Đại
Phương Quảng Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ
mười một,
Tịnh Hạnh
Phẩm
Phần 14
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh
Không
Địa điểm: Hương Cảng
Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ ngày mồng Bảy
tháng Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ
tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ
Trang và Minh Tiến
Tập 1489
Chư
vị đồng học, xin hăy ngồi xuống, xin xem phẩm
Tịnh Hạnh thứ mười một, xem từ đoạn
thứ mười trong phần trường hàng. Chúng tôi đọc
kinh văn một lượt:
(Kinh) Vân hà đắc dữ nhất thiết chúng sanh vi y, vi cứu, vi quy,
vi thú, vi cự, vi minh, vi chiếu, vi đạo, vi thắng
đạo, vi phổ đạo?
(經)云何得與一切眾生為依。為救。為歸。為趣。為炬。為明。為照。為導。為勝導。為普導。
(Kinh: Làm thế nào để là nơi nương tựa,
nơi cứu tế, nơi quay về, nơi hướng
đến, làm đuốc, làm ánh sáng, chiếu soi, dẫn dắt,
dẫn dắt thù thắng, dẫn dắt trọn khắp
cho hết thảy chúng sanh?)
Đối
với mười câu này, hôm qua chúng ta đă
học đến “vi y, vi
cứu”, hôm nay xem từ
câu thứ ba, tức là “vi quy”, cũng là “vân hà đắc dữ nhất thiết chúng sanh vi
quy” (làm thế nào để làm chỗ quay về cho hết
thảy chúng sanh). “Quy” (歸) là quay đầu. Trong phần
[kinh văn của địa vị] Sơ Hồi Hướng
[trong phẩm Thập Hồi Hướng kinh Hoa Nghiêm], Thanh
Lương đại sư đă bảo “giai linh đắc ly chư bố úy cố” (v́
đều làm cho [hết thảy chúng sanh] được
ĺa các sự sợ hăi). Câu ấy đă nói rất rơ ràng, nay
chúng ta đọc xong, có cảm xúc vô cùng sâu đậm! V́ xă
hội hiện tại đáng gọi là “xă hội khủng
bố”, làm thế nào để có thể hóa giải xung
đột, xa ĺa sợ hăi chính là chủ đề đàm
luận của mọi người trong mấy năm gần
đây. Do vậy, chúng tôi đọc câu kinh văn này, cảm
xúc càng sâu hơn!
“Quy” là quay đầu, nhà Phật
thường nói “hồi đầu
thị ngạn” (回頭是岸, quay
đầu là bờ), phải từ trong nỗi sợ hăi
mà quay lại. “Bố úy” (怖畏) được
nói trong Phật pháp c̣n đáng kinh sợ hơn những phần
tử khủng bố như người hiện thời
thường nói. “Bố úy” ở
đây chính là nói đến tam đồ, tức địa
ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Như thế nào mới có
thể ĺa khỏi tam đồ? Vậy th́ quư vị phải
biết tam đồ do như thế nào mà có? Trong kinh luận
Đại, Tiểu Thừa, đức Phật đă dạy
cặn kẽ, nhất là địa ngục quá sức kinh
sợ, [tam đồ] là do trong đời này chúng ta đă tạo
các nghiệp bất thiện mà cảm vời! Vô lượng
h́nh phạt trong địa ngục nói chẳng cùng tận!
Trong các kinh điển, đức Phật đă nói đến,
đă nói rất nhiều. Nói thật ra, [những điều
Ngài đă nói] chỉ là t́nh huống đại khái trong
địa ngục mà thôi! V́ sao nói chẳng cùng tận? Chúng
sanh tạo nghiệp vô lượng vô biên, cho nên nghiệp
báo cũng là vô lượng vô biên. Chúng ta nhất định
phải hiểu đạo lư này. Trong kinh Thập Thiện
Nghiệp Đạo, đức Phật đă dạy, chỉ
cần chẳng tạo mười ác nghiệp, mỗi
điều trong mười ác nghiệp đều là
cương lănh [của các ác nghiệp]. Nói cặn kẽ, mỗi
điều sẽ đều nói chẳng cùng tận! Không
sát sanh, sẽ không kết oán cừu với hết thảy
chúng sanh. Giết hại chúng sanh, chẳng biết đến
nỗi oán hận của chúng sanh. Nỗi oán hận ấy
sẽ là oan oan tương báo, chẳng hết, chẳng
xong, đời đời kiếp kiếp! Quư vị nói
xem, chuyện này đáng sợ lắm thay! Khi quư vị lấn
hiếp kẻ khác, người ta sẽ báo cừu, đời
này chẳng thể báo cừu, [sẽ đợi tới]
đời sau!
Các
đồng học học Phật đều biết, quư vị
đều đă đọc Từ Bi Tam Muội Thủy Sám.
Từ Bi Tam Muội Thủy Sám nói về chuyện của Ngộ
Đạt quốc sư là người thời Đường.
Ngài bị một mụt ghẻ mặt người, gần
như mất mạng! Do đâu mà có mụt ghẻ mặt
người ấy? Nguyên lai là trong mười đời trước,
Ngài đă từng giết một người. Người
ấy oán hận Ngài, cả mười đời đều
theo sát bên Ngài. Nhưng đến đời thứ hai, Ngài
xuất gia, tu hành rất khá, có thần hộ pháp bảo vệ.
Mỗi đời tiếp theo, Ngài suốt mười
đời tŕ giới tinh nghiêm, chẳng tạo ác nghiệp.
V́ thế, cả mười đời chẳng mất
thân người, lỗi lạc thay! Mười đời
chẳng mất thân người, lại c̣n mười
đời đều xuất gia, đều tu hành, tu hành rất
khá. Đời thứ mười một, làm thầy của
hoàng đế, tức quốc sư, vinh diệu tột bậc!
Nhà vua biếu Ngài một ṭa báu bằng trầm
hương. Sau khi Ngài nhận lấy, hết sức hoan hỷ,
dấy lên tâm ngạo mạn (ngạo mạn là phiền
năo, tham, sân, si, mạn), cảm thấy chính ḿnh rất vinh
diệu, người xuất gia trong thiên hạ chẳng có
kẻ nào mà ḥng sánh bằng Ngài! Vừa sanh ư niệm ấy,
thần hộ pháp bỏ đi, oan gia t́m tới, đấy
chính là [nguyên cớ nổi] mụt ghẻ mặt người,
đến báo cừu mà! Khéo sao, Ngài tu hành mười đời,
xác thực là chẳng uổng phí công phu, cảm động
một vị A La Hán, tức tôn giả Ca Nặc Ca. Tôn giả
Ca Nặc Ca điều giải cho Ngài, đối phương
kể ra nhân duyên, “do nguyên nhân ǵ mà t́m đến
ngươi”! Nay được tôn giả Ca Nặc Ca
điều giải, người ấy cũng hoan hỷ
tiếp nhận, ĺa khỏi, ghẻ mặt người khỏi
hẳn!
Do
vậy, chư vị nên hiểu là những kẻ oán hận
đời đời kiếp kiếp ở bên cạnh quư
vị chờ đợi cơ hội. Khi quư vị có
phước báo, họ chẳng dám đến quấy phá
quư vị. Khi quư vị tu công tích đức, nhất định
là có thiện thần che chở, họ chẳng có cơ hội.
Nhưng quư vị dấy lên một niệm tham, sân, si, mạn,
họ sẽ có cơ hội đến báo thù. Quư vị nói
chuyện này có đáng kinh hăi lắm hay không? Đấy [mới
chỉ] là người [đến báo thù]. Ngoài người
ra là súc sanh. Súc sanh đều có linh tánh. Mỗi ngày quư vị
giết chúng, ăn chúng, chúng nó có cam tâm t́nh nguyện cúng
dường quư vị hay không? Nếu chẳng cam ḷng, chẳng
t́nh nguyện, quư vị phải nghĩ đến sau khi
đă kết thành mối oán cừu ấy th́ phải làm
sao? Trong đời quá khứ, trong đời này, nói thật
thà, kể từ trước khi chúng ta tiếp xúc Phật
pháp, chúng ta đều ăn thịt, đều sát sanh. Trong
đời này, kết mối oán cừu cùng những chúng
sanh ấy, chẳng nghĩ th́ không biết; hễ nghĩ
đến, sẽ hết sức kinh hăi! Trong đời này,
gặp gỡ khá nhiều chuyện chẳng vừa ư, gian
nan, khốn khổ, cho đến bệnh tật là do
đâu mà ra? Chính là v́ từ chỗ này mà ra! Nghiệp nhân quả
báo, chẳng sai suyển mảy may. Quư vị càng nghĩ,
càng kinh hăi. Đấy mới là hoa báo, quả báo ở trong
đời sau, đáng sợ quá! Làm thế nào để có
thể ĺa khỏi nỗi kinh sợ trong ác đạo, nỗi
kinh sợ trong tai nạn? Đức Phật dạy chúng ta
quay đầu, quay đầu là bờ!
Hôm
nay, có một đồng tu bên Úc gọi điện thoại
cho tôi, cho biết ở bên Nam Dương có một người
có công năng đặc dị bảo ông ta: “Sau tháng Giêng, sẽ
phát sanh ôn dịch[1].
Đă thế, trận ôn dịch này hết sức nghiêm trọng!”
Ông ta kể với tôi tin tức ấy, hỏi tôi cách dự
pḥng như thế nào? Trong năm nay, không chỉ là một
lần, mà tối thiểu là có đến ba lần có
người đến nói với tôi về chuyện này. Hiện
thời, tổ chức Y Tế Thế Giới cũng cảnh
báo, trận ôn dịch ấy chính là dịch cúm gà. Họ
nói, trận dịch ấy hễ bộc phát sẽ lan tràn
khắp thế giới, ước tính sẽ lây nhiễm
đến một ức người, tỷ lệ tử
vong là một phần hai[2], rất
kinh khủng! Nhưng có tin tức cho tôi biết, người
ăn chay, người niệm Phật, tâm địa thiện
lương sẽ chẳng bị cảm nhiễm (lây bệnh).
Hôm nay, khi người ấy nói với tôi về tin ấy,
tôi liền thuật lại lời này với ông ta: Chớ
nên hoảng sợ, chớ nên kinh hoàng, hăy suy ngẫm [tu tập
sao cho] chính ḿnh là thiện tâm, tư tưởng thiện,
hành vi thiện, tức là như trong kinh Thập Thiện
Nghiệp Đạo, đức Phật đă dạy: “Bồ Tát có một pháp có thể
ĺa hết thảy các nỗi khổ trong thế gian”. Trận
ôn dịch ấy là khổ, nghĩ đến câu nói ấy
của đức Phật trong kinh rất hữu lư, không
tính sẵn mà phù hợp với các điều do những
người được gọi là “thông linh”[3]
đă nói. Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo dạy “thường niệm thiện
pháp, tư duy thiện pháp, quan sát thiện pháp”, quư vị
sẽ có thể tránh khỏi [các thứ kinh sợ như
tai nạn, ôn dịch v.v...]
Trong
nền y học xa xưa của Trung Hoa, đă có một câu
nói về kinh nghiệm như thế này: “Đông ôn” (冬瘟), tức là bệnh
dịch phát sanh vào mùa Đông, nếu thời gian xảy ra
ôn dịch vào mùa Đông không dài, vào mùa Xuân sẽ chẳng có
ôn dịch. Trận ôn dịch ấy không nghiêm trọng. Nếu
ôn dịch từ mùa Đông kéo dài đến mùa Xuân, lan tiếp
sang mùa Xuân, sẽ rất nghiêm trọng. T́nh h́nh ấy hoàn
toàn chẳng nhiều, nhưng năm nay, rất có thể
trận ôn dịch từ mùa Đông kéo dài thành trận dịch
mùa Xuân, là một trận ôn dịch nghiêm trọng! Từ
kinh điển của nhà Phật, từ các tin tức do
các linh môi[4] cung cấp, nhất
là nói đến bệnh cúm gia cầm, chúng ta ngẫm lại,
[sẽ thấy]: Chúng ta đă kết oán sâu đậm cùng bọn
cầm thú. Quư vị thích ăn gà, ưa ăn vịt, thích
ăn những loài phi cầm ấy, chúng nó phải báo thù mối
oán cừu ấy. Đạo lư là như thế đó, chúng nó
sẽ đến báo cừu, cho nên mới có lời truyền
báo “người ăn chay sẽ
chẳng bị lây bệnh”. Ăn chay nhiều năm, mối
oán kết sẽ được giảm bớt ít nhiều.
Nhất là đă biết yêu thương, bảo vệ sanh
mạng, không chỉ là ăn chay, mà c̣n thường xuyên
phóng sanh, kết thiện duyên cùng chúng. Khi chưa học Phật
chẳng biết, không có ai dạy! Sau khi đă học Phật,
bèn hiểu rơ, quyết định chẳng kết oán cừu
với chúng sanh!
Chúng
ta hăy ngẫm xem, trong giáo dục đạo đức,
trong giáo dục nhân quả, trong giáo dục tôn giáo, đều
có nói! Bản thân chúng ta phải có tín tâm, phải “quay đầu là bờ”, từ
Thập Ác Nghiệp quay trở lại tu Thập Thiện
Nghiệp, như vậy th́ quư vị sẽ vĩnh viễn
xa ĺa hết thảy kinh sợ, quư vị mới có thể vĩnh
viễn ĺa khỏi, đúng như kinh Thập Thiện Nghiệp
Đạo đă nói “năng ly
nhất thiết thế gian khổ” (có thể ĺa hết
thảy các nỗi khổ thế gian), nhất định
phải nghiêm túc hành tŕ! Chúng tôi cũng đă giảng mười
điều ấy (Thập Thiện Nghiệp) khá cặn kẽ.
Đĩa CD và sách Giảng Kư của kinh Thập Thiện
Nghiệp Đạo cũng được lưu thông rất
nhiều. Có thể từ Thập Ác trở về Thập
Thiện, đấy chính là “ly
bố úy”. Xă hội hiện thực có bao giờ chẳng
phải là như vậy! Hiện nay, chúng ta nói đến
chuyện hóa giải xung đột, quư vị hăy suy nghĩ
cặn kẽ, xung đột phát sanh như thế nào? Chẳng
ĺa khỏi Thập Ác! Như thế nào th́ mới có thể
hóa giải xung đột, khôi phục xă hội an định,
ḥa b́nh? Một đạo lư [mà thôi]! Tâm là thiện th́ mới
có thể thật sự hóa giải. Chuyện này quyết chẳng
thể đổ trách nhiệm cho kẻ khác, [hễ đổ
thừa], quư vị đă sai mất rồi! Hăy thực hiện
từ chính ḿnh! Quư vị chớ nên đ̣i hỏi người
khác phải làm, người khác chưa chắc đă chịu
nghe theo quư vị! Trước hết, hăy khởi đầu
làm từ chính ḿnh. Chính ḿnh đắc độ rồi mới
có thể độ người khác. Trong đại tai nạn,
chính ḿnh b́nh an vượt qua, người ta trông thấy sẽ
học tập theo, quư vị sẽ giảng những đạo
lư này cho người ta nghe.
Kẻ
b́nh phàm có một quan niệm sai lầm: “Ăn chay chẳng
đủ dinh dưỡng, gây trở ngại cho sức khỏe”,
toàn là dùng lư do này! Người học Phật tại Trung
Hoa, bất luận tại gia hay xuất gia, đă gần
hơn một ngàn năm qua, chuyện ăn chay tại Trung
Hoa là do Lương Vũ Đế đề xướng.
Thời gian ấy chẳng thể coi là ngắn, bao nhiêu
người ăn chay nhiều năm như thế, người
khỏe mạnh, sống lâu rất nhiều, quư vị có thể
nói là “ăn chay thiếu dinh dưỡng” ư? Sau khi tôi
đă hiểu đạo lư này, bèn nghiêm túc chọn lựa
ăn chay. Sang năm, tôi đă ăn chay năm mươi
lăm năm rồi! Tại khá nhiều nơi ở nước
ngoài, h́nh tượng này đă độ chẳng ít người.
Có nhiều người cùng tuổi với tôi, thậm chí
nhỏ hơn tôi mấy tuổi, chúng tôi đứng chung một
chỗ, tôi trông trẻ hơn họ, thân thể tôi khỏe
mạnh hơn họ. Họ cũng rất hâm mộ:
“Thưa pháp sư! Thầy dùng phương pháp ǵ để
bảo dưỡng thân thể?” Họ chẳng hỏi chi
khác, nhất định sẽ hỏi điều này! Ngay cả
Tiến Sĩ Giang Bổn Thắng của Nhật Bản, khi
chúng tôi lần đầu dùng cơm với nhau, ông ta
cũng rất hâm mộ. Ông ta mới sáu mươi mấy
tuổi, bệnh tật rất nhiều, hỏi tôi cách bảo
dưỡng như thế nào? Ngay lúc đó, tôi liền bảo
ông ta: “Phương pháp tôi bảo dưỡng thân thể
chính là kết luận rút ra từ việc nghiên cứu của
ông!” Ông ta trố mắt: “Kết luận ǵ vậy?” “Yêu
thương, cảm ơn! Tôi sống trong thế giới
yêu thương và cảm ơn. Đấy chính là kết luận
ông đă thu được từ chuyện kết tinh của
nước!” Ông ta thu được kết luận, nhận
biết chân lư trong vũ trụ, điều thù thắng
khôn sánh chính là tâm yêu thương và cảm tạ. Ông ta
đạt được kết luận ấy. Tôi nói:
“Tôi đă thực hành cái tâm yêu thương và cảm tạ
ấy. Ông đă nghiên cứu t́m ra, nhưng vẫn chưa làm
được”.
Chư
vị hăy ngẫm xem, đối với ái tâm (tâm yêu
thương), đă có ái tâm viên măn, làm sao có thể tạo ác
nghiệp cho được? Thập Thiện toàn là ái tâm, Thập
Ác và ái tâm hoàn toàn tương phản. Do vậy, nói đến
Ái, điều thứ nhất là “tự
ái” (biết yêu thương chính ḿnh). Đă yêu
thương chính ḿnh th́ quư vị mới có thể yêu
thương kẻ khác. Quư vị hoàn toàn chẳng biết
yêu thương chính ḿnh, làm sao quư vị có thể yêu
thương người khác cho được? Há có lẽ
ấy! Biết yêu thương chính ḿnh, chắc chắn sẽ
tu Thập Thiện Nghiệp. Chúng ta lừa gạt một
người nào đó, tức là chẳng biết yêu
thương chính ḿnh. V́ sao? Lừa gạt là tội ác. Chúng
ta khuấy động thị phi, nói đôi chiều, chính
là chẳng biết yêu thương chính ḿnh. V́ sao là chẳng
biết yêu thương chính ḿnh? Khuấy động thị
phi, trong tương lai sẽ đọa vào địa ngục
Bạt Thiệt (拔舌, kéo lưỡi).
Quư vị nói xem, kẻ ấy có biết yêu thương
chính ḿnh hay chăng? Kẻ biết yêu thương chính ḿnh
c̣n mong đọa vào địa ngục Bạt Thiệt
ư? Kẻ biết yêu thương chính ḿnh tuyệt đối
chẳng có một ác niệm, chẳng có ác tư duy, chẳng
có ác ngôn, ác ngữ, sẽ chẳng có hành vi ác. Giảng kinh
đă nhiều năm như vậy, tôi thường nói
điều này, thường khuyên dạy mọi người:
“Đối với hết thảy
người, sự, vật, chúng ta quyết định chẳng
có ư niệm khống chế, quyết định chẳng
có ư niệm chiếm hữu”. V́ sao? Hễ quư vị có ư
niệm khống chế người khác, khống chế sự
vật, chiếm hữu, những ư niệm ấy đều
là bất thiện. Do [ư niệm] bất thiện, sẽ
chiêu cảm quả báo bất thiện. Đấy là chẳng
biết yêu thương chính ḿnh. Người biết yêu
thương chính ḿnh, sẽ tuyệt đối chẳng có
ác niệm. V́ thế, người hành Thập Thiện Nghiệp
Đạo mới là biết yêu thương chính ḿnh. Người
biết yêu thương chính ḿnh, quyết định chẳng
có kinh sợ, chẳng có hoảng hốt, chẳng có kinh hăi.
Kẻ chẳng biết yêu thương chính ḿnh th́ sẽ có
[những nỗi kinh hoảng ấy].
Nếu
nói rơ ràng hơn một chút, người biết yêu
thương chính ḿnh chắc chắn chẳng ăn thịt
chúng sanh. Có những kẻ nêu lời phản bác:
“Ngươi ăn gạo, ăn rau dưa, đó là thực
vật. Thực vật cũng có sanh mạng, đấy chẳng
phải là ngươi vẫn đang sát sanh ư?” Chẳng
sai! Không chỉ là thực vật có sanh mạng, ngay cả khoáng
vật cũng đều là sống động. Ông Giang Bổn
Thắng khi làm thí nghiệm với nước, đă chỉ
ra: “Khoáng vật đều là sống động”. Trong
kinh, đức Phật đă nói chẳng sai tí nào. Vạn vật
do đâu mà có? Tâm hiện, thức biến. Nhà Phật gọi
cái tâm ấy là Pháp Tánh, hoặc chân tâm. Chân tâm vốn sẵn
có “thấy, nghe, hay, biết”. Chân tâm hiện tướng,
quyết định có sắc, thanh, hương, vị.
Pháp Tánh thân, Pháp Tánh độ, bản chất của tất
cả hết thảy vạn vật là Pháp Tánh. Do vậy,
đương nhiên là nó có thấy, nghe, hay, biết. Quư vị
hiểu rơ đạo lư này, trong kinh, đức Phật đă
giảng rất thấu triệt: “Toàn thể vũ trụ là một thể hữu
cơ”; thế nhưng động vật, thực vật,
và khoáng vật hoàn toàn bất đồng! Tuy thực vật
là sanh vật, chúng chẳng giống động vật.
Động vật có t́nh thức. Nói cách khác, động vật
có thất t́nh, tức là mừng, giận, buồn, vui, yêu,
ghét, ham muốn, chúng nó có tham, sân, si, mạn. Những động
vật đều có [những t́nh thức] ấy, cho nên
chúng có cái tâm báo thù. Thực vật chẳng có thất t́nh,
ngũ dục, chẳng có tham, sân, si, mạn, nên chẳng trả
thù. Phải hiểu đạo lư này! Quư vị vẫn là chọn
lựa ăn uống theo kiểu này!
Ăn
uống, nói thật ra là bất thiện. V́ phải duy tŕ thân
mạng này, chẳng thể không ăn uống. Đối
với chuyện ăn uống, chớ nên quá lố! V́ thế,
thuở đức Phật tại thế, giữa trưa
ăn một bữa, thân tâm thanh tịnh, nhu cầu ăn uống
của Ngài ít ỏi. Chẳng có tạp niệm th́ một bữa
cơm có đủ hay không? Chắc chắn là đủ!
Thuở c̣n trẻ, chúng tôi đă thật sự làm thử
chuyện này. Mỗi ngày tôi ăn hai bữa, tức là không
ăn cơm tối. Nhà Phật gọi là “tŕ ngọ”. Thuở tôi mới học Phật, cuộc
sống rất kham khổ. Tŕ ngọ mười lăm
năm, trong đó, có năm năm chỉ ăn một bữa
giữa trưa, bữa sáng cũng chẳng có, bớt việc!
Qua đó, chúng tôi đă thể nghiệm: Thân thể con
người là một cỗ máy; để cỗ máy hoạt
động, cần phải có năng lượng. Năng
lượng lấy từ thực phẩm. Nhưng chúng ta
phải nên biết trạng huống tiêu hao năng lượng,
từ chín mươi phần trăm trở lên đă bị
tiêu hao bởi vọng niệm! Mỗi người chúng ta
suốt ngày từ sáng đến tối, niệm trước
diệt, niệm sau sanh, toàn là vọng tưởng, chuyện
này tiêu hao năng lượng lớn nhất. Nếu quư vị
nói “lao tâm, lao lực”, thật
ra, năng lượng tiêu hao [v́ lao tâm, lao lực] không lớn!
Tôi
theo thầy Lư Bỉnh Nam mười năm, tôi cẩn thận
quan sát thầy. Lăo nhân gia ăn một bữa giữa
trưa, ăn rất ít; nhưng so sánh giữa khối
lượng công việc của thầy với những kẻ
b́nh phàm, thầy làm công việc bằng năm người!
Mỗi ngày, thầy làm việc bằng năm người
khác, [thế mà] mỗi ngày chỉ ăn một bữa! Do vậy,
tôi cảm thấy lao tâm hay lao lực tiêu hao năng lượng
cũng chẳng lớn, mà chính là vọng niệm [gây tiêu
hao nhiều nhất]. Thuở ấy, tôi ăn một bữa
trưa là học theo thầy. V́ tôi cũng đă không ăn
tối rất lâu, đă nhiều năm rồi, bỏ bữa
sáng cũng không sao, bắt đầu làm thử. Tôi làm thử
đến tháng thứ tám mới tŕnh lên thầy. Tôi nói:
“Thưa thầy! Nay con cũng chỉ ăn bữa
trưa”. Thầy cũng rất hoan hỷ, hỏi: “Đă
bao lâu?” Tôi thưa: “Tám tháng ạ!” “Tinh thần và thể lực
như thế nào?” Tôi đáp: “Con chẳng cảm thấy [có
ǵ khác biệt], hết thảy đều rất b́nh
thường”. Thầy vỗ bàn: “Tốt lắm! Hăy giữ
vĩnh viễn. Suốt đời chẳng phải cầu
cạnh ai, nhu cầu ít ỏi”. Tôi thật sự có ư nguyện
giữ vững chuyện ấy. Về sau, rời khỏi Đài
Trung, đến Đài Bắc giảng kinh, hoằng pháp, gặp
gỡ Hàn quán trưởng. Hàn quán trưởng kiên tŕ: “Không
được! Pháp sư à! Thầy nhất định phải
ăn ba bữa, chẳng thể ăn một bữa
được! Thầy ăn một bữa, trong
tương lai, thể lực không đủ, chúng tôi không
gánh trách nhiệm được!” Làm như thế nào
đây? Phân vân đôi ngả; do vậy, tôi đổi một
bữa thành ba bữa. Khi tôi ăn một bữa, mỗi bữa
là ba chén cơm nhỏ. Được rồi! Do cả nhà
bọn họ yêu cầu, tôi nói: “Được! Tôi ăn
ba bữa. Mỗi bữa ăn một chén, số lượng
vẫn là như vậy”. Một hai ngày không ăn cũng chẳng
sao, đều rất b́nh thường. Đấy là một
thói quen.
Có
phải là có thể hoàn toàn đoạn trừ chuyện
ăn uống hay không? Được chứ! Sắc Giới
Thiên đă đoạn. Tứ Vương Thiên có ăn uống,
Đao Lợi Thiên có ăn uống, càng lên cao [nhu cầu
ăn uống] càng nhạt mỏng. Đến Dạ Ma
Thiên và Đâu Suất Thiên, họ ăn uống bằng cách
ngửi, ngửi hương vị là được rồi,
chẳng cần [thật sự ăn]! Nếu lên cao hơn
nữa, ngửi cũng chẳng cần! Đến Sơ Thiền
Thiên, hoàn toàn đoạn ẩm thực! Do vậy, trong Sắc
Giới Thiên chẳng có ẩm thực. Ẩm thực, nam nữ
chẳng có, đấy là Sắc Giới Thiên. Càng tiến
lên cao hơn, sẽ thật sự chẳng có [ngũ dục].
Do vậy, nhà Phật gọi “tài, sắc, danh vọng,
ăn uống, ngủ nghê” là Ngũ Cái (五蓋, năm điều
che đậy), c̣n gọi là Ngũ Dục (五欲, năm điều
ham muốn). Những điều ấy chẳng b́nh thường;
“b́nh thường” th́ phải là chẳng có những thứ ấy.
Trong kinh điển, đức Phật đă dạy: Từ
Sơ Thiền trở lên, [Ngũ Dục] thảy
đều chẳng có. Nếu chư vị xem kinh Phật
cho nhiều, sẽ hiểu rơ chuyện này. V́ thế, có thể
ĺa [Ngũ Dục].
Các
đồng học! Quư vị phải biết: Nếu phiền
năo của quư vị rất nặng, vọng niệm rất
nhiều, chớ nên thí nghiệm: “Từ hôm nay trở
đi, ta bắt đầu ăn một bữa!” Chẳng
thể được! Chắc chắn quư vị sẽ ngă
bệnh, chịu không nổi, v́ sao? Mỗi ngày quư vị có
nhu cầu tiêu hao nhiều ngần ấy, khi quư vị bổ
sung chẳng đủ, thân thể sẽ bị ảnh
hưởng rất lớn! Hăy nên làm như thế nào? Giảm
thiểu vọng niệm. Vọng niệm của quư vị
càng ít, sẽ cần càng ít năng lượng. Đạo
lư là như thế đó, thường phải hiểu rơ,
hiểu minh bạch đạo lư. Thuở ấy, tôi
thưa tŕnh sự lănh hội như thế lên thầy Lư, thầy
đồng ư, t́nh huống xác thực là như vậy
đó! Do vậy, chuyện này có lư luận, có đạo lư,
chẳng phải là không có lư luận, phải hiểu điều
này! Do vậy, đối với chuyện ẩm thực,
phải chọn lựa. Ăn uống phải đơn giản!
Đối với chuyện này, tôi cảm thấy người
ngoại quốc cũng có ưu điểm. Họ coi trọng
dinh dưỡng, chẳng đặt nặng khẩu vị!
Người Hoa chú trọng dinh dưỡng, lại c̣n phải
coi trọng sắc, hương, vị, chú trọng quá đáng!
Ẩm thực cũng biến thành văn hóa tại Trung
Hoa, điều này khác biệt với quan niệm
phương Tây đôi chút. Họ (người phương
Tây) ăn uống đơn giản, chẳng có lắm thứ
kiểu cọ ngần ấy!
Do
vậy, muốn ĺa kinh sợ th́ phải
ĺa hết thảy ác niệm, ĺa hết thảy ác tư
duy, ĺa hết thảy ngôn ngữ và tạo tác bất thiện.
Đấy là thật sự xa ĺa. V́ thế, Quy là trở về,
tức là trở về tự tánh, trở về bổn thiện.
“Nhân chi sơ, tánh bổn thiện”
(con người thoạt đầu tánh vốn lành). Trong bổn
thiện chẳng có ác niệm, chẳng có ác nghiệp, sẽ
chẳng chiêu cảm khổ báo trong tam đồ lục
đạo, sẽ chẳng có!
Thứ
tư là “vi thú”, “vân hà đắc dữ nhất
thiết chúng sanh vi thú” (làm thế nào để làm chỗ
hướng đến cho hết thảy chúng sanh). Trong phần
Sơ Hồi Hướng [thuộc phẩm Thập Hồi
Hướng của kinh Hoa Nghiêm] đă có nói: “Linh đắc chí ư Nhất Thiết Trí cố” (v́
làm cho đạt đến Nhất Thiết Trí). “Thú” là “thú hướng” (趣向, hướng đến),
cũng có thể nói: Trong cuộc đời này, trong thế
gian này, mục tiêu của chúng ta là ǵ? Phương hướng
là ǵ? “Thú” chính là
phương hướng. Chúng ta có mục tiêu, có
phương hướng, đời người trong thế
gian sẽ có ư nghĩa, sẽ có niềm lạc thú, đó gọi
là “có giá trị, có ư nghĩa”.
Nếu quư vị chẳng có phương hướng, chẳng
có mục tiêu, sẽ sống rất đau khổ, giống
như một chiếc thuyền lạc lối trong biển
cả, chẳng có phương hướng, chẳng có mục
tiêu, trôi giạt trong biển cả, đúng là khổ chẳng
thể nói nổi! Từ tỷ dụ này, chư vị có
thể lănh ngộ đôi chút. Do vậy, nhất định
là phải có phương hướng, phải có mục
tiêu. Nếu quư vị đem vấn đề này hỏi những
kẻ trẻ tuổi trong hiện thời, thậm chí những
người nay đă trưởng thành, quư vị hỏi họ,
[sẽ thấy] họ xác thực là chẳng có mục tiêu,
chẳng có phương hướng. Cả một đời
này, chỉ biết t́m cầu sự sung sướng, chẳng
nề hà thủ đoạn, đúng như ngạn ngữ đă
nói: “Tổn người, lợi
ḿnh”. Nói thật ra, [sẽ là] sống được bữa
nào, hay bữa đó!
Học
Phật, cũng có những tôn giáo tin tưởng nhân quả
ba đời, chúng ta có kiếp trước, có đời
sau. Tôi tin là mỗi người trong một đời
đều có kinh nghiệm rất rơ rệt về chuyện
này. Khi xưa, tôi ở Mỹ, rất nhiều đồng
tu hỏi tôi: “Đối với quá khứ, có ǵ để có
thể chứng minh là chúng ta có quá khứ?” Đến hỏi
tôi vấn đề ấy. Tôi hỏi ngược lại
họ: “Chính quư vị hăy lắng ḷng suy nghĩ cẩn thận,
trong một đời này, có bao giờ quư vị gặp trường
hợp lần đầu tiên đến một nơi, xác
thực là trước nay chưa hề đến đó, mới
đến lần đầu, bỗng dưng cảm thấy
chỗ ấy rất quen thuộc, có cảm giác ấy hay
không?” Rất nhiều người đều nói có. Tôi nói:
- Nếu chẳng có đời trước, sẽ giải
thích hiện tượng này chẳng xuôi! Quư vị cảm thấy
chỗ ấy rất quen thuộc, chắc chắn là trong
đời quá khứ, quư vị đă từng sống ở
đó. Không nhất định là thân ǵ, có thể là thân
người, cũng có thể là thân quỷ thần,
cũng có thể là thân súc sanh. Nói chung, quư vị đă từng
ở nơi đó, mới có cảm giác quen thuộc đối
với chỗ đó như vậy. Chuyện ấy đối
với rất nhiều người không chỉ là một lần.
Chúng ta du hành ở bên ngoài, bỗng thấy nơi ấy rất
quen thuộc, rất thân thuộc. Nếu nói là chẳng có
đời trước, sẽ chẳng thể nói xuôi tai
chuyện này được!
Tôi
c̣n gặp một vị đồng học, tức cư
sĩ Thái Văn Hùng, nay c̣n đang sống ở Mỹ, nghe
nói hiện thời ông ta đă dọn sang Gia Châu (California),
đă rất nhiều năm chúng tôi không liên lạc. Thuở
ấy, ông ta làm hội trưởng của hội Phật
giáo Đạt Lạp Tư (Dallas). Ông ta có kể cho tôi nghe
một chuyện, là kinh nghiệm của chính bản thân ông
ta. Năm xưa, ông ta đến Mỹ kinh doanh, cùng các bạn
lái một chiếc xe đến vùng phụ cận của
Cựu Kim Sơn (San Francisco) ở California. Có lần họ
lạc đường, lái vào một tiểu trấn (town).
Vừa vào tiểu trấn ấy, ông ta cảm thấy rất
quen thuộc, liền bảo người bạn đang lái
xe: “Ông hăy chạy theo con đường nào đó”. Hầu
như đường phố nào ông ta cũng đều có
thể nói vanh vách. Lại cũng có thể kể tên rất
nhiều kiến trúc. Sau khi lái vào đó, quả nhiên chẳng
sai, giống như ông ta rất quen thuộc, nghiễm nhiên
ghi nhớ rơ ràng ngần ấy! Ông ta bảo tôi: “Chuyện
đă hơn mười năm rồi”. Xác thực là lần
đầu tiên ông ta đến đó, mọi người
đều là lần đầu tiên [đến đó],
trước nay chưa hề đi qua! Ông hỏi: “V́ sao có hiện
tượng ấy?” Hỏi tôi, tôi đáp: “Nhất định
là trong đời quá khứ ông đă ở đó rất
lâu, có thể là ngay trong đời trước, ông chẳng
làm chuyện ǵ xấu. Đời này lại được
làm thân người, vẫn kinh doanh phát đạt. Thuở
ấy, có rất nhiều người Hoa đến Mỹ
đăi vàng. Trước kia, Cựu Kim Sơn có mỏ vàng,
[ông đến đó] nhằm thời đang khai thác mỏ
vàng”. Tôi nói: “Có thể ông là thợ đào vàng”. Ông ta cười
x̣a: “Có thể lắm chớ!” Chuyện này nói rơ điều
ǵ? Xác thực là có đời trước. “Nếu ông chẳng
có đời trước, giải thích chuyện này như
thế nào đây? Chẳng có cách nào giải thích!” Ông ta có thể
hướng dẫn đường sá, chỉ ra trên
đường phố ấy có những kiến trúc [như
thế nào], quả nhiên những kiến trúc ấy vẫn
c̣n đó. V́ thế, [ắt là phải] có đời trước.
Có
đời trước, có đời này, sẽ có đời
sau. Vậy th́ quư vị phải nghiêm túc nghĩ tưởng
cho đời sau! Chúng ta phải có một mục tiêu rơ rệt,
xác định. Đức Phật đă chỉ cho chúng ta phương
hướng, mục tiêu thật sự trong đời này là
ǵ? Cầu trí huệ chân thật! Chuyện này chắc chắn
chẳng sai! Chỉ có trí huệ th́ mới có thể giải
quyết hết thảy vấn đề. Do trí huệ, sẽ
có thể liễu giải chân tướng của vũ trụ
và nhân sinh, có thể giải quyết vấn đề. Phương
hướng trong Phật pháp là trí huệ, mục tiêu
cũng là trí huệ. Quư vị thấy đối với
người học Phật, trong kinh điển có một
câu là “quy thú” (歸趣, hướng
về, trở về), đó là chỗ quy thú của người
học Phật. Câu ấy chính là A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề, đấy là phiên âm tiếng Phạn.
Thật ra, có thể dịch, v́ sao không dịch? Do tôn trọng,
nên không dịch. Đấy là phương hướng và mục
tiêu chung cực trong Phật pháp, dịch sang nghĩa tiếng
Hán là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ở đây
nói là Nhất Thiết Trí. “Giác”
là giác ngộ, hiểu rơ. Giác ngộ chánh xác, quyết định
chẳng có sai lầm, quyết định chẳng lệch
lạc; do vậy, gọi là Chánh Giác. Chánh Đẳng Chánh
Giác cao hơn một cấp, Đẳng (等) là ǵ? Bằng với Phật.
Bằng Phật, đương nhiên chẳng phải là Phật,
vẫn kém Phật một bậc! Mục tiêu chung cực là
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đấy là viên
măn. Do vậy, sở cầu trong Phật pháp là trí huệ viên
măn rốt ráo, há c̣n có thể sai lầm ư?
[Trí
huệ được nói] trong kinh Hoa Nghiêm là trí huệ viên
măn rốt ráo, giảng rơ chân tướng sự thật của
vũ trụ, khắp pháp giới hư không giới. Quư vị
thấy hai vị Bồ Tát ở đây một hỏi, một
đáp, đều nhằm bảo chúng ta: Chẳng có trí huệ,
sẽ chẳng thể giải quyết những vấn
đề trong xă hội hiện thời! Quư vị có trí huệ
th́ mới có thể giải thích chánh xác. Do vậy, từ
đấy, mới ĺa khổ được vui. V́ thế,
nếu cuộc đời con người có phương
hướng, có mục tiêu, quư vị sẽ chẳng sống
uổng một đời, sẽ có cảm giác thành tựu.
Người hiện thời gọi “cảm giác thành tựu”
là “giá trị, ư nghĩa”. Quư vị có thành tựu! Đấy
là thành tựu chân thật, chẳng bị tiêu mất theo vật
chất. Bất cứ thành tựu nào trong thế gian
cũng đều bị tiêu mất, chứ trí huệ chẳng
tiêu mất. Đó là thành tựu chân thật. A! Nay đă hết
thời gian rồi!
***
Chư
vị đồng học, xin mọi người hăy ngồi
xuống. Chúng ta xem tiếp câu thứ năm:
(Kinh) Vi cự.
(經)為炬。
(Kinh: Là
đuốc).
“Vân hà đắc dữ nhất
thiết chúng sanh vi cự” (làm thế nào để là
đuốc cho hết thảy chúng sanh). “Cự” (炬) là nói tới
cây đuốc, đuốc có thể chiếu sáng. Trong phần
Sơ Hồi Hướng, đă giảng: “Phá bỉ nhất thiết vô minh ám cố” (V́ phá hết
thảy tối tăm vô minh cho họ). Những câu [chánh
kinh] sau đó đều nói đến trí huệ. Nói thật
ra, đối với “vi y, vi cứu”
(làm chỗ nương tựa, làm chỗ cứu vớt)
đă nói trong phần trước, nếu nói đến chỗ
viên măn rốt ráo, hết thảy đều nhằm hiển
thị trí huệ chân thật. Trí huệ chẳng phải cầu
từ bên ngoài, mà là vốn sẵn có trong tự tánh. Nó là vốn
sẵn có, chính là khái niệm “nhân
tánh bổn thiện” (tánh con người vốn lành)
trong nền giáo học truyền thống của Trung Hoa.
Câu đầu tiên trong Tam Tự Kinh, “nhân chi sơ, tánh bổn thiện” (con người
thoạt đầu tánh vốn lành), chính là quan niệm trọng
yếu trong nền giáo học truyền thống Trung Hoa. Giáo
dục được hưng khởi từ chỗ này.
V́
sao phải giáo dục? Con người đă mê mất bản
tánh, đă mê mất bổn thiện, đă nhiễm những
tập khí bất thiện. Do vậy, cần phải giáo dục.
Giáo dục chẳng nhằm mục đích nào khác, chỉ nhằm
giúp cho con người từ mê hoặc
và bất thiện mà quay lại, quay về bản tánh vốn
lành, giáo dục đă viên măn. Quan niệm này hoàn toàn giống
như Phật pháp. Người Hoa gọi là “trở về bổn thiện”,
Phật pháp bảo “trở về
tự tánh”. Tự tánh vốn lành, bởi lẽ, nó có trọn
đủ trí huệ, trí huệ ấy chẳng do từ bên
ngoài mà có! Sau khi đă mê mất, [dường như] chẳng
có trí huệ, trí huệ đă biến thành t́nh thức, tham,
sân, si, mạn, thất t́nh, ngũ dục. Quư vị phải
biết: Bản thể của chúng là trí huệ. Sau khi
đă mê, trí huệ biến thành những thứ ấy.
Đă giác ngộ, do giác ngộ, những thứ ấy toàn
là trí huệ.
V́
lẽ này, trong Phật pháp chỉ có mê và ngộ. Ngoài mê và ngộ
ra, chẳng có vật chi cả! Đấy là “vốn chẳng có một vật”
như Đàn Kinh đă nói. Ngoài mê và ngộ ra, vốn chẳng
có một vật. Mê th́ là phàm phu, ngộ bèn là Phật, Bồ
Tát. Phật, Bồ Tát và phàm phu chẳng hai, chẳng khác.
Sau khi đă ngộ, trí huệ và đức tướng chẳng
cầu mà tự đạt được! V́ sao? Vốn
có, c̣n cầu chi nữa? Sau khi đă mê, những thứ ấy
đều bị vùi mất, biến thành ǵ? Biến thành y
báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới. Chúng ta
mê càng sâu, sẽ biến thành lục đạo luân hồi.
Mê sâu hơn nữa, sẽ biến thành tam đồ địa
ngục, hết sức kinh sợ! V́ thế, Bồ Tát
nương theo nguyện lực của chính ḿnh “vi thú, vi cự” (làm chỗ
hướng về, làm đuốc). Chúng ta có phương
hướng nhất định, có mục tiêu nhất
định, điều chúng ta mong cầu là Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác.
Câu
này đă được kinh điển (phẩm Thập Hồi
Hướng của kinh Hoa Nghiêm) giải thích là “phá bỉ nhất thiết vô minh
ám cố” (v́ phá hết thảy tối tăm vô minh cho họ).
Chữ “bỉ” (彼) chỉ chúng sanh trong mười
pháp giới chưa phá vô minh! Phật [pháp giới] trong mười
pháp giới đă phá chấp trước, phá phân biệt,
nhưng chưa phá vô minh. V́ thế, nh́n câu này từ cảnh
giới, sẽ là cảnh giới cao nhất trong mười
pháp giới. Sau khi đă phá vô minh, họ sẽ thoát ĺa
mười pháp giới. Đấy gọi là “vĩnh viễn
ĺa hết thảy các nỗi khổ trong thế gian”, “hết thảy thế gian” là
nói tới mười pháp giới. Người ấy trở
về Hoa Tạng, trở về Cực Lạc, trở về
Nhất Chân pháp giới, [khi ấy], “vi y, vi cứu” mới đạt tới viên măn.
Áp
dụng câu này vào hiện tiền, [sẽ là] trước hết
phải phá vô minh của chính ḿnh. Chính ḿnh chưa phá vô minh,
làm thế nào để có thể giúp những người
khác phá vô minh cho được? Đây là đạo lư nhất
định. Câu này đúng như cổ thánh tiên hiền Trung
Hoa đă nói: “Hành hữu bất
đắc, phản cầu chư kỷ” (Có điều
ǵ chẳng làm được, hăy quay lại xét ḿnh). Chúng ta
giúp đỡ người khác, gặp chướng ngại,
hăy quay lại [phản tỉnh]: Chướng ngại ấy
chẳng từ bên ngoài, nhất định là ở nơi chính
ḿnh. Bản thân chúng ta chẳng đủ trí huệ và đức
năng, mới sanh ra chướng ngại. Nếu trí huệ
và đức năng trọn đủ, lấy đâu ra chướng
ngại? Bất luận là chướng ngại về vật
chất hay là chướng ngại về nhân sự, đều
chẳng có ngoại lệ. Do vậy, có thể biết: Tu huệ,
tu đức quan trọng dường ấy. Đối với
tu huệ và tu đức, trong Phật pháp thường nói
ba cương lănh là Giới, Định, Huệ, thực
hiện từ chỗ nào? Khởi đầu từ Giới,
tức là tŕ giới. Đối với vô minh, phá một phẩm
vô minh là điều chúng ta niệm niệm mong cầu,
nhưng nhất định phải thực hiện từ
tŕ giới. Phá một phẩm vô minh, giống như chúng ta
có ước nguyện to lớn là giành được học
vị Tiến Sĩ, phải thực hiện từ chỗ
nào? Vẫn là phải học từ lớp nhỏ nhất
trong trường mẫu giáo, sau đó học Tiểu Học,
Trung Học, Đại Học, Cao Học, quư vị mới
có thể thực hiện được nguyện vọng
ấy. Tŕ giới chính là lớp học của trẻ mẫu
giáo, chớ nên coi thường!
Hiện
thời, đối với chúng ta, Giới học trở
thành vấn đề! Mọi người đều biết
tánh chất trọng yếu của nó, đều biết
nói [Giới là trọng yếu]. Trước khi đức
Thế Tôn nhập diệt, Ngài đă dạy các đệ tử
đời sau: “Lấy giới
làm thầy, lấy khổ làm thầy”. Người hiện
thời chẳng thể chịu khổ, chú trọng hưởng
thụ, chẳng thể tŕ giới, nguyên nhân là ǵ? Chúng tôi
cũng đă suy xét rất sâu. So sánh giữa hiện thời
và thuở trước, trước kia có gia giáo, có Nho giáo; do
vậy, họ (người thuở trước) có căn
cội, hiện thời chẳng có gia giáo, Nho giáo cũng chẳng
có, chẳng có căn cội! Chẳng có căn cội, con
người khởi tâm động niệm đều là trái
nghịch Tánh Đức một trăm tám mươi độ,
biến thành ích kỷ, chỉ biết trước mắt,
tầm nh́n hết sức hạn hẹp! Chỉ có hiện
tiền, đến nỗi năm sau, hay năm sau nữa,
chẳng hề màng tới, chỉ quan tâm đến lợi
ích trước mắt. Nguy hiểm lắm thay! Đấy
là do vô minh quấy rối, thứ ǵ họ cũng đều
chẳng hiểu rơ. V́ thế, căn cội của chuyện
giáo học và tu hành xác thực là ở trong Đệ Tử
Quy, trong Thập Thiện Nghiệp Đạo, trong Sa Di Luật
Nghi. Ấn Quang đại sư suốt đời đề
xướng giáo dục nhân quả, [v́ nhân quả giáo dục]
hết sức trọng yếu! Nay trên quốc tế, chúng
tôi nhắc nhở mọi người, giới thiệu
giáo dục luân lư, giáo dục đạo đức, giáo dục
nhân quả, giáo dục tôn giáo, bốn loại ấy! Bốn
loại giáo dục ấy là một Thể, chẳng thể
tách ĺa, nhất định phải nói rơ ràng, nói minh bạch
khiến cho người khác giác ngộ. Nhất định
phải thực hiện từ Đệ Tử Quy, nhập
môn từ Thập Thiện Nghiệp Đạo, chúng ta mới có căn cội, mới có
cơ sở.
Theo
mẫu mực ấy, do đă có phương hướng,
có mục tiêu, bèn tiến cao hơn từng tầng một,
trước hết là phá Kiến Tư, kinh Hoa Nghiêm [gọi
Kiến Tư] là chấp trước. Khi nào chúng ta có thể
đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất
thế gian, thật sự là tùy duyên, chẳng phan duyên, những
điều tôi vừa nói đều là căn bản nhất.
Ắt phải buông xuống hết thảy những ư niệm
đối lập, khống chế, chiếm hữu đối
với người, sự, vật. Nếu chẳng buông xuống
ba ư niệm ấy, sẽ chẳng thể vào cửa Đại
Thừa! Đừng nói là [cửa] Đại Thừa, cửa
Nho và Đạo cũng chẳng vào được! Đối
với Nho và Đạo, chỉ cần buông xả một
phần, Đại Thừa th́ phải triệt để buông
xuống mới có thể khế nhập, mới có thể
đạt tới “ĺa hết thảy tối tăm vô minh”,
thật sự nêu gương tốt cho hết thảy
chúng sanh. “Học vi nhân sư,
hành vi thế phạm” (Học làm thầy người,
hành vi làm khuôn mẫu cho cơi đời). Ở đây, những
câu như làm đuốc, làm sự sáng, làm đèn, làm người
hướng dẫn, đều chẳng ngoài hai câu này: “Nêu gương tốt cho hết
thảy chúng sanh, giúp hết thảy chúng sanh trở về
tự tánh, [tức là] giúp hết thảy chúng sanh trở về
bổn thiện”. Kế đó là câu thứ sáu.
(Kinh)
Vi minh.
(經)為明。
(Kinh:
Làm sự sáng).
“Vân hà đắc dữ nhất
thiết chúng sanh vi minh” (Làm thế nào để là sự
sáng cho hết thảy chúng sanh). Trong phần Sơ Hồi
Hướng (địa vị thứ nhất của Thập
Hồi Hướng) đă nói: “Linh
đắc trí quang diệt si ám cố” (V́ khiến cho [hết
thảy chúng sanh] được ánh sáng trí huệ soi thấu
diệt hết si ám). Đối với ba độc tham,
sân, si, chỉ có quang minh trí huệ là có thể chuyển phiền
năo thành Bồ Đề, chuyển biến tham, sân, si thành
Giới, Định, Huệ. Do vậy, Giới, Định,
Huệ là Tánh Đức, Nho gia gọi Giới, Định,
Huệ là “bổn thiện”.
Ắt cần phải là quang minh trí huệ th́ mới có thể
làm được. Trong quá tŕnh tu học, quư vị nhất
định phải biết: “Nhân
Giới đắc Định, nhân Định khai Huệ”.
V́ lẽ này, quư vị chẳng có Giới, lấy đâu ra
Định? Chẳng có Định, quyết định là
chẳng có trí huệ. Trong kinh, đức Phật thường
sánh ví tâm như nước, chuyện này rất có ư
nghĩa! Đức Phật đă tỷ dụ rất hay
khéo! Quư vị thấy khi nước lặng, nó giống
như một tấm gương, tỏa ánh sáng, soi rơ núi,
sông, đại địa trong ấy. Đấy chính là trí
quang diệt si ám. Nếu nước bị gió thổi gợn
sóng, sóng trào lên, tác dụng chiếu hoàn toàn bị mất
đi. Gió là ǵ? Cảnh giới! Nhà Phật nói “gió cảnh giới vừa động”,
tâm thủy của chúng ta bèn nổi sóng cuồn cuộn!
Quư
vị thấy đó: Thuận cảnh, thiện duyên, quư vị
liền sanh khởi tâm hoan hỷ. Hễ hoan hỷ, sẽ
chẳng thanh tịnh; hoan hỷ là cuộn sóng! Đối
với nghịch cảnh, ác duyên, sanh tâm sân khuể; sân khuể
là sóng to, gió lớn. Người đang trong lúc hoan hỷ
hoặc trong lúc sân khuể, đánh mất lư trí, nói năng
sẽ chẳng thành lề lối ǵ! V́ thế, trong thánh huấn
của đạo Hồi có một điều như sau: “Trong cuộc sống, dù phẫn
nộ hay hoan hỷ, đều phải nói lời công bằng”.
Các vị hăy suy ngẫm sẽ thấy câu nói ấy rất
có ư vị. Kẻ đang hoan hỷ, hoặc đang giận
dữ, sẽ đánh mất cái tâm công bằng, chánh trực,
hoàn toàn là ǵ? Xử sự theo t́nh cảm. Cảm t́nh xung
đột sẽ gây ra rất nhiều ác nghiệp. Trong cảnh
giới ấy mà c̣n có thể nói lời công bằng, tức
là người ấy phải có mấy phần công phu trấn
định, c̣n có thể kiềm chế. Hồi giáo nói
như thế đó!
Trong
cuộc sống hằng ngày, hai loại cảnh giới ấy
luôn hiện hữu. Chúng hiện hữu, rất tốt!
Công phu tu hành của chúng ta được khảo nghiệm
ngay trong các cảnh giới ấy. Thuận cảnh, thiện
duyên, do tập khí từ vô thỉ kiếp tới nay, có phàm
phu nào chẳng động tâm? Có ai mà chẳng xúc động?
Hy vọng tâm quư vị sẽ động với biên độ
nhỏ hơn một chút. Đối với nghịch cảnh,
ác duyên, hy vọng quư vị nhẫn nại một chút. Khi ấy,
chính là tu Nhẫn Nhục Ba La Mật. Nhẫn trong thuận
cảnh, chẳng dấy ḷng tham luyến; nhẫn trong nghịch
cảnh, chẳng dấy ḷng sân khuể. Nói cách khác, khi gió cảnh
giới dấy động, tu tâm b́nh đẳng, tu tâm thanh
tịnh, tu tâm từ bi. Trong một ngày, các cảnh giới
ấy xảy ra chẳng biết bao nhiêu lượt! Thật
sự chịu dụng công, chúng ta thấy các vị đại
đức thời cổ, quư vị đọc Cao Tăng
Truyện hoặc Cư Sĩ Truyện sẽ thấy:
Người thật sự tu hành, lợi căn, dăm ba
năm sẽ chẳng bị cảnh giới ảnh hưởng.
Bất luận cảnh giới như thế nào, các Ngài
đều có thể giữ cho tâm b́nh khí ḥa, chẳng bị
cảnh giới bên ngoài quấy nhiễu, đấy chính là
công phu. Nho gia gọi chuyện này là “tu dưỡng”.
[Nói]
“người nào đó có tu
dưỡng”, tu dưỡng là ǵ? Chính là ở trong cảnh
giới, tâm b́nh khí ḥa, chẳng bị xúc động, như
vậy th́ mới có thể thành tựu Định Huệ.
Tiểu định, tiểu trí huệ; đại định,
đại trí huệ. Trước hết, phải học
thấy thấu suốt; v́ sao kẻ b́nh phàm chẳng thể
nhẫn? Họ chẳng liễu giải những chân tướng
sự thật này. Chân tướng sự thật là ǵ? Kinh Kim
Cang nói rất hay: “Phàm những
ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”, “hết thảy pháp hữu vi, như
mộng, huyễn, bọt, bóng”. Quư vị chấp trước
chúng để làm ǵ? Không chỉ là chẳng chấp trước,
mà phân biệt cũng chẳng có, quư vị thấy các hiện
tướng (現相,tướng
được hiện ra) trong cảnh giới là mộng, huyễn,
bọt, bóng. Quư vị thấy hết thảy chúng sanh đang
làm ác, sẽ thấy nhân quả báo ứng. Đối với
hiện tượng luân hồi trong mười pháp giới,
chính mắt quư vị thấy rơ ràng, rành rẽ, minh bạch.
Chúng sanh khổ nạn đều có Phật Tánh, bản
tánh của họ vốn lành, cớ sao lại trở thành
nông nỗi này? Không chỉ là chớ nên trách móc, mà c̣n phải
sanh ḷng thương xót độ thoát. Họ tạo nghiệp,
chẳng có cách nào khác. Phật, Bồ Tát đều chẳng
thể chịu thay, họ nhất định phải tiếp
nhận. Thiện có thiện quả, ác có ác báo; nhân duyên quả
báo, chẳng sai sẩy tí nào! V́ sao họ dám làm? Do chẳng liễu
giải chân tướng sự thật. Liễu giải chân
tướng sự thật, chẳng có kẻ nào dám làm! Lợi
ích nhỏ nhoi trước mắt, mai sau chịu khổ to
lớn. V́ thế, cổ nhân nói: “Bị
thua thiệt là phước”. Chịu thua thiệt trước
mắt đôi chút, sẽ tiêu tai, miễn nạn!
Hơn
nữa, nhân sĩ thiện tâm đều là [những người]
phát khởi thiện tâm, vẫn bị kẻ khác lừa gạt,
vẫn bị kẻ khác hăm hại, đấy là chuyện
như thế nào? Thảy đều là có nhân quả. Ở
trong cảnh giới ấy, quư vị có thể hoát nhiên
đại ngộ, thật sự có thể buông xuống, buông
xuống tham, sân, si, mạn, công phu đấy nhé! Chuyện
này giống như học hành rồi đi thi, cảnh giới
hiện tiền nhằm khảo nghiệm ḥng tiêu nghiệp
chướng cho quư vị. Ta mong làm chuyện tốt, từ
xưa tới nay, ngạn ngữ thường nói: “Hảo sự đa ma” (好事多磨, làm việc tốt
thường có lắm nỗi gian nan). V́ sao có nhiều thử
thách? Đời đời kiếp kiếp trong quá khứ,
chúng ta cũng đă làm chẳng ít những chuyện quá trớn
đối với hết thảy chúng sanh. Đời này gặp
gỡ, hễ gặp gỡ, đương nhiên là phải
trả báo. Chúng ta hiểu rơ nhân duyên quả báo này bèn hoan hỷ
tiếp nhận. Sau khi đă trả báo, về sau gặp lại,
họ sẽ không lừa gạt, mà cũng chẳng hăm hại
quư vị nữa! V́ sao? Báo đền trả hết rồi!
Ở đây, đúng như cổ nhân đă nói: “Các nhân nhân quả, các nhân phụ
trách” (nhân quả của người nào, người ấy
hứng chịu). Chúng ta chẳng so đo, nâng cao chính ḿnh, do
đó mà nâng cao cảnh giới.
Cứu
độ chúng sanh, chúng sanh khó độ. Kinh Địa Tạng
đă nói rất hay: “Diêm Phù
Đề chúng sanh, cang cường nan hóa” (Chúng sanh trong
Diêm Phù Đề ương ngạnh, khó giáo hóa), nhất là
trong thế gian hiện thời! Ương ngạnh, khó hóa
độ, có cần phải giúp đỡ họ hay không?
Phải! Chẳng giúp đỡ sao được? Họ
đáng thương lắm! Quư vị giúp đỡ họ,
họ c̣n muốn phá quư vị, chẳng cảm ơn, mà c̣n
xem quư vị như oan gia đối đầu! Đấy
là chuyện tất nhiên, v́ sao? Trong đời này, họ
chưa hề thấy người tốt thật sự!
Quư vị là người tốt thật sự, lẽ nào họ
chẳng cảm thấy quái lạ? Lẽ nào họ chẳng
hoài nghi? Đấy là ǵ? Ngu si, chẳng có trí huệ! Do vậy,
chúng ta phải dùng ánh sáng trí huệ của chính ḿnh để
giúp đỡ họ, chớ nên có kiến thức b́nh phàm
giống như họ! Phải có ḷng nhẫn nại, phải
tốn một thời gian dài, chẳng thể là trong một
thời gian ngắn [mà mong cảm hóa thành công] được!
Cảm hóa họ trong một thời gian dài, khiến cho họ
“quay đầu là bờ”,
quư vị sẽ biến kẻ ác thành người tốt.
Biến một kẻ “không điều ác nào chẳng làm” thành
thiện nhân. Đấy là công đức chân thật, đấy
là giáo học thành công. Người như vậy quay đầu,
cũng sẽ cảm động khá nhiều người
quay đầu. V́ thế, theo đuổi [công tác] giáo dục
chẳng phải là chuyện đơn giản. Chúng ta lại
xem câu kế tiếp:
(Kinh)
Vi chiếu.
(Kinh:
Làm sự chiếu sáng).
Trong
phần Sơ Hồi Hướng [của kinh Hoa Nghiêm], chẳng
dùng chữ Chiếu (照), mà dùng chữ
Đăng (燈). [Kinh chép] “tác đăng” (làm đèn), “tác đăng” có ư nghĩa tương thông với
“vi chiếu”. “Linh trụ cứu cánh thanh tịnh
xứ cố” (V́ để khiến cho chúng sanh trụ
nơi thanh tịnh rốt ráo). Người thế gian
thường nói: “Làm tháp đèn
cho người lạc đường”. Trong hàng hải,
tàu bè hiện thời có nhiều máy móc, chứ xưa kia, chẳng
có những thứ máy móc ấy, tháp đèn (tháp hải
đăng) là một công cụ hết sức quan trọng.
Đối với câu “linh trụ
cứu cánh thanh tịnh xứ cố”, các đồng học
Tịnh Độ chúng ta trông thấy câu này, nhất định
sẽ nghĩ đến thế giới Cực Lạc, chỗ
thanh tịnh rốt ráo chính là thế giới Cực Lạc.
C̣n trong thế gian này, [nơi thanh tịnh rốt ráo] là ǵ?
Nơi rốt ráo thanh tịnh là nơi có Phật pháp! Hiện
thời, có nhiều nơi có Phật pháp hay chăng? Trên
h́nh thức th́ rất nhiều, chẳng có thực chất!
Cớ sao nói như vậy? Mỗi người học Phật
ắt phải thực hiện giáo huấn của đức
Phật. Không nói chi khác, trong giáo pháp Đại, Tiểu Thừa,
điều mục tu hành căn bản trong Phật pháp là Thập
Thiện Nghiệp Đạo, ai nấy đều có thể
tu Thập Thiện, chỗ ấy chính là “thanh tịnh xứ” đúng như đức Phật
đă dạy. Đương nhiên là mức độ thanh
tịnh trong thế gian chẳng bằng nhau, nói chung là chúng
ta sẽ đạt được thanh tịnh.
Người
học Phật trong hiện thời, nói thật thà, mê tín
đông lắm, đến chùa thắp nhang, lạy Phật,
v́ sao? V́ [mong cầu] thăng quan, phát tài, v́ cầu được
che chở b́nh an, đều là v́ những thứ ấy! Phật
là ǵ, hoàn toàn chẳng biết! Đấy là mê tín. Họ cầu
Phật, lạy thần, có đạt được những
điều tốt lành hay chăng? Chẳng
đạt được, toàn là tự ḿnh an ủi chính
ḿnh đó thôi! [Họ kháo nhau]: “Chỗ này Phật rất thiêng,
rất cảm ứng”. Hễ cầu mà thật sự
đạt được là do trong mạng đă định
sẵn, chẳng liên quan ǵ đến chuyện lạy thần,
cầu Phật! Nếu thật sự linh thiêng như vậy,
[ắt phải là] một trăm người cầu, thảy
đều đạt được. Đấy mới là
thật! Một trăm người cầu mà chỉ
có một, hai kẻ đạt được, những kẻ
khác đều chẳng đạt được, chẳng
lẽ Phật, Bồ Tát c̣n có ḷng thiên vị ư? Do ưa
thích hai kẻ ấy, các Ngài bèn ban cho. Chẳng ưa gă kia,
không ban cho! Há có lẽ ấy? Chẳng có lẽ ấy! Trung
Hoa có một định nghĩa về thần minh: “Chánh trực th́ gọi là thần”.
Chánh trực th́ có lẽ nào chẳng công bằng?
Ngay
cả kinh Cổ Lan (Qur’an) của Y Tư Lan (Islam) cũng
nói, các tín đồ đạo Hồi đều tin tưởng:
Tất cả hết thảy mọi người trong thế
gian này, thọ mạng trong một đời dài hay ngắn,
giàu sang hay nghèo hèn, đều do Thượng Đế ấn
định. Cớ sao Thượng Đế cho kẻ này phú
quư, cho người kia nghèo hèn? Có phải là Thượng
Đế thiếu công bằng hay không? Thượng Đế
nói rất khéo, họ (tín đồ đạo Hồi) không
gọi là Thượng Đế, mà gọi là Chân Chúa
(Allah). Allah đă nói rất hay: “Đối
với vạn vật, ta đều dựa theo tiền
định để sáng tạo chúng”. V́ vậy, đạo
Hồi có sáu niềm tin; trong sáu niềm tin, có một điều
là “tin vào tiền định”,
vẫn là nói đến nhân quả ba đời! Thượng
Đế quyết định quư vị đời này giàu
sang hay nghèo hèn như thế nào? Dựa vào tiền định!
Tiền định là nghiệp do chính quư vị đă tạo.
Quư vị tạo thiện nghiệp, Thượng Đế
ban cho quư vị phú quư. Quư vị tạo ác nghiệp, sẽ
cho quư vị chịu tội! Thượng Đế rất
công bằng, chẳng có một chút tâm riêng tư nào!
Tại
Trung Hoa, điều này được gọi là giáo dục
nhân quả. Người Hoa cũng nói đến trời,
đất, cũng nói đến Thượng Đế,
thiên vương, địa phủ Diêm Vương. Kinh
Địa Tạng đă nói rất rơ ràng: Diêm Vương
cũng rất từ bi, chẳng phải là Ngài muốn quư
vị chịu các h́nh phạt. Các h́nh phạt ấy là ǵ? Tự
làm, tự chịu. Đối với điều này, quả
thật xưa kia chúng tôi cũng có nghi hoặc. Đến viếng
miếu Thành Hoàng, nh́n Biến Tướng của Thập
Điện Diêm Vương. Thuở đó, những tượng
tôi thấy trong điện Diêm Vương đắp bằng
đất, đắp rất khéo, đó là nghệ thuật
cao độ, rất sống động! Tạo tội
nghiệp như thế nào, sẽ chịu quả báo như
thế ấy. Đă trông thấy, sẽ khắc sâu ấn
tượng, khiến cho mọi người khởi tâm
động niệm sẽ đều cảnh giác, không dám
làm chuyện xấu, không dám dấy một ác niệm. V́ sao?
Sẽ nghĩ đến quả báo ở ngay trước mắt,
cái được chẳng bù nổi cái mất, chẳng dám
làm! Quư vị biết điện Diêm Vương đă cứu
bao nhiêu chúng sanh. Chỉ cần khiến cho chúng sanh chẳng
dám tạo tội nghiệp, là đă cứu họ. V́ sao?
Trong tương lai, họ chẳng đọa vào tam đồ,
chẳng hứng chịu các khổ báo! V́ thế, đối
với dân tộc Trung Hoa, miếu Thành Hoàng đă cống hiến
rất lớn, vô lượng công đức, rất đáng
tán thán!
Ai
nấy đều chẳng dám làm ác, thiên hạ thái b́nh, nơi
ấy chính là chốn thanh tịnh! Do vậy, trong hiện
tiền, xă hội hiện thời là một xă hội động
loạn, hết sức hỗn loạn, thiên tai nhân họa xảy
ra liên tiếp chẳng cùng tận, nhân dân rất khổ, chẳng
biết nguyên nhân của khổ là ǵ? Nguyên nhân của khổ
là ǵ vậy? Không thanh tịnh, tâm không thanh tịnh. Đấy
cũng chính là như trong kinh Phật thường nói: “Cảnh chuyển theo tâm”. Ḷng
người chẳng thanh tịnh, chúng ta sống trong hoàn cảnh,
sống trong xă hội chẳng thanh tịnh. V́ thế, trong
Tịnh Tông thường nói: “Tâm
tịnh, ắt cơi Phật tịnh”. Nếu chúng ta muốn
xă hội an định, thế giới ḥa b́nh, hăy làm từ
chỗ nào? Khởi sự làm từ cái tâm thanh tịnh. Tâm
thanh tịnh, cảnh giới bên ngoài sẽ thanh tịnh, tự
nhiên là thiên tai nhân họa chẳng có.
Cũng
có lẽ nói [tâm tịnh] sẽ chẳng có nhân họa th́ [người
ta] vẫn có thể tin tưởng, [nhưng họ sẽ
hoài nghi] lẽ nào tai hại thiên nhiên cũng chẳng có luôn?
Thật đấy! Tai họa thiên nhiên biến hóa thuận
theo ḷng người. Bởi lẽ, ngay cả thiên nhiên cũng
là sống động, chẳng phải là chết cứng.
Tuy nó chẳng có phân biệt, chẳng có chấp trước,
mà cũng chẳng có vọng tưởng, nhưng nó cảm
ứng thuận theo ḷng người. Hễ ḷng người
có cảm, nó bèn có ứng! Nó sẽ dấy lên sự biến
hóa. Ḷng người tốt lành, núi, sông, đại địa
biến thành hết sức đẹp đẽ, dành cho quư
vị hưởng thụ, nó bèn hiến dâng, cúng dường.
Thực vật cũng chẳng phải là ngoại lệ, quư
vị đối xử tốt với nó, nó cũng bằng
ḷng cúng dường quư vị. Giới luật của nhà Phật
[có dạy] “tỳ-kheo thanh tịnh
chẳng giẫm đạp cỏ tươi”, hiển
thị ḷng từ bi. Ngoại trừ chỗ ấy chẳng
có đường đi, ắt đành phải đi qua đó
th́ được. Nếu có đường, sẽ đi theo
đường đó, chẳng thể đi trên cỏ, tôn
kính nó! Trong ấy có đạo lư rất sâu, hiển thị
tâm thanh tịnh là trí huệ. Kế đó…
(Kinh)
Vi đạo.
(經)為導。
(Kinh:
Là sự dẫn dắt).
“Đắc dữ nhất thiết
chúng sanh vi đạo” (Được làm người dẫn
dắt hết thảy chúng sanh), “đạo”
(導) là “đạo sư” (導師, người
hướng dẫn). [Phẩm Thập Hồi Hướng
nói] “linh đắc cứu cánh
an ổn xứ cố” (v́ khiến cho đạt
được chỗ an ổn rốt ráo). Quư vị phải
hướng dẫn đại chúng đến chỗ rốt
ráo an ổn. So sánh với xă hội hiện tại, trước
kia chưa hề có [t́nh trạng] xă hội [rối ren, khủng
bố như trong] hiện tại. Trong xă hội hiện tại
có phần tử khủng bố, xác thực là khiến cho
đại chúng sống trong hoảng sợ. Hoảng sợ
là chẳng an ổn, huống hồ là đạt được
chỗ an ổn rốt ráo? Đến đâu để t́m
được chỗ an ổn rốt ráo? Quư vị vào núi
sâu, vào biển cả, đều chẳng t́m được,
ở chỗ nào đây? Chỗ an ổn rốt ráo là như
trong phần trước tôi đă đề cập với
quư vị, “tâm chân thành, thanh tịnh”.
Người thật sự giác ngộ, đoạn hết
thảy ác, tu hết thảy thiện, thân tâm an ổn, bất
cứ tai hại nào giáng xuống, chẳng kinh hoảng, chẳng
sợ hăi, đấy mới là chỗ rốt ráo an ổn. Quyết
định chẳng có sợ hăi, chẳng kinh hoảng, tâm
là định, đấy là công phu tu hành. Bản thân chúng ta
chẳng làm được, chẳng có cách nào giúp đỡ
người khác, người ta chẳng tin tưởng, vẫn
là đầu tiên chính ḿnh phải làm được. Nhất
là trong xă hội hiện đại, bản thân chúng ta thật
sự làm được, sẽ có thể dạy người
khác, người ta sẽ có thể tin tưởng. Câu thứ
chín:
(Kinh)
Vi thắng đạo.
(經)為勝導。
(Kinh:
Là dẫn dắt thù thắng).
“Thắng” (勝) là thù thắng (殊勝), cao hơn phần
trước một cấp. [Trong phẩm Thập Hồi
Hướng của kinh Hoa Nghiêm, có giải thích điều
này như sau] “dẫn kỳ
linh nhập chân thật pháp cố” (v́ dẫn họ nhập
pháp chân thật). Trong giai đoạn hiện tiền này,
chúng ta hướng dẫn hết thảy chúng sanh khế
nhập pháp chân thật, đấy chính là pháp Tịnh Độ.
Không lẽ các pháp môn khác chẳng chân thật? Đều là
pháp chân thật, nhưng quư vị chẳng tiến nhập
được! Đấy là như cổ nhân đă nói, tám
vạn bốn ngàn pháp môn, có nan hành đạo và dị hành
đạo. Nan hành đạo (難行道,đạo khó
hành) là ǵ? Nan hành đạo là phải đoạn phiền
năo th́ mới có thể nhập. Dị hành đạo (易行道,đạo dễ
hành) là chẳng đoạn phiền năo, vẫn có thể nhập.
Chẳng đoạn phiền năo, cớ sao có thể nhập?
Dị hành đạo là chế phục phiền năo; chế
phục sẽ dễ dàng, đoạn khó lắm! Dùng ǵ để
chế phục? Một câu Phật hiệu, “A Di Đà Phật”, “Nam-mô
A Di Đà Phật” chế phục phiền năo. Cũng có
nghĩa là cảnh giới hiện tiền, chúng ta khởi
tâm động niệm. Cổ đức nói “chẳng sợ niệm khởi”,
khởi tâm động niệm không sợ, “chỉ sợ giác chậm”. Nếu quư vị chẳng
giác ngộ, phiền năo liền phát tác, tham, sân, si liền
phát tác. Nếu quư vị sớm giác ngộ, trong tâm vừa
mới động một niệm, ngay lập tức “A Di Đà Phật” để
đè nén ư niệm ấy. Có thể làm được công
phu ấy, quư vị thật sự chịu làm, có người
dăm ba năm chắc chắn làm được. Người
lợi căn th́ một năm là đă có thể làm
được. Dùng một câu Phật hiệu để
đè nén vọng tưởng và tạp niệm của quư vị,
công phu ấy đắc lực sẽ có thể văng sanh cơi
Phàm Thánh Đồng Cư trong Tây Phương Cực Lạc
thế giới, công đức ấy tuyệt diệu thay!
Dẫn họ nhập pháp chân thật! Điều cuối cùng:
(Kinh)
Phổ đạo.
(經)普導。
(Kinh:
Dẫn dắt trọn khắp).
Đây
là nguyện thứ nhất trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện,
tức là chúng sanh vô biên, quư vị phải phát tâm giúp đỡ
họ, phải phổ độ họ, [đó là] “phổ đạo”. [Phẩm
Thập Hồi Hướng nói] “dữ
kỳ vô ngại đại trí huệ cố” (v́ để
ban cho họ đại trí huệ vô ngại). Trong hiện
thời, “đại trí huệ
vô ngại” chính là kinh điển của Tịnh Tông, phân
lượng ít, chẳng khó hiểu! Chính ḿnh học tập,
nghiêm túc học tập, đi khắp nơi tuyên giảng,
khuyên kẻ khác đoạn ác tu thiện, tin sâu nhân quả,
tŕ giới, niệm Phật. Sanh về Tây Phương Cực
Lạc thế giới, thấy A Di Đà Phật, đại
trí huệ vô ngại hiện tiền, chẳng phải là lời
giả đâu nhé! “Phổ đạo”
là đại sự, Phật mới có thể làm được!
Chúng ta giới thiệu [pháp môn Tịnh Độ] với
người khác, đưa họ sang thế giới Cực
Lạc để A Di Đà Phật giáo hóa họ, chẳng
khác Phật tiếp dẫn chúng sanh cho mấy! Nay thời
gian đă hết rồi, hôm nay chúng tôi giảng tới chỗ
này.
Tập 1490
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi
xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười
một, đoạn cuối cùng trong phần nêu câu hỏi,
tức là đoạn thứ mười một. Chúng tôi
đọc kinh văn một lượt.
(Kinh)
Vân hà ư nhất thiết chúng sanh trung
vi đệ nhất, vi đại, vi thắng, vi tối thắng,
vi diệu, vi cực diệu, vi thượng, vi vô thượng,
vi vô đẳng, vi vô đẳng đẳng?
(經)云何於一切眾生中為第一。為大。為勝。為最勝。為妙。為極妙。為上。為無上。為無等。為無等等。
(Kinh:
Làm thế nào để trong hết thảy chúng sanh sẽ
là bậc nhất, là lớn, là thù thắng, là tối thắng,
là diệu, là cực diệu, là thượng, là vô thượng,
là vô đẳng, là vô đẳng đẳng?)
Đây
là đoạn cuối cùng, hỏi về chuyện “siêu thắng tôn quư”. Trong lời
chú giải, Thanh Lương đại sư trong phần
trước đă nói…
(Sớ)
Do bổn hạnh lực, vi đệ nhất đẳng.
(疏)由本行力,為第一等。
(Sớ:
Do sức bổn hạnh là bậc nhất).
Từ
“đẳng” ấy (đệ
nhất đẳng) măi cho đến “vô đẳng đẳng” là mười câu. Mười
câu ấy, nói gộp lại, sẽ là một câu, tức “do bổn hạnh lực” (do
sức bổn hạnh). Bồ Tát từ Sơ Phát Tâm cho
đến địa vị Như Lai, do sức tu hành trong
thời gian dài vô lượng kiếp đoạn ác tu thiện,
tích lũy công đức, cho nên mới cảm được
quả báo thù thắng như thế. Điều này đă
ban cho chúng ta một khải thị rất lớn, đối
với những vấn đề ([được nêu trong]
mười câu này), chư vị ngẫm xem, có ai mà không mong
cầu? Có ai mà chẳng hy vọng đạt được?
Trong chú giải, ngài Thanh Lương chỉ nêu ra đại
lược. V́ sao? Đến cuối cùng, trong Thập
Địa Luận sẽ giải thích tường tận.
Thập Địa Luận chính là chú giải phẩm Thập
Địa [trong kinh Hoa Nghiêm[5],
trong bộ luận ấy] đă có giải thích tường
tận.
(Sớ)
Kim tựu Phật quả, lược thích kỳ tướng,
vị Như Lai công đức hải măn, cánh vô sở thiểu,
cố xưng đệ nhất. Thử diệc tổng
cú.
(疏)今就佛果略釋其相,謂如來功德海滿,更無所少,故稱第一,此亦總句。
(Sớ:
Nay dựa theo Phật quả để giải thích đại
lược tướng ấy, nghĩa là biển công đức
của Như Lai viên măn, chẳng thiếu khuyết ǵ; v́ thế,
gọi là đệ nhất. Đây cũng là câu nói tổng
quát).
Câu
này là Tổng Thuyết (nói tổng quát), chín câu dưới
đó là Biệt Thuyết (nói riêng từng điều). Phần
Biệt Thuyết mới là hiển thị sự thù thắng
tôn quư đă được nêu tổng quát [trong câu Tổng
Thuyết]. Trong câu này, [lời Sớ] nói đại lược
“Như Lai công đức hải
măn, cánh vô sở thiểu” (biển công đức của
Như Lai viên măn, chẳng thiếu khuyết ǵ)! Mười
chữ ấy trọng yếu lắm. Công đức viên
măn, viên măn là ǵ? Là Lục Độ, Tứ Đẳng. “Vi y, vi cứu” (là chỗ
nương tựa, là cứu vớt) như đă nói trong
phần trước chính là “viên
măn”. Tôi nêu tỷ dụ để nói. Có một năm,
tôi ở Mă Lai, h́nh như lần đó hoằng pháp ở Mă
Lục Giáp (Malacca)[6],
có một vị pháp sư Tiểu Thừa người Thái cũng
rất có tiếng tăm ở nơi ấy. Sư ở
vùng biên cương của Thái Lan và Mă Lai, có đạo tràng
ở nơi ấy. Sư đặc biệt đến gặp
tôi, nêu ra một câu hỏi: “Đức Phật nói chúng sanh
chẳng độ hết, Ngài chẳng thành Phật. Ngài
c̣n chưa độ tôi, cớ sao đă thành Phật?” Hỏi
một câu như thế! Lại hỏi: “Đối với
bố thí Phật pháp, kinh Phật nói Pháp Bố Thí thù thắng
nhất, c̣n có khá nhiều chúng sanh chẳng được
nghe Phật pháp như vậy, cớ sao Ngài đă thành Phật?”
Câu hỏi ấy có nghĩa là “công đức của đức
Phật chẳng viên măn, tôi c̣n chưa được độ,
c̣n có rất nhiều người chẳng được
nghe Phật pháp, v́ sao Ngài có thể thành Phật?” Hỏi một
vấn đề như thế.
Tôi
tin rằng không phải chỉ một ḿnh vị sư ấy
có nỗi thắc mắc ấy, chắc chắn là có rất
nhiều người có cùng thắc mắc ấy. Ở
đây, [lời chú giải] nói: “Như
Lai công đức hải măn, cánh vô sở thiểu”, phải
hiểu lời này như thế nào? Quư vị phải hiểu,
trong kinh, đức Phật đă giảng rất rơ ràng, Lục
Độ chẳng nhằm độ người khác, Tứ
Vô Lượng Tâm từ, bi, hỷ, xả cũng chẳng
phải là để dạy người khác, mà nhằm dạy
chính ḿnh. Nếu là dạy người khác, độ
người khác, sẽ chẳng có cách nào thành Phật, sẽ
giống như t́nh h́nh do vị tỳ-kheo Tiểu Thừa
đă nói: “Cả đống chúng sanh c̣n chưa đắc
độ như thế, làm sao có thể thành Phật cho được?”
Đức Phật chẳng nói kiểu ấy! Lục Ba La
Mật nhằm độ tập khí phiền năo của
chính ḿnh. Ví như Bố Thí Độ (Đàn Ba La Mật) viên
măn, chẳng bị thiếu ǵ, tức là chẳng thiếu,
chẳng thừa, thảy đều thật sự rốt
ráo viên măn. Đó là ǵ? Tâm keo kiệt chẳng có, “viên măn” được
hiểu theo ư nghĩa này.
Những
thứ ta sở hữu đều hoan hỷ cúng dường
cho người khác. Phật là cúng dường, chẳng phải
là bố thí. Chư vị xem mười nguyện của Phổ
Hiền Bồ Tát sẽ biết, đọc Phổ Hiền
Hạnh Nguyện Phẩm sẽ biết, Đại Thừa
Bồ Tát là bố thí, Phổ Hiền Bồ Tát là cúng dường,
cái tâm ấy luôn là viên măn. Đại Thừa Bồ Tát [c̣n
thấy] “ta là Bồ Tát, đó là chúng sanh”, cho nên vẫn c̣n
có giới hạn. Phổ Hiền Bồ Tát chẳng có, chẳng
hề có giới hạn ấy! Phổ Hiền Bồ Tát thấy
hết thảy chúng sanh đều là vị lai Phật, là
cha mẹ trong quá khứ, là chư Phật trong vị lai. V́
thế, chẳng nói là “bố thí” mà nói là “cúng dường”.
Quư vị thấy mười nguyện Phổ Hiền: Lễ
kính chư Phật, xưng tán Như Lai, rộng tu cúng
dường, đối với chính ḿnh bèn sám hối nghiệp
chướng. Trong cảm nhận của Ngài, thảy đều
là chư Phật Như Lai, quá khứ Phật, hiện tại
Phật, hết thảy chúng sanh đều là vị lai Phật,
quyết chẳng dám giải đăi, khinh mạn! V́ thế,
kinh Hoa Nghiêm mới nói: “Bồ
Tát chẳng tu hạnh Phổ Hiền, chẳng thể viên
thành Phật đạo”, là v́ công đức của vị
ấy chẳng thể viên măn. Chúng ta hiểu ư nghĩa này,
mới hiểu: Thành Phật là khôi phục viên măn Tánh Đức
của chính ḿnh. Chúng ta đừng nói là thành tựu, [mà nói
là] “khôi phục”. V́ sao? Tự
tánh của hết thảy chúng sanh là viên măn.
Mười
pháp giới trong vũ trụ, kể cả Nhất Chân pháp
giới, do đâu mà có? Tâm hiện, thức biến. “Tâm hiện” là nói về Phật
pháp giới, Bồ Tát pháp giới, Nhất Chân pháp giới,
giống như Hoa Tạng được nói trong Hoa Nghiêm.
Kinh Đại Thừa thường gọi nó là Thật Báo
Độ của chư Phật, Bồ Tát. Tịnh Độ
của chư Phật, chẳng hạn như thế giới
Cực Lạc, tức thế giới Cực Lạc của
A Di Đà Phật là “duy tâm sở hiện”, trong ấy chẳng
có thức. Phàm phu do một niệm bất giác, bèn dấy
lên vô minh, mê mất tâm tánh, tâm tánh đă bị mê mất bèn
gọi là Thức. V́ thế, Tánh và Thức là một, không
hai. Khi giác ngộ, chúng ta gọi nó là “tâm tánh”. Khi mê, chúng ta gọi nó là “t́nh thức”. Mê th́ mới có t́nh; đă giác ngộ,
sẽ chẳng có t́nh! Chẳng có t́nh, vậy th́ t́nh đi
đâu rồi? T́nh đă biến thành trí. V́ thế, cảm
t́nh và trí huệ là cùng một chuyện! Đă giác ngộ, cảm
t́nh biến thành trí huệ. Đă mê, trí huệ biến thành
cảm t́nh. Cảm t́nh tạo nghiệp, trí huệ chẳng
tạo nghiệp. V́ thế, Phật pháp nói đến chỗ
rốt ráo, sẽ là giác hay mê. Phàm phu giác ngộ là Phật,
Bồ Tát; hễ mê, sẽ trở thành phàm phu, chuyện là
như thế đó! Phải hiểu rơ ràng, phải hiểu
minh bạch, quư vị mới có thể đoạn nghi sanh
tín.
Do
vậy, bố thí như thế nào th́ sẽ viên măn? Tài Bố
Thí viên măn là đối với tiền tài chẳng có mảy
may tham luyến. Tài Bố Thí viên măn tức là quyết định
chẳng tham tài. Chịu xả những ǵ chính ḿnh đang có,
chẳng có tâm xan lận (keo kiệt, tiếc nuối). Chúng
ta thường nói là “chẳng nỡ xả”, chẳng có ư
niệm ấy! Chúng sanh nào thiếu thốn, chúng sanh nào hy vọng
đạt được, đều hoan hỷ cúng dường.
Đấy là quư vị đă Tài Bố Thí viên măn. Pháp Bố
Thí viên măn: Ta có năng lực giúp đỡ người
khác, dạy bảo người khác, sẽ chẳng giấu
giếm mảy may, đấy là Pháp Bố Thí viên măn. Tôi chịu
dạy quư vị, người Hoa gọi là “giăi bày trọn hết”, chẳng giữ lại mảy
may. Người trong thế gian xác thực là nếu dạy
kẻ khác th́ chính ḿnh vẫn phải giấu giếm. V́
sao? Sợ trong tương lai người khác sẽ vượt
trỗi chính ḿnh, họ có cái tâm đề pḥng. Ta có mười
phần bản lănh, ta chỉ dạy ngươi tám phần,
ngươi sẽ vĩnh viễn chẳng thể vượt
ta được! Pháp Bố Thí kiểu đó không viên măn. Phật,
Bồ Tát có mười phần sẽ dạy mười
phần, chẳng giữ lại mảy may! Đó gọi là
Pháp Bố Thí viên măn.
Vô
Úy Bố Thí viên măn, đó là đại từ đại bi,
khắp hư không pháp giới, tâm thương xót chúng sanh vĩnh
viễn chẳng bỏ. Chúng sanh tạo tác chuyện ác
đến mấy đi nữa, tạo tác chuyện bất
thiện đến mấy đi nữa, vẫn chẳng
để trong ḷng, cái tâm giúp đỡ, cứu độ họ
chẳng hề giảm thiểu mảy may. Đấy là Vô
Úy Bố Thí viên măn. Viên măn là bậc nhất. Chẳng viên
măn, đó là thứ hai, thứ ba. Viên măn là bậc nhất, chẳng
phải là thứ hai, thứ ba. Viên măn là bậc nhất, chẳng
thể không biết điều này! Tŕ Giới Ba La Mật viên
măn, tŕ giới nhằm độ ác nghiệp, vĩnh viễn
chẳng dấy lên ác niệm, chẳng có ác tâm, chẳng có
ác niệm, chẳng có ác ngôn, chẳng có ác hạnh. Niệm
nào cũng đều nhằm lợi ích chúng sanh, quyết
định chẳng chướng ngại, tổn
thương, gây hại chúng sanh, quyết định chẳng
có những ư niệm ấy. Đấy là Tŕ Giới Ba La Mật
viên măn.
Nhẫn
Nhục Ba La Mật viên măn, bị chúng sanh gây tổn
thương cực lớn, quyết định chẳng
có tâm sân khuể, chẳng có tâm trả thù. Giống như
trong kinh điển, đức Phật đă kể một
thí dụ: Thích Ca Mâu Ni Phật lúc c̣n tu nhân, đang tu Nhẫn
Nhục Ba La Mật, Nhẫn Nhục Bồ Tát bị vua Ca
Lợi cắt chặt thân thể. Quư vị thấy Ngài
không chỉ chẳng sân khuể, chẳng báo thù, ngược
lại, c̣n phát nguyện: “Ta
thành Phật, người được độ đầu
tiên sẽ là ngươi”, Nhẫn Nhục đă viên măn! Tinh
Tấn là như trong kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo
đă nói, trong tâm chẳng có mảy may bất thiện nào
xen tạp. Khi tôi nói, c̣n thêm vào một câu: “Chẳng có mảy may bất tịnh xen tạp”. Tâm
địa đạt đến thuần tịnh, thuần
thiện, Tinh Tấn đă viên măn.
Thiền
Định viên măn là như như bất động. Bất
luận ở trong cảnh giới nào, đều ở trong
mười pháp giới giúp đỡ những chúng sanh ấy.
Chúng sanh có cảm, Phật, Bồ Tát luôn ứng. Tuy có ứng,
tuy giúp đỡ họ, có thể đồng thời giúp đỡ vô lượng vô biên chúng sanh,
quyết định chẳng bị cảnh giới bên
ngoài ảnh hưởng. [Đấy là] Thiền Định
Ba La Mật đă viên măn. Đấy gọi là “Na Già thường tại Định,
vô hữu bất định thời” (Na Già[7]
thường trong Định, không lúc nào chẳng định).
Lư và Sự này đều rất sâu, trong khi [giảng giải]
bộ đại kinh này, tôi cũng thường đề
cập, chư vị thường nghe, sẽ dần dần
có thể thấu hiểu, có thể hiểu rơ, xác thực là
có ư nghĩa rất sâu. Bát Nhă Ba La Mật viên măn, đấy
chính là như kinh Bát Nhă đă nói: “Bát
Nhă vô tri, không ǵ chẳng biết”. Đối với tâm
và hạnh của hết thảy chúng sanh trong khắp pháp
giới hư không giới, chẳng có ǵ không biết.
Đó gọi là viên măn. Từ, bi, hỷ, xả cũng giống
như thế.
Có
sự chỉ bày ấy, chúng ta bèn hiểu: Chúng ta học Phật,
tu hành là tu ǵ? Chính là tu những điều ấy. Chúng ta
phát thiện tâm, quư vị học Phật có một giai
đoạn khế nhập cảnh giới, bèn phát thiện
tâm mong làm chuyện tốt. Nhưng người thế gian
chẳng có cảnh giới giống như chúng ta, họ chẳng
muốn làm chuyện tốt, chỉ nghĩ tự lợi.
Gặp gỡ quư vị, có cơ duyên như thế, họ
vẫn lừa gạt quư vị, vẫn muốn hăm hại,
vẫn muốn chiếm tiện nghi, vẫn muốn phá hoại
chuyện tốt của quư vị. Khi ấy, sẽ làm
như thế nào? Quư vị có nổi giận hay không? Chẳng
thể! Quư vị tức giận, sẽ chẳng nhập cảnh
giới của Phật. Quư vị phải thương xót họ.
Không chỉ là chẳng trách móc họ, chẳng chỉ trích
họ, mà thương xót họ. Thương họ v́ lẽ
ǵ? Điều đáng thương là họ vô tri, chẳng
có duyên phận tiếp xúc giáo huấn của thánh hiền, [cho
nên] tạo tác loại tội nghiệp ấy, tạo tội
nghiệp đó!
Kinh
Phật đă dạy: “Thí chủ
nhất lạp mễ, đại như Tu Di sơn, kim sanh
bất liễu đạo, phi mao đới giác hoàn” (Một
hạt gạo thí chủ, to như núi Tu Di, đời này chẳng
liễu đạo, mang lông, đội sừng đền),
đấy là ǵ? Chính là nói: Người xuất gia nếu
chẳng nghiêm túc tu hành đàng hoàng, quư vị sẽ chẳng
thể thọ dụng sự cúng dường của mười
phương! Chẳng phải là người xuất gia,
quy y Tam Bảo hay không, hễ đến xâm phạm, tổn
hại của thường trụ, cũng tức là dùng
các thủ đoạn để chiếm đoạt những
thứ do mười phương cúng dường Tam Bảo,
bất luận là tiền tài hay vật phẩm, quả báo
đều là A Tỳ địa ngục! Không nghe kinh, không nghe
pháp, chẳng biết điều ǵ, cứ tưởng chiếm
được tiện nghi trước mắt, rất hoan
hỷ, rất sung sướng, chẳng biết chớp mắt
đă thành không. Quả báo trong tương lai là trong địa
ngục, trong tam đồ, không biết sẽ phải hứng
chịu bao nhiêu kiếp nạn, quư vị nói xem họ có
đáng thương lắm hay không? Lẽ nào quư vị có thể
trách móc họ cho được? Thương xót c̣n chẳng
kịp, chớ nên chỉ trích. Chúng ta cũng đừng
nên khó chịu, đấy là ǵ? Do nghiệp lực chiêu cảm!
Chúng
ta đă tận tâm tận lực bảo vệ Tam Bảo,
nhưng rốt cuộc chúng ta chưa phải là những vị
La Hán hay Bồ Tát đă đắc đạo, chẳng phải!
Chúng ta chẳng có Thiên Nhăn, chẳng có Túc Mạng, làm sao có
thể nh́n nhận người khác chuẩn xác cho
được? Nh́n người khác, chúng ta hăy luôn nghĩ
đều là người tốt. Chỉ cần quy y Tam Bảo,
nghe danh hiệu Phật, Bồ Tát bèn chắp tay niệm Phật
một tiếng th́ đều là người tốt. Cái tâm
ấy là tâm Bồ Tát, hăy nên là như thế. Nào có biết
từ vô lượng kiếp đến nay tập khí ác quá
nặng, thấy tiện nghi bèn mong chiếm đoạt, chúng
ta chẳng có cách nào đề pḥng! V́ thế, chúng ta phải
mượn cảnh giới này để nâng cao chính ḿnh, phải
thương xót chúng sanh. Đối với mọi chuyện,
có phải làm hay không? Phải làm. Dẫu bị thua thiệt
đến mấy đi nữa, bị thua thiệt là phước.
Dẫu bị lừa gạt to lớn cách mấy, vẫn
là tiêu nghiệp chướng. Từ chỗ này, Ngài nhắc
nhở chúng ta: Nay chúng ta chịu thua thiệt, bị lừa
gạt vẫn là chuyện nhỏ nhặt, chúng ta bèn cảnh
giác. Sau này, xử sự, đăi người tiếp vật
phải hết sức cẩn thận, hy vọng tránh khỏi
những lỗi lầm to lớn.
Có
một năm, tôi ở Cựu Kim Sơn, cùng các đồng
học đến chơi Kim Sơn đại kiều (cầu
Golden Gate), quán trưởng cũng đi. Tôi thường
đeo một cái túi nhỏ (túi xách du lịch), h́nh như là
từ Mỹ trở lại Đài Loan. V́ thế, giấy tờ,
vé máy bay và một ít tiền đều bỏ trong túi áo. Tại
cầu lớn Kim Sơn, bỗng có một đám người
trẻ tuổi vây quanh tôi, tôi thấy họ trông đàng
hoàng, nào ngờ bọn người ấy là lũ móc túi. Họ
kéo khóa túi da, lấy mất ví tiền, cũng may là vé máy bay
và giấy tờ chẳng đặt cùng một chỗ,
đại khái có chừng hai ba ngàn Mỹ kim bị họ lấy
mất. Tôi cũng rất hoan hỷ, v́ khi đó, đúng nhằm
lúc chúng tôi dự tính du lịch Trung Hoa, trở về
thăm tổ quốc. Chuyện này đă cảnh giác chúng
tôi rất lớn, bọn móc túi rất nhiều, quư vị phải
nên đề pḥng.
Do
vậy, tôi bèn nghiên cứu làm ra một cái hầu bao, tôi c̣n
tặng cho rất nhiều đồng tu. Tôi làm khoảng
hai ba trăm cái hầu bao, giống như dây thắt
lưng vậy. Tiền bạc của quư vị để
trong đó, chắc chắn an toàn! Đấy là kinh nghiệm,
là học tập. Học tập th́ phải đóng học
phí. Quư vị không đóng học phí, làm sao học được?
Do vậy, đấy là tổn thất nhỏ nhoi. Nếu
chúng tôi chẳng có kinh nghiệm này, cũng [không cẩn thận]
như vậy khi du hành bên Trung Hoa Đại Lục, vạn
nhất gặp đứa móc túi, sẽ bị tổn thất
tiền tài nhiều hơn, toàn bộ tiền chi dụng
cho chuyến đi bị mất! V́ thế, đây chẳng
phải là chuyện xấu, mà là chuyện tốt! Từ bị
thua thiệt, bị lừa lọc, sẽ học được
trí huệ, tổn thất tiền bạc sẽ khiến
cho trí huệ của quư vị tăng trưởng, khiến
cho quư vị biết về sau nên xử trí như thế
nào. Quư vị học được [kinh nghiệm] từ
đấy!
Chuyện
nhỏ, kinh nghiệm nhỏ; chuyện lớn, sẽ có kinh
nghiệm lớn. Do vậy, cổ nhân nói rất hay: “Hoạt đáo lăo, học đáo
lăo” (Sống đến già, học đến già), quư vị
mới có thể trở thành bậc nhất. Giống
như chư Phật, Bồ Tát trong quá tŕnh tu hành, tôi tin là những
chuyện các Ngài chịu thua thiệt, bị lừa gạt
c̣n hơn chúng ta rất nhiều! Chúng ta chẳng có cách nào tưởng
tượng, các Ngài đă từng trải như thế
đó! Bất luận trong cảnh giới nào, [đều
là] tâm b́nh khí ḥa. Đấy là tu Tam Học Giới, Định,
Huệ, tu Lục Độ, tu Tứ Vô Lượng Tâm. Trong
tất cả các cảnh giới, chẳng ĺa những
điều ấy, công đức của các Ngài mới có thể
viên măn, chúng ta chớ nên không biết điều này! Niệm
niệm đều có cái tâm cứu vớt, bảo vệ
chúng sanh!
Trong
kinh, đức Phật đă dạy, kinh Phật chẳng
hề nói đến tận thế, chẳng nói tới chuyện
này. Nhưng trong kinh Phật có nói: Động vật có sanh,
lăo, bệnh, tử, thực vật có sanh, trụ, dị,
diệt, thế giới có thành, trụ, hoại, không. Hoại
và Không có phải là tận thế hay không? Các tôn giáo thông
thường nói [tận thế] là nói tới chuyện này,
nhưng đức Phật nói Hoại, Không rồi nó sẽ
lại Thành, đấy là một hiện tượng luân hồi.
“Thành, trụ, hoại, không”
là hiện tượng luân hồi. Luân hồi chẳng gián
đoạn; do vậy, đây là một hiện tượng
rất b́nh thường. Quư vị thấy hoa nở, hoa tàn,
con người sanh, lăo, bệnh, tử, [đấy là những]
hiện tượng b́nh thường. Con người chết
rồi có phải là thật sự chết mất hay không?
Chẳng có! Chư vị nhất định phải hiểu
điều này. Hiện thời, các nhà khoa học nói “vật
chất bất diệt, tinh thần bất diệt”. Nhà Phật
nói sự h́nh thành của các hiện tướng (現相, các tướng
được biến hiện) là do duyên tụ. Thân thể
loài người cũng là như thế, duyên tụ th́ h́nh
tướng bèn thành tựu. Duyên tán, hiện tướng ấy
sẽ chẳng có. Duyên tụ, duyên tán! Xác thực là vật
chất chẳng diệt, tinh thần cũng chẳng diệt.
Do vậy, Phật pháp nói đến Niết Bàn, Niết Bàn
là bất sanh, bất diệt. Đạo lư này sâu lắm,
kinh giáo Đại Thừa đă nói rất nhiều, nói rất
thấu triệt. Trong kinh Hoa Nghiêm đă nhắc đến
hơn mười mấy lần! V́ thế, ưu điểm
của kinh Hoa Nghiêm là nếu đối với phần
trước chưa nghe hiểu, dần dần nghe đến
phần sau sẽ hiểu!
Thầy
tôi giới thiệu Phật pháp cho tôi, đặc biệt
giới thiệu kinh Hoa Nghiêm. Khi đó, thầy dạy tôi Triết
Học, tôi theo học Triết Học. Chúng tôi coi kinh Hoa
Nghiêm như Triết Học trong kinh Phật. Thầy
Phương đặc biệt dạy bảo: Kinh Hoa Nghiêm
là khái luận của triết học Phật giáo, là khái luận
Triết Học trong kinh Phật. Thầy nói bộ sách này
biên soạn rất khéo, là bộ sách độc nhất vô
song trên toàn thể thế giới. V́ sao? Có lư luận, có phương
pháp, năm mươi ba lần tham học ở phần
sau c̣n kèm thêm phần biểu diễn, [tức là] áp dụng
những lư luận và phương pháp ấy vào cuộc sống,
vận dụng trong xử sự, đăi người tiếp
vật, làm cho quư vị thấy! Bộ sách giáo khoa ấy hiếm
có! Trên toàn thế giới, chẳng t́m thấy quyển sách
thứ hai, thầy đặc biệt giới thiệu với
tôi. Tôi tiếp xúc bằng cách coi sơ qua bộ kinh này, cũng
hết sức hoan hỷ; thật ra, hoàn toàn chẳng hiểu
kinh Hoa Nghiêm, [thế mà] nẩy sanh tâm hoan hỷ. Sau này học
Phật, thầy Lư bảo: “Do
cái duyên từ đời trước, trong đời quá khứ
đă từng học rồi. V́ thế, vừa tiếp xúc,
tuy chẳng biết ǵ hết, vẫn sanh khởi cái tâm hoan
hỷ đối với kinh ấy”. Có tâm hoan hỷ, sẽ
học tập chẳng khó, người ấy có hứng
thú. Nếu mở bộ kinh này ra, quư vị cảm thấy
nó thật xa lạ, cảm thấy nó rất trúc trắc,
khó khăn, [tức là] trong đời quá khứ, quư vị
chưa từng học. Trong quá khứ chưa từng học,
đời này học tập sẽ khá khó khăn. Đă học
trong quá khứ, đời này tiếp tục học, sẽ
dễ hơn rất nhiều!
Do
con người xác thực là có đời quá khứ, trong A
Lại Da Thức đă có những hồ sơ tài liệu
học tập những thứ ấy trong quá khứ, nay lại
học tập, sẽ lại lôi ra những hồ sơ tài
liệu trước kia, V́ thế, mỗi đời sau chắc
chắn sẽ có tiến bộ rất lớn so với
đời trước! Tiến bộ đến khi nào quư
vị mới có thể tự làm chủ tể? Chắc chắn
là khi phiền năo nhẹ, trí huệ tăng trưởng, phải
nhẹ đến một mức độ nhất định.
Ví như chúng tôi vừa mới nêu tỷ dụ: “Bị thua thiệt, bị lừa
gạt”. Trong khi bị thua thiệt, bị lừa gạt,
quư vị tâm b́nh khí ḥa, chẳng có sân khuể, chẳng trách
tội người khác, chính ḿnh phản tỉnh, tự ḿnh
kiểm thảo, tự ḿnh sửa lỗi, đổi mới;
đó là đúng. Hăy nhớ, thánh nhân, hiền nhân, chư Phật,
Bồ Tát vĩnh viễn chẳng trách tội kẻ khác. [Chuyện]
vua Ca Lợi cắt chặt thân thể [Nhẫn Nhục Bồ
Tát] nếu quay thành một bộ phim, sẽ hết sức
náo nhiệt, mà cũng hết sức cảm động
ḷng người. Đấy là một đề tài giáo dục
rất tốt. Đúng như một câu trong kinh Đại
Thừa: “Nếu người
thật tu đạo, chẳng thấy lỗi thế gian”.
Chúng sanh trong thế gian chẳng có lầm lỗi, [dẫu]
họ tạo tác Ngũ Nghịch, Thập Ác, vẫn chẳng
có lầm lỗi. V́ sao chẳng có lầm lỗi? Giống
như đứa trẻ nít hai ba tuổi gây tạo ác nghiệp,
quư vị hỏi nó có lầm lỗi hay không ư? Nó vô tri;
[đă là] vô tri, quư vị làm sao có thể nói nó phạm lỗi
lầm cho được? Quư vị phải yêu
thương, dạy dỗ nó. Tuy vô tri, tạo tác tội
nghiệp, có quả báo hay không? Có quả báo. Chẳng thể
nói là do vô tri tạo tác tội nghiệp sẽ chẳng có
quả báo đâu nhé! Chẳng có lẽ ấy!
Giống
như trong thế gian, chúng ta không hiểu pháp luật, ta giết
người, phóng hỏa, bị phán tội tử h́nh. [Dẫu
chúng ta biện bạch] “tôi không biết có pháp luật ấy”,
vẫn bị phán định h́nh phạt ấy. Chẳng
thể nói: Do quư vị không hiểu pháp luật, nên quư vị
phạm tội, pháp luật chẳng thể xét xử
được! Nói kiểu ấy chẳng xuôi tai! Huống
hồ nhân quả báo ứng, khởi tâm động niệm,
ngôn ngữ, tạo tác, một niệm thiện sẽ là
phước báo trong đường trời người, một
niệm ác, sẽ là địa ngục
súc sanh. Đến khi lâm chung, tùy thuộc ư niệm thiện
hay ác trong A Lại Da Thức, niệm nào mạnh hơn? Niệm
nào mạnh hơn sẽ xuất hiện trước, quư vị
sẽ thọ báo trước. Nếu ư niệm tham rất
mạnh, sẽ vào trong ngạ quỷ đạo. Ư niệm
sân hận rất mạnh, sẽ vào địa ngục
đạo. Ngu si, thị phi, thiện ác, lợi hại, chẳng
thể phân biệt, sẽ vào súc sanh đạo! Nếu là một
niệm Lục Độ, Tứ Vô Lượng Tâm, người
ấy sẽ vào Bồ Tát đạo. Một niệm Thập
Thiện, Ngũ Giới, người ấy sẽ là nhân
đạo. Một niệm thượng thượng phẩm
thiện, từ, bi, hỷ, xả, đấy là thiên đạo.
Quư vị đời sau đầu thai vào chỗ nào là do một
niệm cuối cùng khi quư vị tắt hơi trong một
đời này. Ư niệm nào mạnh mẽ, sẽ đến
nơi đó để chịu báo. V́ thế, [nguyên do] v́ sao
bảo quư vị niệm Phật, đạo lư ở ngay chỗ
này. Khi lâm chung, ư niệm ǵ cũng đều chẳng có, chỉ
có ư niệm A Di Đà Phật dấy lên hiện hành, chúc mừng
kẻ ấy, kẻ ấy sẽ sanh về thế giới
Cực Lạc. Một niệm cuối cùng đấy nhé!
Quư
vị hiểu rơ đạo lư này, [sẽ hiểu] v́ sao khi
người lâm chung, chẳng thể đụng chạm
người đó. Người có kiến thức thông
thường ấy, [sẽ biết] lâm chung tốt nhất,
quan trọng nhất là tám tiếng đồng hồ. Bất
luận người ấy ngủ trong tư thế nào,
cũng chớ nên đụng vào, mà cũng chớ nên rờ
đụng người ấy. V́ sao? Trong kinh đức Phật
đă dạy: Người b́nh phàm là tám tiếng đồng
hồ. Tuy đă tắt hơi, thần thức của
người ấy chẳng ĺa khỏi. Chúng ta gọi “thần
thức” là “linh hồn”, linh hồn của người ấy
chưa rời khỏi. Khi quư vị đụng chạm
người ấy, người ấy biết đau, sẽ
sanh tâm sân hận. Hễ sanh tâm sân hận, sẽ phiền
phức lắm, đi vào trong địa ngục đạo.
Sanh tâm tham ái, hoặc tâm tham luyến, sẽ đi vào ngạ
quỷ đạo. V́ thế, tốt nhất là trong ṿng tám
tiếng đồng hồ, đừng chạm vào người
chết, an toàn nhất là sau mười hai giờ. Suốt
mười hai tiếng đồng hồ, chẳng chạm
vào người ấy. Sau mười hai tiếng mới tắm
rửa thân thể, thay y phục th́ được. Đấy
là rất an toàn, thần thức của người ấy
đă rời khỏi.
Nhưng
kẻ có rất nhiều chấp trước hết sức
nghiêm trọng, [thần thức] sẽ rất khó rời khỏi.
Tham ái thân thể này, ngỡ thân thể là ta, chẳng nỡ
rời khỏi thân thể này; sau khi chết, sẽ làm quỷ
giữ thây. Thân thể họ ở chỗ nào, họ bèn
canh giữ ở đó. Quỷ giữ thây rất nhiều
năm vẫn chẳng chịu chẳng rời khỏi
nơi đó, đương nhiên là t́nh h́nh này thuộc loại
thiểu số. Nhưng hiện thời chúng ta thấy
trong thế gian, đại khái là “thiểu số” cũng chẳng
ít, [có không ít kẻ] coi trọng quá lố thân thể của
chính ḿnh! V́ thế, thông thường, Phật, Bồ Tát dạy
chúng ta phải xem nhẹ, đừng quá coi trọng thân thể.
Tốt nhất là sau khi đă năm sáu mươi tuổi,
phải có quan niệm: “Thế giới này là quán trọ,
chúng ta do lữ du mà đến thế giới này”. Trong
kinh, đức Phật đă dạy rất có lư, là thật,
chẳng giả: “Vạn ban
tương bất khứ, duy hữu nghiệp tùy thân” (Muôn
thứ chẳng mang được, chỉ có nghiệp theo
thân). Quư vị phải giác ngộ: Chẳng có thứ ǵ
trong thế gian này là của quư vị, đều chẳng
mang theo được, cần ǵ phải lưu luyến
chúng? V́ sao quư vị không buông xuống được? Tôi giảng
kinh bốn mươi tám năm, thường hay nói, thuở
trẻ chúng tôi cũng đă nói rồi: “Sống trong thế
gian này, chúng ta chỉ cần cầu có quyền sử dụng,
chẳng cần có quyền sở hữu”. V́ sao? Lúc quư vị
ra đi, sẽ dễ vứt bỏ, chẳng tham luyến.
Chúng ta ở trong quán trọ là chúng ta có quyền sử dụng.
Tôi ở trong quán trọ một tuần, căn pḥng ấy
thuộc quyền tôi sử dụng. Quyền sở hữu
thuộc về chủ nhân quán trọ, là của người
ấy, chẳng phải là của tôi! Chúng ta đến quả
địa cầu này, mấy chục năm nóng lạnh ngắn
ngủi, phải biết chẳng khác ǵ sống trong quán trọ!
Thứ ǵ cũng đều chớ nên lưu luyến! Bất
cứ lúc nào cũng đều có thể buông xuống
được, quư vị sẽ được tự tại.
Đối
với câu kế tiếp, “chỉ
có nghiệp theo thân”, quư vị phải lưu ư: Quư vị
tạo ác nghiệp, sẽ mang theo ác nghiệp. Quư vị tạo
thiện nghiệp, sẽ mang theo thiện nghiệp. Đấy
là ǵ? Đời sau quư vị sẽ đi về đâu là do
nghiệp thiện và ác làm chủ tể, kinh Cổ Lan (Qur’an)
gọi điều này là “tiền
định”. Đời này làm việc thiện, đời
sau quyết định sanh về chỗ tốt lành. Đời
này làm một thiện nhân, dẫu bị kẻ khác hăm hại
chết, vẫn sanh tâm cảm tạ, v́ sao? Sớm
được sanh về chỗ tốt lành! Nếu là
người niệm Phật bị kẻ khác hại chết,
kẻ ấy đă đưa quư vị sang thế giới Cực
Lạc trước thời hạn! Nếu không, quư vị c̣n
phải chịu khổ thêm mấy năm nữa trong thế
giới này! Kẻ ấy đă đưa quư vị đi sớm
một chút. V́ thế, không chỉ là chẳng trách, chẳng
hận kẻ đó, mà ngược lại, phải cảm
tạ kẻ ấy. Những kẻ b́nh phàm chẳng có cách
nào lư giải điều này. V́ sao phải cảm tạ kẻ
đó? Cảm tạ quư vị đă đưa tôi đi
trước. Do vậy, người thật sự tu hành
tâm địa thiện lương, những kẻ b́nh phàm
chẳng có cách nào tưởng tượng được!
Đấy là thật! Quư vị mang theo được!
Cho
nên chúng ta thấy kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo,
kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo là môn học đầu
tiên của đức Phật dành cho hết thảy chúng sanh
và hết thảy những người mới học Phật.
Đức Phật chẳng giấu giếm tí nào; v́ thế,
Pháp Bố Thí viên măn, bố thí viên măn! Quư vị thấy: Vừa
tiếp xúc trong ngày đầu tiên, đă hoàn toàn truyền
trao cương lănh và nguyên tắc tu học của Phật
pháp cho quư vị, nói rơ hiệu quả của công đức:
“Bồ Tát có một pháp có thể
ĺa hết thảy các nỗi khổ trong thế gian”, nói
trọn hết. Một pháp ấy là pháp ǵ vậy? “Thường niệm, tư duy,
quan sát thiện pháp”, “thiện
pháp” liên quan đến những điều đă nói trên
đây. Nếu chúng ta không ngại rườm rà, hăy đọc
rơ ràng hơn một tí, tức là “thường
niệm thiện pháp, tư duy thiện pháp, quan sát thiện
pháp”. Cốt sao khiến cho thiện pháp liên tục trong
từng niệm, chớ nên gián đoạn. Lại c̣n đặc
biệt dặn ḍ chúng ta: “Chẳng
để cho mảy may bất thiện xen tạp”. Chẳng
thể xen tạp mảy may bất thiện, quư vị sẽ
đạt đến thuần tịnh, thuần thiện. Há
chẳng phải là ngày đầu tiên đă dạy cho quư vị
cảnh giới cao nhất của Như Lai ư? Ở
đây nói là “vi đệ nhất,
vi đại, vi thắng, vi tối thắng, vi diệu, vi
cực diệu”. Quư vị thấy: Ngày đầu tiên
đă dạy quư vị, dạy quư vị phương pháp
này, chẳng giấu giếm mảy may, chẳng phải là
làm từng bước, ngay trong ngày đầu tiên đă
giăi bày toàn bộ!
Ngày
đầu tiên tôi gặp Chương Gia đại sư,
tôi thỉnh giáo lăo nhân gia, Ngài dạy tôi sáu chữ. Sáu chữ
đă giăi bày trọn vẹn: “Khán
đắc phá, phóng đắc hạ” (Thấy thấu
suốt, buông xuống hết). Kế đó, tôi xin Ngài dạy
cách thực hiện từ chỗ nào, [Ngài đáp]: “Bố thí”. Khi tôi cáo từ,
lăo nhân gia đưa đến tận cửa, nắm bả
vai của tôi bảo: “Hôm nay, ta
dạy con sáu chữ, con hăy thực hiện chu đáo trong
sáu năm”. Ngày đầu tiên gặp mặt, lăo nhân gia
ngôn từ rất đơn giản, nói rất ít, chẳng
nói những điều thừa thăi, vớ vẩn, khiến
cho người khác được khắc họa ấn
tượng hết sức sâu đậm! Đấy là “công đức hải măn” (biển
công đức viên măn), “hải”
là tỷ dụ sâu rộng vô tận. Vô lượng kiếp
tích lũy công đức, sâu rộng không ngằn mé đạt
đến viên măn. Hoa Nghiêm là cảnh giới viên măn; chẳng
viên măn sẽ không thể khế nhập cảnh giới
Hoa Nghiêm. “Cánh vô sở thiểu”
là chẳng có mảy may lầm lỗi nào. Câu này (“vi đệ nhất”) là tổng
thuyết (nói chung, nói tổng quát).
Tiếp
đó là biệt thuyết, “vi
đại, vi thắng, vi tối thắng” (là lớn, là
thù thắng, là tối thắng); ở chỗ này, Thanh
Lương đại sư nói:
(Sớ)
Đại giả, Thể bao pháp giới cố.
(疏)大者,體包法界故。
(Sớ:
“Lớn” là v́ thể của nó bao trùm pháp giới).
Thể
là ǵ? Thể là tâm tánh. Đối với tâm tánh, tôi nghĩ
các đồng học học Phật đều có thể lănh
hội đôi chút. Phật pháp thường nói: “Tâm bao thái hư, lượng châu
sa giới”. Đấy là Thể đại. Nhưng ở
đây là nói tới bản thể, bản thể là như
vậy đó. Tất cả chúng sanh trong mười pháp giới,
nói đến thể tánh th́ đều hoàn toàn giống
nhau. Chư Phật Như Lai là như thế, Bồ Tát cũng
như thế, bọn phàm phu chúng ta vẫn là như thế.
Cho đến muỗi ṃng, kiến, ngạ quỷ, địa
ngục cũng giống như thế, chẳng hai, chẳng
khác! V́ thế, chúng tôi thường nói: “Hết thảy chúng sanh trong vũ trụ là một sanh
mạng cộng đồng thể”, thật đấy,
chẳng giả!
V́
sao đức Phật đại từ đại bi? Một
sanh mạng cộng đồng thể! Do đó, từ bi
là chẳng có bất cứ điều kiện ǵ, vô duyên đại
từ, đồng thể đại bi. Nay chúng ta đang
mê, mê là chẳng chịu thừa nhận chúng ta có cùng một
Thể: “Tôi chẳng phải là quư vị, quư vị chẳng
phải là tôi, giữa chúng ta có giới hạn!” Chẳng hiểu
đạo lư này. Hễ nẩy sanh giới hạn ấy,
thế là có hoài nghi, có mâu thuẫn, có hiểu lầm, có
đối lập. Từ đấy, vô lượng vô biên lầm
lỗi nẩy sanh, do chẳng biết là một Thể
đó mà! Biết là một Thể, vấn đề ǵ
cũng đều giải quyết. Ai biết một Thể?
A La Hán biết, Bồ Tát biết, Phật biết. Tứ
thánh pháp giới biết là một Thể, nhưng chẳng
đoạn hết tập khí phiền năo. [Tu tập trong] tứ
thánh pháp giới là đoạn những tập khí phiền
năo ấy. Đoạn hết tập khí phiền năo, đấy
mới là thoát khỏi mười pháp giới, khế nhập
Hoa Tạng.
(Sớ)
Thắng giả, tự lợi viên măn.
(疏)勝者,自利圓滿。
(Sớ:
“Thắng” là lợi ích chính ḿnh viên măn).
Điều thù thắng là tự
lợi viên măn, tức là đă đoạn hết nghiệp
và tập khí phiền năo của chính ḿnh từ vô thỉ kiếp
tới nay. Phật môn thường nói “đoạn hết”,
trên thực tế, có đoạn hay không? Chẳng có, há có
thể đoạn hết? V́ sao nói là “đoạn hết”?
“Đoạn hết” là nói tỷ dụ, chuyển phiền
năo thành Bồ Đề, hoàn toàn chuyển biến phiền
năo tập khí từ vô thỉ kiếp tới nay thành
phương tiện trí huệ lợi ích hết thảy
chúng sanh. Khi mê th́ hết thảy v́ chính ḿnh, v́ tự lợi;
khi giác ngộ th́ hết thảy v́ chúng sanh, tuyệt đối
chẳng có một ư niệm v́ chính ḿnh. V́ sao? Tự và Tha là
một, không hai. Lợi tha mới là thật sự tự lợi.
Tự lợi xác thực là hại chính ḿnh, tự lợi
quyết định chẳng phải là lợi ích chính ḿnh.
V́ sao? Kẻ ích kỷ phải đọa vào tam đồ
địa ngục. Ích kỷ là tham, sân, si, mạn nặng
nề; chúng ta biết tham, sân, si là nghiệp nhân của tam
đồ. Tâm tham là nghiệp nhân của ngạ quỷ. Tham
tài, tham danh, tham lợi, thứ ǵ cũng đều muốn;
trên thực tế, khi sắp chết, thứ ǵ cũng chẳng
mang theo được, kết quả là cái tâm tham khiến
cho quư vị đọa địa ngục, biến thành ngạ
quỷ. V́ thế, sau khi quư vị thật sự liễu giải
rơ ràng thế gian này, lợi tha mới là tự lợi, tự
lợi thuần là tự hại! Không ai hiểu [ư chỉ ấy],
trong kinh điển, Phật, Bồ Tát đă nói rất rơ
ràng, [do v́] chẳng đọc, chẳng nghe, vĩnh viễn
mờ mịt như đang nằm trong cái trống. Khởi
tâm động niệm không ǵ chẳng phải là tội,
ngôn ngữ và tạo tác không ǵ chẳng phải là lầm lỗi.
A! Bây giờ thời gian đă hết rồi. Chúng ta nghỉ
ngơi mấy phút.
**
Chư
vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Chúng ta lại
xem tiếp đoạn cuối cùng của phần trường
hàng [trong chánh kinh].
(Kinh)
Vi đại, vi thắng, vi tối thắng.
(經)為大。為勝。為最勝。
(Kinh: Là lớn, là thù thắng,
là tối thắng).
Trong
phần trước, đă giới thiệu cùng chư vị,
Bồ Tát tự lợi viên măn, đấy là Thắng. Kế
đó…
(Sớ)
Tối thắng, lợi tha cứu cánh cố.
(疏)最勝,利他究竟故。
(Sớ:
Tối thắng là v́ lợi tha rốt ráo).
Đấy
là giúp đỡ người khác. Nhất định phải
hiểu “lợi tha rốt ráo”.
Tâm Phật, Bồ Tát là viên măn, quyết định chẳng
có tốt, xấu sai khác, quyết định là viên măn. Nói
theo phía chúng sanh, do căn tánh không giống nhau, cổ nhân
Trung Hoa thường nói “tâm thái tiếp nhận sự giáo
hóa sai khác”. Trong Văn Sao, Ấn Quang đại sư cũng
thường nói đến điều này: “Một phần thành kính được một phần
lợi ích, hai phần thành kính được hai phần lợi
ích, mười phần thành kính được mười
phần lợi ích”. Các học tṛ tiếp nhận sự
giáo dục, mỗi người có cái tâm thành kính khác nhau, thầy
dạy tṛ đều b́nh đẳng như nhau, đúng là “Phật dĩ nhất âm nhi thuyết
pháp, chúng sanh tùy loại các đắc giải” (đức
Phật dùng một âm thanh để thuyết pháp, chúng sanh
tùy theo mỗi loài đều hiểu). Đấy là “lợi tha rốt ráo”.
Người
thượng thượng căn mười phần thành
kính, họ nghe pháp có thể khai ngộ, có thể chứng
quả. Dẫu thầy là phàm phu, học tṛ [do cái tâm thành
kính nghe dạy vẫn] chứng quả. Trong kinh, đức
Phật đă kể một câu chuyện như thế này:
Có một người tu hành mà chính ông ta chẳng thành tựu,
hướng dẫn mấy học tṛ. Có một hôm, thầy
gọi một đứa học tṛ, cầm một trái
banh, nói đùa trêu chọc học tṛ: “Ở trong pḥng,
ngươi hăy ngồi vào góc đó”. Dùng banh ném vào kẻ
đó, bảo: “Ngươi đă chứng quả Tu Đà
Hoàn”. Người học tṛ ấy thật sự chứng quả
Tu Đà Hoàn. Lại đổi sang góc khác, Nhị Quả Tư
Đà Hàm; lại đổi sang góc khác, Tam Quả A Na Hàm; đổi
tới góc thứ tư, Tứ Quả A La Hán. Học tṛ
đảnh lễ thầy ba lạy, nhiễu theo chiều
phải ba ṿng, cảm tạ thầy. Thầy nói: “Ta nói giỡn
với ngươi mà!” Học tṛ thưa: “Con thật sự
chứng Tứ Quả”. Đấy là ǵ? Mười phần
thành kính được mười phần công đức!
Đấy cũng là như trong giáo học Trung Hoa đă nói
từ xưa: “Thanh xuất
ư lam, nhi thắng ư lam” (Màu xanh xuất phát từ
màu chàm, mà đẹp đẽ hơn màu chàm). Câu này hiểu
như thế nào? Thầy là Tú Tài, học tṛ nghiễm nhiên đậu
Trạng Nguyên, thầy vẫn là Tú Tài. Pháp thế gian và xuất
thế gian chẳng có ngoại lệ, chúng ta tiếp nhận
giáo huấn của thánh hiền, Phật, Bồ Tát, quư vị
chẳng thể trách Phật, Bồ Tát: “Các Ngài dạy kẻ
khác nhiều, dạy con ít”. Chẳng nói như vậy
được! Quư vị đă trách lầm người khác
rồi! Thầy, Phật, Bồ Tát quyết định là công
bằng, nhưng tâm thái tiếp nhận giáo huấn và ḷng
thành kính của chính quư vị khác nhau.
Thuở
ấy, chúng tôi tuổi c̣n trẻ, được thân cận
thầy Lư. H́nh như lúc đó, khi tôi được quen biết
thầy, tôi ba mươi mốt tuổi. Khéo sao, trong
năm ấy, thầy mở lớp học kinh. Đài Trung
Liên Xă mở một lớp như thế, dạy giảng
kinh, dạy giảng diễn, phải lên bục giảng,
có hai mươi mấy vị đồng học, tôi là
người cuối cùng tham gia. Tôi vốn chẳng có ư
nghĩ ấy, v́ giảng kinh là chuyện khó khăn. Tôi
đến Đài Trung là để nghe kinh, theo thầy học
tập, chẳng dám lên đài giảng kinh, nghĩ chuyện
ấy quá khó! Thầy khuyên tôi vài lần, tôi luôn rất sợ
hăi. Cuối cùng, thầy bảo: “Hôm nay chúng tôi có tiết học,
anh hăy đến xem”. Tôi thưa vâng. Đến xem, tôi ngồi
ở hàng cuối cùng. Các đồng học lên bục giảng,
sau khi nghe xong, tan học, [tôi thưa với thầy]:
“Thưa thầy! Con cũng có thể, cũng có thể học
tập!” Thầy cũng rất hoan hỷ. Xem họ giảng,
tôi cảm thấy đấy chẳng phải là chuyện
khó khăn. Giảng như cách của họ th́ tôi cũng
làm được, sẽ chẳng thua kém họ!
V́
thế, tôi đi theo con đường giảng kinh là
như thế đó. Con đường ấy khiến cho
tôi đi theo, dùi mài chẳng bỏ suốt cả một
đời. Các đồng học của chúng tôi giảng mấy
năm rồi không giảng nữa, gián đoạn. Lại
c̣n là giảng kinh lúc có, lúc không, chẳng có cái duyên như tôi.
Duyên của tôi là giảng mỗi ngày, tuyệt đối
chẳng gián đoạn! Sau này đắc lực là do Hàn
quán trưởng hộ tŕ, tôi có một yêu cầu đối
với bà ta: Giúp cho tôi có cơ hội lên bục giảng hằng
ngày, mỗi ngày có mấy người nghe. Tôi nói: “Người
nghe không nhiều lắm. Mười mấy, hai mươi
người là được rồi. Bà hăy thay tôi t́m thính
chúng, khiến cho tôi mỗi ngày đều có cơ hội
luyện tập giảng”. Bà ta thay tôi làm được. Ba
mươi năm như một ngày, trăm ngàn rèn luyện.
Chuyện này đ̣i hỏi phải có hằng tâm, có cái tâm
dài lâu. Những đồng học khác chẳng có duyên phận
ấy, mà cũng chẳng có ư niệm ấy. Chẳng có ư
niệm giảng hằng ngày! Thành tựu của chúng tôi
ngày càng khác biệt to lớn.
Tại
Trung Hoa, thường nói là “hiếu học”. Hiếu học
th́ mới có thể thành tựu. Chẳng hiếu học,
làm sao có thể thành tựu cho được? Chuyện này
thầy chẳng có cách nào ép quư vị được, chính
quư vị phải chịu làm! Chính ḿnh chịu làm,
đương nhiên là bản thân quư vị có hứng thú
đối với chuyện ấy, cảm thấy chuyện
ấy rất vui sướng th́ quư vị mới có thể
chịu làm. Nếu làm mà cảm thấy rất nhọc nhằn,
sẽ chẳng lâu dài! Như thế nào th́ quư vị mới
có thể đạt được vui sướng? Sau khi
quư vị đă học, nhất định là thực hiện
nó, quư vị sẽ có sự vui sướng. V́ thế, Khổng
phu tử đă nói một câu hết sức có đạo
lư, “học nhi thời tập
chi” (học rồi thường xuyên tập luyện), “tập” là ǵ? “Tập” (習) là quư vị nhất định
vận dụng những điều đă học vào cuộc
sống, áp dụng vào công việc, dùng trong xử sự,
đăi người tiếp vật, như vậy th́ sẽ
vui sướng. Nó là trí huệ, cuộc sống của quư
vị sẽ rất hạnh phúc, rất mỹ măn. Nghèo chẳng
sợ, giống như Nhan Hồi, ăn cơm trong giỏ,
uống nước trong bầu, vui sướng khôn sánh.
Tăng đoàn của Thích Ca Mâu Ni Phật hằng ngày khất
thực bên ngoài, giữa trưa ăn một bữa, qua
đêm dưới gốc cây, pháp hỷ sung măn. Đó gọi
là “học nhi thời tập
chi, bất diệc duyệt hồ” (học rồi luôn tập
luyện, cũng chẳng vui sao). Quư vị không học, [hoặc
là] sau khi đă học, chẳng thể ứng dụng vào cuộc
sống, sẽ vĩnh viễn chẳng đạt
được niềm vui sướng ấy. Có pháp hỷ,
có vui sướng, quư vị sẽ vĩnh viễn theo
đuổi không ngừng, càng theo đuổi, càng vui sướng!
“Hữu bằng tự viễn
phương lai, bất diệc lạc hồ” (Có bạn
bè từ nơi xa đến, cũng chẳng vui sao). Đó
là người chí đồng đạo hợp, họ
đến học với quư vị, thỉnh giáo quư vị.
Dẫu chẳng có những người như vậy, “nhân bất tri nhi bất uấn,
bất diệc quân tử hồ” (người ta không biết
đến mà chẳng giận, cũng chẳng phải là bậc
quân tử ư). Ba câu ấy nói hết sức tuyệt,
đơn giản như thế mà đạo lư và cảnh
giới trong ấy sâu rộng vô tận!
Do
vậy, phải hiểu lợi tha, hiếu học, khế
nhập cảnh giới, người ấy có ḷng thành kính
rất cao! Thấp hơn là tâm thành kính và hiếu học chỉ
có sáu phần, bảy phần, người ấy sẽ
đạt được sáu, bảy phần. Có một,
hai phần, người ấy chỉ đạt được
một, hai phần. Dù là thầy, hay Phật, Bồ Tát,
cũng chẳng có cách nào giúp đỡ người ấy
tăng cao hơn. Đương nhiên thầy là một mấu
chốt rất quan trọng, trong Phật pháp hết sức
coi trọng chuyện thân cận thiện tri thức. Quư vị
xem kinh A Nan Vấn Sự Phật Cát Hung, đấy là kinh Tiểu
Thừa; trong đoạn thứ nhất của kinh ấy,
đức Phật đă dạy mọi người hăy thân
cận minh sư, “minh” chẳng phải là tên tuổi lừng lẫy,
mà “minh” trong “quang minh”, tức là vị thầy ấy là bậc
hữu tu hữu chứng. Hiện thời, chẳng t́m thấy
bậc thầy hữu chứng; v́ thế, thầy Lư
bảo tôi: “Nay chúng ta bất đắc dĩ, chúng ta t́m vị
thầy nào? Hữu tu hữu học”. Thật sự hữu
tu, hữu học cũng là khá quá rồi! [T́m một vị
thầy đă] chứng quả quá khó, chẳng t́m được,
hăy t́m bậc hữu tu hữu học, giải hạnh tương
ứng! Nếu là một vị thầy có tu nhưng chẳng
học, hoặc là có học mà chẳng tu, sẽ đều
hướng dẫn học tṛ sai lầm. Trong bản chú giải
Tứ Thập Hoa Nghiêm, Thanh Lương đại sư đă
nói rất minh bạch. Lăo nhân gia bảo: “Có giải, chẳng có hạnh, tăng trưởng
tà kiến; có hạnh (hạnh là tu hành) mà không có giải, tăng
trưởng vô minh”. V́ thế, hai hạng người ấy
đều chẳng đáng tin cậy cho lắm! Nhất định
là phải hạnh giải tương ứng th́ mới có
thể khế nhập cảnh giới. Khế nhập là
chứng quả; đấy là thiện tri thức chân chánh.
Văn
Thù Bồ Tát trong phẩm cuối cùng [của kinh Hoa Nghiêm],
phẩm này rất dài, tức là Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh
Nguyện Phẩm, đă dạy Thiện Tài đi tham học.
Ắt cần phải hiểu nguyên tắc này, phải nhận
biết thiện tri thức. Đương nhiên chúng ta nói
là ngài Thiện Tài may mắn, Ngài được thầy giới
thiệu tri thức. [Thiện tri thức] do thầy đề
cử, đương nhiên là chẳng có vấn đề.
Nếu chẳng có một vị thầy tốt chỉ
điểm, đề nghị, chính quư vị phải biện
định, phải t́m một vị hữu tu hữu học,
có thể t́m được một vị chứng quả
sẽ là tốt nhất. Bất quá thời đại này
đă chẳng có [một vị chứng quả], đó là
v́ chúng sanh chẳng có phước báo. Chúng sanh thiện tâm,
làm thiện sự, do phước báo hiện tiền, cảm
chư Phật, Bồ Tát, thánh hiền đến thế
gian này. Chúng sanh chẳng có phước báo, không chịu tiếp
nhận thiện pháp, hoài nghi thiện pháp, bài xích thiện
pháp, hủy báng thiện pháp, tạo tác vô lượng vô
biên tội nghiệp, do ác nghiệp sẽ chiêu cảm hạng
người nào t́m đến? Yêu ma quỷ quái, họ đến
gây loạn, khiến cho quư vị chịu khổ, chịu tội!
Phải hiểu điều này, phải biết trong thời
đại hiện tiền này, chúng ta thân cận thiện
tri thức như thế nào, phải có huệ nhăn!
Sự
giáo hóa của thiện tri thức xác thực là b́nh đẳng,
trong kinh, đức Phật đă nói chuyện này rất rơ
ràng. Người thượng thượng căn, nhà Phật
thường nói “Phật chẳng
độ kẻ vô duyên”, người thượng
thượng căn là duyên thành thục, bèn giúp họ chứng
quả. Người thượng căn chẳng chứng
quả, bèn giúp cho họ khai ngộ. Đối với kẻ
căn tánh trung hạ, bèn giúp đỡ người ấy
tu hành. Đối với kẻ chẳng có thiện căn,
giúp họ gieo thiện căn. Đấy là phổ độ
chúng sanh! Đấy gọi là “lợi
tha rốt ráo”! V́ thế, quư vị đừng xem nhẹ
người xuất gia, thậm chí đối với kẻ
xuất gia phá giới, quư vị đều phải tôn trọng
họ. Trong tương lai, do họ phá giới, tạo ác, sẽ
đọa tam đồ; đó là chuyện của họ,
nhưng họ có một công đức mà kẻ b́nh phàm
như chúng ta không làm được. Công đức ǵ vậy?
Họ mặc y phục xuất gia, đi ra ngoài một ṿng
như thế, bao nhiêu người trông thấy: “Đấy
là Phật giáo, đấy là ḥa thượng”. Ư niệm ấy
được gieo vào A Lại Da Thức của họ, là
chủng tử khiến cho họ tu hành học Phật, làm
Phật, làm Bồ Tát trong tương lai. Người ấy
đă gieo chủng tử cho hết thảy chúng sanh, đă
gieo hạt! Người khác chẳng làm điều này được!
Khi
xưa, tôi ở Đài Loan, dạy sinh viên thuộc các
trường chuyên nghiệp và đại học. Khi đó,
thầy Lư mở một khóa đại chuyên giảng ṭa
(khóa giảng dành cho sinh viên các trường đại học
và chuyên nghiệp), tức là Từ Quang giảng ṭa. Về
sau, tôi ở Đài Bắc, pháp sư Đạo An mở một
khóa giảng về Phật học dành cho sinh viên các trường
đại học và chuyên nghiệp, mời tôi làm chủ giảng.
Những sinh viên ấy mới học Phật, các đồng
học trong nhà trường đều cảm thấy Phật giáo là mê tín. Tôi liền khuyên
họ, tôi nói: “Chớ sợ! Người ta nói ǵ th́ cứ
mặc kệ cho họ nói. Chúng ta đối đăi khách sáo
với họ, như vậy là được rồi, gieo thiện
căn cho họ”. Tôi nói: “Các bạn chẳng ngại
đeo trên tay một chuỗi tràng hạt, khiến cho các bạn
học và giáo viên trong trường thấy chuỗi hạt
trên tay quư vị, bèn nói: ‘Ngươi là Phật giáo’. Chữ
Phật ấy bèn in vào trong A Lại Da Thức của họ”.
Tôi nói: “Các bạn đối với sách giáo khoa, thường
đều là đề tên ḿnh. Các bạn hăy viết A Di
Đà Phật. Các bạn học trông thấy A Di Đà Phật
bèn niệm một tiếng Phật hiệu. Chủng tử
Phật đă được gieo!” Những vị bạn học
ấy đều hiểu.
Gieo
chủng tử Phật cho mọi người, trong quá khứ
họ chẳng có thiện căn. Nay chúng ta gieo chủng tử
xuống, đời sau và đời sau nữa, họ sẽ
có thiện căn, sẽ có căn cội. Tôi giảng kinh,
trong các đồng học có rất nhiều người
kinh doanh. Các vị chủ nhân kinh doanh thường phải
đăng quảng cáo, đăng quảng cáo trên báo chí.
Tôi nói với họ: “Quư vị đăng quảng cáo trên
báo chí, trong cột quảng cáo ấy, quư vị in một
ḍng “siêng niệm nam-mô A Di
Đà Phật, siêng niệm nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát”.
Thêm vào mấy chữ như vậy, quảng cáo sẽ sanh
ra hiệu quả giống hệt như vậy: Người
ta trông thấy, bèn niệm một câu Phật hiệu, niệm
một câu thánh hiệu Bồ Tát, công đức ấy rất
lớn! Quư vị chẳng tốn nhiều tiền, vẫn
là trang báo to ngần ấy, lại thêm vào mấy chữ, cũng
có người làm theo, đó là chuyện tốt! Đấy
là quư vị phải có tâm giúp đỡ người khác gieo
thiện căn, giúp đỡ người khác gieo chủng
tử Phật trong A Lại Da. Quư vị thường có cái
tâm ấy, hễ có cơ hội bèn làm. Đấy là thiện
căn.
Khi
xưa, tôi cũng thường đến Hương Cảng
giảng kinh, thấy trên đường phố
Hương Cảng vào mùa Hè, thanh niên mặc
T-shirt, h́nh vẽ trước sau toàn là yêu ma quỷ quái. Sau
khi thấy vậy, tôi liền nẩy sanh ư niệm. Chúng tôi
cũng làm mấy cái áo T-shirt, trước sau đều in
chữ “nam-mô A Di Đà Phật”, mặc trên
người đi một ṿng ngoài đường, quư vị
thấy đă độ bao nhiêu người! Mỗi cá nhân trông
thấy đều niệm một tiếng Phật hiệu.
Tuy họ không niệm, nhưng mắt họ trông thấy.
Một phen lướt qua mắt, vĩnh viễn là hạt
giống đạo! Sau khi đă làm xong, loại áo ấy cũng
được lưu hành. Hiện thời, Tịnh Tông Học
Hội ở các nơi trên cả thế giới đều
làm, đều là in những câu trong kinh Phật hoặc danh
hiệu Phật. Có người nói: “In danh hiệu A Di
Đà Phật trên quần áo rất thiếu cung kính, giặt
quần áo sẽ chẳng cung kính”. Chẳng sao cả! A Di
Đà Phật chẳng quở trách quư vị. Quư vị có thể
khiến cho nhiều người ngần ấy được
gieo chủng tử A Di Đà Phật trong A Lại Da Thức.
Công đức ấy to lớn, phải hiểu đạo
lư này. Hễ lướt qua mắt, hễ thoảng qua tai,
sẽ vĩnh viễn là hạt giống đạo. Niệm
nào cũng đều nghĩ dùng phương pháp nào để
khuyên người khác niệm Phật. Đấy là lúc ban
đầu khiến cho họ có ấn tượng, tức
là có ấn tượng về Phật giáo. Đấy là chủng
tử bậc nhất. Đối với kẻ chẳng có
thiện căn th́ gieo thiện căn cho họ. Đă có thiện
căn, bèn giúp cho họ tăng trưởng. Thiện
căn đă chín muồi, bèn giúp họ thành tựu. Niệm
Phật văng sanh Tịnh Độ là thành tựu. Suốt một
đời này, tận tâm tận lực giúp đỡ chúng sanh
hữu duyên. Phàm là những người mà ta được
tiếp xúc đều là hữu duyên. Chúng ta đi trên đường
phố một ṿng, những người trên đường
khi ấy thảy đều là hữu duyên.
Do
vậy, các đồng tu tại gia có thể đeo một
chuỗi tràng hạt hay không? Có người nói “kẻ tại
gia chẳng thể đeo”, tôi nói: Chúng ta là người học
Phật, trong Tứ Y Pháp của Phật, y pháp, bất y
nhân. “Tại gia chẳng thể đeo tràng hạt”
được nói trong bộ kinh nào? Chẳng có! Đức
Phật đă chẳng nói [như vậy], v́ sao chẳng thể
đeo? Quư vị đeo tràng hạt sẽ rất rơ rệt,
quư vị đi đến đâu, bao nhiêu người trông thấy:
“Đấy là Phật giáo, đấy là A Di Đà Phật”.
Quư vị đă tiếp dẫn bao nhiêu người! Bất
quá đối với tại gia đồng tu, tôi dạy mọi
người cách đeo tràng hạt. Người xuất gia
đeo sao cho tua tràng hạt ở đằng sau, đồng
tu tại gia khi đeo tràng hạt, nên để tua tràng hạt
đằng trước. Cách đeo như vậy, tua tràng hạt
ở đằng trước, đấy là chỗ khác biệt
so với người xuất gia. Làm như vậy cũng
có thể khiến cho khá nhiều chúng sanh khi trông thấy, ấn
tượng về Phật sẽ gieo vào tâm họ. Đấy
là “tự độ, độ
tha” mà chúng ta đang nói trong hôm nay, phải hiểu điều
này. Nếu có người đến hỏi, chúng ta nhất
định giới thiệu Phật pháp rành mạch, rơ ràng
với họ.
Học
Phật th́ trước hết là phải tu chính ḿnh; v́ thế,
nói là “vi thắng”, tức là
tự hành tự lợi viên măn. “Vi
thắng” là tướng mạo phải tốt đẹp,
thân thể phải tốt đẹp, khiến cho người
khác trông thấy sanh tâm hoan hỷ. Chớ nên khiến cho người
ta trông thấy: Đó là kẻ ăn chay, mặt mũi vàng vọt,
gầy quắt queo, dáng vẻ phờ phạc, ai dám học
Phật? Học Phật mà [trở thành] dáng vẻ như vậy,
chẳng có ai dám học Phật! V́ thế, quần áo chẳng
cần quá lộng lẫy, nhưng
cũng chớ nên quá lỗi thời, mặc đúng theo kiểu
phổ biến, khiến cho người ta nghĩ “học
Phật cũng có thể chưng diện”. Quư vị thấy
Quán Thế Âm Bồ Tát ăn mặc rất đẹp
đẽ, v́ sao các vị chẳng học theo Ngài? Trong Phật
pháp, quư vị thấy đức Phật dạy chúng ta: “Bồ Tát sở tại chi xứ,
linh nhất thiết chúng sanh sanh hoan hỷ tâm” (Bồ
Tát ở chỗ nào đều khiến cho hết thảy
chúng sanh sanh tâm hoan hỷ), quư vị đă quên bẵng câu
này rồi sao? Luôn luôn khiến cho hết thảy chúng sanh
sanh ḷng hoan hỷ. Diện mạo biểu hiện sự
thành tựu trong sự học Phật của quư vị. Quư
vị tâm địa từ bi, tướng mạo sẽ là
tướng từ bi. Tâm quư vị thanh tịnh, tướng
mạo của quư vị là thanh tịnh. Người khác
trông thấy tướng mạo ấy sẽ khiến cho
ḷng người ta bị nhiếp phục, sanh ḷng hoan hỷ,
mong thân cận quư vị. Như vậy th́ quư vị sẽ
dễ dạy họ.
Từ
tuổi trung niên trở lên, chẳng có ai không coi trọng
thân thể khỏe mạnh. Khỏe mạnh, sống lâu rất
được coi trọng. Họ thấy dáng vẻ quư vị
như vậy, nhất định sẽ hướng về
quư vị thỉnh giáo. Vậy là quư vị có thể nói với
họ. Khi tôi đến khắp nơi trên thế giới,
h́nh tượng này đă độ rất nhiều người.
Mọi người đều đến hỏi: “Thưa
pháp sư! Thầy bảo dưỡng thân thể như thế
nào?” Tôi bảo họ: “Ăn chay, tâm thanh tịnh”. Tâm thanh tịnh
chẳng dễ dàng, như thế nào th́ mới đạt
được cái tâm thanh tịnh? Niệm A Di Đà Phật.
Dùng một câu Phật hiệu này để thay thế tất
cả các tạp niệm của quư vị. Quư vị thấy
họ đến thỉnh giáo, ngay lập tức bèn truyền
dạy cho họ. Họ có nhu cầu bức thiết; đấy
là cơ hội giáo dục.
Gia
đ́nh sẽ là một gia đ́nh Phật giáo, làm
gương cho hết thảy các gia đ́nh, là gia đ́nh
khuôn mẫu. Đạo tràng nhất định là
gương mẫu cho hết thảy các đạo tràng, là
đạo tràng điển h́nh. V́ thế, ở đây,
trước hết, điều quan trọng nhất là phải
học Giáo, phải niệm Phật! Tất cả những
người làm công quả trong đạo tràng, chúng ta làm
công quả, đều phải nghe kinh. Quư vị không nghe kinh,
ở trong đạo tràng này, quư vị không chỉ là chẳng
thể làm việc lành, tích đức, mà thường là c̣n
phá hoại đạo tràng. Phá hoại đạo tràng, quư vị
sẽ mắc tội, sẽ có tội lỗi! Gia đ́nh
cũng giống như thế. Nếu gia đ́nh muốn
ḥa thuận, quư vị không dạy th́ có được hay
không? Ai dạy? Ta đă hiểu th́ phải dạy, ta sẽ
ảnh hưởng gia đ́nh của chính ḿnh, khiến cho
cả nhà đều có thể hiểu lư, đều có thể
ḥa thuận. Gia ḥa, vạn sự hưng, chuyện này quan
trọng hơn bất cứ điều ǵ khác!
Người
Hoa hiểu giáo dục, giáo dục là hai chữ, một là Ái,
hai là Ḥa. Giáo dục luân lư của Trung Hoa tối thiểu là
năm ngàn năm, đă có kinh nghiệm năm ngàn năm, trí
huệ năm ngàn năm, phương pháp năm ngàn năm,
nội hàm giáo học trong năm ngàn năm, hiệu quả
năm ngàn năm. Cho tới hiện thời vẫn hữu
dụng. Nếu muốn cho thế giới khôi phục an
định, ḥa b́nh, hóa giải xung đột và mâu thuẫn,
phương cách này vẫn hữu hiệu! Quư vị rời
bỏ thứ này, đi t́m một phương cách khác, chẳng
t́m thấy! Tôi tuổi đă cao như vậy, [thế mà] khá
nhiều hội nghị quốc tế mời tôi, tôi vẫn
đến tham gia, v́ sao? Mong giới thiệu đường
lối này với mọi người, nó thật sự có
thể giải quyết vấn đề. Họ rất
mong giải quyết vấn đề, nhưng chẳng t́m
thấy phương pháp. Liên Hiệp Quốc mong thực hiện
thế giới ḥa b́nh đă ba mươi lăm năm, chẳng
t́m thấy phương pháp. Tần số động loạn
trên thế giới mỗi năm một tăng, thiên tai
nhân họa mỗi lần một nghiêm trọng hơn, mọi
người đều thấy điều ấy, đều
là sự thật. Những vấn đề này bày ra ngay trước
mặt, bức thiết cần giải quyết. Chúng ta hiểu
rơ những đạo lư nhân quả đạo lư, biết những
chân tướng sự thật, cho nên hễ có cơ duyên, chẳng
thể không giới thiệu rộng răi. Chúng tôi tuổi
đă cao, không thể nào ra sức hành động được,
chỉ có nói cho mọi người biết những ǵ
đă thấy. Vấn đề là phải biết thật
sự quan tâm!
Mỗi
tháng, vào ngày thứ Tư đầu tiên, chúng tôi đặc
biệt tṛ chuyện với các đồng tu trong đạo
tràng. Năm nay chúng tôi đă làm vài lần. Thứ Tư đầu
tiên trong tháng Giêng năm 2006 h́nh như là ngày mồng Bốn,
lần này tôi sẽ nói với mọi người về bốn
thứ giáo dục, giáo dục luân lư, giáo dục đạo
đức, giáo dục nhân quả, giáo dục tôn giáo. Hiện
thời, khá nhiều người nẩy sanh hiểu lầm
đối với bốn loại giáo dục này. Quư vị nói
đến luân lư, đạo đức, họ nói “đấy
là thời cổ, lỗi thời rồi, chẳng thích hợp
với hiện đại”, họ bài xích, cự tuyệt.
Nói đến nhân quả, nói đến tôn giáo, họ nói những
thứ đó là mê tín, chẳng biết bốn loại giáo dục
ấy có thể giúp đỡ xă hội hiện tiền hóa
giải xung đột, khôi phục an định, ḥa b́nh. V́
vậy, giới thiệu phải có phương tiện,
như Phật pháp đă nói là “phương
tiện thiện xảo”, phải dùng lời lẽ rất
đơn giản để nói rơ những loại giáo dục
ấy!
Giáo
dục luân lư là ǵ? Giáo dục luân lư là giáo dục về mối
quan hệ giữa con người với nhau. Như vậy
th́ mọi người đều nghe hiểu. Nay chúng ta chẳng
có quan hệ cư xử tốt đẹp giữa con
người với nhau. Trong gia đ́nh, cha con bất ḥa, vợ
chồng bất ḥa, anh em bất ḥa, do nguyên nhân ǵ? Quư vị
chẳng hiểu mối quan hệ này, chưa hề tiếp
nhận sự giáo dục này. Đă tiếp nhận sự giáo
dục này, gia đ́nh sẽ ḥa thuận, quư vị nói xem: Có
muốn điều này hay không? Giáo dục đạo đức
là giáo dục nhằm dạy quư vị làm một người
tốt. Quư vị có muốn làm người tốt hay không?
Quư vị có hiểu người tốt là ǵ hay không? Làm
người tốt bằng cách nào? Nói theo lư luận, con
người tánh vốn lành. Nay chúng ta mê mất tự tánh, tiêm
nhiễm khá nhiều tập tánh bất thiện. Giáo dục
đạo đức là nền giáo dục nhằm dạy
quư vị làm thế nào để từ tập tánh trở
về bản tánh vốn lành. Quư vị sẽ biết những
ǵ chúng ta đáng nên học và chẳng nên học!
Đối
với giáo dục nhân quả, trong xă hội hiện thời,
thường nói: “Ĺa nghèo, đạt
đến giàu có”. Chúng ta muốn ĺa khỏi nghèo khổ,
mong phát tài, mong giàu có, giáo dục nhân quả nhằm dạy
quư vị “ĺa nghèo, làm giàu” như thế nào? Ĺa khổ
được vui như thế nào? Nói điều này, tôi tin
tưởng rất nhiều người đều ưa
thích. Quư vị nói nó là mê tín, được thôi! Quư vị sẽ
khổ cả đời, khổ sở suốt một
đời này, đời sau càng khổ hơn. Nghèo có cái
nguyên nhân của nghèo, giàu có cái nhân của giàu. Làm thế nào
để trừ nghèo khó? Quư vị bỏ cái nhân, quả sẽ
chẳng có. Làm giàu như thế nào? Chúng ta dốc hết sức
thực hiện cái nhân làm giàu, quả báo giàu có sẽ hiện
tiền. Chẳng ĺa khỏi nhân quả! Tiên sinh
Phương Đông Mỹ khi giới thiệu giáo dục
tôn giáo, [đă bảo]: “Đó
là sự hưởng thụ cao nhất trong đời
người!” Ba loại giáo dục trước đó
(luân lư, đạo đức, nhân quả) thăng hoa, khiến
cho chúng ta đạt được sự hưởng thụ
cao nhất trong cuộc đời. V́ vậy, chúng tôi phải
bàn đến bốn thứ giáo dục này, khiến cho mọi
người nhận thức bốn loại giáo dục ấy.
Biết tầm quan trọng của chúng, quư vị mới có
hứng thú, có ư nguyện học tập. Thật sự có
thể hóa giải vấn đề, bất luận là vấn
đề cá nhân, vấn đề gia đ́nh, vấn đề
sự nghiệp, cho đến các vấn đề xă hội,
sẽ đều có thể giải quyết.
Đấy
là “vi thắng, vi tối thắng”,
lợi tha rốt ráo. Chúng ta sau khi đă hiểu, quư vị
phải nắm lấy cơ hội để thực hiện,
lợi ích xă hội, lợi ích đại chúng. Hiện thời,
v́ khoa học kỹ thuật phát triển, thông tin phát triển,
giao thông nhanh chóng, thuận tiện, địa cầu
đă biến thành một thôn, rất nhiều người
nói “địa cầu thôn”,
đúng là như vậy. Quư vị nói đến Trịnh
Ḥa đi thám hiểm Tây Dương, ngày mai đă là năm mới
rồi, bước sang năm 2006, đúng dịp kỷ niệm
sáu trăm năm Trịnh Ḥa xuống vùng Tây Dương[8]. Thuở
ấy, lái thuyền buồm, từ Trung Hoa đến Nam
Dương (Indonesia) phải mất mấy tháng. Hiện thời,
từ Trung Hoa sang Nam Dương, từ Bắc Kinh bay đến
Nhă Gia Đạt (Jakarta) là sáu, bảy tiếng đồng
hồ. Quư vị nói xem, có phải là đă biến thành “địa cầu thôn” hay
không? Do vậy, hiện thời, chúng ta suy tư, khởi
tâm động niệm chẳng phải v́ một khu vực,
v́ một thành thị, v́ một quốc gia, mà khởi tâm
động niệm đều phải suy nghĩ v́ phước
lợi của toàn thể thế giới và toàn thể nhân
loại. Chẳng phân biệt quốc gia, chẳng phân biệt
chủng tộc, chẳng phân biệt tôn giáo, tâm yêu
thương chân thành. Đấy chính là cốt lơi của nền
giáo dục Trung Hoa, cha con có t́nh thân, tức thân ái. Thân ái là
thiên tánh, là Tánh Đức, chẳng phải là do học
được!
Công
năng thứ nhất của giáo dục phải cầu sự
thân ái ấy. Cha con có t́nh thân ái như thế, làm thế nào
để ǵn giữ suốt đời chẳng bị biến
chất? Đấy là công năng của giáo dục. Quư vị
thấy trẻ nít, lại c̣n là khi đứa trẻ mới
một hai tuổi, cha mẹ yêu thương nó, nó yêu
thương cha mẹ, chân thành, là thiên tánh. Quư vị hăy xem!
Tới khi đứa nhỏ mười mấy tuổi, sẽ
không yêu thương cha mẹ nữa, mà ghét bỏ cha nẹ,
đó là ǵ? Bị bên ngoài nhiễm ô, mê mất tự tánh. V́
thế, công năng của giáo dục là làm thế nào để
khiến cho trẻ nhỏ chẳng bị hoàn cảnh bên
ngoài nhiễm ô, vĩnh viễn ǵn giữ ḷng thân ái. Đấy
là mục tiêu thứ nhất. Phải phát huy rạng rỡ
ḷng thân ái nơi “phụ tử
hữu thân” (cha con có t́nh thân ái). Quư vị có biết yêu
thương cha mẹ, yêu thương anh em, yêu
thương gia tộc, lại mở rộng ra, [sẽ là]
yêu thương thân thích, bằng hữu, láng giềng, làng
xóm, yêu thương xă hội, yêu thương quốc gia, yêu
thương nhân loại, yêu thương hết thảy
chúng sanh, giáo dục luân lư đấy! Những thứ ấy
có phải là quá cổ lỗ hay không? Chẳng thích hợp
để sử dụng ư? [Do quan niệm những
điều ấy là] không thích hợp, kết quả là
thiên hạ đại loạn, chẳng thể không biết
[điều này]! Đấy là “vi
tối thắng”. Hai câu tiếp theo là:
(Kinh)
Vi diệu, vi cực diệu.
(經)為妙。為極妙。
(Kinh:
Là diệu, là cực diệu).
“Diệu” ở chỗ nào?
Trong phần chú giải, Thanh Lương đại sư đă
nói:
(Sớ)
Diệu giả, Phiền Năo Chướng tận cố. Cực
diệu giả, Sở Tri Chướng tận cố.
(疏)妙者,煩惱障盡故。極妙者,所知障盡故。
(Sớ:
“Diệu” là đă hết Phiền Năo Chướng. “Cực
diệu” là đă hết Sở Tri Chướng).
Do
lời giải thích này, chúng ta bèn hiểu rơ, đấy là Chân
Diệu! Sở dĩ chúng sanh chẳng thể trở về
bản tánh, Nho gia nói là “chúng sanh chẳng trở về bổn
thiện”. Tam Tự Kinh có câu: “Nhân
chi sơ, tánh bổn thiện” (Con người thoạt
đầu tánh vốn lành), câu kế tiếp là “tánh tương cận, tập
tương viễn” (bản tánh giống như nhau, do bị
huân tập mà trở thành khác nhau). Nếu xét theo bản tánh
vốn lành, mọi người đều như nhau, cho
nên là “tương cận”. Nếu
xét theo thói quen, do bị thói quen ô nhiễm, [tính t́nh của] mọi
người sẽ ngày càng cách xa. Thói quen quá trọng yếu!
Trong thói quen có thiện và bất thiện. V́ thế, thánh
nhân bèn bắt đầu từ chỗ này, từ nhân tố
này mà kiến lập giáo học, chẳng dạy sẽ
không được! V́ thế, giáo dục hưng khởi từ
chỗ nào? Hưng khởi từ chỗ này, làm thế nào
để giữ vững mối thân t́nh giữa cha và con?
Làm thế nào để phát huy rạng rỡ t́nh thân giữa
cha và con? Kinh nghiệm giáo dục năm ngàn năm của Trung
Hoa rất đáng quư! Đi khắp toàn thế giới, bất
luận ở chỗ nào, tôi giảng diễn, giới thiệu
[nền giáo dục ấy] đều được hoan
nghênh, chẳng bị phản đối. Bất quá ở
Trung Hoa, tôi không nói, chứ bên ngoại quốc, tôi nói rất
ư là nhiều! Mọi người đều hoan nghênh.
Chướng
ngại trong tập tánh trùng trùng, vô lượng, vô tận!
Đức Phật quy nạp chúng thành hai loại lớn, một
loại lớn là Phiền Năo, loại kia là Sở Tri. Hai loại
này đều chướng ngại bản tánh, chướng
ngại bổn thiện. Nhà Phật nói là “bản tánh”. Trong bản tánh có sẵn ba thứ,
đấy là những thứ sẵn có trong bản tánh, thứ
nhất là trí huệ, thứ hai là đức năng, hiện
thời gọi công dụng thứ ba là phước báo. Quư
vị nói xem: Có muốn những thứ ấy hay không? Vô
lượng trí huệ, vô lượng đức năng,
vô lượng phước báo chẳng phải đến
từ bên ngoài, mà là trong tự tánh vốn trọn đủ.
Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đă nói rất hay: “Hết thảy chúng sanh đều
có trí huệ và đức tướng của Như Lai”,
tức là giống như chư Phật Như Lai. Trí huệ
giống nhau, đức năng giống nhau, tướng hảo
như nhau (nay chúng ta gọi “tướng
hảo” là phước báo), chẳng khiếm khuyết mảy
may, chẳng có mảy may tỳ vết nào! V́ sao nay lại
biến thành nông nỗi này! Do hai loại đại chướng
ngại gây chướng ngại tự tánh, khiến cho tâm tánh
chẳng thể hiện tiền.
Người
tu hành, nói thật ra, bất luận tu theo tông nào, bất luận
tu theo phái nào, thảy đều là tu minh tâm kiến tánh.
Minh tâm kiến tánh là tổng mục tiêu tu hành của Phật
pháp, chớ nên không biết điều này. Tôi theo thầy
Lư học pháp môn Niệm Phật, tôi có báo cáo tâm đắc.
Báo cáo của tôi chẳng phải là văn tự, mà là biểu
đồ. Tôi vẽ biểu đồ tŕnh cho thầy xem. Xem
xong, thầy gật đầu, bảo c̣n thiếu một
thứ. Thầy thêm vào một mũi tên [đằng trước
từ ngữ] “minh tâm kiến tánh". [Trong h́nh vẽ của
tôi], tôi chỉ [ghi] là “niệm Phật văng sanh”, nhưng
cũng viết là “minh tâm kiến tánh”, tức là hai chuyện.
Thầy vẽ mũi tên, ư nói: Niệm Phật văng sanh dẫn
đến minh tâm kiến tánh, đấy là viên măn. Đó là
bức vẽ do tôi họa vào lúc c̣n trẻ, vào lúc ba
mươi mốt, ba mươi hai tuổi. Do vậy, minh
tâm kiến tánh th́ hai thứ chướng ngại ấy chẳng
có. Đấy mới gọi là thành Phật viên măn.
Kinh
Hoa Nghiêm gọi Phiền Năo và Sở Tri là ǵ? Kinh Hoa Nghiêm chẳng
nói Phiền Năo Chướng và Sở Tri Chướng. Trong
phẩm Xuất Hiện, đức Phật đă nói: “Hết thảy chúng sanh đều
có trí huệ và đức tướng của Như Lai, chỉ
v́ vọng tưởng, chấp trước mà chẳng thể
chứng đắc”. Chấp trước là Phiền Năo
Chướng, vọng tưởng là Sở Tri Chướng.
Kinh Hoa Nghiêm thay đổi cách nói. Đấy chính là “Phật vô hữu định
pháp khả thuyết” (Phật chẳng có pháp nhất
định để có thể nói). Đức Phật dạy
chúng ta Tứ Y Pháp, phải hiểu, phải có trí huệ để
vận dụng linh hoạt. “Y
pháp, bất y nhân”, quyết định căn cứ theo
giáo huấn trong kinh điển Phật giáo. “Y nghĩa, bất y ngữ”, quư
vị phải hiểu ư Phật, chớ nên chấp trước
ngôn ngữ, chớ nên chấp trước danh tướng
của Phật. Quư vị thấy trong kinh, đức Phật
đă sử dụng linh hoạt ngần ấy, nhằm dạy
chúng ta “y liễu nghĩa, bất
y bất liễu nghĩa”. Chuyện này rất trọng
yếu! “Liễu nghĩa” (了義) là ǵ? Hiện tiền có thể
đạt được lợi ích. Đấy là liễu
nghĩa. Hiện tiền chẳng đạt được
lợi ích, tức là “bất liễu
nghĩa”, cũng là như chúng ta thường nói là “sở
học chẳng dùng được”, đấy là vô dụng!
Học rồi nhất định có chỗ hữu dụng,
học đến mức có thể dùng được,
đấy là liễu nghĩa. Sở học chẳng dùng
được chính là bất liễu nghĩa. Câu cuối
cùng là “y trí, bất y thức”.
Nay chúng ta gọi Trí là Lư Trí. Quư vị phải dựa vào lư
trí; Thức là ǵ? Cảm t́nh. Quư vị phải dựa theo
lư trí, chẳng thể xử sự theo cảm t́nh. Đấy
là Tứ Y Pháp do đức Phật đă dạy, chúng ta phải
hiểu.
“Phiền Năo Chướng tận”
chính là trước hết đoạn phiền năo, sau
đó phá Sở Tri. Kinh Đại Thừa đă giảng về
phiền năo rất cặn kẽ, giảng rất nhiều.
Trong bộ kinh Hoa Nghiêm này, phần trước và phần
sau đều nói đến. Nhất là đối với
đoạn kinh văn ấy, trong Thập Địa Luận
Thích đă giải thích rất cặn kẽ. Thông thường,
chúng ta hạ thủ công phu bằng cách tận lực
đoạn trừ chấp trước, chấp trước
đối với hết thảy người, sự, vật
phải nhạt bớt. Đấy là đoạn Phiền
Năo Chướng! Sở Tri chẳng phải là chướng
ngại. Loại chướng ngại gây nên chướng
ngại cho Sở Tri của quư vị th́ gọi là Sở
Tri Chướng. Chướng ngại là ǵ? Tri kiến sai lầm.
Phá tri kiến sai lầm như thế nào? Ắt phải tu
học giáo huấn của bậc thánh hiền. Bậc thánh
hiền, bậc tái lai chánh tri chánh kiến. Học tập từ
chỗ này, sẽ dần dần khế nhập cảnh giới,
chính ḿnh đại triệt đại ngộ. Chướng
ngại đoạn hết, bèn đại triệt đại
ngộ, sẽ minh tâm kiến tánh. Hôm nay đă hết thời
gian rồi, chúng tôi nói tới chỗ này.
Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười
một, Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 14 hết
[1] Trong năm
2006, đă có những trận ôn dịch như sau: Dịch
cúm gà (H5N1) ở vùng Maharastra của Ấn Độ vào
tháng Hai, dịch sốt xuất huyết tại Pakistan và Ấn
Độ (có đến 4.800 người mắc bệnh, tử
vong năm mươi người). Riêng tại
Ấn Độ, trận dịch này lan ra khắp
nơi kể từ New Delhi cho đến những vùng xa xôi
hơn như Uttar Pradesh, Andhra Pradesh… Nặng nhất là toàn
cầu báo động về dịch cúm gà tại nhiều
quốc gia như Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Hoa, Nam
Dương, Nigeria, Mă Lai, Croatia, rau spinach bị nhiễm vi
khuẩn E. Coli tại Hoa Kỳ…
[2] Những
điều này do những người đưa tin phóng
đại. Nên nhớ là ḥa thượng không xem tin tức,
Ngài chỉ nghe các đồng tu hoặc đạo hữu
kể lại. Trận dịch tuy lớn, nhưng số
người tử vong không đến một ức người
như họ nói, và cũng không đến nỗi người
bị bệnh dịch chết hết một nửa!
[3] “Thông linh” (通靈) ở đây
là những người có khả năng giao tiếp với
linh giới, tức là có thể tṛ chuyện, giao tiếp với
cơi âm.
[4] Linh môi (靈媒) là cách người
Hoa gọi những thanh đồng (mediums) có khả
năng giao tiếp thật sự với cơi âm, không phải
là bọn đồng cốt quàng xiên bịp bợm, gian
trá!
[5] Thập Địa
Luận là một bộ luận chú giải kinh Thập
Địa (tức là một bản dịch khác của phẩm
Thập Địa trong kinh Hoa Nghiêm) được trước
tác bởi Thế Thân Bồ Tát. Bộ luận này được
dịch sang chữ Hán bởi các vị Bồ Đề Lưu
Chi và Lặc Na Ma Đề, gồm mười hai quyển.
Vào thời Ngụy -Tấn, các vị tăng sĩ Trung Hoa hết
sức yêu thích bộ luận này, nên đă có những vị
được gọi là Địa Luận Sư chuyên nghiên
cứu bộ luận này, thậm chí lập thành một tông
phái riêng biệt gọi là Địa Luận Tông. Ngoài Lục
Thập Hoa Nghiêm và Bát Thập Hoa Nghiêm đều có phẩm
Thập Địa ra, trong Hán Tạng c̣n có bản dịch
riêng của phẩm này như sau:
1. Tiệm Bị Nhất
Thiết Trí Đức Kinh, do ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào
đời Tây Tấn (khoảng năm 297 Công nguyên).
2. Thập Trụ Kinh do ngài
Cưu Ma La Thập dịch vào đời Diêu Tần.
3. Phật Thuyết Thập
Địa Kinh do ngài Thi La Đạt Ma dịch vào đời
Đường trong niên hiệu Thiên Bảo (niên hiệu của
Đường Huyền Tông).
Ngài Long Thọ cũng viết
chú giải cho phẩm này, và đă được ngài Cưu
Ma La Thập dịch sang tiếng Hán với tựa đề
Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận. Địa Luận Tông
coi hai vị Bồ Đề Lưu Chi và Lặc Na Ma Đề
là thỉ tổ. Do kiến giải của hai vị có chỗ
bất đồng, tông này tách ra thành chi phái: Chi phái của
ngài Đạo Sủng (thường gọi là Tương
Châu Bắc Phái, kế thừa tư tưởng của ngài
Bồ Đề Lưu Chi). Phái kia là phái Huệ Quang (Tương
Châu Nam Phái). Tương Châu Bắc Phái về sau sáp nhập
vào Nhiếp Luận Tông. Sau cùng, cả hai phái đều nhập
vào tông Hoa Nghiêm.
[6] Malacca ở
đây chính là thành phố Malacca, thủ phủ của tiểu
bang Malacca (tiếng Mă Lai là Melaka) của Mă Lai (Mă Lai có mười
ba tiểu bang và ba khu vực tự trị trực thuộc
liên bang). Thành phố Malacca nằm ở phía Nam bán đảo
Mă Lai, giáp ranh với hai tiểu bang Negeri Sembilan và Johor, kề
sát eo biển Malacca (eo biển giữa bán đảo Mă Lai
và đảo Sumatra của Indonesia). Thành phố này khá cổ
kính, được sáng lập bởi hoàng tử Parameswara
khi ông trốn thoát khỏi Palembang thuộc đảo Sumatra
khi vương quốc Srivijaya bị tiêu diệt bởi vua
Majapahit của Nam Dương. Tương truyền, khi
đến nơi này, hoàng tử Parameswara đă quá mệt mỏi,
phải nghỉ một lát dưới gốc cây Melaka. Do vậy,
đă đặt tên thành phố này như vậy. Do vị
trí thuận lợi trong hàng hải, rất đông
thương gia Ả Rập, Ba Tư, Ấn Độ và
Trung Hoa lần lượt kéo đến
buôn bán, khiến cho Malacca trở thành một thương cảng
sầm uất nhất trong vùng. Nhà Minh đă nhanh chóng
đánh hơi cơ hội này, sai Tam Bảo Thái Giám Trịnh
Ḥa dẫn một đoàn chiến thuyền tuần hành thị
uy vùng biển Nam Dương (Sử Trung Hoa thường gọi
hành động này “Trịnh Ḥa
hạ Tây Dương”) khiến cho vương triều
Xiêm và Majahapit không dám xâm chiếm Malacca. Về sau, Parameswara
cải đạo sang Hồi giáo và tự xưng là Sultan
Iskandar Shah. Vương quốc Hồi giáo này tồn tại
măi cho đến khi bị Bồ Đào Nha chiếm làm thuộc
địa vào năm 1511.
[7] Na Già có
nghĩa đen là “long tượng”,
một danh hiệu để gọi đức Phật. Có
hai cách giải thích chữ long tượng. Cách giải
thích thứ nhất, long tượng là một loài voi quư, mạnh
mẽ nhất. Trong cách hiểu thứ hai, long tượng
là rồng và voi.
[8] Chữ Tây
Dương được dùng vào thời đó không có
nghĩa là Âu Tây như về sau, mà chỉ dùng để nói
chung các nước thuộc vùng biển ở phía Nam Trung
Hoa, bao gồm Đông Nam Á, Sumatra, Java, Tích Lan, Ấn Độ,
Ba Tư v.v…