Đại Phương
Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười
một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 17
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Địa điểm: Hương Cảng Phật
Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ ngày mồng Bảy tháng
Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ Trang và Minh
Tiến
Tập
1495
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời
ngồi xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ
mười một. Chúng ta xem tiếp lời Sớ của
Thanh Lương đại sư từ phần trước,
tức phần Biệt Khai Nghĩa Loại (別開義類, phân loại theo từng nghĩa lư riêng biệt). Phần
này có “tam sự” (ba sự),
thứ nhất là “nguyện sở
y sự” (sự để nguyện nương vào [mà
phát khởi]), thứ hai là “nguyện
sở vi cảnh” (cảnh để thực hiện
nguyện). Trong phần trước, tôi đă nói về “nguyện sở vi cảnh”,
hôm nay, chúng ta xem tiếp đoạn văn ấy.
(Sớ)
Nhị, nguyện sở vi cảnh, kỳ nhất nhất
nguyện, tận cai pháp giới nhất thiết hữu
t́nh, bất đồng Quyền Tiểu, đàm hữu tàng
vô cố. Hựu nguyện tức hạnh, thành hồi
hướng cố, nhất nhất giai thành sở hành thanh
tịnh thiện nghiệp hạnh cố, như vân “tri gia
tánh Không”, tắc Bồ Tát chi tâm, tất nghệ Không hỹ.
(疏)二願所為境,其一一願,盡該法界一切有情,不同權小,談有藏無故,又願即行,成迴向故,一一皆成所行清淨善業行故,如云知家性空,則菩薩之心,必詣空矣。
(Sớ: Hai là “cảnh để thực hiện
nguyện”. Mỗi một nguyện đều bao trùm trọn
vẹn hết thảy hữu t́nh trong pháp giới, chẳng
giống như Quyền Giáo, Tiểu Thừa, tuy nói là có, vẫn
ẩn chứa cái không. Lại nữa, nguyện chính là hạnh,
v́ thành tựu hồi hướng, nên mỗi một [nguyện]
đều thành tựu thiện nghiệp hạnh thanh tịnh
đă hành. Như nói “biết nhà tánh Không” chính là tâm của Bồ
Tát ắt hướng đến Không vậy).
Đoạn
khai thị này do Thanh Lương đại sư nói ra. “Nguyện sở vi cảnh” (cảnh
để thực hiện nguyện) có nghĩa phẩm kinh
này có tất cả một trăm bốn mươi mốt
nguyện, cảnh giới của mỗi nguyện đều
là trọn khắp pháp giới hư không giới. Từ chỗ
này, chúng ta mới biết: V́ sao đức Phật phải
nói “Bồ Tát chẳng tu hạnh
Phổ Hiền, không thể
viên thành Phật đạo”? Từ chỗ này, chúng ta bèn
hiểu rơ. Phổ Hiền Hạnh và Đại Thừa Bồ
Tát hạnh khác nhau ở chỗ nào? Ở chỗ tâm lượng
khác nhau! Đại Thừa Bồ Tát vẫn chẳng có tâm
lượng to ngần ấy, tâm lượng của Phổ
Hiền Bồ Tát là trong hết thảy thời, hết thảy
chỗ, hết thảy cảnh duyên, khởi tâm động
niệm đều v́ hết thảy chúng sanh khắp pháp giới
hư không giới, đấy là cảnh giới để
Ngài duyên vào. Tâm lượng ấy bằng với hư không
pháp giới, do tự tánh viên măn lưu lộ. Chỗ này hết
sức đáng cho chúng ta học tập theo. Chúng ta phải
mở rộng tâm lượng, thật sự có thể ĺa
hết thảy khổ, được hết thảy vui.
Hết thảy nỗi khổ thế gian và xuất thế
gian đều là do tâm lượng quá nhỏ, phải mở
rộng tâm lượng. V́ thế, chẳng giống với
Quyền Giáo và Tiểu Thừa, “đàm
hữu tàng vô” (tuy nói là có, vẫn ẩn chứa cái không)[1],
nói chung là chẳng thể trọn khắp pháp giới
hư không giới!
Tiếp
đó, [đại sư] lại nói: Nguyện chính là hạnh,
hạnh chính là nguyện, nên thành tựu hồi hướng.
Đối với hồi hướng, trong phần trước
đă có nói hồi hướng ba chỗ. [Thứ nhất
là] mỗi nguyện, mỗi hạnh đều thành tựu
“hồi hướng Thật Tế”.
Thật Tế (實際) là tự tánh, là Pháp Tánh. Nói cách khác, tương ứng
viên măn với Pháp Tánh. Pháp Tánh là ǵ? Chớ nên không biết
điều này. Hễ biết, quư vị sẽ kiến tánh,
sẽ thành Phật. Chớ nên không biết, nhưng chúng ta
cũng rất khó hiểu rơ. Bậc Bồ Tát kiến tánh
có thể liễu giải, chứ chúng ta chưa kiến tánh,
chỉ có một khái niệm mơ hồ. Nhưng nó có một
nguyên tắc mà chúng ta có thể lănh hội, đó là “thuần tịnh, thuần thiện,
ĺa hết thảy tướng”. Ĺa hết thảy
tướng, chúng ta nắm giữ một cương lănh, “ĺa vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước” là được rồi. Trong ấy,
chắc chắn chẳng có chấp trước, chẳng
có phân biệt, chẳng có khởi tâm động niệm. Đấy
là tương ứng với tự tánh.
Thứ
hai là “hồi hướng Bồ
Đề”, điều này dễ hiểu hơn! Chúng ta tu
học nhằm cầu điều ǵ? Cầu trí huệ. Bồ
Đề là trí huệ, triệt để giác ngộ, cầu
điều này. Quyết định chẳng phải là cầu
phú quư trong đường trời, người, chẳng
phải là cầu tiếng tăm, lợi dưỡng, chẳng
phải cầu phước báo trong đường trời
người, phải biết điều này! V́ sao? Những
thứ đó là giả, chẳng thật. Kinh Bát Nhă đă
nói: “Phàm những ǵ có h́nh tướng
đều là hư vọng”, nhất định phải
hiểu rơ điều này. Đức Phật dạy chúng ta
cầu cái chân thật, chẳng cầu cái giả. “Chân” là vĩnh hằng bất
biến, cầu trí huệ! Trí huệ do đâu mà có? Trí huệ
do cái tâm thanh tịnh mà có. Quư vị thấy kinh Kim Cang
đă dạy rất hay: “Tín tâm
thanh tịnh bèn sanh Thật Tướng”. Tâm chúng ta thanh
tịnh đến một mức độ nhất định,
trí huệ Thật Tướng sẽ hiện tiền.
Trí
huệ Thật Tướng khởi tác dụng là “không ǵ chẳng biết”. Nói
cách khác, bất cứ vấn đề ǵ cũng đều
chẳng có! Nếu chúng sanh trong chín pháp giới đều
nêu ra câu hỏi, quư vị có thể nhất nhất giải
quyết giúp họ được. Đấy là trí huệ.
Điều chúng ta mong cầu, dùng một câu trong kinh Phật
để diễn tả, sẽ là “A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”. Mục
tiêu mong cầu của chúng ta là Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác. Câu nói ấy có ba cấp bậc, đầu tiên là
mong cầu Chánh Giác. Chánh Giác do đâu mà có? Trong kinh luận,
đức Phật đă nói rất rơ ràng, đă dạy rất
nhiều, lại c̣n lặp đi lặp lại chẳng ngừng,
từ bi đến mức tột cùng! Thời thời khắc
khắc nhắc nhở chúng ta, nhất định là phải
buông xuống hết thảy các chấp trước đối
với các pháp thế gian và xuất thế gian. Phải hiểu
chấp trước là Kiến Tư phiền năo! Buông xuống
hết thảy chấp trước, Chánh Giác sẽ hiện
tiền.
Phải
biết: Hết thảy chúng sanh vốn có Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác, tức là như Tam Tự Kinh đă
nói: “Nhân chi sơ, tánh bổn
thiện” (con người thoạt đầu tánh vốn
lành), bản tánh của chúng ta vốn lành. “Thiện” là ǵ? Trong thiện có vô lượng trí huệ,
vô lượng tài nghệ, vô lượng tướng hảo.
Thiện! Vốn là thiện! Hết thảy chúng sanh b́nh
đẳng, chẳng sai biệt mảy may! “Thiện” của chúng ta đă đi đâu rồi?
Thiện của chúng ta bị phiền năo chướng ngại;
v́ thế, nó chẳng thể hiện tiền. Chướng
ngại đầu tiên là chấp trước. Chỉ cần
quư vị có chấp trước, bất luận đối
với pháp nào, đối với chuyện nào, chỉ cần
có chấp trước, trí huệ sẽ chẳng thể hiện
tiền, Chánh Giác sẽ chẳng thể hiện tiền!
Buông xuống chấp trước, Chánh Giác hiện tiền.
Đấy chẳng phải là trí huệ viên măn, mà là một
phần của nó lưu xuất.
Nếu
công phu tăng cao hơn, phân biệt đối với hết
thảy các pháp thế gian và xuất thế gian cũng
đoạn hết, chẳng phân biệt, trí huệ lại
thấu lộ thêm một tầng nữa, được gọi
là Chánh Đẳng Chánh Giác. Cuối cùng, khởi tâm động
niệm cũng buông xuống. Chẳng khởi tâm, không
động niệm đối với hết thảy các
pháp, sẽ là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đức
Phật dạy chúng ta chân tướng sự thật, lại
dạy chúng ta phương pháp tu hành chứng quả của
Ngài. Phương pháp chẳng có ǵ khác, buông xuống mà thôi! Buông
xuống rất quan trọng, buông xuống là công phu thật
sự. Đức Phật đă triệt để buông xuống,
chúng ta phải hiểu điều này, phải nghiêm túc nỗ
lực học tập. Hễ buông xuống, Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác sẽ hiện tiền, hiện tiền
viên măn. Khi ấy, sẽ giống như chư Phật Như
Lai, quư vị sẽ nói: “Hết
thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng
của Như Lai, chỉ v́ vọng tưởng, chấp
trước, nên chẳng thể chứng đắc”. V́
thế, hồi hướng Bồ Đề là tự lợi.
Thứ
ba, “hồi hướng chúng sanh”
chính là lợi tha. Hôm trước, khi tṛ chuyện trong nội
bộ các đồng tu, chúng tôi cũng có đề cập,
con người đến thế gian này để làm ǵ vậy?
Đức Phật đă trả lời, có hai chuyện:
1)
Kẻ b́nh phàm đến thế gian này để “thù nghiệp” (đền trả
nghiệp). “Nhân sanh thù nghiệp”
(Đời người nhằm đền trả nghiệp),
“thù” (酬) là đền trả, “nghiệp”
(業) là nghiệp nhân do quư vị
đă tạo trong quá khứ. Trong đời quá khứ, quư
vị tạo thiện nghiệp, đời này quư vị
đến hưởng phước, quư vị đến đây
để làm ǵ? Đến hưởng phước. Nếu
trong quá khứ đă tạo ác nghiệp, bất thiện nghiệp,
quư vị đến nhân gian để làm ǵ? Đến chịu
quả báo. Nghiệp nhân quả báo chẳng sai suyển mảy
may. Nếu quư vị hiểu rơ ràng, minh bạch chân tướng
sự thật này, trong đời này, bất luận quư vị
sống cuộc đời như thế nào, sẽ chẳng
c̣n oán trời, chẳng c̣n hờn người. Chẳng oán
trời, chẳng hờn người, thật thà an phận
giữ ḿnh, đó là đúng! Đến [lănh nhận cái quả]
ḥng tiêu trừ nghiệp báo! Nghiệp có thiện, ác, quả
có khổ, lạc. Đấy là những kẻ b́nh phàm!
2)
Một loại khác là Phật, Bồ Tát ứng hóa trong thế
gian này để thị hiện, các Ngài làm ǵ? Chính là như
trong loại hồi hướng thứ ba mà chúng tôi đă
nói! Hồi hướng chúng sanh. Hồi hướng chúng sanh
th́ chẳng thể nói suông, phải có hành động thực
tế! Chúng sanh có cảm, Phật, Bồ Tát sẽ có ứng.
Phật, Bồ Tát đến thị hiện trong thế
gian này, cảm ứng đạo giao. Các Ngài đến để
làm ǵ? Các Ngài đến giáo hóa chúng sanh. Như thuở ấy
Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện tại Ấn Độ
chính là để nêu gương cho chúng ta thấy. Ba
mươi tuổi thành đạo, thành đạo là ǵ? Vào
lúc ba mươi tuổi, Ngài mới triệt để
buông xuống, như chúng tôi vừa mới nói, chẳng c̣n
chấp trước, chẳng c̣n phân biệt, chẳng c̣n khởi
tâm động niệm đối với hết thảy
các pháp thế gian và xuất thế gian, triệt để
buông xuống; chân tâm, tự tánh hiện tiền viên măn. “Hiện tiền viên măn” là hiển
thị vô lượng trí huệ, vô lượng tài nghệ,
vô lượng tướng hảo.
Đại
khái là đối với trí huệ và tài nghệ, chẳng
có vấn đề ǵ. V́ sao? Chúng ta thấy đức Phật
đă dạy kinh điển nhiều ngần ấy, đức
Phật thật sự có trí huệ và tài nghệ. Tướng
hảo là phước báo! Như Thích Ca Mâu Ni Phật suốt
đời sống bằng cách khất thực, giữa
trưa ăn một bữa, nghỉ đêm dưới cội
cây. Người hiện thời thấy [cuộc sống ấy]
khổ sở chẳng thể nói nổi, há có phước
báo ư? Quư vị chú tâm quan sát, sẽ thấy Thích Ca Mâu Ni
Phật có ba mươi hai tướng và tám mươi thứ
hảo, phước báo được tỏ lộ qua tướng
mạo. Lại quan sát cẩn thận, thuở ấy, những
vị quốc vương, đại thần, long thiên thiện
thần, chúng sanh trong chín pháp giới quy y thọ giáo [với
đức Phật], quư vị nói xem, đấy có phải
là phước báo hay không? Đúng vậy! Quư vị hăy nh́n kỹ
từ chỗ này!
Bọn
phàm phu chúng ta chẳng thấy Tịnh Độ của Thích
Ca Mâu Ni Phật, nhưng đôi khi đức Thế Tôn
cũng hiện ra, dùng thần lực của Ngài để
hiển hiện cho mọi người thấy. Có một
đôi lần, mọi người hoài nghi báo độ của
Thích Ca Mâu Ni Phật, đức Phật dùng ngón chân ấn
xuống đất, núi, sông, đại địa đột
nhiên nẩy sanh biến hóa, giống hệt như thế
giới Cực Lạc. Phật và Pháp Thân Bồ Tát, trên thực
tế, trụ trong Tịnh Độ, nhưng bọn phàm
phu chúng ta trụ trong uế độ. Giống như hiện
thời chúng ta xem TV, hai băng tần khác nhau, chúng ta chẳng
có cách nào xem hai băng tần khác nhau cùng một lúc,
nhưng Phật và Pháp Thân Bồ Tát đă đột phá toàn
bộ các giới hạn băng tần; v́ thế, chỗ
các Ngài trụ được gọi là Nhất Chân pháp giới.
Nhất Chân pháp giới trọn đủ vô lượng vô
biên pháp giới, chẳng có chướng ngại. Điều
này chính là “cảnh giới giải
thoát chẳng thể nghĩ bàn” được nói trong
phần cuối kinh Hoa Nghiêm. Nói cách khác, cảnh giới giải
thoát là cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn! Thật
vậy, “chẳng thể
nghĩ bàn” là không khởi tâm, chẳng động niệm,
đă đột phá. Các chiều không gian như các nhà khoa học
đă nói là có thật, chẳng phải là không có!
Phật
pháp chẳng nói “các chiều không gian”, mà nói là “pháp giới”,
nói đến mười pháp giới, nói đến vô
lượng vô biên pháp giới. “Pháp giới” như nhà Phật
đă nói và “các chiều không gian” như các nhà khoa học
đă nói là cùng một chuyện! Đức Phật biết
các chiều không gian do đâu mà có; chỉ cần quư vị buông
xuống vọng tưởng, phân biệt, chấp trước,
sẽ chẳng có các chiều không gian nữa! Chúng chẳng
phải là thật. V́ thế, chúng ta mới hiểu chiều
không gian biến hiện từ vọng tưởng, phân biệt,
và chấp trước của chúng sanh. Chỉ cần buông
xuống vọng tưởng, phân biệt, chấp trước,
chúng sẽ chẳng có! V́ thế, có vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước, tức là đă vặn vẹo
Nhất Chân. Trong các buổi giảng, chúng tôi đă nhiều
lần thưa tŕnh chuyện này, vặn vẹo đấy
nhé! Giống như nước phản chiếu cảnh giới.
Trong kinh, đức Phật thường dùng nước
để tỷ dụ cái tâm, [kinh dùng chữ] “tâm thủy”. Khi tâm thủy
thanh tịnh, giống như nước trong hồ, một
chiếc hồ nhỏ, khi gió yên sóng lặng, nước giống
như một tấm gương, chiếu soi cảnh sắc
bên ngoài rành mạch, đẹp đẽ khôn xiết!
Nhưng nếu nước gợn sóng, gió thổi khiến
sóng cuộn lên, cảnh sắc núi non chiếu sáng ngời
trong hồ bị vỡ nát. Sóng càng lớn, h́nh ảnh [phản
chiếu] càng mơ hồ!
Do
vậy có thể biết, từ Pháp Thân Bồ Tát trở
lên, [tức là] từ Sơ Trụ trở lên, tâm vĩnh viễn
là b́nh lặng, an tĩnh; v́ trong cảnh giới, Ngài sẽ
chẳng khởi tâm động niệm. Khởi tâm động
niệm là mười pháp giới, bốn thánh pháp giới
trong mười pháp giới, chúng ta thường nói là Thanh
Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, các Ngài vẫn khởi tâm động
niệm, nhưng các Ngài chẳng có phân biệt, chấp
trước, [chỉ] có khởi tâm động niệm.
Thoát khỏi mười pháp giới, khẳng định là
chẳng khởi tâm, không động niệm. Nếu khởi
tâm động niệm, các Ngài sẽ chẳng thoát khỏi mười
pháp giới. V́ sao? Mười pháp giới do chính ḿnh biến
hiện. Hễ khởi tâm động niệm th́ có [mười
pháp giới]; chẳng khởi tâm, không động niệm,
sẽ chẳng có.
V́
thế, hồi hướng chúng sanh, chúng sanh có cảm, Phật
nhất định sẽ có ứng. Trong ấy có duyên,
duyên rất trọng yếu; v́ thế, Phật pháp thường
nói: “Phật chẳng độ
kẻ vô duyên”. Nói như vậy, dường như là
tâm từ bi của Phật chẳng viên măn, v́ sao? Không có
duyên, Ngài sẽ chẳng độ! [Thật ra], không có duyên,
Phật vẫn độ. Nói “Phật
chẳng độ chúng sanh vô duyên”, quư vị phải liễu
giải ư nghĩa thật sự của câu nói ấy. Duyên của
chúng sanh ấy c̣n chưa trọn đủ, Phật sẽ
chẳng thể giúp được! Ví như kẻ ấy
vẫn chẳng buông xuống chấp trước, đối
với người ấy, đức Phật chẳng làm
sao được cả! Ngài có dạy người ấy
hay không? Có chứ! Chỉ cần người ấy có thiện
căn, “thiện căn” có
nghĩa là người ấy có thể tin, có thể hiểu.
Kẻ có thể tin, có thể hiểu, Phật nhất
định sẽ dạy kẻ ấy. Khi nào người ấy
thật sự đoạn hết chấp trước,
đó là ǵ? Duyên đă chín muồi! Duyên A La Hán đă chín muồi,
đức Phật nhất định sẽ giúp người
ấy chứng quả A La Hán. Đó là “độ” người ấy, duyên đă chín muồi
rồi! Quư vị hoàn toàn chẳng buông xuống chấp
trước đối với hết thảy các pháp, đức
Phật chẳng có cách nào giúp quư vị thành quả A La Hán.
Đó gọi là “chẳng độ
kẻ vô duyên”. Nếu chúng sanh ấy không chỉ buông xuống
chấp trước, mà phân biệt cũng buông xuống, đó
là duyên Bồ Tát đă chín muồi, đức Phật nhất
định sẽ giúp người ấy thành Bồ Tát. Vị
Bồ Tát ấy là Quyền Giáo Bồ Tát, trong phần
trước, chúng ta đă đọc thấy từ ngữ
“Quyền Tiểu”, “Tiểu” là A La Hán, “Quyền” là Bồ Tát, Quyền
Tiểu Bồ Tát. Nếu trong hết thảy các pháp, người
ấy thật sự không khởi tâm, chẳng động
niệm, cái duyên thành Phật của người ấy
đă chín muồi, nhất định phải giúp người
ấy vượt thoát mười pháp giới. Vượt
thoát mười pháp giới là thành Phật.
Trong
phần trước, tôi đă có nói, các đồng học phải
chú tâm lănh hội, [v́ những điều ấy] rất khó
giảng. Có chú tâm lănh hội th́ quư vị mới có thể
dần dần hiểu rơ, đấy chính là Sơ Trụ Bồ
Tát được nói trong kinh Hoa Nghiêm. Từ Sơ Trụ
cho đến quả vị rốt ráo, tổng cộng là bốn
mươi hai địa vị, những người thuộc
bốn mươi hai địa vị đều chẳng
khởi tâm, không động niệm đối với hết
thảy các cảnh giới. Khởi tâm động niệm
c̣n chẳng có, lấy đâu ra phân biệt, chấp trước?
V́ thế, cảnh giới ấy là pháp giới b́nh đẳng.
Nhất Chân pháp giới là pháp giới b́nh đẳng. Đă
là b́nh đẳng, v́ sao c̣n nói bốn mươi hai tầng
cấp? Phải hiểu điều này: Thật sự b́nh
đẳng, nhưng tập khí vô thỉ vô minh chẳng
đoạn. Do nói theo tập khí vô thỉ vô minh, cho nên nói “c̣n
có bốn mươi hai đẳng cấp”. Chẳng dễ
hiểu! V́ thế, trong lần trước, nói về chuyện
này, tôi đă dùng b́nh rượu để tỷ dụ.
Chúng
tôi không nói nhiều, chúng tôi dùng ba b́nh rượu để
tỷ dụ. Ba b́nh rượu ấy đều đă đổ
hết sạch rượu, xác thực là chẳng có [rượu
trong ấy], bên trong đă lau chùi sạch sẽ, nhưng ngửi
th́ vẫn c̣n có mùi rượu! B́nh thứ nhất, chẳng
hạn như tôi đă đổ hết rượu từ
hai tuần trước, mở nắp b́nh, ngửi xem th́ thấy
có mùi. Cái b́nh thứ hai mở nắp từ tuần trước,
cũng lau chùi sạch sẽ. B́nh thứ ba đổ hết
rượu ngày hôm nay, chẳng c̣n chút rượu nào, sạch
sành sanh. Ngửi thử xem, cả ba b́nh đều có mùi
rượu, nhưng mùi rượu của từng b́nh
đậm nhạt khác nhau! Cái b́nh vừa mới đổ
hết rượu hôm nay, hơi rượu rất nồng.
Ngửi cái b́nh [đổ hết rượu] một tuần
trước, [hơi rượu] nhẹ hơn. Cái b́nh
đổ [hết rượu] từ hai tuần trước,
[hơi rượu] càng nhẹ hơn nữa. Quư vị suy
nghĩ thí dụ này, sẽ lănh hội ư nghĩa của bốn
mươi hai tầng cấp, thảy đều là sạch
sành sanh, chẳng nhiễm mảy trần, nhưng
hương vị nồng hay nhẹ khác nhau. Đức Phật
chia sự nồng hay nhẹ ấy thành bốn mươi
hai tầng cấp, gọi là “bốn
mươi hai địa vị Pháp Thân đại sĩ”.
Đối với bốn mươi hai tầng cấp, quư
vị nh́n từ h́nh tướng, chắc chắn sẽ chẳng
nh́n ra, hoàn toàn giống hệt như nhau!
Khi
sáu căn tiếp xúc cảnh giới lục trần, chẳng
khởi tâm, không động niệm, đương nhiên là
chẳng có phân biệt, chấp trước, đấy là đoạn
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Vọng
tưởng là khởi tâm động niệm, có trước
sau! Đến khi nào giống như b́nh rượu, ngửi
thử th́ thấy hoàn toàn chẳng có mùi ǵ nữa! Có thể
là phải đến hai, ba tháng, chẳng cần phải dùng
sức, cứ để cho nó [phai nhạt] tự nhiên. V́
thế, đức Phật dạy: Để tập khí vô
thỉ vô minh hoàn toàn chẳng c̣n, cần tốn thời
gian bao lâu? Ba đại A-tăng-kỳ kiếp! Nhà Phật
nói “thành đạo phải mất
ba đại A-tăng-kỳ kiếp” là nói về chuyện
này, chẳng phải là nói về chuyện tu hành b́nh phàm, mà
là bắt đầu từ ngày phá một phẩm vô minh, chứng
một phần Pháp Thân, cũng là như tôi vừa mới
nói: Đoạn trừ khởi tâm động niệm đối
với hết thảy các pháp, chẳng c̣n khởi tâm động
niệm. Kể từ ngày hôm ấy, giống như cái b́nh
đổ sạch rượu, lau chùi sạch sẽ, bắt
đầu từ lúc ấy. Khi nào nó sẽ chẳng c̣n
hơi hướng nữa? Ba đại A-tăng-kỳ kiếp.
Ba đại A-tăng-kỳ kiếp là tự nhiên [đoạn
hết tập khí], chẳng tốn một tí công sức
nào, trong giáo pháp Đại Thừa gọi [chuyện này] là “vô công dụng đạo”. Nếu
quư vị muốn dùng một tí sức, chẳng phải là
quư vị lại động tâm, lại khởi tâm động
niệm đó sao? V́ thế, gọi là “vô công dụng đạo”, tự nhiên!
Trong
thời gian dài như thế, vị [Pháp Thân Bồ Tát] ấy
làm ǵ? Nói thật ra, [chính là] hồi hướng! Những
việc Pháp Thân Bồ Tát đă làm đều nhằm nêu
gương cho chúng sanh, giáo hóa bằng ba nghiệp thân, ngữ,
ư! Trong kinh, đức Phật chẳng nói là “giáo hóa bằng
ba nghiệp”, mà nói là “tam luân
giáo hóa”, v́ các Ngài chẳng c̣n tạo nghiệp. “Luân” (輪) là chữ Luân trong pháp luân (法輪). Tam luân là thân, ngữ, ư, vĩnh viễn chẳng bị
gián đoạn. Chúng sanh ở nơi nào hữu duyên, hữu
duyên là có tín tâm đối với Ngài, Ngài sẽ đến
giúp kẻ ấy. V́ thế, xưa kia, khi chúng tôi mới học
Phật, thầy thường dạy chúng tôi phải kết
pháp duyên với chúng sanh. Thầy dạy: “Nếu các con chẳng
kết pháp duyên, trong tương lai, khi thành Phật, chúng
sanh chẳng tin tưởng các con. Các con sẽ chẳng có
cách nào độ chúng sanh được! Có vị Phật
kết duyên rộng răi, độ chúng sanh đông đảo,
giáo hóa nhiều. Có những vị Phật pháp duyên chẳng
thù thắng như vậy, độ chúng sanh ít ỏi!” Quư
vị thấy giữa Di Lặc Bồ Tát và Thích Ca Mâu Ni Phật,
pháp duyên chẳng giống nhau. Pháp duyên của Thích Ca Mâu Ni
Phật thù thắng hơn Di Lặc Bồ Tát.
Do
vậy, chúng ta biết: Trong chư Phật Như Lai, vị
kết pháp duyên với hết thảy chúng sanh thù thắng
nhất chính là A Di Đà Phật. A Di Đà Phật kết
duyên viên măn khắp pháp giới hư không giới, có thể
nói là “chẳng sót một chúng
sanh nào”. Ở đây, Phổ Hiền Bồ Tát dạy
chúng ta như vậy, chúng ta nhất định phải khởi
thiện tâm đối với hết thảy chúng sanh,
điều này quan trọng lắm! Chớ nên có ḷng ghét bỏ,
chớ nên có kẻ “ta không ưa, ta chán ghét”. Chớ nên có những
điều ấy! Ư niệm ấy khiến cho [bản thân
ta] chẳng có duyên với chúng sanh. Do vậy, giáo pháp Đại
Thừa thường nói: “Kết
hoan hỷ duyên”. Trong hoan hỷ, chẳng có tham, sân, si; sự
hoan hỷ ấy được gọi là Pháp Hỷ. Có tham,
sân, si, có t́nh cảm trong ấy, sai mất rồi! Cái duyên ấy
sẽ biến thành lục đạo, sanh sanh tử tử
cùng nhau làm quyến thuộc. Chuyện này rất phiền
phức, đúng là có thể kéo dài nhiều kiếp số,
dây dưa măi chẳng xong, rất phiền toái!
V́
thế, đức Phật dạy chúng ta phải dùng trí huệ,
biến t́nh thành trí, ĺa vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước, t́nh sẽ chuyển biến thành trí. T́nh và trí
là một Thể, hai thứ tác dụng, [tức là] hai khía cạnh
của một Thể. Chúng ta là phàm phu, thật sự biến
trí huệ trong tự tánh thành cảm t́nh, cảm t́nh là phiền
năo. Người tu hành chứng quả, lại chuyển biến
phiền năo thành trí huệ, tức là chuyển biến cảm
t́nh và phiền năo thành trí huệ, chuyển thức thành trí!
Khi chúng tôi mới học Phật, nghe đoạn khai thị
này trong kinh Phật, nghĩ đến khi ấy bản thân
chúng tôi tự cho ḿnh là thành phần trí thức, dường
như có thể diện lắm, đáng để kiêu ngạo.
Sau khi nghe đoạn khai thị này, mới hoảng nhiên
đại ngộ: Tri thức là sai mất rồi, chúng ta
đă biến cái Tri (biết) thành Thức, đấy là phàm
phu. Phải nên làm như thế nào? Chuyển trở lại,
chuyển Thức thành Trí. Đấy chính là Pháp Thân Bồ
Tát.
V́
thế, đối với hồi hướng, loại hồi
hướng thứ ba là hồi hướng chúng sanh. Phải
phát tâm giúp đỡ hết thảy chúng sanh, thành tựu hết
thảy chúng sanh. Do vậy, tôi nói đây là hạng người
thứ hai, hạng người thứ hai chính là bậc thừa
nguyện tái lai. Nói theo kiểu hiện thời, hạng
người thứ hai v́ nhân dân mà phục vụ. V́ nhân dân
mà phục vụ th́ chính là Bồ Tát! Giống như Thích Ca
Mâu Ni Phật thị hiện trên thế gian, v́ chúng sanh giảng
kinh, thuyết pháp suốt bốn mươi chín năm, v́
chúng sanh phục vụ! Phạm vi “v́ chúng sanh” to lớn, phạm vi “v́ nhân dân” nhỏ bé. “V́
nhân dân” th́ trong mười pháp giới chỉ có nhân pháp
giới, những pháp giới khác đều chẳng có phần!
“V́ chúng sanh” th́ mười
pháp giới thảy đều bao gồm, quư vị nói
điều này có to lớn hay không? To lớn đến mức
chẳng thể nghĩ bàn!
Tiếp
đó, [Thanh Lương đại sư] nói: “Nhất nhất giai thành sở hành
thanh tịnh thiện nghiệp hạnh cố” (Mỗi mỗi
đều thành tựu nghiệp hạnh tốt lành, thanh tịnh
đă hành), thiện nghiệp thanh tịnh! Hai chữ “thanh tịnh” rất quan trọng!
“Thanh tịnh” là ĺa tướng.
“Thiện nghiệp” là hành vi
có ích cho hết thảy chúng sanh. Khởi tâm động niệm,
ngôn ngữ, tạo tác, quyết định sẽ hữu
ích cho hết thảy chúng sanh. “Hữu
ích” là không chấp tướng, tức là như tôi vừa
mới nói, Ngài chẳng khởi tâm, không động niệm,
chẳng phân biệt, không chấp trước, đó là “thanh tịnh”. Khởi tâm
động niệm sẽ chẳng thanh tịnh; phân biệt,
chấp trước sẽ c̣n tệ hơn nữa!
Tiếp
đó, [đại sư] trích dẫn kinh văn trong phần
sau để giảng giải, “như
vân tri gia tánh Không, tắc Bồ Tát chi tâm, tất nghệ không
hỹ” (Như nói “biết nhà tánh Không”, tâm Bồ Tát ắt
đều hướng đến Không). “Tri gia tánh Không” là bài kệ thứ nhất trong phần
kệ tụng [của phẩm Tịnh Hạnh]. Bồ Tát
biết tánh của nhà là Không, Ngài có c̣n chấp trước
nhà nữa hay không? Có c̣n phân biệt hay không? Có c̣n khởi
tâm động niệm hay không? Hoàn toàn chẳng có! Vậy
th́ có c̣n cần cái nhà ấy hay không? Nhà vẫn cần, nhất
định sẽ là có thể khiến cho gia đ́nh viên măn
hơn bất cứ nhà nào, thật sự làm được
“gia ḥa, vạn sự hưng”.
V́ sao? Nêu gương, làm khuôn phép cho hết thảy chúng sanh.
Chẳng phải là nói “biết
nhà tánh Không” bèn chẳng cần [gia đ́nh] nữa! Hễ
không cần, quư vị đă chấp Không. V́ sao? Không hay Có
th́ quư vị đều c̣n có chướng ngại. Chẳng
có chướng ngại, quư vị mới có thể thật
sự giúp đỡ và lợi ích người khác.
V́
lẽ ấy, tại Trung Hoa, đối với cổ thánh
tiên hiền, sau khi chúng tôi học Phật, [đă suy
nghĩ]: “Nói theo Lư, cổ thánh tiên hiền có phải là Phật,
Bồ Tát tái lai hay không? Những vị như Văn
Vương, Vũ Vương, Châu Công, Nghiêu, Thuấn, Vũ,
Thang, Khổng, Mạnh, Lăo, Trang, có phải là hóa thân của
Phật, Bồ Tát hay không?” Tôi đă từng thảo luận
vấn đề này với thầy Lư, thầy Lư bảo:
“Nói theo Lư th́ thông suốt, nhưng nơi Sự th́ chẳng
có chứng cứ”. Đúng thế! Nói theo Lư th́ thông suốt,
nơi Sự chẳng có chứng cứ, chúng ta phải hiểu
rơ điều này! Có phải là như thế hay không? Rất
có thể là như vậy. Căn cơ ở Trung Hoa xác thực
là chẳng bằng Ấn Độ! Người Ấn
Độ có tŕnh độ giác ngộ cao hơn Trung Hoa,
người Hoa c̣n chưa đạt đến mức
độ ấy. V́ thế, tại Trung Hoa, [cổ thánh tiên
hiền] đặc biệt nhấn mạnh luân lư, đạo
đức. Những vị đại thánh nhân dùng luân lư
đạo đức để giáo hóa chúng sanh, khiến
cho hết thảy chúng sanh sống cuộc đời thật
sự hạnh phúc mỹ măn, an ḥa, lợi lạc trong hiện
tiền. Đấy chính là Bồ Tát đạo! Sau đó mới
dần dần bồi dưỡng căn tánh của họ,
giúp họ tăng tấn cao hơn. Tâm từ bi được
biểu hiện tại chỗ này, có thể thấy
được từ chỗ này. Thích Ca Mâu Ni Phật lại
c̣n biểu hiện rất tuyệt, trong kinh luận Đại,
Tiểu Thừa, quư vị thấy Ngài dạy con người
hiếu thuận cha mẹ, phụng sự sư trưởng.
Hai câu đầu trong Tịnh Nghiệp Tam Phước đă
dạy như thế đó!
Nếu
quư vị đọc kỹ càng giới luật, [sẽ thấy]
cảnh giới trong mỗi điều giới luật đều
chẳng thể nghĩ bàn! Giới luật như nhau. Ví
như Ngũ Giới, Thập Thiện, mọi người
đều biết, nhưng cảnh giới của mỗi
người chẳng giống nhau. Đối với
người tu Phổ Hiền Hạnh th́ cảnh giới Tam
Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện sẽ đều là khắp
pháp giới hư không giới; Phổ Hiền Bồ Tát tu
tập chẳng hề rời khỏi [những điều
ấy]. Đạt đến Đẳng Giác Bồ Tát, vẫn
tu những điều ấy, nhưng cảnh giới khác
hẳn, quá sâu, quá rộng, rộng th́ chúng ta có thể lư giải,
chứ sâu th́ chẳng thể lư giải, không có cách nào
tưởng tượng được! Trong phần
trước, chúng ta đă đọc thấy: Kinh Hoa Nghiêm
nói rất hay, thế giới có vi trần, vi trần tụ
tập mới thành thế giới. Trong vi trần có thế
giới, ai có thể vào đó? Phổ Hiền Bồ Tát. Thế
giới chẳng rút nhỏ, vi trần chẳng ph́nh to, nói
rơ chuyện ǵ? Lớn và nhỏ chẳng hai, v́ sao? Trong tự
tánh chẳng có lớn hay nhỏ; v́ thế, gọi là Nhất
Chân. Hễ có lớn và nhỏ th́ lớn và nhỏ là hai pháp,
lớn và nhỏ đối lập. Chẳng có đối
lập!
Huệ
Năng đại sư hiểu rơ, Ngài đắc pháp lúc hai
mươi bốn tuổi, Ngài hiểu rơ hết thảy
các pháp thế gian và xuất thế gian chẳng có đối
lập. V́ thế, Ngài đến Quảng Châu, ẩn náu trong
đoàn thợ săn mười lăm năm, suy nghĩ
thấy cái duyên hoằng pháp đă chín muồi, bèn ĺa khỏi
đoàn thợ săn đến Quảng Châu, nay là chùa Quang
Hiếu. Gặp đúng lúc pháp sư Ấn Tông đang giảng
kinh, Ngài đến nghe, xen lẫn trong thính chúng. Trong thính
chúng, có hai người dấy lên tranh luận, v́ ở ngoài
giảng đường, tức là bên ngoài đại
điện có treo lá phan. Gió thổi lá phan, lùa qua lá phan khiến
cho phan bị lay động. Có kẻ nói “lá phan bị động”,
kẻ kia phản bác “chẳng phải là lá phan động,
mà là gió động”. Hai người tranh căi với nhau, chẳng
ai chịu nhường ai! Ngài ở giữa, nói chen vào một
câu: “Thưa nhân giả!”, “nhân giả” (仁者) là tiếng để tôn xưng người khác, rất
khách sáo, rất khiêm hư, “chẳng
phải là gió động, cũng chẳng phải là phan
động, mà là cái tâm của nhân giả động!”. Sau
khi Ngài thốt ra câu ấy, khiến cho mọi người
đều cảm thấy kinh ngạc. Sau khi giảng kinh
xong, sư Ấn Tông bèn gặp Ngài. Sau đấy, Ngài mới
bộc lộ thân phận, Sư biết Ngài là vị Tổ
đời thứ sáu.
Tâm
động! Chỉ cần tâm chẳng động, vạn
pháp sẽ bất động. V́ thế, đúng là “cảnh chuyển theo tâm, hết
thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”. Sau khi Bồ
Tát thật sự giác ngộ, tâm Ngài như như, nhưng Ngài
chẳng trở ngại quư vị động. Động
và tĩnh chẳng hai; chúng ta động, Phật, Bồ
Tát bất động. Chúng ta động mà có thể phù hợp
quy luật, đấy là thiện. Chệch khỏi quy luật,
sẽ có tội lỗi, sẽ mắc tai nạn. Thuận theo
Pháp Tánh, sẽ tốt đẹp; trái nghịch Pháp Tánh, sẽ
[vướng phải] những cái được gọi là
“thiên tai, nhân họa”. Trái nghịch
Pháp Tánh, trái nghịch quy luật thiên nhiên, đấy là sai
lầm. V́ thế, Phật, Bồ Tát ứng hóa trên thế
gian, giúp đỡ những kẻ chệch khỏi trật
tự, dạy họ làm như thế nào để quay về,
nhất định phải tuân theo quy tắc
tự nhiên, chẳng c̣n chệch khỏi trật tự nữa.
Người có đạo làm người, trời có đạo
làm trời, súc sanh có đạo súc sanh. V́ thế, mười
pháp giới được gọi là “thập đạo”. Quỷ có quỷ đạo,
địa ngục có địa ngục đạo. Có chánh
đạo th́ quư vị mới có thể có ngày ngoi
đầu ra được. Nếu quư vị đi vào tà
đạo, sẽ phiền toái lắm, quư vị mê càng sâu,
càng làm càng sai!
Do
vậy, mười pháp giới sanh từ tâm tưởng của
chính ḿnh. Hết thảy khổ lạc do nghiệp thiện
ác của chính ḿnh chiêu cảm. C̣n như Phật, Bồ Tát
đă hiểu rơ ràng, rành rẽ, giúp đỡ hết thảy
chúng sanh phá mê, khai ngộ, ĺa khổ được vui. V́
thế, Bồ Tát thị hiện tại gia, thị hiện
làm người, thị hiện [thân phận] tại gia, thị
hiện theo đuổi đủ mọi sự nghiệp,
đều nhằm nêu tấm gương tốt nhất, khuôn
phép tốt nhất cho đại chúng trong xă hội. Có ư
nghĩa như thế đó. Chúng ta phải hiểu! A! Bây
giờ đă hết thời gian rồi!
**
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời
ngồi xuống. Chúng ta lại xem tiếp phần khai thị
của Thanh Lương đại sư. Tiếp theo đó
là phần thứ ba:
(Sớ)
Tam, nguyện sở vi cảnh thành lợi ích trung, do nguyện
ư tha thành chủng chủng đức, tự hoạch
như tiền sở thuyết công đức.
(疏)三願所為境成利益中,由願於他成種種德,自獲如前所說功德。
(Sớ: Ba là trong những lợi ích được
tạo thành từ các cảnh để thực hiện
nguyện, do nguyện cho kẻ khác thành tựu các thứ
đức giống như công đức mà chính ḿnh đă đạt
được như trong phần trước đă nói).
“Như tiền sở
thuyết công đức” nghĩa
là như đă nói trong phần kinh văn trước đó,
[sẽ] “năng hoạch nhất
thiết thắng diệu công đức” (có thể
đạt được hết thảy công đức
thù thắng, nhiệm mầu). Công đức thù thắng,
nhiệm mầu toàn là do các hạnh tự lợi và lợi
tha mà đạt được. Tự lợi và lợi tha
có ư nghĩa rất sâu. Lợi tha xác thực là các thứ công
đức. Tự lợi là ǵ? Nói thật ra, tự lợi
là do từ hạnh lợi tha mà thành tựu “chẳng khởi
tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, không chấp
trước” nơi chính ḿnh; đấy là tự lợi. Tự
lợi là ly tướng! Ly tướng chẳng phải là
điều ǵ cũng đều không làm! Điều ǵ
cũng không làm, quư vị đă sai bét mất rồi, nhất
định phải hiểu đạo lư này! “Thành tựu chúng sanh” tức là
đối với hết thảy các pháp, “tự lợi” là ĺa hết thảy tướng, nghĩa
là [tuy thực hiện] vô lượng vô biên chuyện nhằm
lợi ích hết thảy chúng sanh, nhưng chính ḿnh chắc
chắn là chẳng có vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước. Ĺa vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước là tự lợi, chúng ta phải nên hiểu
đạo lư này!
Pháp
Thân Bồ Tát từ Sơ Trụ cho đến Đẳng
Giác, không vị nào chẳng phải là không khởi tâm, chẳng
động niệm, tập khí vô thỉ vô minh dần dần
tiêu trừ ! Nếu các Ngài c̣n có khởi tâm động niệm,
làm sao có thể tiêu hết những tập khí vô thỉ vô
minh ấy cho được? Suốt ba đại A-tăng-kỳ
kiếp, không khởi tâm, chẳng động niệm. Sau
khi đă thành Phật, chẳng cần nói là sau khi đă thành
Phật [rốt ráo], mà là sau khi đă chứng đắc Sơ
Trụ trong Viên Giáo, phá một phẩm vô minh, chứng một
phần Pháp Thân, sẽ vĩnh viễn không khởi tâm động
niệm. Hễ khởi tâm động niệm, không thoát khỏi
mười pháp giới, vĩnh viễn chớ nên khởi
tâm động niệm. Những lư sự này chúng ta đều
hiểu rất rơ ràng, rất minh bạch, trong cuộc sống
hằng ngày của chúng ta có thể tu Phổ Hiền Hạnh
hay không? Có thể. Vừa mở đầu [lời chú giải]
kinh Hoa Nghiêm, Thanh Lương đại sư đă chỉ
rơ mười loại đương cơ của kinh Hoa
Nghiêm, loại cuối cùng là phàm phu. Phàm phu như thế nào
sẽ có thể tu Phổ Hiền Hạnh ([có thể hiểu
thô thiển, Phổ Hiền Hạnh được cụ
thể hóa bằng] phẩm Tịnh Hạnh mà nay chúng ta đang
học)? Đại tâm phàm phu. Đại tâm là ǵ? Chính là
như trong giáo pháp Đại Thừa thường nói: “Tâm bao thái hư, lượng châu
pháp giới”. Nếu nói minh bạch hơn một chút, [sẽ
là] chẳng có cái tâm ích kỷ, chẳng có tâm tổn người
lợi ḿnh, người ấy có thể học theo Phổ
Hiền Bồ Tát, tức là có thể tu Phổ Hiền Hạnh.
Người ấy đối với hết thảy chúng
sanh b́nh đẳng, b́nh đẳng tôn trọng, b́nh đẳng
yêu kính, b́nh đẳng từ bi, b́nh đẳng lợi ích.
V́ thế, thành tựu các thứ đức, đấy là
thật!
[Dẫu]
thành tựu các thứ đức, người ấy có ư niệm
“thành tựu các thứ đức”
hay không? Thưa cùng quư vị, chẳng có! Quyết định
là chẳng có! Nếu c̣n thật sự có “thành tựu hết thảy công đức thù thắng,
nhiệm mầu” giống như kinh đă nói, người
ấy sẽ là công đức ǵ cũng chẳng có! V́ sao?
Người ấy chấp tướng, chẳng ĺa khỏi
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, có công
đức chi nữa? Chẳng ĺa khỏi vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước, người ấy thành tựu
phước đức. Phải phân biệt rơ ràng phước
đức và công đức; phước đức chỉ
có thể thọ báo trong ba thiện đạo thuộc lục
đạo. Nếu quư vị đă gieo khá nhiều phước
đức, quư vị sẽ đến [ba thiện đạo
để] hưởng phước, phải biết điều
này!
Quư
vị thấy Thích Ca Mâu Ni Phật suốt đời
đă nêu gương cho chúng ta thấy! Suốt bốn
mươi chín năm, dạy học hằng ngày, mỗi
ngày giúp đỡ hết thảy chúng sanh giải quyết nghi
nan tạp chứng, giải đáp các vấn đề. Ngày
hôm qua là thứ Sáu, do ống dẫn nước trong ṭa cao ốc
này bị trục trặc, chúng tôi chẳng thể lên lớp,
ngừng một hôm, đến trưa hôm nay họ mới
sửa xong, xin mọi người thứ lỗi. Thích Ca
Mâu Ni Phật v́ mọi người giải quyết vấn
đề, bất cứ lúc nào cũng đều có người
từ bốn phương tám hướng đến, [nêu
ra các thứ] nghi nan tạp chứng xin lăo nhân gia giúp đỡ.
Từ trước đến nay, Ngài chưa hề cự
tuyệt. Từ chỗ này, có thể thấy thân thể
đức Phật khỏe mạnh, thể lực cường
tráng, chẳng mệt, chẳng chán, tức là Ngài không mệt
mỏi, mà cũng chẳng chán ngán. Ngài làm cho chúng ta thấy,
đó là “thành chủng chủng
đức” (thành tựu các thứ đức). Ngài có nghĩ
thành tựu các thứ đức hay không? Chẳng có!
Xác
thực là chúng ta có thể lănh hội: Phật, Bồ Tát trụ
thế bất luận bao nhiêu năm, bất luận dùng phương
thức ǵ để giáo hóa chúng sanh, trước nay chưa
hề khởi tâm động niệm. Nếu chúng ta hỏi:
Các Ngài đă là không khởi tâm, chẳng động niệm,
từ đâu mà có pháp để các Ngài nói? Chẳng khởi
tâm, chẳng động niệm, tự tánh lưu lộ! Do
lưu xuất như vậy, các Ngài chẳng cần chuẩn
bị. Hiện thời, bọn phàm nhân chúng ta giảng kinh
hay lên lớp đều phải chuẩn bị; các Ngài chẳng
có, chẳng hề chuẩn bị, toàn là do tự tánh lưu
lộ. Nếu quư vị nh́n Ngài, sẽ thấy đúng là
Ngài suốt ngày từ sáng đến tối ở trong
Định. Khi chẳng có ai hỏi Ngài, đức Phật
chẳng nói một câu nào. Phật tâm thanh tịnh, ngôn ngữ
rất ít, những điều này đều là giáo dục,
đều nhằm chỉ dạy. V́ thế, “Na Già thường tại Định,
vô hữu bất định thời” (Đức Phật
thường ở trong Định, chẳng có lúc nào không
định), nói ít, chẳng lắm lời! Quư vị chẳng
hỏi Ngài, Ngài chẳng ham nói. Quư vị hỏi Ngài, Ngài sẽ
giải đáp. Sau khi giải đáp xong, lại trở vào
Định. Ngay cả trong khi giải đáp, vẫn chẳng
có khởi tâm động niệm, cũng chẳng có phân biệt,
chấp trước, đấy mới gọi là “thắng diệu công đức”.
Nếu chẳng độ chúng sanh, không giúp đỡ
người khác, đối với hai chữ “thắng diệu”, Ngài chỉ
có Diệu, chẳng có Thắng. Nói thật thà, nếu chẳng
có Thắng, Diệu cũng chẳng có! V́ Tự và Tha là một
Thể, chẳng tách rời! Có Thắng th́ mới có Diệu,
có Diệu th́ mới có Thắng. Thắng và Diệu là hai mặt
của một Thể. Phải nên thấu hiểu ư
nghĩa này!
Tiếp
đó, [đại sư] nói:
(Sớ)
Nhiên hữu nhị nghĩa, nhất Thông, nhị Biệt. Thông
tắc tùy nhất nhất nguyện, thành thượng
chư đức, tư vi chánh ư.
(疏)然有二義,一通,二別,通則隨一一願,成上諸德,斯為正意。
(Sớ:
Nhưng có hai nghĩa, một là Thông, hai là Biệt. Thông là tùy
theo mỗi một nguyện mà thành tựu các đức trên
đây, đấy là ư nghĩa chánh yếu).
Một
trăm bốn mươi mốt nguyện, triển khai ra
sẽ là vô lượng hạnh nguyện của Phật, Bồ
Tát. Chư vị thường nghe kinh Phật nói là “pháp môn vô lượng”, hạnh
và nguyện cũng vô lượng! Một trăm bốn
mươi mốt nguyện này là nói quy nạp. Nhằm thuận
tiện nói năng trong dạy học,
bèn quy nạp thành một trăm bốn mươi mốt
[nguyện]. V́ sao là một trăm bốn mươi mốt?
Trong phần trước đă có nói, [chuyện này] mang ư nghĩa
biểu thị pháp. Do vậy, bất cứ nguyện nào cũng
đều thành tựu công đức viên măn thắng diệu.
V́ sao? Chân tâm là viên măn, tự tánh là viên măn!
Giống
như chúng ta đă học trong phần trước: Trong vi
trần có thế giới, trong mỗi vi trần đều
có thế giới. Chẳng phải là một hạt vi trần
đặc thù nào! [Chẳng phải là] ở trong [hạt vi
trần] ấy có thế giới, trong những vi trần
khác chẳng có thế giới! Chẳng phải vậy! Mỗi
vi trần [đều là như thế], chẳng có một
[vi trần nào] là ngoại lệ. Bao nhiêu thế giới? Chẳng
có cách nào tính toán! Huống hồ đối với mỗi thế
giới trong vi trần, trong thế giới ấy lại có
vô lượng vi trần, trong mỗi vi trần lại có thế
giới, trùng trùng vô tận! Nhà Phật nói sâu xa, rộng th́
dễ biết, chứ sâu khó biết, rất khó lư giải,
trùng trùng vô tận mà! Đối với những thế giới
trong vi trần ấy, chúng ta cũng chẳng thể
nghĩ bàn, chẳng có cách nào tưởng tượng. Như
trong phần đầu của kinh Hoa Nghiêm, đối với
những điều đă nói trong phẩm Hoa Tạng Thế
Giới và Thế Giới Thành Tựu, mỗi vi trần
đều trọn đủ viên măn [những điều ấy],
chẳng thiếu khuyết mảy may nào, trọn đủ
viên măn. Trong thế giới lại có vi trần, trong vi trần
lại có thế giới, trùng trùng vô tận, chẳng có ngằn
mé! V́ thế, rộng sâu khó biết!
Chư
Phật, Bồ Tát là như thế, đặc biệt là Pháp
Thân Bồ Tát. Chúng sanh trong chín pháp giới có cảnh giới
này hay không? Khẳng định là có! Sai biệt ở chỗ
nào? Sai biệt ở chỗ chúng ta không biết! Tuy có mà
không biết; các Ngài có, biết rất rơ ràng. Đấy chẳng
phải là chuyện giác hay mê ư? Các Ngài giác, chúng ta mê, chỉ
có giác hay mê sai khác. Trừ điều này ra, chẳng có ǵ
sai khác! Nhất Chân pháp giới là ǵ? Hoa Tạng là ǵ? Cực
Lạc là ǵ? Chính là ở chỗ này! Nhưng chúng ta do vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, đă biến
nó thành nông nỗi này! Vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước có năng lực to ngần ấy ư? Có chứ!
Xem báo cáo về thí nghiệm với nước của tiến
sĩ Giang Bổn Thắng, sẽ hoảng nhiên đại
ngộ! Khởi tâm động niệm của chúng ta vốn
có tác dụng to tát như vậy! Quư vị thấy đó, dấy
lên thiện niệm, nước kết tinh đẹp đẽ
lắm! Dấy lên ác niệm, ngay lập tức, [kết
tinh của nước] trở nên rất xấu xí.
V́
thế, cảnh giới bên ngoài, núi, sông, đại địa,
có linh khí hay không? Phong Thủy tốt đẹp, nơi ấy
bèn có linh khí. Linh khí là ǵ? Nơi nào có người thiện tâm,
có người chánh tâm, người ấy ở chỗ nào,
chỗ đó sẽ biến thành có linh khí, biến thành nơi
tốt đẹp nhất. Nếu người sống ở
nơi ấy là kẻ rất ác, rất hung hăn, hiếu sát,
người khác đến nơi ấy sẽ nói nơi ấy
có sát khí, sát khí khá nặng! Tâm địa hơi thanh tịnh
đôi chút, người ấy sẽ cảm nhận điều
này. Người Hoa gọi là Khí, người ngoại quốc
nói là “từ trường”,
từ trường chỗ này rất ôn ḥa, rất đẹp
đẽ! Từ trường chỗ kia gây cho người
ta cảm giác chẳng thoải mái. Trong và ngoài nước
đều như nhau. Chúng ta hiểu rơ đạo lư này, hăy
khéo vun bồi thiện tâm và thiện ư của chính ḿnh. Thiện
tâm là tâm yêu thương, thiện ư là cảm ơn!
Kế
đó là phần Biệt Hiển. Trong phần Biệt Hiển,
đă nêu nhiều thí dụ, dường như là nêu ra
mười một điều, tức là mười một
đoạn. Điều thứ nhất…
(Sớ)
Như nguyện ư tha đắc kiên cố thân, tâm vô sở
khuất, tắc tự tất thành thập chủng tam nghiệp
ly quá thành đức chi đức dă.
(疏)如願於他得堅固身,心無所屈,則自必成十種三業離過成德之德也。
(Sớ: Như nguyện cho người khác có thân
kiên cố, tâm không thoái khuất, ắt sẽ thành tựu
mười đức thuộc loại các phẩm đức
do ba nghiệp ĺa lỗi mà thành tựu đức hạnh vậy).
Đoạn
kinh văn này hết sức hay! Quư vị thấy “như nguyện ư tha” [nghĩa
là] hy vọng người khác, mong mỏi người khác có
được tấm thân kiên cố. “Kiên cố thân” là thân Kim Cang Bất Hoại, nay chúng
ta nói [cho dễ hiểu] là “khỏe
mạnh, sống lâu”. Chính ḿnh nhất định sẽ
thành tựu mười thứ “ba
nghiệp ĺa lỗi”, đấy chính là đoạn thứ
nhất trong lời hỏi của Trí Thủ Bồ Tát, chính
là điều được nói trong đoạn kinh văn
thứ nhất. Ngài hướng về Văn Thù Bồ Tát
thỉnh giáo: “Bồ Tát vân hà
đắc vô quá thất thân, ngữ, ư? Vân hà đắc bất
hại thân, ngữ, ư?” (Bồ Tát làm thế nào để
đắc thân, ngữ, ư chẳng lầm lỗi? Bồ Tát
làm thế nào để đắc thân, ngữ, ư bất hại?),
măi cho đến câu cuối cùng là câu thứ mười: “Vân hà đắc trí vi tiên đạo
thân, ngữ, ư?” (Làm thế nào để được
trí làm người dẫn đường cho thân, ngữ, ư?),
mười câu ấy! Trong những phần trước, chúng
tôi cũng đă thưa tŕnh cặn kẽ: Mười câu ấy
chính là tự tánh đại viên măn. Sơ Trụ trong Viên Giáo
đă có, nhưng đến khi tập khí vô thỉ vô minh đă
đoạn hết, Ngài phóng quang bèn viên măn. Tuy Sơ Trụ
Bồ Tát đă chứng đắc, vẫn c̣n có tập
khí. Tập khí ấy chính là tập khí vô minh, phải để
cho nó tự dần dần biến mất. Ở đây, chẳng
dùng sức, hoàn toàn là tự nhiên tiêu mất.
V́
thế, sau khi đă chứng đắc Pháp Thân, sẽ là
hai chuyện: Một chuyện là thượng cầu Phật
đạo. Hoàn toàn chẳng có cái tâm mong cầu, khẳng định
là đến mười phương cúng dường
chư Phật, nghe chư Phật Như Lai giảng kinh,
thuyết pháp. Đấy là ǵ? Làm Ảnh Hưởng Chúng
cho hết thảy chúng sanh, khiến cho chúng ta thấy những
bậc minh tâm kiến tánh, đại triệt đại
ngộ c̣n ngồi nghe kinh thính pháp do pháp sư giảng, khiến
cho hết thảy chúng sanh mới học Phật cảm nhận:
“Ngươi thấy đó, họ c̣n ngồi nghe, chúng ta
càng phải nghiêm túc, nỗ lực!” Có ư nghĩa ấy. V́
thế, [các vị thiện tri thức nghe pháp] có tác dụng
xướng suất. Đấy là công đức thắng
diệu!
Thứ
hai, nhằm phục vụ hết thảy chúng sanh hữu
duyên. Chúng sanh có cảm, [chư Phật, Bồ Tát] sẽ tự
nhiên có ứng, chẳng hề có khởi tâm động niệm.
Ngàn muôn phần chớ nên cho rằng: “Chúng sanh có cảm, ta bèn ngay lập tức ứng”. Bọn
phàm phu chúng ta luôn khởi tâm động niệm, các Ngài chẳng
có, tự nhiên! Chẳng có khởi tâm động niệm, làm
sao có thể cảm ứng? Ông Giang Bổn Thắng làm thí
nghiệm với nước, đă viết báo cáo khoa học.
Chúng ta khởi tâm động niệm, nước có cảm
ứng. Nước có khởi tâm động niệm hay không?
Chẳng có! Chẳng có khởi tâm động niệm, tự
nhiên sẽ có cảm ứng. Vật chất c̣n như thế
(đây là khoáng vật), há Phật, Bồ Tát chẳng làm
được hay sao? Phải hiểu đạo lư! Chúng ta
lại c̣n phải học. Nghe nói “phải học điều này”, mọi người
nhất định sẽ nghĩ đến chuyện ǵ? Tham
Thiền, nhập Định. Chẳng sai! Người niệm
Phật, niệm Phật là Thiền, niệm Phật là Định.
Nay quư vị chẳng có Thiền, cũng chẳng có Định,
vấn đề là ǵ? Quư vị chẳng biết niệm!
Trong kinh Đại Tập, đức Thế Tôn đă nói, đấy
chẳng phải lời lẽ do những kẻ b́nh phàm nói
ra, “tŕ danh niệm Phật là vô
thượng thâm diệu Thiền”. Chẳng phải do
đức Phật nói ra, ai có thể tin tưởng? Đức
Phật nói th́ chúng ta mới tin tưởng, vô thượng
thâm diệu Thiền đấy nhé!
Do
vậy có thể biết, chúng ta hằng ngày niệm Phật
mà chẳng biết niệm. Biết niệm th́ sẽ niệm
theo cách nào? Niệm cho hết chấp trước của
chính ḿnh! Khi sáu căn của chúng ta tiếp xúc cảnh giới
sáu trần, vừa mới có ư niệm chấp trước,
chính ḿnh nhận biết ngay, “nhận
biết” chính là giác! Cổ đại đức thường
nói:“Chẳng sợ niệm khởi,
chỉ sợ giác chậm”, nhất định là niệm
sẽ dấy lên, phàm phu mà! Không khởi niệm, chẳng
phải là đă thành Phật rồi ư? Phàm phu và Phật
khác biệt ở chỗ này! Phật là trong hết thảy
cảnh duyên, sáu căn tiếp xúc cảnh giới bên ngoài,
hiểu rơ ràng, rành mạch, quyết định chẳng có
khởi tâm động niệm. Khởi tâm động niệm
c̣n chẳng có, lấy đâu ra phân biệt, chấp trước,
đương nhiên là chẳng có, phải biết điều
này. Bọn phàm phu chúng ta sáu căn tiếp
xúc cảnh giới bèn khởi tâm động niệm, phải
biết điều này. Năm căn trước, tức mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, [có lúc] chẳng tiếp xúc, ban
đêm nằm ngủ sẽ chẳng tiếp xúc, đang
ngủ mà! Ư Căn vẫn tiếp xúc. V́ thế, ban đêm quư
vị nằm mộng, nằm mộng chính là Ư Căn khởi
tác dụng! Cũng có nghĩa là năm căn trước,
tức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân có lúc gián đoạn,
gián đoạn trong khi ngủ, chứ Ư Căn chẳng gián
đoạn, rất phiền phức!
Do
vậy, từ Ư Căn cũng có thể khám nghiệm công phu
của chính ḿnh. Ví như chúng tôi trước khi học Phật,
gần như hằng ngày đều bị ác mộng. V́
chúng tôi sanh nhằm thời Kháng Chiến, lánh nạn, trong
giấc mộng cũng thường mơ thấy người
Nhật đang đuổi theo sau, hoảng sợ đến
nỗi chạy lung tung khắp nơi, kinh hăi đến nỗi
toàn thân đẫm mồ hôi lạnh, kinh hoảng tỉnh
giấc. Đó gọi là “ngày
nghĩ ǵ, đêm mộng đó”. Không nghĩ cũng có mộng!
Sau khi học Phật, đại khái là mười năm
đầu c̣n có những cơn ác mộng ấy. Sau mười
năm, ác mộng ít đi, mỗi năm ngẫu nhiên một
đôi lần mộng thấy, ít hẳn đi! Ba
mươi năm, bốn mươi năm, chẳng có, vẫn
nằm mộng, nhưng chẳng có ác mộng. Thỉnh thoảng
cũng mộng thấy Phật, Bồ Tát. Chuyển biến
từ chỗ này, xét xem công phu của chính ḿnh có tiến bộ
hay không? Nhưng nếu nói đến mộng thấy Phật
sự, mộng thấy Phật, Bồ Tát, mộng thấy
cảnh giới Phật, chớ nên sanh ḷng hoan hỷ! Nhất
định phải ghi nhớ lời dạy trong kinh Kim
Cang: “Hết thảy pháp hữu
vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”, “phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư
vọng”. Không quan tâm là được rồi; chớ nên
phân biệt, chấp trước nơi ấy!
Ngay
cả giấc mộng mà cũng phân biệt, chấp
trước, quư vị thấy phiền phức lắm! Khá
nhiều đồng tu hễ có t́nh h́nh ấy bèn đến
hỏi tôi, “ngày hôm qua tôi nằm mộng, vài hôm trước
tôi nằm mộng, mộng thấy như thế này, như
thế nọ”, đến kể lể với tôi. Hăy buông
xuống! Hết thảy đều phải buông xuống. Đối
với ác mộng, chớ nên kinh hoảng, chớ nên sợ
hăi. Mộng thấy Phật, Bồ Tát cũng chẳng cần
hoan hỷ. Nói chung, quư vị giữ ǵn cái tâm thanh tịnh của
chính ḿnh, ǵn giữ chính ḿnh như như bất động.
Trong kinh Kim Cang, đức Phật đă dạy ngài Tu Bồ
Đề, dạy ngài Tu Bồ Đề là nhằm dạy
chúng ta, ngài Tu Bồ Đề đại diện chúng ta! Quư
vị thấy đức Phật nói tuyệt diệu lắm:
“Chẳng giữ lấy tướng,
như như bất động”, ngoài chớ nên chấp
tướng, trong đừng nên động tâm. Đấy
là Thiền! Chúng ta niệm Phật là tu Thiền; vừa mới
khởi tâm động niệm, chúng ta liền giác ngộ.
Sau khi đă giác ngộ bèn “A Di
Đà Phật”, hoặc “nam-mô
A Di Đà Phật”, giằn ép ư niệm ấy xuống.
Chuyển biến, bất luận là thiện niệm hay ác
niệm, thảy đều chuyển thành A Di Đà Phật.
Đó là “giác”.
Quư
vị thấy giác kiểu này dễ hơn phương pháp
của Thiền Tông. Niệm nào cũng đều là A Di
Đà Phật, niệm nào cũng là giác, “chẳng để mảy may bất thiện xen tạp”.
Tất cả hết thảy các ư niệm, thiện niệm
hay ác niệm thảy đều chế phục, đều
ngăn chặn nó bằng một câu Phật hiệu. V́ thế,
dùng một câu Phật hiệu để đối trị
tất cả hết thảy các ư niệm. Chư vị hăy
ngẫm xem, đấy chẳng phải là Thiền th́ là ǵ?
Do đó, đức Phật nói: Đó là Vô Thượng Thâm
Diệu Thiền.
Chúng
ta mong cho người khác có thân thể khỏe mạnh, thân
tâm khỏe mạnh, sống lâu. Để có thể khuyên người
khác, đương nhiên là chính ḿnh phải có thành tựu.
Giống như mười thứ “ba nghiệp ĺa lỗi” như đă nói trong phần trước. Ba nghiệp thân, ngữ,
ư chẳng có mảy may lầm lỗi th́ mới thật sự
đạt được công đức thù thắng nhiệm
mầu!
Điều
thứ hai…
(Sớ)
Nguyện ư tha cụ túc thành măn nhất thiết thiện
pháp, tắc tự thành tựu kham truyền pháp khí.
(疏)願於他具足成滿一切善法,則自成就堪傳法器。
(Sớ: Nguyện cho người khác thành tựu
viên măn trọn đủ hết thảy các thiện pháp, ắt
chính ḿnh sẽ thành tựu là “căn khí xứng đáng
để truyền pháp”).
Chúng
ta xem phần Biệt Hiển, đối với mười
câu hỏi trong phần trước, [sẽ thấy] là “niệm niệm hồi hướng
thành đức, niệm niệm chẳng bỏ chúng sanh”!
Chúng ta phải học điều này, nguyện cho người
khác (“người khác” là hết
thảy chúng sanh) thành tựu trọn đủ viên măn, “thành măn” (thành tựu viên măn) hết
thảy các thiện pháp. Thực hiện bằng cách nào? Thưa
các đồng học, hăy thực hiện bằng Đệ
Tử Quy, bằng Thập Thiện Nghiệp Đạo.
Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo đă dạy rơ ràng,
minh bạch: “Bồ Tát có một
pháp, có thể ĺa hết thảy các nỗi khổ trong thế
gian”. “Hết thảy thế
gian” là nói tới mười pháp giới. Đấy là
pháp ǵ vậy? Đức Phật dạy: “Thường niệm thiện pháp, tư duy thiện
pháp, quan sát thiện pháp”, lại dạy: “Chẳng để cho mảy may bất thiện xen tạp”,
như vậy th́ mới có thể thành tựu trọn đủ
viên măn! Thật sự thành tựu viên măn trọn đủ
hết thảy thiện pháp (tức là Thập Thiện Nghiệp
Đạo) là ai? Như Lai! Bồ Tát và Thanh Văn trọn đủ,
chẳng dám nói là “viên măn”. Những
thứ này phải thật sự làm! Danh phải phù hợp
thật!
V́
thế, hiện nay, trong cuộc sống hằng ngày, xử
sự, đăi người tiếp vật, làm được
Đệ Tử Quy. Quư vị phải thật sự làm th́
mới hiểu sự tốt lành và phẩm đức của
nó! Trước hết là học Đệ Tử Quy, sau
đó học Thập Thiện Nghiệp. Chẳng có Đệ
Tử Quy và Thập Thiện Nghiệp Đạo, sẽ chẳng
thể thành tựu! Đệ Tử Quy là căn bản của
căn bản, Thập Thiện Nghiệp nhất định
lấy Đệ Tử Quy làm cơ sở th́ mới có thể
kiến lập. Sau đấy, từ trên Thập Thiện Nghiệp,
mới có thể kiến lập giới luật và oai nghi. Trong
Tịnh Nghiệp Tam Phước có nói: “Trọn đủ các giới, chẳng phạm oai
nghi”. Tất cả giới luật và oai nghi đều
được kiến lập trên cơ sở Thập Thiện
Nghiệp! Chẳng có Thập Thiện Nghiệp, chắc chắn
sẽ chẳng làm được. Thập Thiện Nghiệp
lấy Đệ Tử Quy làm cơ sở, chớ nên không
biết điều này, chẳng thể không làm! Lại tiến
cao hơn, sẽ là Phổ Hiền Hạnh. Nếu chúng ta
muốn tu Phổ Hiền Hạnh, nếu muốn tu phẩm
Tịnh Hạnh, quư vị chẳng có cơ sở ấy
th́ làm sao được? Chẳng có cơ sở ấy, sau
khi chúng ta đă đọc một trăm bốn
mươi mốt nguyện này, đều chẳng làm
được, không có cách nào thực hiện. Huống hồ
nguyện nào của Ngài cũng đều là có cảnh giới
“khắp hư không, trọn
pháp giới”, làm sao chúng ta có thể làm được?
Khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước,
tâm lượng của chúng ta trở nên rất nhỏ, tâm
lượng chẳng có cách nào mở rộng!
Kinh
dạy rất hay, trọn đủ thành tựu viên măn hết
thảy các thiện pháp, chính ḿnh mới
là “kham truyền pháp khí”. Quư
vị thấy đó, thành tựu chúng sanh chính là thành tựu
chính ḿnh. Bốn chữ “kham
truyền pháp khí” có ư nghĩa rất trọng! Có ư
nghĩa ǵ? Là truyền nhân của chư Phật. Chẳng
phải là một vị tổ sư nào truyền pháp cho quư
vị, chẳng phải là một pháp quyển[2] nào,
hoặc là một sự chứng minh nào, chẳng phải vậy!
Quư vị truyền pháp của chư Phật; nếu quư vị
chẳng thể trọn đủ hết thảy thiện
pháp, làm sao có thể truyền pháp cho được? Tôi
thường nói điều này để khuyên lơn, cổ
vũ các đồng tham đạo hữu chúng ta: - V́ sao thánh
nhân xưa nay trong ngoài nước giáo huấn có thể cảm
hóa nhiều người ngần ấy, sức ảnh
hưởng cả trăm ngàn năm chẳng suy? Nhưng
chúng ta nói những điều ấy, chẳng có ai tin
tưởng, do nguyên nhân ǵ vậy? Người khác làm
được, sau đấy mới nói, lẽ nào thính chúng
chẳng tin tưởng? Điều này có nghĩa là chính người
ấy đă thành tựu hết thảy các thiện pháp, người
ấy nói ra, mọi người đều tin tưởng.
Chúng ta chẳng có thành tựu; nói ra, chẳng ai thèm tin!
Quư
vị thực hiện trọn hết Đệ Tử Quy,
giảng Đệ Tử Quy sẽ chẳng có ai không tin
tưởng! Quư vị làm được Thập Thiện
Nghiệp, giảng kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo,
chẳng có ai không tin tưởng, đạo lư là như thế
đó! Ta chẳng làm được Thập Thiện Nghiệp
Đạo, ta giảng kinh ấy, ai tin tưởng? Chẳng
có ai tin cả! V́ thế, cổ đại đức khích
lệ người khác: “Tiên
hành kỳ ngôn” (Hành trước những điều sẽ
nói), đấy là thánh nhân. Trước hết là làm
được rồi mới nói, đấy là thánh nhân. Sau
khi đă nói, quyết định có thể làm được,
ta thường gọi hạng người ấy là hiền
nhân. Nói rồi chẳng làm được, sẽ là gạt
người! Gạt người th́ làm sao người ta có
thể tiếp nhận cho được?
Làm sao có thể tin tưởng cho được? V́ thế,
câu “kham truyền pháp khí” rất
trọng. Điều ấy [có nghĩa] là quư vị có
điều kiện, có tư cách truyền thừa đại
pháp của chư Phật Như Lai.
(Sớ)
Tam nguyện ư tha thâm nhập kinh tạng.
(疏)三願於他深入經藏。
(Sớ:
Ba là nguyện cho người khác thâm nhập kinh tạng).
Đây
là câu thứ hai trong Tam Quy Y: “Tự
quy y Phật, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập
kinh tạng, trí huệ như hải”[3].
Chúng ta nguyện cho người khác thâm nhập kinh tạng.
(Sớ)
Tắc tự thành chúng huệ.
(疏)則自成眾慧。
(Sớ: Sẽ thành tựu các thứ huệ cho
chính ḿnh).
Chính
quư vị nhất định có thể thành tựu vô lượng
trí huệ. V́ sao? Thường nghĩ giúp đỡ người
khác thâm nhập kinh tạng, Pháp Bố Thí đấy! Quả
báo của Pháp Bố Thí là trí huệ. Giúp người khác thâm
nhập kinh tạng, phương pháp rất nhiều, thành
tựu trí huệ cạn hay sâu khác nhau! Giới thiệu
người khác học Phật chính là ư nghĩa này, nguyện
họ sẽ thâm nhập kinh tạng. Giới thiệu
người khác đọc kinh Phật hay thiện thư,
cũng là ư nghĩa này, in tặng kinh luận, thiện
thư.
Khi
chúng tôi mới học Phật, cuộc sống của chính
ḿnh rất vất vả, rất gian nan. Thầy dạy tôi
học bố thí. Trước khi biết thầy, chúng tôi rất
keo kiệt, v́ sao? Cuộc sống quá khổ, đúng là kiếm
tiền chẳng dễ dàng, lại c̣n quá ít, ngay cả cuộc
sống của chính ḿnh toàn là gắng gượng chống
chọi, há có dư thừa để bố thí? Sau khi được
thầy dạy dỗ, chúng tôi mới hiểu. V́ sao bần
cùng? Trong đời quá khứ keo kiệt, không chịu bố
thí, cho nên đời này bị quả báo bần cùng! Cứu
văn bằng cách nào? Cải thiện như thế nào? Học
bố thí! Tài Thí là nhân, của cải là quả; Pháp Thí là nhân,
thông minh, trí huệ là quả; Vô Úy Bố Thí là nhân, khỏe
mạnh, sống lâu là quả. Chương Gia đại
sư dạy tôi điều này. Do vậy, tôi hiểu: Hăy nên
thay đổi vận mạng của chính ḿnh, phải rất
nghiêm túc nỗ lực. Khi đó ở Đài Loan, có người
đề xướng in kinh, mọi người góp tiền
để in một quyển kinh sách. Phân lượng cũng
chẳng lớn, chúng tôi là kẻ chẳng có tiền, bèn bỏ
ra một, hai đồng, tận tâm tận lực. Người
ta phóng sanh là chuyện tốt, chúng tôi cũng bỏ ra một,
hai đồng. Nếu như gặp chuyện ǵ tốt lành
trong đạo tràng, chúng tôi luôn tùy hỷ công đức,
hoan hỷ! Cuộc sống của chính ḿnh càng tiết kiệm
hơn, bớt ăn bớt dùng để cúng dường bố
thí nhiều hơn một tí. Vẫn thật sự hữu
hiệu, càng thí tài, càng có nhiều!
Lúc
mới học Phật, khi đó, một năm tôi làm những
chuyện tốt như đă nói trên đây, tức là tùy hỷ
công đức làm những chuyện tốt, đại khái
chỉ có một, hai trăm đồng tiền Đài Loan.
Tính ra, chưa được năm đô la của Mỹ,
một năm có thể làm [như vậy mà thôi]! Suốt đời
làm chuyện này; từ đấy về sau, cúng dường
ngày càng nhiều. Càng nhiều, càng thí, chính ḿnh chẳng cần
chừa tiền lại. Tiền là vật lưu động,
phải lưu thông, càng lưu thông càng nhiều! Đối
với lời thầy đă dạy tôi, tôi nghiêm túc thực
hiện, quả báo hoàn toàn đúng như thầy đă dạy.
Thí tài được của cải; thí pháp được
thông minh, trí huệ; thí vô úy được khỏe mạnh,
sống lâu. Ba thứ ấy tôi đều đạt
được! Tôi nói với các đồng học: “Tôi hoàn
toàn chẳng mong cầu, chẳng mong cầu chi cả, tự
nhiên!” Suốt đời, giữ vững nguyên tắc này: “Có
tiền, tiền nhiều bèn làm nhiều, tiền ít th́ làm ít.
Chẳng có tiền, không làm!” Đương nhiên tốt nhất
là không làm, chính ḿnh chẳng có chuyện ǵ, vui sướng lắm!
Nhưng có khá nhiều đồng tu tặng tiền, không
thay họ làm chuyện tốt, sai mất rồi! Khi họ
quyên tặng, chúng ta làm thay cho họ, hồi hướng cho
họ, ḥng thành tựu phước đức và công đức
cho bọn họ. Nếu họ ĺa tướng, chính là công
đức. Nếu họ chẳng ĺa tướng, sẽ là
phước đức, phải thật sự làm! Công
đức và phước đức xét theo sự tướng,
chẳng có sai biệt, nhưng nơi ư niệm th́ có sai biệt.
Một đằng là ĺa tướng, một đằng là
chấp tướng. Ly tướng là diệu, “diệu” là công đức. V́
thế, thành tựu các huệ cho chính ḿnh; đấy chính là
trí huệ viên măn.
Phật
pháp thù thắng khôn sánh, tôi đă thể nghiệm điều
ấy trong suốt một đời này. Càng học, càng hoan
hỷ, càng học, càng thù thắng, xác thực là pháp hỷ
sung măn. Pháp hỷ giống như suối phun trào, vĩnh viễn
chẳng ngưng cạn. A! Hôm nay đă hết thời gian
rồi, chúng tôi nói tới chỗ này!
Tập 1496
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời
ngồi xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ
mười một, đoạn thứ tư thuộc phần
Biệt Hiển trong lời chú giải của Thanh
Lương đại sư. Khoa đề của đoạn
trước là “nguyện vi sở
cảnh thành ích” (những lợi ích được tạo
thành bởi cảnh để thực hiện nguyện). Ở
đây là đoạn thứ tư trong phần Biệt Hiển.
Chúng tôi đọc lời Khai Thị của Thanh
Lương đại sư một lượt để quư
vị đối chiếu đúng chỗ.
(Sớ)
Tứ, nguyện ư tha, cụ chư phương tiện,
đắc tối thắng pháp, tắc tự thành tựu cụ
đạo nhân duyên.
(疏)四願於他具諸方便得最勝法,則自成就具道因緣。
(Sớ:
Bốn là nguyện cho người khác đầy đủ
các phương tiện, đắc đạo tối thắng,
sẽ thành tựu nhân duyên tu đạo đầy đủ
cho chính ḿnh).
Đoạn
này cũng chính là như thế tục thường nói, “tạo sự thuận tiện
cho người khác, chính ḿnh sẽ được thuận
tiện”. V́ thế, đoạn này rất quan trọng,
chớ nên coi thường, sơ sót! Ở đây, đức
Phật bảo chúng ta, “nguyện
ư tha” (nguyện cho người khác), chúng ta phải
hiểu rơ chữ “tha” (他) như trong phần trước đă nói: “Cảnh giới” là hết thảy
chúng sanh trong khắp pháp giới hư không giới, chúng ta
đều hy vọng họ có thể trọn đủ hết
thảy các phương tiện. Mục tiêu của hết
thảy các phương tiện là ở chỗ nào? Đắc
pháp tối thắng! Điều này rất trọng yếu.
“Phương” (方) là phương pháp, “tiện”
(便) là tiện nghi.
Nếu giải thích hai chữ “phương
tiện” theo cách dễ hiểu nhất, nông cạn nhất,
sẽ là phương pháp thỏa đáng nhất, thích hợp
nhất, thù thắng nhất, đó là phương tiện.
Do vậy có thể biết, mục tiêu của phương
tiện là ǵ? Phương pháp thù thắng nhất,
phương pháp tốt nhất, phương pháp thích
đáng, tốt lành nhất. Người hiện thời nói
đến chuyện ǵ? Kiếm tiền! Sai mất rồi!
Kiếm tiền th́ sao? Tăng trưởng tham, sân, si. Các
đồng học chúng ta học Phật trong thời gian đă
lâu, khế nhập Phật pháp, đều biết: Quả
báo của tăng trưởng tham, sân, si là ba ác đạo. Đấy chẳng phải là pháp thù
thắng nhất, mà là pháp tệ hại
nhất, hoàn toàn tương phản với pháp thù thắng
này, sẽ vào trong ác đạo. Pháp thù thắng nhất
chính là phương pháp thành Phật, vượt thoát lục
đạo, vượt thoát mười pháp giới, đấy
mới gọi là pháp thù thắng nhất. Phương tiện
này chẳng phải là phương tiện b́nh phàm, mà xác thực
là “trọn đủ các phương
tiện”.
Điều
thứ nhất trong các phương tiện là phải gặp
gỡ thiện tri thức. Chúng ta thường nói: Thật
sự là một vị thầy tốt, hay bạn học tốt,
đều là phương tiện. Đạo tràng học tập
đúng pháp đều là “phương tiện”. Ngạn ngữ
thường nói: Những chuyện này có thể ngộ, chứ
chẳng thể cầu, đến nơi đâu để
cầu? Hy vọng duy nhất khi dạy học của thầy
là mong có người truyền thừa, truyền pháp. Nếu
chẳng có kẻ truyền thừa, pháp ấy bị đứt
đoạn. Người Hoa nói “vô
hậu vi đại” (không có người thừa kế
là chuyện lớn). “Hậu”
(後) là người truyền thừa!
Gia đ́nh th́ có người nối tiếp nếp nhà, pháp
th́ có người truyền thừa pháp môn. Chẳng có
người truyền thừa, sẽ bị đoạn tuyệt.
Thầy mong t́m kẻ truyền thừa, đến đâu
để t́m? Có thể gặp, chẳng thể cầu! Học
tṛ muốn t́m một vị thầy tốt, cũng là “có thể
gặp, chẳng thể cầu!” Thuở trước, thầy
Lư từng nói với tôi, thầy bảo: “Thầy t́m được tṛ tốt, c̣n khó hơn
tṛ t́m được thầy tốt”. Lời ấy là
thật, chẳng giả tí nào! V́ thế, thầy tṛ là duyên
phận. Chẳng phải là một đời này, mà là do
duyên phận đă tích tập trong đời trước,
đời này gặp gỡ, tự nhiên sanh tâm hoan hỷ. V́
thế, Phật pháp bảo: “Hết
thảy là do duyên sanh”, chuyện này rất có lư. Quư vị
thấy đối với nhân, duyên, quả, đức Phật
chẳng nói “nhân sanh” v́ nhân
phải gặp duyên th́ mới kết quả. Đức Phật
chẳng nói nhân, mà nói duyên, duyên là phương tiện. V́ thế,
chẳng thể trọn đủ hết thảy
phương tiện, sẽ khá khó khăn, pháp thế gian và
xuất thế gian đều chẳng có ngoại lệ!
Gặp
duyên, có thể thành tựu hay không? Tùy thuộc quư vị có
nhận biết hay không! Người hiện thời gọi
Duyên là ǵ? “Cơ hội”,
trong Phật pháp bảo là Duyên. Quư vị có nhận biết
cơ hội hay không? Quư vị có thể nắm vững cơ
hội hay không? Đấy chính là điều then chốt
để quư vị thành hay bại trong một đời!
Ngạn ngữ thường nói: Kẻ có tâm, thật sự
có tâm tăng tấn, sẽ có thể nhận biết, có thể
nắm bắt [cơ hội], đương nhiên là sẽ
có thành tựu. Chẳng có cái tâm tăng tấn, cứ bị
cuốn theo sóng gió, khó lắm! Cơ duyên hiện tiền mà
chẳng nhận biết, ở ngay trước mặt mà bỏ
lỡ! Quư vị ngẫm xem, một vị thiện tri thức
cả đời dạy được bao nhiêu người?
Chúng ta lấy cổ nhân làm gương. Đọc Đàn Kinh,
sẽ thấy Lục Tổ tự nói sự từng trải
của chính Ngài, tức là chương thứ nhất trong Đàn
Kinh.
Ngài
đến Hoàng Mai thân cận ḥa thượng Ngũ Tổ
Hoằng Nhẫn. Thuở ấy, môn đ́nh của tổ
sư hưng vượng, từ trên xuống dưới
có hơn một ngàn người. Môn đ́nh của tổ sư
mà! Người cầu pháp từ bốn phương tám
hướng tụ tập ở đạo tràng ấy. Thầy
thù thắng, đồng học cũng thù thắng, đạo
tràng cũng thù thắng, [thế mà] chẳng thể thành tựu,
quư vị chẳng thể trách móc duyên được! Những
duyên ấy là phương tiện, thưa cùng quư vị, thảy
đều thuộc loại Tăng Thượng Duyên, đều
trọn đủ. Quư vị chẳng thể thành tựu, lỗi
lầm ở chỗ nào? Đức Phật nói bốn duyên
sanh pháp, quư vị hăy ngẫm xem, đối với bốn
duyên ấy, quư vị đă thiếu loại nào? Thân Nhân Duyên
th́ mọi người b́nh đẳng, quyết định
là chẳng thiếu! Tăng Thượng Duyên thù thắng
dường ấy, chẳng thiếu, vậy th́ vấn
đề nhất định ở nơi Sở Duyên Duyên
và Vô Gián Duyên. Đúng vậy, chẳng sai tí nào! Sở Duyên
Duyên là giùi mài chẳng bỏ, cổ đức thường
nói “thâm nhập một môn”, thâm
nhập một môn là Sở Duyên Duyên. “Trường thời huân tu” là Vô Gián Duyên, vấn
đề xuất hiện ở chỗ này! V́ thế, vẫn
chẳng thể thành tựu.
Quư
vị thấy đúng là Ngũ Tổ cũng khó có, trong
đời Ngũ Tổ đă gặp Huệ Năng. Huệ
Năng ở Hoàng Mai, nói cách khác, Sở Duyên Duyên và Vô Gián
Duyên của Ngài (Lục Tổ) trọn đủ. Quư vị
ngẫm xem, bốn duyên đă trọn đủ, “cụ chư phương tiện,
đắc tối thắng pháp” (đủ các phương
tiện, đắc pháp thù thắng nhất). V́ thế,
Ngũ Tổ truyền cho Lục Tổ. Thần Tú theo Ngũ
Tổ đă nhiều năm như thế, lại c̣n là đệ
tử thượng thủ trong tự viện vào thuở đó,
giống như Ca Diếp và A Nan, thông thường có thể
thay đức Phật thuyết pháp. Thần Tú cũng
thường thay Ngũ Tổ giảng giải, vấn
đề ở ngay chỗ này! Chúng ta suy ngẫm vấn
đề này, nhất định phải hiểu rơ ràng, hiểu
minh bạch, v́ nếu chúng ta gặp gỡ [một vị
thầy giỏi], có thể cũng xuất hiện khuyết
điểm! Khuyết điểm chính là như Ấn Quang
đại sư đă dạy: “Tâm
thành kính chẳng đủ!” Lăo cư sĩ Hạ Liên Cư
cũng nói rất nhiều và cũng nói rất thấu triệt,
rất minh bạch. Đúng là một phần thành kính được
một phần lợi ích, mười phần thành kính
được mười phần lợi ích.
Tuy
Thần Tú ở trong hội của Ngũ Tổ đă nhiều
năm như vậy, chẳng có tâm thành kính. Ngài đối
với Ngũ Tổ rất cung kính! Cớ sao nói là “chẳng
có thành kính”? Rất cung kính là chúng ta nh́n thấy, chẳng phải
là Phật, Bồ Tát. Phật, Bồ Tát thấy [Thần Tú]
chẳng có thành ư. “Thành ư” là
ǵ? “Một niệm chẳng
sanh th́ gọi là Thành”. Quư vị hiểu câu ấy, sẽ
hiểu rơ! Quư vị thấy Ngũ Tổ bảo mọi người
làm kệ, Thần Tú vẫn phải suy nghĩ mất bốn
ngày. Suy nghĩ là ǵ? Suy tưởng lung tung, chẳng có ḷng
Thành! Lại xem Huệ Năng, Huệ Năng có ḷng Thành, v́
sao? Chẳng phải suy nghĩ! Tâm Thần Tú xáo động,
phập phều. Tâm Huệ Năng là định, định
chính là Thành. Xáo động phập phều là chẳng Thành,
sai biệt ở chỗ này! Quư vị chẳng có ḷng Thành, Sở
Duyên Duyên và Vô Gián Duyên của quư vị chẳng đắc
lực! V́ thế, tôi nói là Thân Nhân Duyên và Tăng Thượng
Duyên là “đầy đủ
các phương tiện”, Ngài
(Thần Tú) đều có những điều ấy (Thân Nhân
Duyên và Tăng Thượng Duyên), cho nên Ngài chẳng có vấn
đề ǵ! Vấn đề [của ngài Thần Tú là] ở
chỗ Sở Duyên Duyên và Vô Gián Duyên chẳng đắc lực.
Chẳng đắc lực là v́ ḷng thành kính [chẳng trọn
đủ].
Đây
lại là chuyện như thế nào? V́ sao Sở Duyên và Vô
Gián chẳng đắc lực? Tu hành đă nhiều năm
ngần ấy, v́ sao ḷng chân thành vẫn chẳng thể hiện
tiền? Chúng tôi nói toạc ra, nói minh bạch, [nguyên nhân là v́]
chẳng buông xuống! Trong các buổi giảng, chúng tôi
thường nói điều này, khuyên nhủ, cổ vũ các
đồng học: Ḷng ích kỷ chưa buông xuống, tiếng
tăm lợi dưỡng chẳng buông xuống, ngũ dục
lục trần chẳng buông xuống, tham, sân, si, mạn chẳng
buông xuống. Điều này rất rơ rệt, nếu như
buông tham, sân, si, mạn xuống, Huệ Năng đại
sư đắc pháp, chẳng ai có thể cướp lấy,
đoạt y bát đem về được! Các vị hăy
ngẫm xem, kinh thường nói đến phân biệt, chấp
trước; chưa buông phân biệt, chấp trước xuống
được! Cũng có thể nói là đều ở
trong câu “đầy đủ
các phương tiện”; v́ thế, ngài Thần Tú chẳng
có cách nào đắc pháp tối thắng!
Nay
chúng ta học Phật, câu này quan trọng lắm, phải
hiểu rơ ràng, minh bạch! Nếu chẳng buông xuống vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, chúng ta nói pháp
tối thắng là văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới; v́ “đoạn phiền
năo, chứng Bồ Đề” chẳng phải là chuyện
dễ dàng, đời này chắc chắn là chúng ta chẳng
thể làm được! Chỉ có cầu đới nghiệp
văng sanh, đấy là hy vọng duy nhất của chúng ta. Nhưng
quư vị phải hiểu, nếu quư vị chẳng thể
buông xuống phân biệt, chấp trước, vẫn là có
chướng ngại. Tôi nói mười sáu chữ, nói rất
nông cạn, rất rơ ràng, chớ coi trọng quá đỗi
mười sáu chữ ấy! Chẳng thể hoàn toàn buông
xuống, hăy nhạt bớt, chớ nên quá chấp chặt.
Đừng nên coi trọng lợi ích trước mắt,
phải biết những ǵ trước mắt đều
là giả, thứ ǵ cũng đều là trống không. Nhà Phật
nói “vạn pháp đều là Không”,
kẻ b́nh phàm chẳng thể lănh hội, nhưng nếu
quư vị lắng ḷng đôi chút, sẽ dần dần thấu
hiểu!
Năm
1977, tôi đến Hương Cảng giảng kinh lần
đầu. Thời gian lần đó cũng dài nhất, giảng
liên tục suốt bốn tháng. Người xuất gia ở
Hương Cảng thuở ấy tôi đều quen biết.
Ở đó, suốt bốn tháng, thường là đến
thăm hỏi vị này, thăm viếng vị kia, những
vị pháp sư ấy tôi đều đến thăm. Lúc
mới đến, chào hỏi những vị có vai vế tại
địa phương, các vị cư sĩ nhiệt tâm đi
cùng với tôi. Năm nay là năm 2006, vừa khéo ba
mươi năm, tôi nói với các vị đồng học,
người Hoa nói ba mươi năm là một đời.
Quư vị thấy chữ Thế (世) là ba chữ Thập (十) [ghép lại]. Hơn nửa số đó (những
vị xuất gia tôi quen biết tại Hương Cảng)
đă mất rồi, đă đi cả rồi! Quư vị
nghĩ đến hiện tượng này, đức Phật
nói là vô thường, chẳng thật, giả trất, phải
giác ngộ. Chẳng đem theo được, chớ nên
so đo, chớ nên riết róng. Đối với những
ǵ mang theo được, phải nghiêm túc, phải khéo nắm
vững. Những ǵ mang theo được? Quư vị mang
theo “thanh tịnh, b́nh đẳng,
giác” được. Mang theo thiện tâm, thiện hạnh
được! Mang theo công đức đă tích lũy
được, những thứ chẳng mang theo được
đều phải buông xuống, chớ nên so đo. Hăy khéo
đọc sách thánh hiền, mang theo thứ ấy. Nương
theo giáo huấn của thánh hiền để đoạn
ác tu thiện, thứ này mang theo được. Niệm Phật
cầu sanh Tịnh Độ, mang theo được! Phải
coi chuyện này là đại sự bậc nhất trong đời
này!
Đối
với công đức thù thắng, quư vị thấy kinh này
đă nói: Lợi ích người khác mới là công đức
thù thắng. Một trăm bốn mươi mốt nguyện,
nguyện nào cũng đều là nguyện cho chúng sanh. “Đương nguyện chúng
sanh” chẳng phải là một lời nói suông, phải có
hành động, tức là phải thật sự dùng hành
động để giúp đỡ hết thảy chúng sanh,
tận tâm tận lực, sức hữu hạn, tâm vô hạn.
Quư vị thấy cái tâm, đối tượng của khởi
tâm động niệm, kinh Phật gọi [đối
tượng ấy] là “cảnh giới”, [cảnh giới ấy
chính là] hết thảy chúng sanh trong khắp pháp giới
hư không giới, tâm lượng to cỡ đó! Cảnh
giới ấy chẳng thể nghĩ bàn. Xét theo Sự, th́
về Sự, mỗi cá nhân có phước báo khác nhau, năng
lực chẳng giống nhau. Ta có năng lực nhỏ
nhoi, hăy tận hết sức lực nhỏ bé ấy. Năng
lực to bèn tận hết phần sức mạnh to lớn
ấy. Giúp cho hết thảy chúng sanh đạt được
pháp tối thắng, pháp tối thắng là học Phật.
Quư vị giúp họ như thế nào? Để giúp đỡ
người khác, trước hết, chính ḿnh phải thành
tựu. Chính ḿnh chẳng thành tựu, làm sao quư vị có thể
giúp người khác cho được? V́ thế, nửa câu
sau [trong lời Sớ] bèn nói: “Tắc
tự thành tựu cụ đạo nhân duyên” (Sẽ thành
tựu nhân duyên tu đạo trọn đủ cho chính
ḿnh). Bản thân quư vị chẳng thành tựu, sẽ chẳng
thể giúp đỡ người khác, người khác chẳng
tin tưởng. Đấy là chính ḿnh nhất định phải
nghiêm túc, nỗ lực, y giáo tu hành, phô bày thành quả và thành
tích tu hành của ta cho họ thấy. Họ trông thấy, sẽ
sanh khởi tín tâm, sanh ḷng mến mộ, cũng phát tâm muốn
học theo. V́ thế, tự hành mới là hóa tha thật sự.
Tự hành và hóa tha là một chuyện, chẳng phải là
hai chuyện!
Cái
hay trong sự tu hành Phật pháp là quả báo đều biểu
hiện nơi thân, chẳng ở nơi nào khác. Chúng ta phải
hiểu rơ điều này! Quư vị thấy thuở Thích Ca
Mâu Ni Phật tại thế, Ngài dùng ǵ để [biểu lộ]
cho người khác thấy? Ngài chẳng dựng đạo
tràng, chẳng có tự, viện, am, đường, buổi
trưa ăn một bữa, qua đêm dưới cội cây,
phô bày điều ǵ cho người khác thấy? Ba
mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo, Ngài
phô bày những điều ấy. Tuy sống gian khổ như
vậy, đấy là cái nh́n của người thế
gian, chứ đức Phật hết sức vui sướng.
Đức Phật đứng chung một chỗ với mọi
người, các quốc vương, đại thần,
trưởng giả, cư sĩ, chẳng ai có sắc
tướng sánh bằng Thích Ca Mâu Ni Phật. V́ sao? Chúng ta
chớ nên không biết điều này. Chúng ta đă biết,
hăy nên khéo học tập.
Đức
Phật thường nói: “Hết
thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”. Chúng ta hằng
ngày tưởng Phật, bất tri bất giác tướng
mạo của chúng ta sẽ giống như một vị Phật,
sanh từ tâm tưởng mà! Tướng mạo giống
tướng Phật, thân thể cũng giống như thân
Phật. Tướng Phật từ bi, tốt lành, thiện
lương, hết thảy các thiện pháp thảy đều
trọn đủ [được thể hiện] nơi
tướng mạo, thân thể khỏe mạnh, sống lâu.
Người thế gian tán thán “kim
cang bất hoại thân”. V́ thế, bảo dưỡng
thân thể, chẳng cần rất nhiều đồ bổ,
chẳng phải vậy. Những kẻ ăn những thứ
đồ bổ, quá coi trọng thức ăn, thường
đổ bệnh. Chư Phật, Bồ Tát sống rất
đơn giản, chẳng có mảy may nào chú trọng, tùy
duyên chứ không phan duyên. V́ các Ngài không khởi tâm, chẳng
động niệm, chẳng phân biệt, chấp trước,
cho ǵ ăn nấy, chẳng có mảy may phân biệt. Sự
dinh dưỡng ấy chẳng khác ǵ sự kết tinh đẹp
đẽ trong thí nghiệm về nước của tiến
sĩ Giang Bổn Thắng, đạo lư hoàn toàn giống
nhau. Người thế gian nghĩ thứ này giàu dinh dưỡng,
thứ kia chẳng có dinh dưỡng, thứ này hương
vị ngon lành, thứ kia hương vị dở ẹt,
hoàn toàn rơi vào vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước! Vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước hại thân thể, chẳng phải là dưỡng
thân thể. Dưỡng thân thể là tâm thanh tịnh; có vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, tâm sẽ
không thanh tịnh.
V́
thế, câu “cụ đạo nhân
duyên” bao hàm ư nghĩa sâu rộng vô tận, chúng ta phải
nên lănh hội. “Đạo” ở
đây là Phật đạo, Vô Thượng Bồ Đề.
“Nhân duyên” rất nhiều, hết
sức phức tạp, vô lượng, vô biên, hăy nắm lấy
cương lănh! Cương lănh là ǵ vậy? Chính là đôi câu
đối do chúng tôi đă viết từ hai mươi mấy
năm trước, gồm hai mươi chữ: “Chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng,
chánh giác, từ bi; khán phá, phóng hạ, tự tại, tùy
duyên, niệm Phật”. Điều ǵ cũng đều
tùy duyên; tùy duyên là chẳng dấy vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước, thứ ǵ cũng đều
tốt, chẳng có thứ ǵ không tốt. Kinh điển đă
dạy hai câu: “Ngày nào cũng là
ngày tốt, giờ nào cũng là giờ tốt”, đức
Phật nói “tùy duyên”. Trong các
buổi giảng, tôi nói nối đuôi thêm hai câu: “Ai nấy đều là người
tốt, mọi chuyện đều là chuyện tốt”. Chỉ
cần quư vị không khởi vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước, sẽ lập tức là [như vậy
đó]! Triển hiện h́nh tượng như vậy, h́nh
tượng ấy tốt đẹp, h́nh tượng ấy
khiến cho người khác bị thuyết phục, khiến
cho người khác sanh tâm hoan hỷ, có thể nhiếp thọ
hết thảy chúng sanh.
Các
chứng bệnh của chúng ta, đúng là bệnh, toàn là do tập
khí, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước chẳng
buông xuống được! Người ta cũng biết
nói như vậy, nhưng vẫn chấp trước, vẫn
phân biệt. Phật và Tổ đă giảng rơ ràng như thế.
Cầu Phật, Bồ Tát gia tŕ giúp ta buông xuống. Phật,
Bồ Tát đă sớm gia tŕ, hằng ngày gia tŕ quư vị, nhưng
quư vị chẳng buông xuống được. Bởi lẽ,
chẳng mở rộng tâm lượng của chính ḿnh, niệm
niệm chẳng quên chính ḿnh! Chỗ nhiệm mầu của
kinh Hoa Nghiêm, [thường gọi là] “thắng diệu công đức”, “diệu” là quên mất chính ḿnh, chỉ có chúng
sanh, chẳng có chính ḿnh. Nguyện cho chúng sanh, chẳng có chính
ḿnh, “diệu” là diệu ở
chỗ này! Một trăm bốn mươi mốt nguyện
đều là “nguyện cho chúng
sanh”. Chúng ta phát hiện những nỗi phiền phức
của chính ḿnh rất dễ dàng. Phiền phức là do chẳng
chịu vứt bỏ chính ḿnh! Nếu quên mất chính ḿnh, chính
ḿnh sẽ thành tựu, thành tựu trọn đủ nhân
duyên tu đạo!
Lại
xem câu kế tiếp, tức câu thứ năm:
(Sớ)
Nguyện ư tha ngữ nghiệp măn túc, xảo năng diễn
thuyết, tắc tự thành tựu thập thiện xảo
đức.
(疏)願於他語業滿足巧能演說,則自成就十善巧德。
(Sớ: Nguyện cho người khác ngữ nghiệp
trọn đủ, có thể khéo diễn nói, sẽ thành tựu
mười đức thiện xảo của chính ḿnh).
Trong
phần trước, tôi đă tŕnh bày về mười thứ
thiện xảo, [chúng ta] đă học tập rồi! “Nguyện ư tha ngữ nghiệp
măn túc”, “măn” (滿)
là viên măn, “túc” (足) là
trọn đủ. Viên măn trọn đủ là ǵ? Nói thật
ra, cũng là “thân ngữ ư nghiệp” như trong lời
hỏi nơi phần trước. Trong thân ngữ ư nghiệp,
đặc biệt nhấn mạnh ngữ nghiệp, chúng
ta phải chú tâm lănh hội dụng ư này. Trong kinh Vô Lượng
Thọ, đức Phật cũng xếp ngữ nghiệp
đầu tiên, chẳng giống các kinh luận thông thường.
Kinh luận thông thường đều nói là “thân, ngữ, ư”. Trong phần
trước, Trí Thủ Bồ Tát đă nêu câu hỏi: “Vân hà đắc vô quá thất thân
ngữ ư?” (Làm thế nào để được thân ngữ
ư chẳng lầm lỗi?). Cả mười câu đều
là thân, ngữ, ư, đó là Tổng Thuyết. Ở đây là
Biệt Hiển, đặc biệt nêu ra ngữ nghiệp!
Nói
năng dễ tạo nghiệp nhất! Do đó, Khổng
phu tử giáo học có bốn khoa mục. Thứ nhất là
đức hạnh, thứ hai là ngôn ngữ, cũng là ngữ
nghiệp! Thường nói là “bệnh
tùng khẩu nhập”, quư vị ăn uống này nọ
chẳng cẩn thận, sẽ ngă bệnh! “Họa tùng khẩu xuất”, do nói năng mà vô t́nh
hay hữu ư gieo rắc họa căn, mai sau phải chịu
quả báo. V́ thế, đối với chuyện nói năng,
quư vị thấy những bậc thánh nhân Trung Hoa, Ấn Độ,
không chỉ riêng ở Trung Hoa và Ấn Độ, có thể
nói là cổ thánh tiên hiền của mỗi quốc gia, mỗi
sắc dân trên toàn thế giới, chẳng có vị nào không
coi trọng ngôn ngữ. Kinh Vô Lượng Thọ xếp
chuyện này hàng đầu: “Thiện
hộ khẩu nghiệp, bất cơ tha quá” (khéo giữ
ǵn khẩu nghiệp, chẳng chê bai lỗi lầm của người
khác), nói rất rơ ràng, nói rất minh bạch. Quyết định
chớ nên nói lỗi của người khác. Nói lỗi của
người khác, sẽ là hữu ư hay vô ư kết oán cừu
với người ta, chớ nên không cẩn thận! Sau
khi đă kết oán cừu, sẽ kéo dài đến đời
sau, đời đời kiếp kiếp oan oan tương
báo chẳng hết, chẳng xong! Quư vị nói có đáng sợ
lắm không? Chúng ta xem bài Âm Chất Văn của Văn Xương
Đế Quân, trong phần đầu, Đế Quân đă
tự thuật: Ngài nói Ngài làm sĩ phu mười bảy
đời! Quư vị xem đoạn tự thuật của
Ngài, kết oán cừu với kẻ khác, oan oan tương báo,
báo đền rất thê thảm, mỗi đời một
nghiêm trọng hơn. Về sau, thật sự là do quy y Tam
Bảo mới hóa giải được!
“Nguyện ư tha ngữ nghiệp
măn túc xảo năng diễn thuyết” (Nguyện cho người
khác ngữ nghiệp trọn đủ, có thể khéo diễn
nói). “Xảo” (巧) là thiện xảo. Câu tiếp theo đă nói rơ ràng.
Câu ấy đă hiển thị minh bạch cho chúng ta: Do tu hành
cái nhân trong phẩm Tịnh Hạnh, tâm địa thanh tịnh,
b́nh đẳng, từ bi, có thể bao dung, chẳng ganh tỵ,
chẳng có chướng ngại, mong thành tựu người
khác. Chính v́ tâm thái, thiện tâm, thiện hạnh như vậy
mà chính ḿnh thành tựu mười đức thiện xảo.
Nói cách khác, nếu chính ḿnh chẳng có mười đức
thiện xảo, sẽ chẳng tránh khỏi “thấy người
khác vượt trỗi chính ḿnh, bèn có những phiền năo như
ganh tỵ, sân khuể”, tập khí dấy lên hiện hành rất
dễ dàng! Hễ dấy lên hiện hành th́ là tạo nghiệp;
hễ tạo nghiệp, sẽ bị phiền phức khá lớn.
V́ quư vị chướng ngại thiện pháp của người
khác, đặc biệt là sự nghiệp hoằng pháp lợi
sanh. Nếu quư vị chướng ngại sự nghiệp
ấy, kinh Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo đă
nói về [quả báo ấy] rất rơ ràng!
Những
điều đức Phật đă nói trong kinh đều
là sự thật, chẳng giả! Có hai vị pháp sư giảng
kinh, thuyết pháp, giảng khá lắm, thính chúng rất đông,
người quy y, cúng dường cũng lắm. Người
xuất gia khác thấy vậy, trong tâm khó chịu, dấy ḷng
ganh tỵ. Bịa chuyện nói hai vị pháp sư ấy chỉ
biết nói, chứ không thể làm, bản thân họ chẳng
có đức hạnh, phá giới, phạm giới. [Những
lời bịa đặt, bôi nhọ ấy] khiến cho những
người nghe kinh hiểu lầm pháp sư, không nghe kinh nữa,
xa ĺa họ! Những gă pháp sư bịa chuyện sanh sự
đó đọa trong địa ngục, thọ tội
trong địa ngục. Đầu tiên là địa ngục
Bạt Thiệt (拔舌, kéo lưỡi), tính theo thời gian trong nhân gian là một
ngàn tám trăm vạn năm. Đấy là thời gian tính
theo nhân gian. Thời gian trong nhân gian và địa ngục có
chênh lệch. Ở trong địa ngục, cảm thấy
chẳng biết là bao nhiêu kiếp! Chúng ta cũng có thể
thấu hiểu điều này! Khi một người
đang chịu khổ nạn, đúng là “sống một ngày như sống cả năm”. Cuộc
đời chẳng dễ sống! Sống một ngày bằng
một năm. Một ngàn tám trăm vạn năm trong nhân
gian, chẳng biết là bao nhiêu năm trong địa ngục,
đều luận định theo kiếp. Tạo tội
nghiệp nặng nề ngần ấy, sao lại khổ sở
làm vậy?
V́
sao là tạo tội nghiệp? Nói thật thà, do phạm lỗi
không nghe kinh! Đọc tụng và nghe kinh quan trọng dường
ấy! Nếu quư vị không đọc kinh, không nghe kinh, tức
là chẳng có ai thường xuyên nhắc nhở quư vị.
Phiền năo, tập khí ai nấy đều có. Quư vị ngẫm
xem, tập khí ganh tỵ, tập khí sân hận, tập khí chẳng
thể bao dung nhẫn nại, có thứ nào không có? Bản
thân chúng tôi ngẫm lại chính ḿnh, khi chưa học Phật
th́ có. Rất nghiêm trọng! Sau khi đă học Phật, chính
tôi có kinh nghiệm: Học Phật mười năm đầu
c̣n có những tập khí ganh tỵ, chướng ngại. Học
hai mươi năm, tập khí ấy phai bớt. Có hay không?
Vẫn c̣n có, nhưng rất nhẹ! Thấy người
khác đạt được tiếng tăm lợi dưỡng,
hễ nghe thấy, trong ḷng tôi sẽ rất khó chịu, nhưng
mấy phút th́ chẳng c̣n nữa! Thật sự đến
lúc những tập khí ấy chẳng c̣n nữa, chẳng dấy
lên nữa, bèn sanh tâm hoan hỷ, đối với bản
thân tôi là ba mươi năm sau [mới đạt
được như vậy]. Sau ba mươi năm, chẳng
có ḷng ganh tỵ, thấy người khác có chuyện tốt
đẹp bèn sanh ḷng hoan hỷ. Sanh ḷng hoan hỷ là công
đức, sanh ḷng ganh tỵ là giảm phước! Hằng
ngày nghe kinh, hằng ngày đọc tụng; nói cách khác, Phật,
Bồ Tát hằng ngày nhắc nhở chúng ta. Chẳng nhắc
nhở mỗi ngày, chúng ta sẽ chẳng thể đoạn
tập khí được. Chúng ta đọc Hoa Nghiêm mới
hiểu rơ.
Pháp
Thân Bồ Tát sau khi đă đoạn vô minh, tập tánh vô
minh chẳng đoạn! Đoạn tập khí vô minh như
thế nào? Phải giáo hóa chúng sanh. V́ thế, “giáo học tương trưởng”
(dạy và học giúp nhau tăng trưởng). Hằng ngày
khuyên lơn người khác, khuyên người khác đồng
thời cũng khuyên chính ḿnh. V́ thế, vẫn phải mất
ba đại A-tăng-kỳ kiếp. Khắp pháp giới
hư không giới, nơi nào có duyên, bèn đến thị
hiện nơi đó. Như thế th́ tập khí vô thỉ vô
minh mới thật sự đoạn sạch sành sanh, thành
tựu Phật quả viên măn rốt ráo. V́ thế, chúng tôi
nói “dụng công”; dụng công
ở chỗ nào? Dụng công ở chỗ này, vận dụng
ngay trong cuộc sống thường ngày. Làm việc, xử
sự, đăi người, tiếp vật. Thấy người
khác có chuyện tốt đẹp, bèn chắp tay, tán thán,
hoan hỷ. Khi chính ḿnh có sức, bèn tận tâm tận lực
giúp đỡ, thành tựu người ấy, chẳng có mảy
may ganh tỵ, chẳng có mảy may chướng ngại. Chính
ḿnh chẳng có năng lực, chẳng giúp được,
bèn hoan hỷ tán thán. Nói về phía chính ḿnh, đấy chính
là tích lũy công đức. Nếu tâm lượng nhỏ
nhoi, chẳng thể bao dung, nhẫn nại; nói thật ra, phước
báo do chính ḿnh đă tu tập trong đời quá khứ là hữu
hạn. Do tâm lượng nhỏ nhoi, phước sẽ bị
chiết giảm! Một chuyện chẳng thể bao dung,
nhẫn nại, phước sẽ bị chiết giảm
không ít! Nếu gặp gỡ người khác, lại chẳng
thể bao dung, nhẫn nại; nói cách khác, mỗi năm quư
vị bị chiết giảm bao nhiêu phước? Tâm
lượng nhỏ nhoi, chưa đầy mấy năm, thiện
căn và phước đức do quư vị đă tu tập
trong đời trước đă bị chiết khấu hết
sạch. Đă bị chiết khấu hết sạch, t́nh
cảnh tuổi già sẽ rất khổ. Hưởng hết
phước báo, phước báo đă bị chiết giảm
hết! Chớ nên không biết điều này! Chuyện này
có mối quan hệ thiết thân với chúng ta trong hiện
tiền. V́ thế, tâm lượng nhất định phải
to lớn, nhất định phải là có thể bao dung!
Mười
nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát, lễ kính, tán
thán, rất thù thắng! Lễ kính, tán thán, cúng dường
mà nếu chẳng chấp tướng, sẽ là công đức
thắng diệu. Chấp tướng th́ có thắng, chứ
chẳng có diệu! Không chấp tướng, giáo pháp Đại
Thừa gọi [không chấp tướng] là “tam luân thể không”. Ví như
bố thí, không chấp trước ta có thể bố thí,
cũng không chấp trước ta bố thí những ǵ, mà
cũng không chấp trước, không nghĩ tới người
nào sẽ tiếp nhận ân huệ của ta, thảy đều
không chấp trước, tâm địa thanh tịnh. Làm mà
chẳng làm, chẳng làm mà làm, làm hằng ngày mà như hằng
ngày chẳng làm, chẳng chấp trước, ǵn giữ
tâm địa chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, giác.
Đấy gọi là “thắng
diệu công đức”. A! Đă hết thời gian rồi,
chúng ta nghỉ ngơi mười phút.
***
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời
ngồi xuống. Xin xem tiếp câu thứ sáu:
(Sớ)
Lục, nguyện ư tha đắc thiện ư dục, tẩy
trừ hoặc cấu, tắc tự thành Thất Giác, Tam Không.
(疏)願於他得善意欲洗除惑垢,則自成七覺三空。
(Sớ: Sáu, nguyện người khác được
thiện ư dục, gột rửa các nhơ phiền hoặc,
ắt tự thành Thất Giác, Tam Không).
Nguyện
này hay lắm, giống như trong Luận Ngữ, Phu Tử
đă nói: “Tư vô tà” (Chẳng
nghĩ tà vạy). Ngài nói về kinh Thi: “Thi tam bách thiên, nhất ngôn dĩ tế chi, viết
tư vô tà” (Kinh Thi gồm ba trăm bài, có thể nói chung
bằng một câu là “chẳng nghĩ tà vạy”). V́ thế,
“tư vô tà” biến thành nguyên
tắc cao nhất chỉ đạo sự diễn xuất
truyền thống (nay chúng ta nói là “văn nghệ”) từ xưa
tới nay của Trung Hoa. Thời cổ, ca múa, tuồng hát,
kể cả các môn biểu diễn tạp nghệ[4] nói
chung, đều phải tuân thủ [nguyên tắc] “tư vô tà”, khiến cho người
thấy kẻ nghe đều là thiện ư, tuyệt đối
chẳng khiến cho người ta có các phiền năo tham,
sân, si, mạn. [Nếu dấy lên phiền năo] th́ sai mất
rồi! Nguyện này có ư nghĩa như vậy đó.
V́
vậy, “nguyện ư tha”
(nguyện cho người khác), [“tha” là] hết thảy chúng sanh,
nguyện cho chúng sanh “đắc
thiện ư dục” (có được mong muốn tốt
lành). Hết thảy chúng sanh chẳng ĺa khỏi mười
pháp giới, đều có dục vọng; trong dục
vọng có thiện và ác. Tiêu chuẩn của thiện và ác
là ǵ? Tiêu chuẩn có hai loại, một loại là tương
đối, loại kia là tuyệt đối. Tiêu chuẩn tuyệt
đối là tương ứng với Pháp Tánh. Đó là Thiện.
Trái nghịch Pháp Tánh th́ là Ác. Đấy là tiêu chuẩn tuyệt
đối. Nhưng chúng sanh trong mười pháp giới, tầng
cấp khác nhau; do vậy, tiêu chuẩn thiện ác trong mỗi
pháp giới cũng khác nhau. Trong nhân đạo, thiện là
luân thường bát đức, người Hoa nói là “ngũ luân, ngũ thường,
bát đức”; đấy là tiêu chuẩn của thiện.
Tất cả hết thảy dục vọng của quư vị
có thể tương ứng với điều này, chẳng
trái nghịch luân thường, bát đức, đó là thiện,
là thiện ư dục. Trong Phật pháp, tiêu chuẩn tuyệt
đối, thưa cùng quư vị, chính là Thập Thiện
Nghiệp Đạo. Quư vị thấy trong kinh, đức
Phật đă dạy: Thanh Văn Bồ Đề, Duyên Giác
Bồ Đề, Vô Thượng Bồ Đề, cho đến
thiện pháp nhân thiên, thảy đều nương vào Thập
Thiện Nghiệp Đạo làm cơ sở, làm căn bản.
V́ thế, nó là tiêu chuẩn tuyệt đối, mà cũng là
tiêu chuẩn tương đối. Tiêu chuẩn tương
đối có cùng danh xưng, nhưng cảnh giới trong ấy
có cạn, sâu, rộng, hẹp khác nhau.
Chúng
ta thấy tượng Phật được vẽ, vẽ
theo kiểu này rất nhiều. Trên đỉnh đầu
đức Phật có viên quang, có vẽ viên quang. Trên đỉnh
viên quang, đề ba chữ. Ba chữ ấy có lúc dùng tiếng
Hán để viết, đa số dùng tiếng Phạn, hoặc
dùng tiếng Tây Tạng. Ba chữ ấy là Án, A, Hồng (唵啊吽, Aum, Ah, Hūṃ). Đấy là âm tiếng Phạn, đọc theo âm
tiếng Phạn, có nghĩa là thân, khẩu, ư. Nói thật ra,
ư nghĩa của ba chữ ấy chính là đoạn thứ
nhất trong lời hỏi của Trí Thủ Bồ Tát ở
đây, từ “vân hà đắc
vô quá thất thân ngữ ư nghiệp?” (làm thế nào để
được thân ngữ ư nghiệp không lầm lỗi?)
măi cho đến “vân hà đắc
trí vi tiên đạo thân ngữ ư nghiệp?” (làm thế nào
để được trí làm người hướng dẫn
thân ngữ ư nghiệp?), cả mười câu. Hoàn toàn đạt
được, chẳng có mảy may thiếu khuyết, sẽ
là Phật. Quư vị thấy từ Sơ Phát Tâm cho đến
thành Phật, chẳng ĺa khỏi mười thứ thân ngữ
ư nghiệp này. V́ thế, Sơ Phát Tâm tu pháp môn này, Thập
Trụ Bồ Tát cũng tu pháp môn này. Thập Hạnh, Thập
Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu
Giác, tu ǵ? Thảy đều tu pháp môn này. Quư vị mới biết
vô lượng vô biên pháp môn, thường nói là “tám vạn bốn ngàn pháp môn”
là tu ǵ vậy? Tu điều này! Bởi lẽ đó, Thập
Thiện Nghiệp sâu rộng chẳng có ngằn mé, chẳng
thể xem nhẹ! Cơ sở là nó, mà viên măn cũng là nó.
Đấy là đắc “thiện
ư dục” thật sự.
Chúng
ta nguyện cho người khác thiện, tâm địa của
chính ḿnh nhất định là thiện lương, thiện
tâm, thiện hạnh. Không chỉ là nguyện cho người
khác đắc hết thảy thiện, đắc pháp Thập
Thiện, mà c̣n “tẩy trừ Hoặc
cấu”; “Hoặc cấu” là ǵ? Thập Ác, chúng tôi nói như
vậy, quư vị cũng hiểu rất rơ, và cũng biết
phải nên học tập như thế nào! Phải đoạn
Thập Ác, tập khí của Thập Ác chúng ta đều có.
Chẳng có tập khí của Thập Ác, sẽ không ở
trong lục đạo. Trong ba ác đạo của lục
đạo, tập khí Thập Ác nặng nề nhất. Nhân
đạo nhẹ hơn một tí, thiên đạo càng nhẹ
hơn. Càng lên cao hơn, càng nhẹ! Đến khi nào tập
khí Thập Ác sẽ hoàn toàn chẳng có? Để hoàn toàn chẳng
có mười ác nghiệp th́ phải đạt tới đoạn
Kiến Tư phiền năo, cũng có nghĩa là: Đoạn
hết thảy các chấp trước đối với pháp
thế gian và xuất thế gian, chẳng tạo nghiệp
ấy. Quư vị khởi tâm động niệm sẽ tạo
Thập Thiện, toàn là thiện ư dục, chẳng có ác ư. Chẳng
có ác ư, ác niệm, ác tâm, sẽ là hạng người nào vậy?
Từ A La Hán trở lên. Nhưng A La Hán tuy chẳng có ác niệm,
ác tâm, ác ư, Ngài c̣n có tập khí. Tập khí chẳng dễ
đoạn! Phải hiểu điều này!
Chúng
ta muốn học tập, phải biết thực hiện
từ chỗ nào? Học tập, thật sự dụng công
trong cuộc sống hằng ngày, đều [vận dụng]
trong tiếp xúc đại chúng. Trong tiếp xúc, phải hiểu
điều quan trọng nhất là quan hệ nhân sự, [tức
là] mối quan hệ giữa người và người với
nhau. Quan hệ giữa người và người với
nhau quyết định có duyên phận từ đời
trước, đời quá khứ. V́ sao người xa lạ
này ta chưa từng gặp, lần đầu tiên gặp
gỡ bèn có hảo cảm; c̣n có những người cũng
là lần đầu tiên gặp mặt, trước nay chưa
từng gặp gỡ, lần đầu tiên gặp mặt
đă chẳng thích? Chư vị ngẫm xem, nếu chẳng
có kiếp trước, sẽ giải thích hiện tượng
ấy chẳng suông! Làm sao có thể sanh ra hiện tượng
ấy được? Kiếp trước có thiện duyên
với quư vị, hễ gặp mặt bèn hoan hỷ. Kiếp
trước có chuyện đụng chạm, oan gia, vừa
thấy mặt, liền cảm thấy đáng ghét. Gặp
nhau không khí sẽ chẳng êm đẹp,
lần đầu tiên [gặp mặt], trước nay
chưa từng gặp gỡ! Từ chỗ này, mỗi
người chúng ta đều
có kinh nghiệm này. Từ
chỗ này, quư vị sẽ biết, con người có ba
đời, có quá khứ, có hiện tại, có vị lai.
Người
chẳng học Phật, hoặc là học Phật mà chẳng
khế nhập cảnh giới, luôn thuận theo [nghiệp],
đó gọi là “lưu chuyển
theo nghiệp”, quư vị chẳng
có cách nào hóa giải. Học Phật, sau khi đă khế nhập
Phật pháp, sau khi đă khế nhập cảnh giới, sẽ
hiểu, sẽ có thể như thế nào? Trong tùy duyên mà thành
tựu cả ta lẫn người, giống như một
trăm bốn mươi mốt nguyện ở đây.
Trong quá khứ, bất luận là có thiện duyên hay có ác
duyên [với kẻ khác], chỉ cần có duyên, sẽ có thể
thân cận [người ấy]. Thân cận,
quư vị nhất định phải giúp người ấy
đoạn ác tu thiện. Dẫu là oán thân trái chủ, chúng
ta phải hóa giải oán kết. Người ấy có kèm
theo tập khí! Ví như trong quá khứ chúng ta có vướng
phải chuyện thiếu nợ, người ấy sẽ
tham lợi, suy nghĩ phương cách để lừa gạt
hoặc trộm cắp của quư vị, hoặc dùng thủ
đoạn lường gạt ḥng đoạt lấy tài vật
của quư vị. Sau khi học Phật, chúng ta chẳng có tâm
sân khuể. [Không chỉ là] chẳng sân khuể, mà c̣n đối
với người ấy rất hoan hỷ. V́ sao? Chúng ta
biết có nhân, có quả, đại khái là đời
trước chúng ta thiếu nợ họ, đời này phải
nghĩ [bị họ lường gạt, chiếm đoạt
chính là] trả nợ! Cho người khác mượn tiền,
phải ghi nhớ, từ nhỏ cha mẹ tôi đă dạy:
“Cho người khác mượn tiền, quyết định
chẳng cần đ̣i nợ”. Họ tự động trả
lại quư vị, tốt lắm! Dẫu kẻ đó chẳng
trả lại, chớ nên hỏi nữa. Khi hỏi, bằng
hữu sẽ biến thành oán cừu, đạo lư này rất
sâu. Tiền tài chẳng là ǵ cả, chúng ta có thể có được
một người bạn tốt, điều này rất
khó có!
Dẫu
kẻ khác tổn thương quư vị, hủy báng, lăng
nhục, tổn hại quư vị sau lưng, đều nên
nghĩ là trả nợ, bản thân chúng ta tâm địa sẽ
b́nh lặng. Người khác mách lại: “Kẻ nào đó ở
sau lưng nói này nọ, phê phán quư vị”, chúng ta phải biết
lập tức ngăn chặn, không cho họ mách lẻo:
“Người ấy thường ngày kết giao với tôi
rất tốt, làm sao có thể hủy báng tôi cho được?”
Dẫu hủy báng, ta cũng phủ nhận: “Người ấy
chẳng nói trước mặt tôi”. Bị nói ngay trước
mặt, nếu người khác hỏi đến, [luôn trả
lời]: “Hiểu lầm đấy mà! Hoặc là người
ấy có điều ǵ gây xúc động nhất thời,
quyết chẳng phải là thật”. Nói chung phải nghĩ
ra biện pháp viên măn để giải quyết hài ḥa! Hiện
thời, trên thế giới đang hóa giải xung đột!
Dùng trí huệ, dùng thành ư, sẽ hóa giải được!
Sau khi đă hóa giải, đối phương cảm ơn
quư vị, chớ nên không hiểu đạo lư này! Đặc
biệt là trong xă hội hiện tiền, oan gia nhiều, ân
nhân ít, là do nguyên nhân nào? Nếu quư vị tư duy cẩn thận,
sẽ chẳng khó hiểu! Chúng ta đời đời kiếp
kiếp qua lại với người khác, kết ân huệ
ít ỏi, chứ hữu ư hay vô ư làm mất ḷng kẻ khác, kết
oán nhiều lắm!
Đặc
biệt là trong một thế kỷ gần đây, có thể
nói một thế kỷ là ba thế hệ. Trong xă hội chẳng
nói tới luân lư, đạo đức. Chẳng nói tới
luân lư đạo đức, mọi người qua lại
với nhau, cơ hội kết oán nhiều, kết ân huệ
ngày càng ít. V́ thế, trong xă hội này, chúng ta nh́n từ nhân
quả, [sẽ biết] xă hội từ nay về sau ngày càng
loạn. Nguyên nhân là do giáo dục luân lư đạo đức,
giáo dục tôn giáo, giáo dục tín ngưỡng nhân quả chẳng
có, ngày càng mỏng manh, phai nhạt! Ai nấy đều tùy
thuận tập khí phiền năo của chính ḿnh, tạo tác hết
thảy ác nghiệp, chẳng biết có quả báo. Chuyện
này phiền phức hơn bất cứ ǵ khác, đấy
chính là nghiệp nhân thật sự khiến cho xă hội động
loạn. Nay chúng ta đề xướng giáo dục luân lư
đạo đức, giáo dục nhân quả, và giáo dục
tôn giáo để cứu những thứ ấy, chẳng phải
là [cứu văn] từ căn cội, mà là dụng công nơi
duyên. Cái nhân thật sự là chính ḿnh phải giác ngộ, chẳng
tạo ác nghiệp; đấy là [dụng công] từ cái nhân,
nhân mới là căn bản.
Chúng
ta suốt đời đối xử tốt với người
khác, gặp phải kẻ đối xử với ta chẳng
ra ǵ, ta vẫn đối xử tốt đẹp đối
với họ, oán kết mới có thể hóa giải. Sau
khi đă hóa giải, nếu đời sau mà thế giới
này động loạn, chúng ta sẽ chẳng bị sanh vào
thế giới này. V́ sao? Nghiệp khác nhau. Chúng ta là tâm
địa thuần tịnh thuần thiện, chẳng có
ác niệm, chẳng có oan gia đối đầu, quư vị
sẽ sanh sang một thế giới tương ứng, thế
giới ấy có thể là thiên đạo! Nhân gian loạn
lạc, thiên đạo vẫn chưa loạn, huống hồ
cơi trời có rất nhiều tầng cấp. Kinh Phật nói
hai mươi tám tầng trời, tùy thuộc tâm hạnh của
chính chúng ta, trong tương lai tương ứng với
thiên đạo nào, sẽ tự nhiên đi vào đó. V́ thế,
lục đạo luân hồi chẳng có ai làm chúa tể, mà
là do nghiệp cảm. Thiện nghiệp cảm thiện xứ,
ác nghiệp cảm ác xứ, đạo lư là như thế đó.
Người thật sự hiểu rơ ràng, hiểu minh bạch
nhân quả, bất luận ở trong hoàn cảnh nào, tâm sẽ
định, chẳng loạn. Tâm địa là thanh tịnh,
tâm địa là từ bi, trong tâm địa tuyệt đối
chẳng có mảy may oán hận, đúng là “tẩy trừ hoặc cấu” (gột rửa bụi
nhơ mê hoặc). “Hoặc”
(惑) là mê hoặc, “cấu” (垢) là phiền
năo, đương nhiên là như vậy sẽ đắc “thiện ư dục”. V́ dục
vọng đều là thiện, đều là thanh tịnh,
cho nên chính ḿnh thành tựu “Thất
Giác, Tam Không”. Câu thứ bảy…
(Sớ)
Thất, nguyện ư tha sở tác giai biện, cụ
chư Phật pháp, tắc tự thành măn Bồ Đề hạnh
đức.
(疏)七願於他所作皆辦具諸佛法,則自成滿菩薩行德。
(Sớ: Bảy là nguyện cho người khác các
việc làm đều hoàn thành, đầy đủ Phật
pháp, sẽ thành tựu viên măn hạnh đức Bồ
Đề của chính ḿnh).
Mười
câu này đúng là chúng ta xử sự, đăi người tiếp
vật, là mười điều nguyên tắc ắt phải
tuân thủ. Niệm niệm nguyện cho hết thảy chúng
sanh “sở tác giai biện”
(việc làm đều hoàn thành), nay chúng ta nói là “mọi sự như ư”. Chuyện
này tốt lắm! Sau đấy c̣n có “cụ chư Phật pháp” (đầy đủ các
Phật pháp), mọi chuyện
đều là thiện sự, quyết định chẳng
có ác hạnh. Quyết định chẳng có hành vi ác, v́ đă
“cụ chư Phật pháp”. “Cụ” (具) là trọn đủ, Phật pháp là ǵ? Phật pháp
là pháp “giác, chánh, tịnh”; giác
chứ không mê, chánh chứ không tà, tịnh chứ không nhiễm.
Nói cách khác, chư Phật nói theo giáo tướng sẽ là Thập
Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập
Địa, Đẳng Giác, bốn mươi mốt địa
vị ấy đều là Phật. Bồ Tát thuộc địa
vị Thập Tín, Sơ Trụ là thành Phật.
“Cụ chư Phật pháp”, mọi
chuyện như ư, trong pháp thế gian, bất luận trong
cuộc sống hằng ngày, sống ở nhà, quư vị làm
bất cứ nghề nghiệp ǵ trong xă hội. Qua năm
mươi ba lần tham học của Thiện Tài ở cuối
kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy năm mươi ba vị thiện
tri thức, nam, nữ, già, trẻ, các nghề nghiệp
đều có, biểu thị điều ǵ? Biểu thị
trong xă hội hiện thực, bất luận quư vị là
thân phận ǵ, bất luận quư vị theo đuổi nghề
nghiệp ǵ, chỉ cần quư vị giác chứ không mê, chánh
chứ không tà, tịnh chứ chẳng nhiễm, sẽ là Bồ
Tát, là Phật. Đấy là “cụ
chư Phật pháp”. Có thể nguyện như vậy hướng
về hết thảy chúng sanh, lẽ nào chính ḿnh chẳng
thể thành tựu? Chính ḿnh nhất định sẽ thành
măn, [tức là] không chỉ thành tựu, mà c̣n [thành tựu] viên
măn! “Bồ Tát hạnh đức”:
Bồ Tát hạnh là Lục Độ, Tứ Nhiếp. Viên
măn Lục Độ, Tứ Nhiếp, quư vị sẽ thấy
thành tựu viên măn. Thành tựu viên măn Bồ Tát hạnh, sẽ
“nhập Trụ vị”, tức
là dự vào hàng Sơ Trụ. Viên măn hạnh Thập Tín bèn nhập
Sơ Trụ, Sơ Trụ là thành Phật. Đối với
Thập Tín Bồ Tát, trong phần trước, chúng tôi đă
nói rất nhiều, chư vị phải ghi nhớ.
Các
đồng học Tịnh Tông, chúng ta tu học năm khoa
mục, đúng là “giản, yếu,
tường, minh”, [nghĩa là] đơn giản, trọng
yếu ngắn gọn, mà cũng rất đầy đủ,
rành mạch, rất dễ nhớ! Tịnh Nghiệp Tam
Phước, Lục Ḥa Kính, Tam Học Giới Định Huệ,
Lục Độ, mười nguyện Phổ Hiền, xét
theo hạnh môn chính là hạnh đức của Tịnh Tông,
bao gồm năm khoa mục ấy! Năm khoa mục ấy
trọn đủ Bồ Tát hạnh, học từ chỗ
nào? Từ Tịnh Nghiệp Tam Phước, từ Lục
Ḥa Kính, thực hiện từ chỗ này! Tịnh Nghiệp
Tam Phước hoàn toàn là đối với chính ḿnh, nhằm
thành tựu “tự đức”
(自德, đức hạnh
của chính ḿnh). Lục Ḥa Kính là sống chung với mọi
người, cư xử với đại chúng, chúng ta nói
là “chung sống ḥa thuận”.
Cơ sở để chung sống ḥa thuận nhất
định là đối đăi b́nh đẳng; bất b́nh
đẳng sẽ chẳng có ḥa thuận. V́ thế, người
Hoa nói “ḥa b́nh”, Ḥa là quả,
B́nh là nhân. Người Nhật nói tương phản với
người Hoa. Người Hoa nói ḥa b́nh, người Nhật
nói B́nh Ḥa, có lư lắm. Họ đă đặt nhân ở
trước, quả ở đằng sau, c̣n người
Hoa nói quả ra trước, nhân ở sau, là v́ mọi người
thích cái quả, lại c̣n hết sức coi trọng. Quư vị
thấy cái quả tốt đẹp, lại nói với quư
vị về cái nhân, Phật pháp cũng là như thế. Trong
những điều đức Phật đă nói, nhất
định là trước hết nói về quả, sau đó
nói về nhân. Ví như nói Tứ Đế, Khổ là quả
báo, Tập là nhân, chính là nhân quả thế gian. Diệt là quả,
Đạo là nhân, xuất thế gian. Do vậy, thường
là đức Phật nói điều ǵ, nhất định
là nói quả trước, sau đó nói đến nhân.
Do
vậy, đối với cách nói của người Nhật,
tôi thấy vậy cũng rất hoan hỷ. Họ nói B́nh Ḥa,
[hàm ư] có b́nh đẳng th́ mới có ḥa thuận; chẳng
có b́nh đẳng, chắc chắn là chẳng có cư xử
ḥa thuận. Trước hết, chúng ta phải dùng tâm b́nh
đẳng để nh́n hết thảy người, sự,
vật; sau đấy, sẽ tự nhiên cư xử ḥa thuận.
B́nh đẳng quan trọng lắm, trong các buổi giảng,
chúng tôi đă nói điều này quá nhiều! Thực hiện
từ chỗ nào? Thực hiện từ chỗ sâu thẳm
trong nội tâm. Hóa giải sự đối lập với
hết thảy mọi người từ chỗ sâu thẳm
trong nội tâm của chính ḿnh. Đối với sự
đối lập cùng hết thảy sự, đối lập
cùng hết thảy vạn vật, hăy hóa giải đối
lập, đấy là công phu, tâm b́nh đẳng sẽ hiện
tiền. Chỉ cần đối lập với một pháp,
tâm b́nh đẳng sẽ chẳng thể hiện tiền. Tâm
b́nh khí ḥa mà! Hễ có đối lập, tâm sẽ chẳng
b́nh, khí sẽ chẳng ḥa, đấy là công phu. Chư Phật,
Bồ Tát tu điều này, hết sức nghiêm túc tu tập
môn công khóa này!
Trong
Pháp Tướng Tông có nói “tám thức, năm mươi mốt
Tâm Sở”, đương nhiên quan trọng nhất là tám thức,
chúng được gọi là Bát Tâm Vương. A Lại Da
được gọi là Tạng Thức, [v́ nó] chứa
đựng chủng tử, điều này rất khó hiểu!
Rốt cuộc A Lại Da Thức ở chỗ nào? A Lại
Da, Mạt Na, Ư Thức đều chẳng có h́nh tướng,
chẳng phải là vật chất, nhưng chúng thật sự
có. Có ở chỗ nào vậy? Quư vị chẳng t́m thấy,
chẳng nh́n thấy, chẳng nghe thấy, mà cũng chẳng
lắng nghe thấy, cũng chẳng sờ thấy, nhưng
nó là thật sự có. Mỗi cá nhân, nói thật ra, A Lại
Da Thức là một, lại có sai khác, thứ này lạ lùng
thay! Nói chung là một Thể, “sai
biệt” là mỗi người đều có. A Lại Da
giống như một cái kho tài liệu. Cái kho tài liệu ấy
là một, nhưng trong kho tài liệu, mỗi cá nhân đều
có hồ sơ riêng! Chúng ta đời đời kiếp kiếp
khởi tâm động niệm, hết thảy tạo tác thảy
đều có ghi chép. Những ghi chép ấy là ǵ? Chúng ta
thường nói là “ấn
tượng”. Như mấy năm trước, chúng ta
đă làm chuyện ǵ đó, quư vị có c̣n ấn tượng
hay không?
Giống
như mấy hôm nay, do chúng tôi biếu tặng Đại Tạng
Kinh, tôi nghĩ đến giảng đường Quang Minh
ở phố Lam Đường. Ba mươi năm
trước, năm 1977, tôi đến đó giảng kinh Lăng
Nghiêm hai tháng, pháp duyên hết sức thù thắng. Tôi ở đó
hai tháng, phải nên tặng họ một bộ Đại
Tạng Kinh. Tôi cậy người đến đó hỏi
ư pháp sư Đằng Duyệt, họ cho tôi biết, pháp
sư Đằng Duyệt đă khuất núi chín năm rồi,
chúng tôi chẳng biết chút ǵ! Tuổi Sư chẳng chênh
lệch với tôi cho mấy. Những vị xuất gia ở
Hương Cảng vào ba mươi năm trước, những
bạn bè cũ, một nửa đă khuất bóng! “Thế gian vô thường, quốc
độ mong manh”, đức Phật dạy như vậy!
Nghĩ lại Hương Cảng ba mươi năm
trước và các đồng tu ba mươi năm trước,
ấn tượng rất sâu đậm, tưởng
tượng giống như ngày hôm qua. Đấy là ǵ? Lôi [hồ
sơ] từ trong kho tài liệu của A Lại Da Thức ra,
hiện tượng ấy lập tức nổi lên ngay
trước mặt. Nó thật sự có; nếu chẳng phải
là như vậy, làm sao quư vị có thể nhớ chuyện
ba mươi năm trước? Vậy th́ A Lại Da rốt
cuộc ở chỗ nào?
Phật
pháp nói khắp pháp giới hư không giới là một A Lại
Da, một Mạt Na, một ư thức, điều này chẳng
dễ hiểu! Nếu chúng ta hỏi, hiện thời khoa học
kỹ thuật phát triển, quư vị có biết trong hư
không có bao nhiêu sóng điện? Rất nhiều! Trong sóng điện
có bao nhiêu tài liệu? Ngẫm ra, vô lượng vô biên. Quư vị
thấy cái computer, nối vào Internet, quư vị nhấn một
nút, thứ này thứ nọ sẽ hiện ra, rốt cuộc
tàng trữ ở nơi đâu? Trong hư không! Khoa học có
thể giúp chúng ta lư giải rốt cuộc A Lại Da là ǵ.
Kho tài liệu ấy giống như toàn thể hư không,
toàn thể hư không là một. Hết thảy chúng sanh có cùng
một A Lại Da, nhưng mỗi cá nhân có tài liệu riêng,
tài liệu là cá biệt. Tài liệu ấy chẳng ĺa khỏi
hư không.
V́
thế, người đắc Lục Thông, người có
công phu cao minh, có thể nhận tài liệu của quư vị,
trong Cao Tăng Truyện có chép chuyện này. Xác thực là có
người có năng lực như vậy, có thể lôi hồ
sơ của quư vị ra, hay khéo tột bậc! Những văn
tự do quư vị đă viết, đều chẳng c̣n nữa,
đă quên tuốt, người ấy có cách lấy những
văn tự ấy cho quư vị xem. Xác thực là do quư vị
viết, quư vị đă học hành từ bao nhiêu năm đă
viết ra. Chính ḿnh chẳng có bản thảo, cớ sao người
ấy có thể lấy ra? Người ấy đă lấy
hồ sơ từ trong A Lại Da Thức của quư vị,
giống như computer hoặc máy fax trong hiện thời, hạ
tải (download) văn tự của quư vị. Hiện thời,
c̣n tinh vi hơn nữa, toàn thể sắc tướng và văn
tự đều có thể lấy ra!
A
Lại Da, Mạt Na, ư thức là hư không, không chỗ nào
chẳng tồn tại, không lúc nào chẳng tồn tại.
Quư vị hiểu rơ đạo lư này, chúng ta khởi tâm
động niệm có nên cẩn thận hay không? Quư vị dấy
lên thiện niệm, sẽ lưu trong hồ sơ. Dấy
ác niệm, cũng lưu lại. Đức Phật dạy:
“Muôn thứ chẳng mang
được, chỉ có nghiệp theo thân”, những thứ
ấy có thể mang theo được, đời đời
kiếp kiếp chẳng ĺa bỏ quư vị. Trong A Lại
Da Thức, chủng tử của mười pháp giới thảy
đều trọn đủ. V́ thế, đối với
Thân Nhân Duyên, ai nấy đều như nhau. Những thứ
khác, tức Sở Duyên Duyên, Vô Gián Duyên, và Tăng Thượng
Duyên, mỗi người mỗi khác! Thân Nhân Duyên là như
nhau, hoàn toàn ở trong A Lại Da, ở ngay trong hư không
pháp giới. Hư không pháp giới to cỡ nào, A Lại Da
to cỡ đó. V́ sao? Hư không pháp giới do chính A Lại
Da biến ra. Hiện thời, chúng ta dùng sóng điện từ,
quư vị thấy trên thế giới có bao nhiêu địa
chỉ Internet. Những thứ ấy, sóng điện từ
đều ở trong hư không. Quư vị chỉ cần nối
vào địa chỉ ấy, sẽ có thể hạ tải
tài liệu của nó. Hăy suy nghĩ từ chỗ này, rất
gần gũi!
Khi
quư vị đă biết, cái tâm của chúng ta, chân tâm và vọng
tâm của chúng ta to như nhau! Chân tâm là giác chứ không mê, vọng
tâm là mê mà bất giác, sai biệt ở ngay chỗ này. Chân và
vọng chẳng hai. V́ thế, chư Phật, Bồ Tát có
năng lực hạ tải tài liệu từ trong A Lại
Da Thức của chúng ta. Các tài liệu từ vô thỉ kiếp
tới nay, các Ngài đều có thể hạ tải, các Ngài
biết quư vị đời đời kiếp kiếp đă
làm những ǵ. V́ thế, chẳng có ǵ mà ḥng có thể giấu
giếm, che đậy khiến cho kẻ khác chẳng biết!
Chẳng có lẽ ấy! Trong tương lai, khi chúng ta đào
thải hết sạch tập khí phiền năo, sẽ khôi phục
năng lực ấy. Đối với tài liệu trong A Lại
Da Thức của hết thảy chúng sanh khắp pháp giới
hư không giới, chúng ta cũng có thể bất cứ lúc
nào rút ra toàn bộ để xem. Trong ấy, chẳng có bí mật,
mà cũng chẳng có quyền uy đặc biệt nào! Ai có
năng lực mở cánh cửa ấy, sẽ đều
thấy toàn bộ. Chỉ cần diệt trừ chướng
ngại, chướng ngại là vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước. Quư vị diệt trừ một
ải, sẽ thấy một phần. Điều thứ
nhất là chấp trước. Nếu chẳng có chấp
trước, quư vị đă mở được cửa,
sẽ thấy được một phần, trong kinh
đức Phật đă dạy như vậy. Năng lực
của A La Hán có thể biết năm trăm năm trong quá
khứ, năm trăm năm trong vị lai. Nói cách khác, đối
với chuyện năm trăm năm trong quá khứ của
ta, A La Hán có thể thấy hồ sơ ấy. Chuyện trong
năm trăm năm vị lai, Ngài cũng biết, nhân quả
tuần hoàn!
Bất
quá ở đây là trong định số có biến số,
biến số ấy luôn luôn biến đổi, cộng,
trừ, nhân, chia! Do điều ǵ vậy? Gặp duyên bất
đồng. Gặp Phật pháp, thiện biến thành nhiều,
ác biến thành ít. Chẳng gặp Phật pháp, thiện giảm
ít, ác biến thành nhiều. Cộng, trừ, nhân, chia; do vậy,
gặp gỡ Phật pháp có tầm trọng yếu dường
ấy! Duyên ấy rất khó gặp, trong kinh, đức Phật
thường nói: “Thân người
khó được, Phật pháp khó nghe”. Thật sự gặp
duyên phận tốt như vậy, “bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ” (trăm ngàn
vạn kiếp khó gặp gỡ) là lời thật, chớ
nên khinh thường, bỏ lỡ! Hăy nghiêm túc nỗ lực
học tập, nhất định phải thành tựu,
thành tựu thắng diệu công đức ngay trong một
đời này, như vậy th́ chúng ta sẽ chẳng luống
uổng một đời này!
Thắng
diệu công đức, hiện tiền quư vị có thể
hưởng thụ, hưởng thụ ǵ? Diện mạo
từ bi, an lành, thân thể khỏe mạnh, quư vị sẽ
sống hết sức vui sướng. Chẳng cần phải
giàu có, kẻ giàu có tuy giàu nhưng chẳng vui. Chẳng cần
giàu có, [cần] vui sướng. Thân thể nhất định
khỏe mạnh, Thích Ca Mâu Ni Phật mỗi ngày ăn một
bữa, cũng chẳng chọn lựa ǵ, đi khất thực,
cho ǵ ăn nấy, thân thể càng ăn càng khỏe, dung mạo
ngày càng sáng ngời. Đạo lư ǵ vậy? Trong quá khứ,
tôi ở Đài Trung theo thầy Lư mười năm, thầy
mỗi ngày ăn một bữa, ở một ḿnh trong căn
nhà nhỏ. Căn nhà ấy tại Đài Loan rộng mười
lăm B́nh, một B́nh (坪) là ba thước vuông. Mười lăm B́nh là bốn
mươi lăm mét vuông, rất nhỏ, sống một ḿnh. Giặt quần áo, nấu cơm, đều
là tự ḿnh, chẳng có ai hầu hạ. Cụ cũng cự
tuyệt, chẳng cần ai chăm sóc. Chín mươi
lăm tuổi, thầy mới phát từ bi tâm, cho phép hai học
tṛ chăm sóc cụ. Trước lúc chín mươi lăm tuổi,
toàn là tự ḿnh nấu cơm, tự ḿnh giặt quần
áo, vui sướng! Chứng tỏ điều ǵ? Thân thể
khỏe mạnh, chín mươi lăm tuổi vẫn có thể
giặt quần áo, vẫn có thể nấu cơm.
Cụ
ăn uống rất đơn giản. Một cái nồi
nhỏ, đem theo một chiếc nồi nhỏ. Cơm và
thức ăn đựng chung với nhau, nồi là nó, mà chén
cũng là nó, chẳng cần phải rửa cái thứ hai.
Nấu xong xuôi, ăn xong, rửa một cái nồi là sạch
sẽ rồi! Sạch sẽ gọn gàng, đơn giản
lắm thay! Suốt đời cụ ăn rau xanh, đậu hủ, thân thể khỏe mạnh,
chẳng ai có thể sánh bằng! Tôi theo học với cụ,
cũng bắt chước ăn một bữa. Tôi ăn
suốt năm năm, giống như cụ, hoàn toàn học
theo cụ. Nhưng tôi ăn nhiều hơn cụ, mỗi
bữa, tôi ăn nhiều hơn cụ. Mỗi bữa của
cụ hai đồng là đủ rồi, mỗi bữa của
tôi phải tốn ba đồng. Vui sướng lắm! Kẻ
b́nh phàm chẳng có cách nào tưởng tượng chuyện
này. Đấy gọi là “Khổng
Nhan chi lạc” (niềm vui của Khổng Tử và Nhan
Hồi). Xưa kia, người đọc sách thường
nói đến niềm vui của Khổng phu tử và Nhan Hồi
là ở chỗ nào? “Học nhi
thời tập chi, bất diệc duyệt hồ?”
Người thế gian chẳng thấu hiểu niềm
vui ấy, người thế gian coi điều ǵ là lạc?
Ngũ dục lục trần là lạc. Ngũ dục lục
trần tiêu hao tinh lực, giảm thiểu phước
báo. Niềm vui của Phật, Bồ Tát và các vị thánh hiền
mới là chân lạc; chẳng nhập cảnh giới ấy,
sẽ không có cách nào tưởng tượng được!
Từ
chỗ này, chúng tôi nghĩ cổ nhân đă nói: “Bệnh tùng khẩu nhập, họa
tùng khẩu xuất”, đấy là chân lư! Nếu quư vị
muốn khỏe mạnh, ăn uống càng thanh tịnh, càng
đơn giản càng hay. Đấy là khỏe mạnh nhất,
nhưng tâm càng [cần phải] thanh tịnh. Tâm chẳng thanh
tịnh, quư vị sẽ làm không được, chớ nên
không hiểu đạo lư này! Thân thể con người là
một cỗ máy, cỗ máy cần năng lượng
để hoạt động. Ăn uống là bổ sung năng
lượng. Thân thể mỗi cá nhân có kẻ th́ tiêu hao
năng lượng, có kẻ th́ tiết kiệm năng
lượng. Nói chung, người tu hành rất tiết kiệm
năng lượng. Đối với chuyện tiêu hao năng
lượng, tôi đă thảo luận vấn đề này
với thầy Lư, tôi nêu ư kiến, thầy đồng ư, ấn
chứng cho tôi! Tôi cho rằng tiêu hao năng lượng, chín
mươi phần trăm là bị tiêu hao bởi vọng
niệm. Nói cách khác, vọng niệm càng ít, tiêu hao năng
lượng càng ít. V́ thế, thầy ăn một bữa đủ
rồi. Người tu hành ăn một bữa. Chư vị
phải biết: A La Hán bảy ngày ăn một bữa, Bích
Chi Phật nửa tháng ăn một bữa, tức là
mười bốn ngày ăn một bữa. V́ sao? Ngài tiêu
hao ít ỏi! [Dẫu ăn ít] vẫn đủ! Ăn một
bữa, có thể no suốt tuần, tiêu hao năng lượng
ít! Kẻ b́nh phàm ngày ăn ba bữa vẫn chẳng đủ,
vẫn phải ăn mấy thứ lót dạ. Đó là ǵ?
Lượng tiêu hao quá lớn; nếu họ chẳng bổ
sung, sẽ ngă bệnh. Quư vị chớ nên không hiểu đạo
lư này!
Lượng
tiêu hao ấy, phải là chín mươi lăm phần trăm
bị tiêu hao nơi vọng niệm. Người tu hành tâm
thanh tịnh, chẳng có vọng niệm, cho nên lượng
tiêu hao rất ít. Công việc không tiêu hao [năng lượng]
nhiều lắm! Tôi nh́n vào thầy Lư, tôi cẩn thận quan
sát lăo nhân gia, khi tôi theo Ngài, lăo nhân gia đă bảy
mươi mốt tuổi, đă vào khoảng hơn bảy
mươi tuổi. Lượng công việc của cụ
bằng với khối lượng công việc của năm
người b́nh phàm! Quư vị đến Đài Trung, muốn
gặp cụ, nhất định là phải liên lạc
trước đó một tuần, cụ sắp xếp thời
gian để tiếp kiến quư vị. Chứ quư vị đột
ngột đến t́m cụ, tuyệt đối sẽ chẳng
t́m thấy, thời gian của cụ đầy ắp. Bận
rộn ngần ấy, mỗi ngày ăn một bữa! Tôi
quan sát từ chỗ này, mới hiểu năng lượng
không tiêu hao do công việc. Công việc tiêu hao năng lượng
chẳng nhiều cho mấy, vọng niệm tiêu hao quá nhiều.
Tôi nêu lên cách nh́n này, thầy gật đầu: “Đúng!” Ấn
chứng cho tôi, cách nh́n ấy chánh xác. V́ thế, chúng ta hăy tận
hết sức giảm thiểu vọng tưởng, ăn
một bữa sẽ ăn rất thoải mái, lại c̣n ăn
hết sức đơn giản. Thầy Lư là người
Sơn Đông, thích ăn ḿ. Mỗi bữa cơm nấu một
bát canh, thức ăn và canh nấu chung, thành một chén, [kèm
thêm] hai cái mạn đầu (bánh bao không nhân). Tôi cũng học
theo cụ, nhưng tôi phải ăn ba cái mạn đầu,
hai cái không đủ, cho thấy tâm tôi chẳng thanh tịnh
như cụ. Lượng công việc của cụ nhiều
hơn tôi, cụ ăn ít hơn tôi! Hiểu đạo lư
này, quư vị sẽ không thấy lạ lùng!
Ăn
uống ít, chẳng phải cầu cạnh ai, cuộc sống
dễ dàng, đơn giản! Cổ nhân đă dạy: “Nhân đáo vô cầu, phẩm tự
cao” (Con người đạt đến mức không
mong cầu, phẩm hạnh tự cao), chẳng cầu cạnh
người ta. “Ư nhân vô
tranh, ư thế vô cầu” (Chẳng tranh giành với người
khác, chẳng cầu cạnh cơi đời), đấy là sự
hưởng thụ cao nhất trong cuộc đời. Có cầu,
có tranh, vất vả quá, lắm nỗi bận ḷng, mệt
lắm! Đời người khổ sở, ngắn ngủi,
làm chuyện ấy để làm chi? Toàn làm những thứ
ở ngoài thân, chẳng mang theo được ǵ! V́ thế,
nhất định phải giác ngộ, chẳng giác ngộ
sẽ sai mất rồi. Do đó, nguyện cho chúng sanh mọi
chuyện như ư, đều có thể tương ứng với
giáo huấn của đức Phật, Bồ Tát hạnh của
chính ḿnh sẽ có thể thành tựu. Cũng chỉ có Bồ
Tát hạnh thành tựu th́ mới có tâm lượng ấy.
Tự và Tha xác thực là một, chẳng hai! A! Hôm nay đă
hết thời gian rồi, chúng tôi nói tới chỗ này!
Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười một, Tịnh Hạnh
Phẩm,
Phần 17 hết
[1] Đại Thừa
Bồ Tát tuy có tâm hạnh rộng răi lợi tha, nhưng
chưa đạt đến mức trọn khắp pháp giới
hư không giới như Phổ Hiền Bồ Tát. V́ vậy,
tuy nói là có hạnh lợi tha, vẫn có chỗ không trọn
vẹn. Do đó, mới nói là “tuy
nói là có, nhưng vẫn ẩn giấu cái không”. “Cái không”
ở đây chính là không thể độ trọn khắp hết
thảy chúng sanh trong pháp giới hư không giới.
[2] “Pháp quyển” là một quyển
sách thường ghi bài kệ phó pháp do thầy trao cho tṛ. Thứ
này thoạt đầu là sự ấn chứng của thầy
đối với sự giải ngộ của tṛ; về
sau, chỉ c̣n h́nh thức. Gần như là sau này, khi tṛ
đă đủ chững chạc, đủ tuổi để
đi làm trụ tŕ, hoặc giảng sư, thầy bèn trao
cho một bài kệ “phó pháp” nhằm nêu bày ư nghĩa của
pháp hiệu, thể hiện ḷng kỳ vọng của thầy
đối với tṛ, chứ không c̣n là sự ấn chứng
tṛ đă thật sự chứng ngộ hoặc thầy
trao truyền kinh nghiệm tâm đắc của chính ḿnh như
thuở trước.
[3] Chúng tôi ghi
đúng như nguyên bản, câu này lẽ ra phải là “tự quy y Pháp…”
[4] Nguyên văn là “tạp
sái” (雜耍), hay c̣n gọi
là Tạp Kỹ, Tạp Nghệ, có nghĩa gốc là những
tṛ biểu diễn tung hứng, đi trên dây, nhào lộn
trên không trung, nhảy múa trên bàn chông, uốn dẻo, co rút thân
ḿnh, nuốt dao, nuốt lửa v.v…. Nếu hiểu theo
nghĩa rộng, biểu diễn vơ thuật của giới
giang hồ (ta thường gọi là Sơn Đông măi vơ), ảo
thuật, những màn hài hước đều được
gọi chung là Tạp Nghệ.