đó, mà là sau khi Ngài
đă diệt độ, đă viên tịch, các học tṛ
ghi chép lại, nội dung quá phong phú.
Do
vậy, viên măn Ba La Mật, chúng ta nhất định phải
biết: Tam giới quá khổ, chớ nên luân hồi nữa!
Hăy vĩnh viễn thoát ly luân hồi, vĩnh viễn thoát ly
mười pháp giới. Vậy th́ chúng ta phải nghiêm túc học
tập sáu khoa mục của Bồ Tát. Mục đích của
Bố Thí là ǵ? Mục đích là trừ cái tâm tham, tiêu trừ
cái tâm keo kiệt của chúng ta. Tôi biết rất nhiều
đồng học theo học với tôi, thật sự tu
tập, tu tập như thế nào? Đạt được
quả báo nho nhỏ. Có một chút tiến bộ, mỗi
năm tiến bộ không lớn mấy! Chẳng hạn
như bố thí, đúng như tôi vừa mới nói, khi
chúng ta muốn xả, vẫn c̣n phải suy đi tính lại.
Ta thí xả, nói chung, vẫn phải giữ lại cho ḿnh một
ít, không thể giống như Phật, Bồ Tát chẳng hề
giữ lại mảy may, bỏ ra toàn bộ, [chúng ta] chẳng
thể làm như vậy! Vẫn c̣n nghĩ phương pháp
chi đó để lại kiếm tiền. Thật ra, cách
nghĩ ấy có sai hay không? Nói theo phía người thế
gian, chẳng sai; nói theo Phật pháp, sẽ là chẳng rốt
ráo. Đối với chuyện “càng thí càng nhiều” có chút
ḷng tin, nhưng tín tâm vẫn chẳng đủ. Nếu tín
tâm trọn đủ, sẽ giống như Phật, Bồ
Tát, căn bản là chẳng suy lường, như vậy
th́ Bố Thí Ba La Mật mới viên măn. Bố Thí Ba La Mật
viên măn, chư vị cũng hiểu, phước đức
của quư vị viên măn, phước đức do Tài Bố
Thí được viên măn. Phước đức viên măn, chẳng
phải là quư vị có rất nhiều của cải, mà là
ǵ? Thường gọi là “có cầu,
ắt ứng, tâm tưởng sự thành, chuyện nào
cũng như ư”, cảnh giới là như thế đó.
Trên thân xác thực là chẳng có một đồng nào, [khi
cần tiền] để làm chuyện ǵ đó, cần bao
nhiêu, người ấy thật sự có bấy nhiêu, chẳng
có nhiều hơn mà cũng chẳng có ít hơn, sự việc
được thành tựu viên măn.
Nay
chúng ta gặp thời tiết, nhân duyên này, trong phần
trước, tôi đă thưa cùng chư vị: Do v́ chẳng
có giáo dục luân lư đạo đức, giáo dục nhân quả
cũng chẳng có, giáo dục tôn giáo cũng chẳng có, ḷng
người chẳng có chỗ nương tựa, hoàn toàn
cậy vào tập khí phiền năo của chính ḿnh, quư vị nói
xem, c̣n làm thế nào được nữa? V́ thế, tham,
sân, si, mạn, ích kỷ bành trướng trên một mức
độ rộng lớn. Giữa con người với
nhau, chẳng có ḷng tin, ngờ vực lẫn nhau, quư vị
nói xem: Chuyện này có phiền phức lắm hay không? Tuyệt
đối chẳng tin trong thế gian có người tốt,
người trong thế gian đều giống như ta,
đều là ích kỷ, toàn là tổn người, lợi ḿnh,
tùy thuộc ai có thủ đoạn cao minh hơn sẽ chiếm
tiện nghi. Thật sự có người làm chuyện tốt,
chẳng v́ chính ḿnh, có ai tin tưởng? Do vậy, hiện
thời làm chuyện tốt, so với cổ nhân làm chuyện
tốt, không chỉ là khó gấp trăm lần, gấp ngàn
lần, hết sức khó khăn. Vậy th́ phải làm sao,
có cần phải làm hay không? Vẫn phải làm! V́ thế,
phải có ḷng nhẫn nại rất lớn. Trong xă hội
hiện thời, làm một chuyện tốt thành công, nếu
chỉ xét theo công đức để nói, cũng vượt
trỗi cổ nhân gấp trăm lần, ngàn lần, [v́ làm
chuyện tốt] quá khó khăn. Cổ nhân thích làm, cổ
nhân tin tưởng thế gian có thiện nhân, tin là có
người tốt, tin có chuyện tốt, mọi người
vẫn bằng ḷng đến giúp đỡ, chứ người
hiện thời chẳng tin. Không tin, đương nhiên là
họ sẽ chẳng giúp quư vị. Họ c̣n nghĩ cách nuốt
sống quư vị, nghĩ trọn hết mọi
phương cách để phá hoại.
Chúng
ta gặp phải hoàn cảnh như thế đó. Cũng
may là trước khi thầy ra đi, đă có dặn ḍ về
hoàn cảnh ấy, bản thân chúng tôi hiểu rất minh bạch.
Hiện thời lúc nào cũng gặp phải [những thử
thách, trở ngại], chỉ có một cách là tin vào sự
gia tŕ của Phật, Bồ Tát. Đối với các thứ
hành vi bất thiện của chúng sanh, chúng ta hăy nên khoan
dung, v́ như kinh Vô Lượng Thọ đă dạy: “Tiên nhân vô tri, bất thức
đạo đức, vô hữu ngữ giả” (Tổ
tiên vô tri, chẳng biết đạo đức, chẳng
có ai nói [cho biết]). Vậy th́ chúng ta đừng trách họ!
Họ có quả báo hay không? Đương nhiên là có, họ
vẫn phải tự hứng chịu quả báo. Chuyện
tốt vẫn phải làm. Chuyện tốt là cứu vớt
thế giới, hóa giải tai nạn. Nếu quư vị
không làm, những tai nạn ấy đúng là ngày càng nghiêm trọng
hơn, chớ nên không làm! Biết chuyện này khổ
hơn bất cứ điều ǵ khác, ai biết? Phật,
Bồ Tát biết; [dẫu người thế gian] không có ai
biết, vẫn có một phần quỷ thần biết.
V́ thế, Phật, Bồ Tát gia tŕ, quỷ thần bảo
vệ, che chở. Điều thứ nhất là Bố Thí
Ba La Mật.
Thứ
hai là Thi Ba La Mật, Thi La (Śīla) là tŕ giới. Đến khi nào sẽ
tŕ giới viên măn? Tŕ giới nhằm độ ác nghiệp,
đến khi nào? Chúng ta đối với hết thảy
các pháp thế gian và xuất thế gian, chẳng có một
ác niệm, Tŕ Giới Ba La Mật sẽ viên măn. V́ thế,
chúng ta c̣n có ác niệm, c̣n có ác ngôn, c̣n có ác hạnh, chẳng
thể không tŕ giới, v́ sao? Ác niệm, ác hạnh chướng
ngại cái tâm thanh tịnh của quư vị. Chư vị
biết: Pháp môn Niệm Phật là “tâm tịnh, cơi Phật tịnh”, người nào sẽ
có thể văng sanh? Người tâm địa thanh tịnh có
thể văng sanh. Do vậy, tŕ giới giúp thanh tịnh. Chúng
ta tu “chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ
bi”, mà “chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ
bi” chính là chân tâm, là bản tánh, là Tánh Đức của
chúng ta. Những thứ ấy đă bị mất đi, nay
t́m lại chúng như thế nào? Đức Phật dạy:
Tŕ giới sẽ có thể t́m lại chúng.
Nếu
chúng ta hỏi: Chúng ta có cần Tánh Đức hay không? Có muốn
“chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi”
hay không? Nếu quư vị mong muốn, phải đạt
được bằng cách nào? Tŕ Giới. Chỉ có tŕ giới
là có thể khôi phục, chuyện này quan trọng lắm!
Nhân Giới đắc Định, nhân Định khai Huệ.
Tŕ giới th́ khởi đầu tŕ từ đâu? [Hăy tŕ từ]
căn bản trong Phật pháp. Căn bản của tŕ giới
là ǵ? Thập Thiện Nghiệp Đạo. Bất luận
Đại Thừa hay Tiểu Thừa, Hiển Giáo hay Mật
Giáo, Tông Môn hay Giáo Hạ, trong kinh, đức Phật đă
dạy rất hay: Cho đến pháp nhân thiên, thảy đều
lấy mười giới ấy làm cơ sở, làm
căn bản. Chẳng có mười giới ấy, không
chỉ là hết thảy Phật pháp chẳng thể kiến
lập, mà pháp nhân thiên cũng chẳng thể kiến lập.
Nói cách khác, trong lục đạo, quư vị mong được
làm thân người sẽ chẳng được, sẽ ở
trong tam đồ của lục đạo, tức là ngạ
quỷ, súc sanh, địa ngục. Trong chỗ bọn họ
chẳng có giới, phải hiểu điều này!
Nay
chúng ta suy nghĩ, bất luận xuất gia hay tại gia,
ai có thể làm được Thập Thiện Nghiệp
Đạo? Đây là vấn đề thứ nhất, là vấn
đề thách đố đầu tiên. Quư vị chẳng
đủ điểm cho môn học này, toàn bộ [những
môn học khác trong cửa Phật] sẽ hỏng hết. Nay
chúng ta xem kỹ người khác, rồi lại phản tỉnh
xét ḿnh, [sẽ thấy] đúng là chưa làm được!
Chưa làm được là do nguyên nhân nào? Trong giới kinh,
đức Phật đă nói rất hay, Ngài nói với những
kẻ căn tánh trung hạ: “Học
Phật mà nếu trước hết chẳng học Tiểu
Thừa, sau đó học Đại Thừa, sẽ chẳng
phải là đệ tử Phật”. Tiểu Thừa học
những ǵ? Chính là tu Thập Thiện Nghiệp Đạo.
Hiện thời, chúng ta chẳng học Tiểu Thừa. Tiểu
Thừa cũng được truyền sang Trung Hoa rất
sớm. Đă thế, kinh Tiểu Thừa được
phiên dịch khá là đầy đủ. Hiện thời,
người Hoa chẳng học Tiểu Thừa, mà là trực
tiếp học Đại Thừa, [học theo kiểu ấy]
xưa kia th́ được, nay th́ chẳng được!
V́ sao trước kia th́ được? Nói thật ra, vào thời
Tùy - Đường, có hai tông phái Tiểu Thừa, tức
là Thành Thật Tông và Câu Xá Tông. Do vậy, có tất cả
mười tông. Hiện thời, hai tông Tiểu Thừa ấy
chẳng c̣n nữa. Từ đời Tống trở đi,
chẳng c̣n nữa. Giữa đời Đường,
người Trung Hoa chẳng học Tiểu Thừa, v́ sao?
Bất luận là tại gia hay xuất gia, hễ học Phật
th́ đă đều học Khổng, Mạnh, đều học
Lăo Trang. V́ thế, họ dùng Khổng, Mạnh, Lăo, Trang thay
thế Tiểu Thừa, cách làm ấy chẳng có vấn
đề ǵ! Hiện thời, v́ sao không được? Hiện
nay, chẳng học Tiểu Thừa, chẳng học Khổng
Mạnh, mà cũng chẳng học Lăo Trang. V́ thế, vừa
tiếp xúc [Phật pháp], bèn là Đại Thừa. Chẳng
đặt vững chân nơi Đại Thừa, chẳng
thể nào đứng trên đó được. Nguyên nhân ở
chỗ này!
Do
vậy, chúng tôi mới bất đắc dĩ, cực lực
đề xướng học Đệ Tử Quy. Đệ
Tử Quy là Khổng Mạnh, là căn cội của nền
giáo dục truyền thống Trung Hoa, v́ văn tự của
nó ít, toàn bộ bản văn chỉ có một ngàn lẻ
tám mươi chữ, tổng cộng là ba trăm sáu
mươi câu, mỗi câu ba chữ, dễ đọc mà
cũng dễ nhớ. Thứ này chẳng phải để
đọc hoặc nhớ, cũng chẳng phải là để
nói, mà là quư vị phải làm được. Quư vị có thể
thực hiện từng câu trong ba trăm sáu mươi câu ấy,
đấy chính là quư vị tŕ giới có căn bản. Từ
cái căn bản ấy, quư vị có thể tu học Thập
Thiện Nghiệp Đạo. Nói thật thà, giới luật
trong Phật pháp là một phần rất lớn, một
đại bộ phận, một môn học vấn rất
lớn [trong giới luật] chính là Thập Thiện Nghiệp
Đạo. Viên măn Thập Thiện Nghiệp Đạo,
quư vị sẽ thành Phật, giống như ở đây
đă nói là “viên măn Lục Ba La
Mật của hàng Bồ Tát”. Viên măn Lục Ba La Mật
của Bồ Tát sẽ là Đẳng Giác Bồ Tát. Viên măn Thập
Thiện Nghiệp Đạo, sẽ là Phật quả viên
măn rốt ráo, chớ nên coi thường! V́ thế, nói
đến tŕ giới, nhất định là học từ
Đệ Tử Quy, học từ Thập Thiện Nghiệp
Đạo, từ Sa Di Luật Nghi. Ta không cầu quá nhiều,
nhiều mà chẳng làm được th́ vẫn là nói suông!
Ba thứ ấy đều có thể thực hiện, quư vị
chính là thánh nhân, là Bồ Tát trong xă hội hiện thời.
Thật đấy, chẳng giả đâu nhé! Chẳng làm
được ba thứ ấy, sẽ là Bồ Tát giả
trất, chẳng thật!
Mở
kinh Phật ra xem, [sẽ thấy nói] “thiện nam tử, thiện nữ nhân”. Hạn
độ tiêu chuẩn thấp nhất của “thiện” là Thập Thiện
Nghiệp Đạo. Thập Thiện Nghiệp Đạo
đều làm được, quư vị mới là thiện
nam tử, thiện nữ nhân. Kinh Tiểu Thừa thường
nói như thế. Trong kinh Đại Thừa, “thiện” của thiện nam
tử, thiện nữ nhân được nâng cao hơn, nâng
lên tới mức nào vậy? Nâng lên tới Lục Ba La Mật,
Tứ Vô Lượng Tâm đều thực hiện, đều
làm được, quư vị sẽ là “thiện nam tử, thiện nữ nhân” trong pháp Đại
Thừa. Trong pháp Tiểu Thừa, chỉ có Thập Thiện
Nghiệp Đạo, đấy là giới kinh trong Tiểu
Thừa. Trong pháp thế gian, chẳng phải là Phật
pháp, để là thiện nam tử, thiện nữ nhân
trong thế gian, [xét theo hoàn cảnh] tại Trung Hoa th́ là Đệ
Tử Quy. Luân lư đạo đức Trung Hoa đều lấy
Đệ Tử Quy làm cơ sở. Luân lư đạo đức
là Đệ Tử Quy mở rộng, chúng ta chớ nên không
biết điều này, chớ nên không nghiêm túc nỗ lực
học tập. Học tập Bồ Tát hạnh, tất cả
hết thảy tật xấu đều trừ bỏ, tập
khí phiền năo đều đoạn sạch. Đấy
là Tŕ Giới.
Thứ
ba là Sạn Đề Ba La Mật. Sạn Đề (Kṣānti) là nhẫn nhục. Trong kinh Kim Cang, đức Phật
giảng về Lục Ba La Mật của Bồ Tát, Bố
Thí và Nhẫn Nhục được nhắc tới nhiều
nhất! Do vậy, có thể biết: Trong sáu khoa mục,
hai khoa mục này là trọng điểm. Bố Thí có thể
tu phước, Nhẫn Nhục có thể ǵn giữ. Nếu
chẳng có nhẫn nhục, đức Phật nói rất
hay: “Một niệm sân tâm khởi,
trăm vạn chướng môn khai”. Dẫu quư vị tu Bố
Thí nhiều cách mấy, hễ nổi nóng là xong rồi, chẳng
có công đức chi hết! Chẳng có công đức,
phước đức vẫn c̣n. Phước đức th́
sẽ là phước báo trong đường nhân thiên
nơi lục đạo. Kẻ hay nóng giận, chẳng thể
nhẫn nại, tu đại phước báo, sẽ đến
hưởng thụ ở nơi đâu? Đến hưởng
thụ trong A Tu La đạo. Kinh Lăng Nghiêm đă giảng
về A Tu La đạo rất rơ ràng. Trong năm đường,
trừ địa ngục đạo chẳng có A Tu La, những
đường khác đều có. Có thiên A Tu La, có nhân A Tu
La, có súc sanh A Tu La, có quỷ A Tu La, chỉ có địa ngục
là không có A Tu La. Do vậy, tùy thuộc phước báo của
quư vị. Phước báo to sẽ đến làm A Tu La trong
cơi trời, phước báo bậc trung sẽ là A Tu La trong nhân
gian, phước báo bậc hạ sẽ là A Tu La trong quỷ
đạo hay súc sanh đạo. A Tu La phước báo to lớn,
nhưng chẳng có nhân nghĩa, đạo đức,
cũng là do tâm sân khuể nặng nề. Phước báo to
lớn, hại người khác càng nhiều! Hậu quả
là sau khi chết đi, chẳng có ai không đọa địa
ngục, rất đáng sợ!
V́
thế, nhẫn nhục trọng yếu hơn bất cứ
ǵ khác. Chuyện ǵ cũng đều có thể nhẫn. Chúng
ta xử sự, đăi người tiếp vật, nhất
là học Phật, đều là thiện hạnh. Thiện
tâm, thiện niệm, thiện hạnh, mà c̣n có rất nhiều
kẻ đến gây phiền phức, bảo quư vị là
ǵ? Bảo quư vị là giả dối, chê quư vị có mưu
đồ, có mục đích, “nếu ngươi nói
ngươi chẳng có, ta không tin!” Từ trong Không thành Có,
gán ghép tội danh cho quư vị, quư vị có phải nhẫn
hay chăng? Phải nhẫn! Không chỉ là phải nhẫn,
mà c̣n phải cảm ơn. V́ sao? Kẻ ấy đến
khảo nghiệm quư vị, coi thử công phu nhẫn nhục
của quư vị to cỡ nào? Lúc ấy, quư vị sẽ
nâng cao cảnh giới của chính ḿnh. Nhẫn nhục th́ thuận
hay nghịch đều phải nhẫn. Trong thuận cảnh,
thiện duyên, quư vị gặp người tốt, hoàn cảnh
ấy cũng là hết thảy tốt đẹp, ở
trong ấy, phải nhẫn điều ǵ? Phải nhẫn
để chẳng sanh tham luyến. Chớ nên có tham luyến.
Trong nghịch cảnh, ác duyên, phải tu nhẫn, chẳng sanh
sân khuể. Nói chung, bất luận cảnh giới như
thế nào, phải ǵn giữ tâm địa chân thành, thanh tịnh,
b́nh đẳng. Đấy là công phu nhẫn nhục. Đối
đăi bất luận với ai, cũng đều phải
khiêm tốn, nhún nhường.
Lần
này, tôi tham gia hội nghị ḥa b́nh thế giới tại
Cát Long Ba (Kuala Lumpur). Xứ Mă Lai theo đạo Hồi,
đạo Hồi là quốc giáo của họ. Tôi chọn
lựa bốn câu trong thánh huấn của đạo Hồi
viết ra tặng cho mọi người.
Câu
đầu tiên là “khi các
ngươi vui vẻ hoặc phẫn hận, trong cuộc
sống này, phải nói lời công bằng”. V́ một
người đang lúc vui vẻ hoặc nóng giận, sẽ
thường là nói năng thiên vị. Do vậy, quư vị
phải giữ cho đầu óc tỉnh táo, sáng suốt, phải
ăn nói công bằng, chớ nên tùy tiện thuận theo ḷng
yêu hay hận. Quư vị phải giữ lẽ công bằng.
Thứ
hai là “phải giúp đỡ kẻ
ngươi đă tuyệt giao”. Tuy đă tuyệt giao, nhưng
khi kẻ đó gặp khó khăn, quư vị phải ch́a tay
giúp đỡ kẻ đó.
Điều
thứ ba “kẻ khác chẳng
phải là bạn tốt của ngươi, dẫu kẻ
ấy vô t́nh tuyệt nghĩa, chẳng phải là người
tốt, nhưng nếu khi kẻ ấy gặp khó khăn,
ngươi vẫn phải quay lại cứu giúp kẻ
đó”.
Điều
thứ tư: “Đừng trách
kẻ đối xử bất nghĩa bất nhân đối
với ngươi, chớ nên trách móc hắn, ngươi
phải tha thứ cho hắn”.
Giáo
huấn của đạo Hồi đấy nhé! Quư vị thấy
bốn điều ấy có phải là đều phù hợp
Nhẫn Nhục Ba La Mật hay không? Nếu quư vị chẳng
thể nhẫn, có thể làm được hay không? Bốn
điều này đ̣i hỏi phải có công phu nhẫn nhục
kha khá. Thật sự nhẫn nhục, sẽ tăng cao cảnh
giới và linh tánh của chính ḿnh. Do vậy, nhẫn nhục
là then chốt để thành hay bại trong tu hành. Bao nhiêu
người tu hành chẳng thể thành tựu, do nguyên nhân
nào? Chẳng thể nhẫn nại chịu đựng!
Đối với thuận cảnh, khởi tham ái; trong nghịch
cảnh, khởi sân khuể, thoái chuyển, đọa lạc.
Những trường hợp như vậy quá ư là nhiều.
V́ thế, nói Nhẫn Nhục là mấu chốt.
Có
nhẫn nhục th́ mới có tinh tấn. Tỳ Lê Da (Vīrya) là Tinh Tấn
Ba La Mật. Tinh (精) là chẳng tạp, thuần chứ không tạp. Tấn
(進) là tiến chứ không lùi, chẳng
thoái chuyển! Hai chữ này cũng do cổ thánh tiên hiền
dạy chúng ta, chúng ta trong tâm cũng thường ghi nhớ,
y giáo phụng hành. “Thâm nhập
một môn, huân tu lâu dài”. Quư vị thấy “thâm nhập một môn” là Tinh,
chẳng tạp; “huân tu lâu dài” là
tiến bộ, chẳng thoái chuyển. Do vậy, học thứ
ǵ cũng đều chẳng thể đồng thời học
nhiều thứ. Học đồng thời nhiều thứ,
tham nhiều, cắn chẳng nát! Chẳng thọ dụng
được! Nhất định là học từng môn một.
Đối với cách giáo học truyền thống của
Trung Hoa, Tam Tự Kinh đă nêu ra nguyên lư và nguyên tắc: “Giáo chi đạo, quư dĩ chuyên”
(Đạo dạy học, cốt yếu là chuyên tinh). Thầy
dạy tṛ cốt yếu là chuyên ṛng, học tṛ học này nọ,
đương nhiên đạo học vấn cũng là “quư dĩ chuyên”. Làm sao có thể
tạp cho được? Học từng thứ một. Học
một thứ chưa tốt đẹp, chẳng thể học
một món thứ hai. Thật sự thông suốt một
môn, hết thảy sẽ thông suốt, đều chẳng
khó! Chỉ cần vừa tiếp xúc, toàn thể đều
có thể hiểu rơ thông đạt. Giống như năm
mươi ba lần tham học của Thiện Tài, Ngài
đắc Căn Bản Trí trong hội của thầy. Căn
Bản Trí là đă thông suốt một môn; sau đấy,
đi tham học. Tham học sẽ hết sức thuận
tiện, chỉ cần vừa tiếp xúc, vừa thấy,
vừa nghe, toàn thể đều thông suốt, thứ ǵ
cũng đều thông suốt. Nói thật ra, pháp thế
gian và xuất thế gian đều là như vậy. Chỉ
sợ quư vị chẳng đạt đến mức tinh
thông. Sau khi đă tinh tấn, sẽ tinh thông. Hễ tinh thông
th́ hết thảy đều thông đạt.
Sau
khi đă tinh tấn, bèn có Thiền Định. Thiền
Định cũng là Phạn Hoa hợp dịch. Thiền (Dhyāna) là tiếng Phạn, Định là tiếng Hoa. Phạn
Hoa hợp dịch! Nó có nghĩa là ǵ? Kinh Kim Cang nói rất
hay: “Chẳng chấp lấy
tướng, như như bất động”. Trong
Đàn Kinh, Lục Tổ đại sư đă diễn tả
hai câu này rơ hơn, nông cạn hơn đôi chút để mọi
người liễu giải dễ dàng. Lục Tổ nói: “Ngoài chẳng chấp tướng,
trong không động tâm”. “Ngoài
không chấp tướng là Thiền, trong chẳng động
tâm là Định”. Chúng tôi lại nói cách khác, càng nông cạn,
rơ rệt, dễ hiểu hơn cách nói ấy: Ngoài là chẳng
bị ảnh hưởng bởi ngoại cảnh, chẳng
phải là không tiếp xúc. Đối với cảnh giới
bên ngoài, có thể tiếp xúc, mắt có thể thấy, tai
có thể nghe, hết thảy đều có thể tiếp
xúc, tuy tiếp xúc mà như thế nào? Chẳng bị nó ảnh
hưởng, nó chẳng thể ảnh hưởng quư vị.
Đó là Thiền. Nội tâm như như bất động.
Đó là Định.
Do
vậy, trong kinh Hoa Nghiêm, năm mươi ba lần tham học
những vị Bồ Tát tu Thiền Định, Thiện
Tài đồng tử đến tham phỏng, bèn đến
chỗ nào để t́m các Ngài? Đến chợ! Nay chúng
ta nói là công ty bách hóa, là chỗ náo nhiệt, phồn hoa nhất;
người tu Thiền Định, tức bậc Bồ
Tát bèn kinh hành, đến thăm nơi ấy. Đến đó
ngắm nghía, kinh hành, vừa nh́n, vừa nghe, thứ ǵ
cũng đều hiểu rơ, [đấy chính là] trí huệ.
Chẳng có ǵ Ngài không biết; nhưng như như bất
động, [đó là] Thiền Định. V́ thế, những
thứ ấy chẳng chướng ngại Ngài. Chẳng
phải là mỗi ngày khoanh chân nh́n vách là tu Thiền Định.
Chẳng phải là như vậy, [mà là] chỗ nào cũng
đều đến! Do vậy, thật sự có Thiền
Định, thật sự có trí huệ, Lư Sự vô ngại,
Sự Sự vô ngại. Xác thực là Ngài trong tất cả
hết thảy cảnh duyên, “cảnh”
là hoàn cảnh vật chất, “duyên”
là hoàn cảnh nhân sự, Ngài đều có thể ǵn giữ,
chẳng bị ảnh hưởng, tâm Ngài là Định.
Cũng có nghĩa là trong hết thảy cảnh duyên, Ngài chẳng
dấy lên một niệm, tham, sân, si, mạn chẳng dấy
lên. Chẳng khởi một niệm nghĩ đến ngũ
dục, lục trần, chẳng dấy một niệm
nghĩ đến khống chế hoặc nghĩ đến
chiếm hữu, thảy đều chẳng có! Thấy mà
như chẳng thấy, nghe mà như chẳng nghe, cái tâm
vĩnh viễn là Định. Nói cách khác, vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước vĩnh viễn chẳng sanh.
Đó là Thiền Định chân chánh, là Thiền Định
cao cấp, là Thiền Định của hàng Bồ Tát.
Định
sanh Huệ, Thiền Định khởi tác dụng là trí huệ
Bát Nhă. Điều cuối cùng là Bát Nhă Ba La Mật. Bát Nhă (Prajñā) là tiếng Phạn, [từ ngữ này] có thể dịch
được, dịch thành Trí Huệ. V́ sao chẳng dịch,
mà vẫn dùng chữ Bát Nhă? Do tôn trọng, cho nên không dịch.
Tu học trong Phật môn, mục tiêu chung cực là trí huệ.
Dùng phương pháp ǵ để đạt được
trí huệ? Dùng Thiền Định. Do vậy, chư vị
phải biết: Trí huệ chẳng phải là học rộng
nghe nhiều. Học rộng nghe nhiều [th́ cái đạt
được] sẽ là thường thức, chẳng phải
là trí huệ. Trí huệ sanh từ cái tâm thanh tịnh. Tâm
địa càng thanh tịnh, càng có trí huệ. Trí huệ lớn
hay nhỏ quyết định tỷ lệ thuận với
cái tâm thanh tịnh. Do vậy, tiểu định có tiểu
trí huệ, đại định sẽ có đại trí huệ,
chúng ta chớ nên không biết điều này. Trí huệ thật
sự chẳng phải là học được từ bên
ngoài, mà là do tâm thanh tịnh tự nhiên lưu lộ, phải
biết điều này. Chỉ có trí huệ chân thật th́
mới có thể giải quyết vấn đề. Quư vị
hăy ngẫm xem: V́ sao học thuật trong thế gian chẳng
thể giải quyết vấn đề? Nó chẳng lưu
xuất từ cái tâm thanh tịnh. Nói cách khác, kẻ ấy
khởi tâm động niệm vẫn bị hoàn cảnh
bên ngoài quấy nhiễu. Hễ bị hoàn cảnh bên ngoài
quấy nhiễu, kẻ ấy chẳng có trí huệ. Chẳng
có trí huệ, dẫu thường thức phong phú đến
mấy đi nữa, chẳng có cách nào giải quyết những
vấn đề xă hội trên thế giới trong hiện
thời! Nhất định phải cậy vào trí huệ, phải
làm cho cái tâm định, quư vị mới có thể thấy
rơ ràng nguồn cội của sự động loạn, [cũng
như] thấy rơ ảnh hưởng và quả báo của sự
động loạn. Điều này cần đến trí huệ,
quư vị mới có phương pháp giải quyết. V́ thế,
chuyện này chẳng phải là có thể giải quyết
bằng thường thức, cũng như chẳng phải
là khoa học kỹ thuật mà ḥng giải quyết
được! Nhất định là phải nhờ vào
trí huệ chân thật.
Trong
Phật pháp, Bát Nhă được nói đến quá ư là
nhiều. Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, Ngài
đă giảng giải chủ đề này suốt hai
mươi hai năm. Quư vị thấy trong một đời,
Ngài đă giảng năm đại đơn nguyên (unit).
Đơn nguyên thứ nhất là Hoa Nghiêm, đơn nguyên
thứ hai là A Hàm, đơn nguyên thứ ba là Phương Đẳng,
đơn nguyên thứ tư là Bát Nhă, đơn nguyên thứ
năm là Pháp Hoa và Niết Bàn. Pháp Hoa giảng tám năm, Bát
Nhă hai mươi hai năm, gần như là chiếm mất
một nửa trong bốn mươi chín năm! Quư vị
mới hiểu Bát Nhă là khoa mục tu học chủ yếu
trong Phật pháp, tốn thời gian dài nhất, biết nó
chính là tinh hoa của Phật pháp. Hôm nay đă hết thời
gian rồi, chúng tôi giới thiệu đơn giản Lục
Ba La Mật tới đây. V́ thường xuyên nói đến
Lục Ba La Mật, trong những phần sau, sẽ lại
c̣n phải nhiều lần giảng đi giảng lại.
Do vậy, ở đây chỉ nhắc tới là được
rồi! Ngày mai, chúng tôi sẽ nói tiếp Tứ Vô Lượng
Tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả.
Tập 1486
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin
xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười một, xem bắt
đầu từ đoạn thứ bảy trong phần
trường hàng. Chúng tôi đọc kinh văn một
lượt.
(Kinh) Vân hà đắc viên măn
Đàn Ba La Mật, Thi Ba La Mật, Sạn Đề Ba La Mật,
Tỳ Lê Da Ba La Mật, Thiền Na Ba La Mật, Bát Nhă Ba La Mật,
cập dĩ viên măn từ bi hỷ xả?
(經)云何得圓滿檀波羅蜜。尸波羅蜜。羼提波羅蜜。毘黎耶波羅蜜。禪那波羅蜜。般若波羅蜜。及以圓滿慈悲喜捨。
(Kinh: Làm thế nào để đắc viên măn
Đàn Ba La Mật, Thi Ba La Mật, Sạn Đề Ba La Mật,
Tỳ Lê Da Ba La Mật, Thiền Na Ba La Mật, Bát Nhă Ba La Mật,
cùng với viên măn từ, bi, hỷ, xả?)
Đoạn
này là “măn Bồ Tát hạnh”,
chúng tôi đă giới thiệu Lục Ba La Mật. Hôm nay,
chúng tôi tiếp tục bàn về “viên
măn từ, bi, hỷ, xả”. “Từ, bi, hỷ, xả” được
gọi là Tứ Vô Lượng Tâm. Trong lời chú giải, Thanh
Lương đại sư bảo là “Lục Độ, Tứ Đẳng”. Lục
Độ là Lục Ba La Mật trong phần trước, Tứ
Đẳng là từ, bi, hỷ, xả. Chúng ta biết, kể
từ Dục Giới Thiên đă bắt đầu tu Tứ
Vô Lượng Tâm, tu tập Tứ Vô Lượng Tâm. Do vậy,
có thể biết: Bốn pháp này cũng là pháp tu hành căn
bản trong Phật môn, thường được xếp
chung với Lục Độ, [gọi chung là] Lục Độ
Tứ Đẳng. Chúng có t́nh h́nh giống như Lục Ba
La Mật, từ Sơ Phát Tâm Bồ Tát là cấp thấp nhất,
giống như học hành trong nhà trường, Tiểu Học
là lớp Một, lớp Hai, đến Trung Học cũng
có lớp đầu cấp, lớp thứ hai [của bậc
Trung Học]. Trong Phật pháp th́ trong Bồ Tát đạo
có tất cả năm giai đoạn, Thập Tín, Thập
Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, và Thập
Địa, hợp thành năm mươi địa vị,
mỗi giai đoạn gồm có mười địa vị.
Nếu dùng nhà trường hiện thời để tỷ
dụ, địa vị Thập Tín là Tiểu
Học, Thập Trụ giống như Sơ Trung (cấp
hai), Thập Hạnh là Cao Trung (cấp ba), Thập Hồi
Hướng là Đại Học, Thập Địa là nghiên
cứu sinh, có thể dùng chuyện này để tỷ dụ.
Năm mươi giai cấp đều tu Lục Độ
Tứ Đẳng, đấy là khóa tŕnh (curriculum, chương
tŕnh học) chủ tu của họ. Do vậy, có thể biết,
tuy là [cùng học các môn] bố thí, tŕ giới, hay là từ,
bi, hỷ, xả [giống hệt như nhau], cảnh giới
[trong mỗi địa vị] chẳng giống nhau. Sơ
học Bồ Tát và Bồ Tát thuộc địa vị sâu
chắc chắn chẳng giống nhau!
Ở
đây, kinh nói đến “viên
măn Lục Độ, Tứ Đẳng”. Chư vị
phải hiểu: Viên măn Lục Độ Tứ Đẳng
là địa vị Đẳng Giác, tức là địa vị
Bồ Tát thuộc tầng cấp cao nhất. “Viên măn” là ǵ? Chúng ta phải
đặc biệt chú trọng hai chữ này. Nhưng học
tập th́ trong giai đoạn hiện tiền, phải học.
Lục Độ Tứ Nhiếp đều phải học,
phải học trong hiện thời. Các đồng học
học Phật, bất luận tại gia hay xuất gia,
quư vị học chẳng giống! Có người học suốt
đời, học vài chục năm, có tu Bố Thí hay
không? Có chớ! Có tu Tŕ Giới hay không? Có luôn, nhưng [luôn
luôn là] chẳng giống! Có chuyện chẳng giống
như vậy là do nguyên nhân nào? Nguyên nhân là do căn bản
của chúng ta quá kém cỏi, chẳng có cơ sở! Nếu
nghĩ về một trăm năm trước trong quá khứ,
tức là một thế kỷ trước, đó là vào những
năm cuối của nhà Măn Thanh. Tuy chánh phủ Măn Thanh hủ
bại, nhưng trong dân gian c̣n có cơ sở luân lư đạo
đức, kẻ đọc sách thường là vẫn rất
coi trọng sự giáo dục trong gia đ́nh. Thầy dạy
học tṛ, khi ấy, quá nửa là trường tư thục,
nhà trường vẫn chưa phổ biến, kế thừa
giáo huấn của cổ thánh tiên hiền, đọc sách dốc
chí nơi thánh hiền, chẳng phải [chăm chú] nơi
công danh, chẳng phải là [dốc chí] nơi phú quư.
Chư
vị nhất định phải hiểu: Công danh, phú quư
là mạng. Trong mạng quư vị đă có, sẽ tự
nhiên có. Trong mạng chẳng có, không thể cưỡng cầu.
Trong ấy, c̣n dính líu đạo lư nhân quả rất sâu. Gần
đây nhất, tôi xem hai kịch bản, một là do bên
Đài Loan biên soạn, bản kia được biên soạn
tại Bắc Kinh, đều là Du Tịnh Ư Ngộ Táo Thần
Kư. Rất khá, đều là sáu tập, nhưng phương
thức biên soạn khác nhau, mỗi bên đều có ưu
điểm, có thể cùng tiến hành [quay thành phim], chẳng
mâu thuẫn, đều biên tập rất khá. Tiên sinh Du Tịnh
Ư thiếu niên đắc chí, mười tám tuổi thi Tú
Tài đỗ đầu, rất đắc chí. Sau đấy,
thi Cử Nhân, thi cả bảy lần đều chẳng
đỗ. Đấy là xét về mặt công danh. Tú Tài, Cử
Nhân, Tiến Sĩ, ba danh xưng ấy tương
đương với các học vị Học Sĩ (tốt
nghiệp Đại Học, quư vị sẽ giành được
học vị này), Cử Nhân [thời cổ] giống
như Thạc Sĩ, Tiến Sĩ [thời cổ] giống
như Tiến Sĩ [hiện thời]. Những học vị
ấy đều là chỗ xuất thân[1] của
quư vị, cần phải có sẵn trong mạng. Trong mạng
có th́ mới có [công danh được]. Trong mạng chẳng
có, sẽ chẳng giành được.
Tiên
sinh Du Tịnh Ư thiếu niên đắc chí. Tuy học vấn
khá lắm, đọc rất nhiều sách,
viết lách văn chương rất khá, nhưng phẩm
tánh hơi kém, ham cao, chuộng xa, cống cao, ngă mạn, chẳng
để ai vào mắt, do vậy bèn như thế nào? Công
danh trong mạng bị chiết khấu, đáng lẽ thi
đỗ, ông ta bị trượt. Cổ nhân hiểu chuyện
này, người hiện thời chẳng hiểu: [Công danh,
phước lộc] có mối quan hệ rất lớn với
sự tu thiện, làm ác, tích lũy công đức của tổ
tiên, cha mẹ trong gia đ́nh và chính bản thân quư vị. Bản
thân ông ta chẳng biết đoạn ác, tu thiện, chẳng
biết sửa lỗi, đổi mới, oán khí đầy
bụng v́ thấy ḿnh đi thi chẳng đỗ đạt
như người khác. Ông ta quả thật cao minh hơn kẻ
khác, thế mà bị trượt chỏng gọng! Công danh,
phú quư đều là phước, [đă bị] giảm
phước, lại c̣n tạo tác đủ mọi chuyện
chẳng lành! Ông ta kể ra cũng c̣n khá, vẫn coi như là
có chút thiện căn. Chút thiện căn ấy cũng rất
đáng quư, c̣n có thể hiểu rơ những đạo lư ấy;
nhưng v́ tập khí quá nặng, ông ta chẳng làm được.
Táo Quân đến điểm hóa ông ta, ông ta mới hoàn toàn
giác ngộ, biết cả đời [chính ḿnh đă] làm
người hết sức khắc bạc, mới hiểu
chính ḿnh một thân đầy tội nghiệp. Từ
đấy trở đi, sửa lỗi, đổi mới.
Ba năm sau, lại đi thi bèn đậu. Về sau, hết
thảy đều rất thuận lợi. Do vậy,
đoạn ác tu thiện càng thêm siêng gắng. Hiệu quả
sửa lỗi đổi mới của ông ta, nói thật
ra, vượt xa tiên sinh Liễu Phàm. Ông ta làm ác cũng
vượt xa tiên sinh Liễu Phàm. Tiên sinh Liễu Phàm do có
gia huấn, nên được lưu truyền rất rộng.
Ông Du chẳng ghi lại, nhưng người đồng
hương là La tiên sinh đă ghi lại sự tích trong một
đời của ông Du. Bài văn ấy cũng chẳng
dài, rất đáng cho chúng ta tham khảo.
V́
thế, trong hiện tại, chúng ta phải thực hiện
Lục Độ, Tứ Vô Lượng Tâm. Chẳng làm tốt
là do như tôi vừa mới nói, chúng ta chẳng có Căn. Căn
là ǵ? Trong Giới Kinh, đức Thế Tôn đă bảo: “Học Phật mà nếu không học
Tiểu Thừa trước, sau đó học Đại Thừa,
sẽ chẳng phải là đệ tử Phật”.
Điều này do đích thân Thích Ca Mâu Ni Phật dạy. Học
điều ǵ cũng phải có thứ tự, phải có tŕnh
tự, bắt đầu học từ chỗ nào? Từ cạn
đến sâu, từ nhỏ đến lớn, đấy
là đạo lư nhất định. Quư vị chẳng tuân
thủ học theo thứ tự, nhảy cấp, đức
Phật chẳng thừa nhận quư vị. Quư vị chẳng
phải là học tṛ của đức Phật.
Phật
giáo [truyền vào Trung Hoa] từ năm Vĩnh B́nh thứ
mười đời Hán Minh Đế, khi ấy, hoàng
đế sai đặc sứ qua Tây Vực cầu Phật
pháp. V́ thế, Phật pháp tại Trung Hoa là do triều
đ́nh thỉnh đến. Hai vị pháp sư là Ma Đằng
và Trúc Pháp Lan đă đem tượng Phật và kinh sách đến
Trung Hoa. Phiên dịch thuở ban đầu, xác thực là dịch
kinh Tiểu Thừa rất nhiều, rất hoàn thiện.
Hiện thời, trong Đại Tạng Kinh có những kinh
thuộc về A Hàm Bộ, tức là Tứ A Hàm, đều
thuộc loại kinh Tiểu Thừa. Đối chiếu với
những kinh điển bằng tiếng Ba Lợi (Pāḷi) tại
Nam Dương, Miến Điện, Thái Lan, [tạng A Hàm
trong tiếng Hán] hoàn toàn chẳng thua kém họ. Hơn ba
ngàn bộ kinh điển [trong Đại Tạng Kinh tiếng
Hán] là kinh điển Tiểu Thừa, kinh điển bằng
tiếng Ba Lợi chỉ nhiều hơn khoảng năm
mươi mấy bộ. Quư vị nghĩ xem, những kinh
ấy đă được phiên dịch khá hoàn chỉnh!
Vào
đầu thời Đường, tức là vào thời
Tùy - Đường, có hai tông phái Tiểu Thừa, tức
là Thành Thật Tông và Câu Xá Tông, Đại Thừa có tám tông
phái. Phật giáo thuở ấy đúng là thuộc về thời
đại hoàng kim, thành lập mười tông phái. Đại
Thừa tám tông, Tiểu Thừa hai tông, đều là trước
học Tiểu Thừa, sau học Đại Thừa. Nhưng
từ giữa đời Đường trở về
sau, người học Phật tại Trung Hoa, bất luận
là tại gia hay xuất gia đều chẳng học Tiểu
Thừa, do nguyên nhân nào? Trung Hoa có Nho gia, có Đạo gia,
chính là Khổng Mạnh, Lăo Trang. Dẫu sao, văn hóa bản
địa của Trung Hoa chẳng kém Tiểu Thừa; v́ thế,
người Hoa dùng Khổng Mạnh, Lăo Trang làm cơ sở
để trực tiếp tiến nhập Đại Thừa.
Trong gần hai ngàn năm, trải qua nhiều thế hệ,
người thành tựu rất ư là nhiều, bất luận
là tại gia hay xuất gia, mọi người có thể thấy
chuyện này. Hiện thời, phiền phức rồi! Hiện
thời, cách giáo học theo văn hóa truyền thống kể
từ sau khi nhà Măn Thanh mất ngôi cho đến thời kỳ
Dân Quốc, đại khái là trong ṿng hai mươi năm c̣n
được, c̣n có một chút tàn dư, lứa tuổi
tôi được tiếp nhận. Những người nhỏ
hơn tôi bốn năm tuổi sẽ không biết. V́ thế,
bị gián đoạn tối thiểu là tám mươi
năm, bị gián đoạn ba thế hệ. Người
hiện thời đừng nói là trông thấy, mà c̣n chưa
hề nghe tới! Chẳng có ai nói những chuyện này. Do
vậy, trực tiếp tiến nhập Đại Thừa,
học kiểu nào, học suốt vài chục năm, học
cả một đời, vẫn học chẳng giống!
Do vậy, chúng tôi mới tỉnh ngộ thật sâu,
nghĩ lại mấy câu nói mang tánh chất trọng yếu
ấy của Thích Ca Mâu Ni Phật. Chúng ta đă nhảy cấp
rồi!
V́
thế, trong những năm qua, chúng tôi đặc biệt
đề xướng Đệ Tử Quy. Đệ Tử
Quy là tổng hợp hoàn thiện của gia giáo Trung Hoa.
Chư vị phải hiểu, điểm đặc sắc
trong giáo dục Trung Hoa là giáo dục gia đ́nh. Giáo dục gia
đ́nh là căn cội của giáo dục truyền thống.
V́ thế, Đệ Tử Quy chẳng phải là để
dạy nhi đồng, mà nhằm dạy ai? Dạy cha mẹ,
cha mẹ phải làm được, làm cho con cái thấy. Khi
nào sẽ dạy con? Trẻ nhỏ sinh ra hai, ba, bốn ngày,
liền bắt đầu dạy con. Quư vị thấy nó mở
mắt, có thể nh́n, có thể nghe, tuy nó chẳng nói chuyện,
chuyện ǵ cũng chẳng hiểu, nhưng cha, mẹ,
người lớn trong nhà nói năng, xử sự trước
mặt đứa trẻ đều là Đệ Tử Quy
để cho nó xem, để cho nó nghe, thân giáo đấy!
Những ǵ trái nghịch Đệ Tử Quy, phản diện,
bất thiện, quyết định chẳng để
cho trẻ thơ trông thấy, nghe thấy, khiến cho những
ǵ nó được tiếp nhận toàn là luân lư đạo
đức thuần chánh. Thuần chánh đấy nhé! Tới
lúc ba tuổi, nó đă học ba năm, đấy là như
cổ nhân đă nói: “Thiếu
thành nhược thiên tánh, tập quán thành tự nhiên” (Từ
nhỏ đă trở thành bẩm tánh, do thói quen trở thành
tự nhiên). Từ lúc c̣n ẵm ngửa đă được
bồi dưỡng, chỉ dạy. Được chỉ
dạy cho đến lúc ba tuổi, nó đă có thể phân biệt
đâu là chánh, đâu là tà, đâu là đúng, đâu là sai. Nó
có năng lực ấy.
Ngạn
ngữ Trung Hoa có một câu như thế này: “Tam tuế khán bát thập, thất
tuế khán chung thân” (Nh́n vào tính cách của một người
từ lúc ba tuổi, sẽ biết tính cách của người
ấy lúc đă tám mươi. Từ lúc bảy tuổi,
đă thấy được nhân cách suốt đời).
Nh́n theo cách nào? Tức là nh́n vào lúc ba tuổi, nó đă học
được những ǵ. Cha mẹ như vậy mới
gọi là thật sự yêu thương con cái, vun bồi
căn cội cho nó. Sau khi căn cội ấy đă
được vun quén, trong bốn nền văn minh lớn
vào thời cổ trên toàn thế giới, ba nền văn
minh kia đă chẳng c̣n, Trung Hoa c̣n tồn tại là do
nguyên nhân nào? Chính là do cách giáo dục này. Do vậy, giáo dục
trong nhà trường (trước kia là tư thục) chính
là tiếp nối của giáo dục gia đ́nh. Giáo dục
xă hội là mở rộng của giáo dục gia đ́nh. Giáo
dục tôn giáo là giáo dục gia đ́nh được viên
măn. Chúng ta phải hiểu đạo lư này. Bốn nền
giáo dục là một Thể, mà gia giáo là căn bản. Chúng
ta cũng có thể nói: Đối với căn cội của
giáo dục truyền thống, Nho gia đă kế thừa truyền
thống. Căn cội của nó là Đệ Tử Quy, ngũ
luân, bát đức. Chúng ta dùng thứ này làm cơ sở
để tu học Đại Thừa, sẽ chẳng có vấn
đề ǵ. Xác thực là nói theo phía người Hoa, thuận
tiện hơn học Tiểu Thừa. V́ thế, đấy
là nguyên do v́ sao chúng tôi phải đề xướng điều
này. Trong pháp Đại Thừa, nay chúng ta nói là Phật pháp,
căn bản của pháp Đại Thừa là kinh Thập
Thiện Nghiệp Đạo, chúng tôi đă giảng kinh ấy
rất tỉ mỉ, rất rơ ràng. Bản thân kinh điển
là do chính đức Thế Tôn nói ra. Thanh Văn Bồ Đề,
Duyên Giác Bồ Đề, cho đến Vô Thượng Bồ
Đề, cơ sở của nhân thiên đều là Thập
Thiện Nghiệp Đạo. Do vậy, Thập Thiện
Nghiệp Đạo là căn bản giáo dục của
đức Phật.
Sau
khi Tịnh Tông được thành lập, xét về hạnh
môn, tức là trong cuộc sống hằng ngày, công việc,
xử sự, đăi người tiếp vật, ắt đều
phải tuân thủ giới điều. Chúng ta nương
theo Tịnh nghiệp tam phước, nương theo Lục
Ḥa Kính, nương theo Tam Học Giới, Định, Huệ,
nương theo Lục Ba La Mật, nương theo mười
nguyện Phổ Hiền, chúng tôi chọn lựa năm khoa
mục ấy. Không nhiều lắm, quá nhiều cũng chẳng
nhớ được, mà quư vị cũng chẳng làm
được. Chúng tôi chỉ chọn năm khoa mục ấy.
Trong năm khoa mục ấy, Tịnh nghiệp tam phước
hết sức trọng yếu, đấy chính là nguyên tắc
chỉ đạo cao nhất trrong sự tu hành. Điều
thứ nhất trong Tịnh nghiệp tam phước là “hiếu dưỡng cha mẹ, phụng
sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết, tu
mười thiện nghiệp”. Quư vị hăy ngẫm xem,
dùng điều nào trong ấy để thực hiện?
Chính là dùng Đệ Tử Quy và Thập Thiện Nghiệp
Đạo để thực hiện điều thứ nhất
trong Tịnh nghiệp tam phước. Có cơ sở
như vậy, quư vị mới có thể học Phật.
Quư vị thấy điều thứ hai trong Tịnh nghiệp
tam phước: “Thọ tŕ Tam
Quy, đầy đủ các giới, chẳng phạm oai
nghi”, quư vị mới có thể nhập Phật môn. Điều
kiện để nhập Phật môn là phải thực hiện
Đệ Tử Quy, thực hiện Thập Thiện Nghiệp
Đạo. Quư vị chẳng đổ công dốc sức
từ chỗ này để nhập môn, sẽ chẳng vào
được cửa Đại Thừa! Quư vị tu học
Lục Ba La Mật, chỉ có thể học da lông của
nó, nhất định là chẳng đạt được
lợi ích chân thật!
Ví
như nay chúng ta nói đến “từ tâm, từ bi”. Nói theo
kiểu hiện thời, Từ và Bi là “tâm thương yêu”.
Trong tâm thương yêu, có hai ư nghĩa: Từ là ban vui, Bi là
dẹp khổ. Chúng sanh có khổ nạn, quư vị giúp họ
ĺa khổ nạn, đấy là bi tâm. Chúng sanh chẳng có lạc,
quư vị có thể giúp họ được sung sướng,
đấy là Từ. Do vậy, Từ và Bi có một chút sai
khác như vậy. Nhưng từ bi viên măn là ǵ? Từ bi
viên măn là khiến cho hết thảy chúng sanh ĺa khổ rốt
ráo, được vui rốt ráo, đấy mới là viên
măn. Nỗi khổ rốt ráo của chúng sanh là ǵ? Nỗi khổ
luân hồi. Quư vị phải giúp chúng sanh thoát ly lục
đạo luân hồi. Mười pháp giới là khổ, quư
vị giúp họ thoát ly mười pháp giới. Vui sướng
nhất là ǵ? Niềm vui trong thế giới Cực Lạc,
niềm vui trong thế giới Hoa Tạng, niềm vui trong Nhất
Chân pháp giới. Quư vị làm thế nào để giúp họ
trở về Nhất Chân pháp giới, đấy gọi là
từ bi viên măn. Ai làm được? Thích Ca Mâu Ni Phật
đă biểu diễn hay nhất.
Người
trong thế gian mê mất tự tánh, mê mất chân tướng
của vũ trụ và nhân sinh, đă mê mất! Tuy họ
truy cầu sự mỹ măn; thật ra, sự mỹ măn của
họ là sai lầm. Nh́n bề ngoài th́ rất mỹ măn, bên
trong là khổ khôn kể xiết! Họ không biết, chỉ
thấy vẻ dễ nh́n bên ngoài! Thích Ca Mâu Ni Phật đă
thị hiện, người thế gian mong cầu địa
vị, quyền lực, mọi người tranh giành điều
này. Quư vị thấy Thích Ca Mâu Ni Phật là vương tử.
Nếu Ngài không xuất gia, sẽ kế thừa ngôi vua từ
cha, là vua một nước. Cổ nhân nói: “Quư vi thiên tử, phú hữu tứ hải” (Sang quư
như thiên tử, của cải đầy ắp bốn
biển). Ngài chẳng cần đến, vứt bỏ.
Ngài vứt bỏ cái mà người thế gian vắt óc
tranh giành, mong mỏi, có nghĩa là ǵ? Chỉ rơ “thiên tử sang quư, của cải
nhiều như bốn biển” chẳng phải là viên
măn! Ngài truy cầu sự viên măn, muốn thị hiện
viên măn, biểu diễn viên măn. Ngài biết: Muốn giúp cho
chúng sanh ĺa khổ được vui, dẫu quyền thế
cao tới đâu đi nữa, địa vị cao cách mấy,
cũng đều chẳng làm được! Hiện thời,
chúng ta nói chẳng thể thực hiện bằng chánh trị,
mà quân sự cũng chẳng làm được! Từ kinh
điển, chúng ta đọc thấy, Thích Ca Mâu Ni Phật
trẻ tuổi, vơ nghệ cao cường. Vào thời ấy,
Ngài có thể làm nguyên soái, hoặc làm tướng quân, nhưng
Ngài chẳng làm! Nh́n vào xă hội hiện thời, [sẽ thấy]
những thứ như khoa học kỹ thuật, công nghiệp,
thương nghiệp đều chẳng làm được,
mà cũng chẳng thể giải quyết vấn đề
viên măn!
Người
phương Tây phát triển theo phương hướng ấy,
phát triển cho tới hiện thời, cuộc sống vật
chất dường như rất sung túc, thịnh vượng,
nhưng quư vị phải hiểu: Hiện thời, trên thế
giới, những nạn nhân khổ sở chẳng có
ăn, chẳng có mặc, chẳng có nhà để ở, có
đến bao nhiêu? Tuy chúng ta sống cuộc đời vật
chất văn minh hiện đại, phải biết
đă trả cái giá lớn cỡ nào? Quư vị hăy tính toán cẩn
thận xem cái được có bù đắp nổi cái mất
hay không? Chúng ta trả một cái giá to lớn là vứt bỏ
toàn thể luân lư đạo đức, vứt bỏ đạo
lư nhân quả, đối với người phương
Tây th́ là vứt bỏ giáo dục tín ngưỡng tôn giáo, xă
hội sẽ biến thành xă hội ǵ? Biến thành thuần
túy ích kỷ, ai nấy khởi tâm động niệm toàn
là tổn người, lợi ḿnh, đáng kinh hăi quá! Do vậy,
xă hội hiện thời loạn đến mức như
thế đó! Thích Ca Mâu Ni Phật hiểu rành mạch, rơ
ràng; do vậy, Ngài chọn lựa, nếu nói theo cách hiện
thời, sẽ là “giáo dục
văn hóa xă hội đa nguyên”, Ngài làm chuyện này. Lại
c̣n tiến hành công tác giáo học, v́ sao chúng tôi nói Ngài là “văn
hóa đa nguyên”? Ngài và Khổng Tử giống nhau, học
tṛ chẳng phân biệt quốc gia, chẳng phân biệt sắc
dân, chẳng phân biệt tín ngưỡng tôn giáo; chỉ cần
quư vị chịu đến học, Ngài sẽ nhiệt tâm
dạy dỗ. Đấy là đa nguyên.
Ngài
không chỉ có ngôn giáo, mà điều quan trọng nhất là
thân giáo, buông xuống toàn bộ những điều người
thế gian mong cầu, hướng đến, để sống
cuộc đời của một vị tăng khổ hạnh.
Đối với cuộc sống ấy, [ắt sẽ có
kẻ bắt bẻ]: “Quư vị nói giúp người khác ĺa
khổ được vui, cớ sao Ngài sống khổ sở
như vậy?” Đúng vậy, kẻ b́nh phàm thấy Ngài khổ.
Thật ra, Ngài có khổ hay không? Ngài chẳng khổ tí nào!
V́ sao chúng ta biết? Người Hoa đă có một tấm
gương tốt là Nhan Hồi. Cuộc sống của
Nhan Hồi đúng là cuộc sống của một vị
tăng khổ hạnh, ăn cơm bằng giỏ, uống
nước bằng bầu, sống trong xóm nghèo hèn. Thầy
của ông ta là Khổng lăo phu tử đă ca ngợi: Cuộc
sống như vậy, đối với kẻ b́nh phàm sẽ
cảm thấy “bất kham kỳ
ưu” (chẳng thể chịu nổi nỗi lo buồn
ấy), nhưng Nhan Hồi “bất
cải kỳ lạc” (chẳng thay đổi niềm
vui). Niềm vui của Nhan Hồi là ǵ? Niềm vui của
Nhan Hồi chính là niềm vui của Khổng Tử, là niềm
vui hướng dẫn một đám học tṛ của Thích
Ca Mâu Ni Phật, sung sướng khôn sánh! Quư vị thấy
cuộc sống của tăng đoàn thuở ấy là nghỉ
đêm dưới gốc cây, giữa trưa ăn một
bữa, đi khất thực từng nhà, tự hành, hóa
tha, nhằm bảo cho quư vị biết: Con người sống
trên đời, sự hưởng thụ cao nhất là thân
và tâm đều chẳng có áp lực. Nói theo kiểu hiện
thời, sẽ là “chẳng có stress, chẳng có gánh nặng”,
thân tâm giải thoát, tập khí phiền năo quét sạch sành
sanh. Tam Học Giới, Định, Huệ
mỗi ngày một tăng trưởng, lẽ đâu
Ngài chẳng vui sướng?
Thiền
Định nâng cao, khẳng định là sẽ đột
phá các chiều không gian, phạm vi của cuộc sống rộng
lớn. Nay chúng ta chẳng có cách nào vượt khỏi giới
hạn của các chiều không gian, nhưng Ngài có thể. Các
khoa học gia hiện thời đă chứng tỏ thật
sự có các chiều không gian và thời gian, nhưng chúng được
sanh ra như thế nào? Họ không biết. Có thể đột
phá bằng cách nào? Họ cũng không biết! Nhưng trong Phật
pháp, trong tôn giáo thời cổ, tôn giáo ở Ấn Độ
vào thời cổ đều tu Thiền Định, Thiền
Định có thể đột phá. Do công phu định lực,
Bà La Môn ở Ấn Độ có thể đột phá các chiều
không gian của lục đạo. Trong Thiền Định,
họ có thể đến A Tỳ địa ngục, trông
thấy A Tỳ địa ngục, có thể thấy Phi
Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên. Do vậy, chuyện
luân hồi trong lục đạo chẳng phải là do
đức Phật dạy, quư vị phải biết điều
này, mà do ai nói? Bà La Môn giáo nói. Từ trong Thiền Định,
họ trông thấy, nhà Phật gọi điều đó là “cảnh giới Hiện Lượng”.
Chẳng phải là do họ suy đoán, chẳng phải là
huyễn giác của họ, mà là từ trong Thiền Định,
họ đă đột phá kích thước không gian, thật
sự tiếp xúc. Trong Thiền Định, chẳng có thời
gian, chẳng có không gian. Chẳng có thời gian, sẽ chẳng
có quá khứ, chẳng có vị lai. Chẳng có không gian, sẽ
chẳng có xa gần. V́ thế, phá vỡ kích thước
không gian, phá vỡ thời gian và không gian. Tuy trông thấy chân
tướng sự thật ấy, họ cũng chẳng
hiểu rốt ráo là chuyện như thế nào. Họ biết
t́nh huống trong lục đạo, nhưng lục đạo
do đâu mà có th́ không biết. Trong lục đạo có khổ,
có lạc, khổ nhiều, lạc ít. Làm thế nào để
có thể ĺa khổ được vui? Họ cũng chẳng
t́m ra phương cách!
Thích
Ca Mâu Ni Phật xuất hiện tại Ấn Độ, so
với Bà La Môn giáo, nói theo cách nói của Bà La Môn giáo, họ
sớm hơn Thích Ca Mâu Ni Phật một vạn năm. Nhưng
trong hiện tại, các học giả trên thế giới
đă khẳng định lịch sử của Bà La Môn
giáo, tức là xét theo lịch sử của Ấn Độ
giáo hiện thời, khẳng định là đă có từ tám
ngàn năm trăm năm. Tám ngàn năm trăm năm, so với
Phật giáo vẫn lâu hơn rất nhiều.
Hiện thời, thế giới thừa nhận Phật
giáo chỉ tồn tại hơn hai ngàn năm trăm
năm. Do vậy, dựa theo cách nói ấy của
người phương Tây, Bà La Môn giáo phải sớm
hơn Phật giáo năm ngàn năm. Sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật
xuất hiện, mới nói rơ ràng, minh bạch chuyện này:
“V́ sao có lục đạo? Làm thế nào để vượt
thoát lục đạo?” Không chỉ là có lục đạo,
ngoài lục đạo c̣n có tứ thánh pháp giới, Bà La Môn
chẳng phát hiện điều này. Thanh Văn pháp giới,
Duyên Giác pháp giới, Bồ Tát pháp giới, Phật pháp giới,
hợp [với lục đạo] thành mười pháp giới.
Họ (Bà La Môn) chẳng thể đột phá cái ải ấy,
điều đó cần phải có công phu định lực
sâu hơn, họ chẳng có cách nào!
V́
thế, từ, bi, hỷ, xả nói đến viên măn, sẽ
là giúp chúng sanh ĺa lục đạo, ĺa mười pháp giới,
đấy là đại từ đại bi, trở về
Nhất Chân pháp giới. Nhất Chân pháp giới vốn sẵn
có trong tự tánh của hết thảy chúng sanh, chúng ta phải
biết điều này! Trong phần sau của kinh Hoa Nghiêm,
nơi phẩm [Như Lai] Xuất Hiện, có nói: “Hết thảy chúng sanh đều
có trí huệ và đức tướng của Như Lai”.
Tôi đọc kinh Cổ Lan (Qur’an) của Y Tư Lan giáo
(đạo Hồi), thấy có một đoạn kinh
văn, Allah nói: “Vạn vật
đều là do ta dựa trên tiền định để
sáng tạo ra”. Các tôn giáo khác gọi Allah là Thượng
Đế. Allah tạo ra con người, ban cho con người
linh hồn, dựa vào đâu để cho người này
phú quư, kẻ kia bần tiện? Có phải là Allah chẳng
công bằng? Đoạn kinh văn ấy đă nêu ra câu trả
lời. Allah chẳng có ư kiến [riêng tư], Ngài công bằng,
dựa trên tiền định. Phật pháp đă giảng
về “tiền định”
rất rơ ràng: Trong đời quá khứ, quư vị làm lành,
đời này được phước báo. Trong đời
quá khứ, quư vị tạo tội nghiệp, đời
này đáng phải chịu khổ. Rốt cuộc là hưởng
phước hay chịu khổ? Chính là do quư vị đă tạo
ra cái nhân! Đó là tiền định, điều này rất
công bằng! V́ thế, trong cuộc đời của bất
cứ ai, bất luận đời sống như thế
nào, chẳng thể oán trời hờn người! Nói chung
một câu, đều là tự làm tự chịu. Thượng
Đế dựa vào tiền định để ban tặng
cát, hung, họa, phước cho quư vị.
Nhưng
đối với tiền định, nếu chúng ta nói sâu
hơn một tầng, nói đến sự tiền định
nguyên thủy, đấy là tiền định chân chánh, Phật
pháp đă nói rất rơ ràng: “Hết
thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng
của Như Lai”, đấy là tiền định. Sự
tiền định ấy là b́nh đẳng. “Tiền định” là hết
thảy chúng sanh trong vũ trụ b́nh đẳng, không hai,
không khác. V́ sao bất b́nh đẳng? Quư vị mê mất tự
tánh. Do đă mê mất tự tánh, nên mới sanh khởi phiền
năo, sanh khởi vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước, càng mê càng sâu hơn! Cuộc sống của
quư vị vốn là Nhất Chân pháp giới, là trong thế
giới Cực Lạc. V́ vậy, nơi ấy là gia
hương (quê nhà), cố hương, quư vị vốn thuộc
về nơi ấy. Sau khi đă mê, mới biến thành
mười pháp giới, biến thành lục đạo, biến
thành tam đồ. Đấy là ǵ? Do ác nghiệp biến ra.
Thiện hay ác đều chẳng phải là bản tánh; trong
bản tánh, chẳng có thiện hay ác. Nay đức Phật
dạy: Do thiện nghiệp sanh trong ba thiện đạo,
do ác nghiệp sẽ đọa vào ba ác đạo, đấy
đều là tiền định. Tiền định là do chính
ḿnh định, chẳng phải do Phật, Bồ Tát định,
chẳng phải do Thượng Đế định,
cũng chẳng phải là do Diêm La Vương định,
quư vị chẳng thể trách móc bất cứ ai!
Thích
Ca Mâu Ni Phật đă thị hiện, ban cho chúng ta một sự
khải thị rất lớn. Nếu ta quan sát cẩn thận
đôi chút, sẽ thấy bậc thánh hiền xưa nay,
trong ngoài nước, những vị sáng lập tôn giáo thật
sự lỗi lạc, đều là thánh nhân. Cuộc đời
của họ giống như Thích Ca Mâu Ni Phật, đều
là giáo dục văn hóa xă hội đa nguyên, nhưng Thích Ca
Mâu Ni Phật là người thực hiện lâu nhất. Thích
Ca Mâu Ni Phật ba mươi tuổi giác ngộ, sau khi
đă giác ngộ, sau khi đă minh bạch, Ngài liền theo đuổi
công tác giáo học, bảy mươi chín tuổi qua đời.
Do vậy, giảng kinh hơn ba trăm hội, thuyết
pháp bốn mươi chín năm. Sau khi đă hiểu rơ, Ngài
chọn lựa hạnh nghiệp này, hạnh nghiệp này
chính là giáo dục xă hội. Tôi nh́n lại tất cả các
tôn giáo, [nhận thấy] toàn là giáo dục xă hội. Quư vị
chỉ thấy những thứ nguyên thủy chẳng có mê
tín. Mê tín là do bản thân chúng ta mê, người khác chẳng
mê, kinh điển không mê, những bậc thánh hiền ấy
không mê, do chúng ta chấp mê, chẳng ngộ. Các vị ấy
thật sự đạt được giải thoát, chúng
ta vĩnh viễn khốn đốn, mê hoặc trong lục
đạo tam đồ. Các Ngài thấy chúng ta rất rơ
ràng, chúng ta chẳng thấy rơ ràng cho lắm.
Do
v́ như vậy, quư vị mới có thể thấu hiểu
“viên măn” là ǵ? Quư vị thấy Phật, Bồ Tát, tổ
sư đại đức đă v́ chúng ta thị hiện,
từ, bi, hỷ, xả viên măn. Hỷ (喜) là pháp hỷ, vui sướng. Chữ Hỷ ấy
chính là câu đầu tiên trong Luận Ngữ đă nói: “Học nhi thời tập chi, bất
diệc duyệt hồ?” (Học rồi thường
xuyên tập luyện, cũng chẳng vui ư?), thật sự
vui sướng! Người đọc sách thuở trước
gọi sự vui sướng ấy là “Khổng Nhan chi lạc”, tức là niềm vui
sướng của Khổng phu tử, Nhan Hồi, người
thế gian chúng ta chẳng nh́n ra. Đấy là niềm vui của
bậc thánh nhân. Khi tôi giảng kinh, cũng thấu lộ một
chút tin tức, đó là chân lạc. Chân lạc do đâu mà có?
Chân lạc xuất phát từ chữ cuối cùng, tức Xả.
Quư vị phải buông xuống. Quư vị không thể buông
xuống, sẽ chẳng đạt được lạc.
Quư vị buông xuống càng nhiều, càng vui sướng; đến
khi thành Phật, sẽ bỏ sạch sành sanh. Đẳng
Giác Bồ Tát vẫn chưa bỏ sạch. V́ sao? Các Ngài c̣n
có một phẩm sanh tướng vô minh chưa phá, “chưa phá” là chẳng buông xuống.
Buông xuống một phẩm sanh tướng vô minh ấy,
bỏ sạch, mới có thể chứng viên măn rốt ráo.
Do
vậy, kẻ mới học Phật giáo th́ trước hết
là học xả những ǵ? Xả vật ngoài thân. Xả
là bố thí, bố thí là xả. Kẻ sơ học xả
những thứ thiết yếu quá thừa thăi trong cuộc
sống, hết thảy những thứ cần thiết
cho cuộc sống của ta thảy đều vừa
đủ. Hễ ta c̣n có dư thừa th́ phải giúp đỡ
những chúng sanh khổ nạn. Họ chẳng có, họ
thiếu thốn, ta có thừa mứa những thứ để
ăn uống, họ chẳng có, ta có thể chiếu cố
những người bần khổ ấy. Bắt đầu
từ chỗ này, quư vị hăy chủ động quan sát,
nơi nào cần, sẽ ngay lập tức đưa đến.
Ta có tiền dư, tiền chi dụng cho cuộc sống của
chính ḿnh đă có, tiền c̣n dư, thừa thăi, hăy đem giúp
đỡ những người cần đến trong nhu cầu
sinh hoạt ăn, mặc, ở, đi lại của họ.
Trước hết, hăy thực hiện từ chỗ này.
Trong kinh giáo Đại, Tiểu Thừa, đức Phật
đă dạy rất nhiều, [do Tài Bố Thí], quư vị nhất
định sẽ đạt được của cải.
Của cải trong mạng của quư vị do đâu mà có?
Trong đời quá khứ, ưa thích tu Tài Bố Thí, thích
dùng tài vật giúp đỡ người khác, đời này
quư vị sẽ có nhiều của cải. [Trong đời
quá khứ], ưa thích chỉ dạy người khác, đời
này quư vị được thông minh, trí huệ. Quư vị
có bi tâm giúp người khác giải quyết khốn khổ,
[đời này] quyết định được khỏe
mạnh, sống lâu.
Của
cải, thông minh, trí huệ, khỏe mạnh, sống lâu, có
ai chẳng cầu? Điều này đúng là chẳng phân biệt
tôn giáo, chẳng phân biệt sắc tộc, chẳng phân biệt
quốc gia. Chúng tôi đă hỏi han ở khá nhiều
nơi mà tôi đă đến trên thế giới, [đều
thấy] chẳng có ai không cần ba thứ ấy, ai nấy
đều cần! Dùng phương pháp ǵ để đạt
được? Đức Phật nói ba thứ bố thí, Tài
Bố Thí, Pháp Bố Thí, Vô Úy Bố Thí, càng thí càng nhiều,
nhiều th́ như thế nào? Càng nhiều càng thí, ba thứ
ấy sẽ tăng trưởng mỗi năm, chẳng
có chừng hạn! Quư vị không chịu xả, do không chịu
xả, sẽ chẳng có, những ǵ đạt được
sẽ là hữu hạn. Quư vị có thể thường xả,
thường thí, càng thí càng nhiều, cũng là pháp hỷ
sung măn. V́ thế, đạt đến cảnh giới Bồ
Tát, đạt đến cảnh giới Như Lai, các Ngài
bố thí, giáo học trọn khắp pháp giới hư không
giới, chúng ta chẳng có cách nào tưởng tượng
niềm hoan hỷ ấy, mà cũng chẳng có cách nào h́nh
dung. Đúng là “tâm bao thái hư,
lượng châu sa giới”.
Trong
thí xả, điều quan trọng nhất là Pháp Bố Thí,
chư vị xem đọc đôi chút kinh điển Đại
Thừa, sẽ đều thấy [điều ấy].
Người đọc kinh Kim Cang rất nhiều. Quư vị
thấy trong kinh ấy, đức Phật đă nói “bố thí bảy báu [đầy ắp
trong] đại thiên thế giới”; đó là nói về
Tài Bố Thí, người nào có của cải to lớn
như vậy? Dẫu bố thí bảy báu đầy ắp
trong đại thiên thế giới, công đức vẫn
chẳng bằng người v́ kẻ khác nói bốn câu kệ!
Đấy là nói rơ công đức của Tài Bố Thí chẳng
thể sánh bằng Pháp Bố Thí. V́ thế, chư Phật,
Bồ Tát thị hiện, đều coi Pháp Bố Thí là
phương tiện chánh yếu để giáo hóa chúng sanh.
Giáo hóa chúng sanh, không chỉ là ngôn giáo, [mà c̣n dùng] thân giáo, [tức
là] lấy thân làm gương. Tâm là Phật tâm, lời lẽ
là Phật ngôn, Phật ngôn là giáo, hạnh là Phật hạnh,
Phật hạnh là giới luật. V́ thế, Đệ Tử
Quy và Thập Thiện Nghiệp Đạo là hành tŕ cơ bản
của hết thảy chư Phật Như Lai. Quư vị
có thể làm được, tức là quư vị sẽ có
căn cơ của Phật, Bồ Tát, quư vị lại học
theo Phật, Bồ Tát chẳng khó. Quư vị chẳng có
căn cơ ấy, sẽ khó khăn lắm. A! Hiện thời
đă hết thời gian rồi, chúng ta nghỉ ngơi mấy
phút.
***
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi
xuống. Xin xem tiếp đoạn thứ tám trong phần
trường hàng, chúng ta đọc kinh văn một lượt.
(Kinh)
Vân hà đắc xứ phi xứ trí lực, quá vị hiện
tại nghiệp báo trí lực, căn thắng liệt trí lực,
chủng chủng giới trí lực, chủng chủng giải
trí lực, nhất thiết chí xứ đạo trí lực,
Thiền giải thoát tam-muội nhiễm tịnh trí lực,
túc trụ niệm trí lực, vô chướng ngại thiên
nhăn trí lực, đoạn chư Tập trí lực?
(經)云何得處非處智力。過未現在業報智力。根勝劣智力。種種界智力。種種解智力。一切至處道智力。禪解脫三昧染淨智力。宿住念智力。無障礙天眼智力。斷諸習智力。
(Kinh: Làm thế nào để đắc trí lực
biết sự vật hợp lư hay phi lư, trí lực biết
nghiệp báo trong quá khứ, vị lai, hiện tại, trí lực
biết căn cơ thù thắng hay kém cỏi, trí lực biết
các thứ cảnh giới, trí lực thấu hiểu các thứ
tri giải, trí lực biết hết thảy chúng sanh sẽ
sanh vào đường nào, trí lực biết Thiền giải
thoát tam-muội nhiễm hay tịnh, trí lực biết túc mạng
an trụ Niết Bàn, trí lực thiên nhăn chẳng bị
chướng ngại, trí lực đoạn dứt các Tập?)
Thanh
Lương đại sư chú giải đoạn này
như sau:
(Sớ)
Cụ túc thập lực, tịnh kiến thượng
văn.
(疏)具足十力,並見上文。
(Sớ: Đầy đủ mười lực,
xem giải thích trong những phần trước).
Trong
phần trước đă nói mấy lượt rồi,
nhưng các đồng học có người là “tân lai” (mới tới lần
đầu) nghe kinh này, gặp đoạn kinh văn này th́
ít nhiều ǵ chúng tôi cũng phải giới thiệu đại
lược. Mười loại này đều được
gọi là “trí lực”; do vậy,
có thể biết: Đấy là đức dụng của
trí huệ. Tác dụng của trí huệ chắc chắn
không chỉ là mười loại này. V́ thế, chúng ta biết
trí huệ hiện tiền, thường nói là “đại dụng vô
phương” (có tác dụng to lớn không ngằn mé). [Ở
đây, kinh Hoa Nghiêm] đă quy nạp chúng thành mười loại
lớn. Mười loại lớn ấy nếu triển
khai sẽ là vô lượng vô biên. Đấy chính là trí dụng
tự tại của Phật, Bồ Tát.
Loại
thứ nhất là “xứ phi xứ
trí lực”. Thông thường, chữ Xứ (處)
được giải thích là “đạo”, hoặc là Lư. [“Xứ phi xứ”] là biết sự
vật hợp lư hay phi lư. Chẳng hạn như: Do thiện
hạnh, thiện nhân, quyết định đắc thiện
quả. Đấy là Xứ, tức là hoàn toàn hợp lư. Nếu
nói do thiện tâm, thiện hạnh, chẳng đạt
được thiện quả. Đấy là “phi xứ”. “Phi xứ” là chẳng có đạo lư ấy. Ư niệm
ác, hành vi ác, nhất định mắc khổ báo, đó là
Xứ. Tuyệt đối chẳng thể nào nói: Do ư niệm
ác, do hành vi ác, mà có thể đạt được quả
báo tốt lành, chẳng có lẽ ấy! Đấy là trí huệ
chân thật, thấy rơ ràng, rành rẽ.
Phàm
phu có cách nh́n khác hẳn. Trong xă hội này, xác thực là chúng
ta thấy có những kẻ không điều ác nào chẳng
làm mà được đại phú, đại quư. Có những
người thật sự là người tốt, hành thiện,
tích đức, [thế mà] nghèo khổ, khốn quẫn khó
thể chịu nổi. Đấy là chuyện như thế
nào? Điều này dường như hoàn toàn mâu thuẫn với
điều đầu tiên trong mười lực. Chúng ta
chỉ thấy trước mắt, chẳng thấy quá khứ,
mà cũng chẳng có thấy vị lai, đấy là ǵ?
Chúng ta chẳng có trí huệ! Nếu có trí huệ, quư vị
sẽ có cách nh́n khác hẳn. Quư vị thấy quá khứ và
cũng thấy vị lai của kẻ đó, nhân quả
thông ba đời, quư vị mới thật sự trông thấy
chân tướng sự thật.
Đời
này, kẻ đó làm ác mà vẫn hưởng thụ phú quư, “phú” (富) là kẻ ấy có của cải, “quư” (貴) là kẻ
ấy có địa vị. Kẻ ấy làm quan to, có lắm
của cải, đấy là chuyện như thế nào?
Trong đời quá khứ, kẻ đó đă tu tập, tích
lũy nhiều, đời này bị mê muội, mê mất tự
tánh, đă bị hoàn cảnh, tức là hoàn cảnh nhân sự
và vật chất ảnh hưởng, đặc biệt chịu
ảnh hưởng không tốt đẹp, thường ở
cùng một chỗ với kẻ bất thiện. Do vậy,
lây nhiễm những tập khí phiền năo, làm ra khá nhiều
[chuyện bất hảo]. Chúng ta nói nghiêm trọng hơn một
tí, sẽ là những chuyện thương thiên hại lư, tổn
người, lợi ḿnh, mà vẫn làm quan to, vẫn giàu sụ,
là do nguyên nhân nào? Trong đời quá khứ, kẻ ấy
đă tu tập, tích lũy quá nhiều. Phật, Bồ Tát trông
thấy, v́ kẻ đó đời này tâm hạnh chẳng
lành, phước báo [đă tu tập] trong đời quá khứ
bị chiết giảm, nhưng chính kẻ đó hoàn toàn chẳng
biết! Ví như trong mạng kẻ đó, quan tước
(tước vị) có thể làm đến Tể Tướng;
đời này, kẻ ấy chỉ làm đến Bộ
Trưởng, đă bị hao hụt, khấu trừ rồi!
Trong mạng, ví dụ như của cải có đến một
trăm ức, hiện thời kẻ đó chỉ có hai ba chục
ức, đă bị khấu trừ, chiết giảm! Nhưng
bọn phàm phu chúng ta nh́n vào [chuyện trước mắt],
không biết [những chuyện vừa nói trên đây, chỉ
thấy] khi làm ác, c̣n có địa vị cao như thế,
c̣n hưởng phước báo to như thế, chẳng biết
kẻ ấy đă bị khấu trừ trên một mức
độ to lớn. Nếu trong mạng chẳng có đại
phú, đại quư như thế; kẻ đó đă sớm bị
đọa lạc, ch́m đắm, chẳng có ai biết
đạo lư này!
Có
người tu thiện tích đức, đời này cuộc
sống bần cùng, là do nguyên nhân nào? Trong đời quá khứ
chẳng tu, trong mạng chẳng có phú quư, vận mạng
nghèo túng, hèn kém, áo cơm thiếu thốn. Đời này,
may mắn gặp thiện tri thức, gặp bạn lành,
biết sửa lỗi đổi mới, biết đoạn
ác, tu thiện, biết tích lũy công đức, cho nên người
ấy vẫn c̣n có thể miễn cưỡng sống
được. Nếu đời này, người ấy chẳng
tu tập, tích lũy như vậy, ngay cả mức sống
như trong hiện thời người ấy cũng chẳng
hưởng được! Đời này tuy rất nghèo
khổ, đời sau phước báo to lớn. Người
ấy tu phước cho đời sau. Do vậy, nếu
quư vị có thể thấy ba đời, sẽ tâm b́nh khí ḥa,
gật đầu: - Có lư, chẳng phải là vô lư!
Trong
mạng vốn có, nói theo Phật pháp, sẽ được
gọi là “định số”,
[hàm ư những ǵ sẽ có trong đời sau là] do quư vị
đă tu trong đời trước, [nên gọi] là “định số”. Trong đời
hiện tại này, chúng ta khởi tâm động niệm hằng
ngày đều có thiện niệm, đều có ác niệm,
lời nói và việc làm cũng giống như thế. Phải
biết: Đối với định số trong mạng
của chúng ta, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ,
tạo tác lại sanh ra [tác dụng] cộng, trừ, nhân,
chia. Chúng ta dấy lên thiện niệm, thiện ngôn, thiện
hạnh, phước liền tăng trưởng, tăng
thêm đôi chút. Nếu chúng ta tạo tác ác nghiệp, định
số lại bị chiết giảm đôi chút, lại giảm
bớt đôi chút. Đại thiện th́ [định số]
được nhân lên; đại ác, ắt [định số]
được chia ra. Do khởi tâm động niệm,
ngôn ngữ, tạo tác hằng ngày, [định số]
đều bị cộng, trừ, nhân, chia, chỉ là mức
độ lớn hay nhỏ [khác biệt]. Đại ác sẽ
khấu trừ, giảm bớt định số của
quư vị trên một mức độ lớn. Đại
thiện sẽ tăng trưởng trên một mức
độ lớn. Ví như quan tước trong mạng kẻ
đó chỉ có thể làm một huyện thị trưởng,
nghiễm nhiên về sau, người ấy có thể làm
đến Tể Tướng, khẳng định là suốt
một đời này đă v́ nước, v́ dân, những ǵ
[người ấy] đă tu tập, tích lũy đều
là đại thiện. Chẳng v́ chính ḿnh, người ấy
bèn được nâng cao, tiến cao hơn, trí huệ
cũng tăng trưởng, phước báo cũng tăng
trưởng, là chuyện như thế đó. Phải hiểu
rơ ràng! Nếu chẳng hiểu rơ ràng, [chỉ biết] nh́n
vào hiện tượng, trong tâm sẽ thường sanh bất
b́nh, oán trời, hờn người: “Người tốt
chẳng có hảo báo!” Nhân quả báo ứng chẳng sai sẩy
mảy may, chẳng có ai làm chủ tể trong ấy! Đấy
là phép tắc tự nhiên, hoàn toàn chẳng có ai làm chúa tể,
mà là tự nhiên, do sự cảm ứng trong Tánh Đức.
Câu
thứ hai là “quá vị hiện
tại nghiệp báo trí lực”. Câu này nói đến nhân
quả nghiệp báo, “quá” (過) là quá khứ, “vị”
(未) là vị lai, [cùng với] hiện
tại là ba đời, nói đến ai? Hết thảy
chúng sanh; tức là đối với nghiệp nhân quả
báo của hết thảy chúng sanh trong quá khứ, hiện tại,
vị lai, Phật, Bồ Tát chẳng có ǵ không biết. Không
chỉ là biết, lại c̣n biết [đối với] khởi
tâm động niệm mỗi ngày của quư vị, quả
báo sẽ bị cộng, trừ, nhân, chia, thảy đều
hiểu rơ ràng. Do vậy, có thể biết tầm trọng
yếu của giáo dục. Trong các buổi giảng, cho
đến trong nhiều hội nghị, hễ phát biểu,
tôi đều nhắc tới vấn đề này, giáo dục
trọng yếu hơn bất cứ thứ ǵ khác. Trọng
yếu nhất trong giáo dục là giáo dục luân lư đạo
đức và giáo dục nhân quả, nói đến chỗ rốt
ráo viên măn sẽ là giáo dục Đại Thừa
Thật
sự nói đến chỗ rốt ráo viên măn của giáo dục
Đại Thừa, chẳng đọc kinh Đại Thừa
sẽ không thể biết. Nay chúng ta học tập bộ
kinh Hoa Nghiêm này là tinh hoa của Phật pháp, chỉ có điều
phân lượng hơi lớn. Với mức độ tiến
triển hiện thời, để giảng viên măn bộ
kinh này, tôi ước tính phải mất hai vạn giờ,
nay chúng tôi đă giảng gần ba ngàn giờ, mới giảng
được một phần mười! Nhưng giảng
cặn kẽ th́ mới thật sự là có ích, ta và người
đều được lợi ích. Cảnh giới của
chính người giảng sẽ nương theo kinh văn
mà tiến cao hơn, xác thực là pháp hỷ sung măn. Người
nghe nếu chuyên tâm nghe, thường nghe, nhất định
sẽ khai ngộ, có tiểu ngộ hoặc có đại
ngộ tùy thuộc căn tánh của mỗi người.
Dù là đối với những vấn đề trong cuộc
sống hiện tiền, vấn đề trong công việc,
hay vấn đề trong xử sự, đăi người
tiếp vật, kinh này đều có câu trả lời, dạy
chúng ta phải nên thực hiện như thế nào. Quư vị
không học, sẽ chẳng biết; sau khi đă học,
quư vị mới biết đấy là học vấn thật
sự hữu dụng, chẳng phải là bàn luận chuyện
huyền diệu, mà thật sự là hữu dụng!
Nếu
chúng ta hiểu lư luận và sự thật
của tam thế nhân quả, tôi tin là chúng ta khởi tâm
động niệm, ngôn ngữ, tạo tác, chắc chắn
sẽ hướng theo điều thiện, sẽ chẳng
làm ác. V́ sao? Thời gian trong một đời này ngắn
ngủi, tạm bợ. Thời gian trong đời sau dài
lâu như vậy, từ kinh điển, chư vị
đă thấy điều này. Từ sự thật, quư vị
cũng thấy được. Đức Phật nói về
lục đạo, nói thật ra, trong lục đạo, thọ
mạng của loài người ngắn nhất! Nhưng
nói “trong lục đạo, thọ mạng của loài
người ngắn nhất” cũng chẳng công bằng,
phải là “ngắn nhất trong lúc này”. Trong kinh, đức
Phật đă dạy: Tuổi thọ của con người
khi dài nhất sẽ là tám vạn bốn ngàn năm, chẳng
ngắn! Đó là khi [có thọ mạng] dài nhất. Khi ngắn
nhất sẽ là mười tuổi. Đó là nói đến
thọ mạng b́nh quân. Đức Phật nói con người
từ mười tuổi, [tức là] xét theo tuổi thọ
b́nh quân, cứ một trăm năm bèn tăng thêm một tuổi,
tăng đến tám vạn bốn ngàn tuổi. Sau đấy,
lại từ tám vạn bốn ngàn tuổi, cứ mỗi trăm
năm giảm một tuổi, lại giảm cho đến
mười tuổi. [Chu kỳ] một tăng một giảm
như vậy được gọi là một tiểu kiếp.
Đấy là đơn vị để tính toán thời
gian trong Phật pháp, tức tiểu kiếp. Thời gian ấy
được gọi là một tiểu kiếp. Hai
mươi tiểu kiếp là một trung kiếp, bốn
trung kiếp là một đại kiếp. Chuyện này mọi
người đều có thể tính toán được!
Giai
đoạn chúng ta đang sống trong hiện thời chính
là kiếp giảm. Khi Thích Ca Mâu Ni Phật xuất thế,
con người thọ một trăm tuổi, cứ qua một
trăm năm lại giảm một tuổi. Theo như lịch
sử Trung Hoa ghi chép, kể từ khi Thích Ca Mâu Ni Phật
lăo nhân gia diệt độ đến nay là ba ngàn lẻ ba
mươi ba (3.033) năm, cứ mỗi trăm năm giảm
một tuổi, [cho nên] từ một trăm tuổi đă
giảm mất ba mươi năm. Hiện thời, tuổi
thọ b́nh quân phải là bảy mươi tuổi. Cổ
nhân nói: “Nhân sanh thất thập
cổ lai hy” (Người thọ bảy mươi
xưa nay hiếm), [đó là] tuổi thọ b́nh quân. Chúng ta
sống trong giảm kiếp, mỗi trăm năm giảm
một tuổi, khi giảm đến mười tuổi
bèn quay lại, tức là tăng lên, cứ mỗi trăm
năm, tăng thêm một tuổi. Giảm kiếp th́ tuổi
thọ càng ngắn, cuộc sống càng khổ, kiếp nạn
mà! Con người thọ mạng dài, phước báo càng lớn,
trạng huống sống càng tốt đẹp. Nhưng phải
biết, loài người có thọ mạng dài, coi trọng
giáo dục luân lư đạo đức, có Phật, Bồ
Tát đến giáo hóa. Phật, Bồ Tát hết sức từ
bi, chúng sanh có cảm, các Ngài sẽ ứng. Các Ngài đến
thế gian này để giáo hóa chúng sanh.
Do
vậy, chẳng thể không tin nhân quả ba đời, nó
xác thực là thật, chẳng giả. Phật có thể biết,
Bồ Tát có thể biết, thậm chí theo [sự hiểu
biết của] cá nhân tôi, những người có chút công
năng đặc dị cũng biết đời trước
quư vị làm ǵ, đời này quư vị sẽ sanh về
đâu. Đấy là do nguyên nhân nào? Tâm con người thanh
tịnh, có một chút công phu định lực, sẽ có
thể đột phá các chiều không gian và thời gian.
Nhưng v́ [định lực] nhỏ bé, tức là tiểu
định, sẽ đột phá các tầng cấp chẳng
nhiều lắm, có thể trông thấy đời kế,
đời sau của quư vị, hoặc là có thể thấy
hai ba đời trong quá khứ, thậm chí thấy
được mười mấy đời, nhưng nhiều
hơn nữa th́ họ chẳng có năng lực ấy,
công phu định lực không sâu mà! Người có công phu
định lực sâu, có thể thấy một trăm
đời, hai trăm đời trong quá khứ của quư
vị. Giống như trong kinh điển, đức Phật
đă dạy: Công phu định lực của A La Hán có thể
thấy năm trăm đời của hết thảy
chúng sanh. Với năng lực của A La Hán, hơn năm
trăm đời các Ngài sẽ chẳng thấy được,
chẳng biết được! A La Hán có thể thấy năm
trăm đời quá khứ, năm trăm đời vị
lai. Năng lực của Ngài như thế đó, đấy
cũng là công phu định lực của Ngài khởi tác dụng.
Kẻ tu hành b́nh phàm chẳng đạt được cảnh
giới như vậy. Kinh Phật nói A La Hán tu Cửu Thứ
Đệ Định, đă vượt thoát lục đạo
luân hồi. [Định] cao nhất trong lục đạo
là Tứ Thiền, Bát Định, năng lực [của
các môn Định] ấy cũng khá lắm. V́ sao họ vẫn
chẳng thể vượt thoát? Do tập khí vô minh quá nặng,
chướng ngại họ tiến cao hơn!
Câu
thứ ba là “Căn thắng liệt
trí lực”, nghĩa là biết hết thảy chúng sanh
căn tánh thù thắng hoặc kém cỏi, đắc quả
lớn hay nhỏ, Phật, Bồ Tát có năng lực ấy.
V́ thế, giáo học sẽ khế cơ. Học tṛ
đông đảo, Ngài vừa trông thấy, [liền biết]
học tṛ đứa nào là lợi căn, đứa nào là
độn căn. Lợi căn dễ dạy, độn
căn sẽ khó hơn. Kẻ lợi căn sẽ chứng
đại quả, kẻ trung hạ căn chứng quả
không cao! Thí dụ rơ rệt nhất là trong Thiền Tông Trung
Hoa, Huệ Năng và Thần Tú đều là đệ tử
của Ngũ Tổ. Thần Tú theo Tổ một thời
gian dài, thân cận Ngũ Tổ, nói theo cách hiện thời,
Ngài đă đảm nhiệm vai tṛ trợ giáo, đạt
đến địa vị ấy. Hơn nữa, hết
thảy đại chúng rất tôn kính và cũng đều
tuân phục Ngài, khẳng định Ngài có tư cách kế
thừa ngôi vị Tổ. Không ngờ đến lúc đó,
nẩy ra Huệ Năng! Ngũ Tổ quan sát thấy Huệ
Năng căn khí thù thắng, vượt trỗi Thần
Tú, Thần Tú kém cỏi hơn Huệ Năng. Ngài thấy
rơ ràng Huệ Năng chứng quả to lớn, Thần Tú
chứng quả nhỏ nhoi, chẳng bằng Huệ
Năng. Đều có thể chứng, nhưng quả báo có
lớn hay nhỏ khác nhau!
Dùng
địa vị trong kinh Hoa Nghiêm để nói, địa
vị do Huệ Năng đại sư đă chứng phải
là Sơ Trụ trở lên, điều này là khẳng định,
v́ sao? Minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật, Ngài vượt
thoát lục đạo, vượt thoát mười pháp giới.
Quả vị do Thần Tú đại sư đă chứng có
thể vượt thoát lục đạo hay không, chúng tôi
cũng không dám nói. Nhưng có thể khẳng định,
Ngài chẳng đọa ba ác đạo, chuyện này là khẳng
định. Ngài có thể chứng phước báo nhân thiên,
bọn phàm phu chúng ta chẳng có năng lực suy đoán cảnh
giới của thánh nhân. Nhưng Ngài tu rất khá, dẫu tu
khá cách mấy, có thể vượt lên cao, dẫu là có thể
vượt thoát lục đạo luân hồi, vẫn chẳng
thể vượt thoát mười pháp giới, đấy
là điều khẳng định. Do vậy, chúng ta khẳng
định Ngài dưới th́ chắc chắn chẳng đọa
tam đồ, trên là chẳng thể vượt thoát mười
pháp giới. Đấy là quan sát rất khách quan của
chúng tôi, quả báo của Ngài thuộc khoảng này.
Nhưng quả báo của Huệ Năng đại sư
chắc chắn là vượt thoát mười pháp giới,
từ Sơ Trụ trở lên. Lên cao đến giai đoạn
nào, bọn phàm phu chúng ta chẳng thể biết được!
Quyết định là từ Sơ Trụ trở lên,
cũng là phá một phẩm vô minh, chứng một phần
Pháp Thân, là Phần Chứng Tức Phật. Nói theo tông Thiên
Thai, ngài Thần Tú chứng quả báo là Tương Tự
Tức Phật. Đấy là nói theo [địa vị cao
nhất], chứ nếu là tầng thứ nhất, sẽ
là Quán Hạnh Tức Phật, có thể khẳng định
điều này. Chúng ta thường gọi Quán Hạnh Tức
Phật là “công phu đắc lực”.
Bất luận quư vị tu học pháp môn nào, hễ công phu
đắc lực th́ gọi là Quán Hạnh.
Công
phu đắc lực, nếu tu Tịnh Độ, sẽ quyết
định văng sanh. Trong Tịnh Độ, quả báo chứng
đắc do văng sanh Tây Phương sẽ thù thắng khôn
sánh, tám vạn bốn ngàn pháp môn khác đều chẳng thể
sánh bằng! Nếu quư vị thuộc địa vị Quán
Hạnh trong các pháp môn khác, cả tám vạn bốn ngàn pháp
môn đều chẳng thể thành tựu, ắt lại cần
phải tiến cao hơn một cấp, tức địa
vị Tương Tự, mới được coi là thật
sự thành tựu. Địa vị Tương Tự thấp
nhất là A La Hán, địa vị ấy thật sự chứng
quả, thật sự thành tựu, vượt thoát lục
đạo. Nói thông thường, địa vị Quán Hạnh
chẳng thể thoát khỏi lục đạo luân hồi,
nhưng niệm Phật văng sanh, người ấy có thể
“hoành siêu”, [tức là] có thể
vượt thoát tam giới theo chiều ngang. Đấy là
chỗ thù thắng của pháp môn Tịnh Tông. Nhưng đối
với pháp môn hoành siêu của Tịnh Tông, quư vị cũng
ắt phải hội đủ điều kiện như
Thích Ca Mâu Ni Phật đă dạy trong kinh. Giống như
chúng tôi vừa nhắc đến Tịnh nghiệp tam
phước, quư vị nhất định phải làm được
Tam Phước, Lục Ḥa! Trong Tam Phước, dẫu chẳng
làm được điều thứ ba, nhất định
phải làm được hai điều trước, “hiếu dưỡng cha mẹ, phụng
sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết, tu thập
thiện nghiệp”, nhất định làm được
điều này. Điều thứ hai: “Thọ tŕ Tam Quy, đầy đủ các giới, chẳng
phạm oai nghi”, khẳng định làm được
hai điều này, công phu sẽ đắc lực. Có thể
thật sự buông xuống hết thảy các pháp thế
gian và xuất thế gian, chẳng buông xuống sẽ là chướng
ngại, chướng ngại quư vị văng sanh! Do vậy, ắt
phải buông xuống. Phải hiểu đạo lư này. Lục
Độ, Tứ Vô Lượng Tâm phải tùy phần, tùy
duyên, hăy tùy phần học tập. Dùng công đức ấy
hồi hướng Tây Phương Cực Lạc thế
giới, dùng làm tư lương Tịnh Độ của
chính ḿnh, phải thật sự tu tập. Đoạn hết
thảy ác, tu hết thảy thiện!
Kế
đó là câu thứ tư, “chủng
chủng giới trí lực”. Chúng ta thường gọi
“giới” (界) là cảnh giới. Có nghĩa là biết hết thảy
các cảnh giới bất đồng của chúng sanh.
Lũ người thế gian như chúng ta chỉ có thể
quan sát đại khái tư tưởng, lời nói và hành vi
của họ. Cảnh giới ấy cũng có trồi, sụt:
Thật sự dụng công, tinh tấn chẳng biếng
nhác, cảnh giới của người ấy sẽ không
ngừng tăng lên. Nếu như tham cầu tiếng
tăm lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần của
thế gian, cảnh giới của người ấy
cũng dần dần đọa lạc, chúng ta phải hiểu
đạo lư này. Khá nhiều người thường
đến hỏi tôi: “Đời người có ư nghĩa
ǵ? Đời người có giá trị ǵ?” Tôi thấy khá
nhiều câu hỏi như thế, ở Trung Hoa và ngoại
quốc đều có. Tôi giải đáp: “Ư nghĩa và giá trị
thật sự của đời người chính là nâng cao
cảnh giới của chính ḿnh”. Chuyện này thật sự
có ư nghĩa, có giá trị, quyết định chớ nên
đọa lạc. Nếu thật sự tiến lên cao, sẽ
tự nhiên đạt được pháp hỷ sung măn, quyết
định chẳng phải là sự hưởng thụ
trong thế gian này.
Hưởng
thụ trong thế gian này, phải nhớ, trong kinh, đức
Phật thường dạy: Tất cả sự hưởng
thụ của người thế gian đă được
đức Phật quy nạp thành năm chữ “khổ, lạc, ưu, hỷ, xả”.
Thân có hai thứ cảm nhận là Khổ và Lạc, tâm có
hai thứ cảm nhận là Ưu và Hỷ. Chư vị hăy
ngẫm xem, thân chúng ta là khổ nhiều hay lạc nhiều?
Tâm là ưu nhiều hay hỷ nhiều? Đại khái là
đại đa số mọi người, hễ tâm ta
ưu (ưu lự), thân sẽ khổ sở. Quư vị làm
thế nào để có thể ĺa khổ được
vui? Ĺa khổ được vui mà dựa vào sự giúp
đỡ của người ngoài, chẳng đáng trông cậy!
Phật, Bồ Tát cũng chẳng thể giúp quư vị. Phật,
Bồ Tát giúp người bằng cách dạy quư vị
phương pháp, dạy quư vị hiểu rơ đạo lư ấy.
Đă hiểu rơ đạo lư, nói cho quư vị nghe
phương pháp, chính quư vị thực hiện! Thành quả
cuối cùng vẫn là tự làm, tự chịu. Phật
không kể công, Phật nói: “Ta chẳng có công lao! V́ sao? Do
chính quư vị tu, chính quư vị chịu đoạn ác tu thiện,
chính quư vị chịu sám trừ nghiệp chướng, nâng
cao cảnh giới của chính ḿnh”. V́ thế, đức
Phật là Tăng Thượng Duyên cho chúng sanh mà thôi! Giống
như thầy dạy tṛ, tṛ không gắng công, thầy chẳng
giúp được tí nào. Học tṛ chịu dụng công, nó
có thể lư giải những điều thầy đă dạy,
có thể y giáo phụng hành, nó thật sự đạt
được lợi ích.
Do
Phật pháp là sư đạo, phải hiểu rơ điều
này. Chớ nên coi Phật, Bồ Tát như thần minh để
cúng bái; nếu làm như vậy, quư vị là mê tín! Phật,
Bồ Tát gia tŕ chúng ta bằng kinh giáo, giáo huấn của
các Ngài thật sự đă gia tŕ chúng ta. Ĺa khỏi kinh
điển, cứ thắp nhang, lạy Phật, cầu Phật,
Bồ Tát phù hộ, không có chuyện ấy đâu nhé! Điều
đó là mê tín. Hơn nữa, những kẻ mê tín thường
ôm giữ tâm lư cầu may, thậm chí c̣n hối lộ Phật,
Bồ Tát: “Các Ngài phù hộ cho con phát tài. Con phát tài một vạn
đồng, sẽ cúng dường Ngài một trăm đồng”,
trả giá, mặc cả với Phật, Bồ Tát. Há có lẽ
ấy? Đă biến thành hối lộ! V́ thế, hoàn toàn
sai bét! Đấy mới là mê hoặc, điên đảo, dụng
tâm sai trật!
Nâng
cao cảnh giới, trong nhân gian từ phàm nhân tăng lên tới
hiền nhân, tăng lên tới thánh nhân. Tại Trung Hoa, Mạnh
Tử tượng trưng cho hiền nhân, Khổng Tử
tượng trưng cho thánh nhân. Trong Phật pháp, Bồ Tát
đại diện cho hiền nhân, Phật đại diện
cho thánh nhân. Do vậy, có thể biết: Phải nâng chính
ḿnh lên cảnh giới thánh hiền, đọc sách dốc
chí nơi thánh hiền. Đấy là “có cầu, ắt ứng”, chẳng phải là
hướng ra ngoài để cầu, mà là hướng nội
để cầu. Thánh và phàm sai biệt ở chỗ nào?
Phàm phu ích kỷ, chẳng vong ngă, hết thảy đều
v́ chính ḿnh. Thánh nhân vô ngă, quư vị thấy kinh Kim Cang nói rất
hay: “Nếu Bồ Tát có ngă tướng,
nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng,
sẽ chẳng phải là Bồ Tát”. Do vậy, có thể
biết, cảnh giới của Bồ Tát là vô ngă. Tự và
Tha chẳng hai, tánh và tướng như một. Cảnh giới
của Bồ Tát là trọn khắp pháp giới và hư
không giới cùng một Pháp Thân. Nay chúng tôi nói cách khác, một
Thể cộng đồng sanh mạng. Nói như vậy, mọi
người sẽ dễ hiểu. Một Thể cộng
đồng sanh mạng chính là một Pháp Thân. Trong giáo pháp
Đại Thừa, đức Phật nói: “Mười phương tam thế Phật, cùng chung
một Pháp Thân”, nói lên
điều ǵ? Vạn sự vạn vật trong vũ trụ
có chung một Pháp Thân, đấy là cảnh giới của
Phật, là chân thật. Do vậy, đại từ đại
bi tự nhiên lưu lộ, chẳng có điều kiện.
Giúp đỡ hết thảy chúng sanh ĺa khổ được
vui, c̣n bàn điều kiện nữa sao?
Do
vậy, hiện thời, không chỉ là lũ b́nh phàm chúng ta
chẳng hiểu cảnh giới của Phật, Bồ
Tát, mà cảnh giới của thánh hiền, tức là cảnh
giới của bậc thánh hiền trong thế gian, người
đời cũng chẳng hiểu! Quư vị thật sự
giúp đỡ họ, họ vẫn hoài nghi quư vị:
“Ngươi đối xử với ta tốt đẹp
dường ấy, có mong cầu ǵ vậy? Ngươi có mục
đích ǵ vậy?” Đối xử tốt với kẻ
khác, ắt có mưu đồ, có mục đích! Phàm nhân
[nghĩ như vậy]. Thời cổ, bậc thánh hiền,
quân tử, nói đến mức thấp nhất là người
đọc sách học thánh, học hiền, đều giúp đỡ
người khác vô điều kiện, chẳng cầu được
đáp đền. Quư vị có khổ nạn bèn giúp đỡ
quư vị, quyết định chẳng cầu báo đáp, quân
tử mà! Nay chúng ta sơ sót giáo dục của thánh hiền,
gián đoạn một thời gian khá dài; do vậy, nay quư vị
học thánh, học hiền, đọc sánh thánh hiền, học
theo thánh hiền, giúp đỡ người khác vô điều
kiện, quư vị hăy nên biết: Kẻ khác sẽ hoài nghi
quư vị. Hoài nghi là đúng lẽ quá rồi, v́ sao? Cả
đời kẻ ấy chưa hề tiếp xúc. Không chỉ
là chẳng hề tiếp xúc, mà c̣n chưa hề nghe nói nữa
kia, trong thiên hạ há có chuyện ấy? Há có kẻ nào có thể
bỏ ḿnh v́ người khác? Chưa hề nghe nói đến!
Nay quư vị làm chuyện xả ḿnh v́ kẻ khác, người
khác chẳng tin tưởng. Họ không tin th́ có phải làm
hay không? Phải làm! Phải nêu gương cho người
khác thấy, khiến cho người ta giác ngộ. Làm
người, hăy nên xả ḿnh v́ người khác, chớ nên
có ḷng tổn người, lợi ḿnh.
Quư
vị nhất định phải hiểu quả báo của
chuyện tổn người lợi ḿnh chắc chắn là
tổn hại chính ḿnh. Tổn người sẽ chẳng
lợi ḿnh! Tổn người, quyết định hại
ḿnh! Người thế gian có cảm giác huyễn hoặc
rất nghiêm trọng, cứ ngỡ tổn người sẽ
có thể lợi ḿnh. Sai mất rồi! Há có lẽ ấy?
Đấy là “thị xứ phi
xứ”, chẳng có lẽ ấy! Ngược lại, tổn
ḿnh lợi người chính là thật sự tạo lợi
ích cho bản thân. Người hiện thời chẳng hiểu
đạo lư này, họ chẳng làm. Người thật sự
hiểu, sẽ thật sự chịu làm! Chịu làm, mà nếu
vẫn v́ lợi ích của chính ḿnh, ví như ta bố thí tiền
của, v́ sao? Ta sẽ được của cải cả
đống! Ta tu Pháp Bố Thí, ta sẽ được
thông minh, trí huệ. C̣n có cầu, c̣n có đắc, cảnh
giới ấy sẽ không cao, cảnh giới của kẻ
ấy tối đa là Dục Giới Thiên, chẳng lên Sắc
Giới nổi, kể như là đă khá lắm rồi, coi
như là rất khó có rồi!
Nếu
siêng tu ba thứ bố thí, chẳng có mảy may ư niệm cầu
quả báo, cảnh giới sẽ cao. Cảnh giới ấy
là cảnh giới của Phật, Bồ Tát, chẳng cầu
quả báo, ưa thiện, chuộng thí. Trong ấy có ǵ?
Đúng như tiên sinh Phương Đông Mỹ đă nói: “Sự hưởng thụ cao nhất
trong đời người”, hoặc như Khổng lăo
phu tử đă nói: “Học nhi
thời tập chi, bất diệc duyệt hồ”. Sung
sướng, pháp hỷ sung măn; nói theo Phật pháp sẽ là “thường sanh tâm hoan hỷ, pháp
hỷ sung măn, tâm địa chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng,
từ bi”. Sự hưởng thụ sung sướng ấy
chẳng phải là kẻ khác có thể suy lường
được! Chẳng có cách nào tưởng tượng.
Hiện thời, người thật sự đọc sách
chẳng nhiều, người thật sự đọc sánh
của cổ thánh tiên hiền chẳng nhiều, người
thật sự tu hành cũng không nhiều; do vậy, niềm
vui sướng ấy nói kiểu nào th́ mọi người
cũng đều rất khó lư giải. Nhưng chúng ta là
người thật sự dụng công, trọn chẳng
mong mỏi kẻ khác lư giải hay không, điều đó
chẳng dính dáng ǵ đến chúng ta! Chúng ta đă hiểu,
bèn hết sức nghiêm túc nỗ lực thực hiện,
chính ḿnh sẽ đạt được pháp hỷ, người
khác chẳng thể biết niềm pháp hỷ ấy!
Hôm
nay, c̣n có một đồng tu hỏi
tôi về đạo dưỡng sanh. Đối với câu
hỏi ấy, ở khá nhiều nơi bên ngoại quốc,
luôn có người hỏi tôi: “Thưa pháp sư! Thầy
bảo dưỡng như thế nào?” Quư vị hăy nh́n vào
cuộc sống của tôi, sẽ biết: Tôi sống rất
b́nh thường, ăn, mặc, ở, đi lại đều
rất đơn giản. H́nh như ngày hôm qua tôi c̣n đề
xướng chúng ta ăn thứ ǵ, v́ sắp đến Tết
rồi, đức Phật dạy chúng ta “tam đức, lục vị”. Quư vị thấy
chúng ta dâng cúng thức ăn lên Phật, thông thường
là cúng ba món ăn, biểu thị Tam Đức, nhiều nhất
là cúng sáu món. Sáu vị, ba đức sáu vị. Ngày Tết,
người nhà đoàn tụ, tốt nhất là cũng nên
chọn cách “ba đức, sáu vị”. Sáu món đồ
ăn là được rồi, chớ nên lăng phí. Đồ
chay tốt lành nhất, dinh dưỡng nhất. Tôi ăn
chay, sang năm là đă năm mươi lăm năm rồi.
V́ thế, tôi trả lời người ta rất
đơn giản: “Ăn chay,
tâm thanh tịnh, quư vị có thể khỏe mạnh, sống
lâu”.
Tâm
địa thanh tịnh, chẳng lo nghĩ, không vướng
mắc, lẽ nào người ấy chẳng tự tại?
Hằng ngày đọc kinh, bầu bạn với Phật,
Bồ Tát, lẽ đâu chẳng sung sướng? Hiện
thời, truyền h́nh, radio, phim ảnh, hư kịch, nhật
báo, tạp chí, đă hơn bốn mươi năm tôi chẳng
qua lại cùng chúng! V́ thế, có người hỏi tôi: “Trong
thế gian này có rất nhiều chuyện dường
như thầy đều biết?” Có chứ, tôi đều
biết! Biết bằng cách nào? Có rất nhiều đồng
học học Phật trông thấy đại sự ǵ phát
sanh, họ đến kể với tôi, tôi biết là nhờ
như vậy đó. Thậm chí c̣n kẻ nói: Họ cắt
từ nhật báo hoặc tạp chí một đoạn tin
tức ngắn đưa cho tôi xem. Tôi xem một đoạn
tin ngắn củn như thế đó. Quá nửa là tin về
tai nạn, đều là nói về nhân quả báo ứng. Những
chuyện ấy là thật, hoàn toàn chẳng giả! Nghiệp
nhân quả báo chẳng sai suyển mảy may! Hôm nay đă hết
thời gian rồi, chúng tôi nói tới chỗ này!
Đại Phương Quảng
Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười
một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 12 hết
[1] Do phải
đỗ đạt th́ mới được bổ
đi làm quan hay đề cử vào những chức vụ
trong các cơ cấu chánh quyền; v́ vậy, thuở
xưa thường gọi những người đă
đỗ đạt là “xuất thân”. Như đỗ tiến
sĩ, sẽ gọi là “tiến sĩ xuất thân”.