Đại
Phương Quảng Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ
mười một,
Tịnh Hạnh
Phẩm
Phần 16
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh
Không
Địa điểm:
Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp
Hội
Khởi giảng từ ngày mồng Bảy
tháng Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ
tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ
Trang và Minh Tiến
Tập 1493
Chư vị đồng học,
xin hăy ngồi xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ
mười một, phần trả lời của Văn
Thù Bồ Tát, xem từ đoạn thứ hai trong phần
trường hàng. Đoạn thứ hai gồm mười
câu, chúng tôi vẫn chưa nói xong. Chúng tôi đọc kinh
văn trước một lượt.
(Kinh) Phật
tử! Nhược chư Bồ Tát thiện dụng kỳ
tâm, tắc hoạch nhất thiết thắng diệu công
đức, ư chư Phật pháp, tâm vô sở ngại, trụ
khứ, lai, kim chư Phật chi đạo, tùy chúng sanh trụ,
hằng bất xả ly, như chư pháp tướng, tất
năng thông đạt, đoạn nhất thiết ác, cụ
túc chúng thiện, đương như Phổ Hiền sắc
tượng đệ nhất.
(經)佛子。若諸菩薩善用其心。則獲一切勝妙功德。於諸佛法心無所礙。住去來今諸佛之道。隨眾生住恆不捨離。如諸法相。悉能通達。斷一切惡。具足眾善。當如普賢色像第一。
(Kinh:
Này Phật
tử! Nếu các vị Bồ Tát khéo dùng cái tâm, sẽ
đạt được hết thảy công đức
thù thắng, nhiệm mầu, trong các Phật pháp, tâm không bị
chướng ngại, trụ trong đạo của quá khứ,
vị lai, hiện tại chư Phật, thuận theo chúng
sanh để trụ, thường chẳng ĺa bỏ,
như các pháp tướng, đều có thể thông đạt,
đoạn hết thảy ác, trọn đủ các điều
thiện, sẽ như Phổ Hiền Bồ Tát sắc
tướng bậc nhất).
Lần
trước chúng ta học đến chỗ này; bây giờ,
chúng ta xem phần kế tiếp, câu thứ tám…
(Kinh)
Nhất thiết hạnh nguyện giai đắc cụ
túc.
(經)一切行願皆得具足。
(Kinh:
Hết thảy các hạnh nguyện đều được
trọn đủ).
Chúng
ta xem câu này. Trong phần chú giải, Thanh Lương đại
sư đă nói:
(Sớ)
Tức thị tiền văn, thành tựu Thập Lực, đắc
Phật quả vị, phương cụ túc cố.
(疏)即是前文,成就十力,得佛果位,方具足故。
(Sớ:
Chính là [tương ứng với] đoạn kinh văn
trong phần trước, [tức phần câu hỏi phải
làm như thế nào để] thành tựu Thập Lực,
đắc quả vị Phật th́ mới là trọn đủ).
Kế
đó, Ngài có chú giải.
(Sớ)
Cố Tấn Kinh vô thử nhất cú.
(疏)故晉經無此一句。
(Sớ:
[Kinh Hoa Nghiêm] bản dịch đời Tấn không có câu
này).
Tấn
Kinh là Lục Thập Hoa Nghiêm[1], Lục
Thập Hoa Nghiêm chẳng có câu này, tức là câu “nhất thiết hạnh nguyện
giai đắc cụ túc” (hết thảy hạnh nguyện
đều được trọn đủ), mà có câu ǵ? “Thành tựu Như Lai Nhất Thiết
Chủng Trí”. Có một câu như thế đó.
(Sớ)
Tư vi thập chủng Trí Lực, định vô hoặc dă.
(疏)斯為十種智力,定無惑也。
(Sớ:
Đấy chính là nói về mười loại Trí Lực,
chắc chắn là chẳng sai lầm vậy).
Thành
tựu Nhất Thiết Chủng Trí của Như Lai chính
là thành tựu Thập Lực. Tuy câu văn khác nhau, ư
nghĩa như nhau. Do vậy, khẳng định chỗ
này là nói đến mười loại trí huệ viên măn của
đức Phật. “Mười”
trong Hoa Nghiêm nhằm biểu thị pháp, biểu thị ư
nghĩa “vô tận”. Trong phần
trước, do đă từng giới thiệu mười
loại Trí Lực với quư vị, ở đây, chúng tôi
nêu ra danh xưng là được rồi!
Thứ
nhất là Thị Xứ Phi Xứ Trí Lực. Được
gọi là Thị Xứ (是處) là v́
nhân và quả tương ứng: Do thiện nhân, đắc
thiện quả; do ác nhân, đắc ác báo. Đó là Thị Xứ.
Phi Xứ (非處) là do nhân lành sẽ mắc quả ác, chẳng có chuyện
này! Do nhân ác mà sẽ được quả lành, cũng
không có chuyện này! Ngày hôm qua, tiến sĩ Chung Mậu Sâm
thuộc đại học Côn Sĩ Lan (Queensland) đă fax một
phần bài giảng cho tôi xem. Gần đây, ông ta đă dùng
bài giảng ấy để diễn thuyết ở nhiều
nơi. Người ta mời ông Chung đến phát biểu,
giảng diễn. Nội dung là báo cáo sự nghiên cứu của
người phương Tây đối với chuyện
luân hồi. Ông ta nêu ra rất nhiều trường hợp
nhằm nói rơ chuyện ấy là thật, chẳng giả.
Có người từ loài người trong đời quá khứ
sanh vào [thế giới này], có người từ súc sanh đạo
sanh vào, c̣n có những người chẳng đến từ
địa cầu, mà đến từ tinh cầu khác. [Những
trường hợp ấy] đều được các
khoa học gia và các chuyên gia nghiên cứu y học nổi
danh dùng tinh thần khoa học, vận dụng phương
pháp khoa học để chứng minh, chẳng hai, chẳng
khác so với những ǵ Phật pháp đă nói!
Người
hiện thời tin tưởng khoa học, chẳng tin tôn
giáo. Những người ấy (những nhà khoa học và
chuyên gia y học nói trên) v́ ḷng hiếu kỳ, đă bỏ
ra rất nhiều tinh thần và thời gian để t́m
ṭi, chứng thực những chuyện này. Do vậy, hiện
thời có không ít người phương Tây tin tưởng,
tin vào những điều họ nói. Tôi c̣n thấy một
bức ảnh, chụp rất rơ. Đấy là ảnh của
hai vị học giả chụp trong một khu rừng. Họ
cũng không biết, đến khu rừng ấy chơi;
trên thực tế, khu rừng ấy là nơi cư trụ
của tổ tiên thổ dân. Thổ dân không cho người
khác vào thăm, mà hai người bọn họ cũng không
biết, dẫu sao thổ dân chẳng phát hiện họ, họ
đi vào trong đó. Khi vào đó, bèn chụp một tấm ảnh.
Sau khi quay về, rửa ra, phát hiện bên cạnh họ có
người đứng. Đấy là tổ tiên của thổ
dân, mang h́nh dạng quỷ, rất rơ nét. Tấm ảnh ấy
đă biểu lộ [sự thật].
V́
vậy, dùng âm thanh, dùng [làn sóng] vô tuyến điện, có thể
trao đổi, đàm thoại với những người
thuộc các chiều không gian khác biệt. Mỗi lần
đàm thoại, thời gian có thể kéo dài đến bốn
năm phút. [Điều này] cho thấy nhân quả báo ứng
chẳng sai sót mảy may. Đối với bất cứ
ai trong thế gian này, những chuyện quư vị gặp gỡ
trong một đời, chắc chắn chẳng phải là
đột nhiên, chắc chắn là có tiền nhân, lại c̣n
có hậu quả trong đời sau, nhân quả vĩnh viễn
tuần hoàn! Chung cư sĩ viết một lá thư gởi
cho tôi, cho biết trong năm nay (2006), ông ta chuẩn bị
giảng diễn bốn mươi tám lần, giảng về
chuyên đề này. Nội dung mỗi lần giảng đều
được bổ sung, càng về sau, nhất định
là càng hấp dẫn hơn, có quá nhiều dẫn chứng.
Trong tương lai, có thể in thành sách, [ghi chép những dữ
kiện do] người ngoại quốc nghiên cứu về
nhân quả luân hồi; đấy là sách chuyên nói về nhân
quả báo ứng. Trong mười loại lực của
Phật, đặt loại này (Thị Xứ Phi Xứ Trí
Lực) hàng đầu, có dụng ư rất sâu!
Người
hiểu rơ triệt để chuyện này là Phật, Bồ
Tát. Bồ Tát hiểu rơ, Bồ Tát cũng có Thập Lực,
nhưng năng lực so với Phật vẫn chênh lệch
rất lớn. Đối với Thập Lực của Bồ
Tát và Thập Lực của Như Lai, chúng tôi đă từng
thưa tŕnh rồi, và [chúng ta] cũng đă từng học
rồi. Chuyện này là thật, chẳng giả! Sau khi hiểu
rơ, [sẽ biết] bản thân chúng ta khởi tâm động
niệm, ngôn ngữ, tạo tác chớ nên không cẩn thận!
Đời người trong thế gian này, nói thật ra, hết
sức ngắn ngủi, tạm bợ! Trăm năm chỉ
là một cái khảy ngón tay mà thôi! Giống như ngày hôm
qua, tôi đă báo cáo trong hai mươi lăm phút với các vị
phụ lăo ở quê tôi (ngày Tết chẳng thể trở về).
Tôi nói, tôi rời khỏi quê nhà đă bảy mươi
năm, đúng là một cái khảy ngón tay, trong hồi ức
vẫn như chuyện mới xảy ra ngày hôm qua! Thế
nhưng bảy mươi năm biến hóa rất lớn!
[Trong khoảng] một cái khảy ngón tay, cho thấy đời
người vô thường, đời người khổ
sở, ngắn ngủi; chư Phật, Bồ Tát, cổ
thánh tiên hiền nhắc nhở chúng ta phải chú trọng đời
sau. Trong đời này, có rất nhiều người hỏi
tôi, người Trung Hoa lẫn ngoại quốc đều
hỏi, đời người rốt cuộc có ư nghĩa
ǵ? Rốt cuộc có giá trị ǵ? Tôi nghe câu hỏi này quá
nhiều! Câu trả lời chung là “con người sống trên đời, có ư nghĩa
nhất, có giá trị nhất, chính là nâng cao linh tánh của
chính ḿnh”. Nói theo Phật pháp, sẽ là “đoạn phiền năo, khai trí huệ”, điều
này là quan trọng!
Đức
Phật đă dạy thật hay: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức
tướng của Như Lai”, kinh Hoa Nghiêm chép như vậy
đó. “Chỉ v́ vọng tưởng
và chấp trước mà chẳng thể chứng đắc”.
Trí huệ viên măn là bản năng (本能, năng lực sẵn có) của tự tánh, vốn
sẵn trọn đủ. Đức năng viên măn, nay
chúng ta gọi “đức
năng” là “năng lực,
tài nghệ” cũng là b́nh đẳng [với Như Lai],
chẳng có ǵ không trọn đủ! Người Hoa gọi
tướng hảo là “phước
báo”; phước báo ấy chẳng thể nghĩ bàn. Không
chỉ là chẳng t́m thấy trong nhân gian, mà Đại Phạm
Thiên chẳng thể sánh bằng, Ma Hê Thủ La Thiên chẳng
thể sánh bằng, phước báo to dường ấy!
Quư vị nh́n vào thế giới Hoa Tạng, nh́n vào thế
giới Cực Lạc, sẽ hiểu rơ. Phước báo ấy
chẳng phải do đầu tư công sức mà có, mà là do
tự tánh vốn sẵn có. Chỉ cần quư vị diệt
trừ chướng ngại, chúng sẽ hiện tiền.
Hiện
thời, chúng ta có chướng ngại, chướng ngại
là ǵ? Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước,
khiến cho chúng ta chẳng thể chứng đắc. Luân
hồi trong lục đạo, tử tử sanh sanh chẳng
hết, chẳng xong. Đấy là thống khổ, đấy
là sai lầm. Nếu chẳng có cơ duyên nghe Phật pháp, đúng
là chẳng biết kiếp nào, đời nào, quư vị mới
có cơ hội gặp gỡ Phật pháp, mới có thể
liễu giải chân tướng sự thật này! Sau khi
đă liễu giải, sẽ có hy vọng vượt thoát,
chẳng c̣n làm chuyện ấy (sanh tử luân hồi) nữa!
Trong kinh luận, thường nói về chuyện này. “Kẻ đáng thương xót”,
đúng là đáng thương! Do vậy, trong mười loại
đức năng của Phật, xếp
Thị Xứ Phi Xứ đầu tiên, có dụng ư rất sâu,
đă ban cho chúng ta một sự cảnh tỉnh mạnh mẽ,
mà cũng là ban cho chúng ta một khải thị rất
lớn! Đối với xă hội hiện thời, giáo huấn
này rất hữu dụng; đấy cũng chính là giáo dục
nhân quả do Ấn Quang đại sư suốt đời
đề xướng! Nếu con người hiểu nhân
quả, khởi tâm động niệm sẽ tự nhiên
thâu liễm. Có thể tin Phật, Bồ Tát, nương
theo giáo huấn của Phật, Bồ Tát để hành, sẽ
là như năm xưa Chương Gia đại sư đă
dạy tôi: “Trong cửa nhà Phật,
có cầu ắt ứng”. Khi
đó, tôi sống hết sức khốn khổ. Thân cận
đại sư, Ngài dạy tôi, giống như Viên Liễu
Phàm gặp Vân Cốc đại sư. Bất quá, tôi gặp
Chương Gia đại sư, Chương Gia đại
sư dạy tôi ở một tầng cấp c̣n cao hơn
so với Vân Cốc thiền sư dạy tiên sinh Liễu
Phàm. V́ tiên sinh Liễu Phàm vẫn chẳng có pháp xuất thế,
tôi được tiếp xúc [đại sư], tuy thời
gian chẳng dài, theo thầy chỉ có ba năm, đă đặt
vững cơ sở cho pháp xuất thế. Đấy
cũng là nói đến nhân quả. Nói chung là có duyên từ
đời trước. Thiện tri thức có thể gặp,
chứ chẳng thể cầu, đều là duyên phận
trong đời quá khứ, người hiện thời nói
là “cơ hội”. Quư vị
phải nhận biết cơ hội ấy. Nếu chẳng
nhận biết, chẳng thể nắm vững, cơ
duyên hễ buông tay sẽ qua đi, muốn gặp lại, chẳng
phải là chuyện dễ dàng như thế đâu nhé! V́ thế,
người có trí huệ chẳng có ǵ khác, chính là nhận
biết cơ hội, nắm lấy cơ hội, th́ mới
có thể thành tựu sự nghiệp, thành tựu công đức.
Thứ
hai là Nghiệp Trí Lực, biết thiện nghiệp và ác
nghiệp do chúng sanh đă tạo trong đời đời
kiếp kiếp.
Thứ
ba là Định Trí Lực.
Thứ
tư là Căn Trí Lực. Tiếp đó là Dục Trí Lực,
Giới Trí Lực, và Chí Xứ Trí Lực. Giới (界) là
cảnh giới, cảnh giới của mỗi người
khác nhau. Chí Xứ (至處) là trong tương lai, khi đời này đă hết,
quư vị sẽ đi về đâu, đức Phật biết
rất rơ ràng. Trong đời này, quư vị có thể tu
Ngũ Giới, tu Thập Thiện, hoặc nói theo Nho gia,
quư vị có luân thường, đạo đức. Luân
thường đạo đức và Ngũ Giới có tác dụng
như nhau. Ngũ Thường là nhân, nghĩa, lễ, trí,
tín. Nhân: Chẳng sát sanh, suy từ ḿnh mà nghĩ đến
người khác; điều ǵ ta không muốn, người
nhân từ chẳng sát sanh, chớ làm cho người khác. Nghĩa:
Không trộm cắp, Lễ: Không tà dâm. Tín: Không nói dối.
Trí: Không uống rượu. V́ thế, nhân, nghĩa, lễ,
trí, tín và Ngũ Giới của nhà Phật hết sức tương
tự. Người có thể suốt đời thọ tŕ
Ngũ Giới, chẳng trái nghịch Ngũ Thường,
năm loại ấy được gọi là “thường đạo” (常道, đạo thường hằng), chẳng trái nghịch
nhân, nghĩa, lễ, trí, tín; đời sau vẫn được
làm thân người, chẳng đánh mất thân người.
Đời sau, quư vị vẫn sanh trong loài người.
Nếu
là thượng phẩm Thập Thiện, tâm từ bi sâu nặng,
thương xót hết thảy chúng sanh, thường cứu
giúp chúng sanh, sẽ sanh trong Dục Giới Thiên. Vừa nh́n
[đă biết] là trong đời sau, quư vị sẽ sanh
làm một vị trời trong Dục Giới. Nếu tu Thiền
đắc Định, bất luận tại gia hay xuất
gia, quư vị tu học pháp môn ấy đắc Định,
tùy thuộc công phu định lực của quư vị cạn
hay sâu, sẽ sanh trong Sơ Thiền Thiên, Nhị Thiền
Thiên, Tam Thiền Thiên, hay Tứ Thiền Thiên, biết quư vị
sẽ sanh vào đâu. Đối với người niệm
Phật văng sanh Tây Phương Tịnh Độ, sẽ biết
quư vị sanh vào Đồng Cư Độ, hay Phương
Tiện Độ, hay Thật Báo Độ, đức Phật
biết rành rẽ, rơ ràng, minh bạch. Tạo tác ác nghiệp,
nhất định sẽ đọa trong ba ác đạo. T́nh
huống trong ba ác đạo cũng rất phức tạp,
tùy thuộc quư vị tạo nghiệp ǵ. V́ thế, trong
tương lai sẽ đến nơi đâu, đức
Phật biết rất rơ. Đấy là Chí Xứ Trí Lực.
Thứ
tám là Túc Mạng. Túc Mạng là biết đời đời
kiếp kiếp của quư vị trong quá khứ.
Thứ
chín là Thiên Nhăn, đấy là [trí lực] thuộc về quả
địa Như Lai, như trong kinh Kim Cang đă nói: “Ngũ nhăn viên minh”. Thấy thấu
triệt hư không pháp giới, chẳng cần nhờ vào bất
cứ máy móc ǵ! Lại c̣n có thể thấy thấu suốt
những chiều không gian khác nhau như các khoa học gia hiện
thời đă nói, chẳng có mảy may chướng ngại.
Cuối
cùng là Lậu Tận. Lậu Tận (漏盡) nghĩa là đoạn sạch tập khí vô minh từ
vô thỉ.
Quả
địa Như Lai có năng lực to lớn ngần ấy;
v́ thế, mười loại này đều gọi là Trí Lực,
tức là trí huệ viên măn khởi tác dụng. Những tác
dụng ấy vô lượng vô biên, quy nạp thành mười
điều. Chúng ta thường nói “tự tánh vốn sẵn có trí huệ và đức
năng”. Mười điều ấy đều thuộc
loại đức năng. Hoa Tạng và Cực Lạc
đều thuộc về tướng hảo, là thứ “nhà ḿnh vốn sẵn có”!
Kinh
phải thường niệm, phải thường nghe! Niệm
nhiều, nghe nhiều, sẽ dần dần thông thuộc.
Khi đă thuần thục, quư vị mới có thể ngay lập
tức đảm đương, hoát nhiên hiểu rơ: “Đấy
là quê nhà của ta, ta hăy nên trở về, chẳng nên lênh
đênh trong lục đạo”. Thăm viếng các nơi
trong lục đạo th́ được, chư Phật, Bồ
Tát thị hiện trong chín pháp giới, giống như chúng
ta ra ngoài du lịch văng cảnh, đă mệt mỏi rồi,
hăy nên biết trở về nhà. Nay chúng ta đang giữa
đường lạc lối, quên bẵng nhà ḿnh! Chư vị
phải biết: Quê nhà của chúng ta là thế giới Cực
Lạc, là thế giới Hoa Tạng. Hoa Tạng và Cực
Lạc là một, không hai, cổ đại đức
đă nói rất rơ ràng. Hoa Tạng giống như một
thành thị, thành phố Hương Cảng này ví như Hoa
Tạng. Cực Lạc là một khu vực náo nhiệt nhất,
tinh hoa nhất trong Hoa Tạng, đại khái giống
như đại lộ Hoàng Hậu (Queen’s Road) của
Hương Cảng. Do vậy, chúng là một, không hai, sanh về
Cực Lạc là sanh vào Hoa Tạng.
Sau
đấy, Thanh Lương đại sư c̣n có một
đoạn chú giải:
(Sớ)
Duy thử nhất đoạn.
(疏)唯此一段。
(Sớ: Nhưng đoạn này).
Đoạn
này là một đoạn trong mười đoạn.
(Sớ)
Vọng tiền bất thứ, dĩ nội cụ Chủng
Trí, ngoại cụ sắc tướng. Thử nhị
đồng tại quả viên, tiền hậu vô tại, hoặc
dịch giả bất hồi.
(疏)望前不次,以內具種智,外具色相,此二同在果圓,前後無在,或譯者不迴。
(Sớ: So với những đoạn trước,
[đoạn này] sẽ chẳng kém, v́ trong là đầy
đủ Chủng Trí, ngoài là đầy đủ sắc
tướng. Hai chuyện này đều thuộc về cái
quả viên măn, nhưng các đoạn trước và sau
[đoạn này] đều không có, có lẽ là do dịch giả
không lặp đi lặp lại).
Trong
những phần trước đă có nói, trong là đầy
đủ Chủng Trí, ngoài là đầy đủ sắc
tướng, có cùng ư nghĩa với đoạn này. Người
Hoa đối với ngôn ngữ và văn chương tránh
trùng lặp. Trong một bài văn, chẳng thể nhắc
tới, nhắc lui cùng một chuyện! Trong đoạn
văn này, hiển nhiên là Ngài đă nhắc lại. Bởi
lẽ, hai chuyện này đều thuộc về cái quả
viên măn, tức quả địa Như Lai, nhưng chúng ta hiểu:
Đức Phật ứng hóa tại Ấn Độ, phong
tục Ấn Độ chẳng giống Trung Hoa. Người
Hoa chú trọng đơn giản, trọng yếu, tường
tận, rơ ràng. Ngôn ngữ và văn tự luôn lấy những
điều này làm tiêu chuẩn. Phải nói đơn giản,
trọng yếu, lại c̣n phải cặn kẽ, lại
c̣n phải rơ ràng; đấy là khéo ăn nói, văn
chương hay! Họ dùng bốn chữ ấy để
làm tiêu chuẩn (“giản, yếu,
tường, minh”), nhưng người Ấn Độ
chẳng như vậy. Người Ấn Độ chẳng
ngại phiền phức, lặp đi lặp lại nhiều
lượt. Nói thật ra, cách ấy cũng có ưu điểm,
thật sự từ bi. V́ thế, trong kinh Phật, những
chỗ được lặp lại quá nhiều!
Trong
kinh Hoa Nghiêm, những thứ như Thập Lực, Tứ
Vô Úy, Lục Độ, Tứ Nhiếp chẳng biết đă
được nhắc đi nhắc lại bao nhiêu lần.
Đấy là ḷng từ bi của đức Thế Tôn. Thuở
Phật, Bồ Tát trụ thế, giảng kinh, chúng ta biết
các Ngài có Thường Tùy Chúng, [tức là] những học
tṛ cố định, [như đối với Thích Ca Mâu
Ni Phật], kinh nói là một ngàn hai trăm năm
mươi lăm vị. Đấy là các vị học tṛ
cố định, luôn theo đức Phật. Đức
Phật đến đâu, các Ngài theo tới đó, suốt
đời chẳng ĺa khỏi. Trừ những vị ấy
ra, chúng ta có thể suy ra: C̣n có bao nhiêu học tṛ “lưu động”, tức là
những người đến cầu giáo từ bốn
phương tám hướng. Họ chẳng phải là Thường
Tùy Chúng, có thể theo đức Phật dăm ba ngày rồi
rời đi; có người theo đức Phật một,
hai tháng bèn rời đi, có tánh chất lưu động rất
lớn. Đức Phật hằng ngày cùng mọi người
giảng kinh, thuyết pháp, đối với những
người mang tánh chất lưu động nhiều như
thế, chẳng thể không chiếu cố. V́ thế, [khi
giảng giải], Ngài nhắc đi nhắc lại nhiều
lần. Đối với Thường Tùy Chúng, được
nghe lặp đi lặp lại mỗi lần, sẽ có lợi,
v́ họ chưa giác ngộ!
Tại
Trung Hoa, cổ đại đức dạy mọi người
phải nên “thâm nhập một
môn, huân tu lâu dài”. “Lâu dài” là lần này sang lần khác, nhiều
lần, chẳng phải là một lần, huân tu lâu dài mà! Với
t́nh trạng như vậy, quư vị mới có thể đắc
Định, tâm quư vị đặt nơi giáo lư, nơi giáo
nghĩa, tâm an trụ nơi ấy chính là Định. Định
đến mức độ nhất định, sẽ khai
ngộ, hoát nhiên đại ngộ. Do vậy, nghe càng nhiều
lượt càng tốt! Càng nhiều càng hay! Quyết định
chẳng thể nói “ta đă nghe bộ kinh này, chẳng cần
nghe nữa”. Học thứ ǵ [mà có thái độ] như vậy,
suốt một đời rất khó thành tựu! Trong truyện
kư của cổ đức ở Trung Hoa, đă ghi chép rất
nhiều: Người học Giáo nghe một bộ kinh bao
nhiêu lượt. Chỗ nào có pháp sư giảng bộ kinh ấy,
họ nhất định sẽ đến nghe, họ học
môn ấy! Đạo Tuyên luật sư học Tứ Phần
Luật, nghe giảng hai mươi lần. Số lần
nghe ít ỏi sẽ không được!
Thuở
trước, tôi ở Đài Trung, tham dự khóa giảng Phật
pháp dành cho sinh viên đại học và chuyên nghiệp do thầy
Lư tổ chức. Thầy dạy một môn là “Phật học khái yếu thập
tứ giảng”. Tôi nghe mười một lần, nghe nhuyễn
nhừ! Mười một lần là mười một khóa
giảng, tôi đều tới tham dự. Nhất định
là chẳng chán, chẳng phiền, mỗi lần nghe đều
là mỗi lần có lợi ích, đều có ngộ xứ.
Cho nên, nhất định phải hoan hỷ học tập,
tuyệt đối chẳng thể tự cho là đúng, tự
cho là đă trọn đủ! Nếu như vậy, quư vị
sẽ chẳng thể tiến bộ nữa. Bất cứ
pháp môn nào, bất cứ bộ kinh luận nào, vĩnh viễn
nghe chẳng mệt, chẳng mỏi mệt, chẳng chán
ngán! Nếu quư vị hỏi v́ sao ư? Có pháp hỷ! V́ thế
nói là “pháp hỷ sung măn”. Khổng
phu tử bảo: “Học nhi thời
tập chi, bất diệc duyệt hồ” (Học rồi
luôn tập luyện, cũng chẳng vui sao). “Tập” (習) là
lần này sang lần khác, trùng lặp vô số lần. Như
vậy sẽ thật sự có ngộ xứ, ngộ sẽ
không ngừng tăng cao hơn. Đạo lư là như thế
đó, chúng ta phải hiểu! Câu kế tiếp…
(Kinh)
Ư nhất thiết pháp vô bất tự tại.
(經)於一切法無不自在。
(Kinh: Trong hết thảy các pháp, không ǵ chẳng tự
tại).
Đấy
là thông đạt hết thảy các pháp. Sau khi đă thông
đạt, bèn vận dụng vào cuộc sống, thực
hiện trong công việc, vận dụng vào đăi người
tiếp vật, nhất là áp dụng vào chuyện học
Giáo. Trong phần trước, chúng ta đă đọc rồi;
ở đây, Thanh Lương đại sư nhắc nhở…
(Sớ)
Cố năng dữ vật.
(疏)故能與物。
(Sớ:
V́ thế, đối với muôn vật có thể…).
Quư
vị thấy Ngài không nói “dữ
nhân”. “Dữ nhân” th́ trong mười pháp giới, chỉ
có nhân pháp giới, chín pháp giới kia chẳng có phần!
[Dùng chữ] Vật (物) hay lắm! Vật có ư nghĩa rộng hơn Nhân (人). “Vật” bao gồm chúng sanh hữu
t́nh trong mười pháp giới. V́ thế…
(Sớ)
Cố năng dữ vật, vi y, vi cứu, vi cự, vi
minh.
(疏)故能與物為依為救,為炬為明。
(Sớ: V́ thế, có thể làm chỗ nương
tựa, chỗ cứu vớt, làm đuốc, làm sự
sáng cho muôn vật).
Trong
Phật pháp, thường nói câu này: “Đáng nên dùng thân ǵ để độ được,
bèn hiện thân ấy. Đáng nên dùng pháp ǵ để giáo
hóa, bèn dùng pháp ấy”. Đức Phật chẳng có pháp
nhất định. Đức Phật cũng chẳng có h́nh
tướng nhất định, thuận theo cái tâm của
chúng sanh, ứng với khả năng lănh hội của họ.
Chúng sanh có cảm, Phật, Bồ Tát sẽ có ứng, cảm
ứng đạo giao, trọn chẳng lỡ thời! V́
thế, thuyết pháp, ngay cả trong kinh điển
cũng h́nh dung là “hải triều
âm”. Hải triều âm là ǵ? Đến một lúc nhất
định, thủy triều sẽ dâng cao (nước
ṛng), đến một thời gian nhất định, thủy
triều sẽ rút xuống (nước rặc), nó rất
giữ chữ Tín! Chúng sanh có cảm, Phật bèn tới, rất
giữ chữ Tín. Chẳng thể nói “chúng sanh có cảm,
nhưng Phật chẳng ứng”, chẳng có đạo lư ấy!
Giống như nước biển, đến lúc nhất
định, nước sẽ dâng lên.
Nếu
chẳng tự tại nơi pháp, quư vị sẽ chẳng
có năng lực ấy. Tới khi nào mới có năng lực
ấy? Các đồng tu học Phật chúng ta, bất luận
tại gia hay xuất gia, đều hy vọng đạt
được. Đấy là thật sự tự tại,
đắc đại tự tại! Trong giáo pháp Đại
Thừa đă dạy: Bồ Tát kiến tánh sẽ có [năng
lực ấy]. Theo kinh Hoa Nghiêm, hàng Bồ Tát từ Sơ
Trụ trở lên, tức là bốn mươi mốt địa
vị Pháp Thân đại sĩ sẽ có năng lực ấy.
Trí huệ của các Ngài xác thực là rất gần với
đức Phật. Tuy chẳng viên măn như đức Phật,
nhưng lũ phàm phu trong chín pháp giới thấy các Ngài
đă viên măn tột bậc, chẳng t́m thấy mảy may
khuyết hăm nào! Nhưng các Ngài tự nói “vẫn chưa
viên măn”. Sơ Trụ Bồ Tát vượt thoát lục
đạo, vượt thoát mười pháp giới, thật
sự chẳng dễ dàng! Trong phần trước đă
nói rất nhiều. Đoạn Kiến Tư phiền năo,
Trần Sa phiền năo cũng đoạn, Vô Minh phiền
năo cũng đoạn. Vô minh chẳng phải là có bốn
mươi mốt phẩm ư? Phá một phẩm. Phá một
phẩm vô minh cũng đoạn. Bốn mươi phẩm
sau đó là tập khí vô minh. Tập khí chẳng dễ
đoạn, nhưng tập khí chẳng gây trở ngại
to lớn. Bồ Tát có Định, Huệ, chế phục
nó, đoạn dần dần, dần dần hướng
đến viên măn.
Chúng
ta phải hiểu rơ những Lư và Sự này. Sau khi đă thật
sự hiểu rơ, tôi tin tưởng quư vị nhất định
sẽ chọn lựa pháp môn Niệm Phật. V́ sao? Pháp môn
Niệm Phật ổn thỏa nhất, đơn giản
nhất, dễ dàng nhất, thành tựu nhanh chóng. Thành tựu
xác thực chẳng thể nghĩ bàn. V́ thế, người
niệm Phật đông đảo. Từ nay về sau,
người niệm Phật sẽ ngày càng đông, v́ pháp
môn này hết sức thích hợp với chúng sanh trong hiện
đại. Chúng sanh trong hiện thời hướng theo
khoa học, công nghiệp hóa, cuộc sống bận rộn,
giành giật từng giây phút một. Những pháp môn khác cần
phải có thời gian tu học rất dài, chẳng thuận
tiện. Pháp môn Tịnh Tông quá thuận tiện, chẳng trở
ngại công việc của quư vị, chẳng trở ngại
cuộc sống của quư vị; đi, đứng, ngồi,
nằm đều có thể tương ứng.
Có
thể thành tựu hay không? Vẫn là phải giải hạnh
tương ứng! Chớ nên không biết lư luận
được nói trong kinh điển Tịnh Tông. Không biết,
có thể là quư vị sẽ nghi hoặc. “Nghi” là chướng ngại, chướng ngại
sự văng sanh. Sự phải “như pháp” (đúng pháp); chẳng
đúng pháp, sẽ chẳng thể văng sanh. Để văng
sanh thế giới Cực Lạc; trong ấy, điều
quan trọng nhất là một quan niệm: Nhất định
phải hiểu rơ thế giới này ô nhiễm, thế giới
này quá khổ, chẳng thể có mảy may lưu luyến
thế giới này. Hễ có mảy may lưu luyến, quư vị
sẽ chẳng thể văng sanh. V́ thế, phải triệt
để buông xuống, buông xuống sạch sành sanh. Sau
khi đă buông xuống sạch sành sanh, quư vị sẽ hết
sức vui sướng. V́ sao? Ít phiền năo! Trong thế
gian này, nỗi lo âu lớn nhất của người thế
gian là lo được, lo mất. Chẳng có, bèn mong mỏi
đạt được. Sau khi đạt được,
lại sợ mất đi, lo được, lo mất. Chuyện
này khiến họ suốt đời bận tâm, chẳng thể
buông xuống được! Nào có biết, không buông xuống
được th́ họ có thể thật sự đạt
được hay không? Không đạt được! Ngay
cả thân thể của họ c̣n chẳng đạt
được. Con người có sống, ắt có chết;
sau khi đă chết, thân thể chẳng mang theo được.
Thân c̣n chẳng mang theo được, há quư vị có thể
mang theo vật ngoài thân ư? Phải giác ngộ điều
này!
Trong
kinh luận, thường nói: “Vạn
ban tương bất khứ, duy hữu nghiệp tùy thân”
(Muôn thứ chẳng đem được, chỉ có nghiệp
theo thân). Chẳng mang theo được th́ phải buông xuống.
Buông xuống, chẳng phải là không cần đến sự
nữa. Nếu [hiểu “buông xuống” là “từ bỏ”],
quư vị đă sai mất rồi. [Buông xuống là] trong tâm
chớ nên vương vấn những điều ấy! Buông
xuống nỗi ưu lự và vướng mắc của quư
vị, phải buông xuống! Chẳng c̣n bận tâm v́ chuyện
ấy! Nếu mang theo được, quư vị phải
lưu ư, cái đem theo được là ǵ vậy? Thiện
nghiệp, ác nghiệp. Nếu mang theo thiện nghiệp, đời
kế tiếp sẽ là quả báo trong ba thiện đạo.
Mang theo ác nghiệp, đời kế tiếp sẽ là ngạ
quỷ, địa ngục, súc sanh. Quư vị phải coi trọng
điều này! Người niệm Phật nhất định
phải niệm câu Phật hiệu cho tốt đẹp,
mang theo tịnh nghiệp. Quư vị thấy một câu A Di
Đà Phật, chẳng có ba thiện đạo, ba ác đạo
cũng chẳng có. Không chỉ là trong lục đạo chẳng
có, mà trong mười pháp giới cũng chẳng có. Quả
báo của cái nghiệp ấy ở nơi đâu? Quả
báo ở trong Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Nhân như thế, quả như thế, chẳng sai sót mảy
may!
V́
thế, chúng tôi đă làm như vậy nhiều năm. Tôi học
tập kinh giáo, năm nay là năm 2006, tức là đă năm
mươi lăm năm! Năm mươi lăm năm kể
như thời gian chẳng ngắn ngủi, đă hiểu
minh bạch rồi! Phước báo trong nhân gian hay cơi trời
đều phải buông xuống, chớ nên có ư niệm ấy.
Nếu có ư niệm ấy, sẽ phiền phức to lớn!
Tu học cả đời này để đổi lấy
phước báo trời người trong đời sau.
Phước báo ấy sẽ có lúc hưởng hết.
Hưởng hết phước báo th́ sẽ như thế
nào? Trong đời này, khi chúng ta chưa học Phật, do
chẳng hiểu chuyện, đă tạo tác rất nhiều
ác nghiệp. Sau khi học Phật, mười năm
trước, hai mươi năm trước, chưa nhập
cảnh giới, ác nghiệp ít đi, nhưng vẫn có! Tạo
ác nghiệp ít, thiện nghiệp dần dần nhiều
hơn, chắc chắn chẳng thoát khỏi quả báo. Quư
vị nói chuyện này có đáng sợ lắm không?
Học
Phật sau ba mươi năm mới dần dần khế
nhập cảnh giới, chẳng tạo ác nghiệp, ác niệm
dần dần cũng chẳng có. Nếu chúng ta dùng công
đức tu hành ấy để mong cầu phước
báo cho đời sau, phiền phức sẽ xảy đến!
Đời sau xác thực là có phước báo, làm đế
vương, đại thần! Nếu chúng ta nh́n vào các
đời, nh́n vào lịch sử, những kẻ làm đế
vương, đại thần có địa vị cao
như vậy, có tạo nghiệp hay không? Gần như chẳng
t́m thấy một ai không tạo ác nghiệp! Một chánh
sách sai lầm, bao nhiêu chúng sanh chịu khổ, quư vị có
phải gánh trách nhiệm hay không? Họ làm lành dễ dàng, mà
tạo ác cũng dễ dàng. V́ thế, hưởng hết phước,
chẳng có ai không đọa lạc; rất ít người
hưởng hết phước mà có thể tiến cao
hơn, quá ít! Những sự thật ấy chúng ta đều
hiểu rơ ràng, đều hiểu minh bạch. V́ thế, dứt
khoát kiên quyết chẳng muốn luân hồi nữa, chẳng
muốn [luân chuyển] trong mười pháp giới nữa,
quyết định cầu sanh Tịnh Độ.
Có
thể sanh về Tịnh Độ hay không? Ngẫu Ích
đại sư đă nói rất hay, có thể văng sanh hay
không là do có tín nguyện hay không quyết định! Quư vị
có tin hay không? Quư vị có nguyện vọng ấy hay không? Nếu
quư vị tin tưởng, có nguyện vọng ấy, chắc
chắn được văng sanh. Phẩm vị cao hay thấp
là do tŕ danh sâu hay cạn! Sanh về Tây Phương Cực
Lạc thế giới, trong bốn cơi của Tây
Phương, quư vị sẽ sanh vào cơi nào? Quư vị là phẩm
vị ǵ? Đó là do công phu niệm Phật của quư vị
trong thường nhật [quyết định]. V́ thế,
“văng sanh được quyết
định bởi tín nguyện có hay không”, câu này nói quá
hay! Chúng ta thật sự có tín chân thành, nguyện thiết
tha, chẳng có mảy may lưu luyến đối với
thế gian này, đối với thế giới Sa Bà này, đối
với lục đạo, đối với mười
pháp giới, khẳng định văng sanh. Hễ c̣n có mảy
may tham luyến, sẽ rất khó nói! Chớ nên không biết,
chớ nên không cảnh giác, chớ nên không sớm chuẩn
bị. A! Bây giờ đă hết thời gian rồi! Chúng
tôi giảng tới chỗ này.
***
Chư
vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Chúng ta lại
xem tiếp câu cuối cùng, tức câu thứ mười.
(Kinh)
Nhi vi chúng sanh đệ nhị đạo sư.
(經)而為眾生第二導師。
(Kinh: Làm đạo sư thứ hai cho chúng sanh).
Trong
phần chú giải, Thanh Lương đại sư đă
nói rất hay. Ngài bảo:
(Sớ)
Tức thị thượng văn ư chúng siêu thắng,
thượng cầu đệ nhất, duy Phật nhất
nhân.
(疏)即是上文於眾超勝,上求第一,唯佛一人。
(Sớ: Chính là như trong phần kinh văn trước
đó [đă nói] “là bậc thù thắng siêu việt trong
đại chúng”, t́m cầu một vị bậc nhất
th́ chỉ có ḿnh đức Phật).
Đây là nói đến quả vị
Như Lai rốt ráo.
(Sớ)
Kim tài phát tâm, tắc đạo á chí tôn, cố vân đệ
nhị.
(疏)今纔發心,則道亞至尊,故云第二。
(Sớ: Nay mới phát tâm, nên bảo là đạo
chỉ kém bậc tôn quư nhất, v́ thế nói là “đệ
nhị”).
Đây
là rất khiêm hư, nói thật ra, cũng là sự thật;
nhưng ở đây, chúng ta phải chú ư. “Kim tài phát tâm” (Nay vừa mới phát tâm), phải
chú ư câu này. Nay vừa mới phát tâm, phát tâm ǵ vậy? Vô Thượng
Bồ Đề tâm. Thật sự phát cái tâm ấy, sẽ
là hạng người nào? Sơ Trụ Bồ Tát được
gọi là Phát Tâm Trụ. Do vậy có thể biết, chẳng
phải là địa vị như chúng ta trong hiện thời.
Hiện thời, chúng ta chẳng phát Bồ Đề tâm, hiện
thời là phát tâm học Phật.
Bồ
Đề tâm là ǵ? Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật dạy
“chí thành tâm, thâm tâm, hồi
hướng phát nguyện tâm”, nói đến ba loại ấy.
Chí thành tâm là Thể của Bồ Đề tâm. Đă có Thể,
đương nhiên là có Dụng. Thâm tâm là Tự Thọ Dụng,
hồi hướng phát nguyện tâm là Tha Thọ Dụng.
Cũng là như chúng tôi thường nói, đối với
chính ḿnh, quư vị dùng cái tâm ǵ? Đối với đại
chúng, quư vị dùng cái tâm ǵ? V́ thế, tác dụng của Bồ
Đề tâm được nói thành hai thứ. Trong Nho gia
cũng có nói [những điều này]. Trong sách Đại Học
của Nho gia, đă nói hai thứ, một là Thể, thứ
kia là Dụng. [Sách Đại Học] nói “thành ư chánh tâm”, “thành ư”
là Thể, chúng ta nói là “chí thành
tâm”. Họ gộp chung thâm tâm và phát nguyện hồi
hướng tâm thành một, [gọi là] “chánh tâm”. Thành ư, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị
quốc, b́nh thiên hạ. Quư vị thấy phát tâm trọng yếu
lắm! Nho gia phát tâm, đấy là thánh nhân thế gian. Phát
tâm trong Phật pháp là thánh nhân xuất thế gian, có sai khác,
chẳng giống nhau! Phát tâm xuất thế gian, điều
kiện rất nghiêm ngặt. Nho gia phát tâm, trước
đó chỉ là nói “cách vật,
trí tri”. Đấy là điều kiện tiên quyết phải
hội đủ. “Cách vật”
(格物) tương ứng với đoạn phiền năo của
[nhà Phật] chúng ta. “Trí tri” (致知) tương ứng với phá Sở Tri Chướng,
có ư nghĩa này. Thế nhưng [ư nghĩa trong Nho gia] nông cạn,
chẳng sâu xa như Phật pháp đă nói. Phật pháp nói
đoạn Phiền Năo Chướng, đoạn Trần Sa
Hoặc, đoạn Vô Minh Hoặc, nói rất sâu!
Do
vậy, đoạn Kiến Tư phiền năo, xét theo địa
vị Bồ Tát trong Hoa Nghiêm sẽ là địa vị Đệ
Thất Tín, [địa vị này đă] đoạn Kiến
Tư phiền năo. Địa vị Đệ Bát Tín, Đệ
Cửu Tín đoạn Trần Sa phiền năo. Địa vị
Đệ Thập Tín phá một phẩm vô minh, vượt
thoát mười pháp giới, chứng địa vị Sơ
Trụ. Khi ấy, chân tâm hiện tiền, chẳng c̣n dùng vọng
tâm nữa. Khi dùng vọng tâm, chân tâm chẳng hiện tiền,
Thiên Thai đại sư gọi người như vậy
là Tương Tự Tức Phật, thuộc địa vị
Tương Tự, chẳng phải là chân thật. Sau khi
đă đoạn hết vô minh, sẽ là thật, người
ấy dùng chân tâm, chẳng dùng vọng tâm. Chân tâm là Bồ
Đề tâm. Bồ Đề (Bodhi) là tiếng Phạn, dịch
sang tiếng Hán là “giác ngộ”,
chẳng có mảy may mê hoặc; đó là đại giác. Khi
đă phát Bồ Đề tâm, sẽ là đại giác tâm!
Cổ
đức giải thích kinh luận cũng chẳng dễ
hiểu, cho nên chúng tôi cũng dựa theo cách nói trong kinh
điển [để giải thích Bồ Đề tâm] bằng
cách viết mười chữ. Chí thành tâm là Thể, chúng tôi
dùng “chân thành”, dùng hai chữ ấy để
biểu thị. Chân (真) là chẳng giả, Thành (誠) là chẳng hư
ngụy. Chân thành tâm là Thể! Trong sách Trung Dung của Nho
gia, quan trọng nhất là Thành, “bất
thành vô vật” (chẳng có ḷng thành, chẳng có vật ǵ
là thật, chẳng làm được điều ǵ nên hồn).
Trong Bút Kư Đọc Sách, ông Tăng Quốc Phiên đă định
nghĩa chữ Thành rất khéo. Thành là ǵ? “Một niệm chẳng sanh th́ gọi là Thành”.
Điều này rất gần với cách nói trong Phật
pháp, chẳng sanh một niệm! Nói cách khác, lục căn của
chúng ta tiếp xúc cảnh giới bên ngoài mà chẳng khởi
tâm, không động niệm, đó là Thành. Hễ khởi
tâm động niệm, sẽ chẳng có Thành. Trước
hết là khởi tâm động niệm, sau đấy mới
có phân biệt, mới có chấp trước. V́ thế, có
phân biệt, có chấp trước, sẽ toàn là vọng
tâm, chẳng phải là chân tâm. Phải biết điều
này, Thành là chẳng khởi tâm, không động niệm.
Thâm
tâm là Tự Thọ Dụng. Thâm tâm chẳng dễ hiểu
cho lắm. Chúng tôi nói cách khác cho mọi người dễ
hiểu. Thâm tâm là ǵ? Đối với chính ḿnh, sẽ là
tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng, tâm chánh giác. Chúng ta lấy
những điều này từ tựa đề kinh Vô
Lượng Thọ. Trong tựa đề kinh Vô Lượng
Thọ, có “thanh tịnh, b́nh
đẳng, giác”. Thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác
là Tự Thọ Dụng! V́ thế, đối đăi chính
ḿnh phải thanh tịnh, chẳng thể có ô nhiễm, phải
b́nh đẳng, chớ nên có cao thấp; phải giác ngộ,
chớ nên có mê hoặc. Đấy là thâm tâm. Hồi hướng
phát nguyện tâm là tâm từ bi. Dùng ḷng đại từ
đại bi để đăi người tiếp vật.
Đấy là Bồ Đề tâm, là chân tâm.
Bồ
Tát quyết định tương ứng với mười
chữ “chân thành, thanh tịnh, b́nh
đẳng, chánh giác, từ bi”, quyết định tương
ứng, viên măn tương ứng. Đấy gọi là “tài phát tâm” (vừa mới phát
tâm). Tâm ấy vừa phát, bèn vượt thoát mười
pháp giới. Trong mười pháp giới chẳng có người
như vậy; do đó, tâm vừa phát liền vượt
thoát mười pháp giới. Nói theo Thiền Tông của Trung
Hoa th́ là ǵ? “Đại triệt
đại ngộ, minh tâm kiến tánh”. V́ thế, mười
chữ ấy là Tánh Đức; hễ kiến tánh, mười
chữ ấy (“chân thành, thanh tịnh,
b́nh đẳng, chánh giác, từ bi”) sẽ tự nhiên lưu
lộ, cũng chẳng c̣n có chướng ngại nữa!
Chẳng kiến tánh, sẽ có chướng ngại. Chướng
ngại ǵ vậy? Vô minh chướng ngại quư vị, vô
minh là mê hoặc. Phải biết: Bồ Đề tâm là chân
tâm của chính ḿnh. Chân tâm của chúng sanh và chân tâm của Như
Lai là một tâm, chẳng hai, chẳng khác. Chẳng phải
là chúng ta không có [Bồ Đề tâm]; tuy có, nó bị chướng
ngại, chẳng phát ra được! Hễ bị
chướng ngại, sẽ biến thành vọng tâm. Vọng
tâm là ǵ? Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước.
Chân thành biến thành vọng tưởng, thanh tịnh biến
thành ô nhiễm, b́nh đẳng biến thành ngạo nghễ,
ngă mạn, chánh giác biến thành mê hoặc, từ bi biến
thành ích kỷ. Đă mê th́ sẽ là như vậy đó!
Trong
mười pháp giới, càng lên cao hơn, mê càng cạn
hơn. Càng đi xuống, càng nghiêm trọng hơn, chúng
sanh trong địa ngục là [mê hoặc] nghiêm trọng nhất.
Chúng ta phải biết, phải hiểu rơ, hằng ngày hăy
niệm mười chữ này. Mười chữ này do tôi
viết tại Mỹ vào hai mươi năm trước,
viết thành một cặp câu đối, gồm vế
trên và vế dưới. Vế dưới là Bồ Tát hạnh,
vế trên là Bồ Tát tâm. Bồ Tát hạnh là “khán phá, phóng hạ, tự tại,
tùy duyên, niệm Phật”, chúng ta nương theo hai
mươi chữ ấy để tu hành. Hai mươi chữ
ấy là tổng cương lănh, tổng nguyên tắc trong
giáo pháp Đại Thừa Phật pháp. Chỉ cần nắm
vững hai mươi chữ ấy, sẽ thuận buồm
xuôi gió trên đường Bồ Đề.
Câu
đầu tiên trong đoạn kinh văn này là “nhược chư Bồ Tát, thiện
dụng kỳ tâm” (nếu các Bồ Tát, khéo dùng tâm này), “chư Bồ Tát” là bốn
mươi mốt địa vị Pháp Thân đại
sĩ. Hai mươi chữ ấy chính là “khéo dùng tâm này”, là điều chúng ta đang học
tập trong hiện tiền. Khởi tâm động niệm,
ngôn ngữ, tạo tác đều có thể không trái nghịch
hai mươi chữ ấy, chính là “khéo dùng cái tâm”. Chúng ta mới học Phật trong
lục đạo, [những chữ ấy] có thể giúp
chúng ta. Phía sau c̣n đặc biệt thêm vào chữ “niệm Phật”, có thể giúp
chúng ta quyết định văng sanh, vượt thoát mười
pháp giới ngay trong đời này! V́ thế, trong cuộc sống
hằng ngày, phát tâm là trọng yếu, buông xuống càng trọng
yếu hơn, thấy thấu suốt, buông xuống! Thấy
thấu suốt là ǵ? Là hiểu rơ, hiểu rơ chánh xác! Tức
là trí huệ Bát Nhă, biết “phàm
những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”,
“hết thảy các pháp hữu
vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”. Biết lục đạo luân hồi trong
hiện thời là chuyện như thế nào, lục đạo
là chuyện như thế nào, mười pháp giới là chuyện
như thế nào, biết rành mạch, rơ ràng, minh bạch, sẽ
gọi là “thấy thấu suốt”.
Sau khi đă thấy thấu suốt, “phàm những ǵ
có h́nh tướng đều là hư vọng”, há có ǵ chẳng
buông xuống được?
Trong
đời này, từ khi gặp được thầy là Chương
Gia đại sư dạy tôi “thấy
thấu suốt, buông xuống”, tôi đă thật sự
làm. Buông xuống mỗi ngày, buông xuống từng chút một.
Buông xuống giúp quư vị thấy thấu suốt. Thấy
thấu suốt là trí huệ, cái bị buông xuống là phiền
năo. Buông phiền năo xuống, trí huệ tăng trưởng.
Chẳng phải là hễ buông xuống sẽ đều buông
xuống trọn hết [cùng một lúc], chẳng làm
được đâu nhé! Hăy buông xuống dần dần,
buông xuống từng chút một! Tôi buông xuống suốt năm
mươi lăm năm, mới nhập cảnh giới!
Đối với thế gian này, xác thực chẳng có mảy
may lưu luyến, chẳng có mảy may vướng mắc,
tâm của quư vị mới được tự tại. Chẳng
có ư niệm ích kỷ, nay sống trong thế gian này, hết
thảy v́ chúng sanh, hết thảy v́ chánh pháp tồn tại
lâu dài; ngoài chuyện ấy ra, chẳng có ǵ khác!
Tôi
giảng kinh đến năm nay đă là bốn
mươi tám năm, đă ở trên giảng đài bốn
mươi tám năm. Nếu chư vị thường nghe
tôi giảng kinh, sẽ thấy hằng năm tôi có tiến
bộ. Mỗi năm giảng khác nhau! Tiến bộ do
đâu mà có? Phiền năo nhẹ nhàng, trí huệ tăng
trưởng. Cùng giảng một bộ kinh, lời giảng
năm trước nhất định sẽ chẳng giống
lời giảng năm nay. V́ sao? Năm nay so với năm
trước, phiền năo lại nhẹ hơn một chút,
trí huệ lại tăng trưởng một chút, làm sao giống
hệt nhau cho được? Khéo sao trong khoảng hai
mươi mấy năm gần đây, chúng ta giữ lại
băng thâu âm, băng thâu h́nh. Các đồng học bảo
tôi, nay họ đang chỉnh lư, đại khái là có thể
bảo tồn, tới hơn một vạn năm ngàn giờ.
Nếu quư vị nghe lời giảng của tôi trong quá khứ
và hiện tại, [sẽ thấy] khác nhau, vui sướng ở
trong ấy. Giáo pháp Đại Thừa thường nói: “Thường sanh tâm hoan hỷ, pháp
hỷ sung măn”. Đấy là thật, là cái có thể mang
đi theo được! Tiếng tăm, lợi dưỡng,
ngũ dục, lục trần trong thế gian này, sẽ chẳng
mang theo được! Phiền năo nhẹ nhàng, trí huệ
tăng trưởng, mang đi được. V́ thế,
trong đời này, chúng ta chẳng cần mang theo phiền
năo, phải mang theo trí huệ. Tận hết sức vứt
bỏ phiền năo, trí huệ mới có thể tăng
trưởng, mới có thể hiện tiền.
Phiền
năo và trí huệ là hai mặt sáng và tối. Tối diệt,
sáng sanh; sáng diệt, tối tăng trưởng! Đạo
lư như vậy đó. Công phu tu hành thật sự
được kiến lập từ chỗ này, chẳng
phải là do quư vị niệm kinh bao nhiêu lần, niệm Phật
bao nhiêu vạn câu, không do những thứ ấy! Đó là ǵ?
Đó là h́nh tượng; trong h́nh tượng phải có công
phu chân thật. Công phu chân thật là ǵ? Niệm trừ hết
phiền năo, niệm sao cho trí huệ hiện tiền. Đấy
là công phu chân thật, là thực chất. Nếu h́nh tượng
và thực chất có thể tương ứng, đấy
là công phu chân thật. Chỉ có h́nh tượng, chẳng có
thực chất, hằng ngày tụng kinh, niệm Phật, lạy
Phật, phiền năo vẫn là một đống lớn, không
buông ích kỷ xuống được, chẳng có một
tí công phu nào cả! Dẫu niệm nhiều đến mấy
đi nữa, chẳng có công đức, chỉ có phước
đức, quư vị vẫn phải luân hồi trong lục
đạo! Luân hồi trong lục đạo, quư vị có phước
báo. Khá lắm! Có phước báo, sẽ đến đâu
để hưởng phước báo? Chẳng nhất
định! Phải xem quư vị đă tạo những nghiệp
ǵ!
Nếu
nghiệp của quư vị là Ngũ Giới, Thập Thiện,
khá lắm, quư vị đến hưởng trong nhân gian. Nếu
quư vị chẳng có Ngũ Giới, Thập Thiện, mà là ích
kỷ, tham lam danh vọng, lợi dưỡng, thậm chí
làm những chuyện tổn người lợi ḿnh, quư vị
sẽ đến hưởng trong súc sanh
đạo. Hưởng phước ǵ trong súc sanh đạo?
Phước báo khá lớn! Tôi tin là rất nhiều người
đă thấy những kẻ phú quư nuôi các con vật
cưng. Cha con trong một nhà chưa chắc đă ḥa hợp,
nhưng đối với con vật cưng, chẳng có ǵ
không yêu thương, bảo vệ, chiếu cố chuyện
ăn uống, sinh sống của nó hết sức chu
đáo. Hưởng phước đấy! Con người
đâu được bằng nó! Chúng ta vừa trông thấy
liền hiểu: [Con vật đó chính là người trong]
đời quá khứ đă tu phước báo to lớn.
Hưởng phước trong ngạ quỷ đạo sẽ
làm Thành Hoàng, thần Thổ Địa, làm sơn thần, luôn
có kẻ đến cúng bái, luôn có tín đồ cúng dường,
ngạ quỷ đạo đấy nhé! Do vậy, quư vị
sẽ hưởng phước báo trong đường nào cũng
không nhất định, nó có mối quan hệ với đức
hạnh của quư vị.
Trong
đức hạnh, thiếu đạo đức nhất
là nóng giận, là ganh tỵ, là ngạo mạn. Ba thứ ấy
phiền phức nhất! Sân khuể nặng nề, ganh tỵ
nặng nề, ngạo mạn, thảy đều là vào
trong ba ác đạo; nhưng do quư vị tu phước, vào
trong ba ác đạo, vẫn có thể hưởng phước,
vẫn có phước báo. Nếu ai có thể đoạn sạch
ba thứ tâm ấy, trong hết thảy nghịch cảnh,
ác duyên, chẳng sanh sân khuể; thấy kẻ có địa
vị cao hơn chính ḿnh, hoặc là công phu tốt đẹp,
có tài hoa, chẳng có ḷng ganh tỵ, đối với
người khác khiêm hư, chẳng có kiêu căng, ngă mạn,
chắc chắn sẽ sanh lên trời. Chớ nên không biết
điều này! Tầng trời càng cao, Tứ Vô Lượng
Tâm từ, bi, hỷ, xả càng lớn! Do vậy có thể
biết, ba thứ ấy xác thực là đă chướng
ngại từ, bi, hỷ, xả. [Có] sân khuể, ghen tỵ,
ngạo mạn, [thế mà] từ, bi, hỷ, xả chẳng
có, những thứ ấy chướng ngại phước
báo nhân thiên, chúng ta chớ nên không biết!
Đấy
là nói “tài phát tâm” (mới phát
tâm), phát tâm là ǵ, mới phát tâm là ǵ, phải biết! Ngàn vạn
phần chớ nên hiểu lầm. Nay chúng ta mới phát tâm,
hiện thời, làm sao chúng ta có thể làm vị đạo
sư thứ hai? Chẳng có tư cách ấy. Sơ Trụ Bồ
Tát trong Viên Giáo được gọi là “đệ nhị đạo sư” th́ được,
chẳng phạm lỗi. V́ sao? Hiện tại, Ngài đă
đạt đến địa vị Pháp Thân Bồ Tát,
là địa vị Phần Chứng Phật, chẳng phải
là Tương Tự. Trong địa vị ấy, có thể
ứng hóa trong chín pháp giới. Đáng nên dùng thân Phật
để độ, bèn có thể hiện thân Phật ba
mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo
để giáo hóa chúng sanh. Đến thế gian này, thị
hiện thành Phật. Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo có năng
lực này. Như Quán Thế Âm Bồ Tát đáng nên dùng thân
ǵ để đắc độ bèn hiện thân ấy, mảy
may chướng ngại đều chẳng có.
Tứ
thánh pháp giới trong mười pháp giới chẳng sánh bằng
các Ngài. Các Ngài thật sự là vô chướng ngại. V́ vậy,
Thanh Lương đại sư nói “đạo á chí tôn” (đạo chỉ kém bậc
tôn quư nhất). Đấy là nói đạo đức, trí huệ,
thần thông, và năng lực đều kém quả vị
viên măn rốt ráo (địa vị Phật) một bậc!
Các Ngài là Bồ Tát! Nhưng những vị Bồ Tát ấy
là Chánh Đẳng Chánh Giác. Chư vị phải hiểu: Bốn
mươi mốt địa vị đều là Chánh Đẳng
Chánh Giác. Trong Viên Giáo, từ Sơ Trụ, Thập Trụ, Thập
Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, [cho
đến] Đẳng Giác, bốn mươi mốt địa
vị ấy đều là Chánh Đẳng Chánh Giác, là Á
Thánh. Cao hơn nữa th́ sao? Trên ấy là Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác, đó là đệ nhất đạo
sư. Trong Phật môn có thói quen (đây là thường thức,
chúng ta phải biết), chữ “đạo
sư” để gọi đức Phật, là từ ngữ
tôn xưng đức Phật. C̣n có chữ “đại sư” cũng dùng để tôn xưng
đức Phật. Chúng ta là lũ b́nh phàm, chẳng thể
dùng cách xưng hô này. Dùng cách xưng hô này rất quá phận.
Quư vị thấy những bậc cao tăng đại
đức chân chánh từ thời cổ, chẳng có ai
xưng là đại sư! Thông thường là sau khi các
Ngài đă qua đời, người đời sau tôn
xưng các Ngài là đại sư, chính các Ngài cũng không biết,
chứ thuở [các Ngài] tại thế, chẳng có! Chư vị
phải hiểu chuyện này, đấy là thường thức!
[Lạm dụng danh xưng “đại sư” hoặc “đạo
sư”] rất quá phận, mà cũng chẳng đúng pháp! “Lễ” là có chừng mực.
Chớ nên quá phận, mà cũng chớ nên quá xuề x̣a!
Quư
vị thấy những vị như Cưu Ma La Thập,
Huyền Trang rất khó có! Chẳng xưng là đại
sư, mà xưng là pháp sư. Do dịch kinh, nên gọi là Tam
Tạng Pháp Sư. “Tam Tạng”
là tŕnh độ học vấn của Ngài bao trùm Tam Tạng,
chỉ rơ Ngài đă thông đạt Phật pháp vô ngại.
Tam Tạng Kinh, Luật, Luận, Ngài đều thông suốt;
có điều kiện ấy th́ mới có tư cách dịch
kinh. Do đó, tại Trung Hoa có thói quen, quư vị thấy Thiền
Tông xưng là “thiền sư”, Luật Tông xưng là “luật
sư”, Giáo Hạ xưng là “pháp sư”, chẳng nghe thấy
có ai xưng là đại sư hay đạo sư! Chưa
nghe nói! Thời kỳ Mạt Pháp, có rất nhiều kẻ
không hiểu, cứ tưởng “đại
sư, đạo sư” là tôn xưng. Thật ra, chẳng
nên dùng! V́ sao? “Đại
sư, đạo sư” dùng để tôn xưng đức
Phật, [lạm dụng những từ ngữ ấy] sẽ
bộc lộ sự quá phận! Bản thân chúng ta phải
hiểu. Nếu người khác gọi chúng ta là “đại
sư”, phải bảo cho họ biết lư này: “Chớ nên!
Hăy gọi là pháp sư!”
Trong
thế gian này, danh hiệu tôn quư nhất là Ḥa Thượng.
Ḥa Thượng c̣n đáng tôn trọng hơn pháp sư. Ḥa
Thượng (Upādhyāya) là tiếng Ấn Độ, tức tiếng Phạn,
dịch sang nghĩa tiếng Hán là Thân Giáo Sư, quan hệ khác
hẳn! Ngài có thể trụ tŕ giáo hóa, giáo hóa một
phương, vị ấy mới có thể gọi là Ḥa
Thượng. V́ thế, vào thời cổ, vị Trụ Tŕ
của tùng lâm hoặc tự viện, tức vị chủ
tịch, được gọi là Ḥa Thượng. Đấy
là thường thức. Những vị pháp sư xuất
gia khác đều gọi là pháp sư. Tiếng Ấn Độ
gọi [pháp sư] là Xà Lê (A Xà Lê), A Xà Lê (Acarya) có nghĩa là
đạo đức và sự hành tŕ của vị ấy
có thể làm khuôn phép, gương mẫu cho đại
chúng. Vị này được gọi là pháp sư, chẳng
gọi là Ḥa Thượng. Ḥa Thượng [th́ trong một
tự viện], chỉ có một vị được gọi
là Ḥa Thượng, giống như trong một ngôi trường,
hiệu trưởng được gọi là Ḥa Thượng,
giáo viên th́ gọi pháp sư. Chúng ta phải hiểu rơ những
cách xưng hô này! Đấy là thường thức thông
thường, mà cũng là lễ tiết. Ở đây, “cố vân đệ nhị”
(v́ thế nói là thứ hai), tức đệ nhị đạo
sư.
Tiếp
đó, Thanh Lương đại sư cho biết:
(Sớ)
Nhiên cựu kinh trung diệc vân nhi vi chúng sanh đệ nhất
tôn đạo, cố tri đệ nhị, dịch giả
ư dă.
(疏)然舊經中亦云而為眾生第一尊導,故知第二,譯者意也。
(Sớ: Nhưng trong bản dịch cũ của
kinh Hoa Nghiêm, cũng nói là “vị hướng dẫn tôn quư
bậc nhất trong chúng sanh”. V́ thế biết chữ “đệ
nhị” là ư của người dịch vậy).
Trong
Tấn Kinh (Lục Thập Hoa Nghiêm), đấy chính là
nguyên văn của kinh Hoa Nghiêm, có ư nghĩa là “đệ nhất tôn đạo”
(vị thầy hướng dẫn đáng tôn trọng bậc
nhất). “Tôn” (尊) là
tôn trọng, “đạo” là đạo
sư (導師, vị thầy hướng dẫn). Đấy là
đặc biệt tôn xưng vị ấy. V́ sao? Xác thực
là Pháp Thân Bồ Tát, chẳng phải là phàm nhân, [v́ đă] vượt
thoát mười pháp giới. Người đến thị
hiện trong thế gian này là hạng người nào? Từ
Sơ Trụ trở lên, tức là Chánh Đẳng Chánh Giác.
Trong mười pháp giới, [các vị ấy] thay thế
đức Phật giáo hóa chúng sanh, không khác đức Phật,
giống hệt như Phật. Đạo đức, hành
tŕ, và sự thị hiện của các Ngài chẳng khác Phật;
v́ thế, đều gọi là “đệ
nhất tôn đạo”. Ngài Thanh Lương nói ở
đây kinh [Bát Thập Hoa Nghiêm] chép là “đệ nhị đạo sư” chính là ư
nghĩ của người dịch. Ư nghĩa này cũng rất
hay! “Đệ nhị đạo
sư”, danh phù hợp thực. “Đệ nhất tôn đạo” là do đức
Phật nói, [biểu thị sự] tôn kính các vị ấy.
Từ chỗ này, ta thấy Phật chẳng có ghen tỵ, chẳng
có ngạo mạn. Tâm Phật b́nh đẳng, tâm Phật thanh
tịnh, Phật đối với hết thảy đại
chúng đều chân thành, cung kính, gọi các vị ấy là “đệ nhất tôn đạo”!
Đối với đoạn thứ nhất trong lời
đáp của Văn Thù Bồ Tát, tức “tiêu nhân thành đức” (nêu ra những cái nhân tạo
thành các phẩm đức [trong lời hỏi của Trí Thủ
Bồ Tát]), chúng ta học tập đoạn này tới
đây.
Kế
đó là đoạn thứ hai.
(Sớ)
Chỉ sự hiển nhân.
(疏)指事顯因。
(Sớ: Chỉ ra sự nhằm hiển lộ cái
nhân).
Trả
lời về những cái nhân đă được gạn
hỏi trong phần trước. V́ thế, đoạn này chính là…
(Sớ) Thù kỳ trưng nhân.
(疏)酬其徵因。
(Sớ: Nhằm tương ứng với những
cái nhân đă được gạn hỏi).
Chúng
ta xem phần chú giải của Thanh Lương đại
sư…
(Sớ)
Ư trung tam.
(疏)於中三。
(Sớ:
Trong phần này, có ba đoạn).
Nó
được chia thành ba đoạn.
(Sớ)
Sơ tổng trưng.
(疏)初總徵。
(Sớ: Thứ nhất, nêu tổng quát lời gạn
hỏi).
[Trong
lời đáp, Văn Thù Bồ Tát] nhắc lại lần nữa
những vấn đề [do Trí Thủ Bồ Tát] đă hỏi
trong phần trước, làm như vậy sẽ [khiến
cho lời giải đáp] càng thêm rơ rệt. Đoạn thứ
hai là…
(Sớ)
Biệt hiển.
(疏)別顯。
(Sớ: Nêu rơ từng điều riêng biệt).
Đoạn
thứ ba là:
(Sớ)
Hậu tổng kết thành ích.
(疏)後總結成益。
(Sớ:
Sau đó, tổng kết những lợi ích được
tạo thành [bởi những cái nhân đó]).
Nay
là đoạn thứ nhất.
(Kinh)
Phật tử! Vân hà dụng tâm, năng hoạch nhất
thiết thắng diệu công đức?
(經)佛子。云何用心。能獲一切勝妙功德。
(Kinh: Này Phật tử! Dụng tâm như thế
nào để có thể đạt được hết thảy
công đức thù thắng, mầu nhiệm?)
Trước
khi trả lời, Văn Thù Bồ Tát đă tự nhắc
lại câu hỏi của Trí Thủ Bồ Tát trong phần
đầu lời đáp, câu này hết sức trọng yếu!
Trong lời chú giải, Thanh Lương đại sư
đă bảo…
(Sớ)
Biệt Hiển trung, ngũ môn phân biệt.
(疏)別顯中,五門分別。
(Sớ:
Trong phần Biệt Hiển, có năm môn phân biệt).
Câu
này cũng là nói hết sức cặn kẽ. Đoạn thứ
nhất…
(Sớ)
Tổng minh đại ư, văn trung tổng hữu nhất
bách tứ thập nhất nguyện.
(疏)總明大意,文中總有一百四十一願。
(Sớ: Nêu đại ư tổng quát: Trong kinh văn
có tất cả một trăm bốn mươi mốt
nguyện).
Đây
là [nói đến] phần kệ tụng trong phần sau. Mỗi
nguyện là một bài kệ. Những bài kệ tụng ấy
đều là kệ thuộc loại bốn chữ, cứ
bốn chữ là một câu. Bốn câu thành một bài kệ,
bốn lần bốn là mười sáu chữ. Có tất cả
một trăm bốn mươi mốt bài kệ, tức
là một trăm bốn mươi mốt nguyện.
(Sớ)
Bồ Tát đại nguyện, thâm quảng như hải, ưng
như hồi hướng, phi chỉ nhĩ dă.
(疏)菩薩大願,深廣如海,應如迴向,非止爾也。
(Sớ: Đại nguyện của Bồ Tát rộng
sâu như biển, hăy nên [hiểu nguyện của Bồ
Tát vô lượng vô biên] như trong phẩm Thập Hồi
Hướng [đă nói], chứ không phải là chỉ có
như vậy).
“Hồi hướng” ở
đây là nói đến phẩm Thập Hồi Hướng
[trong kinh Hoa Nghiêm]. Đến phẩm Thập Hồi Hướng,
chúng ta có thể thấy đại nguyện của Bồ
Tát đúng là vô lượng vô biên, chẳng có cùng tận,
sâu rộng vô tận. Ở đây chỉ là nêu đại
lược đề cương! Một trăm bốn
mươi mốt điều ấy là đề
cương, là cương lănh; triển khai ra, sẽ là vô
lượng hoằng nguyện, chứ không chỉ là một
trăm bốn mươi mốt nguyện này.
Đầu
tiên là nêu rơ:
(Sớ)
Thử cái thị ư thể thức, dư giai phỏng thử.
(疏)此蓋示於體式,餘皆倣此。
(Sớ: Ở đây nhằm nêu bày thể thức,
những chỗ khác cũng đều phỏng theo cách này).
Đây
là một cách thức hành văn. Trong phần sau, cách hành
văn giống như vậy rất nhiều. Trên thực
tế, trong những phần trước và sau [phẩm này],
đều có rất nhiều cách thức hành văn như
thế.
(Sớ)
Hựu phi vô biểu.
(疏)又非無表。
(Sớ:
Lại nữa, không ǵ chẳng nhằm biểu thị pháp).
Câu
này trọng yếu. “Biểu”
(表) là ǵ? Biểu thị pháp. V́ sao là một trăm bốn
mươi mốt? V́ sao không dùng một trăm bốn
mươi hai? V́ sao nhất định phải có một
trăm bốn mươi mốt? Tiếp đó, Ngài nói
đây là biểu thị pháp. Đúng như trong kinh Hoa
Nghiêm, nói chung, Hoa Nghiêm dùng “mười”
để biểu thị pháp. Do vậy, “mười” chẳng phải là một con số,
mà nhằm biểu thị viên măn, tượng trưng cho sự
viên măn. Một trăm bốn mươi mốt [nguyện]
ở chỗ này cũng nhằm biểu thị đại
nguyện của Bồ Tát là viên măn.
(Sớ)
Nhất bách giả.
(疏)一百者。
(Sớ: Một trăm là…)
Trước
hết, nói đến một trăm, do đâu mà có một
trăm?
(Sớ)
Thập Tín viên dung, nhất nhất cụ thập dă.
(疏)十信圓融,一一具十也。
(Sớ: Do Thập Tín viên dung, mỗi địa vị
đều có đủ mười địa vị kia).
Mỗi
địa vị trong Thập Tín đều có đủ
chín địa vị khác. Địa vị Sơ Tín
cũng trọn đủ Nhị, Tam, Tứ, Ngũ, Lục,
Thất, Bát, Cửu, Thập Tín, thảy đều trọn
đủ. Địa vị Thập Tín cũng trọn
đủ từ Sơ Tín cho đến Cửu Tín, thảy
đều trọn đủ. Mười nhân với mười
thành một trăm! Thâm ư được bao hàm trong ấy
chính là “một tức là nhiều,
nhiều tức là một”, bất cứ pháp nào cũng
đều trọn đủ viên măn. Đấy là cảnh
giới chẳng thể nghĩ bàn!
Do
vậy, trong Phật pháp đă nói: “Hàng bố chẳng ngại viên dung, viên dung chẳng
ngại hàng bố”[2]. Kinh Hoa Nghiêm nói
bốn loại vô ngại, [tức là] “Lư vô ngại, Sự vô ngại, Lư Sự vô ngại, Sự
Sự vô ngại”. V́ thế, lớn và nhỏ chẳng
hai, trước và sau chẳng hai, xa và gần chẳng hai. Hoa
Nghiêm là nhập pháp môn Bất Nhị! Lớn, nhỏ chẳng
hai, thế giới to, [chẳng hạn như] kinh nói thế
giới Hoa Tạng; vi trần nhỏ bé. Trong một vi trần
có trọn đủ thế giới Hoa Tạng, trong thế
giới Hoa Tạng cũng trọn đủ một vi trần.
Vi trần chẳng ph́nh to, Hoa Tạng chẳng rút nhỏ.
Điều này chẳng thể nghĩ bàn! “Một chính là hết thảy, hết thảy chính là
một”. Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật thường
nói chuyện ấy. Đó là thật, đó là ǵ vậy? Pháp
Tánh. Pháp Tánh chẳng có lớn hay nhỏ, Pháp Tánh chẳng
có dài hay ngắn, Pháp Tánh chẳng có đến hay đi, Pháp
Tánh chẳng có trước hay sau, nghĩa là nêu rơ: Pháp Tánh chẳng
có thời gian, mà cũng chẳng có không gian. Chẳng có thời
gian, sẽ chẳng có trước hay sau. Chẳng có không
gian, sẽ chẳng có xa hay gần, chẳng có đến
hay đi. Đấy là chân lư, là chuyện ngàn muôn phần
xác thực.
Chúng
ta mê mất tự tánh, cho nên nẩy sanh khá nhiều cảm
nhận sai lầm, biến thành khá nhiều chướng ngại.
Giáo huấn của đức Phật chẳng có ǵ khác,
không ǵ chẳng nhằm giúp chúng ta khôi phục tự tánh mà
thôi! V́ thế, trong kinh Lăng Nghiêm đă nói: “Viên măn Bồ Đề, trở
về chỗ không có ǵ để đạt được”.
Đă đạt tới chỗ chứng đắc Phật
quả rốt ráo, quư vị ngỡ là thật sự có “đắc” ư? Thứ ǵ
cũng đều chẳng có! Quư vị đạt
được ǵ? Chính là những cái quư vị vốn sẵn
có. V́ quư vị bị mê, những thứ vốn sẵn có
chẳng khởi tác dụng; nay đă giác ngộ, hoàn toàn
khôi phục tác dụng. Chuyện là như thế đó!
Đấy là thâm ư bao hàm trong “một
trăm”.
Bốn
mươi mốt cũng có ư nghĩa đặc biệt.
(Sớ)
Tứ thập nhất giả, tức tứ thập nhất
vị dă.
(疏)四十一者,即四十一位也。
(Sớ: “Bốn mươi mốt” chính là bốn
mươi mốt địa vị).
V́
thế, đối với “một
trăm bốn mươi mốt”, “một trăm” là địa vị Thập Tín.
Các địa vị Thập Tín ở trong mười pháp
giới. Vượt thoát mười pháp giới là Nhất
Chân pháp giới. Trong Nhất Chân pháp giới, có Thập Trụ,
Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa,
đó là bốn mươi, cộng thêm Đẳng Giác thành
bốn mươi mốt. Do vậy mà có “bốn
mươi mốt”. Thanh Lương đại sư nói:
(Sớ)
Minh thử chư vị sở hữu Hoặc chướng.
(疏)明此諸位所有惑障。
(Sớ:
Nêu rơ tất cả các Hoặc Chướng trong các địa
vị ấy).
Đây là nói gộp luôn cả
[các địa vị] Thập Tín trước đó, nên nói
là có năm mươi mốt địa vị. Tất cả
mê hoặc, chướng ngại thuộc năm mươi
mốt địa vị. “Hoặc”
(惑) là vô minh, Chướng (障) là phiền năo và
Sở Tri, thảy đều…
(Sớ)
Do thử năng tịnh.
(疏)由此能淨。
(Sớ: Do những nguyện này mà có thể tịnh).
Quư
vị có thể nương theo một trăm bốn
mươi mốt bài kệ trong phần sau để tu
hành, sẽ có thể trừ Hoặc Chướng. Quư vị
chiếu theo những bài kệ ấy để tu hành, sẽ
thật sự có thể đoạn hết Kiến Tư, Trần
Sa, và Vô Minh ư? Quư vị có tin hay không? Có thể, nhưng
cũng chưa chắc! Nghĩa là sao? Trong phần trước
có một câu tổng cương lănh quư vị phải ghi nhớ:
“Khéo dùng cái tâm” th́ có thể,
chẳng khéo dùng cái tâm ấy th́ chưa chắc, mấu chốt
ở ngay chỗ này! Người “khéo dùng cái tâm” th́ tâm người ấy là chân tâm,
cũng có nghĩa là vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước thảy đều chẳng có. Quư vị hành
theo một trăm bốn mươi mốt bài kệ trong
phần sau, sẽ có thể trừ sạch tất cả
các Hoặc Chướng.
Nói
cách khác, Pháp Thân Bồ Tát ứng hóa trong chín pháp giới, thuận
theo tâm chúng sanh, ứng với khả năng lănh hội của
họ. Các Ngài đúng là trụ trong Vô Chướng Ngại
Tịnh Độ, đúng là “tâm
tịnh, ắt cơi Phật tịnh”. Những
vị thừa nguyện tái lai ấy, tại Trung Hoa, trong
Thần Tăng Truyện và Cư Sĩ Truyện có [chép tiểu
sử của] các Ngài. Mọi người đều biết
rơ: Tại chùa Quốc Thanh ở núi Thiên Thai, Hàn Sơn và Thập
Đắc là Văn Thù và Phổ Hiền Bồ Tát; ḥa
thượng Phong Can là [hóa thân của] A Di Đà Phật. Điều
này được chép trong Quốc Thanh Tự Sơn Chí. Bảo
Chí Công là hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát, Thiện Đạo
đại sư là A Di Đà Phật tái lai, Vĩnh Minh Diên
Thọ cũng là A Di Đà Phật tái lai. Gần đây nhất,
mọi người đều quen thuộc, Ấn Quang
đại sư là Tây Phương Cực Lạc thế giới
Đại Thế Chí Bồ Tát tái lai. Thiên Thai Trí Giả
đại sư là Thích Ca Mâu Ni Phật tái lai, những vị
ấy bộc lộ thân phận. Những vị chẳng bộc
lộ thân phận th́ nhiều, những vị bộc lộ
thân phận là thiểu số. Các Ngài đều trụ
trong Tịnh Độ, đến thế gian này, ở cùng
một chỗ với bọn chúng sanh chúng ta, ḥa quang đồng
trần. Các Ngài thật sự thị hiện, quư vị chú
tâm quan sát sự hành tŕ của các Ngài trong một đời,
quư vị thấy có tương ứng với một trăm
bốn mươi mốt nguyện hay không? Nguyện nào
cũng đều tương ứng!
(Sớ)
Sở hữu thắng hạnh do thử năng hành cố.
(疏)所有勝行由此能行故。
(Sớ: Do những nguyện ấy mà có thể hành
tất cả các hạnh thù thắng).
“Hạnh” (行) là
hành vi trong cuộc sống hằng ngày, rất thù thắng.
“Thử” (此) là nói tới một trăm bốn mươi mốt
nguyện. A! Hôm nay đă hết thời gian rồi. Chúng tôi
nói tới chỗ này!
Tập 1494
Chư vị đồng học,
xin mời ngồi xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh
thứ mười một, đoạn thứ nhất là “chỉ sự hiển nhân” (chỉ
ra các sự để hiển lộ cái nhân), chúng tôi đọc
kinh văn một lượt.
(Kinh) Phật
tử! Vân hà dụng tâm, năng hoạch nhất thiết thắng
diệu công đức?
(經)佛子。云何用心。能獲一切勝妙功德。
(Kinh:
Này Phật tử! Dụng tâm như thế nào để có
thể đạt được hết thảy công đức
thù thắng, nhiệm mầu?)
Đây
là lời Văn Thù Bồ Tát đă nói. Văn Thù Bồ Tát gọi
“Phật tử” nhằm khai
thị cho hết thảy đại chúng. Trong kinh Hoa Nghiêm,
Trí Thủ Bồ Tát làm đại diện, chữ “Phật tử” ở đây
chỉ Trí Thủ Bồ Tát, Ngài đại diện cho đại
chúng. Câu gạn hỏi này rất quan trọng, [trong phần
Sớ, Thanh Lương đại sư gọi câu này là] Tổng
Trưng (總徵, gạn hỏi chung). Dụng tâm như thế nào,
trong phần trước, chúng tôi cũng đă nói rất
nhiều. Trong năm môn của phần Biệt Hiển,
đoạn thứ nhất cũng đă nói rồi. Hôm nay,
chúng ta xem tiếp đoạn thứ hai là…
(Sớ)
Thông hiển văn chỉ.
(疏)通顯文旨。
(Sớ: Nêu rơ ư chỉ
chung của kinh văn).
Thanh Lương
đại sư bảo chúng ta…
(Sớ) Nhiên thử chư nguyện, cú tuy hữu
tứ.
(疏)然此諸願,句雖有四。
(Sớ: Nhưng trong các nguyện ấy, tuy [mỗi
bài kệ] có bốn câu).
Chữ
“chư” (諸) chỉ
những bài kệ tụng trong phần tiếp theo, gồm
một trăm bốn mươi mốt bài kệ, tức
là một trăm bốn mươi mốt nguyện, mỗi
nguyện là bốn câu, tức là kệ tụng thuộc thể
loại bốn chữ. Đại sư nói…
(Sớ) Cú tuy hữu tứ, sự
đản hữu tam.
(疏)句雖有四,事但有三。
(Sớ: Tuy [mỗi bài kệ] có bốn câu, chỉ
có ba chuyện).
Trên
thực tế, chỉ có ba chuyện được nói
[trong một bài kệ]. Ví như, trong phần kệ tụng
có bài nói: “Bồ Tát tại gia,
đương nguyện chúng sanh, tri gia tánh Không, miễn kỳ
bức bách” (Bồ Tát tại gia, nguyện cho chúng sanh,
biết nhà tánh Không, thoát khỏi bức bách). Câu “đương nguyện chúng
sanh”, một trăm bốn mươi mốt [lời
nguyện] đều có, tức là câu thứ hai chẳng có
ư nghĩa[3], chỉ là “nên nguyện v́ chúng sanh”. V́ thế,
nói đến Sự th́ chỉ có ba câu, ba câu triển khai ra
sẽ là sáu ư nghĩa. Trước hết, nói về ba sự.
(Sớ)
Sơ cú.
(疏)初句。
(Sớ: Câu đầu tiên).
Đối
với chuyện này, một trăm bốn mươi mốt
câu [nguyện] trong phần sau đều chẳng có ngoại
lệ, đều tuân theo cách thức này. V́ thế, câu
đầu chính là chuyện để chúng ta nguyện.
Như trong câu Tam Quy Y mà chúng ta thường nói, [điều
được nguyện] cũng nằm trong câu đầu,
[chẳng hạn như] “tự
quy y Phật, đương nguyện chúng sanh”. “Tự quy
y Phật” chính là...
(Sớ)
Nguyện sở y sự.
(疏)願所依事。
(Sớ: Chuyện để lời nguyện dựa
vào).
Đây
là [phán định ư nghĩa] của câu đầu tiên. Câu
thứ hai là…
(Sớ)
Nguyện sở vi cảnh.
(疏)願所為境。
(Sớ:
Cảnh được dùng để thực hiện nguyện)
“Cảnh” (境) là
cảnh giới. Bản thân chúng ta quy y Phật, cũng nguyện
cho hết thảy chúng sanh trong khắp pháp giới hư không
giới đều biết quy y Phật. Đấy là cảnh
giới để chúng ta nguyện, cảnh giới ấy
là v́ hết thảy chúng sanh. Hết thảy chúng sanh, không
chỉ bao gồm nhân loại trong thế gian, mà c̣n bao gồm
chín pháp giới. Phạm vi không chỉ là thế giới Sa
Bà, mà tâm lượng được mở rộng. Khắp
pháp giới hư không giới, vô lượng vô biên các cơi
Phật đều là cảnh giới để chúng ta phát
nguyện, tâm lượng ấy to lắm! Nhưng khi phát
th́ phải là thật sự phát. Nếu chỉ là niệm
bài kệ này, mà tâm và miệng chẳng tương ứng, đấy
chẳng phải là tu Phổ Hiền hạnh. Phổ Hiền
Bồ Tát trong ngoài như một, người Hoa nói là “biểu lư bất nhị” (表裡不二, trong và ngoài chẳng hai). Bề ngoài và nội tâm nhất
trí, như vậy th́ tâm lượng mới có thể mở
rộng. Chẳng khởi tâm, không động niệm th́
thôi; hễ khởi tâm động niệm, đều lấy
hết thảy chúng sanh trong khắp pháp giới hư không
giới làm cảnh giới. Một trăm bốn
mươi mốt nguyện triển khai ra, sẽ là từng
ly từng tư trong cuộc sống hằng ngày, chẳng sót một
pháp nào! Nhất định phải hiểu đạo lư này.
Đấy là Phật tâm, là Phật nguyện, là Phật hạnh.
V́
thế, chúng ta nhắc tới Phổ Hiền hạnh nguyện,
những kẻ b́nh phàm chỉ biết là mười đại
nguyện vương, [đấy chính là] mười tổng
cương lănh. Triển khai tổng cương lănh, có thể
nói một trăm bốn mươi mốt nguyện là Mục,
tức cương mục (綱目). Triển khai mỗi câu, mỗi nguyện, sẽ
đều trọn đủ viên măn mười
cương lănh. Mỗi điều trong mười
cương lănh, ví dụ như “lễ
kính chư Phật”, mỗi điều đều trọn
đủ một trăm bốn mươi mốt nguyện
ở nơi đây. Một hàm nhiếp nhiều, nhiều
quy nạp thành một; một và nhiều chẳng hai! Nay chúng
ta hiểu rất rơ ràng, rất minh bạch: Một trăm
bốn mươi mốt nguyện ấy triển khai ra, sẽ
là vô lượng vô biên! Hành vi trong cuộc sống hằng
ngày, khởi tâm động niệm từng
ly, từng tư một, trùng trùng vô tận. Cảnh giới
chẳng thể nghĩ bàn! Do v́ Tứ Thập Hoa Nghiêm chính
là phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm, tựa
đề kinh của Tứ Thập Hoa Nghiêm là Nhập Bất
Tư Nghị Cảnh Giới Phổ Hiền Hạnh Nguyện
Phẩm, quư vị mới thật sự hiểu cảnh giới
chẳng thể nghĩ bàn là ǵ! Nó chính là “nguyện sở vi cảnh” (cảnh để thực
hiện nguyện), chẳng thể nghĩ bàn!
Hai
câu sau, tức là câu thứ ba và câu thứ tư là…
(Sớ)
Nguyện cảnh thành ích.
(疏)願境成益。
(Sớ: Lợi ích được tạo thành do Cảnh
và Nguyện).
[Trong
mỗi bài kệ], Nguyện là
câu đầu tiên, Cảnh là câu thứ hai, câu thứ ba và câu
thứ tư là sự thành tựu vô lượng công đức
do lời nguyện ấy. Thông thường, trong Tam Quy Y,
điều thứ nhất là “tự
quy y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải
đại đạo, phát vô thượng tâm” (tự quy
y Phật, xin nguyện chúng sanh, thấu hiểu đạo
cả, phát tâm vô thượng). “Thể
giải đại đạo, phát vô thượng tâm” chính
là “nguyện cảnh thành ích” (lợi
ích được tạo thành bởi Nguyện và Cảnh).
Chính ḿnh (nguyện thuộc về chính ḿnh) phát khởi cái
tâm Vô Thượng Bồ Đề, thành tựu đại
đạo là nguyện cho hết thảy chúng sanh khắp
pháp giới hư không giới đều thành đạo Vô
Thượng! Chính ḿnh phát Vô Thượng Bồ Đề
tâm, nguyện cho hết thảy chúng sanh đều cùng thành
Phật đạo. Quư vị thấy tâm chân thành, tâm thanh tịnh,
tâm b́nh đẳng, tâm từ bi thảy đều trọn
đủ!
Ba
chuyện ấy nếu triển khai ra…
(Sớ)
Khai vi lục giả, sơ, Sự hữu nhị.
(疏)開為六者,初事有二。
(Sớ: Tách ra sẽ thành sáu. Đầu tiên, về
Sự th́ có hai điều).
Trong
phần Sự, có hai điều, một là “nội”:
(Sớ)
Nhất giả, nội, vị Bồ Tát tự thân căn,
thức đẳng. Kinh vân, Bồ Tát đẳng cố.
(疏)一者內,謂菩薩自身根識等,經云,菩薩等故。
(Sớ: Một là bên trong, nghĩa là thân, căn, thức
v.v… của chính Bồ Tát. Kinh dạy:
“Bồ Tát” v.v…)[4]
Đấy
là nói theo phía trong. “Tự thân
căn” là nói tới lục căn, tức mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân, ư; đấy là lục căn, Thức
là nói tới sáu thức. Nay chúng ta đang là phàm phu trong
mười pháp giới, luôn coi Thức, tức “tám thức,
năm mươi mốt Tâm Sở” là cái tâm của chính
ḿnh. Chẳng sai, đấy là tâm, nhưng là vọng tâm, chẳng
phải là chân tâm. Trong mười pháp giới, thảy
đều dùng vọng tâm. Càng lên cao hơn, vọng tâm càng
gần với chân tâm; càng đi xuống, càng xa chân tâm. Chân
tâm là tánh, tức tâm tánh! Vượt thoát mười pháp giới,
hoàn toàn dùng chân tâm, chẳng dùng vọng tâm. Dùng chân tâm th́ là Phật.
Vượt
thoát mười pháp giới, vừa mới vượt
thoát, Sơ Trụ Bồ Tát của Viên Giáo được
gọi là Phát Tâm Trụ. Phát tâm ǵ vậy? Bồ Đề
tâm, cũng chính là “chân thành tâm”
như chúng ta đang nói trong hiện thời. Tâm thanh tịnh,
tâm b́nh đẳng, tâm chánh giác, tâm từ bi. Hễ tâm Bồ
Tát vừa động, chắc chắn là năm thứ ấy
thảy đều trọn đủ! Chẳng thể nói là
thiếu một trong năm thứ ấy, chẳng hề
có, thảy đều trọn đủ. Năm cái tâm là
năm cách nói, [thật ra], chỉ là một Bồ Đề
tâm. V́ thế, chúng ta thực hiện viên măn mười chữ
ấy (chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ
bi), chúc mừng quư vị, quư vị không chỉ vượt
thoát lục đạo, mà c̣n vượt thoát mười
pháp giới. Xét theo địa vị trong kinh Hoa Nghiêm, quư vị
là từ Sơ Trụ trở lên, là Pháp Thân Bồ Tát! Quư vị
là Phần Chứng Phật, chân Phật, chẳng phải
là giả Phật.
Nay
chúng ta trước hết chiếu theo giáo huấn của
đức Phật để nhận biết Bồ Đề
tâm, hằng ngày niệm nó, nhưng chẳng làm được!
Đối với chân thành, chúng ta xử sự, đăi
người tiếp vật vẫn có hư ngụy, bất
quá là như thế nào? Đỡ hơn lúc chưa học
Phật, có tiến bộ! Chưa học Phật th́ đối
nhân, xử thế, đại khái là mười phần hết
chín phần là hư ngụy; nay đă học Phật, đại
khái chúng ta hư ngụy chỉ có bảy phần, hoặc tám
phần. Đó là có tiến bộ. Không đủ! Nếu
chiếu theo giáo nghĩa của Hoa Nghiêm, chúng ta đă dùng
nhiều thời gian ngần ấy để học tập,
biết Bồ Tát thuộc địa vị Thập Tín, từ
Sơ Tín cho đến Thập Tín, viên măn cái tâm Thập Tín sẽ
chứng Sơ Trụ Bồ Tát. Bồ Tát thuộc địa
vị Thất Tín vượt thoát lục đạo. Chúng
ta dùng trường hợp này để khảo sát, sẽ
có thể nói chúng ta học Phật có mấy phần chân
thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi? Nếu
có thể có được một phần, chúng ta đă làm
được một phần. Chúng ta có thể chia số
điểm thành mười phần; làm được một
phần, quư vị sẽ là Bồ Tát thuộc địa vị
Sơ Tín. Chẳng làm được phần nào, quư vị
chẳng nhập môn! Quư vị vẫn là lục đạo
phàm phu, chẳng nhập môn.
Nếu
làm được bảy phần, chúng ta nói là bảy phần
mười. Đối với mười chữ này của
Bồ Đề tâm, nếu dùng một trăm điểm
để so sánh, chúng ta có thể đạt được
bảy mươi điểm, sẽ là A La Hán. Có thể
làm được tám mươi điểm, sẽ là Bích
Chi Phật. Có thể đạt được chín
mươi điểm, sẽ là Bồ Tát. Có thể đạt
được một trăm điểm, sẽ là Phật
trong mười pháp giới, đă mấp mé vượt
thoát mười pháp giới. Lại tiến lên cao hơn, sẽ
là Sơ Trụ Bồ Tát. Sơ Trụ Bồ Tát trụ trong
Nhất Chân pháp giới, đến Hoa Tạng, đến thế
giới Cực Lạc, phải biết điều này! Nếu
chúng ta dùng một trăm điểm để nói, phải
đạt tới mười điểm mới là Sơ
Tín Bồ Tát. Ngẫm lại, có thể là hiện thời
chúng ta chỉ được một hai điểm, chẳng
đạt được mười điểm. Mười
điểm nói theo thế gian, sẽ là thánh hiền; chẳng
phải là thánh nhân th́ cũng đáng gọi là hiền nhân.
Hiền nhân quân tử có mấy phần thành thật đối
với người khác. Tương phản với chân
thành là hư ngụy. Xét theo tỷ lệ phần trăm,
chúng ta luôn là hư ngụy chín mươi mấy phần
trăm, chân thành chỉ có hai, ba phần trăm là đă khá
lắm rồi! Quư vị sẽ dần dần khế nhập
Đại Thừa. Chân thành là như thế, mà thanh tịnh
cũng là như thế, b́nh đẳng cũng là như thế,
cho đến từ bi cũng là như thế.
Chúng
ta dùng Hoa Nghiêm để lănh hội như vậy, sẽ dễ
hiểu, khá dễ hiểu, mà cũng khá dễ nói. Đấy
là chuyện chúng ta ắt phải nghiêm túc nỗ lực, phải
không ngừng nâng cao điểm số của chính ḿnh lên,
hy vọng tăng thêm điểm mỗi năm, mỗi
tháng. Quả nhiên có thể làm như thế, tôi tin rằng
quư vị nhất định đạt được
pháp hỷ sung măn, đúng như Phu Tử đă nói: “Học nhi thời tập chi, bất
diệc duyệt hồ” (Học rồi thường
xuyên tập luyện, cũng chẳng vui sao). Quư vị sẽ
sống rất vui sướng, cuộc sống rất hạnh
phúc. V́ sao? Trí huệ nâng cao, trí huệ tăng trưởng,
phiền năo nhẹ nhàng, đấy là đạo lư nhất
định. Do đó, đấy là lục căn và lục
thức của chính ḿnh, [nh́n] từ chỗ này của Bồ
Tát, [phán định] đấy là “nội”.
“Kinh vân, Bồ Tát đẳng cố”, “kinh vân” là nói tới những
bài kệ tụng trong phần sau. Câu đầu tiên trong bài
kệ tụng nói về Bồ Tát, chính là [bài kệ] chúng ta
vừa mới đọc, “Bồ
Tát tại gia, đương nguyện chúng sanh…” V́ thế,
dùng câu đầu tiên, cũng là câu đầu tiên được
nói trong đoạn kinh văn thuộc
phần sau [để luận định về các sự
là nội hay ngoại được nêu trong bài kệ].
Thứ
hai, đă có trong, ắt phải có ngoài. Ngoài là…
(Sớ)
Tha thân, hoặc y chánh tư cụ đẳng.
(疏)他身,或依正資具等。
(Sớ: Thân kẻ khác, hoặc là y báo, chánh báo, hay
những vật dụng cần thiết cho cuộc sống
v.v…)
Giống
như câu đầu tiên, “Bồ
Tát tại gia”, tại gia th́ trong nhà quư vị có cha mẹ,
có anh em, có vợ, con. Ngoài tự thân th́ đều là Tha, tức
là kẻ khác. Hoặc là nói “y,
chánh, tư cụ”, “Y” (依, y
báo) là hoàn cảnh sống của chúng ta. “Chánh” (正, chánh báo) là hoàn cảnh nhân sự, như cha mẹ,
anh em, vợ con. Đó là Chánh. Tất cả đất
đai, nhà cửa, cho đến những thứ cần
dùng trong cuộc sống đều thuộc loại y báo,
[đều có thể gọi là] “tư
thân chi cụ” (資身之具, những vật dụng cần thiết cho cuộc
sống). Nay chúng ta nói là hoàn cảnh nhân sự và hoàn cảnh
vật chất trong gia đ́nh, khiến cho chúng ta sống tốt
đẹp hơn!
(Sớ)
Kinh vân, tại gia đẳng.
(疏)經云,在家等。
(Sớ: Kinh nói, “tại gia” v.v…)
Ngày
hôm qua, tôi suy nghĩ rất lâu, v́ năm nay, Cục Tôn Giáo
Nhà Nước của Trung Quốc muốn mở luận
đàn về Phật giáo trên thế giới, chuyện này tốt
lắm! Tôn giáo của Trung Hoa ngả theo hướng thế
giới. Chủ đề là “thế
giới hài ḥa thực hiện từ cái tâm”. Tâm tịnh,
ắt cơi Phật tịnh; tâm an, ắt chúng sanh an; tâm b́nh, ắt
thiên hạ b́nh. Chủ đề này hay lắm! Thực hiện
từ nội tâm của chính chúng ta, phải thật sự
làm, chớ nên làm giả, phải tương ứng với
phẩm Tịnh Hạnh. Trước đây không lâu, lăo ḥa
thượng Măn Thành ở Lư Giang có một nhóm người
theo Ngài xuất gia, nghe nói là hơn năm mươi người.
Lăo ḥa thượng nói với tôi về vấn đề thọ
giới, tôi nghĩ rằng: Vẫn là chẳng thọ giới
th́ hay hơn! Hiện tại là thời kỳ Mạt Pháp,
chúng ta thấy cổ nhân, Ngẫu Ích đại sư, sau
khi thọ giới tỳ-kheo, đă đối trước
chư Phật, Bồ Tát thoái giới, trả giới tỳ-kheo
lại cho Phật, Bồ Tát, chính ḿnh suốt đời giữ
giới Sa-di. V́ thế, trong rất nhiều bản chú sớ,
lăo nhân gia ghi là “Bồ Tát Giới
Sa-di”. Sa-di thuộc địa vị học tṛ, chúng ta
hy vọng sẽ thật sự thực hiện, suốt
đời đều là học tṛ. Nếu là tỳ-kheo, tỳ-kheo
là Thiên Nhân Sư, thuộc địa vị thầy. Chính
chúng ta hăy suy ngẫm đức hạnh, học vấn, và tu
tŕ của chính ḿnh đều không đủ, vẫn khiêm
hư một chút th́ tốt hơn. Suốt đời làm Sa-di,
vậy là đă rất cao rồi!
Lần
thoái lui ấy, Ngẫu Ích đại sư lui xuống làm Sa-di,
đồ đệ của Ngài [tự nhủ]: “Thầy của
ta là Sa-di, ta chẳng sánh bằng thầy được”, vậy
th́ làm như thế nào? Thoái lui! Do vậy, học tṛ, tức
đồ đệ của Ngài là pháp sư Thành Thời. Ngẫu
Ích Đại Sư Toàn Tập là do pháp sư Thành Thời
chỉnh lư, xuất bản, lưu thông cho đời sau.
Ngài Thành Thời cũng hạ thấp, hạ thấp càng
nhiều hơn nữa, tự xưng là “xuất gia ưu-bà-tắc”, đúng là danh xứng
với thực. Trong quá khứ, tôi ở Đài Loan có một
con dấu, tôi cũng hạ thấp, con dấu của tôi
khắc chữ “xuất gia ưu-bà-tắc”.
Như vậy th́ mới là danh xứng với thực! V́
sao? Không chỉ là hiện thời chúng ta chẳng hành
được giới tỳ-kheo, mà giới sa-di cũng chẳng
hành được luôn! Có thể tu Ngũ Giới tốt
đẹp, khéo hành Ngũ Giới, Thập Thiện th́ đă
tuyệt vời lắm rồi! Suốt đời ǵn giữ
Ngũ Giới, Thập Thiện, chúng ta xuất gia, là xuất
gia ưu-bà-tắc, danh chánh ngôn thuận, danh phù hợp thực,
đó là đúng!
Ở
Trung Hoa, cũng có một vị đại đức rất
lỗi lạc. Tôi nói ra, các vị đều biết ngay,
chính là pháp sư Hoằng Nhất. Pháp sư Hoằng Nhất
tự xưng là “xuất gia ưu-bà-tắc”.
Do vậy, đối với [danh xưng] “xuất gia ưu-bà-tắc”, chúng ta thấy vị
thứ nhất là Thành Thời. Ngài là người sống
cuối đời Minh, [tức là] cuối đời Minh
đầu đời Thanh. Ta thấy vị thứ hai là Hoằng
Nhất đại sư. Nay chúng ta ngẫm lại, chúng ta kém
cỏi hơn Hoằng Nhất đại sư. Danh xứng
với thực, nay chúng ta xác thực là giữ vững Tam
Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện, yêu cầu chính ḿnh ắt
phải làm được, đấy là thân phận xuất
gia. V́ thế, chúng tôi muốn thoái lui Tam Đàn Đại
Giới để dùng thân phận ǵ? Xuất gia ưu-bà-tắc.
Xác thực là chúng ta làm sự nghiệp Bồ Tát, v́ thế,
thêm [chữ Bồ Tát] vào đằng trước, thành “Bồ Tát xuất gia ưu-bà-tắc”.
Đấy là danh chánh ngôn thuận. Tôi hy vọng những
người mới thế độ xuất gia đều
có thể hiểu rơ đạo lư này, chẳng dám tùy tiện
tham dự thọ giới, tự cho ḿnh là bậc đại
thánh. Đeo danh xưng “đại
thánh”, danh chẳng phù hợp thực, vậy th́ quư vị
phải nghĩ đến một câu ngạn ngữ của
cổ nhân: “Trước cửa
địa ngục, tăng đạo đông”? Nghĩ
đến câu nói ấy, run rẩy sợ hăi, lẽ nào chẳng
sợ hăi? Hăy ngẫm xem bản thân chúng ta đă làm
được bao nhiêu? Nhất định phải biết
điều này, chớ nên không biết! Chính ḿnh phải
khiêm hư, phải cung kính, quyết định không dám đứng
trước người khác, đứng sau người
khác tốt hơn, chẳng dám đứng trước
người khác. Đấy là nói đến Tha.
Lại
xem đoạn thứ hai, là Sự.
(Sớ)
Thứ Sự diệc nhị chủng.
(疏)次事亦二種。
(Sớ: Sự kế đó cũng có hai loại).
Cũng
gồm có hai loại.
(Sớ)
Nhất năng phát nguyện giả, nhị sở nguyện
chúng sanh. Kinh vân, đương nguyện chúng sanh cố.
(疏)一能發願者,二所願眾生。經云,當願眾生故。
(Sớ: Một là người có thể phát nguyện,
hai là chúng sanh được nguyện. Kinh nói “nguyện cho
chúng sanh”).
Câu
“đương nguyện chúng sanh”
có lời nguyện của chính ḿnh. “Nguyện chúng sanh” là cảnh giới, “đương nguyện” là bản
thân ta phát nguyện, [đó là] người có thể phát nguyện.
Khi chúng ta niệm một trăm bốn mươi mốt
nguyện ấy có thật sự là phát nguyện hay không? Niệm
hằng ngày, buổi sáng niệm một lần, buổi tối
niệm một lần, tối thiểu là [niệm trong]
công khóa sáng tối. Trong công khóa sáng tối đều có Tam
Quy Y, ba nguyện Tam Quy Y cũng thuộc trong một
trăm bốn mươi mốt nguyện. “Tự quy y Phật”, ta có quy y Phật hay không?
Đây là điều thứ nhất phải chú ư, ta có quy y Phật
hay không? Tôi đánh số một trăm bốn mươi
mốt nguyện ấy từ thứ nhất đến thứ
một trăm bốn mươi mốt. Số thứ tự
của Tam Quy Y sẽ là hai mươi, hai mươi mốt,
hai mươi hai, đấy là thứ tự của chúng. Điều
thứ hai mươi là “tự
quy y Phật”, hai mươi mốt là “tự quy y Pháp”, hai mươi hai là “tự quy y Tăng”. Chúng ta có
quy y hay không?
Tôi
đă giảng về Tam Quy khá nhiều lần, có ghi âm lẫn
ghi h́nh, c̣n có cả tập sách nhỏ mang tựa đề
Truyền Thọ Tam Quy. Sáng tối đều niệm,
nhưng chẳng Quy, mà cũng chẳng có Y. “Quy” (皈) là quay đầu. Quay đầu là bờ. Chẳng
quay đầu! “Y” (依) là
nương cậy, chúng ta chẳng nương tựa, chẳng
dựa vào Phật. Chúng ta y ǵ? Vẫn là y (dựa vào) phiền
năo và tập khí của chính ḿnh. Trong cuộc sống, công việc,
xử sự, đăi người tiếp vật, chẳng nương
theo giáo huấn của đức Phật; v́ thế, tôi nói
là “chẳng có quy, mà cũng chẳng có y!” Phật là giác, quy
y Phật là quy y giác. Tương phản của giác là mê. Khởi
tâm động niệm, phân biệt, chấp trước,
đấy là mê. Nguyện này dạy chúng ta từ mê quay về
giác, giác chứ không mê, đấy mới là thật sự
quy y Phật. Từ tà quay về chánh, tức chánh tri chánh kiến.
Từ tà tri tà kiến quay về nương cậy chánh tri
chánh kiến; đấy là quy y Pháp. Quy y Pháp là chánh chứ không
tà. Tăng là thanh tịnh, tương phản của thanh tịnh
là ô nhiễm! Nay chúng ta tinh thần ô nhiễm, tư tưởng
ô nhiễm, kiến giải ô nhiễm, hiện thời c̣n có
sắc thân ô nhiễm. Xă hội hiện thời ô nhiễm
nghiêm trọng. Chúng ta phải biết từ ô nhiễm mà
quay về, nương tựa tâm thanh tịnh, nương
tựa thân thanh tịnh. Thân tâm thanh tịnh, quư vị tự
nhiên khỏe mạnh, sống lâu!
Chúng
ta niệm Tam Quy mỗi ngày, có thật sự quay đầu
hay không? Có thật sự nương tựa Tam Bảo Giác
Chánh Tịnh hay không? Nếu chẳng có, mỗi ngày chúng ta
sáng niệm điều này, tối niệm điều này,
có lúc tôi nói khó nghe là “dấy vọng
ngữ”, lừa Phật, lừa Bồ Tát. Công khóa sáng tối,
sáng lừa Phật, Bồ Tát một lần, tối lại
lừa các Ngài lần nữa, sao mà nhẫn tâm thế? Thật
sự quay đầu, thật sự có nương tựa.
Thực hiện ở chỗ nào? Nay chúng tôi đề
xướng phải thực hiện ở Đệ Tử
Quy, thực hiện bằng Thập Thiện Nghiệp, sẽ
là thật sự “danh phù hợp
thực”, giác chứ không mê, chánh chứ không tà, tịnh chứ
chẳng nhiễm.
Câu
thứ nhất [trong Tam Tự Quy] nói về người
phát nguyện và chúng sanh được phát nguyện. Không
chỉ là chính ḿnh làm như vậy, mà c̣n nguyện, có ư niệm
ấy, hy vọng hết thảy chúng sanh đều có thể
quy y Tam Bảo, đều có thể thực hiện Tam Quy,
Ngũ Giới, Thập Thiện Nghiệp. Chỉ cần
chúng ta làm, làm rất tốt đẹp, nhất định
sẽ ảnh hưởng đến người nhà quư vị.
Lâu ngày chầy tháng, mọi người thấy quư vị
là người tốt như vậy, sẽ bị ảnh
hưởng! Chúng ta chẳng có cách nào cảm động
người nhà là do chính ḿnh làm chưa đủ tốt.
Chính ḿnh thật sự làm tốt đẹp, há có lẽ nào
chẳng cảm động người khác? V́ thế, cổ
đại đức đă nói rất hay: “Hành hữu bất đắc, phản cầu chư
kỷ”, [nghĩa là] chúng ta chẳng đạt được
mục tiêu mong mỏi, hăy quay đầu phản tỉnh. Chẳng
phải là không thể giáo hóa người khác, mà là do đức
hạnh của chính ḿnh chẳng đủ. [Hay nói rơ hơn,
chẳng thể giáo hóa người khác là do] trí huệ và
đức hạnh của chúng ta chẳng đủ. Nhất
định là phải tăng cường trí huệ và
đức hạnh của chính ḿnh, quư vị mới mong cảm
động người nhà, mới có thể cảm động
láng giềng, làng xóm, cảm động hết thảy
đại chúng trong xă hội, nhất định là phải
thực hiện từ bản thân của chính ḿnh.
(Sớ)
Hậu sự diệc nhị.
(疏)後事亦二。
(Sớ: Chuyện sau đó cũng có hai điều).
Đấy
là Sự, xét theo Sự th́ có thứ nhất, thứ hai và thứ
ba. “Sự” thứ ba chính là:
(Sớ)
Nhất giả tự ích.
(疏)一者自益。
(Sớ: Một là chính ḿnh được lợi
ích).
Chính quư vị đạt được lợi ích.
(Sớ)
Do thử chư nguyện, thành tiền chư đức.
(疏)由此諸願,成前諸德。
(Sớ: Do các nguyện này mà thành tựu các đức
trên đây).
Nói
tổng quát là “có thể đạt
được hết thảy các công đức thù thắng,
nhiệm mầu”; do đó, quư vị phải biết dụng
tâm. Biết dụng tâm như thế nào? Phật, Bồ Tát
từ bi tột bậc. Ngài nêu ra nhiều thí dụ như
thế, [một trăm bốn mươi mốt nguyện
là] một trăm bốn mươi mốt thí dụ nhằm
dạy quư vị trong cuộc sống hằng ngày, trong công việc,
đăi người tiếp vật, phải dụng tâm
như thế nào? Nếu quư vị đúng như pháp tu hành,
dụng tâm như vậy, sẽ chẳng hai, chẳng khác chư
Phật Như Lai và Pháp Thân Bồ Tát. Trong cuộc sống
hằng ngày, trong đăi người tiếp vật, đức
Phật dụng tâm như thế nào? Là như thế
đó. Chúng ta phải khéo học, phải học hiểu!
Quư vị sẽ thành tựu trí huệ và đức hạnh
của chính ḿnh!
Quư
vị thấy trong phần trước đă giảng về
“thắng diệu”, “thắng” (勝) là
thù thắng, “diệu” (妙) là
chẳng chấp tướng. Trong giáo pháp Đại Thừa,
chúng ta đă đọc rồi đó: “Ĺa hết thảy tướng, chính là hết thảy
các pháp”. Tức là hết thảy các pháp đều là
công đức thắng diệu, là công đức thù thắng.
Ĺa hết thảy tướng, công đức nhiệm mầu!
Chính là tướng mà ly tướng (tức tướng ly
tướng), Ly và Tức đồng thời; đấy
là Bồ Tát, là Phật, chẳng phải là Nhị Thừa!
Nhị Thừa ĺa hết thảy tướng, các Ngài thật
sự ĺa; v́ thế, các Ngài chẳng giáo hóa chúng sanh. Các Ngài
ngại chúng sanh chẳng dễ dạy, [cho nên] không dạy.
V́ thế, chẳng có Bồ Đề tâm. Trong Bồ Đề
tâm có đại từ đại bi, các Ngài chỉ có thanh tịnh,
chẳng có từ bi. Do vậy, Nhị Thừa ở trong tứ
thánh pháp giới, chẳng trụ trong Nhất Chân pháp giới;
Bồ Tát trụ trong Nhất Chân pháp giới. Đấy là
“tự ích”, tức là lợi
ích chính ḿnh, thành tựu công đức thù thắng, vi diệu
cho chính ḿnh. Điều thứ hai là…
(Sớ)
Ích tha.
(疏)益他。
(Sớ: Lợi ích người khác).
Tạo
lợi ích cho kẻ khác.
(Sớ)
Do thử phát nguyện, nguyện chúng sanh cố.
(疏)由此發願,願眾生故。
(Sớ: Do vậy bèn phát nguyện, nguyện v́ chúng
sanh).
Nguyện
ấy chẳng phải là nguyện rỗng tuếch. Nói
theo cách hiện thời, nguyện ấy là “ảnh hưởng”! Ta phát nguyện, nhất
định phải làm được, tất nhiên sẽ có
thể ảnh hưởng đến người và vật
chung quanh ta. Con người có thể ảnh hưởng vật,
vật cũng có thể ảnh hưởng
con người. “Vật” (物) là ǵ? Núi, sông, đại địa, hết
thảy chúng sanh! Người phát đại nguyện, phát
thiện tâm, ư niệm Từ của quư vị sẽ giống
như làn sóng điện từ (electromagnetic wave) phóng xạ, giống như sóng ánh sáng. Luồng
sóng thiện tâm và thiện nguyện ấy trọn khắp
pháp giới, hư không giới. Cường độ sóng
hoàn toàn tỷ lệ thuận với cái tâm phát nguyện của
quư vị, giống như tỷ dụ một trăm
điểm mà chúng tôi vừa mới nói. Nay chúng ta phát nguyện, dường như chẳng có cảm
ứng to tát ǵ! Thật ra là cảm ứng không rơ rệt! V́
sao? Làn sóng ấy phát ra quá yếu, chẳng mạnh! Tuy rất
yếu, nó vẫn trọn khắp pháp giới. Nếu chúng
ta có cường độ, có cường độ mười
phần trăm hoặc hai mươi phần trăm, sẽ
sanh ra hiệu quả rất lớn. Bồ Tát thuộc
địa vị Sơ Tín trong Hoa Nghiêm là mười phần
trăm. Nhị Tín, tức Bồ Tát thuộc địa vị
Nhị Tín trong Đại Thừa Viên Giáo là hai mươi
phần trăm, sự cảm ứng rất rơ rệt. H́nh
tượng, động tĩnh, và động tác của
Ngài cũng thế, đều như đang nhập Định,
đều có thể khiến cho núi, sông, đại địa
bị ảnh hưởng. Đối với chuyện này,
chỉ cần quư vị liễu giải thí nghiệm với
nước của tiến sĩ Giang Bổn Thắng ở
Nhật Bản, sẽ hiểu rơ!
Thiện
tâm chân thành, có thể khiến cho hoàn cảnh bên ngoài đều
trở thành tốt đẹp, điều ấy được
diễn tả là “cảnh chuyển
theo tâm”. Trong giáo pháp Đại Thừa, đức Phật
thường nói: “Hết thảy
các pháp sanh từ tâm tưởng”. V́ thế, nay chúng ta chẳng
thể cảm hóa xă hội này, chẳng thể khiến cho
hoàn cảnh vật chất trở nên tốt đẹp
hơn, [nguyên nhân là do] chúng ta làm chẳng đủ! Chính
ḿnh phải nghiêm túc phản tỉnh, kiểm thảo chuyện
này! Cớ sao chẳng làm đủ? Dấy ḷng danh lợi,
vẫn là tranh danh, đoạt lợi, đối với thứ
chính ḿnh ưa thích, vẫn muốn giành lấy, vẫn có
tâm tham. Tuy chính ḿnh đă có, thấy người khác rất
cần, [thế mà] ôm ḷng keo kiệt, chẳng chịu bố
thí. Khi thấy chính ḿnh gặp chuyện chẳng vừa ḷng,
cảm thấy bực ḿnh, ngay lập tức cáu giận, sân
khuể liền dấy lên! Khi thấy người khác tốt
hơn chúng ta, bèn dấy ḷng ganh tỵ. Chư vị hăy ngẫm
xem, chính ḿnh có phải là hạng người như thế
hay chăng? Nếu là như vậy, sẽ chẳng có phần.
Đối với Bồ Đề tâm như đức Phật
đă dạy, chúng ta chẳng phải là niệm suông rồi
thôi! Có [Bồ Đề tâm] ở đằng miệng, trừ
miệng có [Bồ Đề tâm] ra, chẳng có ǵ hết, trong
tâm quư vị chẳng có, nơi hành vi chẳng có, làm sao có thể
thành tựu công đức thắng diệu cho được?
Chúng ta học Phật kiểu đó th́ vẫn có thể
đạt được, [tức là] có thể đạt
được hết thảy nghiệp nhân quả báo trong
tam đồ lục đạo, chẳng phải là thành tựu
công đức thù thắng nhiệm mầu! Những ǵ chúng
ta đă làm vẫn là nghiệp báo của tam đồ, chớ
nên không cảnh giác điều này!
Nhất
là những người tuổi đă xế bóng, người
Hoa thường nói từ tuổi sáu mươi trở
đi là “văn niên” (tuổi xế
chiều). Người trẻ tuổi vẫn chẳng thể
lănh hội tầm khẩn yếu của chuyện này. Từ
sáu mươi tuổi trở đi, đời này đă
qua, niệm niệm phải tính toán cho đời sau, đời
sau ta sẽ đến nơi đâu? Dẫu trong quá khứ,
sáu mươi năm trước đă tạo đủ mọi
ác nghiệp, nếu sáu mươi tuổi mà thân thể khỏe
mạnh th́ giác ngộ, quay đầu, vẫn kịp! Kinh
văng sanh nói càng thù thắng hơn, từ bi đến mức
tột bậc. Chỉ cần quư vị một hơi thở
chưa dứt, sửa lỗi đổi mới, tu sám hối
đều kịp. Con người chớ nên tự vứt
bỏ, tự ruồng rẫy chính ḿnh, gặp gỡ Phật
pháp đúng là chẳng dễ dàng! Sau khi đă gặp gỡ,
nhất định là phải hiểu rơ, nhất định
là phải giác ngộ, nhất định phải thật
sự quy y, y giáo phụng hành. Pháp này đúng là ta và người
cùng được lợi, tự lợi chẳng thể
nghĩ bàn, lợi tha cũng chẳng thể nghĩ bàn. Nay
đă hết thời gian rồi, chúng ta nghỉ ngơi mấy
phút.
***
Chư
vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Chúng ta
xem tiếp phần khai thị kế đó của Thanh
Lương đại sư.
(Sớ)
Thử hậu nhị cú, hoặc tiền cú thị nhân, hậu
cú thị quả, như vân sở hành vô nghịch, thành Nhất
Thiết Trí đẳng.
(疏)此後二句,或前句是因,後句是果,如云所行無逆,成一切智等。
(Sớ: Hai câu sau đó, hoặc câu trước là
nhân, câu sau là quả. Như nói “sở hành chẳng trái nghịch,
thành Nhất Thiết Trí” v.v…)
“Sở hành vô nghịch” là nhân,
“thành Nhất Thiết Trí” là
quả. Những trường hợp giống
như vậy trong phần kệ tụng rất nhiều.
Đối với câu thứ ba và thứ tư, có lúc, câu
trên là nhân, câu dưới là quả. “Sở hành vô nghịch”: “Nghịch” (逆) là chống trái giáo huấn của đức Phật.
Giáo huấn của đức Phật ở trong kinh luận;
Tam Tạng kinh luật luận đều là giáo huấn của
đức Phật. Cổ nhân đă nói rất hay: “Kinh luận ấn tri kiến, giới
luật chánh hành vi” (Kinh luận ấn chứng tri kiến,
giới luật uốn nắn hành vi). Chúng ta nói “thân, khẩu,
ư”, tức là ngôn ngữ và tạo tác đều phải
nương theo giới luật, khởi tâm động niệm
phải nương theo kinh luận. Tam Tạng không ǵ chẳng
nhằm dạy thân, ngữ, ư, khởi tâm động niệm,
ngôn ngữ, tạo tác của chúng ta thảy đều chánh
đáng.
Tiêu
chuẩn của Chánh là ǵ? Tiêu chuẩn là Tánh Đức,
giáo pháp Đại Thừa gọi nó là Pháp Tánh. Ba nghiệp
thân, ngữ, ư đều có thể tương ứng với
Pháp Tánh, chẳng trái nghịch, người ấy là Pháp
Thân Bồ Tát, là chư Phật Như Lai. Nếu có trái nghịch,
mức độ trái nghịch lớn hay nhỏ, cạn
hay sâu, rộng hay hẹp khác nhau. Hễ trái nghịch ít, chẳng
tổn hại đến điều tốt đẹp tổng
quát, sẽ là những người thuộc tứ thánh pháp
giới trong mười pháp giới, chưa thể hoàn toàn
đạt đến “không trái nghịch”. Hoàn toàn đạt
đến “chẳng trái nghịch” chính là bốn
mươi mốt địa vị Pháp Thân đại
sĩ. Sở hành của các Ngài chẳng trái nghịch, thành Nhất
Thiết Trí. Nhất Thiết Trí [ở đây] bao gồm ba
loại trí huệ, tức là Nhất Thiết Trí, Đạo
Chủng Trí, và Nhất Thiết Chủng Trí. Dùng ba chữ ấy
v́ mỗi câu trong kệ tụng là bốn chữ, cho nên hễ
nêu lên một, quư vị sẽ nghĩ những thứ sau
trong ba thứ đều được bao gồm trong ấy.
Thành tựu Nhất Thiết Trí, là từ Sơ Trụ trở
lên! Chúng tôi thường nói: Trong hết thảy các pháp,
chúng ta nói là đối với người, đối với
sự, đối với vật, chẳng có chấp
trước, người Hoa nói là “chẳng có thành kiến”,
bất cứ điều ǵ cũng đều tốt đẹp,
chẳng c̣n chấp trước nữa! Đấy là A La
Hán.
Ví
như chuyện ăn uống, tôi ở Tân Gia Ba, nghe các
đồng học Tân Gia Ba kể: Người thuộc thế
hệ trước, Hoằng Nhất đại sư và
pháp sư Quảng Hiệp ở Tân Gia Ba là bạn bè rất
thân thiết. Pháp sư Quảng Hiệp quê ở Phước
Kiến, hai Ngài từng ở chung một chỗ tại Hạ
Môn một thời gian. Pháp sư Quảng Hiệp hết sức
tôn kính Hoằng Nhất đại sư, hết sức ngưỡng
mộ, vị này thật sự là một người xuất
gia có đức hạnh. Do vậy, Hoằng Nhất đại
sư nhận lời mời của Sư, sang Mă Lai và Nam Dương hoằng pháp, trụ tại
tinh xá của Sư, tức Chiêm Bồ Viện[5]. Tôi đă
đến nơi đó, cơ sở không lớn, có một
dăy nhà nhỏ. Một cụ già kể với tôi, pháp sư Hoằng
Nhất sống rất đơn giản, chăm sóc Ngài rất
dễ dàng. Đối với chuyện ăn ở, cho ǵ Ngài
ăn nấy, Ngài chẳng có phân biệt. Có những món ăn
nấu mặn chát, có người hỏi: “Thưa pháp
sư! Có phải là mặn quá hay không?” Ngài đáp: “Mặn
có cái ngon của mặn”. Nấu quá lạt, “Lạt có cái
ngon của lạt”. Chẳng có ǵ không tốt, đấy là
hiện thân thuyết pháp.
Trong
kinh giáo, đức Phật thường dạy chúng ta: Tùy
duyên, chứ không phan duyên. Tùy duyên th́ bất cứ điều
ǵ cũng được! Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại
thế, đi khất thực, cho ǵ ăn nấy, chắc
chắn là chẳng có phân biệt. Chẳng thể nói: Mỗi
lần đi [khất thực], nhà kẻ giàu có sẽ cúng
dường chư Tăng thức ăn rất ngon, hằng
ngày đến nhà họ khất thực. Chẳng có chuyện
ấy! Mặt khác, nhà người nghèo khó, [thực phẩm]
ăn rất tệ. Tâm Phật, Bồ Tát là b́nh đẳng.
V́ thế, chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ
bi, tu ở chỗ nào? Tu ngay trong cuộc sống, tu ngay
trong nhân sự, tu trong hoàn cảnh, quư vị mới thật
sự tu thành công! Tu ǵ vậy? “Sở
hành vô nghịch”, quyết định tuân thủ giáo huấn
của đức Phật, quư vị chớ nên kén chọn,
món này ngon, món kia dở, chớ nên!
V́
thế, một bát cơm đức Phật dùng, do rất
nhiều người bố thí, chẳng phải là một
nhà. Cơm ấy được gọi là “Ca-sa”. Áo chúng ta mặc gọi là áo ca-sa. Ca-sa là tiếng
Ấn Độ, có nghĩa là ǵ? Hỗn tạp! Y phục ấy
là đỏ, vàng, xanh, trắng, đen, năm màu ấy
được gọi “chánh sắc”.
Đức Phật nhuộm y, ḥa chung năm màu đó,
nhuộm thành màu ấy, nên gọi là áo Ca-sa. Ăn cơm là
xin từ từng nhà do người ta cúng dường.
Đức Phật dạy các đệ tử khất thực,
chỉ được xin từ bảy nhà, tức là từ
bảy gia đ́nh. Nếu bảy nhà đều không cúng
dường, quư vị chẳng thể đến xin nhà thứ
tám, hăy trở về, ôm bát rỗng. Quay về như thế
nào? Chia sớt từ bát của các đồng học xin
được nhiều. Khất thực chẳng phải
là sau khi xin được, quư vị có thể vừa đi
vừa ăn, chẳng thể được! Phải về
đến chỗ cư trụ của chính ḿnh, dưới
cội cây, mọi người đă đều trở về
cả rồi, mới cùng nhau ăn cơm. Rất có quy củ,
có trật tự, chẳng phải là mỗi người
xin được liền ăn phần của ḿnh, chẳng
phải vậy! Sau khi trở về, nói chung là đem tất
cả cơm trộn lẫn với nhau, quư vị có thể
ăn bao nhiêu, bèn lấy bấy nhiêu. Đó là b́nh đẳng.
Do
vậy, một bát cơm ngàn nhà! Quư vị liễu giải
ư nghĩa này, chẳng giả! Thuở ấy, một ngàn
hai trăm năm mươi lăm đồ đệ của
Ngài, mọi người đi khất thực. Sau khi trở
về, trộn lẫn cơm với nhau, chẳng phải
là một bát cơm ngàn nhà ư? Điều này chẳng giả,
mà là thực tại. Đều là hỗn hợp, chẳng
có phân biệt, chẳng có chấp trước, cơm và thức
ăn ở cùng một chỗ, nuôi nấng sắc thân này.
Phải luôn ghi nhớ, hết thảy đều tùy duyên,
đừng phan duyên, hết thảy cũng chẳng cần
làm phiền kẻ khác! Phật pháp là “từ bi làm gốc, phương tiện làm cửa”,
nói chung, chẳng khiến cho người khác khó xử,
điều này rất quan trọng! V́ thế, trong kinh luận,
đức Phật thường nói: Bồ Tát ở đâu
cũng sẽ khiến cho hết thảy chúng sanh sanh tâm
hoan hỷ, chớ nên khiến cho họ sanh phiền năo. Hễ
sanh phiền năo, sẽ chẳng phải là Bồ Tát.
Khởi
tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác, luôn lợi
ích chúng sanh, chẳng nhằm lợi ích chính ḿnh. V́ sao chẳng
lợi ích chính ḿnh? Lợi ích chính ḿnh th́ sẽ luân hồi
trong lục đạo! V́ sao lợi ích chính ḿnh sẽ luân hồi
trong lục đạo? Cái nhân thứ nhất gây nên luân hồi
trong lục đạo là chấp trước có Ngă, coi thân này
là ta. Kinh Kim Cang nói “ngă tướng,
nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng”.
Chỉ cần có Ngă, nhất định là sẽ có chúng sanh,
sẽ có thọ giả, trọn đủ bốn tướng.
Đấy là cái nhân của sự luân hồi trong lục
đạo. V́ thế, đức Phật dạy mọi người:
Nếu quư vị muốn ĺa khỏi lục đạo,
trước hết, phải phá Ngă Chấp, vô ngă, vô nhân, vô chúng
sanh, vô thọ giả. Ngă c̣n chẳng có, đương
nhiên là ngă sở hữu càng giả! Vô ngă, vô ngă sở, quư vị
mới có thể rời ĺa lục đạo! Chấp
trước kiên cố ngă và ngă sở, ngay cả niệm Phật
cũng chẳng thể văng sanh. Những trường hợp
như vậy rất nhiều. Quư vị thấy trong Phật
môn có quá nhiều văn tự ghi chép chuyện này, nghiệp
nhân quả báo đấy!
Có
những kẻ tu hành, bất luận tại gia hay xuất
gia, cũng khá lắm, chẳng coi trọng tiếng tăm,
lợi dưỡng, chẳng coi trọng duyên thế gian,
nhưng coi Phật pháp quá trọng, thấy thân rất nhẹ,
thấy Phật pháp rất nặng. Ví như thấy pháp vật,
kinh sách rất nặng, c̣n trọng hơn sanh mạng. Quá
coi trọng tượng Phật, chấp trước kiên cố.
Trong quá khứ, thuở c̣n trẻ, tôi rất yêu sách, rất
coi trọng sách, xác thực là vượt xa tất cả hết
thảy [những thứ khác]. Về sau, khi thầy Lư giảng
kinh, đă bảo chúng tôi: “Hễ có ham mê, trong tương
lai, sau khi đă chết, quư vị niệm niệm chẳng
ĺa khỏi chúng. Nếu quá coi trọng kinh sách, sẽ
như thế nào? Trong sách có loại bọ giấy. Bọ
giấy là những kẻ đời trước yêu sách,
không nỡ rời khỏi quyển sách. Sau khi đă chết,
sẽ sanh làm bọ giấy trong sách”. Thầy Lư dạy
chúng tôi như vậy đó. Tôi đă thấy có những kẻ
đặc biệt thích cất giữ tượng Phật,
tượng lớn, tượng bé, vàng, bạc, đồng,
sắt, chuyên môn thích sưu tập tượng Phật, yêu
chuộng tượng Phật, là Phật tử kiền
thành. Trong tương lai, khi người ấy văng sanh, sẽ
đến nơi đâu? Tôi từng thấy trong tượng
Phật bằng gỗ khắc có chuột, tôi hoảng nhiên
đại ngộ! Họ chẳng ĺa khỏi tượng
Phật. Trong tượng Phật có chuột, có gián, có kiến,
họ đến đầu thai trong các loài đó. Trong tự
miếu chẳng có nam nữ hôn phối, họ bèn đầu
thai vào đó. V́ thế, đối với bất cứ vật
phẩm ǵ, chỉ cần có ham chuộng, đều sẽ
đem lại phiền phức rất lớn cho quư vị.
Kinh
Bát Nhă dạy rất hay: “Phàm những
ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”, đức
Phật nói lời này có nghĩa là ǵ? Dạy quư vị thảy
đều buông xuống, chớ nên chấp trước. Tôi
học Phật đến mười năm, hai
mươi năm, mới thật sự buông xuống, bất
cứ ǵ cũng đều có thể [buông xuống], chẳng
c̣n làm những việc ấy nữa! Phải sưu tập
một ít sách vở, v́ sao? Giảng kinh. Giảng kinh th́ cần
phải tham khảo tài liệu, cho nên chẳng thể không
cất giữ sách vở. Cất giữ sách như thế
nào? Trước kia cứ cho là của chính ḿnh, chính ḿnh rất
quư tiếc; hiện thời đều tặng cho thư viện.
Thời cổ, chùa chiền có tàng kinh lâu (lầu chứa
kinh), hăy nên giao hết về tàng kinh lâu, giao cho thường
trụ. Hiện thời, chúng tôi chẳng có lầu tàng kinh.
Tôi ở Úc có Tịnh Tông Học Viện, học viện
cũng giao cho những người trẻ tuổi. Trong học
viện có một thư viện quy mô kha khá, toàn bộ sách
vở của tôi đều trao cho thư viện. Ở bên
cạnh tôi là một ít tài liệu để tham khảo,
tôi cũng chẳng chấp trước những tài liệu
ấy. Ngày nào tôi không cần nữa, sẽ đều quyên
tặng cho tự viện hoặc biếu tặng cho các
trường. Hiện thời, vẫn chưa quyên tặng,
trong tâm đă sớm quyên tặng rồi! Chớ nên có mảy
may vọng tưởng, phân biệt, chấp trước.
Thân c̣n chẳng phải là ta, há có vật ngoài thân!
Đă
xuất gia, quư vị lại muốn xây dựng một căn
nhà, chẳng phải là lại trở về nhà ư? Chẳng
phải là quư vị lại có nhà ư? Dựng một ngôi
chùa to, [tức là] bỏ căn nhà nhỏ nhoi thuộc về
gia đ́nh của ḿnh để t́m một căn nhà to! “Ngôi
chùa này là của ta, là tài sản của ta, thuộc về
ta!” Chỉ cần là “của ta”, phiền phức sẽ kéo
tới. Ấn Quang đại sư suốt đời
không thâu đồ đệ, không truyền giới, không lập
tự miếu, là do đạo lư nào? Chúng ta phải suy
nghĩ cho nhiều, phải liễu giải cho nhiều. Chẳng
tạo nghiệp! Chẳng có lỗi lầm! Suốt đời
Ngài làm một chuyện là in kinh bố thí. Mười
phương cúng dường, Ngài liền làm một chuyện
ấy. Dùng những khoản cúng dường để lo
liệu Hoằng Hóa Xă tại chùa Báo Quốc ở Tô Châu,
nay chúng ta gọi [Hoằng Hóa Xă] là Phật Kinh Lưu Thông Xứ,
chuyên môn ấn tống kinh điển và thiện thư. Ngay
cả sự nghiệp từ thiện cứu tế thông
thường, Ngài cũng chẳng làm. Do nguyên nhân ǵ?
Người
làm sự nghiệp từ thiện cứu tế rất nhiều!
Sự từ bi cứu tế ấy là “trị đằng
ngọn”, chư vị phải hiểu điều này.
Người ta chẳng có ăn, tặng lương thực
cho họ; chẳng có mặc, bèn tặng quần áo cho họ.
Đấy là trị đằng ngọn! Giúp cho kẻ khác
giác ngộ, giúp người ta tin nhân quả, giúp người
ta đoạn ác tu thiện. Đấy là trị tận gốc.
Đạo lư này sâu xa. Suốt một đời, Thích Ca Mâu
Ni Phật giảng kinh hơn ba trăm hội, thuyết
pháp bốn mươi chín năm, Ngài đă làm ǵ? Từ thiện
cứu tế. Ngài biết khổ nạn của hết thảy
chúng sanh do đâu mà có? Từ mê hoặc, điên đảo
mà có! Quư vị đă mê, nên mới tạo nghiệp. Quư vị
tạo tác nghiệp bất thiện, sẽ có quả báo ác
hiện tiền. Nếu quư vị đă giác ngộ, chẳng
tạo ác nghiệp. Dẫu có ác nhân, đă đoạn ác
duyên, quả báo bất thiện sẽ chẳng hiện tiền.
Quư vị làm nhiều chuyện tốt, tạo nhiều thiện
nhân, do điều thiện trong đời quá khứ,
điều thiện trong đời hiện tại, có nhân,
có duyên, quả báo thảy đều hiện tiền. V́ thế,
đấy mới là từ bi cứu thế thật sự.
Suốt
một đời, Thích Ca Mâu Ni Phật làm công tác từ thiện
cứu tế, chẳng tốn một đồng, hoàn toàn
sử dụng giáo dục. Trong thời kỳ Mạt Pháp, tổ
Ấn Quang đă v́ chúng ta thị hiện điều này. Nếu
chúng ta có thể thấu hiểu, lănh hội ư Ngài, sẽ có
thể hiểu giáo huấn của đức Phật. Chúng
ta phải nên học theo Phật như thế nào? Học
theo tổ sư như thế nào? Nói theo kinh này, sẽ là “phải dụng tâm như thế
nào th́ chúng ta sẽ có thể đạt được hết
thảy công đức thắng diệu”. Công đức
thắng diệu ấy là người khác nói, chứ tự
ḿnh có [nhận thấy chính ḿnh có công đức thắng diệu]
hay không? Chẳng có. V́ sao? Vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước thảy đều chẳng có, công
đức ấy mới thật sự là thắng diệu.
Trong ấy, hễ xen tạp vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước, công đức sẽ chẳng thắng,
mà cũng chẳng diệu. Diệu là phải ly tướng.
Đấy là nói trong bài kệ có nhân, có quả. Câu thứ
ba là nhân, câu thứ tư là quả, nhưng cũng không nhất
định.
Tiếp
đó, [đại sư] nói:
(Sớ)
Hoặc nhị câu thị nhân.
(疏)或二俱是因。
(Sớ: Hoặc cả hai câu đều là nhân).
Câu
thứ ba và câu thứ tư đều là nhân. Ví như trong
kinh này nói:
(Sớ)
Xảo sự sư trưởng, tập hành thiện pháp
đẳng.
(疏)巧事師長,習行善法等。
(Sớ: “Khéo thờ sư trưởng, tu tập
pháp lành” v.v…)
“Đẳng”
(等) có nghĩa là [những bài kệ] thuộc loại
này, [tức là] cả hai câu [ba và bốn] đều là nhân. “Xảo sự sư trưởng”
là câu thứ ba, “tập hành thiện
pháp” là câu thứ tư. Cả hai câu đều là nhân. “Xảo” (巧) là
thiện xảo, “sự” (事) là
phụng sự sư trưởng. “Xảo sự sư trưởng” quyết chẳng
phải là hằng ngày chăm sóc chuyện ăn, mặc, ở,
đi lại, hầu hạ thầy rất chu đáo. Thầy
không cần những điều ấy. Thầy cần học
tṛ làm ǵ? Cần học tṛ y giáo phụng hành, cần học
tṛ phiền năo tập khí mỗi ngày giảm nhẹ, trí huệ
và phước đức mỗi ngày một tăng trưởng,
thầy thấy vậy sẽ hoan hỷ. Bởi lẽ, quư
vị thật sự đạt được “từ bi làm gốc, phương
tiện làm cửa”. Đấy là thật sự “xảo sự”. V́ thế, câu
kế tiếp là “tập hành thiện
pháp”. Phương tiện thiện xảo thảy đều
thực hiện trong học tập. Học tập trong cuộc
sống, học tập trong xử sự, đăi người
tiếp vật, học tập hành thiện! Như kinh Thập
Thiện Nghiệp Đạo đă nói: “Thường niệm thiện pháp, tư duy thiện
pháp, quan sát thiện pháp”, thân, ngữ, ư nghiệp chẳng
có ǵ bất thiện.
Một
ư nghĩa khác, “xảo sự sư
trưởng” là đối với hai mươi bốn
môn oai nghi, thiện xảo phương tiện trong Sa Di Luật
Nghi thảy đều thực hiện, đều làm
được. Đấy là Sự. “Xảo” có nghĩa là ǵ? Quư vị làm những chuyện
ấy đều là giáo dục. V́ sao? Có nguyện ở
trong ấy. Ta làm cho người khác thấy, nêu
gương tốt cho những người ấy, nhắc
nhở họ. Đấy là Xảo. Phải hiểu, chẳng
có ǵ không phải là giáo dục. Chẳng có ǵ không nhằm lợi
ích và giáo hóa chúng sanh. Tự hành vốn là dạy người
khác, dạy người khác vốn là tự hành. Tự hành
và dạy người khác chẳng hai. Chúng ta lễ kính
sư trưởng; dẫu sư trưởng chẳng cần,
chúng ta phải làm đúng lư, đúng pháp, làm cho người
khác thấy. Hiện thời, rất nhiều kẻ chẳng
biết tôn kính thầy, chẳng biết hiếu thuận
cha mẹ. Chúng ta phải nêu gương hiếu thuận
cha mẹ, tôn kính thầy cho người khác nh́n vào. Đấy
là Xảo. Nói cách khác, đều là diễn tuồng! Cha và
con diễn tuồng cho người khác xem, diễn cho những
kẻ cha con bất ḥa, cha con có mâu thuẫn trông thấy, nhằm
khuyên dạy họ. Đối với những kẻ chẳng
tôn trọng thầy, thầy và tṛ diễn tuồng, giống
như Thích Ca Mâu Ni Phật và các học tṛ của Ngài, một
ngàn hai trăm năm mươi lăm người, diễn
tuồng, diễn cho chúng ta xem. Đấy là “xảo sự”.
Hoặc
là…
(Sớ)
Nhị câu Phật quả.
(疏)二俱佛果。
(Sớ: Cả hai đều là Phật quả).
Câu
ba và câu bốn đều là quả. Quư vị thấy trong
phần trước, câu ba và câu bốn đều là nhân; ở
chỗ này, hoàn toàn đều là quả. Ví như trong lời
nguyện đă nói, “vĩnh ly
phiền năo” và câu thứ tư là “cứu cánh tịch diệt” đều là quả.
Vĩnh viễn rời ĺa phiền năo là quả, rốt ráo
tịch diệt cũng là quả. Rốt ráo tịch diệt
chính là Đại Niết Bàn! Tu học Phật pháp, chẳng
có ǵ khác! Nói thật ra, tám chữ ấy cũng là pháp môn
Đại Tổng Tŕ, đă nói trọn hết. Phật
pháp tu ǵ vậy? Chính là đoạn phiền năo. Phiền năo
là ǵ? Nói thô thiển th́ là thất t́nh ngũ dục, thất
t́nh là mừng, giận, buồn, vui, yêu, ghét, ham muốn;
ngũ dục là tài, sắc, danh, ăn uống, ngủ nghê.
Những thứ ấy thời thời khắc khắc dẫn
khởi tham, sân, si, mạn, hai mươi sáu món phiền năo
được nói trong Bách Pháp, những thứ ấy đều
dẫn dụ quư vị!
Vĩnh
viễn ĺa phiền năo, những thứ ấy ở bên
ngoài, tâm quư vị thanh tịnh, chẳng bị cảnh giới
bên ngoài ảnh hưởng, đó là “ly phiền năo”. Ly phiền năo chẳng phải là một
hai lúc, mà là vĩnh viễn ĺa phiền năo. Mở đầu
của việc ĺa phiền năo là Nhẫn, nhẫn nhục,
nhẫn nại. Nhẫn lâu ngày, sẽ đắc Định.
Định có thể chế phục phiền năo. Công phu
định lực càng sâu, thời gian chế phục càng
dài, vẫn chưa vĩnh viễn ĺa khỏi. “Vĩnh ly” là ǵ? Do Định,
khai trí huệ. Sau khi trí huệ đă khai, chuyển phiền
năo thành Bồ Đề, tức là chuyển biến phiền
năo thành Bồ Đề, vĩnh viễn chẳng có phiền
năo! Người ấy là ai? Chính là Sơ Trụ Bồ Tát
trong Viên Giáo. Kinh luận Đại Thừa thường
nói: “Phá một phẩm vô minh,
chứng một phần Pháp Thân, vĩnh viễn ĺa phiền
năo”. Trong mười pháp giới, thuộc về Định,
đă chế phục phiền năo, chưa chuyển. Người
ấy vừa chuyển, sẽ thoát ĺa mười pháp giới.
Thoát ĺa mười pháp giới, người ấy sẽ
đến Hoa Tạng, tức là Nhất Chân pháp giới. Người
niệm Phật do công phu như vậy, sanh vào Tây
Phương Cực Lạc thế giới là sanh vào cơi Thật
Báo Trang Nghiêm. Hễ sanh vào nơi ấy, sẽ là “hoa nở thấy Phật”.
Người ấy chẳng phải là sanh vào Phàm Thánh Độ,
chẳng phải là sanh vào cơi Hữu Dư, v́ người ấy
đă vĩnh viễn ĺa phiền năo. Chế phục phiền
năo, chế phục sâu xa, sanh vào Phương Tiện Độ.
Chế phục nông cạn, vừa mới chế phục,
sẽ sanh vào cơi Phàm Thánh Đồng Cư.
“Cứu cánh tịch diệt”
chính là Phật quả rốt ráo, c̣n cao hơn Đẳng
Giác một tầng. Đấy là Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác, là Phật quả rốt ráo. Trong thứ tự
được sắp đặt trong Hoa Nghiêm, sẽ là
địa vị thứ bốn mươi hai, cao nhất!
Bốn mươi địa vị trước đó là Pháp
Thân Bồ Tát, địa vị bốn mươi mốt
là Đẳng Giác Bồ Tát, địa vị bốn
mươi hai chính là tịch diệt rốt ráo. V́ thế,
vĩnh viễn ĺa phiền năo là bốn mươi mốt
địa vị Pháp Thân đại sĩ, “tịch diệt rốt ráo” chính là địa vị
thứ bốn mươi hai, tức Phật quả rốt
ráo. Thảy đều là quả báo.
Nay
chúng ta muốn tu, chẳng phải là cao như thế! Nay chúng
ta muốn học là chế phục phiền năo. Muốn chế
phục phiền năo, chẳng thể không có trí huệ. Trí
huệ từ đâu mà có? Đọc kinh, nghe giảng, xem chú
giải của các bậc đại đức xưa nay.
Từ những chỗ ấy mà đạt được
một chút trí huệ. Ta biết bao nhiêu, bèn làm bấy nhiêu,
như vậy th́ mới hữu dụng. Tuy biết mà làm
không được, vô dụng! V́ thế, chẳng thể
học quá nhiều. V́ sao? Học quá nhiều, chắc chắn
là quư vị chẳng làm được. Cổ nhân dạy học,
đối với Phật pháp lẫn pháp thế gian, đều
chẳng có ngoại lệ. Thầy luôn luôn là “thâm nhập một môn, huân tu lâu
dài”. Học một thứ, tṛ do chuyên chú mà được
lợi ích. Chớ nên học nhiều, chớ nên học tạp.
Học Phật, từ lúc mới phát tâm cho đến tám
mươi tuổi, chín mươi tuổi, cũng chớ
nên không tuân thủ quy củ này! Nhất định phải
là một môn, chớ nên học tạp, chớ nên học nhiều,
quư vị sẽ có thành tựu. Huống chi trong kinh, đức
Phật thường dạy: “Một
kinh thông, hết thảy các kinh đều thông”. Hiểu
một pháp môn, môn nào cũng đều hiểu rơ!
Trong
Đàn Kinh, Lục Tổ Huệ Năng đại sư
đă nêu một khuôn mẫu tốt nhất. Thông một
môn, hết thảy đều thông. “Một môn” của Ngài chính là kinh Kim Cang do Ngũ Tổ
đă giảng. [Ngũ Tổ] có giảng trọn hết
kinh Kim Cang hay không? Chẳng có! Tổ giảng đến
câu “ưng vô sở trụ nhi
sanh kỳ tâm”, Ngài bèn hiểu,
liền thông đạt, những phần sau [Ngũ Tổ]
chẳng cần phải nói nữa. Quư vị thấy
đó, đại khái là một phần ba kinh Kim Cang. Ngài
đă thông suốt một kinh, hết thảy đều
thông. Khi Ngài lánh nạn, đầu tiên là gặp tỳ-kheo-ni
Vô Tận Tạng. Vị này suốt đời thọ tŕ
kinh Niết Bàn. Kinh Niết Bàn rất dài, bà ta niệm rất
thuộc, chẳng hiểu ư nghĩa trong ấy. Lần ấy,
gặp Huệ Năng đại sư, hoan hỷ khôn cùng,
cầu Huệ Năng đại sư giảng giải
đại ư của kinh. Huệ Năng đại sư
không biết chữ, bảo: “Bà hăy niệm cho tôi nghe”. Bản
kinh ấy bà ta đă niệm rất nhiều năm, niệm
nhuyễn nhừ, bèn đọc thuộc ḷng cho Tổ nghe.
Sau khi nghe xong, Huệ Năng đại sư giảng giải
cho bà ta, bà ta khai ngộ. Khi đó, Huệ Năng đại
sư mới hai mươi bốn tuổi. Suốt một
đời Ngài, dưới ṭa có bốn mươi ba
người khai ngộ, tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng là
người đầu tiên. Đấy là ǵ? Đă thông! Cho
đến lúc ấy, Tổ chưa hề nghe kinh Niết
Bàn!
Quốc
sư Pháp Đạt thọ tŕ ba ngàn bộ Pháp Hoa. Mỗi
ngày niệm một lần, ba ngàn bộ đại khái cần
mười năm để đọc một bộ kinh.
Cứ ngỡ ḿnh ghê gớm lắm, kiêu căng, ngă mạn,
khi gặp Lục Tổ đại sư, lúc lễ bái,
đầu chẳng chấm đất. Lục Tổ thấy
vậy bèn hỏi: “Ngươi lễ bái đầu chẳng
sát đất”, nói theo cách hiện thời, “nhất định
là ngươi có ǵ đáng để kiêu ngạo phải
không?” Tổ hỏi Sư: “Ngươi có chỗ nào đáng
nên kiêu ngạo?” Sư bèn thưa rơ: “Con đă niệm ba ngàn
bộ kinh Pháp Hoa”. Đấy là cái tâm thường hằng,
nghị lực rất khó có! [Thế nhưng] chẳng hiểu
ư nghĩa và chỉ thú của kinh Pháp Hoa, cầu Lục Tổ
giảng giải. Lục Tổ nói: “Được!” Kinh
Pháp Hoa Ngài chưa hề tiếp xúc, trước nay chưa
từng nghe, c̣n nói chi thấy! Ngài không biết đọc,
bảo: “Ngươi niệm cho ta nghe”. Ba ngàn lần, đă
niệm thật thuộc, bèn niệm cho Lục Tổ nghe. Niệm
đến phẩm thứ hai, chúng ta biết kinh Pháp Hoa có hai
mươi tám phẩm, Sư niệm đến phẩm thứ
hai, Lục Tổ nói: “Chẳng cần niệm nữa, ta
đă hiểu toàn bộ. Những điều được
nói trong kinh ấy chính là nhân quả Nhất Thừa”. Tổ
khai thị cho Sư, Sư mới hoảng nhiên đại
ngộ, lại lạy, đầu áp sát đất!
Sự
thị hiện này nhằm nói rơ ràng, rành mạch: “Một kinh thông, hết thảy
các kinh đều thông”. Ngũ Tổ giảng giải kinh
Kim Cang cho Lục Tổ. Đă đại triệt đại
ngộ kinh Kim Cang, tám vạn bốn ngàn pháp môn đều
ngộ, tất cả hết thảy các kinh đều
thông suốt, chẳng có ǵ không thông suốt. Cớ sao con
người hiện thời chẳng ngộ? V́ sao chẳng
thông? Chẳng có nguyên nhân nào khác! Tu tập tạp loạn,
thứ ǵ cũng đều muốn học, kết quả
là thứ ǵ cũng đều chẳng hiểu. Quư vị thấy
Huệ Năng đại sư, Ngài thứ ǵ cũng chẳng
mong học, kết quả là thứ ǵ Ngài cũng đều
hiểu. Căn bệnh hiện thời của chúng ta là ở
chỗ nào? Đổ bệnh là v́ thứ ǵ cũng đều
muốn học, chính ḿnh gây tạp loạn cho chính ḿnh. Học
suốt một đời, một khiếu cũng chẳng
thông! Chẳng thể trách ai khác, chẳng thể trách Phật,
Bồ Tát, chẳng thể trách tổ sư đại
đức, người ta đă nói rơ ràng ngần ấy,
nói minh bạch ngần ấy, nhưng chính quư vị đâu
thèm tin, vậy là chẳng có cách nào cả!
Kể
ra, đời này tôi rất may mắn, tôi muốn học,
thầy chẳng đáp ứng. Ba vị thầy của tôi
đều dạy tôi “thâm nhập
một môn, chẳng thể học tạp”. Nhất là tôi
được học Giáo với thầy Lư. Thuở ấy,
thầy Lư mở một lớp, hơn hai mươi đồng
học, điều kiện là một, “chỉ có thể học một bộ, chẳng thể
học hai bộ”. Học đồng thời hai bộ,
thầy chẳng dạy quư vị, quư vị chẳng thể
tham dự lớp học kinh của thầy được.
Tham dự lớp học kinh, chính quư vị chọn một
bộ kinh; v́ thế, thầy để cho quư vị tự
chọn. Chọn từ đâu? Nhất định là chọn
từ Đại Tạng Kinh. Đại Tạng Kinh là tiêu
chuẩn của chánh pháp, chẳng có tà pháp ở trong ấy.
Quư vị chọn một bộ từ chánh pháp. Thầy c̣n
xét tŕnh độ và căn tánh của quư vị. Nếu quư
vị chọn một bộ quá sâu, hoặc chọn một
bộ quá lớn, thầy lắc đầu: “Không
được! Con chọn bộ này sẽ chẳng thể
tiếp nhận được, chọn lại đi”. Có thể
là chọn tới ba lượt, cả ba lượt thầy
đều lắc đầu: “Thôi! Ta chọn thay cho con”. Thầy
chọn thay cho quư vị. V́ thế, chúng tôi được
giáo dục toàn là “thâm nhập một
môn, huân tu lâu dài”.
Trong
thời đại này, mấu chốt thành hay bại là thiện
tri thức. Nhưng gặp gỡ thiện tri thức, bản
thân quư vị phải “thọ
giáo”, điều này có nghĩa là quư vị phải tiếp
nhận giáo huấn của thiện tri thức. Nếu quư
vị chẳng có tín tâm đối với thiện tri thức,
chẳng có ḷng tôn kính, ngoài mặt tuân phụng, trong ḷng chống trái, sẽ chẳng có thành tựu.
Ấn Quang đại sư nói rất hay: Học tṛ có một
phần cung kính đối với thầy, sẽ
được một phần lợi ích. Có hai phần cung
kính, được hai phần lợi ích. Có mười phần
cung kính, được mười phần lợi ích. Tôn
sư trọng đạo, chẳng phải là thầy yêu cầu
học tṛ tôn kính chính ḿnh, [nếu hiểu là thầy muốn
như thế], sai mất rồi. Thầy đ̣i hỏi học
tṛ phải tôn trọng chính ḿnh, chắc chắn chẳng phải
là một vị thầy tốt. Nhưng tôn sư trọng
đạo, nói thật ra là để thầy quan sát căn
tánh của học tṛ, cũng là như tổ Ấn Quang
đă nói: Xét xem cái tâm cung kính của kẻ ấy có
được mấy phần, liền biết đứa
học tṛ ấy trong tương lai sẽ có thể đạt
được bao nhiêu. Thầy dạy cho tṛ, tṛ có thể
tiếp nhận bao nhiêu, có thể tiêu hóa bao nhiêu.
Do
vậy có thể biết: Nếu [quư vị] mười phần
cung kính thầy, thầy chẳng dạy quư vị mười
phần, sẽ có lỗi với quư vị. V́ sao? Quư vị
có thể tiếp nhận mười phần, thầy chỉ
dạy chín phần, thầy vẫn c̣n tiếc pháp, c̣n có một
phần chẳng nỡ dạy cho quư vị, sai mất rồi!
Nếu quư vị chỉ có một phần tâm cung kính, thầy
dạy quư vị hai phần là đủ. Hai phần đă
là nhiều quá rồi! Quư vị vẫn chưa thể tiếp
nhận hoàn toàn. Thầy quán cơ (觀機, quan
sát căn cơ) của học tṛ, đấy là nhân tố
trọng yếu nhằm quan sát trong tương lai học tṛ
có thành tựu hay không? V́ thế, tôn sư trọng đạo
là từ trong gia đ́nh cha mẹ bảo dạy quư vị.
Hiếu thuận cha mẹ là do thầy dạy cho tṛ. Một
người có thể thành tựu là do cha mẹ và thầy phối
hợp chặt chẽ, mới dạy dỗ người ấy
thành công. Chúng ta phải hiểu đạo lư này, phải hết
sức nghiêm túc nỗ lực học tập.
Đoạn
kế tiếp nói:
(Sớ)
Hoặc câu thông nhân quả.
(疏)或俱通因果。
(Sớ: Hoặc
đều nói nhân và quả).
Câu
thứ ba và câu thứ tư vừa có nhân vừa có quả,
nhân và quả thảy đều có. Ví như trong kệ tụng
đă nói: “Dĩ pháp tự ngu, liễu
kỹ phi thật” (Dùng pháp để tự vui, biết
ca múa chẳng thật), trong mỗi câu đều có nhân và
quả. Quư vị thấy đó, thật sự khế nhập
Phật pháp, pháp hỷ sung măn. Pháp hỷ sung măn là quả, tu
học khế nhập Phật pháp là nhân. Trong câu này, trọn
đủ nhân và quả, hết sức viên măn! “Liễu kỹ”: Kỹ (妓) ở
đây là ca múa, biểu diễn, tức biểu diễn trên
sân khấu. Những kẻ b́nh phàm thích ca múa, tuồng hát.
Hiểu rơ những thứ ấy chẳng thật sự tồn
tại, chẳng phải là thật, người thế
gian coi những thứ ấy là vui, người hiểu rơ sẽ
chẳng mặn ṃi với chúng, có nhân, có quả. Người
thế gian hoàn toàn chẳng biết đến pháp lạc. “Dĩ pháp tự ngu” (Dùng pháp để
tự vui) chính là học rồi thường
tập luyện, cũng chẳng vui sao! Kẻ b́nh phàm chẳng
học, chẳng nhập cảnh giới này, chẳng đạt
được niềm pháp hỷ ấy.
Câu
sau nhằm nói đến sự ca múa trong pháp thế gian, kể
cả dàn nhạc giao hưởng như thường nói
trong hiện thời, đều thuộc loại này. Đức
Phật cho biết [niềm vui do xem nghe những thứ âm
nhạc, ca vũ ấy] đều chẳng phải là chân
lạc. Chúng ta biết rất nhiều kẻ trong thế
gian mê đắm thứ này, mê khiêu vũ, mê ca hát, mê hư kịch,
mê tuồng tích. Lăng phí thời gian suốt cả một
đời trong những thứ ấy, chẳng thành tựu
điều ǵ! V́ thế, nêu ra thí dụ này, trong ấy có
nhân và quả. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng
tôi nói tới chỗ này!
Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười
một,
Tịnh Hạnh Phẩm,
phần 16 hết
[1] Bản kinh
Hoa Nghiêm do ngài Phật Đà Bạt Đà La (Giác Hiền) dịch
vào đời Tấn, gồm sáu mươi quyển, nên
thường gọi là Lục Thập Hoa Nghiêm, hay Tấn
Kinh. Nguyên bản tiếng Phạn được ngài Chi
Pháp Lănh mang từ Vu Điền (nay là huyện Ḥa Điền,
tỉnh Tân Cương) sang Trung Hoa. Bộ kinh này dịch
vào khoảng năm Nghĩa Hy 14 (418) đời Đông Tấn
tại chùa Đạo Tràng ở Dương Châu. Ngài Phật
Đà Bạt Đà La dịch từ Phạn sang Hán, pháp
sư Pháp Nghiệp làm Bút Thọ, hai vị Huệ Nghiêm và
Huệ Quán nhuận văn. Măi cho đến năm Nguyên Hy
thứ hai (420) mới dịch xong kinh này, nhưng đến
năm Vĩnh Sơ thứ hai (421) triều đại
Lưu Tống, bản dịch mới được giảo
chánh hoàn tất. Kinh được chia thành ba mươi bốn
phẩm. Về sau, vào năm Vĩnh Long
nguyên niên (680) đời Đường, Tam Tạng pháp
sư Địa Bà Ha La và Pháp Tạng giảo duyệt lần
nữa, thấy phẩm Nhập Pháp Giới vẫn bị
thiếu vài chỗ bèn bổ sung thêm tám, chín trang nữa, tạo
thành bản Lục Thập Hoa Nghiêm như trong hiện thời.
[2] Đây là một
khái niệm trong Hoa Nghiêm Tông. Hàng Bố (行布) có nghĩa là
xếp đặt theo thứ tự, tức là pháp tu tiệm
tiến. Viên dung (圓融) là Đốn
Giáo, chẳng hạn nói “một
chính là nhiều, nhiều chính là một”. Hoặc từ
Sơ Tín tu chứng Nhị Tín, Nhị Tín chứng Tam Tín
v.v… Đó là Hàng Bố. Nói trong mỗi Tín có đủ chín
Tín kia, đấy là Viên Dung.
[3] Xin đừng
hiểu lầm “đương
nguyện chúng sanh” hoàn toàn chẳng có ư nghĩa ǵ. V́ nếu
hiểu như vậy, sẽ lại mâu thuẫn với lời
giảng trong phần trước, “đương nguyện chúng sanh” thể hiện
cái tâm Bồ Tát lợi tha, thể hiện cảnh giới của
lời nguyện không ngằn mé v.v… Ở đây nói “không có
ư nghĩa ǵ” nghĩa là câu này trong các nguyện đều
có, chẳng có ư nghĩa riêng biệt nào đối với mỗi
bài kệ như ba câu kia.
[4] Câu này viết
quá gọn, dễ dẫn đến hiểu lầm. Chúng
tôi xin nói rườm rà như sau: Trong mỗi bài kệ, có
sáu sự. Nói về hai sự đầu tiên th́ sự thứ
nhất là nói đến Nội, tức chủ thể phát
nguyện. Ở đây, Thanh Lương đại sư lấy
ngay bài kệ “Bồ Tát tại
gia” để nói. Trong câu đầu tiên, Sự thuộc
về nội, tức là hai chữ Bồ Tát trong câu đầu
tiên là nói đến căn, thức v.v… của chính vị Bồ
Tát ấy.
[5] Chiêm Bồ (薝葡) là cách phiên âm
khác của chữ Campaka. Cách phiên âm phổ biến hơn
là Chiêm Bặc (瞻蔔). Đây là một
loại hoa thơm, cánh hoa giống như hoa Ngọc Lan,
nhưng to hơn, màu vàng chanh, có mùi thơm ngát. Do đó,
người ta thường gọi cây này là hoa Ngọc Lan
Vàng.