Đại
Phương Quảng Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ
mười một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 13
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ
giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Địa
điểm: Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục
Hiệp Hội
Khởi
giảng từ ngày mồng Bảy tháng Mười Một
năm 2005
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
duyệt: Đức Phong, Huệ Trang và Minh Tiến
Tập 1487
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin
mời ngồi xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh
thứ mười một, xem từ đoạn thứ tám
của phần trường hàng. Chúng tôi đọc kinh
văn một lượt.
(Kinh)
Vân hà đắc xứ phi xứ trí lực, quá vị hiện
tại nghiệp báo trí lực, căn thắng liệt trí lực,
chủng chủng giới trí lực, chủng chủng giải
trí lực, nhất thiết chí xứ đạo trí lực,
Thiền giải thoát tam-muội nhiễm tịnh trí lực,
túc trụ niệm trí lực, vô chướng ngại Thiên
Nhăn trí lực, đoạn chư Tập trí lực?
(經)云何得處非處智力。過未現在業報智力。根勝劣智力。種種界智力。種種解智力。一切至處道智力。禪解脫三昧染淨智力。宿住念智力。無障礙天眼智力。斷諸習智力。
(Kinh: Làm thế nào để
đắc trí lực biết sự vật hợp lư hay phi
lư, trí lực biết nghiệp báo trong quá khứ, vị
lai, hiện tại, trí lực biết căn cơ thù thắng
hay kém cỏi, trí lực biết các thứ cảnh giới,
trí lực thấu hiểu các thứ tri giải, trí lực
biết hết thảy chúng sanh sẽ sanh vào đường
nào, trí lực biết Thiền giải thoát tam-muội nhiễm
hay tịnh, trí lực biết túc mạng an trụ Niết
Bàn, trí lực Thiên Nhăn chẳng bị chướng ngại,
trí lực đoạn dứt các Tập?)
Đấy là trọn đủ
mười lực. Trong phần trước, chúng ta đă
học đến loại thứ tư là “chủng chủng giới trí lực”, nay chúng ta
xem loại tiếp theo là “chủng
chủng giải trí lực”. Những trí lực này đều
là trí huệ khởi tác dụng. Nói theo cách hiện thời,
sẽ là “có thể biết, có
thể lư giải tŕnh độ của hết thảy
chúng sanh”. Chúng ta biết: Tŕnh độ lư giải của
hết thảy chúng sanh đối với hết thảy
các pháp, xác thực là mỗi người mỗi khác. Như
Lai chẳng có ǵ không biết. Nói theo phương diện giáo
học, sẽ hết sức thuận tiện. Những
điều đă nói, đă thị hiện, đều phù hợp
khít khao với tŕnh độ của học
tṛ. Nói thông thường, chuyện này rất khó làm
được! Những người dạy học đă
lâu sẽ giỏi quan sát căn cơ [của học tṛ] hơn
những thầy giáo trẻ. Họ có kinh nghiệm dạy
học phong phú, trong một thời gian dài, họ đă tiếp
xúc học tṛ lâu ngày. Do vậy, trong kinh nghiệm, họ có
thể có năng lực quan sát, nhưng nói chung, vẫn thua
kém Phật, Bồ Tát. V́ sao? Phật, Bồ Tát có thể biết
quá khứ và vị lai của hết thảy chúng sanh, [biết
rơ] trong quá khứ, họ đă từng
học loại khoa học nào, từng theo đuổi nghề
nghiệp ǵ. [Lại c̣n biết rơ] trong đời quá khứ,
họ đă học loại khoa học nào, hoặc là theo
đuổi nghề nghiệp nào đó trong thời gian bao lâu!
Trong A Lại Da Thức đă kèm theo tập khí ấy,
đời này lại gặp gỡ, cho nên rất dễ lư
giải.
Chúng tôi mượn ngay môn học
Phật này để nói. Các đồng học ở cùng một
chỗ với nhau, sự liễu giải của mỗi
người mỗi khác. Có người đối với
Giáo rất dễ nhập môn, có thể nghe hiểu, có thể
lănh hội, đấy là do nguyên nhân nào? Đời trước
đă từng học! Giảng kinh rất khá; trước
kia, thầy Lư đă bảo tôi (thầy là một vị tại
gia cư sĩ giỏi giảng kinh), trong đời quá khứ,
nói chung [thầy Lư] là một vị pháp sư giảng kinh,
chắc chắn chẳng phải là một đời. [Nếu
chỉ là] một đời, sẽ chẳng làm được!
Nói thông thường, sẽ là ba đời hoặc năm
đời, th́ mới có thành tựu trong đời này, có
thể thâm nhập mà diễn tả đơn giản, có
thể nhiếp thọ tâm người nghe. Trong những
trường hợp thông thường, thầy sẽ chẳng
nói những lời ấy, v́ thường là Ngài hết sức
khiêm hư. Ở cùng một chỗ với các đồng học
chúng tôi, thầy thường khích lệ riêng tư: - Đời
này, căn tánh kém cỏi đôi chút, chẳng giảng giỏi
như vậy, không sao hết! Phải nỗ lực, v́ đấy
chẳng phải là chuyện một đời, một kiếp.
Để thật sự giảng hay, thường là phải
[đă từng giảng kinh] từ ba đời cho đến
năm đời, đương nhiên là càng dài càng tốt.
Qua Tam Muội Từ Bi Thủy
Sám, ta thấy Ngộ Đạt quốc sư là thầy của
hoàng đế, tôn giả Ca Nặc Ca đă nêu ra căn
cơ của quốc sư: “Cao tăng trong mười
đời!” Sư đă học Phật suốt mười
đời, lại c̣n là mười đời liên tục,
quá khó, quá chẳng dễ dàng! Mười đời chẳng
đánh mất thân người, rất khó khăn! Do vậy,
có thể biết: Sư học Phật rất nghiêm túc, tŕ
giới rất nghiêm. Được làm thân người là
do Thập Thiện, Ngũ Giới. Thập Thiện, Ngũ
Giới chẳng thiếu sót, quư vị chắc chắn chẳng
đánh mất thân người. Do vậy, chúng ta chớ nên
không biết điều này. Đúng là phải xem, phải
nghe kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo cho nhiều! Học
Phật, bất luận tu học pháp môn nào mà chẳng có điều
kiện này, nếu như là niệm Phật, sẽ chẳng
thể văng sanh. Bởi lẽ, công phu Niệm Phật chẳng
đủ, chẳng thể văng sanh, vẫn phải luân hồi.
Đă luân hồi, lại do quư vị chẳng tu Thập Thiện
tốt đẹp, chẳng được làm thân người.
Dẫu đời này học Phật giỏi giang, [đời
kế tiếp] chẳng được làm thân người,
sẽ chẳng có cơ hội tiếp tục tu tập! Hễ
đọa lạc như thế, chẳng biết sẽ
đọa lạc đến bao nhiêu đời, chệch
choạc bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp!
Do vậy, đối với
chuyện học Phật, kinh Phật thường nói: Phàm
phu học Phật cho đến khi thành Phật, phải mất
thời gian bao lâu? Vô lượng kiếp! Lời này là thật,
chẳng giả đâu nhé! V́ sao phải tốn vô lượng
kiếp? Thời gian quư vị tu học ngắn ngủi, thời
gian chẳng thể tu tập quá ư là dài. Quư vị hăy ngẫm
xem, thời gian trong cơi người chẳng dài, học Phật
suốt một đời này, quư vị học bao nhiêu năm?
Nếu học chẳng đàng hoàng, giới luật chẳng
thanh tịnh, tư tâm, tạp niệm,
vọng tưởng vẫn rất nhiều, quư vị học
Thập Thiện chẳng tốt đẹp! Tới khi mạng
chung, quư vị sẽ đọa lạc trong ba ác đạo,
thời gian trong ba ác đạo lâu dài. Vào những chỗ ấy
rất dễ dàng, thoát ra khó khăn! Ắt là phải ở
trong ác đạo, đền trả hết sạch những
quả báo của tội nghiệp và tập khí nhiều
đời nhiều kiếp, quư vị mới
có thể thoát ra, mới có thể ĺa khỏi ba ác đạo.
Ĺa khỏi ba ác đạo, được làm thân người,
vẫn đèo theo tập khí của ác đạo. Nói cách
khác, dẫu gặp cơ duyên Phật pháp, cũng chẳng
thể học tốt đẹp, [bởi lẽ] tập
khí của ác đạo quá nặng! Do vậy, có thể kiên
tŕ giữ vẹn Ngũ Giới, Thập Thiện, có cái tâm
cảnh giác như vậy, đời sau ta c̣n có thể tu tập
tiếp. Như ngài Ngộ Đạt đă nêu gương
cho chúng ta, Ngài dạy chúng ta: Suốt mười đời,
Ngài đă khéo học Ngũ Giới, Thập Thiện tốt
đẹp; v́ thế, chẳng mất thân người, Ngài
mới có thành tựu to ngần ấy! Chẳng có mười
đời, mà làm cao tăng một thuở trong nhà Phật,
làm quốc sư, chẳng phải là chuyện dễ dàng
đâu nhé! Không phải là vị xuất gia nào cũng có thể
làm được chuyện này, v́ cần phải có công phu
tu tŕ nhiều đời nhiều kiếp!
Trong Phật pháp, điều
trọng yếu nhất là phải cầu quả báo chân thật.
Quả báo chân thật chính là văng sanh Tịnh Độ.
Đấy là quả báo chân thật. Dẫu là hạ hạ
phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, cũng chắc
chắn thành Phật ngay trong một đời! V́ thế,
cổ đại đức thường nói pháp môn này là “đương sanh thành tựu đích
pháp môn” (pháp môn thành tựu ngay trong một đời).
Đối với chuyện văng sanh, tôi thường nói với
mọi người: Chẳng phải là chết rồi mới
văng sanh, mà là văng sanh ngay trong khi c̣n sống. Lúc ra đi, tỉnh
táo, sáng suốt, theo Phật đến thế giới Cực
Lạc, chẳng cần thân thể này nữa, vứt bỏ.
Đấy chẳng phải là chết, ra đi trong lúc c̣n sống
mà! Trong đời này, chúng tôi đă thấy có người
đứng mất, hoặc ngồi mất, chẳng ngă bệnh,
biết trước lúc mất, chúng tôi cũng đă thấy
hoặc nghe từ mười mấy cho đến hai
mươi trường hợp! Họ có thể làm
được, v́ sao chúng ta chẳng làm được? Phải
nghĩ ra nguyên nhân. Nguyên nhân chính là: Dẫu chúng ta học Phật
rất nhiều, giảng kinh cũng khá lắm, nhưng
hành tŕ chẳng hợp tiêu chuẩn, vậy là không
được rồi!
Nói chung, Phật pháp cần
phải hành tŕ, tức là tŕ giới quan trọng hơn bất
cứ điều nào khác! Do vậy, trong những năm
qua, chúng tôi cũng thâm nhập, t́m ṭi, quan sát cẩn thận
v́ sao quư vị chẳng hành Ngũ Giới, Thập Thiện
được? [Lư do là] quư vị chẳng có sự giáo dục
trước khi học [Phật pháp], chúng ta thiếu khuyết
điều này, thiếu khuyết giai đoạn này. Hễ
thiếu sót giai đoạn ấy, Ngũ Giới, Thập
Thiện đối với quư vị sẽ trở thành khó
khăn dường ấy! Sự giáo dục trước
khi học, trong Phật pháp là Tiểu Thừa. Người
Hoa không học Tiểu Thừa, dùng Nho gia để thay thế.
Như Đệ Tử Quy, luân lư, đạo đức, đấy
chính là sự giáo dục trước khi học Phật. Chúng
ta chẳng có nền tảng ấy! V́ thế, Thập Thiện
Nghiệp Đạo thoạt nh́n chẳng khó, cớ sao quư
vị chẳng làm được? Cơ sở trước
khi học Phật quá quan trọng! Do vậy, chúng tôi đặc
biệt nhấn mạnh Đệ Tử Quy. Nếu mọi
người nghiêm túc bỏ ra thời gian một năm
để thực hiện Đệ Tử Quy, Đệ Tử
Quy có tất cả ba trăm sáu mươi câu, mỗi câu có
ba chữ, toàn bộ bài văn chỉ có một ngàn lẻ
tám mươi chữ, thật sự dùng một năm công
phu để thực hiện nó, mỗi câu đều làm
được; sau đấy, [hành tŕ] Ngũ Giới, Thập
Thiện chẳng khó, thực hiện dễ dàng. Đă có cơ
sở này, lại khế nhập Đại Thừa, quư vị
nghe kinh, có thể thật sự nghe hiểu, biết vận
dụng lư luận và giáo huấn trong kinh điển vào cuộc
sống, vận dụng trong công việc, trong xử sự
đăi người, quư vị sẽ đạt được
sự thọ dụng chân thật trong Phật pháp.
Được thọ dụng
trong hiện tiền. [thêm vào đó], đời này quư vị
được gặp gỡ pháp môn Tịnh Tông, quá ư
may mắn! Đem công đức ấy hồi hướng
cầu sanh Tịnh Độ, chẳng có người nào
không văng sanh! Đấy chính là như Thiện Đạo
đại sư đă nói. Rất nhiều người biết
Thiện Đạo đại sư là A Di Đà Phật
tái lai. Lời ngài Thiện Đạo nói chính là lời A Di
Đà Phật nói: “Vạn tu, vạn
nhân khứ” (vạn người tu, vạn người
văng sanh). Trọn đủ điều kiện này, tức
là quư vị trọn đủ Tịnh Nghiệp Tam Phước,
quư vị niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, chẳng
có ai không thành công! Tịnh Nghiệp Tam Phước làm không
được, [mong văng sanh] khó lắm! Dẫu niệm Phật
tốt đẹp cách mấy, cổ đại đức
thường nói: “Gào toạc cổ
họng vẫn uổng công”. V́ thế, đối với
sự hành tŕ, chẳng thể không chú ư. Tuổi trẻ
chưa thể buông xuống được, c̣n có thể
khoan dung, chứ đă ngoài sáu mươi, tuổi đă xế
bóng rồi, hăy nên giác ngộ, hăy nên triệt để buông
xuống để lo liệu đại sự trong một
đời này. Ưu điểm của Tịnh Tông là gồm
thâu lợi căn lẫn độn căn, thích hợp khắp
ba căn. Căn tánh của chúng ta kém cỏi một chút
cũng được. Đấy là biết tŕnh độ
của hết thảy chúng sanh.
Câu thứ sáu là “nhất thiết chí xứ đạo
trí lực”. Thêm một chữ [Đạo] vào trước
chữ Trí, tức là Đạo Trí Lực. “Nhất thiết” (一切) là hết thảy chúng sanh, “chí xứ” (至處) là quư vị trong tương lai sẽ
đi vào đường nào! Phật, Bồ Tát biết rơ
ràng, tuyệt đối chẳng thể thấy lầm.
Các Ngài có trí huệ ấy, có năng lực ấy. Ví
như quư vị tŕ Ngũ Giới rất khá, đời sau
quyết định chẳng mất thân người.
Đă thế, thân người trong đời sau nhất
định sẽ thù thắng hơn đời này. Chúng ta thường
nói: Đời sau nhất định là vận mạng tốt
đẹp hơn đời này, hưởng phước
báo trong nhân gian. Nếu tu Thập Thiện
rất khá, lại có tâm từ, bi, hỷ, xả; đă có
tâm ấy, lại c̣n có những tâm hạnh ấy, tức là
tâm hạnh từ, bi, hỷ, xả, sẽ biết là quư vị
chắc chắn sanh lên trời. Thượng phẩm Thập
Thiện sanh thiên, “sanh thiên”
là sanh vào Dục Giới Thiên. Dục Giới có sáu tầng
trời, quan sát thông thường, quư vị trụ trong tầng
nào của sáu tầng trời, [Phật, Bồ Tát]
đều có thể trông thấy. Người niệm Phật
đúng là “buông xuống muôn
duyên”, tŕ giới niệm Phật, nhất định sanh
về Tịnh Độ.
Tôi thường nói đến
điều đầu tiên trong Tịnh Nghiệp Tam Phước,
phải thật sự làm được điều đầu
tiên ấy! “Hiếu dưỡng
phụ mẫu, phụng sự sư trưởng”, thực
hiện hai câu ấy bằng Đệ Tử Quy. Thực hiện Đệ Tử Quy một trăm
phần trăm, sẽ có hai câu ấy. Sau đó, hai câu “từ tâm chẳng giết, tu Thập
Thiện Nghiệp”
được thực hiện bằng Thập Thiện
Nghiệp Đạo. Do vậy, quư vị chỉ cần có Tam
Phước, có một điều này, có điều kiện
như thế, niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ,
chắc chắn được văng sanh. Sanh vào nơi đâu?
Cơi Phàm Thánh Đồng Cư. Trong đời này, tùy thuộc
tŕnh độ tri giải của quư vị đối với
lư luận, phương pháp và cảnh giới trong các kinh luận
Tịnh Tông, quư vị biết bao nhiêu, có thể lănh hội
bao nhiêu, [sẽ có thể suy ra] đối với ba bậc,
chín phẩm của cơi Phàm Thánh Đồng Cư trong Tịnh
Tông, quư vị sẽ thuộc vào phẩm
vị nào. Nếu quư vị cũng làm được điều
thứ hai [trong Tịnh Nghiệp Tam Phước], điều
thứ hai là “thọ tŕ Tam Quy, đầy
đủ các giới, chẳng phạm oai nghi”. Đấy
là điều thứ hai trong tam phước. Thật sự
có thể làm được điều thứ hai, văng sanh Tịnh
Độ sẽ sanh vào cơi Phương Tiện Hữu
Dư. Điều thứ ba cũng có thể làm được, “phát Bồ Đề tâm, tin sâu
nhân quả, đọc tụng Đại Thừa, khuyến
tấn hành giả”. Nói theo cách hiện thời, “khuyến tấn hành giả” chính
là hoằng pháp lợi sanh. Do vậy, quư vị văng sanh cơi Thật
Báo Trang Nghiêm trong Tây Phương Tịnh Độ, khác hẳn!
Từ chỗ này, có thể thấy ba bậc thượng,
trung, hạ. Do vậy có thể biết: Nếu không trọn
đủ Đệ Tử Quy và Thập Thiện Nghiệp
Đạo, niệm Phật chẳng thể văng sanh, phải
biết điều này!
Có những người tuy chẳng
đầy đủ [những điều kiện đó],
thế mà niệm Phật văng sanh, thụy tướng rất
tốt. Đó là những trường hợp cực ít.
Đấy là ǵ? Trong đời quá khứ đă tu rất tốt
đẹp, căn cơ sâu dầy, đời này chẳng
nghe Phật pháp, khi lâm chung mới nghe. Tuy là vừa mới
được nghe, chẳng biết Tín, Nguyện, Hạnh
của người ấy mạnh hơn những kẻ tầm
thường như bọn chúng ta chẳng biết bao nhiêu
lần! Người ấy có thể văng sanh là do thiện
căn tu tập Tịnh Độ đă tích lũy trong
đời quá khứ. Nếu đời này, người ấy
được gặp Phật pháp rất sớm, sẽ tu
tập càng tốt đẹp hơn, phẩm vị văng sanh
nhất định sẽ tăng cao hơn, phải hiểu
đạo lư này. Căn tánh của mỗi cá nhân khác nhau,
trong đời quá khứ đă tạo nghiệp ǵ, tu pháp
môn ǵ, làm lành hay làm ác, đời sau sẽ cảm quả
báo ǵ, thảy đều khác nhau. Đức Phật biết
đời này quư vị đă làm hạnh nghiệp ǵ, đời
sau quư vị sẽ đạt được quả báo
như thế nào, sẽ đến thọ sanh trong
đường nào. Đấy là chỗ đến của
hết thảy chúng sanh trong tương lai, đức Phật
biết những nơi chốn ấy.
Câu thứ bảy là “Thiền giải thoát tam-muội
nhiễm tịnh trí lực”. “Thiền” là nói tới Thiền
Định, trong Phật pháp gọi là “tam-muội”. Tam-muội (Samadhi) là tiếng Phạn.
Trong kinh Phật, chúng ta thường thấy các thứ
tam-muội, có thể thấy là thứ bậc của Thiền
Định là vô lượng vô biên, chẳng có số lượng.
Thiền Định thế gian được chia đại
lược thành Tứ Thiền, Bát Định, tức là
tám loại lớn. Trong mỗi loại, lại chẳng biết
có bao nhiêu tầng cấp! Điều này hoàn toàn chẳng
khó hiểu, ví như chúng ta học hành trong nhà trường,
học Tiểu Học, học Trung Học, học Đại
Học, một ngôi trường có đến mấy ngàn học
tṛ. Trường Tiểu Học, Đại Học có mấy
vạn học tṛ, tŕnh độ của mỗi tṛ mỗi
khác. Sự tu học ấy giống như tam-muội, Thiền
giải thoát tam-muội, mỗi cá nhân khác nhau. Tiểu Học
là tam-muội bậc thấp, giống như Tứ Thiền
Bát Định trong thế gian. Trung Học giống như
tứ thánh pháp giới. Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật
trong mười pháp giới. Giải thoát tam-muội của
các Ngài đương nhiên là cao hơn Tứ Thiền Bát
Định rất nhiều, cũng là mỗi người
mỗi khác.
Nếu lên cao hơn, Thiền
Tông nói là “hướng thượng
nhất trước” (向上一著), lên cao hơn sẽ là ǵ? Thoát khỏi mười
pháp giới, đạt tới Nhất Chân pháp giới. Nhất
Chân pháp giới xác thực là một pháp giới b́nh đẳng.
Trong pháp giới b́nh đẳng, c̣n có tập khí vô thỉ
vô minh dầy hay mỏng khác nhau, ở đây gọi mức
độ dầy hay mỏng ấy là “nhiễm tịnh” (染淨). Đương nhiên là chúng ta thấy
các Ngài thuần tịnh vô nhiễm, nhưng so sánh giữa
Thập Trụ Bồ Tát và Thập Hạnh Bồ Tát, Thập
Trụ Bồ Tát là nhiễm, Thập Hạnh Bồ Tát là tịnh.
So sánh giữa Thập Hạnh Bồ Tát và Thập Hồi
Hướng Bồ Tát, Thập Hồi Hướng là tịnh,
Thập Hạnh là nhiễm. So sánh giữa Thập Hồi
Hướng và Thập Địa, Thập Địa Bồ
Tát là tịnh, Thập Hồi Hướng là nhiễm. Nếu
so sánh đến tối thượng, tức là so sánh giữa
Đẳng Giác Bồ Tát và Phật, Đẳng Giác Bồ
Tát là nhiễm, Phật mới là thanh tịnh. Đẳng
Giác Bồ Tát c̣n có một phẩm sanh tướng vô minh chưa
phá. Hoàn toàn đoạn hết nhiễm, thuần tịnh, sẽ
là quả vị Như Lai.
Đức Phật biết
chuyện này, Bồ Tát có biết hay không? Bồ Tát cũng
biết; bởi lẽ, Phật có mười lực, Bồ
Tát cũng có mười lực. Tên gọi có thể giống
hệt như nhau, nhưng năng lực khác nhau. Ví như
trong phần trước chúng tôi đă nói, đối với
Thiên Nhăn Thông của A La Hán, Thiên Nhăn của Ngài chỉ có thể
thấy một đại thiên thế giới. Những ǵ ở
ngoài đại thiên thế giới ấy, Ngài chẳng thấy;
như vậy là năng lực có phạm vi (hữu hạn).
Đối với Thiên Nhăn của Bồ Tát, Bồ Tát có rất
nhiều đẳng cấp, như các Bồ Tát thuộc
địa vị Tam Hiền có thể thấy một
trăm đại thiên thế giới, một ngàn đại
thiên thế giới, một vạn đại thiên thế
giới, cho đến trăm vạn, ức vạn đại
thiên thế giới, chẳng giống nhau! Thấy nhiều
là tịnh, thấy ít là nhiễm, Phật, Bồ Tát có
năng lực ấy. V́ thế, bản thân chúng ta đạt
đến mức độ nào, chẳng cần phải hỏi
ai khác, chính ḿnh hiểu rành rẽ, rơ ràng! Hiện thời chúng
ta xác thực là chưa nhập môn. Nếu đă nhập
môn, tâm địa thanh tịnh là tam-muội.
Tam-muội ở mức
độ thấp nhất, nói theo phía người niệm
Phật sẽ là “công phu thành phiến”. Công phu thành phiến
là ǵ? Trong tâm chẳng có tạp niệm; trừ A Di Đà Phật
ra, chẳng có tạp niệm nào khác. Đấy là nhất
tâm bất loạn ở mức độ nông cạn nhất.
Dẫu chẳng phải là nhất tâm bất loạn, cảnh
giới rất gần với nhất tâm bất loạn,
thần thông vẫn chưa hiện tiền, tức là
năng lực vẫn chưa hiện tiền, thần thông
là năng lực. Tuy năng lực chẳng hiện tiền,
người ấy có cảm ứng, chúng ta thường
nói là “biết trước”, biết mấy tháng sau sẽ
có chuyện ǵ phát sanh, hoặc là hai, ba năm sau, sẽ có chuyện
ǵ phát sanh, có sự biết trước ấy. Sự biết
trước ấy thường khá chánh xác, đă mấp
mé, [tức là] đă mấp mé với sự khởi tác dụng
của trí huệ. Những kinh nghiệm học tập và sự
từng trải ấy, ai nấy đều giống nhau.
Quư vị chẳng thật sự hành, sẽ chẳng có cách
nào thấu hiểu. Nếu quư vị thật sự hành, sẽ
có phương pháp để thấu hiểu. Đấy là
sự thọ dụng chân thật. Tiên sinh Phương
Đông Mỹ đă nói: “Học
Phật là sự hưởng thụ cao nhất trong đời
người”. Nếu quư vị có thể khế nhập
cảnh giới ấy, mới hiểu sự hưởng
thụ cao nhất là ǵ!
Câu thứ tám là “túc trụ niệm trí lực”.
Câu này ngụ ư: Biết túc mạng của chúng sanh, tức
là Túc Mạng Thông trong Lục Thông. Đồng thời,
cũng là trí lực biết vô lậu Niết Bàn. Điều
này có nghĩa là: Có thể biết người thế gian
(trong lục phàm pháp giới), đồng thời cũng có
thể biết những vị thuộc tứ thánh pháp giới,
họ tu học pháp môn sẽ cảm quả báo [như thế
nào], người ấy đều biết.
Điều chủ yếu nhất ở đây là biết
quư vị đă học tập những ǵ trong đời
đời kiếp kiếp quá khứ. Đương nhiên
là [sự hiểu biết này] hết sức hữu ích
đối với việc dạy học. Khi dạy học,
sẽ dễ khế cơ. Giáo học của Phật
pháp chú trọng khế cơ và khế lư. Lư (理) là chân lư, quyết định chẳng
thể trái nghịch. “Cơ”
(機) là tŕnh độ và căn tánh của
chúng sanh trong hiện tiền. Hai điều ấy đều
phải phù hợp th́ mới có thể đạt được
lợi ích. Do vậy, đối với chân lư, xác thực
là có thể dùng phương pháp rất nông cạn, dễ
hiểu, ngôn ngữ rất thông tục, dễ hiểu
[để diễn tả], khiến cho đối
phương nghe hiểu, khiến cho đối
phương hiểu minh bạch, họ lại c̣n có thể
vận dụng vào cuộc sống hiện thực. Điều
này rất quan trọng! Nếu họ chẳng làm được,
có nói cũng vô dụng, nhất định phải là họ
có thể làm được!
Câu thứ chín là “vô chướng ngại Thiên Nhăn
trí lực”. Chúng ta vừa thấy điều này thuộc
về Thiên Nhăn Thông trong Lục Thông. Thiên Nhăn có thể thấy
lục đạo chúng sanh luân hồi sanh tử, người
ấy chính mắt thấy, thấy quả báo thiện hay
ác của hết thảy chúng sanh trong quá khứ, hiện tại,
vị lai chẳng chướng ngại. Chư Phật, Bồ
Tát và trong số các vị tổ sư đại đức,
xác thực là có không ít vị là tái lai, tức là Phật, Bồ
Tát thị hiện để giúp đỡ những chúng
sanh khổ nạn. Giúp đỡ chúng sanh khổ nạn th́
có thể khiến cho họ chẳng phải chịu tí xíu
khổ nạn nào hay không? Chẳng thể làm chuyện ấy,
mà cũng chẳng hợp lư! V́ sao? Quư vị tạo tác rất
nhiều tội nghiệp, há có thể chẳng lănh quả
báo ư? Quả báo th́ quư vị vẫn phải hứng chịu,
Phật, Bồ Tát đến giúp đỡ quư vị
như thế nào? Phật, Bồ Tát dạy quư vị hiểu
rơ nghiệp nhân của những quả báo mà quư vị
đang phải hứng chịu trong hiện tiền, quư vị
sẽ chẳng oán trời, hờn người. Đấy
là do chính ḿnh tự làm, tự chịu, ta phải nên hứng
chịu. Hăy an tâm nhận lănh, mà cũng nhận lănh rất
vui sướng. V́ sao? Trả báo cho xong! Đồng thời,
cũng hiểu cách sửa lỗi, hướng lành, quay
đầu là bờ. Hiểu đạo lư này!
Tất cả hết thảy
khổ nạn đều là do [nghiệp nhân đă tạo
trong] quá khứ. Đời này th́ lúc tuổi trẻ, khi
chưa tiếp xúc giáo huấn của thánh hiền, bất
luận là hữu ư hay vô t́nh, đă tạo tác rất nhiều
tội nghiệp, đáng phải hứng chịu quả
báo. V́ thế, chẳng sợ chịu khổ, chẳng sợ
bị thua thiệt. Chuyện tổn người lợi
ḿnh quyết định chớ nên làm! Chuyện tổn ḿnh
lợi người phải làm nhiều hơn. Như vậy
th́ chúng ta sẽ sửa đổi vận mạng. Phật,
Bồ Tát xuất hiện trong thế gian nhằm dạy bảo
chúng ta những điều ấy. Quư vị hăy quan sát cẩn
thận, có khi ta thấy các Ngài dùng “thân giáo”, tức là làm
gương cho chúng ta trông thấy. Chúng ta trông thấy dáng vẻ ấy, tâm cảm động,
thỉnh giáo, các Ngài sẽ giảng kinh, thuyết pháp cho
chúng ta, [tức là] “ngôn giáo”. Nếu trong đời quá khứ, chúng ta đă có túc căn, lại
c̣n hữu duyên với các Ngài, có thể tiếp nhận giáo
huấn của các Ngài trong một thời gian dài, đời
này mới có thành tựu!
Do vậy, đối với
Thiên Nhăn, chúng ta chẳng có cách nào tưởng tượng
được năng lực của chư Phật, Bồ
Tát! Quư vị nói chư thiên, Dục Giới Thiên, lên cao hơn
th́ càng chẳng cần phải nói nữa, năng lực càng
to hơn nữa. Chư thiên Dục Giới có báo đắc
Ngũ Thông[1].
Ngũ Thông là Thiên Nhăn, Thiên Nhĩ, Tha Tâm, Túc Mạng, Thần
Túc, chẳng có Lậu Tận. Phải là A La Hán mới có Lậu
Tận. Lậu Tận là chẳng sanh phiền năo, thoát ly luân
hồi. V́ thế, họ c̣n có phiền năo, nhưng do quả
báo mà có năm loại năng lực ấy. Chư thiên có
năng lực lớn hay nhỏ hoàn toàn khác nhau. Quỷ đạo
cũng có Ngũ Thông, yêu ma quỷ quái đều có, chúng ta thường
gọi họ là “tinh linh” (精靈), yêu ma quỷ quái thuộc loại
tinh linh. Hiện thời, trong xă hội này, hết sức
phổ biến, đạo tràng nào chẳng có [tinh linh]? Chúng
ta tu hành tâm chánh, hạnh chánh, những thứ tinh linh trong
đạo tràng của chúng ta cũng rất quy củ, họ
chẳng làm loạn! Thậm chí, sau khi đă trông thấy
[chúng ta thật tâm tu hành], họ tâm phục, tán thán, bội
phục quư vị, làm hộ pháp trong đạo tràng này. Nếu
quư vị tâm hạnh chẳng lành, những loài yêu ma quỷ
quái ấy sẽ đến cḥng ghẹo quư vị. Nếu
các đồng học lắng ḷng quan sát, sẽ có thể
quan sát thấy những chuyện này. Những kẻ có tiểu
thần thông, đối với những việc nhỏ, sẽ
tiên đoán khá chuẩn xác; đối với chuyện lớn,
họ sẽ nói nhăng, nói cuội. Dẫu sao, quư vị
cũng chẳng t́m thấy họ [để chất vấn,
hạch hỏi]!
Thông thường, phổ biến
nhất là phù loan (扶鸞), c̣n gọi là cầu cơ. Những tṛ ấy đều
là tinh linh [giở tṛ]. Tâm chánh, hạnh chánh, con người
rất thật thà, khẩn thiết, sẽ cảm ứng thiện
thần. Những tinh linh ấy tâm địa thiện
lương, mạo nhận là Phật, Bồ Tát, giả mạo
thần tiên, dùng đàn cầu cơ để tṛ chuyện
với quư vị. Đàn cầu cơ giống như máy fax
trong hiện thời, dùng phương thức ấy để
nói chuyện với quư vị, thấu lộ một số
tin tức. Nếu chúng ta c̣n có tham, sân, si, mạn, c̣n có ngũ
dục, lục trần, c̣n có ích kỷ, chớ nên tin cậy
những tin tức do họ tiết lộ, v́ họ
đang cḥng ghẹo quư vị! Do vậy, có thể biết:
Bất luận là đối với chư Phật, Bồ
Tát, thiên địa quỷ thần, yêu ma quỷ quái, đều
phải dùng một tấm ḷng chân thành. Dùng cái tâm “chân thành, thanh
tịnh, từ bi”, quư vị mới có thể cảm động
họ. Bởi lẽ, chúng sanh có cảm, Phật, Bồ Tát
có ứng. Phật, Bồ Tát gia tŕ quư vị, những quỷ
thần, tinh linh ấy đều đến làm hộ pháp
cho quư vị, quư vị sẽ thuận buồm xuôi gió trên
đường Bồ Đề. Chúng ta làm thế nào th́ mới
có thể đạt được những phương
tiện ấy? Điều quan trọng nhất là bản
thân chúng ta phải y giáo tu hành, phải đoạn phiền
năo, phải đoạn tập khí, nâng cao linh tánh và cảnh
giới của chính ḿnh. Đó là đúng!
Học Phật
trọn chẳng tham cầu thần thông, trọn chẳng
mong cầu cảm ứng. Hết thảy đều chiếu
theo kinh giáo để thật thà học tập, quư vị sẽ
chẳng bị rối loạn! Quư vị thấy đó,
phàm là những kẻ tham cầu cảm ứng, tham cầu
thần thông, Phật môn gọi họ là “bị ma dựa”. V́ sao? Những kẻ ấy
là một loại môi giới để cảm nhiễm yêu
ma quỷ quái. Hễ quư vị có ư niệm ấy, rất dễ
chiêu vời những loài tinh linh! Họ sẽ đến dựa
thân, phiền phức sẽ xảy ra! Trong Phật môn gọi
[t́nh trạng ấy] là “bị ma dựa”, hoặc “bị
vướng ma chướng”, c̣n pháp thế gian gọi là
“tinh thần phân liệt” (schizophrenia), hoặc “mắc bệnh
thần kinh”. Chúng tôi thấy khá nhiều kẻ trẻ tuổi,
khi trước, tôi ở Mỹ một thời gian dài,
[đă trông thấy] khá nhiều sinh viên Đại Học rất
giỏi, rất ưu tú, họ học Phật, học một
hai năm, bị bệnh thần kinh! Cuối cùng, chẳng
có cách nào, phải đưa vào bệnh viện tâm thần.
Vậy là rồi đời, cuộc đời tiêu rồi!
Tôi ở Mỹ, đă gặp không ít [trường hợp
như vậy]. Cha mẹ họ, người nhà quyến
thuộc của họ đến t́m tôi, hỏi tôi có cách
nào cứu hay không? Tôi nói với họ: “Có phải là nó ham
chuộng thần thông hay không?” Họ đáp: “Đúng thế!”
“Nó thích cảm ứng phải không?” Đúng thế! Chẳng
có ngoại lệ, toàn là ham chuộng những thứ ấy.
Học Phật mà chẳng muốn nghe Giáo. V́ sao? Trong ấy,
chẳng có thần thông, chẳng có cảm ứng! V́ thế,
họ học Thiền, học Mật, học những thứ
ấy. Hễ bị ma dựa thân, sẽ rất khó quay
đầu, rất khó chữa lành. Chẳng thể không lưu
ư, chẳng thể không cẩn thận chuyện này. Nhất
định là phải đi theo con đường chánh
đáng, chớ nên theo lối tà! Chẳng phải là Thiền
và Mật không tốt! Nếu là một vị thầy giỏi,
thật sự hữu tu, hữu chứng, quư vị theo học
với vị đó sẽ chẳng có vấn đề ǵ.
Nếu có ma đến nhiễu loạn, vị ấy có năng
lực giúp đỡ quư vị. Quư vị phải có thầy
như vậy th́ mới được. Quư vị chẳng
có một vị thầy như thế ấy, nếu bị
ma dựa, thầy cũng chẳng có cách nào cả! Chớ
nên không biết chuyện này!
Câu cuối cùng là “đoạn chư Tập trí lực”.
Tập (習) là tập khí (習氣), so
với phiền năo c̣n cao hơn một tầng. Quư vị
thấy đó, A La Hán đoạn phiền năo, tuy đoạn
Kiến Tư phiền năo, tập khí vẫn c̣n. Tập khí
cũng có thể trở ngại sự, chướng ngại
quư vị tu hành, chướng ngại quư vị chứng quả.
Tôi lại nêu ra một lời cảnh cáo cùng chư vị,
[tập khí sẽ] chướng ngại quư vị văng sanh!
Chúng ta chẳng nghĩ tới chuyện khai ngộ chứng
quả, v́ sao? Quả thật, chúng ta chẳng thể làm
được điều ấy trong một đời; [do
đó], chúng ta cầu nguyện văng sanh. Ngay như hạ hạ
phẩm văng sanh vào cơi Phàm Thánh Đồng Cư, tập khí
này sẽ chướng ngại quư vị, chuyện này phiền
phức lắm! Chúng ta thật sự mong văng sanh trong đời
này, phải đoạn tập khí phiền năo này! Đoạn
ở chỗ nào? Đều là trong cuộc sống hằng
ngày. Cách đoạn như thế nào? Đức Phật dạy
chúng ta phương pháp tuyệt diệu. Chẳng có ǵ khác,
chính là tŕ giới. Trong giới luật, những điều
Ngài dạy nên làm, chúng ta hăy nghiêm túc thực hiện. Những
điều Ngài ngăn cấm, chớ nên làm. Chúng ta nhất
định phải khắc chế chính ḿnh, quyết định
chớ nên vi phạm, như vậy th́ mới có thể
đoạn phiền năo, đoạn tập khí. Chúng ta dùng
câu Phật hiệu làm Tăng Thượng Duyên. Chỉ cần
phiền năo dấy lên hiện hành, bậc đại đức
trong Tông Môn đă nói rất hay: “Chẳng
sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Ư niệm
mới vừa dấy lên, muốn phát tác, hăy “nam-mô A Di Đà Phật”,
đè nén ư niệm bất thiện ấy xuống!
Phải biết, tất cả
hết thảy các pháp thế gian toàn là pháp luân hồi, v́
sao chẳng buông xuống? V́ sao c̣n chấp trước
như vậy? Chỉ cần có thể chẳng c̣n chấp
trước hết thảy các pháp thế gian và xuất thế
gian, chẳng c̣n phân biệt, thật sự buông xuống, tập
khí ấy sẽ phai nhạt, rất hữu ích cho việc
niệm Phật văng sanh, chớ nên không biết điều
này! Hăy nhớ, điều quan trọng nhất là: Trong hết
thảy các pháp, chẳng khởi tham tâm (tức là chẳng dấy
lên tham ái), chẳng khởi sân khuể, chẳng sanh mê hoặc
(mê hoặc là ngu si), đối với giáo huấn của bậc
thánh hiền, quyết định chẳng hoài nghi. Trong hết
thảy các cảnh giới, ǵn giữ sự khiêm ty, trọn
chớ nên ngạo mạn, sẽ rất hữu ích cho sự
tu hành và khai ngộ của chúng ta. Chúng tôi giảng đoạn
này tới đây, hiện tại cũng hết thời
gian rồi!
***
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống.
Xin xem tiếp đoạn kinh văn thứ chín.
(Kinh) Vân hà thường đắc
thiên vương, long vương, Dạ Xoa vương, Càn
Thát Bà vương, A Tu La vương, Ca Lâu La vương, Khẩn
Na La vương, Ma Hầu La Già vương, nhân
vương, Phạm vương, chi sở thủ hộ,
cung kính cúng dường?
(經)云何常得天王。龍王。夜叉王。乾闥婆王。阿修羅王。迦樓羅王。緊那羅王。摩睺羅伽王。人王。梵王。之所守護。恭敬供養。
(Kinh: Làm thế nào để
được thiên vương, long vương, Dạ Xoa
vương, Càn Thát Bà vương, A Tu La vương, Ca Lâu
La vương, Khẩn Na La vương, Ma Hầu La Già
vương, nhân vương, Phạm vương thủ hộ,
cung kính cúng dường?)
Đoạn kinh văn này là
Tăng Thượng Quả. Trong chú giải, Thanh
Lương đại sư không chú giải nhiều lắm.
Chúng tôi đọc đoạn văn này:
(Sớ) Đệ bát, thập
vương kính hộ, thị Tăng Thượng Quả
giả, tức hữu lực tăng thượng, do kỷ
cụ đức, linh bỉ hộ cố.
(疏)第八,十王敬護,是增上果者,即有力增上,由己具德,令彼護故。
(Sớ: Thứ tám, mười
vị vua kính trọng, hộ tŕ, đấy là Tăng
Thượng Quả, tức là có sức tăng thượng,
do chính ḿnh đầy đủ đức, khiến cho họ
hộ tŕ).
Trước hết, chúng tôi
giới thiệu đơn giản mười vị thiên
vương (“thập
vương”). Thứ nhất là nói về thiên
vương, “thiên vương”
bao gồm [các vị chúa tể của] hai mươi bốn
tầng trời, tức là sáu tầng trời thuộc Dục
Giới và mười tám tầng trời thuộc Sắc
Giới. Đối với Vô Sắc Giới, chúng ta không
tính, v́ bốn tầng trời của Vô Sắc Giới ngay
cả sắc tướng cũng chẳng có. V́ thế,
trên thực tế, “thiên
vương” là nói đến mười tám tầng trời
[của Sắc Giới] cộng thêm sáu tầng trời Dục
Giới, thành hai mươi bốn. Thiên vương trong hai
mươi bốn tầng trời, trong mỗi tầng trời
không chỉ có một vị thiên vương, chư vị
nhất định phải biết điều này. Giống
như nhân vương trong nhân gian, trên địa cầu có
khá nhiều quốc gia, mỗi quốc gia đều có quốc
vương. Trong quốc gia dân chủ th́ gọi là Tổng
Thống, cũng giống như vậy, là người lănh
đạo quốc gia. Thiên vương là người lănh
đạo trên cơi trời, đấy là khó có nhất!
Thứ hai là long vương.
Ở đây, “long vương”
chuyên chỉ thần thủ hộ. Thông thường, trong
Dục Giới và Sắc Giới họ đều canh giữ
thiên cung, chúng ta thường nói là “bảo vệ”, họ bảo vệ cung điện
của thiên vương. Khá nhiều thiên vương và long
vương là đệ tử đức Phật; v́ chư
Phật Như Lai, chư đại Bồ Tát cũng thường
giảng kinh, thuyết pháp trên cơi trời, họ cũng hết
sức thích nghe, hết sức thích học tập. Nhưng
họ học tập, nói chung là thành tựu không bằng
nhân đạo, đấy là do nguyên nhân nào? Chúng ta phải
hiểu nhà Phật thường nói: “Phú quư học đạo nan” (Phú quư khó học
đạo). Quư vị thấy trong nhân gian chúng ta, kẻ
đại phú, đại quư đến học Phật,
cũng rất nghiêm túc. Trên thực tế, họ chẳng
thể buông phú quư xuống được, lưu luyến
phú quư. V́ vậy, thành tựu kém xa những kẻ thanh bần.
Thanh bần th́ cũng phải là cuộc sống dẫu cùng
khổ nhưng vẫn c̣n sống được, chứ nếu
[túng quẫn] đến mức cơm áo chẳng đủ,
luôn luôn thiếu thốn, sẽ rất khó học đạo.
V́ sao? Ba bữa cơm chẳng no, quần áo mặc chẳng
đủ ấm, người ấy c̣n có tâm tư đâu
để học Phật nữa? V́ thế, cả hai
trường hợp ấy đều khó khăn. Phú quư học
đạo khó, bần cùng học đạo khó! Học đạo
thích đáng nhất sẽ là những kẻ gia cảnh
thường thường bậc trung. Quư vị cũng chẳng
phải là nhà đại phú đại quư, chuyện ăn
no ba bữa c̣n có thể duy tŕ, biết thế gian rất
khổ, tu học rất nghiêm túc. Quư vị hiểu rơ đạo
lư này; do vậy, đức Phật nói: Trong lục đạo,
thích đáng nhất sẽ là nhân đạo. Nhân đạo
là thường thường bậc trung, cơi trời phú quư,
c̣n ba ác đạo quá khổ!
Trong những năm qua, chúng
tôi nhận được một vài tin tức từ linh
giới. Họ đưa tin, chúng tôi suy nghĩ thấy chẳng
phải là vô lư. Họ nói có những kẻ trong súc sanh đạo
hoặc ngạ quỷ đạo c̣n tu tập tốt đẹp
hơn loài người. Ngược lại, loài người
chẳng bằng súc sanh, chẳng bằng ngạ quỷ. Đấy
là một hiện tượng rất đặc thù,
nhưng suy nghĩ cẩn thận, chúng ta có thể liễu
giải hiện tượng ấy. Loài người [tu hành
thua kém súc sanh và ngạ quỷ] là chuyện như thế
nào? Loài người đă mê! Biết cuộc sống hiện
tiền khổ sở, nhưng chẳng tin có đời
sau, chẳng chịu tu! Dẫu có những người có niềm
tin tôn giáo, tôn giáo dạy về đời sau, nhưng họ
cảm thấy những điều tôn giáo nói về đời
sau quá xa vời, có thật hay chăng? V́ vậy, khoa học
càng phát triển, tôn giáo dần dần suy vi. Trạng huống
này hết sức rơ rệt ở phương Tây, người
có niềm tin tôn giáo ngày càng giảm thấp, chẳng có
người đi nhà thờ. V́ thế, chúng ta thấy khá
nhiều nhà thờ phải treo bảng rao bán! Ở
phương Đông, dường như người có niềm
tin tôn giáo vẫn chẳng ít, nhưng nếu quư vị khảo
sát, sẽ thấy cũng đang dần dần suy giảm.
Trong ấy, có rất nhiều
nhân tố. Nhân tố quan trọng nhất là trong tôn giáo chẳng
có những vị thầy truyền giáo thật sự tốt
đẹp. Nếu bản thân người truyền giáo chẳng
thể giữ giới, chẳng thể tu hành, coi truyền
giáo như một nghề, vẫn tham cầu tiếng
tăm, lợi dưỡng, tín đồ thân cận quư vị
một thời gian dài, làm sao nẩy sanh tín tâm đối với
quư vị cho được? Không chỉ là Phật giáo, những
tôn giáo khác đều giống như thế. Tôi nghĩ
đấy mới là nhân tố thứ nhất khiến cho
tôn giáo suy yếu. Hiện thời, hiện tượng này
rất phổ biến, nguyên nhân là ǵ? Nguyên nhân là chẳng thâm
nhập kinh tạng, chẳng y giáo tu hành. Ở Mă Lai, tôi gặp
trưởng lăo Mă Cáp Địch (Mahathir)[2],
lăo nhân gia rất thẳng thắn bảo tôi, chẳng có mảy
may che lấp khuyết điểm (ông ta là tín đồ
đạo Hồi): “Do chẳng thực hiện giáo huấn
của kinh Cổ Lan (Qur’an), chẳng nghiêm túc thực hiện,
cho nên mới bị những phần tử có dă tâm lợi
dụng”. Đấy là lời nói thật ḷng! Tôi nói với
ông ta: “Không chỉ là đạo Hồi, Phật giáo cũng
chẳng phải là ngoại lệ”. Chúng ta là đệ tử
tại gia hay xuất gia của đức Phật, có mấy
người thật sự thực hiện giáo huấn của
đức Phật? Có mấy ai thật sự thực hành
Thập Thiện Nghiệp Đạo, thực hiện Tam
Quy, Ngũ Giới? Đệ tử xuất gia th́ tối
thiểu là thực hành Sa Di Luật Nghi, [có mấy người
làm được]? Không làm được. V́ thế, Phật
pháp hiện thời suy vi như thế đó!
Chẳng thể nói Giáo là không
tốt, vậy là quư vị đă khiến cho Thích Ca Mâu Ni Phật
bị oan uổng mất rồi. Nói chung bằng một câu,
Khổng Tử đă nói rất hay: “Hành hữu bất đắc, phản cầu chư
kỷ” (Có chuyện ǵ chẳng làm được, hăy xét
lại ḿnh). Bản thân chúng ta chẳng làm tốt đẹp,
chẳng thể trách móc kẻ khác. Trách móc kẻ khác là sai mất
rồi! Hết thảy đều phải thực hiện
từ bản thân ta, tuyệt đối chẳng bắt lỗi
kẻ khác. Người khác chẳng có lỗi lầm, lỗi
lầm nơi một thân ta! Ta chẳng làm tốt, khiến
cho đại chúng trong xă hội nẩy sanh hiểu lầm,
khiến cho các vị thần hộ pháp chẳng hộ tŕ.
Thần hộ pháp chẳng nói chuyện cảm t́nh, hoàn toàn
là xét theo sự biểu hiện nơi sự thật của
quư vị. Quư vị thật sự tu tŕ, thật sự có
đạo đức, sẽ cảm động họ, họ
tự nhiên đến tôn kính, hộ tŕ quư vị. Quư vị
có Tăng Thượng Duyên ấy, sẽ càng dũng mănh, tinh
tấn. Hiện thời, tu hành khó khăn hơn thời cổ.
Thời cổ, hoàn cảnh ngoại duyên tốt đẹp.
Tại Trung Hoa, đế vương hộ pháp, đế
vương hết sức tôn trọng người tu hành. Kẻ
b́nh dân đều biết kính Phật, biết kính đạo,
ngay cả Nho, Thích, Đạo đều được
đại chúng trong xă hội tôn kính. Xă hội hiện thời
khác hẳn, nếu muốn được đại chúng
trong xă hội tôn kính, chẳng phải là chuyện dễ
dàng, nhưng như thế nào? “Thập
vương kính hộ” (Mười vua kính yêu, hộ
tŕ), đấy là sự cổ vũ, khích lệ rất lớn
đối với người thật sự tu hành. Chuyện
này là thật, chẳng giả, là sự cổ vũ, khích lệ
to lớn không chi hơn! Người có thể thật sự
tu hành chẳng thoái chuyển, cố nhiên là Tam Bảo gia tŕ.
Mười vị vua này có cống hiến rất lớn.
Thứ ba là Dạ Xoa vương.
Dạ Xoa (Yakṣa) là tiếng
Phạn, dịch sang tiếng Hán, có hai ư nghĩa. Một là
Dũng Kiện (勇健), v́ họ hết sức dũng cảm, hết sức
nhanh nhẹn, tốc độ rất nhanh chóng, lẹ làng!
Ư nghĩa khác là Bạo Ác. Họ rất hung bạo, rất
ác, bất thiện. Do vậy, chúng ta gọi họ là Dạ
Xoa. “Vương” là lănh tụ
của loài Dạ Xoa. Đương nhiên là vua của loài
này cũng rất nhiều, quyết không phải là chỉ
có một[3].
Như trong nhân gian, vua loài người rất nhiều, vua
của mỗi loại đều rất nhiều. Nhưng
trong những loại vua ấy, [tức là] trong số các vị
vua của mỗi loài ấy, đều có người tín
ngưỡng tôn giáo, có người là đệ tử đức
Phật. Dạ Xoa vương là đệ tử đức
Phật, nay chúng ta y giáo tu hành, ông ta đương nhiên hộ
tŕ, đương nhiên là ông ta hoan hỷ, trong ấy có tâm
từ bi. Nhưng nếu chẳng phải là kẻ nghiêm túc
tu hành, trong các vua Dạ Xoa, có rất nhiều kẻ bạo
ác, hung tợn, họ chẳng phải là đệ tử đức
Phật, cũng chẳng quy y Tam Bảo, nhưng đối
với người thật sự tu hành, họ cũng rất
tôn trọng, chẳng làm hại quư vị. Nếu quư vị
là kẻ tu hành giả dối, họ mới đến trêu
chọc quư vị. Thậm chí những con quỷ Dạ Xoa
đến quấy phá quư vị, họ chẳng can thiệp.
Đấy là lư do v́ sao người tu hành hiện thời bị
ma dựa lắm như vậy!
Trong mười loại ấy,
xác thực là có rất nhiều kẻ bất thiện, [nhưng
do] tiếp nhận sự hun đúc của Phật pháp, họ
biến thành tốt lành. Kẻ chẳng tiếp nhận, bất
thiện, giống như người trong xă hội hiện
thời! Chúng ta thấy trong xă hội hiện thời, rất
nhiều kẻ thấy lợi bèn quên béng t́nh nghĩa, trong
mắt chỉ có lợi lộc, tham cầu món lợi nhỏ
nhoi, chẳng hiểu đạo nghĩa là ǵ. Đúng
như cổ nhân đă nói: “Duy
lợi thị đồ” (Chỉ ham cầu lợi). Khởi
tâm động niệm, [toàn là] tổn người lợi
ḿnh, rất bất thiện. V́ thế, chuốc lấy
thiên tai và nhân họa trong xă hội này, có khá nhiều tai nạn.
Nghiệp nhân thật sự
của tai nạn là ǵ? Nghiệp cảm, do nghiệp bất
thiện cảm vời. Nếu là thiện nghiệp, ai nấy
đều là thiện tâm, thiện hạnh. Từ xưa tới
nay, các nhà Phong Thủy Trung Hoa có một
câu nói cửa miệng, chẳng phải là vô lư. Tôi cảm
thấy họ nói rất có lư. Họ nói: “Phước nhân cư phước địa, phước
địa phước nhân cư” (Người có phước
ở cuộc đất có phước. Cuộc đất
có phước dành cho người có phước ở). Hiện
thời, toàn thể xă hội động loạn, nói rơ
điều ǵ? Hiện thời, người sống trên
địa cầu chẳng có phước báo, không biết
tu phước, chỉ biết tạo tội nghiệp, xă
hội làm sao có thể an định cho được? Lẽ
nào thái b́nh cho được? Nếu muốn cho xă hội an
định, thái b́nh, dùng phương pháp ǵ? Ngoại trừ
dùng giáo dục của cổ thánh tiên hiền, chẳng có cách
thứ hai nào khác! Giáo dục của cổ thánh tiên hiền
dạy điều ǵ? Dạy con người làm người
tốt, phải hiểu điều này. Trong tôn giáo, Phật,
Bồ Tát dạy người, chúng ta đă đọc rất
nhiều, [đều nhận thấy chư Phật, Bồ
Tát giáo hóa chúng sanh] nhằm dạy quư vị làm người
tốt, chẳng phải là dạy quư vị làm quan to, phát
tài lớn, chẳng phải vậy! Mà là dạy quư vị
làm người tốt. Người tốt có phước
báo, kẻ ác lấy đâu ra phước báo? Kẻ ác, trong
phần trước, tôi đă nói, cũng đă nói rất
nhiều: Kẻ ác có phước báo là do trong đời quá
khứ đă tu phước, phước ấy quá lớn!
Đời này làm ác, nhưng phước báo của hắn
chưa bị khấu trừ hết! Tuy bị khấu trừ
rất lớn, vẫn c̣n khá đáng kể. Quư vị hiểu:
Do tu tập tích lũy nhiều đời nhiều kiếp
trong quá khứ, nên có phước báo to như thế. Lư và Sự
chúng ta đều phải hiểu rơ ràng, lục căn tiếp
xúc cảnh giới bên ngoài thật sự là tâm b́nh khí ḥa, hiểu
rành mạch, hiểu rơ ràng quá khứ, hiện tại, vị
lai.
Do v́ tâm mọi người bất
thiện, ư niệm bất thiện, lời nói và hành vi bất
thiện, lấy đâu ra phước báo? Giáo pháp Đại
Thừa đă nói về hoàn cảnh bên ngoài rất nhiều:
“Cảnh chuyển theo tâm”.
Chúng ta là thiện tâm, dẫu hoàn cảnh bên ngoài chẳng tốt
đẹp, thế mà mưa ḥa, gió thuận, tai nạn ǵ
cũng đều chẳng có. Nếu tâm bất thiện, núi,
sông, đại địa đều nẩy sanh biến
hóa, vật chuyển theo tâm mà! Trong kinh Lăng Nghiêm, đức
Phật đă nói rất hay: “Nếu
có thể chuyển vật, sẽ giống như Như Lai”.
Chư Phật, Bồ Tát là đại thiện nhân! Các Ngài có
thể chuyển cảnh giới. Các Ngài ở nơi nào,
người ở nơi đó thật sự có phước.
Vậy th́ v́ sao Phật, Bồ Tát chẳng đến? Có
đến cũng vô dụng, quư vị chẳng tiếp nhận.
Các Ngài có thể chuyển [cảnh giới] để các
Ngài thọ dụng, cảnh giới của quư vị chẳng
thể chuyển! Nói cách khác, đối với chuyện này,
tâm, Phật, chúng sanh cả ba chẳng sai biệt. Phật
chẳng giúp được, nhất định phải hiểu
rơ đạo lư này.
Nếu chúng ta đều giác
ngộ, hoan hỷ tiếp nhận giáo huấn của Phật,
Bồ Tát, Phật, Bồ Tát sẽ đến thế gian
này đông đảo! Quư vị thấy vào đời
hưng thịnh tại Trung Hoa trong thời cổ, trong hàng
tại gia, xuất gia, các vị Phật, Bồ Tát tái lai rất
đông, cho thấy xă hội ấy tốt đẹp, thiện
nhân đông đảo, người mong làm lành đông đảo,
bèn cảm ứng Phật, Bồ Tát hiện đến. Nếu
chúng ta niệm nào cũng đều là ác (làm ác), chẳng có
thiện niệm, chẳng có thiện hạnh, sẽ chẳng
cảm ứng Phật, Bồ Tát, mà là ǵ? Dạ Xoa, La Sát.
Những loài này trong kinh điển đều có [nhắc
đến], không ǵ chẳng phải là do nghiệp cảm của
chúng sanh [cảm vời], quư vị c̣n nói ǵ được
nữa? Do đó, chỉ cần chúng ta nghiêm túc y giáo tu hành, Dạ
Xoa vương sẽ thủ hộ chúng ta, đến làm hộ
pháp cho chúng ta.
Vị thứ tư Càn Thát Bà
vương. Càn Thát Bà (Gandharva) là tiếng Phạn, dịch
sang nghĩa tiếng Hán là Hương Âm. Hương (香) là thắp hương, Âm (陰) là chữ Âm trong Âm Dương. Quư
vị thắp hương, họ ngửi thấy mùi liền
đến. Họ là ai? Chính là thần âm nhạc của
Đao Lợi Thiên, rất giống ban nhạc giao hưởng
quốc gia trong hiện thời. [Càn Thát Bà vương] là
đoàn trưởng của đoàn nhạc giao hưởng.
Ông ta có địa vị như thế, là người chỉ
huy âm nhạc, có một đội nhạc rất lớn.
Nếu chúa trời Đao Lợi có hoạt động ǵ với
quy mô lớn, cần gọi họ đến diễn tấu,
cứ thắp hương, họ sẽ đến ngay! Họ
ngửi thấy mùi hương bèn đến, biết là
trong thiên cung cần diễn tấu. Đấy là người
diễn tấu.
Vị thứ năm là A Tu La
vương. Trong mười loại vua, các đồng học
thấy A Tu La (Asura) khá quen thuộc. La Sát (Rākṣasa) và A Tu La khá quen thuộc, v́ những
loài này thường được nói là rất bất thiện,
rất hung tợn, rất ác, có thể hại người.
A Tu La là tiếng Phạn, dịch là Vô Đoan Chánh, v́ diện
mạo của họ rất xấu xí, thô kệch, rất
hung ác, khiến cho quư vị trông thấy sẽ sợ hăi,
nhưng họ có phước báo. Gần như A Tu La nào
cũng đều có phước báo. Đức Phật dạy:
Trong khi tu nhân, họ tu phước, Tài Bố Thí, Pháp Bố
Thí, Vô Úy Bố Thí, họ thật sự làm, cho nên họ có
đại phước báo. Nhưng tu bố thí, chịu làm
chuyện tốt, cái tâm ngạo mạn rất nặng, tâm
chẳng nhu ḥa, chỗ nào cũng đều cạnh tranh với
kẻ khác. Giống như trong Phật môn chúng ta, sắp
đến Tết rồi, bao nhiêu người tranh giành
để được thắp nén nhang đầu tiên
trong đêm Giao Thừa. Hễ có cái tâm cạnh tranh, trong
tương lai, quả báo đều là A Tu La đạo. Hiếu
thắng, ham tranh chấp, ḷng ghen tỵ rất nặng, chỗ
nào cũng đều phải đứng thứ nhất,
quư vị xếp họ đứng thứ hai, họ sẽ
bực bội, kiếm chuyện làm phiền quư vị.
Đây là một loại trong trời, người, quỷ,
súc đều có. Kinh Lăng Nghiêm đă giảng rất rơ
ràng!
Thông thường kinh Phật
nói về A Tu La là chuyên nói về Thiên A Tu La, họ có phước
báo cơi trời, nhưng chẳng có đức hạnh của
thiên vương. Thiên vương từ, bi, hỷ, xả,
nhân từ, họ (A Tu La) hung ác; nhưng sau khi họ tiếp
nhận giáo huấn của đức Phật, quy y Tam Bảo,
cũng biến thành thần hộ pháp, chư vị nhất
định phải biết điều này. Trong phần
trước, tôi đă nói rất nhiều, tôi chẳng ngại
trùng lặp. A Tu La vương rất nhiều, trong ấy,
chỉ có một phần là đệ tử đức Phật.
Đương nhiên là đệ tử đức Phật,
họ sẽ sửa lỗi đổi mới. Nhưng cần
phải nhớ, tuy sửa lỗi, tập khí vẫn c̣n, tập
khí hung ác vẫn c̣n, điều này rất khó sửa; nhưng
trong tâm chẳng có ác tâm, tuy vẫn c̣n có tập khí ác, c̣n có
tập khí ngạo mạn. Cái tâm ngạo mạn thật sự
chẳng có, tâm tuy từ bi, vẫn có biểu hiện ngạo
mạn, điều này cũng đáng cho chúng ta tham khảo
trong tu học. V́ thế, khiêm hư, cung kính hết sức
trọng yếu!
Tôn giáo nào cũng đều
nói tới khiêm kính. Quư vị thấy đối với
Thiên Chúa Giáo, trước kia, tôi có nhắc đến kinh
Mân Côi (Rosarium)[4], đoạn
thứ nhất trong ấy nói thánh mẫu Mă Lợi Á (đức
bà Maria) khiêm ty, luôn nêu gương giáo hóa chúng ta, đáng cho
chúng ta học tập. Trong kinh Dịch của giáo học truyền
thống Trung Hoa, trong sáu mươi bốn quẻ, chỉ
có quẻ Khiêm[5] là
sáu hào đều cát, nó chẳng có lỗi lầm! Mỗi quẻ
đều có cát và hung, chỉ có quẻ Khiêm là thuần cát,
chẳng hung. Trong sáu mươi bốn quẻ, chỉ có một
quẻ này là thuần cát vô hung, tức quẻ Khiêm, khiêm
hư, cung kính. Chúng ta dùng [thái độ] khiêm hư, cung kính
để tu bố thí cúng dường, quyết không đọa
trong A Tu La đạo. Nếu A Tu La không học Phật, hưởng
hết phước báo, chẳng có ai không đọa trong tam
đồ. Phải thấy rơ ràng, phải tin tưởng lời
Phật dạy chẳng sai! Đối với người
khác cung kính, quyết định là có lợi ích.
Vị thứ sáu là Ca Lâu La
vương. Nay nhân gian chúng ta chẳng thấy Ca Lâu La
(Garuda). Trong cổ thư có ghi chép một loài được
gọi là “đại bằng
kim xí điểu” (大鵬金翅鳥), Ca Lâu La là “kim xí điểu” (chim cánh vàng). Thân thể loài chim
này rất lớn, có thể bay rất cao, bay rất xa.
Chúng ăn rồng, nên là khắc tinh của long tộc. Long
vương cầu đức Phật cứu họ, sợ
bị kim xí điểu ăn. V́ thế, đức Phật
xé một góc áo ca-sa, tách ra những sợi chỉ, chia những
sợi chỉ từ áo ca-sa cho các long tử, long tôn. Chỉ
cần rồng có một tí chỉ từ áo ca-sa của
đức Phật, kim xí điểu sẽ chẳng ăn
nó. Ca Lâu La vương là Phật tử kiền thành, họ
là một vị trong tám bộ hộ pháp, tức tám bộ
quỷ thần.
Vị thứ bảy là Khẩn
Na La vương. Khẩn Na La (Kiṃnara) dịch là Nghi Thần, Nghi (疑) là nghi hoặc. V́ h́nh trạng của họ chẳng
khác loài người, điểm khác biệt là trên đầu
họ có một cái sừng, giống như sừng trâu hay
sừng dê. V́ thế, quư vị nói họ là người, họ
có thêm một cái sừng. Quư vị nói họ chẳng phải
là người, trừ cái sừng ấy ra, họ giống
như con người. Họ cũng thuộc loại nhạc
thần (thần âm nhạc), đều thuộc về
Đao Lợi Thiên. Loại này có sở trường là biểu
diễn, hơi khác Càn Thát Bà. Càn Thát Bà giống như dàn nhạc,
là đội nhạc giao hưởng, c̣n Khẩn Na La là ca
múa, biểu diễn, diễn xuất. Chúng ta gọi họ
là đoàn thể văn hóa, nghệ thuật, họ thuộc
loại này. Đại khái là trong cung trời, hễ có hoạt
động với quy mô lớn, sẽ mời họ đến
biểu diễn, diễn xuất một số tiết mục
giải trí, họ sẽ đến phụ trách.
Vị thứ tám là Ma Hầu
La Già vương. Ma Hầu La Già (Mahoraga) dịch là Đại
Phúc Hành, Phúc (腹) là bụng[6],
[Ma Hầu La Già là] Măng Xà, Đại Xà. Chúng ta thấy những
loài này hiện thời được gọi là “tinh linh” (精靈), là những người tu hành thành
tựu trong loài tinh linh. Họ có thể lên thiên cung, có thể
cùng tụ hội với chư thiên, nhưng thân phận thật
sự của họ là tinh linh, là rắn, thuộc loại
rắn lớn. Từ chỗ này, chúng ta có thể thấy:
Súc sanh, ngạ quỷ tu hành chứng quả, trong ấy
cũng có kẻ chứng A La Hán, cũng có kẻ chứng quả
vị Bồ Tát. Lục đạo chúng sanh đều có Phật
Tánh; có thể thành tựu hay không, xác thực là như Thiện
Đạo đại sư đă nói: “Nói chung là do gặp duyên khác nhau”. Do vậy, nay
chúng ta hiểu: Trong địa ngục là khổ sở nhất,
Địa Tạng Bồ Tát hóa hiện trong địa ngục,
[là v́] trong ấy có người thật sự biết
địa ngục là khổ, đọa nhập địa
ngục là v́ nhất thời phạm sai lầm. Trong đời
quá khứ, người ấy quả thật cũng tu
hành, có thiện căn, đời này do chẳng gặp thiện
duyên, chẳng cẩn thận tạo tác tội nghiệp, bị
đọa địa ngục. Họ gặp Địa Tạng
Bồ Tát cũng thật sự sám hối, quay đầu
là bờ, nhất tâm niệm Phật, cầu nguyện văng
sanh. Có thể văng sanh hay không? Có chứ, đương
nhiên đó là thiểu số cực ít. Đúng như trong Phật
pháp thường nói: “Phật chẳng
độ kẻ vô duyên”.
Phàm là người đọa
địa ngục c̣n có thể được Địa
Tạng Bồ Tát tiếp dẫn đắc độ, chúng
ta phải hiểu nhân tố thứ nhất là thiện
căn của người ấy sâu dầy. Thiện
căn do đâu mà có? Thiện căn nhất định là do
đọc kinh, niệm Phật mà có. Đời này đă
đọc kinh, niệm Phật, cớ sao bị đọa
địa ngục? Ác tập khí quá nặng! Trong các đồng
học chúng ta, quư vị chỉ cần lưu ư nh́n xem sẽ
biết, có rất nhiều trường hợp xác thực
là như vậy. Họ có biết là sai lầm hay không? Biết
chứ! Tuy biết, nhưng cố t́nh hoặc vô ư vẫn
làm. Những tội nghiệp là như nay chúng ta nói, giết,
trộm, dâm, dối, ích kỷ, tổn người, lợi
ḿnh, làm những sự nghiệp ấy, làm hại nhiều
người.
Đặc biệt là trong khi
tai nạn, có khá nhiều tai nạn, có những vị nhân
sĩ thiện tâm muốn cứu giúp nạn nhân, cuối
cùng là như thế nào? [Nạn nhân] chẳng nhận
được tiền, v́ sao? Tiền đều bị những
kẻ trung gian tước mất, người thật sự
bị nạn chẳng nhận được. Do vậy, đă
khiến cho rất nhiều nhân sĩ thiện tâm chẳng
muốn bỏ tiền cứu giúp tai nạn. Chính ḿnh
cũng chẳng có cách nào đến nơi đang xảy
ra tai nạn, thường là phải giao cho người
khác làm giùm, có những cơ quan của chánh phủ, có các tổ
chức tư nhân. Người hiện tại hoài nghi họ,
nói họ toàn là phường tham tiền, chẳng làm. Quan
niệm ấy sai rồi! Chẳng biết trong kinh điển,
đức Phật thường giáo huấn chúng ta: “Ai có nhân quả nấy, mỗi
người tự chịu trách nhiệm”. Quư vị là
thiện tâm, quyên tiền cứu giúp nạn nhân, công đức
của quư vị chẳng thiếu khuyết chút nào. Những
kẻ khác ăn chặn, khiến cho dân chúng đang bị
tai nạn chẳng nhận được tiền, chúng nó
bỏ vào túi riêng, lũ chúng nó tạo tội nghiệp, sẽ
phải chịu quả báo. Ai có nhân quả nấy, mỗi
người tự chịu trách nhiệm. Quư vị chớ
nên thấy chuyện này mà đoạn dứt thiện tâm,
sai mất rồi!
Có người nói: “Ta bỏ
tiền ra khiến cho bọn họ tham cầu lợi ích, họ
đoạt lấy, chẳng phải là ta đă giúp họ tạo
tội nghiệp ư?” Quư vị hăy ngẫm xem, nếu quư
vị thật sự phát tâm giúp họ tạo tội nghiệp
th́ quư vị phạm lỗi. Quư vị phát tâm chẳng nhằm
giúp họ tạo tội nghiệp. Quư vị phát tâm nhờ
họ chuyển giao món tiền ấy cho dân chúng đang gặp
tai nạn, chẳng phải là quư vị phát cái tâm như thế
ấy hay sao? Tâm ấy là thiện tâm, là hảo tâm, c̣n
như họ làm như thế nào, họ phải chịu
trách nhiệm, quyết chẳng phải là ta tạo cơ hội
cho họ tạo tác tội nghiệp. Vọng tưởng
của quư vị nhiều quá!
Hăy ghi nhớ, ai có nhân quả
nấy, mỗi người tự chịu trách nhiệm, mỗi
người có quả báo của riêng ḿnh. Cái tâm làm lành chớ
nên đoạn, ư niệm làm lành chớ nên đoạn, cái hạnh
làm lành chớ nên đoạn, quyết định phải
làm. Chẳng cần biết kẻ khác chướng ngại
như thế nào, hoặc chiếm tiện nghi, mong cầu
lợi ích từ quư vị như thế nào, đều chẳng
quan tâm! Mỗi người có quả báo riêng! Tâm chúng tôi thuần
chánh, chúng tôi tín nhiệm quư vị, nếu bản thân quư vị
tham cầu lợi ích, quả báo ấy quá khổ! Dân bị
tai nạn có nhu cầu cấp bách, đó là cứu mạng;
quư vị đoạt chút tiền cứu mạng của họ,
sẽ hại chết bao nhiêu chúng sanh, quả báo ấy sẽ
là địa ngục A Tỳ, rất đáng sợ! Đó
là quư vị tự làm tự chịu, tuyệt đối chẳng
phải là chúng tôi bỏ tiền, bỏ sức để tạo
cơ hội đưa quư vị vào địa ngục, chẳng
phải vậy! Nếu có ư niệm như vậy, ta đă
hại người, ta muốn đẩy kẻ khác vào
địa ngục, hăm hại kẻ đó. Chẳng phải
vậy! Chúng ta tín nhiệm họ, khẩn cầu họ
giúp đỡ cứu tế tai nạn; v́ thế, quả
báo khác nhau. Quư vị phải thâm nhập kinh tạng, phải
hiểu rơ ràng, minh bạch giáo huấn của đức Phật,
chớ nên hoài nghi, bản thân chúng ta không ngừng nâng cao cảnh
giới của chính ḿnh th́ mới có thể đạt
được thọ dụng chân thật trong Phật
pháp.
Thứ chín là “nhân vương” (vua trong loài người). Thuở
Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, đă giao việc hộ
pháp cho các quốc vương, đại thần. V́ chỉ
có quốc vương, đại thần dùng oai thế của
họ để giúp cho việc truyền bá th́ giáo dục của
đức Phật mới có thể phổ cập, phổ
cập trong xă hội, phổ cập khắp toàn quốc,
phổ cập khắp thế giới, công đức ấy
to lớn. V́ thế, phàm là địa vị càng cao, làm vua
tu phước rất dễ, mà tạo tội cũng rất
dễ. Nếu ông ta gây chướng ngại, tội lỗi
cũng rất nặng. Nếu ông ta giúp quư vị giáo hóa
chúng sanh, công đức sẽ là vô lượng vô biên.
Các đệ tử của Phật,
bất luận tại gia hay xuất gia, theo đuổi
công tác giáo dục của đức Phật, nếu không có
ai ủng hộ, ảnh hưởng sẽ rất nhỏ,
chẳng có cách nào mở rộng được! Cho tới
hiện thời khoa học, kỹ thuật phát triển, t́nh
thế này đă thay đổi. Trước kia, thật sự
nhờ vào oai thế của quốc vương, đại
thần, dùng oai thế của họ. Hiện thời, lại
có thêm hai thứ, có thêm hai thứ ǵ vậy? Truyền h́nh vệ
tinh và Internet, hai thứ ấy. Hai thứ ấy cũng có
thể giúp quư vị mở rộng hiệu quả giáo học
ra xă hội, đưa giáo học đến từng gia
đ́nh của mỗi cá nhân. Trước kia, chẳng có
chuyện này; hiện thời, phát minh những thứ ấy,
chúng ta phải biết, phải khéo lợi dụng chúng.
Trong quá khứ, thầy tôi là tiên sinh Phương Đông Mỹ
thường nói đấy là công cụ rất tốt, phải
khéo lợi dụng. Nếu nội dung của những ǵ
được phát sóng là giết, trộm, dâm, dối, t́nh
dục, bạo lực, tức là quư vị đă dạy hỏng
xă hội, quả báo khôn cùng, quả báo quá đáng sợ!
Đọa địa ngục, sẽ đọa vào địa
ngục nặng nhất! Quư vị đă dạy hư bao nhiêu
người, đáng sợ quá! Nếu nội dung là chánh đáng,
là luân lư đạo đức, là nhân quả báo ứng, quả
báo nhỏ nhất trong tương lai cũng là thân phận
thiên vương, chẳng phải là nhân vương, mà là thiên
vương. Nếu có tu hành đôi chút,
quư vị sẽ trở thành Phạm vương.
Cuối cùng là Phạm
vương. Phạm vương là thiên vương trong Sắc
Giới Thiên. Trong phần trên, chúng ta đă nói [địa vị
vua] thứ nhất là thiên vương, thuộc về Dục
Giới Thiên, đương nhiên là nói theo nghĩa rộng,
bao gồm Sắc Giới và Dục Giới. Phạm
vương (Brahmā) ở
đây nhằm chuyên chỉ Sắc Giới Thiên, tức là
Đại Phạm Thiên Vương và Ma Hê Thủ La (Maheśvara) Thiên Vương. Đấy là những địa
vị cao nhất trong lục đạo luân hồi, họ
thống trị lục đạo luân hồi, lục đạo
đều do họ quản hạt. Họ ngự trong Sắc
Giới Thiên. Phạm Vương ngự tại Sơ Thiền
của Sắc Giới, Tứ Thiền Thiên là nơi Ma Hê Thủ La Thiên Vương
cư trụ. Người nắm giữ địa vị
và quyền thế cao nhất như vậy trong tam giới
lục đạo đến hộ pháp, hộ tŕ, cung kính
cúng dường quư vị. Đấy là do nguyên nhân nào?
Đúng như trong phần chú giải, Thanh Lương
đại sư đă nói: “Do kỷ
cụ đức” (Do chính ḿnh có đầy đủ
đức), điều này rất quan trọng! Bản thân
quư vị trọn đủ đạo đức, sẽ
chiêu cảm mười loại vua đến hộ tŕ. Chính
ḿnh chẳng có đạo đức, đạo tràng của
quư vị sẽ có yêu ma quỷ quái đến hộ tŕ. Yêu
ma quỷ quái hộ tŕ quư vị, khoái chí th́ họ hộ
tŕ, bực bội bèn quấy rối. Nói chung, đạo
đức là bậc nhất. Quư vị chẳng có đạo
đức, ai hộ tŕ quư vị? Quư vị thật sự
có đạo đức, chẳng cần cầu họ, họ
tự nhiên ṃ tới. Đạo đức, tŕ giới! Do tŕ
giới, chuyện tuân giữ pháp được kiến lập
từ chỗ này. Nhất định là phải tŕ giới,
nhất định là phải tuân thủ pháp. Hôm nay đă hết
thời gian, chúng tôi nói tới chỗ này.
Tập
1488
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin
mời ngồi xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh
thứ mười một, xem từ đoạn thứ
mười một trong phần trường hàng.
(Kinh)
Vân hà đắc dữ
nhất thiết chúng sanh vi y, vi cứu, vi quy, vi thú, vi cự,
vi minh, vi chiếu, vi đạo, vi thắng đạo, vi
phổ đạo?
(經)云何得與一切眾生為依。為救。為歸。為趣。為炬。為明。為照。為導。為勝導。為普導。
(Kinh: Làm thế nào để
là nơi nương tựa, nơi cứu tế, nơi
quay về, nơi hướng đến, làm đuốc,
làm ánh sáng, chiếu soi, dẫn dắt, dẫn dắt thù thắng,
dẫn dắt trọn khắp cho hết thảy chúng sanh?)
Đối với mười
câu này, trong phần chú giải, Thanh Lương đại
sư đă bảo hai đoạn cuối là:
(Sớ) Minh Đẳng
Lưu Quả giả, do bổn nguyện lực, vi y cứu
đẳng.
(疏)明等流果者,由本願力,為依救等。
(Sớ: Nói về Đẳng
Lưu Quả, do sức bổn nguyện mà làm nơi
nương tựa, cứu vớt v.v…)
“Đẳng”
[trong câu “vi y cứu đẳng”]
là [từ “y, cứu”] cho
đến “phổ đạo”.
Lời chú giải ở đây nhằm giải thích đoạn
kinh văn chúng ta vừa mới niệm, phần sau sẽ
là đoạn cuối cùng. Thanh Lương đại
sư không chú giải đoạn này, nhưng trong câu cuối
cùng, Ngài nói rơ với chúng ta:
(Sớ) Kim sơ.
(疏)今初。
(Sớ: Nay, điều đầu
tiên là…)
Đây chính là nói về đoạn
thứ nhất.
(Sớ)
Năng vi nhiêu ích, y đẳng thập cú, như Hồi
Hướng sơ.
(疏)能為饒益,依等十句,如迴向初。
(Sớ: Có thể tạo lợi
ích to lớn, mười câu như “làm chỗ nương về”…
[đă được giải thích] như trong địa vị
thứ nhất của phẩm Thập Hồi Hướng).
Đối với đoạn
văn này, trong đoạn lớn thứ nhất, tức
đoạn [giảng về phẩm vị] Sơ Hồi
Hướng trong phẩm Thập Hồi Hướng đă
thuyết minh cặn kẽ. V́ thế, ở đây, đại
sư tỉnh lược. Nay chúng ta học đến phẩm
Tịnh Hạnh, hăy c̣n cách phẩm Thập Hồi Hướng
quá xa. Xét theo tốc độ tiến triển của chúng
ta trong hiện tại, chỉ sợ hai năm sau mới có
thể giảng đến. Các đồng học chúng ta v́
chẳng phải ở trong nhà trường, cho nên có tánh chất
lưu động rất lớn. Nếu đă đến,
dẫu là đến nghe một lần, chúng ta cũng mong
được một lần lợi ích thù thắng, tức
là quư vị chẳng uổng công đến, chúng tôi mới
chẳng có lỗi với mọi người. V́ thế,
[để giảng giải], chúng tôi cũng chẳng ĺa khỏi
những điều đă nói trong [phẩm vị] Sơ Hồi
Hướng, đại ư giống như phần Sơ Hồi
Hướng đă nói, nhưng có mấy câu dùng từ ngữ
khác nhau. Khéo sao, đức Thế Tôn đă dạy chúng ta Tứ
Y Pháp: “Y nghĩa, bất y ngữ”.
V́ thế, chúng tôi nương theo kinh văn trong phần
Sơ Hồi Hướng để giải thích mười
câu này. Đây chính là Bồ Tát phát nguyện sẽ làm chỗ
nương tựa cho hết thảy chúng sanh. Bồ Tát là
tấm gương tu hành, là điển h́nh cho chúng ta. Ngài
nêu gương cho chúng ta thấy, hăy nên học tập theo!
Trong quá khứ, khi tôi mới
học Phật, thầy dạy chúng tôi. Lúc ấy, tôi c̣n
chưa xuất gia, theo thầy Lư học kinh giáo, thầy bảo
chúng tôi: “Chúng ta học Phật,
đương nhiên quan trọng nhất là phải dựa
vào kinh điển. Ĺa khỏi kinh điển, sẽ chẳng
phải là học Phật”. Nhưng nương tựa
kinh điển vẫn chưa đủ, làm như thế
nào? C̣n phải t́m một người để học theo
người ấy. Đương nhiên chúng tôi đều
theo học với thầy, nhưng thầy rất khách sáo,
bảo: “Tôi không được”. Do vậy, thầy giới
thiệu một người là thầy của Ngài, tức Ấn
Quang đại sư. Lại c̣n đặc biệt dặn
ḍ chúng tôi, v́ khi ấy, tôi c̣n chưa xuất gia, c̣n mang thân
phận cư sĩ: “Cổ
nhân không học theo Tô Đông Pha, người thời nay
không học Lương Khải Siêu”. Chúng ta biết Lương
Khải Siêu và Tô Đông Pha cũng đều là những Phật
giáo đồ rất kiền thành, nhưng như thế
nào? Chẳng có thành tựu! Cả đời họ làm chuyện
Phật học, chẳng phải là học Phật!
Phật học cùng học Phật
là hai chuyện! Nếu thầy không đặc biệt chỉ
bảo chuyện này, chúng ta thường lẫn lộn, ngỡ
chúng là cùng một chuyện. Học Phật và Phật học
chẳng phải là một chuyện ư? Hay là hai chuyện
ư? Thầy vừa giảng, chúng tôi bèn hoảng nhiên đại
ngộ. “Phật học” tức là coi Phật giáo như một
môn học vấn, nghiên cứu lư luận, giáo nghĩa, và học
thuật của nó, nhưng chẳng có cách nào thực hiện,
đúng như trong [tác phẩm sớ giải kinh] Hoa Nghiêm,
Thanh Lương đại sư đă bảo: “Có giải mà chẳng có hạnh”.
Đấy là Phật học. “Học Phật” th́ giải
và hạnh tương ứng, đó là thật sự học
Phật. Những thứ ta đă học đều phải
biến thành cuộc sống của chính ḿnh, vận dụng
vào công việc, dùng trong xử sự, đăi người tiếp
vật, đấy mới là học vấn thật sự.
V́ thế, thầy giới thiệu cho tôi một tấm
gương. Thầy bảo: “Đă có một tấm gương
ấy, con hăy khéo học theo”. Thầy giới thiệu Ấn
Quang đại sư cho tôi.
Ấn Quang đại sư cũng
chẳng c̣n tại thế, Ngài cũng đă qua đời.
Học theo Ngài bằng cách nào? Văn Sao của Ấn Quang
đại sư c̣n đó, những trước tác của
lăo nhân gia c̣n đó. Nay chúng ta thấy Toàn Tập của tổ
Ấn Quang, đóng b́a cứng dầy như thế gồm
bảy tập, quư vị hăy đọc, hăy y giáo phụng
hành, những giáo huấn của lăo nhân gia đều có thể
thực hiện, sẽ là tư thục đệ tử của
Ấn Quang đại sư. Ngay trong đương thời
chẳng t́m được một vị thầy tốt,
đức cao trọng vọng, chúng ta hăy t́m từ cổ
nhân. Đương nhiên là cổ nhân càng gần càng hay, Ngài
chẳng cách chúng ta quá xa. Nói cách khác, chúng ta đọc
văn tự của Ngài khá dễ dàng. Thầy giới thiệu
cho chúng tôi, xác thực là có đặc điểm tất yếu
như thế.
Chúng ta xem Hoa Nghiêm. Hoa Nghiêm là
bộ kinh được giảng đầu tiên khi đức
Thế Tôn thị hiện thành đạo. Do vậy, trong
năm thời thuyết pháp, thời thứ nhất là Hoa
Nghiêm. Nhưng Hoa Nghiêm chẳng giảng trong nhân gian,
cũng chẳng phải là giảng trên cơi trời, mà là do
đức Phật giảng trong Định. Lũ phàm phu
chúng ta thấy Thích Ca Mâu Ni Phật nhập Định
dưới cội Bồ Đề, ai biết Ngài mở
đại pháp hội to như vậy trong Định, giảng
pháp môn thù thắng như vậy? Ai tham dự pháp hội ấy?
Pháp Thân Bồ Tát. Người tham dự pháp hội là các vị
Pháp Thân đại sĩ thuộc bốn mươi mốt
địa vị. Trong phần mở đầu kinh này,
chúng tôi đă giới thiệu khái lược cùng quư vị.
Quư vị thấy bộ kinh này đến cuối cùng là
năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài đồng
tử, đấy chính là một tấm gương, tức
là có điển h́nh. Người học, người dạy,
từ chỗ này, chúng ta đều có thể thấu hiểu
thật sâu. Do vậy, nhất định phải phát đại
tâm.
V́ sao phải xuất gia? Xuất
gia để làm những ǵ? Đối với Phật pháp,
các đồng học đều biết: Trong Phật môn,
nói chung, chẳng ngoài hai hạng người, một loại
là hoằng pháp, loại kia là hộ pháp. Phật pháp là giáo dục,
chẳng phải là tôn giáo. Chư vị nhất định
phải hiểu rơ ràng chuyện này! Nếu quư vị chẳng
hiểu rơ, sẽ chẳng học được ǵ từ
Phật pháp. Tự viện, am, đường là trường
học, nhất định phải biết điều này!
V́ sao nhà chùa được gọi là Tự? Tự (寺) có nghĩa là ǵ? Phải hiểu
điều này! Tự chẳng phải là miếu! Miếu (廟) là
nơi hiến tế tổ tiên, hiến tế quỷ thần
th́ gọi là Miếu. Tự là cơ quan làm việc của
chánh phủ, phải hiểu rành rẽ điều này! Phật giáo truyền đến Trung
Hoa vào đời Hán. Theo chế độ đời Hán, những
cơ quan thuộc quyền quản hạt trực tiếp
của hoàng đế được gọi là Tự.
Cơ cấu Tự được thiết lập vĩnh
cửu, vĩnh viễn chẳng bị triệt tiêu, chẳng
giống những cơ quan gọi là Bộ làm việc dưới
quyền Tể Tướng. Quư vị thấy trước
kia có Lễ Bộ, Lại Bộ, Binh Bộ. Binh Bộ nay
chính là bộ Quốc Pḥng, Lễ Bộ là bộ Giáo Dục
hiện thời, Lại Bộ nay là bộ Nội Chánh (Nội
Vụ). Những bộ ấy có thể triệt tiêu, có thể
gom lại, chẳng phải là một cơ cấu vĩnh
cửu bất biến, có thể tăng thêm, có thể triệt
tiêu. Dưới hoàng đế, có chín cơ cấu làm việc,
những cơ cấu ấy là vĩnh hằng, từ nhà
Hán cho đến nhà Thanh đều bất biến. Do vậy,
gọi là Tự. Tự là cơ quan làm việc của chánh
phủ, thủ trưởng của Tự được
gọi là Khanh (卿).
Thông thường, mọi người biết đại
khái vào thời đại đế vương có tam công cửu
khanh. Tam Công (三公)[7]
địa vị rất cao, là cố vấn của hoàng
thượng. Cửu Khanh (九卿)[8]
là những người làm việc trực thuộc hoàng
đế, nay chúng ta gọi là “cơ cấu một cấp
thủ trưởng”. Sau khi Phật giáo truyền đến
Trung Hoa, cũng thành lập một cơ cấu. Cơ cấu
ấy nghiễm nhiên được gọi là Tự, quư vị
bèn hiểu Phật giáo có thân phận và địa vị
như thế nào!
V́ sao “Tự” được gọi là Tự? Quư vị
thấy: Vào thuở ấy, người Hoa tâm tánh nồng hậu,
ngài Ma Đằng và Trúc Pháp Lan đem tượng Phật
và kinh sách từ Tây Vực sang Trung Hoa, dùng ngựa trắng
chở về. Do vậy, cũng chẳng quên công lao của
ngựa trắng, bèn gọi ngôi Tự ấy là Bạch Mă Tự.
Thuở ấy, kinh đô là Lạc Dương, Bạch Mă Tự
ở Lạc Dương là ngôi chùa đầu tiên của Phật
giáo [Trung Hoa]. Phải biết nguồn gốc này của chữ
Tự. Nó làm ǵ? Làm công tác giáo dục Phật giáo, phải hiểu
điều này. Công tác vào thuở đó, thứ nhất là
phiên dịch kinh điển, giống như viện biên dịch
của quốc gia trong hiện tại phiên dịch kinh
điển. Thứ hai là chỉ đạo việc học
tập kinh điển. V́ thế, nó là [nơi chốn để]
dạy học. Sự dạy học ấy có thể nói là
măi cho đến những năm đầu triều Thanh,
đại khái là trong thời Khang Hy, Ung Chánh, Càn Long, vẫn
chẳng thay đổi! Tự, viện, am, đường
chẳng có nơi nào không giảng kinh, không có nơi nào chẳng
giáo học, chúng ta phải hiểu điều này.
Do đó, xuất gia, chuyện
thứ nhất là giảng kinh. Chẳng giảng kinh th́ hộ
tŕ. Giống như trong một ngôi trường, quư vị
chẳng phải là giáo viên th́ là viên chức. V́ thế,
đối với giáo viên và viên chức, giáo viên chuyên môn phụ
trách giảng dạy, viên chức hộ tŕ đạo tràng.
Đạo tràng có nhiều việc hành chánh cần họ
làm. Chư vị thấy những vị được gọi
là “cương lănh chấp sự”
trong chùa miếu, quư vị sẽ hiểu, sẽ minh bạch.
Trụ Tŕ Phương Trượng trong tự viện là
địa vị ǵ? Giống như hiệu trưởng
trong nhà trường, vị ấy đứng đầu
nhà trường. V́ thế, trong Phật môn vị ấy xưng
là Ḥa Thượng, người khác chẳng thể gọi
là Ḥa Thượng. Ḥa Thượng là hiệu trưởng,
Ḥa Thượng là Thân Giáo Sư, là người chủ tŕ
chánh sách dạy học trong một ngôi trường,
phương châm dạy học do vị ấy quyết
định. Vị ấy không nhất định phải
lên lớp, giáo viên thay vị ấy chấp hành, lên lớp
thay cho vị ấy. Nhưng chánh sách và phương châm giáo
dục do vị ấy quyết định, giáo hóa một
phương.
Dưới Ngài, có ba vị cương
lănh chấp sự. Vị thứ nhất là Thủ Tọa
(首座), Thủ Tọa là giáo vụ
trưởng (Provost) trong nhà trường hiện thời,
như giáo vụ trưởng trường Đại Học,
Ngài quản trị giáo học. Do vậy, Thủ Tọa Ḥa
Thượng có khi không chỉ là một vị mà có rất
nhiều vị, phân ṭa giảng kinh. Trong chùa, các đại
tự viện có rất nhiều giảng đường,
quư vị thích nghe kinh ǵ, thích nghe pháp môn nào, quư vị đến
pḥng học đó, lên lớp cùng một lúc. Vị thứ
hai là Duy Na (維那), Duy Na trông coi việc huấn đạo, cai quản
trật tự, trông nom việc giáo huấn, là huấn đạo
trưởng. Vị thứ ba là Giám Viện (監院). Giám Viện trông coi tổng vụ
(các sự vụ chung), là tổng vụ trưởng. Danh
xưng khác nhau, đều là quản sự như nhau. Giáo
vụ, huấn đạo, tổng vụ là ba vị lănh
đạo dưới ḥa thượng. Quư vị thấy
những chuyện này, bèn hiểu Phật giáo là giáo dục,
chẳng phải là tôn giáo.
Do vậy, từ cách xưng
hô, quư vị cũng có thể hiểu rơ! Gọi là Ḥa
Thượng, th́ Ḥa Thượng (Upādhyāya) là tiếng Ấn Độ,
có nghĩa là Thân Giáo Sư. Tuy Ngài không lên lớp, nhưng chánh
sách và kế hoạch dạy học do Ngài quyết định. Vị ấy sẽ
mời thầy nào đến dạy, dạy khoa mục ǵ
do Ngài quyết định. V́ thế, trên thực tế,
Ngài chịu trách nhiệm giáo dục. Những viên chức
khác và giáo viên, bất luận là pháp sư giảng kinh hay
pháp sư đảm nhiệm chấp sự, đều gọi
là Xà Lê, tức A Xà Lê. A Xà Lê (Acarya) cũng là tiếng Ấn
Độ, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Quỹ Phạm
Sư. Quỹ (軌) là quỹ
đạo, “phạm” (範) là “mô
phạm” (模範, khuôn phép). Lời nói và việc làm của Ngài có thể
làm gương và khuôn mẫu cho người đời, th́
gọi là Quỹ Phạm Sư. Chúng ta thường gọi
là “pháp sư”, pháp sư
nghĩa là mỗi lời nói, mỗi hành vi đều làm
gương cho đại chúng trong xă hội.
Ta làm chỗ nương tựa
cho hết thảy chúng sanh, “y”
(依) là nương vào. Hết thảy
chúng sanh mê hoặc, phiền năo, tập khí, do bất tri bất
giác, bèn đối với chân tướng của nhân sinh mà
nghĩ lầm, thấy lầm, làm sai. Phật, Bồ Tát đại
triệt đại ngộ; v́ thế, nhất định sẽ
phát tâm làm chỗ nương tựa cho hết thảy chúng
sanh. Trong phần Sơ Hồi Hướng đă giải
thích: “Linh miễn nhất thiết
chư khổ sự cố” (V́ khiến cho hết thảy
chúng sanh tránh khỏi các sự khổ). Câu này văn tự
chẳng nhiều lắm, nhưng ư nghĩa đúng là chẳng
có cùng tận. Nhất định phải giúp đỡ hết
thảy chúng sanh tránh khỏi hết thảy các chuyện khổ.
Tư tưởng, kiến giải, lời nói, hành vi của
quư vị sai lầm, sẽ đem lại kết quả khổ
sở. Như trong thế giới hiện
thời, kinh Phật gọi thế giới của chúng ta
là thế giới Sa Bà. Sa Bà (Saha-loka-dhatu) là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng
Hán là “cực khổ”, tương phản khít khao với Cực Lạc. Thế giới của Phật
Di Đà gọi là Cực Lạc, c̣n cơi này là cực khổ,
khổ chẳng thể nói nổi! Chư vị hăy ngẫm lại cả
đời chúng ta, quư vị sống khổ sở hay sung
sướng? Giác ngộ nỗi khổ, tức là quư vị
bắt đầu giác ngộ. Quư vị ở trong cảnh
khổ mà chẳng biết khổ, ở trong cảnh khổ
mà cứ ngỡ là vui, sự vui ấy vẫn là khổ, có
mấy ai tỉnh ngộ?
Phật, Bồ Tát dùng
phương pháp ǵ để giúp đỡ chúng sanh? Thích Ca
Mâu Ni Phật đă nêu gương, chúng ta học Phật th́
phải học theo Thích Ca Mâu Ni Phật. Quư vị thấy
đó, Ngài thật sự buông xuống. Người thế
gian cầu ǵ? Cầu phú quư, cầu vinh hoa phú quư, cầu tiếng
tăm, lợi dưỡng, cầu hưởng thụ ngũ
dục, lục trần, cầu làm quan to, phát tài lớn. Những
chuyện ấy Thích Ca Mâu Ni Phật thảy đều trọn
đủ. Ngài là vương tử, nếu chẳng xuất
gia, sẽ kế thừa ngôi vua. Người Hoa nói là “quư vi thiên tử, phú hữu tứ
hải” (thiên tử sang quư, của cải đầy ắp
bốn biển). Những điều người thế
gian mong cầu, Ngài đạt được toàn bộ. Nhưng
làm quốc vương cũng khổ, quá nhiều chuyện
khổ sở. Nếu là một chánh sách sai lầm, quư vị
sẽ hại bao nhiêu chúng sanh chịu khổ, chịu nạn?
Một chánh sách tốt đẹp, đương nhiên lợi
ích vô biên, đều là do giác hay mê. V́ thế, Thích Ca Mâu Ni Phật
muốn giúp cho hết thảy chúng sanh ĺa khổ được
vui, bèn hiện thân thuyết pháp, xuất gia, cầu học.
Đấy là v́: Chỉ có học vấn thật sự th́ mới
có thể giải quyết vấn đề! Mười
chín tuổi xuất gia, ĺa khỏi gia đ́nh đi cầu
học. Những học giả, chuyên gia nổi tiếng ở
Ấn Độ thuở ấy Ngài đều đến
tham phỏng, tốn thời gian mười mấy năm.
Tham phỏng trọn khắp, cảm thấy chẳng thỏa
ư, quay trở lại lưu vực sông Hằng, dưới
cội Bồ Đề. Chư vị đều biết
câu chuyện này: “Dạ đổ
Minh Tinh, hoát nhiên đại ngộ” (Đêm thấy sao
Mai, hoát nhiên đại ngộ). Điều này giống
như trong Thiền Tông đă nói, “đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến
tánh”. Thuở ấy, Ngài ba mươi tuổi.
Khổng lăo phu tử dốc
chí học tập từ lúc mười lăm tuổi, ba
mươi tuổi chí hướng đă thành lập vững
vàng. Thích Ca Mâu Ni Phật mười chín tuổi rời khỏi
gia đ́nh đi tham học, ba mươi tuổi đại
triệt đại ngộ. Sau khi đă ngộ, Ngài chọn
lựa công việc dạy học, chẳng trở về làm
quốc vương. Ngài chẳng quay về, chẳng trở
về thừa kế vương vị của cha. Ngài chọn
lựa, nói theo cách hiện thời là giáo dục văn hóa
xă hội đa nguyên. Gọi là “văn
hóa đa nguyên”, v́ đối tượng giáo học chẳng
phân biệt quốc gia, chẳng phân biệt chủng tộc,
chẳng phân biệt tôn giáo. Chỉ cần quư vị chịu
đến học, Ngài đều rất vui ḷng dạy quư
vị. Nhưng nội dung dạy học hết sức rộng
răi, đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất
thế gian, chỉ cần quư vị nêu ra câu hỏi, Ngài
đều có thể giải đáp viên măn, nội dung rất
phong phú! Chẳng phải như một học hệ
(faculty, một khoa), một học viện (academy, school) trong
nhà trường (đại học), chẳng phải vậy!
Nội dung của Đại Tạng Kinh so với bất
cứ Đại Học nào trên thế giới hiện thời
đều nhiều hơn, chẳng ngôi trường nào có
thể sánh bằng! Đấy cũng là đa nguyên. Điều
khó có nhất là thầy tự nguyện, một vị thầy
tốt như thế mà chẳng lấy học phí. Quư vị
tặng Ngài, Ngài cũng không cần, sống cuộc đời
đơn giản nhất. “Giữa
trưa ăn một bữa, nghỉ dưới cội
cây”. Chúng ta nói là cuộc sống của một vị
tăng khổ hạnh. Đấy là cuộc sống mà
người thế gian chúng ta chẳng mong mỏi! Chúng ta cảm
thấy cuộc sống ấy quá khổ, thế mà Phật,
Bồ Tát sống rất vui sướng.
Người thế gian thấy
là khổ, Phật, Bồ Tát thấy là vui sướng.
Người thế gian coi là vui, Phật, Bồ Tát nói
đó là khổ. Đạo lư này sâu xa, tại Trung Hoa có ai
hiểu hay không? Có chứ! Khổng, Mạnh, Lăo, Trang đă
hiểu. Quư vị thấy Phu Tử tán thán Nhan Hồi. Cuộc
sống của Nhan Hồi chẳng phải là giống
như cuộc sống của một vị tăng khổ
hạnh ư? Ăn cơm trong giỏ, uống nước
từ bầu, sống trong ngơ nghèo hèn, người khác chẳng
kham nổi cuộc sống ấy. Phu Tử tán thán: “Hồi dă bất cải kỳ lạc”
(Nhan Hồi chẳng thay đổi niềm vui ấy).
Đấy là cuộc sống vật chất dẫu khổ
sở đến mấy đi nữa, Ngài có lạc trong ấy.
Người đọc sách ở Trung Hoa xưa kia gọi
[niềm vui ấy] là “Khổng
Nhan chi lạc”. Niềm vui của Khổng Tử và Nhan
Hồi chẳng phải là cảnh giới của kẻ
b́nh phàm. Do vậy, niềm vui do đức Thế Tôn thị
hiện là chân lạc. V́ sao? Chẳng có mảy may tác dụng
phụ nào! Đối với niềm vui do người thế
gian hưởng thụ, đức Phật dạy: “Lạc là cái nhân của khổ”.
Nay quư vị đang hưởng thụ lạc, chính là
đang tạo cái nhân khổ, nỗi khổ ấy là ǵ? Cái
nhân của tam đồ, tức địa ngục, ngạ
quỷ, súc sanh, đó là nghiệp nhân. Nhân là ǵ? Tham, sân, si, mạn,
trong ấy có những thứ đó. V́ thế nói: Lạc là
cái nhân của khổ. Nếu chẳng phải là chúng ta khế
nhập kinh tạng đôi chút, sẽ chẳng dễ ǵ lănh
hội “pháp hỷ sung măn” như Phật pháp đă
nói, thường sanh tâm hoan hỷ.
Thích Ca Mâu Ni Phật suốt
một đời chẳng dựng đạo tràng, Ngài
hướng dẫn một nhóm học tṛ như vậy. Số
lượng học tṛ thật sự chẳng ít, trong kinh,
chúng ta thường thấy là một ngàn hai trăm năm
mươi lăm người. Đó là chúng xuất gia, c̣n
chúng tại gia chẳng được ghi chép! Đoàn thể
ấy thật sự chẳng nhỏ! Ở nơi đâu?
Trong rừng cây, nghỉ đêm dưới cội cây.
Cơm ăn th́ đi khất thực, mỗi ngày ăn một
bữa. Trừ chuyện này ra, đều là lên lớp.
Đức Phật lên lớp, lên lớp hằng ngày. Sau khi
đức Phật đă lên lớp (thuyết giảng), các
đồng học nghiên cứu thảo luận, gặp những
vấn đề nghi nan, sẽ hướng về đức
Thế Tôn thỉnh giáo. Đức Thế Tôn nhất nhất
giải đáp cho họ. Sau đấy, biên chép lại, biến
thành kinh điển, tức là Đại Tạng Kinh hiện
thời.
Đối với Đại
Tạng Kinh được phiên dịch tại Trung Hoa trong
hiện thời, [chúng tôi nghĩ] chưa được một
nửa những kinh do đức Thế Tôn đă giảng.
Thuở ấy, giao thông chẳng thuận tiện, vận
chuyển hết sức khó khăn, cao tăng Ấn Độ
đến Trung Hoa, chọn lựa tinh tế, chọn mấy
bộ để đem sang Trung Hoa. Cao tăng Trung Hoa sang Ấn
Độ thỉnh kinh, cũng là chọn lựa kỹ
lưỡng, chẳng có cách nào mang toàn bộ trở về,
quư vị mới biết [vấn đề vận chuyển
kinh] gian nan lắm. Mang đến Trung Hoa, Trung Hoa lại tiến
hành phiên dịch sang tiếng Hán. Khi phiên dịch, sẽ lại
loại bỏ một phần[9].
V́ thế, đối với Đại Tạng Kinh hiện
thời, có thể nói là tinh hoa của những ǵ đức
Thế Tôn đă dạy học trong thuở ấy, chẳng
phải là hoàn chỉnh, phải biết điều này.
Đấy là cách sống của các Ngài (Tăng đoàn thời
đức Phật). Đối với chuyện hộ tŕ
th́ người hộ tŕ thuở ấy đều là tại
gia cư sĩ, hộ tŕ Tăng đoàn ấy. Đương
nhiên là trong đó cũng có không ít vị là quốc
vương, đại thần đảm nhiệm hộ
pháp, đều là học tṛ tại gia của đức Phật.
Sở dĩ các Ngài vui sướng,
đúng là như câu đầu tiên trong sách Luận Ngữ
đă nói: “Học nhi thời tập
chi, bất diệc duyệt hồ?” (Học rồi
thường tập luyện, há cũng chẳng vui ư?)
Niềm vui ấy chính là niềm vui của Khổng Tử
và Nhan Hồi, kẻ b́nh phàm chắc chắn chẳng có cách
nào tưởng tượng được. Không vui, làm sao
có thể ǵn giữ lâu dài cho được? Thích Ca Mâu Ni Phật
làm chuyện ấy (giáo học) suốt bốn mươi
chín năm, từ ba mươi tuổi cho đến bảy
mươi chín tuổi. Ngài viên tịch lúc bảy
mươi chín tuổi, chúng ta thường nói là “qua đời”. Ngài qua đời
vào lúc bảy mươi chín tuổi, giảng kinh hơn ba
trăm hội, thuyết pháp bốn mươi chín năm.
Bốn mươi chín năm vui thích làm chuyện này, chẳng
mệt mỏi! Người hoằng pháp vui sướng,
người hộ pháp cũng vui sướng. Đă khế
nhập cảnh giới ấy, sao không vui sướng cho
được?
Nếu quư vị mong vui
sướng th́ thân, tâm, thế giới hết thảy phải
buông xuống, thật sự học tập Thích Ca Mâu Ni Phật.
Không giảng kinh chẳng sao cả! Không giảng kinh th́ phải
nghe kinh, phải hiểu rơ chân tướng của vũ trụ
và nhân sinh. Những điều Ngài nói trong bốn
mươi chín năm, chẳng có ǵ khác, chính là chân tướng
của vũ trụ và nhân sinh. Chúng tôi thường dùng sáu
chữ do cổ đại đức đă nói, tức “tánh, tướng, lư, sự, nhân,
quả”, sáu chữ ấy đă gồm thâu trọn vẹn.
[Chân tướng] chẳng ngoài “tánh,
tướng, lư, sự, nhân, quả”. Càng học, càng hiểu
rơ, càng học, càng thông đạt, càng học, cảnh giới
càng nâng cao lên. Các nhà khoa học hiện thời nói đến
chuyện đột phá kích thước không gian, phạm vi
cuộc sống bèn to lớn! Phạm vi cuộc sống của
chúng ta trong hiện thời, nói thật thà, tuy hiện thời
khoa học kỹ thuật phát triển, phạm vi sống
của chúng ta vẫn giới hạn trong quả địa
cầu này. Nay tuy hướng ra ngoài vũ trụ thám hiểm,
nhưng vẫn chẳng ra ngoài Thái Dương Hệ. Thái
Dương Hệ vẫn là một khu vực nhỏ nhoi.
Đă thế, kỹ thuật vẫn chưa đủ, ví
như chúng ta muốn du hành lên mặt trăng, hoặc sao Hỏa,
sao Kim, chẳng thể thuận tiện giống như hiện
thời sang Mỹ, sang Âu Châu, vẫn chưa làm được!
Nhưng chư Phật, Bồ
Tát trong Thiền Định đă đột phá các kích
thước không gian. Các Ngài không chỉ đột phá lục
đạo luân hồi, mà cũng là bất luận
đường nào trong lục đạo, đều
như ở trước mặt, lại c̣n đột phá
đại thế giới. Đại thế giới là khu
vực giáo hóa của một vị Phật, tức là một
đại thiên thế giới. Đột phá đại
thiên thế giới sẽ gọi là “ngao du các cơi nước của chư Phật”. Trong
Tạng Kinh, chư vị thấy có kinh Phật Danh, đức
Thế Tôn đă giới thiệu hơn một vạn hai ngàn
vị Phật. Trên thực tế, trong vũ trụ, chư
Phật, Bồ Tát vô lượng vô biên, Ngài [chỉ nêu
đại lược] một vạn hai ngàn vị Phật,
đi lại tự do trong các cơi Phật. Thưa cùng chư
vị, thực tại là trong cảnh giới ấy, chẳng
có đến đi. Quư vị nghĩ tới đức Phật
nào, cơi Phật ấy bèn hiện tiền, v́ sao? Chẳng có
thời gian và không gian. Chẳng có thời gian, chẳng có
trước sau. Chẳng có không gian, sẽ chẳng có xa hay
gần. Giống như hiện thời chúng ta xem các
băng tần TV vậy, quư vị chọn băng tần của
cơi Phật nào, cơi Phật ấy ngay lập tức hiển
hiện trên màn huỳnh quang, đối diện [ngay lập
tức], chẳng có khoảng cách.
Đối với chuyện
đột phá thời gian và không gian, khoa học cận
đại mới đưa ra lư luận này. Hai năm
trước, có đồng học đưa cho tôi xem một
phần tài liệu, chính là báo cáo về những phát biểu
khoa học mới nhất của tổng cục không gian Mỹ.
Họ nói rơ không gian chẳng thật, thời gian cũng chẳng
thật, dưới một điều kiện nào đó,
chúng sẽ bằng zero. Không gian bằng zero, sẽ chẳng
có khoảng cách; thời gian bằng zero, sẽ chẳng có
trước sau. Quá khứ Phật, hiện tại Phật,
vị lai Phật đều có thể thân cận, quư vị
có thể trở lại quá khứ, có thể khế nhập
vị lai, quư vị nói xem, lẽ nào các Ngài chẳng vui
sướng? Phàm phu làm sao biết được sự vui
sướng của các Ngài? Không chỉ là Phật vui sướng!
Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện, Ấn Độ
là một quốc gia tôn giáo, các tôn giáo cao cấp đều
tu Thiền Định. Nổi tiếng nhất là Ấn
Độ giáo, c̣n gọi là Hưng Đô giáo (Hinduism), tiền
thân của nó là Bà La Môn giáo (Brahmanism). Bà La Môn giáo có lịch
sử tối thiểu phải sớm hơn Phật giáo
năm ngàn năm, nhưng chính họ th́ nói họ tối
thiểu sớm hơn Phật giáo một vạn năm.
Người Ấn Độ không coi trọng lịch sử,
chẳng có văn tự ghi chép, họ nói có thể tin
tưởng. Nhưng các học giả trên thế giới thừa
nhận [Bà La Môn giáo] sớm hơn Phật giáo năm ngàn
năm, tức là họ có lịch sử tám ngàn năm
trăm năm. Trong cảnh giới Thiền Định, họ
đă đột phá kích thước không gian và thời gian.
Lục đạo luân hồi
do Bà La Môn giáo phát hiện, chẳng phải là do Phật
giáo. Họ nói rất rơ ràng, rất minh bạch t́nh huống
trong lục đạo. Sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật thành đạo,
đă nói rơ nguyên do của lục đạo. Trong Bà La Môn
giáo chẳng có chuyện này. Họ chỉ nói đến sự
tướng luân hồi trong lục đạo, nhưng lục
đạo h́nh thành như thế nào, do nguyên nhân ǵ mà h́nh
thành, họ chẳng nói. Làm thế nào để có thể
thật sự thoát ly lục đạo luân hồi, họ
cũng chẳng có chuyện ấy. Những điều này
đều ở trong Phật pháp. V́ thế, nếu quư vị
thật sự hiểu rơ những lư luận và sự thật
này, quư vị mới có thể lănh hội niềm vui trong cuộc
sống của các Ngài. Không chỉ là loài người chúng
ta chẳng thể tưởng được, mà chư
thiên trong mười tám tầng trời của thế giới
Sa Bà cũng chẳng nghĩ tưởng được.
Ngài thị hiện là thị
hiện một tấm gương, chúng ta biết học
th́ phải học theo Ngài, đấy là chỗ chúng ta
nương vào để tu học. Nói cụ thể, quư vị
nói “học Phật quá khó”. Đúng là chúng ta chẳng có cách
nào học tập sống theo lối sống của Thích Ca
Mâu Ni Phật. Ngài suốt đời có thể qua đêm
nơi chỗ trống trải, thân thể khỏe mạnh,
chẳng có bệnh tật. Nếu chúng ta ra ngoài, buổi tối
ngồi suốt một đêm dưới cội cây, ngày
hôm sau sẽ vào pḥng cấp cứu. Thân thể không bằng
các Ngài được! Trong bộ kinh thứ nhất, đức
Phật đă nói rất rơ ràng. Tu học Phật pháp th́
điều thứ nhất là ǵ? Kinh Thập Thiện Nghiệp
Đạo. Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo là nhập
môn của Phật pháp, đức Phật đă nói rơ ràng,
có một đoạn khai thị hết sức hay khéo. Ngài
nói: “Bồ Tát hữu nhất
pháp, năng ly nhất thiết thế gian khổ” (Bồ
Tát có một pháp có thể ĺa hết thảy các nỗi khổ
trong thế gian). Câu này tuyệt diệu thay! “Hết thảy thế gian” bao
gồm mười pháp giới, tam đồ, lục đạo,
Thanh Văn, Duyên Giác, Phật, Bồ Tát, mười pháp giới
đều khổ. Phật pháp giới trong mười pháp
giới, tức đối với Phật trong mười
pháp giới, tông Thiên Thai gọi là Tương Tự Tức
Phật, chẳng phải là thật. V́ sao? Chẳng phá vô
minh, đoạn Kiến Tư phiền năo, đoạn Trần
Sa phiền năo, nhưng chưa phá vô minh, đó là sự khổ
của Ngài. Do đó, vị ấy tuy chẳng thoát khỏi mười
pháp giới, nhưng tuyệt đối chẳng c̣n luân hồi
trong lục đạo nữa! A La Hán là đă chẳng luân
hồi trong lục đạo.
Do vậy, “có thể ĺa hết thảy các nỗi khổ trong thế
gian” bao gồm tứ thánh pháp giới, lỗi lạc
thay! Đấy là pháp ǵ? Đức Phật liền dạy:
“Thường niệm, tư
duy, quan sát thiện pháp”. Chúng tôi thay đổi cách đọc
câu này, mọi người sẽ hiểu. “Thường niệm thiện pháp, tư duy thiện
pháp, quan sát thiện pháp”. Thiện pháp là ǵ? Thập Thiện
Nghiệp Đạo, không sát sanh, không trộm cắp, không
dâm dục, không nói dối, không nói đôi chiều, không ác khẩu,
không nói thêu dệt, không tham, không sân, không si. Đấy là Thập
Thiện Nghiệp. Thường niệm [thiện pháp] là thiện
tâm. Tư duy [thiện pháp] là tư tưởng thiện.
Quan sát [thiện pháp] là lời nói và việc làm thiện. Sau
đấy, Ngài lại nói một câu: “Thường linh thiện pháp tương tục”
(Thường khiến cho thiện pháp tiếp nối), niệm
niệm tiếp nối. “Bất
dung hào phân bất thiện giáp tạp” (Chẳng để
cho mảy may bất thiện xen tạp). Nói cách khác, cái tâm,
tư tưởng, lời nói và việc làm của quư vị
thuần tịnh, thuần thiện, sẽ có thể ĺa hết thảy các nỗi khổ thế
gian. Lời khai thị này hay khéo thay! Lại quan sát cặn
kẽ suốt một đời Thích Ca Mâu Ni Phật, [sẽ
thấy] Ngài đă làm được, suốt đời
làm được! Chúng ta học Phật, phải học tập
theo Ngài. Ngài có thể làm được, v́ sao ta chẳng thể
làm được? Chúng ta nhất định phải học
theo Ngài điều này.
Thập Thiện đă
được giải thích cặn kẽ trong kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo. Trọng
điểm và tinh yếu được giải thích trong giới
kinh, giống như bộ Sa Di Luật Nghi Yếu Lược Tăng Chú của
pháp sư Hoằng Tán đă nói khá tỉ mỉ. Đấy là
tổ sư đại đức đă bổ sung cặn
kẽ, giảng rơ: Đấy là những điều hăy nên
học trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.
Đó là chúng ta thật sự nương cậy. Nho phải
dựa vào Lễ; chẳng có Lễ, sẽ chẳng có Nho. Phật
phải dựa vào giới, lấy giới làm thầy, lấy
khổ làm thầy. Không sợ chịu khổ, phải nghiêm
tŕ giới luật. Do vậy, chúng tôi thường nhắc
nhở các vị đồng học, v́ tập khí phiền
năo quá nặng, mười lần, tám lần, một
trăm lần, hai trăm lần chẳng đủ, không
quay đầu được, phải học theo đức
Thế Tôn v́ người khác thuyết pháp, đúng là ngàn lời
vạn lẽ, lặp đi lặp lại vô số lần,
phơi bày ḷng từ bi vô tận. Hằng ngày đều nhắc
nhở chúng ta: “Lấy khổ
làm thầy, lấy giới làm thầy”, nghiêm túc học
tập, thành tựu đức hạnh của chính ḿnh.
V́ sao hiện thời học
theo điều thiện, học tŕ giới khó khăn ngần
ấy? Tôi thường nói: Chúng ta chẳng tiếp nhận
giáo dục cơ sở, phải hiểu điều này. Sau
khi Phật giáo truyền vào Trung Hoa từ thời Hán, trong
hai ngàn năm, trải các đời tại Trung Hoa, bất
luận là tại gia hay xuất gia, người tu hành có
thành tựu quá ư là nhiều. Họ vượt trỗi Ấn
Độ là do có giáo dục cơ sở. Giáo dục cơ
sở chính là Khổng, Mạnh, Lăo, Trang; đă có sự giáo
dục cơ sở ấy rồi mới học Phật. V́
thế, đối với những thiện giới trong Phật
pháp, chẳng có vấn đề! Chúng tôi mới đề
xuất: Nhất định phải học Đệ Tử
Quy, nhất định phải thi hành Đệ Tử Quy.
Vun quén căn cơ vững vàng bằng Đệ Tử
Quy, sau đấy từ trong Ngũ Chủng Di Quy[10],
đặc biệt nêu ra hai thứ đầu tiên là “dưỡng chánh di quy, huấn tục
di quy”. Phải nghiêm túc học tập hai thứ ấy,
sẽ có thể khiến cho căn bản Đệ Tử
Quy được kiên cố, rồi lại tiến nhập
Phật môn sẽ chẳng khó. Phải vun quén căn cội
từ chỗ này. Nay đă hết thời gian rồi, chúng
ta nghỉ ngơi mười phút!
***
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin mời mọi người
ngồi xuống. Chúng ta xem tiếp kinh văn, câu kinh
văn đầu tiên là…
(Kinh) Vân hà đắc dữ nhất
thiết chúng sanh?
(經)云何得與一切眾生。
(Kinh: Làm thế nào để
cho hết thảy chúng sanh?)
Câu này xuyên suốt mười
câu tiếp theo. Câu đầu tiên là “vi y” (làm nương tựa), câu thứ hai sẽ
phải là: “Vân hà đắc dữ
nhất thiết chúng sanh vi cứu” (làm thế nào để
cứu hết thảy chúng sanh). Do vậy, câu này xuyên suốt
cả mười câu.
(Kinh) Vi y.
(經)為依。
(Kinh: Làm chỗ nương tựa).
Đức Thế Tôn đă
v́ chúng ta thị hiện. Chư Bồ Tát cho đến lịch
đại tổ sư đại đức đều nêu
khuôn mẫu, nêu gương tốt nhất cho chúng ta. Chúng
ta phải dụng tâm lưu ư học tập các Ngài th́ mới
chẳng cô phụ một đời này. V́ thế, có khá nhiều
người hỏi tôi về ư nghĩa và giá trị của
sanh mạng. Ư nghĩa và giá trị [của sanh mạng] đều
ở chỗ này.
(Kinh) Vi cứu.
(經)為救。
(Kinh: Làm chỗ cứu vớt).
Phẩm Hồi Hướng
có nói: “Tất linh giải thoát
chư phiền năo cố, vị nhất thiết chúng sanh
tác hộ” (V́ đều khiến cho giải thoát các phiền
năo, bảo vệ hết thảy chúng sanh), ư nghĩa này lại
sâu hơn ư nghĩa trước một tầng nữa! Xác
thực là cứu độ chúng sanh th́ cách cứu là như
thế nào? Cứu từ chỗ nào? Chúng ta phải biết.
Chúng sanh mê hoặc, điên đảo, tập khí phiền
năo rất nặng, giống như kinh Địa Tạng
đă nói: “Diêm Phù Đề
chúng sanh, khởi tâm động niệm, vô bất thị tội”
(Chúng sanh Diêm Phù Đề, khởi tâm động niệm,
không ǵ chẳng phải là tội). V́ sao nói kiểu này? Cách
nói này có phải là quá lố đôi chút hay không? Nếu quư vị
thật sự hiểu Phật pháp, sẽ biết những
lời Ngài nói, câu nào cũng đều là lời thật,
quyết định chẳng có một câu nào là hư vọng.
Chúng sanh trong Diêm Phù Đề có kẻ nào chẳng coi thân thể
là chính ḿnh? Nhà Phật gọi chuyện này là Thân Kiến.
Đấy là kiến giải sai lầm đầu tiên, là
chấp trước sai lầm đầu tiên. Do sự sai
lầm này mà một mực đến cùng, chẳng có chuyện
nào không sai lầm. Sau đấy, quư vị mới biết
những điều kinh Địa Tạng đă nói chẳng
giả! V́ sao chấp trước “thân thể này là Ngă” là sai? Đạo lư này rất
sâu, nếu Phật pháp chẳng nói rơ ràng, minh bạch
như thế, chúng ta sẽ không hiểu.
Có người nào chẳng
coi thân thể của ḿnh là chính ḿnh? Thân thể chẳng phải
là chính ḿnh, cái Ngă vốn có của ta ở chỗ nào? Thân
này chẳng phải là Ngă, cái ǵ là Ngă? Các triết gia
phương Tây khá thông minh, họ nghĩ đến vấn
đề này, cũng thừa nhận thân thể này chẳng
phải là Ngă. Ngă là ǵ? [Descartes bảo]:“Tôi tư duy nên tôi tồn tại” (Cogito ergo sum), do
ta có thể tư duy, tưởng tượng [nên coi] sự
tư duy, tưởng tượng ấy chính là Ngă. Cách
nghĩ này cao hơn những kẻ b́nh phàm một bậc. “Tôi tư duy”, nói theo Phật
pháp sẽ là ư thức, tức thức thứ sáu. Các triết
gia phương Tây đă coi thức thứ sáu tức Ư Thức
là ta. Ở phương Đông, quả thật cũng có những
người nhận thức “thân
là giả”. V́ sao? Thân có sanh tử. Người
phương Đông tin vào luân hồi, ai luân hồi? Linh hồn.
Nói thật ra, linh hồn thật sự chẳng linh! Nếu
nó linh, nó đi đầu thai, làm sao có thể đầu
thai trong ác đạo? Đầu thai trong nhân gian th́ sao không
đầu thai trong nhà đại phú đại quư? Đầu
thai vào gia đ́nh bần cùng, kém hèn, rất khổ! Chẳng
linh. Nếu nó linh th́ đỡ quá rồi!
V́ thế, vẫn là Khổng
lăo phu tử nói có lư. Khổng lăo phu tử chẳng nói tới
“linh hồn”. Quư vị xem phần
Thoán Văn dành cho Hệ Từ trong kinh Dịch của lăo
nhân gia. Hệ Từ do Khổng Tử viết. Trong Hệ
Từ, có câu: “Du hồn vi biến,
tinh khí vi vật” (Cái hồn bềnh bồng biến hóa,
do tinh và khí hợp thành vật chất). Hai câu này nói rất
hay! Phu Tử rốt cuộc là người như thế
nào, thuộc cảnh giới nào, mà có thể nói như vậy?
Trong Phật pháp, hai câu ấy chính là cảnh giới của
bậc đại Bồ Tát, chẳng phải là phàm nhân. Phu
tử chẳng thường nói, đôi khi hé lộ hai câu
như vậy, rất đáng cho chúng ta lănh hội. “Du hồn vi biến”: “Du hồn” (遊魂) có ư nói nó có tốc độ rất
lớn, biến hóa rất lớn; “vi biến” (為變) là ǵ? Đầu thai trong lục đạo. Làm
người chẳng lành, sẽ đọa trong súc sanh đạo,
từ người biến thành súc sanh, nhưng vẫn là một
linh tánh. Cứ ngỡ linh tánh ấy là Ngă, đó vẫn là
sai lầm, nhưng nói cao minh hơn, [nói] “du hồn vi biến” tức là đă nói ra chân
tướng sự thật.
“Tinh
khí vi vật”: Câu này càng chẳng thể nghĩ bàn! “Vật” là ǵ? Vật chất.
Vật chất do đâu mà có? Do tinh và khí hợp thành vật.
Câu nói này ngụ ư: Vật chất có linh tánh. Khoa học gia
hiện đại đă chứng tỏ [điều này].
Tiến sĩ Giang Bổn Thắng của Nhật Bản
đă làm thí nghiệm với nước. Nước là khoáng
vật, vật chất ấy chẳng phải là sinh vật.
Thực vật vẫn thuộc loại sinh vật, khoáng vật
chẳng phải là sinh vật. Ông ta làm thí nghiệm suốt
mười năm, chứng minh đích xác nước có thấy,
nghe, hay, biết. Thấy, nghe, hay, biết có phải là “Tinh” như Khổng Phu Tử
đă nói hay không? “Khí” là nói
đến sự biến hóa của nó, biến thành vật
chất. Tuy biến thành vật chất, tánh của nó hoàn
toàn chẳng biến đổi. Nhà Phật nói tự tánh vốn
sẵn có đức năng chẳng biến đổi. Dẫu
biến thành vật chất, nó vẫn tồn tại. Giáo
pháp Đại Thừa thường nói như thế này, vật
chất do đâu mà có? “Duy tâm sở
hiện, duy thức sở biến”. Lời Phu Tử đă
nói và lời đức Phật dạy hết sức gần
gũi. V́ thế, Ngài rốt cuộc là hạng người
nào? Cớ sao Ngài biết đạo lư sâu dường ấy?
Từ đạo lư này, nếu
quư vị thật sự có thể lănh hội thấu triệt:
Tất cả hết thảy vạn sự vạn vật
trong vũ trụ, nói theo kiểu hiện thời, thảy
đều là hữu cơ (organic), cũng có nghĩa là chúng
sống động, chẳng chết ngắc, chúng có linh tánh.
Quư vị thấy khoáng vật, nước có thấy, nghe,
hay, biết. Tôi nói với tiến sĩ Giang Bổn Thắng:
Không chỉ là nước có [thấy, nghe, hay, biết], mà
cát bụi, bùn, đất, đá, chỉ cần là vật
chất, thảy đều có thấy, nghe, hay, biết. Không
chỉ là có thấy, nghe, hay, biết, mà thấy, nghe, hay, biết
c̣n là Tánh Đức, là “duy tâm sở
hiện”. Tâm ấy là Pháp Tánh, Pháp Tánh vốn trọn
đủ thấy, nghe, hay, biết, có phẩm đức sắc,
thanh, hương, vị, Bổn Giác đấy! V́ thế,
tôi nói: “Thí nghiệm của ông mới thấy sắc tướng
của nó, tức là sắc tướng kết tinh”. Tôi
khuyên ông ta phải nỗ lực nghiên cứu tiến
hơn một bước, v́ sao? Nó c̣n có âm thanh, c̣n có
hương, c̣n có vị, chắc chắn là sắc, thanh,
hương, vị. Ông đă thấy sắc rồi, vẫn
chưa thấy thanh, hương, vị. Tôi nói: Ông thấy
thanh, hương, vị, sẽ là chứng minh toàn bộ những
điều đă được nói trong kinh Phật.
Ở Trung Hoa, có một công án
nổi tiếng. Người ta thường gọi “công án” là “cố sự” (chuyện cũ, chuyện xưa),
pháp sư Đạo Sanh là người sống vào thời
đại Nam Bắc Triều. “Sanh
công thuyết pháp, ngoan thạch điểm đầu”, [nghĩa là] Ngài thuyết pháp,
không có ai tin tưởng Ngài. Ngài bèn xếp một số tảng
đá, đối trước đá giảng. Giảng xong,
[hỏi đá]: “Tôi có đúng hay không?” Đá đều gật
đầu! V́ sao đá có thể gật đầu? Nếu
quư vị hiểu là do tâm hiện thức biến, sẽ chẳng
hoài nghi toàn thể vũ trụ sống động. Sau
đấy, quư vị mới hiểu, trong kinh đức Phật
đă nói: “Y báo chuyển theo
chánh báo”. Y báo là hoàn cảnh sống của chúng ta. Địa
cầu trong hiện thời là y báo, vô lượng tinh hệ
trong vũ trụ là y báo. Y báo chuyển theo chánh báo, chánh báo
là ǵ? Ḷng người sống tại nơi đó. Nếu
tâm mỗi người trên địa cầu đều
hướng thiện, đều giống như kinh Thập
Thiện Nghiệp Đạo đă nói, tư tưởng,
kiến giải và hành vi của chúng ta thuần tịnh, thuần
thiện, núi, sông, đại địa của chúng ta ở
nơi đây sẽ đều biến thành thế giới
Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc và thế giới
này có ǵ sai biệt? Chẳng có mảy may sai biệt chi cả!
Bên kia, ḷng người thiện, cho nên núi, sông, đại
địa đẹp đẽ tột bậc. Bên này, ḷng
người bất thiện, cho nên thiên tai, nhân họa liên
tiếp chẳng ngừng. Đạo lư ở chỗ này.
Chưa hề nghe nói thế giới Cực Lạc có động
đất, có thủy tai, chẳng nghe nói Hoa Tạng hay Cực
Lạc có kẻ làm điều sai trái, xấu xa. Chẳng hề
nghe nói!
Những điều ấy
là ǵ? Những điều ấy cần phải giáo dục,
đặc biệt đối với cái gọi là “giáo dục tôn giáo” trong hiện
thời, chúng tôi nói là giáo dục của đức Phật.
Cần phải có giáo dục của đức Phật! Giảng
rơ ràng chân tướng sự thật cho quư vị, quư vị
mới có thể thật sự ĺa khổ được
vui. V́ sao? Khổ là do tập khí phiền năo cảm vời,
Lạc là do đại triệt đại ngộ cảm vời.
Nói cách khác, [khổ hay lạc là do] mê hay ngộ. Mê là c̣n có
phiền năo, ngộ là chuyển phiền năo thành Bồ
Đề. Bồ Đề là trí huệ, phiền năo và trí
huệ là hai mặt của một Thể. Chúng ta đă mê,
biến Bồ Đề thành phiền năo, cũng là biến
trí huệ vốn sẵn có trong tự tánh thành phiền năo.
Sau khi đă giác ngộ, vô lượng vô biên phiền năo lại
chuyển biến thành vô lượng trí huệ, then chốt
là mê hay ngộ. Chúng ta biết Phật, Bồ Tát dùng
phương pháp ǵ để cứu hết thảy chúng sanh?
Dùng phương pháp ǵ? Giáo học, giúp chúng sanh giác ngộ.
Căn tánh của chúng sanh khác nhau; v́ thế, đức Phật
mở ra tám vạn bốn ngàn pháp môn. Nếu [nói đến]
trọn khắp pháp giới hư không giới hết thảy
chư Phật giáo hóa chúng sanh, sẽ mở ra vô lượng
vô biên pháp môn. Trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện có nói: “Pháp môn vô lượng thệ nguyện
học”, đó là [nói về] đại thiên thế giới,
chẳng phải là tiểu thiên thế giới. Hết thảy
cơi nước của chư Phật đều bao gồm
trong ấy!
Tại Trung Hoa, tám vạn bốn
ngàn pháp môn được chia thành mười tông phái. Trong mười
tông phái ấy, có hai tông phái là Tiểu Thừa. Hiện thời,
ở Trung Hoa chẳng có [tông phái Tiểu Thừa nữa].
Đấy là do Nho gia và Đạo gia thay thế Tiểu Thừa,
nhất định phải biết điều này.
Nhưng chúng ta phiên dịch kinh Tiểu Thừa rất hoàn
chỉnh. Người thật sự học Phật phải
xem kinh Tiểu Thừa, đấy là ǵ? Giúp chúng ta thành tựu
Hậu Đắc Trí. Căn Bản Trí chính là Thiền
Định, là tâm thanh tịnh. Kinh Kim Cang nói rất hay: “Tín tâm thanh tịnh, ắt sanh Thật
Tướng”. Thật Tướng [trong câu kinh ấy chính]
là Thật Tướng Bát Nhă. Thật Tướng Bát Nhă là Căn
Bản Trí, là Bát Nhă Ba La Mật trong Lục Ba La Mật.
Đó phải là tín tâm thanh tịnh, là trí huệ vốn sẵn
có trong bản tánh hiện tiền. Trí huệ chẳng hiện
tiền, tâm chúng ta chẳng thanh tịnh, hoặc là tu tâm thanh
tịnh vẫn chưa đủ thanh tịnh, chẳng đạt
tới tiêu chuẩn thanh tịnh. Đạt tới tiêu chuẩn
thanh tịnh, trí huệ sẽ khai. Trí huệ khai, sẽ chẳng
có phiền năo, rơ ràng là chẳng có tâm tham. Đối với
hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, chẳng
có tâm tham, chẳng c̣n có sân khuể, chẳng có ghen tỵ,
quư vị sẽ hiểu sự thọ dụng do khai trí huệ.
Nếu c̣n có những thứ ấy tồn tại, chẳng
được rồi, vẫn thật sự là phàm phu, quư
vị tu học Phật pháp mà chẳng đạt
được thọ dụng.
V́ thế, khi công phu chưa thành
tựu th́ tu ǵ? Tu Nhẫn Nhục Ba La Mật, quư vị phải
nhẫn. Đối với thuận cảnh, thiện duyên,
quư vị phải nhẫn nại, chẳng khởi tham luyến.
Đối với nghịch cảnh, ác duyên, phải nhẫn
nại, chẳng khởi sân khuể. Quư vị vận dụng
công phu nhẫn nhục trong quá tŕnh tu hành. Tu hành, căn tánh
của mỗi cá nhân khác nhau. Có người lợi căn,
trong dăm ba năm, do nhẫn dăm ba năm liền biến
thành rất tự nhiên. Trong thuận cảnh, tự nhiên chẳng
dấy ḷng tham luyến; đối với nghịch cảnh
ác duyên, tự nhiên chẳng sanh sân khuể. Bất luận trong
cảnh giới nào, trước sau tự nhiên ǵn giữ một
niềm tâm b́nh khí ḥa. Đấy là quư vị công phu đắc
lực, lúc ấy, thật sự được thọ dụng.
Ắt cần phải trải qua giai đoạn tu Nhẫn
Nhục, thời gian dài hay ngắn, mỗi người mỗi
khác. Trong Phật giáo sử Trung Hoa, từ Cao Tăng Truyện
và Cư Sĩ Truyện, chúng ta thấy có những người
căn tánh thật sự bén nhạy, dăm ba năm bèn
thành tựu. Có những người hai mươi, ba
mươi năm mới có thể khế nhập cảnh
giới ấy. Đều tốt đẹp cả! Ba, bốn
chục năm so với vô lượng kiếp, quá ngắn!
Chính ḿnh phải có tín tâm. Chẳng
thể kiến lập tín tâm, tin tưởng lời Phật,
Bồ Tát quyết định chẳng có sai lầm. Phật,
Bồ Tát gia tŕ quư vị kiến lập tín tâm. Ngoài ra, phải
tin tưởng thầy, thầy chỉ dạy quư vị, chẳng
có mảy may hoài nghi, thầy gia tŕ quư vị kiên định
tín tâm. Điều này rất trọng yếu, “tín vi đạo nguyên công đức
mẫu, trưởng dưỡng nhất thiết chư
thiện căn” (tín là nguồn đạo, mẹ công
đức. Trưởng dưỡng hết thảy các thiện
căn). Quư vị chẳng có tín tâm, làm sao có thể thành tựu
cho được? Bản thân tôi hai mươi sáu tuổi
[mới được nghe] Phật pháp, cảm thấy hết
sức hy hữu. Trong thế gian há có thứ tốt đẹp
dường ấy? Tôi có tín tâm kiên định đối với
thầy, thầy chỉ dạy tôi phương pháp, tôi
đều có thể y giáo phụng hành. Bản thân tôi hiểu
rất rơ ràng, tôi chẳng phải là thượng căn lợi
trí. Đến khi nào tôi mới thật sự “thấy thấu suốt, buông xuống”
như thầy đă dạy cho tôi trong ngày đầu tiên?
Đến hơn bảy mươi tuổi, tôi mới thật
sự ở trong cảnh giới thuận nghịch đắc
đại tự tại, mất thời gian tới hơn
bốn mươi năm. V́ vậy, đấy là ǵ? Căn
tánh trung hạ. Tôi có thể thành tựu, đắc lực
nhờ một chữ “siêng”.
Hằng ngày đọc kinh, hằng ngày giáo học, bốn
mươi bảy năm chẳng hề gián đoạn,
sang năm là bốn mươi tám năm, suốt đời
làm chuyện này!
Lúc tuổi già, bị người
khác lôi kéo tham dự chuyện ḥa b́nh quốc tế, chẳng
qua là trong thời gian năm năm gần đây, năm
năm gần đây nhất. Nhà trường t́m tôi, Đại
Học t́m tôi, hy vọng tôi đại diện nhà trường,
đại diện nước Úc tham gia những hội nghị
ḥa b́nh quốc tế ấy. Trước sau, tôi tham gia tất
cả sáu lần. Nói theo Đại Thừa Phật pháp,
đây cũng là một cơ duyên tốt, mở rộng kiến
văn, thành tựu Hậu Đắc Trí, liễu giải bệnh
trạng của xă hội trong hiện thời, phải đáng
nên dùng phương pháp ǵ để trị liệu. Ở
phương Tây, có những người cho rằng để
duy tŕ ḥa b́nh, cần phải dùng vũ lực, cũng giống
như cảnh sát, chúng ta có rất nhiều cảnh sát duy
tŕ trị an. Họ không biết chuyện này chẳng thể
dùng vũ lực để giải quyết được!
Nếu có thể giải quyết, Thích Ca Mâu Ni Phật thuở
ấy nhất định làm tướng quân, huấn luyện
khá nhiều cảnh sát, Ngài chẳng làm theo cách ấy!
Sau khi tôi tham gia vài lần hội
nghị, tôi có sự lănh hội sâu xa. Hóa giải xung đột,
xúc tiến an định, ḥa b́nh, [mà chỉ] mở hội
nghị chẳng thể giải quyết! Tôi nghe nói Liên Hiệp
Quốc đă theo đuổi hoạt động ḥa b́nh này
từ những năm bảy mươi, mời những học
giả, chuyên gia trên thế giới cùng nhau thảo luận
cách thực hiện như thế nào. Từ năm 1970 cho
đến nay là ba mươi lăm năm, mỗi năm mở
bao nhiêu hội nghị, đầu tư nhân lực và tài lực
hết sức đáng kể, nhưng chẳng có hiệu quả.
Trong ba mươi lăm năm ấy, trật tự toàn thể
thế giới hỗn loạn, tần số động
loạn mỗi năm một tăng vọt lên, tai hại
mỗi năm một nghiêm trọng hơn. V́ thế, hiện
thời có khá nhiều chuyên gia, học giả tham gia hội
nghị ḥa b́nh quốc tế, sau hội nghị, chúng tôi tiếp
xúc, họ đều lắc đầu, chẳng có ḷng tin.
Nói cách khác, đối với việc hóa giải xung đột,
xúc tiến xă hội an định, ḥa b́nh, đều chẳng
có tín tâm. Có thể thành tựu chuyện này ở nơi
đâu? Những kết luận về ḥa b́nh nói th́ hay lắm,
chẳng có ai không ca ngợi, nhưng quốc gia nào, chánh phủ
nào có thể tiếp nhận, có thể chấp hành? Tôi từng
nói vài lần, nếu người ta khách sáo một chút, sẽ
gởi quư vị sang pḥng lưu trữ hồ sơ. Chẳng
khách sáo, sẽ vất [bản báo cáo ấy] trong giỏ giấy
loại, chẳng thể thực hiện!
Nếu chúng ta hỏi: Hóa giải
xung đột, khôi phục thế giới an định, ḥa
b́nh, có hy vọng hay không? Câu trả lời là khẳng định,
có hy vọng. Dùng phương pháp ǵ? Dùng phương cách cũ
kỹ của người Hoa! V́ thế, vào những năm
bảy mươi, tiến sĩ Thang Ân Tỷ (Arnold Toynbee)
đă nói rất có lư, vị này là một học giả
nước Anh: “Để giải
quyết vấn đề xă hội trong thế kỷ hai
mươi mốt, chỉ có học thuyết Khổng Mạnh
của Trung Hoa và Đại Thừa Phật pháp”. Lời
ấy nói rất có lư, ông ta chẳng bảo dùng vũ lực
hoặc bảo mở hội nghị, [mà là] sử dụng
học thuyết Khổng Mạnh của Trung Hoa! Học
thuyết truyền thống của Trung Hoa là ǵ? Trong thiên Học
Kư [của sách Lễ Kư], có hai câu danh ngôn: “Kiến quốc, quân dân, giáo học vi tiên” (Xây dựng
đất nước, cai trị dân chúng, dạy học
làm đầu). Giáo học có thể giải quyết vấn
đề. Do vậy, quư vị thấy Phật, Bồ Tát do
đâu mà có? Do dạy dỗ mà ra, thánh hiền cũng là do dạy
dỗ mà thành.
Nội dung của giáo dục
truyền thống là ǵ? Chúng tôi tổng kết, nội dung
bao gồm bốn thứ: Thứ nhất là luân lư, thứ
hai là đạo đức, thứ ba là nhân quả, thứ
tư là tánh lư. Nói đến mức cao nhất, sẽ
đều là nói đến bản tánh của con người.
Câu đầu tiên trong Tam Tự Kinh là: “Nhân chi sơ, tánh bổn thiện” (Con người
thoạt đầu tánh vốn lành), nói đến Tánh lư. Nhưng
kinh Phật giảng tánh lư thấu triệt nhất, cổ
thánh tiên hiền đều hiểu. Nếu chúng ta khôi phục
bốn loại giáo dục ấy, thiên hạ thái b́nh, xung
đột tự nhiên sẽ chẳng có. V́ vậy, hiện
thời cần đến giáo dục luân lư, đạo
đức, nhân quả, tánh lư. Chúng tôi nói “tánh lư”, người b́nh phàm sẽ chẳng hiểu
cho lắm. Hiện thời, mọi người đều
biết tôn giáo, [vậy th́ tôi nói cho dễ hiểu] là giáo dục
tôn giáo. Quư vị xem đó, xét kỹ kinh
điển của mỗi tôn giáo, đều là dạy con
người làm lành. Chẳng có tôn giáo nào dạy người
ta làm ác, dạy người ta hại kẻ khác, chẳng hề
có! Nếu dạy con người làm ác, dạy con người
hại kẻ khác, tôn giáo ấy chẳng thể kiến lập,
sẽ không được đại chúng tiếp nhận,
v́ nó trái nghịch nhân tánh. Phải hiểu đạo lư này!
Hiện nay, xă hội động
loạn, chúng ta có thể thấy được nguyên nhân.
Quư vị thấy giáo dục hiện thời dạy điều
ǵ? Giáo dục gia đ́nh dạy điều ǵ? Cha mẹ hiện
thời dạy trẻ nhỏ điều ǵ? Giáo dục
trong nhà trường dạy điều ǵ? Giáo dục xă hội
dạy điều ǵ? Giáo dục tôn giáo trong hiện thời
lại dạy điều ǵ? Quan sát cẩn thận, quư vị
t́m được cội nguồn động loạn để
rồi cắt thuốc đúng chứng bệnh. Chẳng
phải là không thể làm, có thể làm! V́ thế, hiện
thời chúng tôi đề xướng lập trường
học. Tôi giới thiệu khái niệm này với Liên Hiệp
Quốc, mở trường học, mở giảng ṭa, sẽ
tốt hơn và thâu được hiệu quả nhiều
hơn mở hội nghị. Tháng Sáu năm nay, tôi đến
thăm Unesco tại Ba Lê, đồng thời mở khóa giảng
ba ngày tại Ba Lê, giảng về Đệ Tử Quy, rất
có hiệu quả, thính chúng có hơn sáu trăm người.
Ngày cuối cùng, tôi giới thiệu giáo dục truyền thống
của Trung Hoa, thính chúng đông hơn một ngàn người,
đều ở Châu Âu. V́ thế, việc dạy Đệ
Tử Quy hiện thời đă khá thông dụng. Không chỉ
là ở trong nội địa Trung Hoa được mọi
người nhiệt liệt hưởng ứng, mà hiện
thời trên quốc tế, cũng bắt đầu cổ
động. Khá nhiều nơi trên các nước đều
lập những khóa học nhỏ, t́m tôi xin giới thiệu
giáo viên đến giảng. Đây là chuyện tốt, tốt
hơn mở hội nghị quá nhiều, mà cũng tiết
kiệm chi phí hơn mở hội nghị rất nhiều.
Do vậy, chúng ta nói đến “vi
y, vi cứu” th́ phải hiểu!
Chúng tôi vẫn nhấn mạnh
tầm trọng yếu của giáo dục gia đ́nh, quư vị
mới có thể có con cháu tốt đẹp, mới có thể
thật sự hóa giải vấn đề. Đầu
tiên, bản thân chúng ta phải giác ngộ. Chính ḿnh chẳng
giác ngộ, sẽ chẳng có cách nào cả! Nhà Phật nói
là “tự độ c̣n chẳng được, làm sao có thể
độ người khác?” Kinh dạy: “Tự kỷ vị độ, nhi năng độ
nhân, vô hữu thị xứ” (Chưa thể độ
chính ḿnh mà có thể độ người khác, chẳng có
lẽ ấy), “vô hữu thị
xứ” là chẳng có đạo lư ấy! Đầu tiên
là phải tự độ, đầu tiên là phải tự
giác, sau đấy mới có thể giác ngộ người
khác. Điều đầu tiên trong “giác tha” là giúp người nhà quư vị, khiến
cho cả nhà giác ngộ. Sau khi cả nhà đă giác ngộ,
bèn giúp láng giềng, làng xóm, thân thích, bằng hữu, phạm
vi ngày càng mở rộng. Giáo học của cổ thánh, tiên
hiền, chư Phật, Bồ Tát mở rộng dần dần
như vậy, khuếch đại sức ảnh hưởng.
Nho và Phật đều nói rất
hay. Nho gia nói: “Tự thiên tử
dĩ chí ư thứ nhân, nhất thị giai dĩ tu thân vi
bổn” (Kể từ thiên tử cho đến kẻ thường
dân, nhất loạt đều lấy tu thân làm gốc).
Trong hội nghị quốc tế hiện nay, chúng tôi giới
thiệu hai câu: “Tu thân vi bổn,
giáo học vi tiên” (Tu thân làm gốc, dạy học làm
đầu). Do vậy, có những hội nghị trọng
yếu đến t́m tôi, tôi nghĩ ḿnh vẫn phải
đi. Nếu họ chẳng thấu triệt chuyện
này, tôi sẽ nói rơ ràng, nói minh bạch. Tu thân làm gốc, bắt
đầu từ chính bản thân ta. Nay chúng ta gánh vác sứ
mạng của Liên Hiệp Quốc, hiệp trợ hóa giải
xung đột, xúc tiến các xă hội trên thế giới
an định, ḥa b́nh, làm từ nơi đâu? Làm từ
chính bản thân ḿnh. Mỗi lần [dự họp], tôi đều
nói. Đầu tiên là từ nội tâm của chính ḿnh, khiến
cho trong nội tâm của chúng ta, ư niệm đối lập
với hết thảy người, hết thảy sự,
hết thảy vật được hóa giải. Cũng
có nghĩa là ta chẳng đối lập với bất cứ
người nào trên thế giới, người khác đối
lập với ta th́ được, ta chẳng đối
lập với người ấy. Bất cứ chuyện
ǵ, vật ǵ cũng đều chẳng có đối lập.
Thân tâm của ta hài ḥa, ta mới có thể giúp người
khác hóa giải đối lập. Chẳng có đối lập,
sẽ chẳng có mâu thuẫn, xung đột sẽ tự
nhiên bị hóa giải. Đấy mới là biện pháp. Nếu
những người theo đuổi công tác này, những
người theo đuổi nền giáo dục của thánh
hiền, mà c̣n “ta ưa thích kẻ này, ta chán ghét kẻ kia”,
sự giáo dục của quư vị có thành tựu hữu hạn.
V́ sao? Trong nội tâm của quư vị có đối lập.
Hễ có đối lập, sẽ có mâu thuẫn. Hễ mâu
thuẫn, sẽ có xung đột. Chính quư vị chẳng thể
giải quyết xung đột của bản thân, làm sao có
thể giúp xă hội giải quyết xung đột cho
được? Tôi nói kiểu này được không ít chuyên gia, học giả tham dự hội
nghị đồng ư. Tu thân làm gốc, tu bản thân tốt
đẹp, quư vị mới có thể dạy người
khác, mới có thể ảnh hưởng người khác.
Trong việc học Phật,
điều này cũng hết sức trọng yếu. Học
Phật, chẳng có ǵ khác, [chỉ là] phá Phiền Năo Chướng,
phá Sở Tri Chướng. Phiền Năo Chướng là Ngă Chấp,
Sở Tri Chướng là Pháp Chấp. Phá Phiền Năo Chướng,
vượt thoát lục đạo. Phá Sở Tri Chướng,
vượt thoát mười pháp giới. Do vậy, phải
hiểu: Trong tâm có sự đối lập với hết
thảy người, sự, vật, quư vị chẳng có
cách nào phá hai thứ chướng ngại. Nói cách khác, quư vị
tu tập trong Phật pháp, chỉ có thể tu một chút
phước báo nhân thiên! Nếu quư vị mong đoạn
phiền năo, khai trí huệ, chứng Bồ Đề, liễu
sanh tử, thoát tam giới, sẽ chẳng có phần. Quư vị
nói điều này có quan trọng lắm hay không? Chớ nên không
hiểu rơ, chớ nên không giác ngộ, chớ nên không thật
sự làm. Trước hết, quư vị phải có thể
thấy thấu suốt, kinh Kim Cang giúp chúng ta thấy thấu
suốt: “Phàm những ǵ có h́nh
tướng đều là hư vọng”, “hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn,
bọt, bóng”, quư vị cần ǵ cứ phải riết
róng! Cổ nhân có một câu ngạn ngữ: “Nan đắc hồ đồ, ngật khuy thị
phước” (Hồ đồ khó có, bị thua thiệt
là phước), chẳng cần phải so đo. Buông xuống
phân biệt, chấp trước, vọng tưởng của
chính ḿnh. “Thiên hạ bổn vô
sự, dung nhân tự nhiễu chi” (Thiên hạ vốn vô
sự, kẻ đần tự nhiễu loạn). Ai là kẻ
đần? Chính ḿnh là người chẳng biết buông xuống!
Kẻ chẳng buông thân, tâm, thế giới xuống th́ mới
so đo. Thật sự buông xuống, sẽ thoát ra. Đă thoát
ra, quư vị sẽ thấy rơ ràng, thấy minh bạch, mới
biết chính ḿnh hăy nên làm như thế nào!
Cách thực hiện như thế
nào? Chính là trong hai đoạn kinh văn này. Mười câu
trong đoạn này, “năng vi
nhiêu ích” (có thể tạo lợi ích rộng lớn),
đối với chính ḿnh, đối với chúng sanh, sẽ
đem lại lợi ích thật sự phong phú. Đối
với câu kế tiếp ở cuối đoạn này, lời
Sớ nói là “siêu thắng tôn quư”
(tôn quư thù thắng, vượt trỗi) là chứng quả.
Đoạn này nói về tu hành. Chẳng tu hành, làm sao có thể
chứng quả cho được? Đấy là nói “vi cứu”. V́ vậy, có thể
buông xuống đối lập, [chính là] cứu chính ḿnh. Từ
vô lượng kiếp đến nay, chúng ta học Phật,
tu hành, quyết chẳng phải chỉ là một đời
này. Nếu đời này mới bắt đầu, quư vị
sẽ chẳng thể khế nhập cảnh giới. Thật
sự y giáo tu hành, dần dần có thể khế nhập
cảnh giới, quư vị sẽ biết tu hành chẳng phải
là một, hai đời, mà là trong đời quá khứ
đă rất nhiều lần tu học Phật pháp,
nhưng chẳng có thành tựu. V́ sao chẳng thành tựu?
Chính là như tôi vừa mới nói: Chẳng buông xuống
đối lập cùng hết thảy người, sự,
vật. Do vậy, đối với học Phật, quư vị
chẳng khai ngộ, nó sẽ chướng ngại quư vị
khai ngộ. Quư vị chưa chứng quả, nó sẽ chướng
ngại quư vị chứng quả. Quư vị chưa văng sanh,
nó sẽ chướng ngại quư vị văng sanh! Phải hiểu
đạo lư này.
Hoàn cảnh học tập
trước kia tốt đẹp hơn hiện thời.
V́ sao? Thời cổ, bậc đại đức giảng
kinh, thuyết pháp nhiều, duyên tham học thù thắng. Có
thể nói từ đời Tùy - Đường măi cho
đến giữa đời Thanh, [luôn luôn có] bậc đại
đức giảng kinh, thuyết pháp, pháp sư xuất
gia, cư sĩ tại gia hữu tu, hữu chứng, chúng
ta xem Đại Tạng Kinh hiện thời, thấy chú sớ
của khá nhiều bậc cổ đại đức, sẽ
biết: Bất luận học pháp môn nào, đều có
người đang truyền pháp, quư vị đến
đó tham học đều có thể học được.
Xă hội hiện tại chẳng bằng xưa kia, người
giảng kinh ít ỏi. Không chỉ là Phật giáo, các tôn giáo
khác cũng là như thế. Người giảng kinh [trong
hiện thời] tu tŕ cũng chẳng bằng các vị
đại đức trong quá khứ. Những vị đại
đức trong quá khứ đúng là “phiền năo khinh, trí huệ trưởng”, thật
sự buông xuống Kiến Tư phiền năo. V́ sao thật
sự buông xuống? Các Ngài đă thật sự thấy thấu
suốt; do vậy, thân tâm khinh an, tự tại.
Trong xă hội hiện thời,
những ǵ lục căn quư vị được tiếp
xúc đều là tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ
dục, lục trần, ở trong xă hội, quư vị có thể
chẳng động tâm ư? Quư vị có thể chẳng khởi
niệm ư? Sức dụ dỗ, mê hoặc không chỉ
là gấp mười, gấp trăm lần quá khứ! Nhất
là sự dụ dỗ, mê hoặc trong hiện thời là do
TV quyến rũ, do mạng Internet quyến rũ, nhật
báo, tạp chí quyến rũ, quư vị thấy quảng cáo
bên ngoài toàn là dụ dỗ, mê hoặc! Có thể ở trong
những thứ dụ dỗ, mê hoặc ấy mà chẳng
động tâm, chẳng phải là chuyện dễ dàng. V́
thế, hiện thời thành tựu khó khăn. Nói đi rồi
phải nói lại, khó th́ tuy khó đấy, một khi quư vị
thật sự chẳng bị dụ dỗ, mê hoặc,
thành công của quư vị tối thiểu phải cao gấp
mười, gấp trăm lần cổ nhân. Họ chẳng
bằng quư vị, v́ sao? Nếu họ sanh trong thời
đại này, cũng sẽ bị đào thải! Người
ta vận tốt, xă hội thời ấy chẳng có nhiều
thứ dụ dỗ, mê hoặc như vậy. Ai nấy
đều an phận giữ ḿnh, [do vậy], tu học thành
công dễ dàng! Hiện thời, có thể nói là bốn
phương tám hướng đều lôi quư vị vào trong
địa ngục, vào trong ngạ quỷ, quư vị có thể
nghiễm nhiên như như bất động, đó là công
phu cỡ nào! V́ thế, lợi và hại đều có, chỉ
cần chính ḿnh kiên định tín tâm.
Kiên định tín tâm như
thế nào? Một phương pháp tốt đẹp là
đọc kinh mỗi ngày, thân cận thánh hiền, tận
hết sức giảm thiểu những dụ dỗ, mê hoặc
bên ngoài. Do vậy, trong hơn bốn mươi năm qua,
tôi không xem báo chí, không coi TV, không nghe radio, những thứ ấy
đều ĺa khỏi. Hằng ngày, những thứ tôi xem
là kinh điển, tư duy kinh điển. Lại c̣n mỗi
ngày cùng các vị đồng tham đạo hữu, nghiên cứu,
giảng giải, cùng nhau học tập th́ mới có thể
ǵn giữ, chẳng bị thoái chuyển. Năm mươi
bốn năm như một ngày, tôi dùng phương pháp này.
Tôi cảm thấy phương pháp này rất hữu hiệu,
thầy dạy tôi, tôi có thể y giáo phụng hành. Hôm nay đă
hết thời gian rồi, chúng tôi giảng tới chỗ
này.
Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười
một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 13 hết
[1] “Báo đắc Ngũ Thông”:
Năm thứ thần thông tự nhiên có được do
quả báo, chẳng cần phải tu tập.
[2]
Ông này có tên gọi đầy đủ là Mahathir Bin Mohamad (sinh năm 1925) là Thủ Tướng
thứ tư của Mă Lai từ năm 1981 đến năm
2003, là một vị chính khách đảm nhiệm chức
vụ này lâu năm nhất tại Mă Lai. Ông từng
đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng
như bộ trưởng tài chánh, bộ trưởng
nội vụ, bộ trưởng mậu dịch và kỹ
nghệ, bộ trưởng giáo dục, và phó thủ
tướng trước khi trở thành Thủ
Tướng. Ông Mahathir được ca ngợi là
người có công hiện đại hóa và thúc đẩy
kinh tế Mă Lai phát triển mạnh mẽ. Ông cũng
rất bạo miệng khi chỉ trích những
người theo Hồi giáo cuồng tín, nhất là những
giáo sĩ tham quyền cố vị, dùng mọi thủ
đoạn lũng đoạn chính trường.
Người Hoa thường gọi ông là Trưởng Lăo
do dịch chữ Tun Dato Seri là một tước hiệu
thường đi trước tên gọi của ông. Đây
là một tước vị thoạt đầu chỉ dành
cho quư tộc hoặc hoàng gia Mă Lai. Tun là danh hiệu trao cho
một viên đại thần có công cống hiến
lớn nhất cho đất nước. Dato Seri là danh
hiệu tôn xưng vị trưởng quan cao cấp
nhất quốc gia có công lao to lớn với đất
nước. Dato Seri thấp hơn Tun. Ông Mahathir lần
lượt được trao các tôn hiệu này tuy ông
xuất thân từ một gia đ́nh trung lưu, không phải
là quư tộc, mà cũng không phải là quan chức. Do có
những ḍng họ Mă Lai tuân theo truyền thống Ả
Rập, không gọi tên theo ḍng họ mà chỉ ghép sau tên
của ḿnh chữ Bin (Ben) hoặc Ibn rồi đến tên
cha (Bin và Ibn đều có nghĩa là “con trai của”. Mahathir
bin Mohamad nghĩa là Mahathir con trai của Mohamad, cha ông ta tên
là Mohamad bin Iskander). V́ thế, tại Mă Lai, khi nói
đến ông, người ta chỉ gọi là Tun Dato Seri
Mahathir.
[3]
Một vị Dạ Xoa Vương thường
được thờ làm thần thủ hộ chính là
Tỳ Sa Môn (Vaiśravaṇa)
thiên vương, tức Bắc Phương Đa Văn
thiên vương. Ngài thống lănh các Dạ Xoa sống trên
eo núi Tu Di.
[4]
Mân Côi (玫瑰)
là tên gọi của hoa hồng. Rosarium có nghĩa là tràng hoa
hồng, chuỗi hoa hồng. Danh xưng này thoạt
đầu để gọi chuỗi tràng hạt sử
dụng để đếm những bài kinh trong cầu
nguyện. Khi người ta nói đọc kinh Mân Côi, có
nghĩa là đọc theo thứ tự là một kinh
Lạy Cha (Pater Noster), mười lần kinh Kính Mừng
Đức Mẹ (Ave Maria), và kết thúc bằng kinh Sáng
Danh (Gloria Patri). Cứ mỗi một lần như thế
được gọi là một suy niệm về một
sự kiện tương ứng trong cuộc đời Chúa
Jesus.
[5]
Đây là quẻ Địa Sơn Khiêm, là một quẻ kép
(phức quái) do quẻ Khôn và Cấn hợp thành. Do quẻ
Cấn (tượng trưng cho núi) lại ở
dưới quẻ Khôn (đất), nên có tên gọi như
vậy. Hào (爻) là một vạch liền
hay đứt trong một quẻ. Nói “sáu hào đều cát” v́
phần Thoán Từ giải thích ư nghĩa của
mỗi hào trong quẻ này đều tốt lành.
[6]
Đại Phúc Hành là con vật đi bằng bụng
lớn, “đi bằng bụng” chính là ḅ trườn.
[7]
Danh xưng Tam Công biến đổi theo thời
đại:
1.
Đời Tây Hán, Tam Công là Thái Sư, Thái Phó và Thái Bảo.
Đông Hán đổi thành Thái Úy, Tư Đồ, Tư
Không.
2.
Bắc Ngụy đổi thành Thái Sư, Thái Bảo và Thái
Phó.
3.
Từ đời Tùy - Đường trở đi
đổi thành Thừa Tướng (về sau đổi
thành Đại Tư Đồ), Thái Úy (về sau đổi
thành Đại Tư Mă), Ngự Sử Đại Phu
(về sau đổi thành Đại Tư Không).
3.
Đời Minh - Thanh lại gọi là Thái Sư, Thái Phó, Thái
Bảo như cũ.
[8]
Cửu Khanh bao gồm Phụng Thường, Lang Trung
Lệnh, Vệ Úy, Thái Bộc, Đ́nh Úy, Điển Khách,
Tông Chánh, Trị Lật Nội Sứ, Thiếu Phủ.
Trong đó, Điển Khách
được đổi thành Đại Hồng Lô
dưới thời Hán Vũ Đế, có trách nhiệm
tiếp đăi sứ đoàn, an trí chỗ ăn ở,
hướng dẫn các nghi lễ. Đấy chính là
tiền thân của Hồng Lô Tự về sau. Do hai vị
cao tăng do triều đ́nh lễ thỉnh như quốc
khách, nên được mời ở tại phủ thự
của Hồng Lô Tự. Nơi đó, về sau trở
thành chùa Bạch Mă.
[9] “Loại bỏ một phần”
ở đây không phải là cắt xén kinh điển, mà là
do kinh điển nguyên bản có nhiều chỗ lập
đi lập lại, chỉ thay đổi một hai
chữ trong mỗi câu, các vị dịch sư sẽ
dịch gọn lại. Chẳng hạn “Sắc bất dị Không, Không bất dị
Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị
Sắc”. Đoạn thứ hai sẽ là “Thọ bất dị Không, Không bất dị
Thọ…” Đoạn thứ ba là “Hành bất dị Không, Không bất dị Hành…” cho
đến hết Ngũ Uẩn đều nói như
thế, các vị dịch kinh bèn dịch gọn lại là “Thọ, Tưởng, Hành,
Thức diệc phục như thị” (Thọ,
Tưởng, Hành, Thức cũng giống như thế).
[10]
Ngũ Chủng Di Quy là tác phẩm do Trần Hoằng
Mưu biên soạn vào đời Thanh trong niên hiệu Ung
Chánh - Càn Long để làm tài liệu giáo dục luân lư
đạo đức cho trẻ. Ngũ Chủng Di Quy
gồm có năm phần là Dưỡng Chánh Di Quy, Giáo
Nữ Di Quy, Huấn Tục Di Quy, Tùng Chánh Di Quy, và Tại
Quan Pháp Giới Lục. Như tên gọi đă nêu rơ, ba
phần đầu nói về những phương pháp,
nguyên tắc để nuôi dưỡng chánh khí của con
trẻ, bồi dưỡng đức hạnh căn
bản, dạy dỗ con gái về những phẩm
đức cần thiết của nữ giới, những
quy củ, khuôn phép đối nhân xử thế, lễ nghi
thông tục, chuẩn mực đạo đức. Hai
phần sau nói về những hành xử và thái độ khi
ra làm quan, những điều phải răn tránh trong khi
làm quan để giữ vẹn phẩm đức của
con người.