Đại Phương
Quảng Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười
một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 18
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Địa điểm: Hương Cảng Phật
Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ ngày mồng Bảy tháng
Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ Trang và Minh
Tiến
Tập
1497
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin
xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười một, đoạn
thứ ba trong phần chú giải của Thanh Lương
đại sư, “nguyện sở
vi cảnh thành lợi ích” (願所為境成利益, các lợi
ích được tạo thành từ các cảnh để
thực hiện nguyện). [Xin xem] câu thứ tám trong phần
Biệt Hiển. Chúng tôi đọc kinh văn một lượt.
(Sớ) Nguyện ư tha xả
chúng tụ pháp, thành Nhất Thiết Trí, tắc tự thành
tựu Như Lai thập chủng trí lực.
(疏)願於他捨眾聚法成一切智,則自成就如來十種智力。
(Sớ:
Nguyện cho người khác bỏ các tụ pháp, thành Nhất
Thiết Trí, nên chính ḿnh thành tựu mười thứ trí lực
của Như Lai).
Ba chữ “nguyện ư tha” (nguyện cho người khác) ở
đằng trước [câu Sớ trên đây] chính là câu “đương nguyện chúng sanh”
(nguyện cho chúng sanh) trong một trăm bốn
mươi mốt nguyện. Câu thứ hai trong mỗi nguyện
hoàn toàn giống nhau, [tức là câu] “đương nguyện chúng sanh”. Cảnh giới
[của mỗi nguyện đều] là hết thảy chúng
sanh trong khắp pháp giới hư không giới. Đấy
là “nguyện ư tha”. Bỏ
các tụ pháp th́ mới có thể thành Nhất Thiết Trí, Nhất
Thiết Trí là nói đến điều ǵ? Đây là kiến
thức thông thường trong Phật học, chúng ta nhất
định phải hiểu minh bạch, hiểu rơ ràng.
Trong chữ Phật, bao hàm ba loại trí và ba loại giác. V́
thế, chữ Phật chẳng dễ phiên dịch, chỉ
đành dùng cách phiên âm. Đây là [từ ngữ thuộc loại]
“do chứa đựng nhiều
nghĩa, nên không dịch”. Nếu chúng ta dịch thành Trí,
hoặc dịch thành Giác, cố nhiên là không sai, nhưng chữ
Trí trong tiếng Hán chẳng có ư nghĩa ấy, chẳng có
ba loại ư nghĩa ấy. Chữ Giác trong tiếng Hán cũng
chẳng có ba loại ư nghĩa ấy. V́ thế, chẳng
thể không dùng cách phiên âm. Ba thứ trí là Nhất Thiết
Trí, Đạo Chủng Trí, và Nhất Thiết Chủng Trí.
Trong chữ Phật Đà có ba loại trí ấy. Ba thứ
giác là tự giác, giác tha, và giác hạnh viên măn. Trí và Giác trong
tiếng Hán đều chẳng có ba ư nghĩa ấy!
Nhất Thiết Trí là biết
bản thể của các pháp. Phật pháp nói đến Tổng
Tướng, Tổng Tướng là ǵ? Tổng Tướng
là Không. V́ vậy, “thành Nhất
Thiết Trí” là biết hết thảy
các pháp rốt ráo đều là Không. Trong Phật môn thường
nói “vạn pháp giai Không” (muôn
pháp đều là Không), chữ Vạn này chẳng phải
là một con số, mà Vạn là “hết
thảy các pháp”. Hết thảy các pháp thế gian và xuất
thế gian “Tướng có, Thể không, Sự có, Lư không”.
Kinh Bát Nhă đă giảng đạo lư
này hết sức thấu triệt! Tổng kết của
kinh Bát Nhă là như trong kinh Kim Cang đă nói rất hay. Người
Hoa rất quen thuộc kinh này, bất luận học Phật
hay không học Phật, người đọc sách xưa
kia, chẳng có ai nói “tôi chưa từng đọc kinh Kim
Cang”. [Nếu có], những người như vậy rất
ít! Người đọc sách tối thiểu là trong đời
này cũng đă đọc mấy thiên! Kinh Kim Cang dạy: “Phàm những ǵ có h́nh tướng
đều là hư vọng”, đấy là Nhất Thiết
Trí. Sau đấy, [trong phần sau của kinh Kim Cang] có bốn
câu kệ hết sức nổi tiếng; đấy
cũng là tổng kết của kinh Bát Nhă: “Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng, huyễn,
bào, ảnh, như lộ, diệc như điển, ưng
tác như thị quán” (Hết thảy các pháp hữu vi,
như mộng, huyễn, bọt, bóng, như sương,
cũng như chớp, hăy nên quán như vậy). Đấy
là những điều đức Phật dạy bảo
hàng Bồ Tát. Pháp hữu vi là pháp có sanh, có diệt. Chư vị
hăy ngẫm xem, có pháp nào chẳng sanh diệt? Nay chúng ta nói
đến động vật, động vật có sanh,
lăo, bệnh, tử. [Nói đến] thực vật th́ thực
vật có sanh, trụ, dị, diệt. Núi, sông, đại
địa cũng có thành, trụ, hoại, không. Hiện thời,
tri thức của chúng ta về vấn đề này càng
phong phú. Từ viễn vọng kính của thiên văn, ta thấy
các tinh cầu trong vũ trụ xác thực là có sanh diệt.
Diệt th́ quá nửa là bùng nổ. Trông thấy một luồng
chớp sáng ḷa; sau đấy, chẳng c̣n nữa! Ngôi sao ấy
chẳng c̣n nữa. Sao sanh ra, tức tinh cầu mới [xuất
hiện], vốn nơi ấy chẳng có, đột nhiên
phát hiện. Có một luồng ánh sáng, quan sát cẩn thận,
sẽ thấy có ngôi sao mới xuất hiện, chứng tỏ
thế giới “thành, trụ,
hoại, không” như đức Phật đă dạy
trong kinh. Những thứ ấy thảy đều là vô
thường, đều là pháp hữu vi! Tất cả các hiện
tượng tự nhiên đều chẳng vĩnh hằng,
đều biến hóa trong từng sát-na. Đấy là pháp hữu
vi.
“Hết thảy các pháp hữu vi,
như mộng, huyễn, bọt, bóng”, chẳng thật,
cho thấy: “Tướng có, Tánh không, Thể chẳng có”. V́
thế, nh́n từ Lư Thể của vạn pháp, sẽ là Nhất
Thiết Trí. Người nào đă chứng đắc? A La
Hán chứng đắc. A La Hán có Nhất Thiết Trí, chẳng
có Đạo Chủng Trí, Ngài biết muôn pháp đều là Không.
Nhưng hiện tượng th́ có, v́ sao nó có? A La Hán không biết!
A La Hán chỉ biết những hiện tướng ấy
là giả, chẳng thật! Nhưng v́ sao có giả tướng
ấy? Giả tướng biến huyễn vô cùng, rốt
cuộc là chuyện như thế nào? Loại trí huệ ấy
được gọi là Đạo Chủng Trí, Đạo
(道) là đạo lư, Chủng (種) là “chủng chủng”
(種種, các thứ), “chủng chủng” chính là vạn
pháp. Vạn sự vạn pháp trong vũ trụ, các thứ ấy
do đạo lư ǵ mà h́nh thành? V́ sao có chúng? Trí huệ ấy (trí
huệ hiểu rơ những đạo lư ấy) được
gọi là Đạo Chủng Trí. Bồ Tát có Đạo Chủng
Trí. Do vậy, Bồ Tát cao minh hơn A La Hán. Không và Có là một,
không hai, rất nhiều vị Bồ Tát chẳng có cách nào
dung hội thấu suốt đạo lư này. [Trí huệ do]
đức Phật đă chứng đắc được
gọi là Nhất Thiết Chủng Trí, Nhất Thiết là Nhất
Thiết Trí, Chủng Trí là Đạo Chủng Trí. Nhất
Thiết Chủng Trí là nói rơ “Không
và Có là một, chẳng hai”. V́ thế, đây là ba thứ
trí do đức Phật đă chứng, Không và Có là một,
không hai.
Giác
tức là ba thứ giác. Tự giác: Trong bốn mươi mốt
nguyện, câu đầu tiên là tự giác, câu thứ hai là giác
tha, câu ba và bốn đúng là giác hạnh
viên măn. Những câu ấy đều tương ứng với
ba loại trí và ba loại giác. Nếu quư vị muốn
thành tựu trí huệ, “xả
chúng tụ pháp” (bỏ các tụ pháp), quư vị phải buông
xuống! “Chúng tụ pháp” (眾聚法) là hết thảy các pháp, [“xả chúng tụ pháp” nghĩa là] hết thảy
các pháp đều phải buông xuống. Buông xuống, ở
chỗ này phải chú ư, chẳng phải là nói “mọi sự
đều buông xuống, chuyện ǵ cũng đều chẳng
muốn làm”. [Nếu hiểu] như vậy, quư vị
đă sai mất rồi, đă hiểu lầm mất rồi!
Nếu chuyện ǵ cũng đều buông xuống, Thích Ca
Mâu Ni Phật thành đạo, Ngài cũng chẳng cần phải
dành ra bốn mươi chín năm để giảng kinh,
thuyết pháp cho mọi người. V́ mọi người
giảng kinh là Sự, nói theo phía chúng ta, cần ǵ phải vất
vả, khổ sở như thế cơ chứ?
Thuở
đức Phật tại thế, giảng kinh, thuyết
pháp chẳng dễ dàng, chẳng giống như chúng ta trong
hiện thời. Theo kinh điển ghi chép, lăo nhân gia mỗi
ngày giảng kinh mấy tiếng đồng hồ? [Tính
theo] thời gian hiện thời là tám tiếng đồng
hồ! Vào thuở ấy, tại cổ Ấn Độ,
thuở đức Phật tại thế, người Ấn
Độ chia một ngày đêm thành “lục thời”, tức là chia thành sáu thời thần,
ngày ba thời, đêm ba thời. Đối với [các thời
thần thuộc] ban ngày, họ gọi là “sơ nhật phần, trung nhật phần, hậu nhật
phần”. Đấy là ba thời thần ban ngày. Ban đêm
cũng là ba thời thần, tức “sơ dạ phần, trung dạ phần, hậu dạ
phần”, chia thành ba thời như vậy. V́ thế gọi
là “lục thời”. Kinh Phật
thường nói “lục thời”,
chư vị phải hiểu, “lục
thời” là nói theo [cách phân chia thời gian của] Ấn
Độ. Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế,
người Ấn Độ nói đến “thời thần” th́ “lục
thời” là một ngày đêm. Hiện thời, chúng ta chia
một ngày đêm thành hai mươi bốn tiếng đồng
hồ. Hai mươi bốn tiếng đồng hồ là
cách chia giờ theo người phương Tây. Người
Hoa chia [một ngày đêm] thành mười hai “thời thần” (時辰), tức Tư, Sửu, Dần, Măo, Th́n, Tỵ, Ngọ,
Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. “Thời” của Ấn Độ lớn, “thời” của Trung Hoa nhỏ.
Hiện
tại, người phương Tây dùng hai mươi bốn
giờ; do vậy, chúng ta gọi nó (“giờ” của phương Tây) là “hai mươi bốn tiểu thời”. Do như vậy
mà có [từ ngữ] “tiểu thời”,
nó nhỏ hơn “thời” của
Trung Hoa [thời cổ]. Một “thời
thần” của Trung Hoa bằng hai giờ hiện thời.
Một “thời thần” của
Ấn Độ bằng hai “thời”
của Trung Hoa, tức là bốn giờ hiện thời. “Hai thời” giảng kinh tức
là tám giờ hiện thời. Thích Ca Mâu Ni Phật mỗi
ngày giảng tám giờ cho mọi người, quá khó có, rất
khó có! Thầy giáo ở trường nào sẽ sắp xếp
thời khóa biểu mỗi ngày dạy học tám tiếng
đồng hồ? Ngài cũng chẳng có ngày nghỉ cuối
tuần, cũng chẳng có nghỉ phép. Hiện thời mà
giảng suốt tuần, bảy lần tám là năm mươi
sáu giờ, t́m khắp cả thế giới không thấy! Từ
chỗ này, chúng ta thấy Thích Ca Mâu Ni Phật yêu nghề,
quư vị thấy được tinh thần yêu nghề của
Ngài. Khởi đầu từ ba mươi tuổi cho đến
bảy mươi chín tuổi văng sanh, giảng kinh, thuyết
pháp chưa từng gián đoạn. Không chỉ có ngôn giáo,
quan trọng hơn là thân giáo. Nói năng, cử chỉ, đi,
đứng, ngồi, nằm, đều nêu gương cho
chúng sanh, thật sự danh phù hợp thực. “Học vi nhân sư, hành vi thế
phạm” (Học làm thầy người, hành là khuôn mẫu
cho đời); ngôn ngữ, cử chỉ của Ngài là khuôn
phép cho người thế gian chúng ta, là bậc thiên nhân
sư.
Do
vậy, phải buông xuống. “Buông
xuống” là buông xuống vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước. Điều này đă được
nói quá nhiều, các đồng học phải ghi nhớ. Chẳng
phải là buông bỏ công việc! Buông bỏ công việc tức
là quư vị đă hiểu lầm Phật pháp, sai lầm mất
rồi! Đức Phật dạy chúng ta, người sống
trên cơi đời đương nhiên là nhất định
phải có chuyện phải làm, chẳng thể ngồi
không hưởng nhàn được! Quư vị nhất
định phải có công việc. Trong xă hội, công việc
được phân công hết sức phức tạp; nhất
là trong hiện tại, phân công càng cặn kẽ hơn. Quư vị
theo đuổi một nghề nghiệp, một công việc
nào đó, quư vị phải nghiêm túc nỗ lực thực
hiện, thực hiện tốt đẹp bổn phận
và công việc của chính ḿnh, phối hợp với đại
chúng trong xă hội. Đấy là sự cống hiến của
quư vị dành cho xă hội, xă hội sẽ đáp tạ quư
vị. Đó là điều mà bất cứ người nào
trong thế gian cũng đều chẳng thể bỏ
qua được! Đức Phật đă dạy chúng ta
điều này!
Nhưng
trong tâm th́ phải buông xuống, phải đạt
được cái tâm thanh tịnh. Chúng ta làm bất cứ
nghề nghiệp ǵ, đều phải có quan niệm: “Ta
phục vụ hết thảy chúng sanh trong xă hội”. Ḿnh
v́ mọi người, mọi người v́ ḿnh! Hỗ trợ
hợp tác cùng hết thảy chúng sanh trong toàn thể thế
gian, thế giới này mới tốt đẹp, cuộc sống
của hết thảy chúng sanh sẽ có thể đạt
được hạnh phúc mỹ măn! Đức Phật dạy
chúng ta điều này, tuyệt đối chớ nên chẳng
gánh trách nhiệm. Học Phật là học trí, học giác, là
học ba loại trí, học ba loại giác ấy, giác chứ
không mê. V́ thế, chính ḿnh mới có thể thành tựu mười
loại trí lực nơi quả địa Như Lai. Trong
phần trước, chúng tôi đă từng thưa bày điều
này. Trong phần sau, sẽ c̣n nhắc đến.
Mười
loại là biểu thị pháp, “mười”
biểu thị viên măn. Nói cách khác, quư vị mới có thể
thành tựu hết thảy tài nghệ. Tuy có trí huệ, có
năng lực, quư vị vẫn phải nêu gương cho
đại chúng trong xă hội. Tuy quư vị lắm tài, nhiều
nghề, vẫn khuyên quư vị “thâm
nhập một môn, huân tu lâu dài”, quư vị mới có thành
tựu kiệt xuất. V́ sao? Thời gian và tinh lực cả
một đời tập trung vào một chỗ, người
ấy sẽ có thành tựu. Nếu làm nhiều thứ, có
những người mà chúng ta thấy phước báo thế
gian rất lớn, có rất nhiều sự nghiệp. Sau
khi có nhiều sự nghiệp th́ như thế nào? Chẳng
có trí huệ! [Mong] thành tựu Nhất Thiết Trí, Đạo
Chủng Trí, và Nhất Thiết Chủng Trí, chắc chắn
là chẳng thể làm được! Quư vị hăy nói xem, v́
sao vậy? Tâm bị phân tán.
Đương
nhiên là khi có nhiều sự nghiệp, chính ḿnh chẳng có
cách nào đích thân làm từng sự nghiệp được,
chẳng thể nào! Quư vị nhất định phải ủy
nhiệm khá nhiều vị kinh lư, vị kinh lư nào sẽ quản
trị một ngành nghề nào đó. Giống như các công
ty đa quốc gia hiện thời, trong thế gian này,
chúng ta thấy quá nhiều [công ty như vậy], tại mỗi
quốc gia đều có công ty chi nhánh, quư vị thấy chủ
nhân có lắm nỗi bận tâm. Cái tâm của họ làm sao
thanh tịnh cho được? Tâm chẳng thanh tịnh, tâm
chẳng b́nh đẳng, sẽ chẳng có trí huệ. Làm thế
nào để đạt được tâm địa thanh
tịnh, b́nh đẳng? Đó là chuyện quá khó khăn! V́
thế, thật sự dễ thành tựu th́ suốt đời
quư vị làm một chuyện, chớ nên đổi việc
làm, làm một thứ đến cùng, nhất định là
sẽ có thể thành công. Tương ứng với Phật
pháp, khi chuyên tâm một thứ, “chuyên
tâm” là Định, Định đến một mức
độ nào đó, trí huệ sẽ khai. Trí huệ đă
khai, nghề nghiệp của quư vị sẽ có thể
đạt đến tột đỉnh trên toàn thế giới,
đă đạt thành tựu rồi!
V́
thế, đức Phật hy vọng ai nấy thâm nhập
một môn, huân tu lâu dài, nhưng đức Phật cũng
chẳng chướng ngại ai! Quư vị có phước
báo, tạo sự nghiệp rất lớn, đức Phật
cũng chẳng ngăn trở quư vị! V́ sao đức Phật
chẳng ngăn trở quư vị? Nếu đức Phật
ngăn trở quư vị, tức là đức Phật khởi
tâm động niệm, có phân biệt, chấp trước.
Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, lăo
nhân gia thảy đều buông xuống. Quư vị tiếp
nhận giáo huấn của Ngài, Ngài hoan hỷ. Quư vị chẳng
tiếp nhận, Ngài cũng hoan hỷ. V́ sao? Ngài chẳng
có tâm phân biệt, Lư Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại.
Người ta đă nhập cảnh giới ấy, đấy
là trí huệ chân thật. Trí huệ và năng lực của
đức Phật đều viên măn, nhưng Ngài chẳng
làm theo kiểu ấy. Suốt đời, Ngài đă v́ chúng
ta thị hiện, một môn thôi! Tức là giảng kinh,
đấy là giáo học. Suốt đời làm chuyện ấy,
chẳng làm chuyện thứ hai, ngay cả tạo lập
đạo tràng cũng chẳng có!
Thuở
tại thế, Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng có đạo
tràng. Trong kinh Phật, có nói đến những nơi
như Kỳ Thụ Cấp Cô Độc Viên, hoặc Trúc
Lâm Tinh Xá; đó là những nơi do hàng cư sĩ dâng cúng,
chẳng phải do Ngài đích thân kiến tạo. Cư
sĩ có những khu vườn rừng ấy, thỉnh
đức Phật và các đệ tử của Ngài đều
cùng đến đó giảng kinh, thuyết pháp. Họ cung
cấp hoàn cảnh cư trụ, chủ quyền nơi đó
thuộc về chủ nhân. Chủ quyền của Kỳ
Thụ Cấp Cô Độc Viên là thái tử Kỳ Đà và
trưởng giả Tu Đạt Đa, [khu vườn ấy]
là của họ. Đức Phật ở nơi đó,
cư trụ trong ấy, tôi thường nói: “Đức Phật
ở đó bao nhiêu ngày là có quyền sử dụng bấy
nhiêu ngày. Phật, Bồ Tát cần quyền sử dụng,
chẳng cần quyền sở hữu”. V́ thế, tâm các
Ngài thanh tịnh. Hiện thời, chúng ta bị phiền phức
ở chỗ nào? Thứ ǵ cũng đều phải là “ta
sở hữu”, phiền phức bèn xảy ra! Chỉ cần
có “ta sở hữu”, tâm chẳng thanh tịnh. Trí huệ,
đức năng, và tướng hảo đều chẳng
thể hiện tiền; v́ sao? Phiền năo chướng ngại
tự tánh, chướng ngại Tánh Đức. V́ thế,
trí huệ và đức năng chẳng thể hiện tiền,
chớ nên không hiểu rơ đạo lư này. Do vậy, phải
buông xuống, nhiệt tâm nỗ lực làm việc. Sau khi
làm xong, quyết định chẳng có phân biệt, chấp
trước, tâm quư vị thanh tịnh. Tâm thanh tịnh hoàn
toàn chẳng trở ngại công việc. Nói thật ra, công
việc cũng chẳng trở ngại cái tâm thanh tịnh,
chỉ cần quư vị biết dụng tâm.
Trong
phần trước của kinh này, [có câu] “Bồ Tát thiện dụng kỳ tâm” (Bồ Tát
khéo dùng cái tâm). Câu này rất quan trọng. Khéo dùng cái tâm
như thế nào? V́ quư vị khéo dùng cái tâm, quư vị mới
có thể đạt được hết thảy các công
đức thù thắng, nhiệm mầu! Những thí dụ
được nêu trong phẩm kinh này chính là [những thí dụ
cụ thể về cách] Bồ Tát khéo dùng cái tâm, [nhằm] dạy
chúng ta học theo! Làm bất luận công việc nào, khởi
tâm động niệm, [đều là] “đương nguyện chúng sanh”, đấy là
khéo dùng cái tâm! Niệm
nào cũng đều v́ hết thảy chúng sanh, chẳng v́
chính ḿnh. Chư vị phải biết: Chẳng v́ chính ḿnh mới
là thật sự v́ chính ḿnh. Chính ḿnh chẳng rời khỏi
chúng sanh, chính ḿnh và chúng sanh là một Thể! Kẻ mê chẳng
biết, có “quư vị, ta, kẻ
khác”, phân chia rành mạch! Người giác ngộ chẳng
phải vậy! Người giác ngộ biết hết thảy
chúng sanh trong khắp pháp giới hư không giới, trên cùng
với chư Phật Như Lai, dưới cùng với hết
thảy chúng sanh là một Thể. Trong các buổi giảng,
chúng tôi thường nói theo kiểu thuận tiện cho mọi
người dễ hiểu hơn, chúng tôi thường nói
là “một sanh mạng cộng
đồng thể”, mọi người sẽ dễ hiểu!
Nhưng có phải thật sự
là một sanh mạng cộng đồng thể hay không? Đúng
vậy, nhưng rất khó thấu hiểu ư nghĩa thật
sự trong ấy! Kẻ b́nh phàm nghe xong, chỉ có một
khái niệm mơ hồ, rất khó lănh hội ư nghĩa này!
Chúng tôi bất đắc dĩ, dùng tỷ dụ để
nói. Ví như thân thể của chúng ta, chúng ta biết thân thể
do vô số tế bào hợp thành. Các tế bào hợp thành các
khí quan, các khí quan hợp thành thân thể này! Quư vị nói
xem, mỗi tế bào có phải là có cùng một sanh mạng
cộng đồng thể với thân thể này hay chăng?
Rơ ràng đúng là như vậy. Nói “sanh mạng cộng đồng thể” là c̣n xa lắm,
trên thực tế th́ sao? Trên thực tế là một Thể,
há có cộng đồng? Là một Thể! Do vậy, trong
giáo pháp Đại Thừa thường nói: “Thập phương tam thế Phật, cộng
đồng nhất Pháp Thân” (Mười phương ba
đời Phật, cùng chung một Pháp Thân). Nếu là lúc đă
khế nhập, sẽ đổi “cộng đồng” (共同) thành “tựu thị” (就是, chính là). “Thập phương tam thế Phật,
tựu thị nhất Pháp Thân”. Quư vị mới có thể
lănh hội đôi chút, Tự và Tha chẳng hai, Tánh và Tướng
như một. Trí huệ, đức năng, và tướng
hảo vốn có trong tự tánh của quư vị thảy
đều hiện tiền. Do vậy, thành tựu mười
thứ trí lực của Như Lai.
Thành tựu mười thứ
trí lực của Như Lai, chư vị phải biết là
hạng người nào? Tầng cấp thấp nhất là
Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo. Nói theo Thiền Tông của
Trung Hoa, sẽ là “phá một phẩm
vô minh, chứng một phần Pháp Thân, kiến tánh thành Phật”,
sẽ là cảnh giới ấy! Trong cảnh giới ấy,
chẳng có lục đạo, cũng chẳng có mười
pháp giới. Nói cách khác, vượt thoát lục đạo,
vượt thoát mười pháp giới, mới đạt
được mười thứ trí lực. Đấy là
thật sự vào nhà Phật, thành Phật, vào nhà Phật. Từ
nay trở đi, sẽ đoạn tập khí, trong phần
trước, đă nói rất nhiều, rất khó lư giải
điều này! Đoạn tập khí phải tốn thời
gian rất dài, sẽ tự nhiên đoạn!
Trong thời gian dài ngần ấy,
nói thật sự theo Phật pháp, sẽ là vô lượng
kiếp! Chẳng có hạn lượng, thật sự là vô
lượng kiếp. Làm chuyện ǵ? Giáo hóa chúng sanh, thực
hiện Tứ Hoằng Thệ Nguyện đă phát trong khi
tu nhân. Thời thời khắc khắc biểu diễn Tứ
Hoằng Thệ Nguyện cho những chúng sanh chưa quay
đầu trông thấy. Tức là chúng sanh trong mười
pháp giới có cảm, Phật, Bồ Tát sẽ ứng,
không chỗ nào chẳng hiện thân, không lúc nào chẳng hiện
thân. Hiện thân th́ không nhất định hiện thân Phật,
hoặc thân Bồ Tát. Phẩm Phổ Môn nói ba mươi hai ứng thân, ba mươi hai ứng thân
đều là nói về hữu t́nh chúng sanh. Ngoài những
thân ấy ra, c̣n hiện thân vô t́nh chúng sanh, [chẳng hạn
như] núi, sông, đại địa, cây cối, hoa, cỏ,
hiện những loại thân ấy!
Cớ
sao biết? Từ sách vở trong Phật môn, nhất là từ
sử sách, chúng ta sẽ thấy càng rơ hơn! Không nhất
định là tại gia hay xuất gia, cũng chẳng nhất
định vào lúc nào, trông thấy nước chảy, người
ấy khai ngộ, hoặc nghe tiếng nước chảy
bèn khai ngộ. Đó là ǵ? Tiếng nước chảy là do
Phật, Bồ Tát thị hiện, đúng ngay cơ duyên ấy,
một phút, một giây cũng chẳng sai lệch! Một
giây trước, người ấy chẳng khai ngộ; một
giây sau, người ấy cũng chẳng thể khai ngộ!
Thị hiện ngay trong lúc cốt yếu nhất, thành tựu
chúng sanh. Trông thấy hoa bay, lá rụng, đó là hiện
tượng tự nhiên! V́ thế, Phật, Bồ Tát
cũng hiện thân thành hiện tượng tự nhiên. Thân
ǵ cũng đều hiện, đúng là đáng nên hiện
thân ǵ để đắc độ, bèn hiện thân ấy;
đáng nên dùng phương pháp ǵ để giác ngộ, các
Ngài bèn dùng phương pháp ấy. Quy nạp lại, nói
chung, chẳng ngoài mười loại đại trí lực
ấy. V́ thế, chính ḿnh thành tựu mười thứ
trí lực của Như Lai, chính ḿnh đă là Pháp Thân đại
sĩ, quư vị mới thật sự có nguyện giúp đỡ
người khác như vậy.
Nay
chúng ta niệm kinh này, chỉ là làm chuyện dự bị ở
nơi đây. Trên thực tế, chẳng có cách nào thực
hiện, nhưng phải có nguyện tâm ấy, ta hy vọng
có thể làm được trong đời này, cũng là có
thể làm được! Muốn thật sự làm được,
nhất định là phải phát Bồ Đề tâm, phải
buông xuống chấp trước, phải buông xuống
phân biệt, phải buông xuống khởi tâm động niệm,
mới có thể thành tựu trong đời này. Chúng tôi đă
nói điều này rất nhiều! Buông xuống hết thảy
chấp trước, chúng ta niệm Phật văng sanh Tịnh
Độ, sẽ ở trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư. Nếu
lại cũng có thể buông xuống sự phân biệt
đối với hết thảy các pháp, sẽ sanh vào cơi Phương Tiện Hữu
Dư. Đối với hết thảy các pháp không khởi
tâm, chẳng động niệm, sẽ sanh vào cơi Thật
Báo Trang Nghiêm. Niệm Phật mà có điều ǵ chẳng buông
xuống được, sẽ [chỉ là] kết pháp duyên
với A Di Đà Phật, chẳng thể văng sanh trong đời
này. Hạn độ thấp nhất để văng sanh là
phải buông chấp trước xuống, văng sanh mới
chẳng bị chướng ngại. Càng
chấp trước kiên cố, sẽ càng phiền phức,
ngay cả văng sanh cũng bị chướng ngại, huống
hồ những chuyện khác ư? Niệm Phật là đạo
dễ hành, Lư và Sự đều phải hiểu rơ.
Lại xem tiếp câu thứ
chín kế đó:
(Sớ) Cửu nguyện ư
tha.
(疏)九願於他。
(Sớ: Chín là nguyện cho
người khác).
Mở đầu mỗi câu
[nguyện] đều là “nguyện
ư tha” hoặc “nguyện
tha”.
(Sớ) Giai như Phổ Hiền
đoan chánh nghiêm hảo, tắc tự thành tựu thập
vương kính hộ.
(疏)皆如普賢端正嚴好,則自成就十王敬護。
(Sớ: Đều đoan
chánh, trang nghiêm, tốt đẹp như ngài Phổ Hiền,
bèn tự thành tựu “mười vua kính mến, bảo vệ”).
“Tự
thành tựu” là chính ḿnh thành tựu Phổ Hiền hạnh,
nguyện hết thảy chúng sanh đều biết tu Phổ
Hiền pháp. Thông thường, hễ chúng ta nói đến
Phổ Hiền, mọi người nhất định
đều nghĩ tới mười đại nguyện
vương của Phổ Hiền Bồ Tát. Mười đại
nguyện vương đă được xếp vào công khóa
sáng tối, những người tu hành trong các tự viện
am đường đều niệm mỗi ngày, kinh
văn đều rất thông thuộc! Có ư nghĩa ǵ?
Người có thể thật sự lư giải chẳng nhiều
lắm! Vậy th́ phải đọc kinh Hoa Nghiêm. Không chỉ
là phải đọc kinh Hoa Nghiêm, mà c̣n phải đọc
chú giải của Thanh Lương đại sư, quư vị
mới thật sự liễu giải Phổ Hiền hạnh
nguyện. Mỗi nguyện trong hạnh nguyện của Ngài
đều bao gồm hết thảy các pháp môn của Bồ
Tát, chẳng sót một môn nào!
Cương lănh tu học được
dạy trong kinh Hoa Nghiêm chẳng có ǵ khác, [chỉ là] Thập Ba La Mật của Văn Thù Bồ
Tát, tức là sau Lục Độ có thêm Phương Tiện,
Nguyện, Lực và Trí, hợp
thành Thập Độ! [Đó là] Thập Ba La Mật. Ba La
Mật (Pāramitā) dịch sang nghĩa tiếng Hán sẽ là “viên măn”. Mười nguyện
của Phổ Hiền Bồ Tát nhằm nâng cao Thập Ba La Mật
của Văn Thù Bồ Tát đến mức rốt ráo viên
măn. Sự viên măn rốt ráo ấy chính là cảnh giới sâu
rộng thù thắng vô tận. Học Hoa Nghiêm, chớ nên không
biết [điều này], mà học Tịnh Độ,
cũng chớ nên không biết! V́ sao? Tịnh Độ là pháp
môn của Phổ Hiền, chẳng thể nghĩ bàn! Quư vị
xem kinh Vô Lượng Thọ, bản hội tập của
Hạ lăo cư sĩ, phẩm thứ hai là Đức Tuân
Phổ Hiền. Phẩm thứ hai thuộc Tự Phần,
chưa đến phần Chánh Tông! Vừa mở đầu,
giới thiệu đại chúng dự hội, cuối cùng
là giới thiệu hàng Bồ Tát tại
gia, “Hiền Hộ đẳng
thập lục Chánh Sĩ” (mười sáu vị Chánh
Sĩ thuộc nhóm Hiền Hộ), đấy là các vị Bồ
Tát tại gia. Mười sáu vị tại gia Bồ Tát là Đẳng
Giác Bồ Tát, có địa vị hoàn toàn giống như
Văn Thù và Phổ Hiền, [nhưng các Ngài là] tại gia Bồ
Tát. Quư vị xem tiếp câu mở đầu là “hàm cộng tuân tu Phổ Hiền
đại sĩ chi đức” (đều cùng tuân tu phẩm
đức của Phổ Hiền đại sĩ), [nghĩa
là] mỗi vị đều tu Phổ Hiền hạnh nguyện,
lại c̣n đều là thành tựu viên măn. Chúng ta đọc
kinh Vô Lượng Thọ, mới hiểu thế giới Cực
Lạc là Phổ Hiền pháp giới. Chẳng tu Phổ Hiền
hạnh, làm sao đến đó được?
Do
vậy, cư sĩ Ngụy Mặc Thâm đă ghép phẩm Phổ
Hiền Hạnh Nguyện vào sau Tịnh Độ Tam Kinh, gọi
là Tịnh Độ Tứ Kinh. Tôi nghĩ có những vị
đồng học đă trông thấy bản ấy. Khi xưa,
Kim Lăng Khắc Kinh Xứ ở Nam Kinh đă in bản này
dưới dạng sách khâu gáy bằng chỉ, đặt tựa
đề là Tịnh Độ Tứ Kinh. Tịnh Độ
vốn chỉ có ba kinh, ông ta (Ngụy Mặc Thâm) ghép thêm phẩm
Phổ Hiền Hạnh Nguyện. V́ sao ghép thêm? Chính là v́
kinh Vô Lượng Thọ đă nói “hàm cộng tuân tu Phổ Hiền đại sĩ chi
đức”. Trong thời Dân Quốc, chúng ta biết Hoằng
Nhất đại sư, mọi người đều rất
quen thuộc vị này. Lăo nhân gia suốt đời thọ
tŕ, công khóa sáng tối của Ngài là phẩm Phổ Hiền
Hạnh Nguyện, suốt đời Sư thọ tŕ bộ
kinh này. Ngụy Mặc Thâm là người sống trong niên
hiệu Hàm Phong [nhà Thanh]. Đến thời Dân Quốc, Ấn
Quang đại sư ghép chương Đại Thế Chí
Viên Thông trong phần hai mươi lăm phép Viên Thông của
kinh Lăng Nghiêm vào sau Tịnh Độ Tứ Kinh, gọi
là Tịnh Độ Ngũ Kinh. Các đồng học Tịnh
Tông chớ nên không biết nguồn gốc này!
Đức
Thế Tôn giới thiệu ba kinh, tức là kinh Vô Lượng
Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, kinh A Di
Đà, ba kinh! Hai thứ sau đó, như phẩm Phổ Hiền
Hạnh Nguyện [chẳng hạn] là chuyện như thế
nào? Phải biết cớ sao Đại Thế Chí Viên Thông
Chương [được ghép vào sau Tịnh Độ Tứ
Kinh], biến thành Tịnh Độ Ngũ Kinh! Nói thật
ra, do năm kinh ấy, kinh điển Tịnh Tông đă viên
măn, biên tập hay lắm. Tôi đă nhiều lần giảng
Đại Thế Chí Viên Thông Chương, tôi nói chương
kinh ấy chính là Tâm Kinh của Tịnh Tông, [phân lượng]
so với Bát Nhă Tâm Kinh c̣n ít chữ hơn! Bát Nhă Tâm Kinh là
hai trăm sáu mươi chữ, Đại Thế Chí Viên Thông
Chương chỉ có hai trăm bốn mươi bốn chữ,
đấy là Tâm Kinh của Tịnh Tông. Tuy văn tự không
nhiều lắm, đă bao gồm trọn hết áo nghĩa
(nghĩa lư sâu thẳm) của Tịnh Tông. Do vậy, năm
kinh một luận của Tịnh Tông, tổng cộng là
sáu thứ, phân lượng cũng không nhiều. Chỉ cần
thọ tŕ một thứ, suốt đời y giáo phụng
hành, niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, chẳng
có ai không văng sanh!
“Giai như Phổ Hiền
đoan chánh nghiêm hảo” (Đều đoan chánh, trang
nghiêm, tốt đẹp như Phổ Hiền), “nghiêm” (嚴) là trang nghiêm, “hảo”
(好) là diệu hảo (tốt đẹp
nhiệm mầu). V́ sao tán thán Phổ Hiền Bồ Tát
như vậy? Phổ Hiền hạnh là viên măn, chúng ta
thường nói là “thuần tịnh,
thuần thiện”. Xác thực là chẳng có mảy may bất
thiện xen tạp, chẳng có mảy may bất tịnh
xen tạp. V́ thế, Ngài đoan chánh, nghiêm hảo chẳng
khác ǵ Như Lai là bậc đă đạt đến quả
địa rốt ráo. Đấy cũng là như trong bộ
đại kinh này, đức Thế Tôn đă tán thán Bồ
Tát, Bồ Tát chẳng tu Phổ Hiền hạnh, sẽ không
thể viên thành Phật đạo, là do đạo lư này! Bồ
Đề tâm viên măn hiện tiền. Nay chúng ta nói tới Bồ
Đề tâm, chúng tôi nói theo kiểu phương tiện là
“chân thành tâm”, chân thành đạt
tới viên măn, đối với hết thảy người,
đối với hết thảy sự, đối với
hết thảy vật, cơi này, phương khác, quá khứ,
vị lai, chẳng có mảy may hư ngụy!
Trong
Phổ Hiền hạnh, điều thứ nhất là “lễ kính chư Phật”. Trong
lễ kính, chẳng có mảy may hư ngụy. Chúng tôi nêu
thí dụ: Chúng ta lễ kính Phật, lễ kính Thích Ca Mâu Ni
Phật, lễ kính Tỳ Lô Giá Na Phật, thực hiện chân
thành viên măn. Chúng ta lễ kính người khác, chúng ta lễ
kính muỗi, trùng, lễ kính kiến, có sai khác hay không? Nếu
có sai khác, đấy chẳng phải là Phổ Hiền hạnh!
Phổ Hiền hạnh là b́nh đẳng, quyết định
chẳng có sai biệt, khó lắm! Thật sự khó khăn!
Không chỉ là b́nh đẳng đối với hữu t́nh
chúng sanh, mà đối với vô t́nh chúng sanh cũng b́nh
đẳng. V́ thế, mười nguyện Phổ Hiền
niệm th́ dễ dàng, nhưng quư vị muốn đạt
tới cảnh giới của Ngài, mong thực hiện như
Phổ Hiền Bồ Tát, thật sự chẳng dễ đâu
nhé! Lễ kính, tán thán, cúng dường, sám trừ nghiệp
chướng, tùy hỷ, thỉnh chuyển pháp luân, thỉnh
Phật trụ thế.
Bố thí: Trong bố thí, trọn đủ mười
nguyện Phổ Hiền. Thập Ba La Mật, trong mỗi điều
thảy đều trọn đủ. Trong bố thí, lại
có Tài Bố Thí, Pháp Bố Thí, Vô Úy Bố Thí, chẳng có ǵ không
trọn đủ. Trọn đủ mười nguyện
Phổ Hiền mới gọi là Phổ Hiền hạnh, quả
báo là “đoan chánh, nghiêm hảo”,
trong thế gian này, thường nói [đoan chánh, nghiêm hảo]
là ba mươi hai tướng và tám mươi thứ hảo.
Nói theo giáo pháp Đại Thừa, thân có vô lượng tướng,
mỗi tướng có vô lượng hảo. Đấy là ǵ?
Đấy là nhân quả! Quư vị đă gieo cái nhân Phổ
Hiền, kết thành cái quả Như Lai. Như Lai chính là
quả viên măn rốt ráo. Do nói đến Như Lai, bốn
mươi mốt địa vị Pháp Thân đại
sĩ đều có thể gọi là Như Lai, phải hiểu
điều này! Bốn mươi mốt địa vị
Pháp Thân đại sĩ đều có thể gọi là chư
Phật Như Lai. Nói đến Như Lai rốt ráo viên măn
th́ chỉ có địa vị Diệu Giác, chẳng phải
là địa vị Đẳng Giác, mà là địa vị
Diệu Giác.
Chính ḿnh thành tựu, quư vị mới có thể được
mười loại vua kính trọng, hộ tŕ. Mười
loại vua ấy chính là vua trong cơi Âm; trong phần trước,
tôi đă nói với quư vị rồi đó! Chúng tôi thường
nói những vị ấy là Thập Điện Diêm Vương
trong miếu Thành Hoàng. Thập Điện Diêm Vương kính
trọng quư vị, Thập Điện Diêm Vương hộ
tŕ quư vị; đấy là nói đến điều ǵ vậy?
Do đức hạnh của quư vị cảm ứng, ngay cả
Thập Điện Diêm Vương cũng đều cung
kính và hộ tŕ, những loại [quỷ thần] khác chẳng
cần phải nói nữa! Long thiên hộ pháp, các thiện
thần trên cơi trời và nhân gian, hễ trông thấy [quư vị],
toàn bộ đều tôn kính, đều hộ tŕ quư vị.
V́ sao chẳng làm? Nhập môn từ chỗ nào? Nhập môn từ
một trăm bốn mươi mốt nguyện này! Chúng
ta phải nghiêm túc học tập, tận tâm tận lực
thực hiện. Thật sự phát cái tâm ấy, chúng ta tin
tưởng lời Phật là thật. Phật chẳng có
vọng ngữ! Quyết định cảm được
chư Phật hộ niệm, long thiên thiện thần phù
trợ quư vị.
Nhất
là trong thế gian hiện thời, tai nạn rất nhiều,
quư vị có chư Phật hộ niệm, có long thiên thiện
thần phù trợ, thân tâm của quư vị sẽ đều
an ổn. Ngạn ngữ Trung Hoa thường nói: “Phùng hung hóa cát, ngộ nạn
thành tường” (Gặp dữ hóa lành, gặp tai nạn
trở thành tốt đẹp). Chúng ta có thể tin tưởng
điều này, thậm chí khoa học có thể chứng
minh đấy chẳng phải lời giả. Đó là ǵ?
Sự thuần tịnh thuần thiện có thể biến
đổi hoàn cảnh nhân sự và hoàn cảnh vật chất,
cảnh chuyển theo tâm. Oán thân trái chủ trong quá khứ và
hiện tiền của quư vị, đó là những kẻ
đối đầu! Gặp quư vị, họ đều
bội phục, tôn kính quư vị, chẳng c̣n xuống tay
[trả thù, quấy rối], chẳng c̣n làm phiền quư vị
nữa. Họ vốn muốn đến hại quư vị,
trông thấy quư vị [thuần tịnh, thuần thiện như
vậy], sẽ chẳng nỡ làm hại. Đấy là ǵ? Đấy
chính là quư vị cảm ứng, tức là sự cảm ứng
do thuần tịnh thuần thiện, sẽ hóa giải hết
thảy tai nạn, thật sự có thể, chẳng phải
là không thể nào! Nay người trên địa cầu ai nấy
đều tu Phổ Hiền hạnh, tai nạn ǵ cũng
đều chẳng có! Bây giờ đă hết thời gian rồi,
chúng ta nghỉ ngơi mấy phút.
***
Chư vị pháp sư, chư vị đồng học,
xin mời ngồi xuống. Xin xem tiếp câu thứ mười:
(Sớ)
Nguyện ư tha thống lư đại chúng nhất thiết
vô ngại, tắc tự thành nhiêu ích vi y cứu đức.
(疏)願於他統理大眾一切無礙,則自成饒益為依救德。
(Sớ: Nguyện cho người khác thống lư
đại chúng hết thảy vô ngại, sẽ thành tựu
đức “nhiêu ích, làm chỗ nương về, làm chỗ
cứu vớt” cho chính ḿnh).
Đối
với chữ “vi” (為) [trong đoạn này], phải biết cách đọc
như thế nào! “Vi y, vi cứu
chi đức”! Câu này chính là câu cuối cùng trong Tam Quy Y, “tự quy y Tăng,
đương nguyện chúng sanh, thống lư đại
chúng, nhất thiết vô ngại”. Câu này có nghĩa là ǵ?
Có thể nói là trong xă hội, lănh đạo của các tầng
lớp xă hội đều được bao gồm trong ấy!
Trong gia đ́nh th́ là gia chủ, trong công ty, hăng, xưởng,
th́ là chủ nhân. Thậm chí, trong các đại công ty, c̣n
chia thành rất nhiều bộ môn, mỗi bộ môn cũng
có người lănh đạo, đều hăy nên học câu này.
Quư vị nói xem, phạm vi của nó to cỡ nào? Nói theo phương
diện càng rộng hơn, sẽ là quốc vương, hay
thiên vương, v́ họ đều thống lư đại
chúng. Thống lư đại chúng cần phải có những điều
kiện nào? Ở đây, nói rất rơ ràng: “Vi y, vi cứu”. Bản thân quư vị là người
lănh đạo của đoàn thể, đối với
đại chúng được lănh đạo trong đoàn
thể ấy, quư vị là người để họ
nương tựa. Quư vị chính là người cứu
giúp, bảo vệ họ. V́ thế, tiếp đó mới
có câu “nhất thiết vô ngại”
(hết thảy vô ngại). Nếu quư vị không thể
làm chỗ nương cậy cho họ, mà cũng chẳng
thể cứu họ, làm sao họ nghe theo quư vị cho
được? Đương nhiên là đoàn thể ấy
sẽ có vấn đề, sẽ chẳng thể ḥa thuận,
sẽ chẳng thể đoàn kết.
Đối
với đức “vi y, vi cứu”,
trong phần trước, tôi đă nói; trong phần sau, sẽ
c̣n giảng cặn kẽ. Quư vị phải biết yêu thương,
che chở người khác, phải biết chiếu cố
người khác, quư vị c̣n phải biết thành tựu
người khác. “Cứu” có
ư nghĩa sâu lắm! Cứu giúp, che chở đến mức
rốt ráo, sẽ là quư vị làm như thế nào để
có thể giúp đỡ người khác vượt thoát lục
đạo luân hồi, vượt thoát mười pháp giới,
giúp họ thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác rốt ráo viên măn. Đấy mới là “công đức
viên măn”. Không chỉ là do cuộc sống vật chất trong
hiện thời có khó khăn, hoặc là công việc gặp
khó khăn, quư vị đến giúp đỡ họ. Giúp
đỡ họ là chuyện nhỏ, là chuyện vặt vănh
không đáng kể! Đại sự là phải làm như thế
nào để giúp họ thoát ĺa lục đạo luân hồi.
Chư
Phật Như Lai, tổ sư đại đức đều
dạy chúng ta; nói thật ra, [các Ngài] thật sự là chỗ
quy y cho chúng ta. Chúng ta phải nương cậy Tam Bảo.
Chỉ có Tam Bảo có thể cứu chúng ta, có thể giúp
đỡ chúng ta. V́ thế, câu này thuộc về Quy Y Tăng.
“Tăng” ở đây hiểu
theo nghĩa rộng, chẳng phải là nghĩa hẹp! Tăng
có nghĩa là ǵ? Tăng là đoàn thể. Trong Phật pháp, bốn
người được gọi là Chúng (眾). Một Chúng là một đoàn thể, tức là bốn
người kết hợp thành một đoàn thể. Trong
gia đ́nh, vợ chồng có hai đứa con, như vậy
là gia đ́nh của quư vị là một đoàn thể. Như
thế nào th́ gọi là Tăng? Bốn người ấy
đều có thể thi hành Lục Ḥa Kính th́ gọi là Tăng
đoàn. Tăng đoàn là đoàn thể cư xử ḥa thuận;
v́ thế, được gọi là Chúng Trung Tôn (眾中尊), Chúng là đoàn thể. Trong tất cả các đoàn
thể, [Tăng đoàn] đáng được mọi người
tôn kính nhất. V́ sao? Họ ḥa thuận. Điều thứ
ba trong Tam Quy Y có ư nghĩa này!
Chúng
ta lại suy nghĩ: Đoàn thể của chúng ta có ḥa thuận
hay không? Nếu chẳng ḥa thuận, [nguyên nhân là do] đức
hạnh của chúng ta không đủ, sự chiếu cố,
sự quan tâm, và ḷng yêu thương đại chúng của
chúng ta chẳng đủ, hăy khéo tu học! Đối với
mỗi cá nhân trong đoàn thể, đoàn thể của chúng
ta là đoàn thể rộng mở, thính chúng từ các nơi
đến, c̣n có những vị đến cộng tu niệm
Phật, ḷng chúng ta yêu thương, quan tâm, chớ nên bỏ
sót một ai! Đoàn thể như vậy được gọi
là “Tăng đoàn”, mới là
đoàn thể được chư Phật hộ niệm,
được thiên long quỷ thần tôn kính. Chẳng cần
nhiều, năm người là đă có thể thành tựu
một đoàn thể như vậy!
Thuở
ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật vừa mới thành đạo, ba
mươi tuổi, ở Lộc Dă Uyển, hướng dẫn
năm người. Năm người ấy đều
quy y Ngài. Một thầy, năm tṛ. Trong năm vị tỳ-kheo
ấy, tôn giả Kiều Trần Như là người
thành tựu trước hết trong nhóm người đó.
Tăng đoàn ḥa hợp, Lục Ḥa Kính đều làm
được! Thứ nhất là Kiến Ḥa Đồng Giải,
nay chúng ta gọi là “thành lập
nhận thức chung”. Đây là điều kiện cơ
bản để ḥa hợp. Tư tưởng và kiến
giải của mọi người đều nhất trí,
chuyện này rất khó, nhưng phương pháp của
đức Phật đúng là quá khéo, thật sự khiến
cho mọi người đều bội phục năm vóc
sát đất! Chúng ta làm thế nào để có thể đạt
đến cách nghĩ, cách nh́n nhất trí đối với
vũ trụ và nhân sinh? Đức Phật dạy chúng ta
buông xuống, đấy chính là nhất trí. Tôi có cách nh́n của
tôi, bạn có cách nh́n của bạn, [như vậy là] chẳng
nhất trí. Mỗi người đều bỏ cách nghĩ
và cách nh́n của chính ḿnh, chẳng phải là đă nhất
trí rồi ư? Cách này cao minh đến tột bậc. Quư
vị thấy kinh Bát Nhă đă dạy: “Phàm những ǵ có tướng đều là hư vọng”, “hết thảy các pháp hữu
vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”, quư vị c̣n chẳng buông xuống ư? Buông xuống
bèn nhất trí. Đấy chính là nói: Buông xuống vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, sẽ nhất
trí, kiến giải hoàn toàn như nhau.
Khi
tôi học Phật, học đến đoạn kinh
văn này, bội phục đức Thế Tôn năm vóc sát
đất. Tuyệt đối chẳng phải là đức
Thế Tôn bảo cách nghĩ, cách nh́n của chúng ta sai lầm,
phải vâng theo Ngài, chẳng phải là nói theo kiểu đó.
Nói kiểu đó, sẽ chẳng có ai phục! Ai có thể
phục quư vị? Buông xuống thành kiến của chính chúng
ta, chẳng phải là nhất trí ư? Ai nấy nghe như
vậy, đều tâm phục, khẩu phục. Bản thân
Thích Ca Mâu Ni Phật cũng buông xuống, mỗi cá nhân thảy
đều buông xuống. Hễ buông xuống, sẽ minh tâm
kiến tánh. Quư vị xem kinh giáo, các đồng học đă
lâu đều biết rành: Buông xuống chấp trước
đối với hết thảy người, sự, vật
trong thế gian và xuất thế gian, sẽ chứng A La
Hán, sẽ thành A La Hán, tức Chánh Giác. Nếu buông xuống
hết thảy phân biệt, chấp trước đối
với thế gian và xuất thế gian, sẽ thành Chánh Đẳng
Chánh Giác, tức Bồ Tát. Nếu khởi tâm động niệm
cũng buông xuống, [sẽ là] Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác. Quư vị có c̣n chấp những danh tướng ấy
hay không? Chẳng chấp trước! Nếu quư vị chấp
trước, tức là chẳng buông xuống! Quư vị c̣n phân
biệt, tức là chẳng buông xuống! Nếu quư vị
phân biệt, “ta là Chánh Đẳng Chánh Giác, kẻ đó là Chánh
Giác, kẻ đó thấp hơn ta một bậc”, quư vị
chẳng buông xuống chi hết! Người thật sự
buông xuống, mọi người ở chung một chỗ,
ba loại người ấy ở chung một chỗ, [tức
là] A La Hán, Bồ Tát và Phật ở chung một chỗ, thảy
đều chẳng có phân biệt, tâm địa thật sự
thuần tịnh, thuần thiện, nhưng tịnh và thiện
vẫn có sai khác! Tuyệt đối chẳng có khởi tâm
động niệm. Quư vị nói xem, Kiến Ḥa Đồng
Giải có cao minh hay không? Mọi người nghe xong c̣n nói
ǵ được nữa? Đó là điều đầu tiên
trong Lục Ḥa Kính.
Điều
thứ hai là Giới Ḥa Đồng Tu. Đối với cuộc
sống trong đoàn thể, từ bốn người trở
lên, sẽ là cuộc sống trong đoàn thể, luôn luôn là
phải như pháp, luôn luôn là phải có quy củ. Quy củ
ấy là ǵ? Nay chúng ta nói là Đệ Tử Quy. Đệ Tử
Quy là quy củ, Đệ Tử Quy là giới luật, là giới
luật cơ bản, [ai nấy] đều phải tuân thủ.
Ai nấy đều tuân thủ, có ai chẳng ḥa thuận?
Phải vâng giữ Đệ Tử Quy, phải giữ Thập
Thiện Nghiệp, phải giữ Tam Quy, phải giữ
Ngũ Giới; đó là giới điều cơ bản
trong đoàn thể của chúng ta, do đức Phật chế
định, chẳng thể vi phạm. Đấy là một
đoàn thể ḥa thuận, đúng pháp. Đoàn thể như
vậy, đạo tràng Phật giáo là một đoàn thể.
Nếu quư vị kinh doanh, buôn bán, mở tiệm, chủ
nhân và nhân viên đều áp dụng Lục Ḥa Kính, tiệm của
quư vị là một Tăng đoàn, sẽ được chư
Phật hộ niệm, long thiên thiện thần phù trợ
giống y hệt!
Thuở
trước, tôi có mấy người bạn già rất thân
tại Hương Cảng, hiện thời đều đă
khuất bóng cả rồi! Pháp sư Tẩy Trần, hễ
nói tới Sư, ai ở Hương Cảng cũng đều
biết, S ư qua lại rất
mật thiết với tôi, Sư cũng rất phát tâm. Tôi đă
từng khuyên Sư, v́ Sư là lănh tụ của Phật giáo
tại Hương Cảng; khi đó, tôi vừa mới ra giảng
kinh, thuyết pháp. Tôi liền thỉnh Sư, tôi nói: “Ngài hăy
dẫn đầu, chúng ta sát cánh phối hợp, t́m năm người
thật sự xuất gia, thật sự phát đại tâm
để tổ chức một tăng đoàn tu Lục Ḥa
Kính”. Sư rất hoan hỷ, nhưng sau khi quay về Hương
Cảng, lại chẳng nhắc tới nữa, chẳng dễ
ǵ làm được! Nếu trong thế gian này thật sự
xuất hiện một tăng đoàn, chẳng cần nhiều!
Cả thế giới xuất hiện một [Tăng đoàn],
tai nạn nhất định sẽ giảm nhẹ! Thành
viên trong Tăng đoàn ấy, ai nấy đều phải
thật sự hy sinh dâng hiến th́ mới có thể thực
hiện được! Triệt để buông xuống, sẽ
làm được. Chính ḿnh có ḷng ích kỷ, tiếng tăm,
lợi dưỡng, tham, sân, si, mạn, sẽ chẳng làm
được! Năm người, chẳng dễ dàng!
Nếu
khi đó pháp sư Tẩy Trần dẫn đầu thật
sự thực hiện, tôi tin là vẫn có thể thực hiện
được. Đáng tiếc là khi bàn bạc tuy rất hoan
hỷ, nhưng chẳng có quyết tâm và nghị lực thật
sự thực hiện. Hiện thời muốn làm, so với
thuở ấy đă khó hơn quá nhiều, sai lệch ba
mươi năm mà! Thuở ấy, người xuất
gia c̣n thật sự có tấm ḷng tốt đẹp, nay th́
hầu như đều tiêm nhiễm nghiêm trọng tiếng
tăm, lợi dưỡng, ai chịu buông xuống tiếng
tăm, lợi dưỡng? Ai chịu buông xuống hưởng
thụ ngũ dục, lục trần? Chẳng dễ dàng!
Nếu thật sự có năm người giống như
tôi và pháp sư Tẩy Trần bàn luận vào thuở ấy,
năm vị tỳ-kheo hoàn toàn sống theo lối sống
thời Thích Ca Mâu Ni Phật, khất thực. Có người
phụng hiến th́ được, chúng ta sẽ có một
đạo tràng, nhưng chúng ta học theo Thích Ca Mâu Ni Phật,
chỉ cần có quyền sử dụng, chẳng cần
quyền sở hữu. Sản nghiệp là của thí chủ,
chúng ta sử dụng, họ cho chúng ta mượn dùng. Khi
chúng ta chẳng dùng, trả lại cho họ. Chúng ta sống
cuộc đời đi khất thực, rất có ư vị!
Giữa trưa ăn một bữa, đại khái là chẳng
thể qua đêm dưới cội cây. Nếu chúng ta thật
sự thực hiện, Hương Cảng có rất đông
tín đồ, chắc chắn sẽ có nơi cúng dường
chúng ta.
Công
việc hằng ngày của chúng ta là ǵ? Chúng ta chẳng cần
làm pháp hội, chẳng cần làm kinh sám, hằng ngày cùng
nhau thảo luận kinh giáo, hoằng pháp lợi sanh. Giảng
kinh th́ bất cứ chỗ nào cũng đều có thể
giảng. Tín đồ có chỗ cho chúng ta mượn, năm
người thay phiên nhau giảng kinh, hằng ngày chẳng
gián đoạn. Thích Ca Mâu Ni Phật giảng suốt một
đời, mỗi ngày giảng tám giờ. Nay tinh thần lẫn
thể lực của chúng ta đều thua kém Ngài, mỗi
ngày giảng hai giờ, nếu có năm người luân lưu
giảng, khẳng định là pháp duyên thù thắng. Chỉ
cần có một đoàn thể như thế xuất hiện,
năm người ấy tâm địa thanh tịnh, chẳng
có mảy may ô nhiễm, xác thực là có thể giảm nhẹ
tai nạn trên cả thế giới. Tôi suốt đời
rất lưu ư, chẳng t́m được một ai! Ai nấy
nghe nói đều sanh tâm hoan hỷ, đều gật đầu,
cười hề hề, chẳng chịu làm!
[Sở
dĩ] chẳng thể [chính là v́ như] tôi thường nói
mười sáu chữ “tự
tư, tự lợi, danh văn, lợi dưỡng, ngũ
dục, lục trần, tham, sân, si, mạn”, phải thật
sự buông xuống mười sáu chữ ấy, quư vị
mới có thể làm “vi y, vi cứu”.
Nếu có mười sáu chữ ấy, quư vị đều
chẳng cứu được chính ḿnh, làm sao có thể cứu
người khác? Chớ nên sợ hăi! Kẻ mới học
Phật sợ nhất là sau khi ta thật sự thảy đều
buông xuống, cuộc sống ngày mai của chúng ta sẽ
ra sao? Mỗi người đều mang nỗi bận tâm ấy,
đấy là ǵ? Chẳng tín nhiệm đức Phật! [Thiên
hạ luôn tự nhủ]: “Đức Phật nói nghe êm tai lắm,
chưa chắc là thật, ngày mai ta đói rét th́ làm thế
nào đây? Ai sẽ quan tâm ta? Vẫn là phải tự ḿnh
nghĩ cách tự nuôi sống chính ḿnh”. Đấy là chẳng
có tín tâm đối với Phật! Suốt đời này,
tôi có thể đạt được thành tựu như
trong hiện thời, thưa cùng chư vị, chẳng có ǵ
khác, tôi có tín tâm đối với đức Phật. Đức
Phật dạy như thế nào, tôi tin tưởng, tôi chẳng
sợ hăi!
Năm
xưa, khi tôi c̣n trẻ, tôi nhớ lúc tôi bốn mươi
lăm tuổi. Bốn mươi lăm tuổi là thọ
mạng đă đến rồi. Năm ấy, kết hạ
an cư tại chùa Thập Phương Đại Giác ở
Cơ Long, Đài Loan. Lăo ḥa thượng là Linh Nguyên, Ngài cũng
là vị tôn chứng ḥa thượng khi tôi thọ giới.
Ngài mời tôi giảng kinh Lăng Nghiêm trong ba tháng an cư.
Tôi giảng chừng một tháng, tức là giảng tháng thứ
nhất, tôi nhớ là giảng xong ba quyển liền bị
bệnh. Trong tâm nghĩ “thọ mạng đă đến rồi”,
bèn niệm Phật cầu văng sanh. Tôi cũng chẳng t́m thầy
thuốc, cũng không uống thuốc, v́ tâm nghĩ “thầy
thuốc chỉ có thể trị bệnh, chẳng thể
trị mạng!” Thọ mạng đă tới rồi, c̣n nói
ǵ được nữa? Khi tôi giảng kinh, khuyên mọi
người phải tin Phật, đừng sợ cuộc
sống bấp bênh. Giảng đường ở ngay sau điện
thờ Vi Đà Bồ Tát. Phía sau [giảng đường]
là [điện thờ] Vi Đà Bồ Tát. Tôi bảo đại
chúng: “Vi Đà Bồ Tát là thần hộ pháp. Nếu chúng ta
hằng ngày giảng kinh, hằng ngày học Phật, hằng
ngày niệm Phật, chẳng làm kinh sám Phật sự, chẳng
làm pháp hội, chẳng cần qua lại với tín đồ,
mà nếu chúng ta đói rét, Vi Đà Bồ Tát sẽ bị
triệt chức, điều tra, Ngài quản chuyện ǵ vậy?”
Khi ấy, [những người] nghe tôi giảng kinh,
kết hạ an cư, đều là người xuất
gia, có khoảng bốn năm chục người xuất gia,
họ nghe tôi nói lời ấy đều hoảng hồn!
[Nói động tới] Vi Đà Bồ Tát đấy nhé! Tôi
nói tôi cũng tin Ngài. Cuộc sống khổ sở một
chút chẳng sao cả, nhất định là có thể sống
qua ngày th́ được rồi, bận tâm làm ǵ? Ngài trông nom
chuyện này, tôi tin tưởng Ngài, chẳng có một tí
hoài nghi nào! V́ thế, đời này tôi chẳng hóa duyên kẻ
khác một đồng nào! Dẫu khổ sở, chết đói,
tôi cũng sẽ chẳng x̣e tay xin ai một đồng nào,
chẳng thể có chuyện ấy! Sống cuộc đời
như vậy rất tốt, đúng là càng học càng tự
tại, đúng là “tâm tưởng
sự thành”.
Lúc
tôi mới học Phật mấy năm, v́ chẳng dễ
ǵ có được kinh sách. [Thuở ấy], lưu thông quá
ít, không ai in kinh sách. V́ thế, pháp sư Trí Khai đă giúp tôi
rất nhiều. Khi đó, chúng tôi chưa quen biết, tôi viết
thư gởi Ngài. Tôi là kẻ mới học Phật, nên gọi
Ngài là lăo pháp sư. Sau này, đến Hương Cảng gặp
mặt, [mới biết] hai người chúng tôi cùng tuổi.
Ở nơi đây, Sư lập Hương Cảng Phật
Kinh Lưu Thông Xứ, tôi nhờ cậy Sư, tôi muốn loại
kinh sách nào, Sư sẽ t́m giùm tôi. Khi đó, từ Đại
Lục có kinh sách cũ lưu thông đến Hương Cảng,
giá tiền cũng không quá đắt, sách thuộc loại
khâu gáy bằng chỉ, Sư thay tôi sưu tập. Rất
nhiều năm tôi đều trông cậy Sư. Sư đối
với tôi rất tốt. Khi đó, tôi mới xuất gia, rất
nghèo, chẳng có tiền. Sư gởi sách cho tôi, ghi sổ,
khi nào có tiền, sẽ trả cho Sư. Sư cũng chẳng
thúc giục, mà cũng chẳng ép tôi phải trả tiền,
giúp đỡ rất lớn! Suốt đời giảng
kinh, tôi niệm niệm chẳng quên chuyện này. V́ vậy,
mong cầu kinh sách, đúng là “tâm
tưởng sự thành”, muốn t́m sách nào, Sư đều
có thể t́m được cho tôi! Tôi ở Đài Trung, theo
thầy Lư học Phật, tôi dùng sách tham khảo, thầy Lư
trông thấy rất kinh ngạc. Thầy hỏi: “Lạ thật!
Làm sao con có nhiều thứ hay như vậy?” Tâm tưởng
sự thành, mong ǵ bèn có nấy. V́ thế, tuy cuộc sống
vật chất rất khổ, cuộc sống tinh thần
pháp hỷ sung măn! Điều tôi mong cầu đích xác là chánh
đạo mà!
Khi
tôi giảng kinh ở Cơ Long, có một vị pháp sư nay
chẳng c̣n nữa, tuổi cũng chẳng kém tôi cho mấy
là pháp sư Đức Dung. Khi tôi giảng kinh Địa Tạng,
Sư hằng ngày đều đến nghe, nghe tôi nói đến
chuyện “hữu cầu tất
ứng”. Ngày hôm đó, sau khi tan buổi giảng, Sư
đến t́m tôi nói: “Thưa pháp sư Tịnh Không! Có cầu
ắt ứng là giả, chẳng thật!” Tôi nói: “V́ sao là
giả?” [Sư đáp]: “Tôi cầu Phật cho một cái tủ
lạnh chạy điện, cầu đă ba năm, chẳng
có ai tặng cho tôi!” Tôi nói: “Đạo tràng của thầy
có bao nhiêu người ở?” Sư đáp: “Chỉ có một
ḿnh tôi”. “Một người th́ cần ǵ tủ lạnh? Cầu
chẳng đúng pháp!” Tôi nói: “Tôi có sự cảm ứng ấy.
‘Có cầu ắt ứng’ là
do Chương Gia đại sư dạy tôi, tôi tin tưởng
lời thầy. Huynh thấy đó, tôi cầu những kinh
sách, chẳng có lần nào thất bại. Chỉ có khi tôi cầu
một bộ Trung Quán Luận Sớ, mong cầu bộ sách
ấy [là hơi lâu]. Bộ sách ấy phải mất thời
gian rất dài, pháp sư Trí Khai mất nửa năm mới
t́m được cho tôi, mất thời gian sáu tháng. Thông
thường, Sư t́m sách cho tôi, đại khái là chưa tới
hai tháng là có thể t́m được giùm tôi rồi. Bộ
sách ấy mất sáu tháng. Chẳng hề không có cảm ứng,
tôi đối với lời Phật, đối với lời
thầy, chẳng hoài nghi tí nào!” Đúng lư, đúng pháp để
cầu, Chương Gia đại sư dạy tôi chuyện
này! Quư vị chẳng đúng lư, chẳng đúng pháp, sẽ
chẳng thể cảm ứng. Đúng lư, đúng pháp, thật
sự tu học, xác thực là cần thiết, chẳng có lẽ
nào không cảm ứng!
Lăo nhân gia dạy tôi bố thí. Tôi thật
sự bố thí sạch sành sanh. Hễ có, liền thí. Học
Phật chưa hề nghĩ chúng tôi nghiễm nhiên có năng
lực bố thí Đại Tạng Kinh, chẳng thể
nghĩ bàn! Bố thí bao nhiêu bộ Đại Tạng Kinh?
Tôi tính toán sơ lược, vượt quá năm ngàn năm
trăm bộ! Lịch đại đế vương
trong quá khứ cũng chưa từng in nhiều Đại
Tạng Kinh như vậy, đúng là có cầu ắt ứng!
Hiện thời, đối với Tạng Kinh của chúng
ta, khi xưa, tôi đă in hai lần, in chung với người
ta, in chung với thư cục. Một ngàn bộ th́ tôi [chịu
tiền in] bốn trăm bộ, thư cục in sáu trăm
bộ. Chúng tôi làm hai lần, tức là tám trăm bộ. Tôi
c̣n mua một số, sớm nhất là trong nước có người
hướng về tôi xin Đại Tạng Kinh, chỉ cần
tôi có đủ tiền, sẽ mua tặng cho họ. Đại
khái là cũng đă mua chừng hai, ba chục bộ. Sau này,
được cúng dường nhiều hơn, tôi bèn in
Đại Tạng Kinh. Năm trước, các đồng
tu chúng ta tích góp một món tiền, phát tâm in bốn ngàn bộ.
Trước tiên là in hai ngàn bộ, vào năm kia và năm ngoái
đă in xong, biếu tặng toàn thể thế giới. Năm
nay, nghe nói một ngàn bộ đă in xong, sang năm c̣n có một
ngàn bộ nữa; tổng cộng là đă hơn năm ngàn
năm trăm bộ. Chẳng thể nghĩ bàn, Pháp Bố
Thí đấy nhé! V́ thế, muốn có sách, bất luận là
kinh Phật hay sách vở thế gian, đều có thể đạt
được!
Sách vở lớn nhất
trong thế gian là Tứ Khố Toàn Thư, [hoặc dạng
rút gọn của nó là] Tứ Khố Toàn Thư Hội Yếu,
nhất là bộ Hội Yếu. Tôi có một bộ Toàn Thư
để ở Úc. Tôi nhớ, tính thử, trước sau đă
mua tất cả bốn mươi chín bộ Hội Yếu.
Lúc đầu là lẻ tẻ, có tiền th́ mua, mua tặng
cho Trung Quốc Đại Lục. Mỗi tỉnh, thành thị
đặc biệt, khu tự trị, tôi chọn lựa một
trường đại học để tặng [mỗi
nơi] một bộ. Khi đó, đă tặng cho Trung Hoa tất
cả là ba mươi hai bộ. Trong ba mươi hai bộ
ấy, Bắc Kinh được hai bộ. Thư viện
Bắc Kinh xin tôi một bộ, nên thành phố ấy có hai
bộ. Thượng Hải có hai bộ, thư viện
Thượng Hải cũng xin tôi tặng một bộ. Tại
Thượng Hải là đại học Phục Đán, tại
Bắc Kinh là trường Bắc Đại (đại học
Bắc Kinh). Tặng lần lượt nhiều như vậy,
tôi làm chuyện ấy. Tôi chẳng dùng khoản tiền ấy
để dựng đạo tràng, chẳng có! Tôi không làm chuyện
ấy!
Đạo tràng đều là do thính chúng cảm thấy
rất cần thiết, chính họ tính toán kiếm tiền
dựng đạo tràng, tôi chẳng quan tâm tới. Tôi chưa
hề hỏi đến chuyện này, không nghe, không hỏi
tới, tâm mới thanh tịnh. Trong tâm quư vị có những
chuyện ấy, làm sao có thể thanh tịnh cho được?
Ngay cả sách vở, tôi cũng đều quyên hiến toàn
bộ cho thư viện. Ở Úc, chúng tôi có Tịnh Tông Học
Hội, đấy là đạo tràng tạo lập cho những
vị trẻ tuổi [có pháp hiệu] mang chữ Ngộ, có
lập một thư viện. Tất cả những sách vở
tôi đă thu thập đều để ở đó. Tôi dùng
th́ có thể mượn dùng; dùng xong sẽ trả lại, quư
vị nói có phải là tự tại lắm hay không? Buông xuống
th́ mới được, vấn đề ở chỗ không
chịu buông xuống! Hễ buông xuống, thật sự là
có cầu ắt ứng. Quư vị v́ mọi người, mọi
người v́ quư vị; do vậy, điều kiện
để “thống lư đại
chúng” là tâm yêu thương, quan hoài, hỗ trợ hợp
tác, ai nấy đều phải học. Giữa mọi người
với nhau, phải nương tựa lẫn nhau, giúp
đỡ lẫn nhau. V́ thế, hiệp trợ chính là ư nghĩa
của chữ Cứu.
Câu
cuối cùng…
(Sớ)
Nguyện tha đắc đệ nhất vị, nhập bất
động pháp, tắc tự thành tựu siêu thắng đệ
nhất đức.
(疏)願他得第一位入不動法,則自成就超勝第一德。
(Sớ:
Nguyện cho người khác đạt được
địa vị đệ nhất, nhập pháp bất
động, sẽ thành tựu phẩm đức siêu thắng
bậc nhất của chính ḿnh).
Nguyện
này chính là nguyện cho chúng sanh thành tựu Phật quả rốt
ráo viên măn. “Đệ nhất vị”
chính là địa vị Diệu Giác. “Nhập bất động pháp”: Bất động
pháp chính là đại Niết Bàn, thanh tịnh tịch diệt.
“Tịch diệt”: “Diệt” (滅) là diệt tập khí vô minh từ vô thỉ. Khi đạt
đến địa vị Diệu Giác, chẳng có tập
khí vô thỉ vô minh, diệt điều này. Trí huệ, đức
năng, và tướng hảo hiện tiền viên măn. V́ thế,
gọi là Viên Tịch (圓寂), là Tịch Diệt. “Tịch”
(寂) là thanh tịnh, đoạn hết
tập khí vô minh. Đẳng Giác Bồ Tát c̣n có một phẩm
sanh tướng vô minh chưa đoạn; v́ thế, chẳng
thể nói là địa vị Tịch Diệt rốt ráo. Nhất
định phải là địa vị Diệu Giác th́ mới
thật sự đạt đến địa vị Tịch
Diệt rốt ráo!
Chúng
ta đọc câu này, nhất định phải hiểu: Đây
là mục tiêu chung cực trong việc học Phật của
chúng ta. Cuối cùng, chúng ta mong mỏi đạt được
quả vị này. Cao hơn Đẳng Giác, Đẳng Giác
là địa vị thứ hai, c̣n đây là địa vị
Diệu Giác. Thế nhưng mục tiêu là ở chỗ này,
tu học vẫn theo thứ tự. Giống như chúng ta cầu
học, nguyện vọng là trong tương lai sẽ giành
được học vị cao nhất, tức là giành
được học vị Tiến Sĩ; nhưng học
hành th́ vẫn phải học từ Tiểu Học, từ
Trung Học, từ Đại Học, từ Cao Học, tiến
theo thứ tự, chẳng có cách nào vượt cấp.
Mong nhảy qua một cấp, chẳng thể được!
Phải hiểu đạo lư này! Đối với địa
vị của chúng ta trong hiện tiền, ngay cả địa
vị Sơ Tín Bồ Tát, kinh Hoa Nghiêm nói năm mươi
mốt tầng cấp, từ Sơ Tín cho đến Diệu
Giác là năm mươi mốt tầng cấp; ngay cả tầng
cấp đầu tiên (tức Sơ Tín), giống như lớp
Một của Tiểu Học, chúng ta c̣n chưa đạt
được. Hiện thời, phải làm thế nào
để vào học lớp Một Tiểu Học? Mục
tiêu của chúng ta là học vị cao nhất, tức Phật
Đà. Phải học từ địa vị Sơ Tín, chớ
nên không biết điều này!
Sơ
Tín Bồ Tát học từ chỗ nào? Phải biết, [học]
từ Thập Thiện Nghiệp Đạo. Không sát sanh,
không trộm cắp, không dâm dục, không nói dối, không nói
đôi chiều, không nói thêu dệt, không ác khẩu, không
tham, không sân, không si. Nhập môn từ chỗ này, thực hiện
từ chỗ này, quư vị mới có thể tiến nhập,
mới có thể đạt được địa vị
thứ nhất, giống như chúng tôi nói “[vào học] lớp Một Tiểu Học”. Tuy
địa vị không cao, chẳng thể thoát khỏi lục
đạo luân hồi, nhưng hết sức tôn quư. V́ sao?
Chứng đắc địa vị Sơ Tín Bồ Tát, vị
[Bồ Tát] ấy sẽ chẳng thoái chuyển. Tuy ở trong
lục đạo, quyết định chẳng đọa
vào ba ác đạo. Quư vị muốn hỏi v́ sao ư? V́ vị
ấy tu học chẳng tham, chẳng sân, chẳng si. Tham,
sân, si là cái nhân của ba ác đạo. Tuy trong A Lại Da Thức,
xác thực là có tham, sân, si nghiêm trọng từ đời quá
khứ, đó là nghiệp nhân của ba ác đạo. Nhân phải
gặp duyên th́ mới có thể dấy lên hiện hành.
Đời này học Phật, đoạn dứt cái duyên tham,
sân, si. Chẳng tham là chẳng có duyên của ngạ quỷ
đạo, quư vị sẽ chẳng đọa trong ngạ
quỷ đạo. Chẳng sân, duyên của địa ngục
đạo bị đoạn dứt, quư vị sẽ chẳng
đọa vào địa ngục đạo. Chẳng si là
duyên trong súc sanh đạo bị đoạn dứt, quư vị
sẽ chẳng đọa làm súc sanh. V́ thế, Sơ Tín Bồ
Tát trong Viên Giáo vĩnh viễn chẳng đọa vào ba ác
đạo, đạo lư ở chỗ này.
Từ
vị trí này, dần dần tiến lên cao hơn, lên tới
địa vị Thất Tín, sẽ vượt thoát lục
đạo luân hồi. Xét theo công phu đoạn chứng của
hàng Bồ Tát thuộc địa vị Thất Tín, Kiến
Tư phiền năo thảy đều đoạn sạch.
Chư vị phải biết, Bồ Tát thuộc địa
vị Sơ Tín và Sơ Quả Tu Đà Hoàn của Tiểu
Thừa đoạn phiền năo giống như nhau, tức là đoạn
hết tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc thuộc
tam giới. Những điều tôi vừa mới nói là nói một
cách đơn giản, nhưng có cùng một đạo lư. Đă
đoạn tham, sân, si, chẳng tham, chẳng sân, chẳng
si, đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất
thế gian chẳng có tham, sân, si, chính là Tiểu Thừa Sơ
Quả, [tương ứng với] Sơ Tín của Đại
Thừa. Nếu tiến cao hơn, đoạn Tư Hoặc,
đạt đến địa vị Thất Tín. Đoạn
hết Tư Hoặc, tức là đoạn sạch tám
mươi mốt phẩm Tư Hoặc trong tam giới. Chứng
quả vị như vậy, trong Tiểu Thừa là địa
vị A La Hán, c̣n quả vị trong Đại Thừa là địa
vị Thất Tín Bồ Tát. Các Ngài đến nơi đâu?
Tứ thánh pháp giới. Địa vị Thất Tín là A La
Hán; địa vị Bát Tín là Bích Chi Phật; địa vị
Cửu Tín là Bồ Tát; địa vị Thập Tín là Phật,
tức là Phật trong mười pháp giới, tông Thiên Thai
gọi [địa vị ấy là] Tạng Giáo Phật, c̣n
tông Hiền Thủ gọi [địa vị ấy] là Tiểu
Giáo Phật. Ngũ giáo theo tông Hiền Thủ là Tiểu, Thỉ,
Chung, Đốn, Viên. Tiểu Giáo Phật chưa kiến tánh,
Ngài thuộc địa vị Phật, là tột đỉnh
trong mười pháp giới. Nếu lại tăng cao hơn
một tầng, sẽ là chân Phật, chẳng phải là giả
Phật. Phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp
Thân; đó là chân Phật.
Trong
Hoa Nghiêm đă giảng chuyện này rất rơ ràng. Từ
đấy trở đi, thảy đều là đoạn tập
khí vô thỉ vô minh, cũng tức là Sơ Trụ Bồ Tát.
Đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất
thế gian, chẳng có chấp trước, chẳng có phân
biệt, không khởi tâm, không động niệm, cũng có
thể nói là “nhập bất động
pháp”. Trong pháp bất động có đẳng cấp [là
v́ tuy đă] thật sự nhập pháp bất động,
nhưng tập khí vô minh của vị ấy vẫn c̣n. Tập
khí có gây trở ngại về mặt Sự hay không? Chẳng
trở ngại Sự, nhưng vẫn phải đoạn trừ
nó. V́ thế, bốn mươi mốt giai cấp trong thế
giới Hoa Tạng chẳng thể nói là “có”, mà cũng chẳng
thể nói là “không có”. Nếu quư vị bảo là “có”, xét theo
h́nh tượng th́ hoàn toàn b́nh đẳng, chẳng có! Nếu
quư vị bảo là “chẳng có”, bốn mươi mốt địa
vị Bồ Tát ấy kèm theo tập khí nhiều hay ít xác thực
là chẳng giống nhau. Đạo lư là như vậy đó.
Nhất định [là phải đạt] đến địa
vị Diệu Giác, tức địa vị thứ bốn
mươi hai, th́ mới là hoàn toàn chẳng có, tức là chẳng
có tập khí vô thỉ vô minh. Chúng ta phải hiểu đạo
lư này!
Nay
chúng ta đang là sơ học, thuộc bước khởi
đầu, Thập Thiện Nghiệp trọng yếu, Tam
Quy, Ngũ Giới trọng yếu! Tam Quy là “giác, chánh, tịnh”. Trong Đàn Kinh, Lục Tổ
Huệ Năng đại sư đă nói rất hay, Ngài dạy
rất minh bạch. Ngài chẳng nói “quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng”, chẳng phải
vậy! Ngài nói “quy y giác, quy y chánh,
quy y tịnh”. Ngài nói đến “giác, chánh, tịnh”. “Giác,
chánh, tịnh” là Tự Tánh Tam Bảo, là Tự Tánh Bổn
Giác của chúng ta. Tự tánh vốn giác, tự tánh vốn chánh,
tự tánh vốn thanh tịnh; đấy mới là chỗ
quy y thật sự của chúng ta. Quy y, nói cách khác, sẽ là
“trở về tự tánh”.
Trụ Tŕ Tam Bảo có hữu dụng hay không? Nói theo phía người
thật sự tu hành th́ hữu dụng, v́ sao? Trụ Tŕ Tam
Bảo nhắc nhở quư vị! Trông thấy tượng Phật,
bèn nghĩ đến Bổn Giác nơi tự tánh của chúng
ta. Như tôi vừa mới nói, vốn trọn đủ
tam trí, tam giác viên măn, tự tánh của ta là như vậy.
Trông thấy Pháp Bảo, thấy kinh sách, lập tức nghĩ
đến “chánh chứ không tà”. Tâm chánh, “tâm” ở đây là nói đến dụng tâm, xử
sự, đăi người tiếp vật, tâm quư vị là
chánh, chẳng tà. Trông thấy người xuất gia, chẳng
quan tâm người ấy tŕ giới hay phá giới, thảy
đều chẳng liên quan đến ta. Trông thấy người
ấy, sẽ nhắc nhở [chính ḿnh] sáu căn thanh tịnh,
chẳng nhiễm mảy trần, chính ḿnh phải đạt
đến sáu căn thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy
trần. Người ấy nhắc nhở ta, mặc loại
y phục ấy nhằm nhắc nhở chúng ta. Do vậy,
người ấy chính là thiện tri thức của ta. Chẳng
có người ấy nhắc nhở, ta sẽ thường
quên bẵng!
Đối
với sự tu hành của chúng ta, Tự Tánh Tam Bảo thời
thời khắc khắc nhắc nhở quư vị, công đức
ấy quá to. Như đối với một người xuất
gia, chẳng quan tâm hạnh nghiệp của chính người
ấy, ai có nhân quả nấy, ai nấy tự chịu trách
nhiệm, nhưng h́nh tướng của người ấy
khiến cho hết thảy chúng sanh gieo thiện căn. Người
ấy đi một ṿng bên ngoài, quư vị thấy bao nhiêu người
nh́n thấy, vừa thấy người đó, [bèn nghĩ
đến] “Phật”. Hữu ư hay vô t́nh, đă in Phật vào
trong A Lại Da Thức [của họ], chẳng phải là
đă gieo thiện căn ư? Người thế tục
chẳng có công đức ấy! Mặc quần áo thông
thường, quư vị la cà trên đường phố suốt
cả ngày, cũng chẳng có ai trông thấy quư vị bèn
nghĩ đến chữ Phật, chẳng có! Nhưng
người xuất gia vừa đi ra ngoài, kẻ khác trông
thấy, [liền nghĩ đến] “Phật”, trong A Lại
Da đă có Phật, đă gieo chủng tử! Đấy là công
đức của người ấy, h́nh tướng
đấy nhé!
V́
thế, có cần Trụ Tŕ Tam Bảo hay không? Cần chứ!
Tượng Phật, kinh sách, người xuất gia, cần
lắm! Chẳng có, sẽ không được! Lúc không có, [người
đời] sẽ quên tuốt luốt. Họ thời thời
khắc khắc nhắc nhở chúng ta, chúng ta phải tôn kính
họ, phải cúng dường họ. Đối với sự
tán thán, Phổ Hiền Bồ Tát đă dạy chúng ta: Nếu
người ấy thật sự hữu tu, hữu học,
có đức hạnh, bèn tán thán. Nếu chẳng có đức
hạnh, chẳng tu tŕ, sẽ chẳng tán thán, [nhưng vẫn]
lễ kính và cúng dường. V́ sao phải cúng dường?
H́nh tướng của họ thường nhắc nhở
ta, họ có lợi cho ta, ta chẳng thể không cúng dường
họ! Họ lại c̣n gieo thiện căn cho hết thảy
chúng sanh, đương nhiên là ta phải cúng dường.
V́ thế, chẳng thể thiếu lễ kính và cúng dường
được! Tán thán hay không tán thán, tùy thuộc người
ấy có đức hạnh hay không! Chẳng có đức
hạnh, chớ nên tán thán! Kinh Hoa Nghiêm đă dạy điều
này rất rơ ràng, rất minh bạch, chúng ta phải y giáo phụng
hành.
V́
thế, biết địa vị hiện tiền của
chúng ta hăy nên học tập như thế nào? Khế nhập
cảnh giới thuộc địa vị Thập Tín như
thế nào? Sau khi đă khế nhập, làm thế nào để
từng bước tiến cao hơn? Khi ấy, quư vị sẽ
là pháp hỷ sung măn, tức là như thầy Phương đă
nói: “Sự hưởng thụ
cao nhất trong đời người”, quư vị mới
thật sự lănh hội, thật sự có thể đạt
được. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng
tôi giảng tới chỗ này!
Tập 1498
Chư vị đồng học,
xin mời ngồi xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh
thứ mười một, xem tiếp tiết khai thị
cuối cùng thuộc đoạn thứ ba của phần
Biệt Hiển (別顯) trong lời
chú giải của Thanh Lương đại sư. Chúng tôi
đọc kinh văn một lượt.
(Sớ) Dĩ tư thập nhất,
phối thượng đáp trung tổng biệt thập nhất
đoạn, văn tịnh khả tri, thông biệt giao lạc,
ưng thành tứ cú, vị “nhất thiết nguyện thành
nhất đức, nhất thiết nguyện thành nhất
thiết đức” đẳng, dĩ nhân nguyện nhất
đa tương tức, cố thành đức diệc nhất
đa dung dung.
(疏)以斯十一,配上答中總別十一段,文並可知,通別交絡,應成四句,謂一切願成一德,一切願成一切德等,以因願一多相即,故成德亦一多鎔融。
(Sớ: Dùng mười một
đoạn ấy để phối hợp với mười
một đoạn Tổng và Biệt trong lời đáp trên
đây, [có thể dễ dàng đối chiếu để]
nhận biết kinh văn [tương ứng với nhau
như thế nào]. Thông và Biệt đan xen với nhau, đáng
nên hợp thành bốn câu, tức là “hết thảy nguyện
thành một đức”, “hết thảy nguyện thành hết
thảy đức” v.v… Bởi lẽ, do nguyện là “một
chính là nhiều, nhiều chính là một”; v́ thế, đức
được tạo thành [bởi các nguyện ấy] cũng
là một và nhiều dung hợp).
Chúng ta xem đoạn này.
Mười một đoạn thuộc phần Biệt Hiển
trong phần trước, chúng ta đă đọc rồi,
biết [phải nên] học tập như thế nào. Ở
đây là tổng kết mười một đoạn ấy,
phối ứng câu trả lời của Văn Thù Bồ
Tát với [những câu hỏi của] Trí Thủ Bồ Tát trong
phần trên. Mười một đoạn ấy phối
hợp với kinh văn rất rơ ràng; nhưng câu quan trọng
nhất vẫn là câu trả lời đầu tiên của
ngài Văn Thù: “Nhược
chư Bồ Tát thiện dụng kỳ tâm, tắc hoạch
nhất thiết thắng diệu công đức” (Nếu
các vị Bồ Tát khéo dùng cái tâm, sẽ đạt
được hết thảy công đức thù thắng,
nhiệm mầu). Chúng ta phải nhớ kỹ câu này! Then chốt
trong sự học Phật là ở chỗ quư vị có biết
dụng tâm hay không? “Khéo dùng cái
tâm” là ǵ? Mười một câu ấy đă nói rất rơ
ràng, rất minh bạch. Mười câu trong phần Biệt
Hiển và một câu trong phần Tổng Hiển, tổng
cộng là mười một câu.
Bồ Tát từ bi, chỉ sợ
chúng ta chẳng có cách nào thực hiện “khéo dùng cái tâm”, tức là trong cuộc sống hằng
ngày, trong công việc, xử sự, đăi người tiếp
vật, dụng tâm như thế nào? Tâm là đại Bồ
Đề tâm. Nay nhằm thuận tiện, chúng tôi diễn
tả đại Bồ Đề tâm bằng năm câu, chẳng
phải là ba câu. Trong kinh luận đều nói bằng ba câu,
nói thông thường là “ba tâm”.
Trong Phật môn thường nói “tam
tâm viên phát” chính là ư nghĩa này. “Viên” (圓) là viên măn, ba tâm ấy phát
xuất viên măn. Đó là hạng người nào? Chính là Sơ
Trụ Bồ Tát, [hoặc c̣n gọi là] Phát Tâm Trụ. Ba
tâm thật sự phát xuất viên măn, không chỉ là chẳng
ở trong lục đạo, chẳng ở trong mười
pháp giới, mà người ấy đă đạt đến
Nhất Chân pháp giới, đến thế giới Cực
Lạc. Các đồng học niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ phải biết, v́ sao? [Điều này] có liên quan
đến chuyện quư vị có thể văng sanh trong tương
lai hay không!
Kinh Vô
Lượng Thọ đă dạy minh bạch. Quư vị xem hai
phẩm Tam Bối Văng Sanh và Văng Sanh Chánh Nhân, [sẽ thấy]
giảng rơ ràng lắm! Bất luận là thượng bối,
trung bối, hay hạ bối, cho đến nhất tâm tam
bối, hay tu học những pháp Đại Thừa khác th́
điều kiện để văng sanh là tám chữ: “Phát Bồ
Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”. Quư vị chỉ biết “nhất hướng chuyên niệm” (một mực
chuyên niệm), chẳng phát Bồ Đề tâm, trong tương
lai đến khi lâm chung, chẳng thể văng sanh, cũng đừng
nên trách Phật, Bồ Tát, cũng đừng trách móc kinh
điển, người ta đă giảng rơ ràng! Đối
với tám chữ, quư vị chỉ thọ tŕ bốn chữ,
chẳng có “phát Bồ Đề
tâm”, chẳng được rồi! Bồ Đề
tâm là ǵ, chớ nên không hiểu rơ ràng. Kinh Quán Vô Lượng
Thọ Phật giảng “chí
thành tâm, thâm tâm, hồi hướng phát nguyện tâm”; trong
Đại Thừa Khởi Tín Luận, Mă Minh Bồ Tát giảng
là “trực tâm, thâm tâm, đại
bi tâm”. Hợp chung kinh luận lại để xem, sẽ
thấy rất rơ ràng!
Chúng
tôi vẫn sợ các đồng học mới học chẳng
thể liễu giải minh xác những ư nghĩa được
bao hàm trong Bồ Đề tâm; v́ thế mới bất
đắc dĩ nói thành năm thứ tâm. Chúng tôi gọi chí
thành tâm và trực tâm là chân thành tâm. Thâm tâm chẳng dễ hiểu!
Thâm tâm là tự lợi, có nghĩa là quư vị dùng cái tâm ǵ
để đối đăi chính ḿnh, [đấy chính là] “khéo dùng cái tâm”! Hễ khéo dùng
cái tâm để đối đăi chính ḿnh th́ là thâm tâm. Chúng
tôi nói ba cái tâm ấy, mọi người sẽ dễ hiểu!
Ba tâm ấy chẳng phải là nói tùy tiện! Trong tựa
đề của kinh Vô Lượng Thọ đấy nhé, quư
vị nói xem [ba tâm ấy] quan trọng cỡ nào? Tựa
đề kinh nêu ra “thanh tịnh,
b́nh đẳng, giác”. Đối đăi chính ḿnh th́ phải
biết tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh là quyết định
chẳng ô nhiễm. Quư vị nghĩ xem, hễ có ư niệm
ích kỷ, tâm quư vị chẳng thanh tịnh. Quư vị c̣n có
tiếng tăm, lợi dưỡng, c̣n có ngũ dục, lục
trần, c̣n có tham, sân, si, mạn, thảy đều chẳng
thanh tịnh! V́ thế, ngũ dục, lục trần, tham,
sân, si, mạn, thảy đều phải buông xuống,
chúng ta mới có thể đạt được cái tâm thanh
tịnh. Đấy là đối với chính ḿnh.
Tâm
b́nh đẳng: Tâm b́nh đẳng th́ quư vị chẳng có
ngạo mạn, đối đăi hết thảy chúng sanh đều
giống như đối đăi chư Phật. Trong đại
kinh (kinh Đại Thừa) thường nói: “Sanh Phật b́nh đẳng”, [nghĩa là] chúng sanh và Phật
b́nh đẳng. Chúng ta lễ kính chư Phật như thế
nào, sẽ lễ kính chúng sanh như thế ấy, làm sao có
thể giải đăi, khinh mạn cho được? Phổ
Hiền Bồ Tát chính là pháp tối thượng thừa.
Đối với giác, tôi thêm vào một chữ [Chánh, thành]
Chánh Giác, giác chứ không mê. Đấy là đối với
chính ḿnh. Hiện thời nói th́ dễ lắm, thực hiện
rất khó khăn. Thực hiện như thế nào? Đọc
tụng Đại Thừa. Nếu có cơ hội nghe kinh,
sẽ càng tốt hơn. Kinh chẳng thể không nghe! Kinh
chẳng thể không đọc! Nếu quư vị chẳng
nghe kinh, chẳng đọc kinh, sẽ thoát ĺa Phật. Thoát
ĺa một ngày, quư vị đă bị xă hội, đấy
là một cái ṿ nhuộm lớn, quư vị đă bị nó ô
nhiễm một ngày. Hai ngày không nghe kinh, quư vị đă bị
ô nhiễm hai ngày. Ô nhiễm nghiêm trọng, trong là tập
khí phiền năo rất nặng, ngoài là hoàn toàn ô nhiễm. Chớ
nên không biết điều này!
Phương
pháp hiệu quả nhất để pḥng ngừa ô nhiễm
là đọc tụng Đại Thừa, ta hằng ngày tiếp
cận Phật, Bồ Tát. Đối với sự ô nhiễm
trong xă hội hiện tại, ô nhiễm nghiêm trọng nhất
là TV và điện ảnh. Đối với âm nhạc và
nhảy múa trong hiện thời, quư vị hăy ngẫm xem, có
ǵ chẳng phải là ô nhiễm? Ngay cả quảng cáo thương
nghiệp, chúng ta ra phố, quư vị nh́n thấy thứ này,
thứ nọ, quư vị có thể chẳng bị ô nhiễm
hay không? Người chẳng bị ô nhiễm chính là thánh
nhân. Thánh nhân là người đă hiểu minh bạch. Quư vị
c̣n bị ô nhiễm, tức là kẻ hồ đồ!
Người minh bạch là giác, người ấy chẳng
bị ô nhiễm, chẳng tiếp xúc. Người ấy hằng
ngày tiếp xúc thánh hiền; tiếp xúc kinh điển chính
là tiếp xúc thánh hiền. Đọc sách thánh hiền trong
thế gian và xuất thế gian, có niềm vui trong ấy, đối
với chính ḿnh là đă khéo dùng cái tâm để đối đăi
chính ḿnh. Khéo dùng cái tâm đối đăi người khác th́
gọi chung là từ bi, đại từ đại bi. [Ḷng
từ bi ấy] chẳng có điều kiện, thấy người
khác bị khổ bèn giúp đỡ họ. Dẹp khổ là
bi tâm. Giúp cho người khác được vui là từ
tâm. V́ thế, ư nghĩa của hai chữ “từ bi” là “cứu
khổ, giúp cho người khác được vui”, ĺa khổ
được vui. Giúp họ ĺa khổ là bi tâm; giúp họ
được vui là từ tâm. Phải ĺa khổ rốt
ráo, đạt được niềm vui rốt ráo. Đấy
là chân từ bi.
Thoát
ĺa nỗi khổ rốt ráo, nỗi khổ trong lục
đạo, nỗi khổ trong tam đồ. Quư vị làm
thế nào để có thể giúp đỡ hết thảy
chúng sanh thoát ĺa lục đạo luân hồi, giúp đỡ
hết thảy chúng sanh văng sanh Tịnh Độ, giúp đỡ
chúng sanh viên thành Phật đạo? Đấy chính là đạt
đến niềm vui rốt ráo. Những chuyện này thực
hiện từ nơi đâu? Nhất định là phải
làm bắt đầu từ bản thân. Chúng ta c̣n chưa đọc
đến phần kệ tụng, nhưng đọc lời
vấn đáp giữa Trí Thủ Bồ Tát và Văn Thù Bồ
Tát trong đoạn trước. Đoạn văn ấy cũng
khá dài, chúng tôi cũng đă nói rất chi tiết, rất
nghiêm túc học tập. Bồ Tát từ bi, vấn đáp toàn
là dạy chúng ta phải thực hiện từ chính bản
thân! Do vậy, tu tŕ trong Phật pháp không ở bên ngoài, mà ở
nơi chính ḿnh, đă tự độ rồi, sau đấy
mới có thể độ kẻ khác! Nếu chính ḿnh chưa
đắc độ mà mong độ kẻ khác, chẳng có
lẽ ấy! Lời này do chính đức Phật dạy.
Muốn độ chúng sanh, trước hết phải độ
chính ḿnh.
Chúng
ta hy vọng hết thảy chúng sanh đạt được
tâm thanh tịnh, chính ḿnh phải đạt được
cái tâm thanh tịnh trước đă, chính ḿnh phải chẳng
bị ô nhiễm trước đă. Chúng ta muốn giúp chúng
sanh đạt được cái tâm b́nh đẳng, bản
thân chúng ta phải đoạn tham, sân, si, mạn trước!
Đoạn chẳng được, trước hết là
phải chế phục chúng, tức là phải nguội bớt
tham, sân, si, mạn, phải giảm nhẹ. Mỗi năm một
nhẹ hơn, tức là công phu của chúng ta có tiến bộ,
đấy là chuyện tốt đẹp. Chẳng thể
nói là đă học bao nhiêu năm, tham, sân, si, mạn vẫn
chẳng biến đổi một phần nào, vẫn y như
cũ, chẳng có tí xíu tiến bộ nào! Nếu tham, sân, si,
mạn mỗi năm một tăng trưởng, vậy
th́ quư vị thứ ǵ cũng chẳng học được.
Nói theo Phật pháp, quư vị mỗi năm một thụt
lùi, làm sao có thể đạt thành tựu cho được?
Hiện
thời, Phật pháp khó khăn, khó ở chỗ quư vị
không buông xuống được. Quư vị buông xuống
được, sẽ chẳng khó. Nhưng có chịu buông
xuống hay không, vấn đề này chính là giác hay mê!
Người mê chẳng chịu buông xuống, người giác
mới buông xuống. V́ thế, giác là thấy thấu suốt.
Thấy thấu suốt, sẽ tự nhiên buông xuống. Buông
xuống lại giúp cho quư vị thấy thấu suốt.
Thấy thấu suốt từng tầng một, buông xuống
từng tầng một, từ Sơ Phát Tâm cho đến địa
vị Như Lai là năm mươi hai tầng cấp th́ mới
có thể thành tựu. Học Phật, các đồng học
Tịnh Tông đều biết, thuận tiện nhất, ổn
thỏa nhất, cũng như tốc độ nhanh nhất,
thù thắng nhất, không ǵ hơn nổi niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ. Khai thị trọng yếu nhất
trong niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ là “phát Bồ Đề tâm, nhất
hướng chuyên niệm”. Kinh Vô Lượng Thọ dạy
như vậy; điều cuối cùng trong Tịnh Nghiệp
Tam Phước của Quán Kinh, “phát
Bồ Đề tâm, đọc tụng Đại Thừa”,
trong ấy c̣n có một câu “tin
sâu nhân quả”, tức là “phát
Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại
Thừa”, câu sau đó là “v́
người khác diễn nói”. “Diễn” (演) là ǵ? Biểu diễn. Ta dùng gương tu hành của
chính ḿnh để biểu diễn cho mọi người thấy;
đấy là Diễn. Sau khi kẻ khác trông thấy, sẽ
hướng về quư vị thỉnh giáo, quư vị lại
giảng cho họ. Họ sẽ hiểu rơ, cũng mong bắt
chước, cũng mong học theo quư vị. Bản thân quư
vị chẳng có thành tựu, người ta sẽ không hỏi,
không học theo quư vị. Bản thân quư vị phải nêu ra
được thành tích tu học! Trong phần trước
đă nói về điều này rất nhiều, trong phần
sau sẽ c̣n nói đến.
Trong
lời tổng kết, “nhất
thiết nguyện thành nhất đức, nhất thiết
nguyện thành nhất thiết đức” (hết thảy
nguyện thành một đức, hết thảy nguyện
thành hết thảy đức). Đấy chính là như
kinh Hoa Nghiêm thường nói: “Một
chính là nhiều, nhiều chính là một, một và nhiều
chẳng hai”. Hết thảy các nguyện thành một
đức, một nguyện thành hết thảy các đức,
đấy mới là Lư Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại
như Thanh Lương đại sư đă nói. “Nhất đa tương tức”
(Một và nhiều chính là lẫn nhau); sau đấy, Ngài nói:
“Dĩ nhân nguyện nhất
đa tương tức”, [có nghĩa là] một chính là
nhiều, nhiều chính là một, trong một nguyện bao hàm
hết thảy các nguyện, hết thảy các nguyện bao
hàm một nguyện. V́ thế, “thành
đức” (成德, đức được thành tựu bởi nguyện)
cũng là “một và nhiều”. Trong một đức, trọn
đủ hết thảy các đức; trong hết thảy
các đức có một đức. “Nhất đa dung dung” (một và nhiều ḥa nhập
lẫn nhau), đấy chính là chân tướng sự thật.
Bọn
phàm phu chúng ta chẳng có cách nào tưởng tượng cảnh
giới “nhất đa dung dung”,
mà cũng chẳng thể diễn tả được, đúng
là chẳng thể nghĩ bàn! Kinh Hoa Nghiêm đă thấu lộ
một chút tin tức, trong phần trước, chúng ta
đă đọc rồi đó. Đối chiếu với
khoa học kỹ thuật cao cấp trong hiện thời
để xem xét, [sẽ thấy] các nhà khoa học cũng nói
như vậy. Đại vũ trụ và tiểu vũ trụ
chẳng hai, chẳng khác; lớn và nhỏ chẳng hai! “Nhỏ”
tức là “một” như được dùng ở đây.
“Lớn” th́ ở đây nói là “nhiều”. “Nhiều” là “lớn”.
“Một” là “nhỏ”. Một và nhiều chính là lẫn nhau, tức
là chẳng có lớn, nhỏ. Nhà Phật nói “nhỏ”, nhỏ
đến mức như một vi trần, vi trần là thứ
nhỏ nhất trong vật chất, chẳng có ǵ nhỏ hơn
thứ này! Nhà Phật gọi nó bằng danh từ “cực vi chi vi”. Trong một hạt
vi trần ấy có thế giới, chúng ta nói là “khắp pháp giới hư không giới”
đều ở trong vi trần ấy. Vi trần chẳng phóng
to, hư không pháp giới chẳng rút nhỏ; nghiễm nhiên
ở trong ấy có thế giới, có pháp giới. Pháp giới
ấy lại chẳng khác ǵ pháp giới bên ngoài, tuyệt
diệu chẳng thể diễn tả được! Chúng
ta rất khó thấu hiểu!
Trong
phần trước, chúng ta đă đọc thấy, ai có
thể vào tham quan pháp giới ấy? Phổ Hiền Bồ
Tát, Ngài có thể vào. V́ thế, khi tôi giảng kinh, thường
nhắc nhở mọi người, đối với pháp
giới trong vi trần th́ trong pháp giới ấy có vi trần
hay không? Đương nhiên là có vi trần. Trong các hạt vi
trần ấy, có pháp giới hay không? Đương nhiên là
có pháp giới. Trong vi trần có pháp giới, trong pháp giới
có vi trần, trùng trùng vô tận. Phật pháp thường nói
“thâm quảng” (rộng sâu), “quảng” th́ chúng ta dễ hiểu,
chứ “thâm” chẳng dễ
hiểu! Những điều này là “thâm”, sâu chẳng có đáy, rộng chẳng có chừng
ngằn. Đấy chính là ǵ? Tánh Đức, tự tánh vốn
là như vậy.
V́
sao có thể hiện cảnh giới này? Cảnh giới là
hư vọng, chẳng phải là chân thật! Nhất
định phải hiểu đạo lư này: “Phàm những ǵ có tướng đều
là hư vọng”. Hư vọng th́ làm sao có thể hiển
lộ cảnh giới? Vậy th́ tôi phải hỏi quư vị,
quư vị có nằm mộng hay không? Rất nhiều người
sẽ gật đầu, “có chứ, tôi có nằm mộng”.
Cảnh giới trong giấc mộng của quư vị có phải
là hư vọng hay không? Vậy th́ v́ sao quư vị có thể
thường nằm mộng? Quư vị có nghiên cứu v́ sao
có thể nằm mộng hay chăng? Mộng từ đâu
mà có? Sau khi đă tỉnh giấc, mộng đi về đâu?
Quư vị tham cứu thấu triệt những chuyện này,
quư vị cũng sẽ tham cứu thấu triệt các “hiện tướng” (現相, các tướng được hiện ra) trong hiện
thực. Vĩnh Gia đại sư đă nói rất khéo: “Mộng lư minh minh hữu lục
thú, giác hậu không không vô đại thiên” (Trong mộng
rành rành phô sáu nẻo, giác rồi ba cơi rỗng toang hoang). Câu
này nói lên điều ǵ? Bảo rơ đó là huyễn tướng,
chẳng phải là chân thật. Đă là huyễn tướng,
quư vị cần ǵ phải chấp chặt? Chấp chặt
chính là chấp trước, quư vị cần ǵ phải chấp
trước? Cần ǵ phải phân biệt? Quư vị cần
ǵ phải khởi tâm động niệm đối với
các hiện tướng? Khởi tâm động niệm là mê,
chẳng có giác nữa!
Phật
pháp dạy người ta tu hành, chẳng có chi khác, [có thể]
nói xuyên suốt bằng một câu: “Dạy chúng ta trong cuộc
sống hằng ngày, sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu
trần, mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi
hương, lưỡi nếm vị, chỉ cần chẳng
khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt,
không chấp trước, người ấy chính là vị Phật
rốt ráo viên măn, người ấy là Pháp Thân Bồ Tát”.
Chúng ta chẳng giống người ấy! Ở trong cảnh
giới, bèn khởi tâm động niệm, bèn phân biệt,
chấp trước. Đức Phật nói: Quư vị c̣n khởi
tâm động niệm, nhưng chẳng có phân biệt, chấp
trước, quư vị chính là Bồ Tát. Bồ Tát chẳng
có phân biệt, chấp trước. Quư vị chẳng có chấp
trước, c̣n có phân biệt, quư vị là A La Hán. Chư vị
hiểu A La Hán đă vượt thoát lục đạo, c̣n
Bồ Tát vượt thoát mười pháp giới, sai biệt
ở ngay chỗ này!
Nay
chúng ta chẳng thành A La Hán là v́ lẽ nào? Chẳng chịu buông
xuống chấp trước! Chẳng biết buông xuống
chấp trước th́ sẽ tự tại dường ấy.
Buông xuống phân biệt, càng tự tại hơn. Buông xuống
vọng tưởng, chẳng c̣n khởi tâm động niệm,
sẽ đắc đại tự tại! Chúng ta không cách
nào tưởng tượng sự đại tự tại
ấy. Nói thật thà, sự tự tại của Bồ
Tát, sự tự tại của Thanh Văn, chúng ta cũng
chẳng tưởng tượng được! Nếu chúng
ta có thể thật sự lănh hội, quư vị sẽ thật
sự mong làm, quư vị chẳng mong đọa lạc nữa.
Chấp trước, đọa lạc; phân biệt, đọa
lạc. Trừ khử phân biệt, chấp trước, quư
vị sẽ tiến lên cao hơn. V́ thế, trong một có
hết thảy, vi trần dẫu nhỏ cách mấy, nó có
trọn đủ hư không pháp giới, chẳng hề
khiếm khuyết mảy may! V́ sao? Nó là Tánh Đức, là
chân tánh!
Kinh
Kim Cang đă nói rất hay, những hiện tướng
trong vũ trụ là ǵ? Chính là nhất hiệp tướng.
“Như Lai thuyết nhất hiệp
tướng, tắc phi nhất hiệp tướng, thị
danh nhất hiệp tướng” (Như Lai nói một hiệp
tướng chẳng phải là một hiệp tướng,
bèn gọi là một hiệp tướng), lời này rất
có ư vị. “Một” chính là
vi trần nhỏ nhất, các nhà khoa học gọi nó là “vật chất cơ bản”. Hiện
thời, họ nói đến nguyên tử, điện tử,
lạp tử (particles). Hiện thời c̣n phát hiện thứ
nhỏ hơn lạp tử, gọi là khoa-khắc (quark, lượng
tử). Đấy có phải là vi trần được nói
trong kinh Phật hay không? Phải biết là trong [các loại]
vi trần cũng có đẳng cấp, nhỏ nhất là cực
vi chi vi. [Loại hạt nhỏ nhất do] các nhà khoa học
phát hiện trong hiện thời có phải là cực vi chi
vi hay không? Theo tôi nghĩ, các nhà khoa học đă phát hiện,
nhưng vẫn chưa có cách nào chứng minh. Hạt
được phát hiện trong hiện tại, tức là
khoa-khắc (lượng tử), vẫn chưa phải là cực
vi chi vi. Đó chính là loại vi trần được nhà Phật
gọi là “sắc tụ cực
vi”, có thể là họ đă phát hiện thứ này. Hiện
thời, cực vi chi vi chỉ có trên lư luận, phải biết
là từ Toán Học suy luận ra thứ này, nhưng vẫn
chưa thật sự phát hiện.
Chúng
tôi xem một bản báo cáo của tổng cục không gian Mỹ
(NASA); bản báo cáo ấy nói “vật chất chẳng phải
là thật”. Vật chất do đâu mà có? Từ trong Không mà
sanh ra Có, điều này rất gần với cực vi chi
vi. V́ Phật pháp gọi cực vi chi vi là Lân Hư Trần
(鄰虛塵), [nghĩa
là] “gần với hư không”, chỉ cách đôi chút, nó chẳng
thể chia nhỏ hơn nữa. Tách nó ra, sẽ là hư
không. Các nhà khoa học nói theo kiểu ấy, chúng tôi cảm
thấy cách nói ấy và kiểu nói “cực vi chi vi” trong Phật
pháp hoàn toàn giống nhau. Từ trong Không sanh ra Có; v́ thế,
vật chất chẳng phải là thật. Cái từ trong
Không sanh ra ấy, biến hiện vật chất, tức là
hiện tướng, tức vật chất. Thời gian nó
tồn tại rất ngắn, ngay lập tức chẳng
c̣n, đúng là giống như tia chớp, sáng ḷa một chút
rồi chẳng có! Nhưng nó có tương tục tướng
(tướng liên tục), không ngừng lóe sáng. Do nó lóe sáng
không ngừng, chúng ta thoạt nh́n, sẽ thấy là một
vầng quang minh.
Tôi
nghĩ các đồng học đều hiểu đạo
lư này. Ví như nay chúng ta dùng đèn chiếu sáng, ánh sáng của
ngọn đèn chỉ là không ngừng lóe sáng. V́ thế, chúng
ta thấy nó là tướng tương tục, tốc độ
lóe sáng của nó quá nhanh. Do vậy, chúng ta chẳng có cách nào
phân biệt là sự lóe sáng ấy có gián đoạn. Hiện
tượng vật chất cũng giống như thế.
Đối với tất cả hết thảy hiện
tượng vật chất, đức Phật bảo là “Tướng có, Thể không”.
V́ thế, bản thể của nó chính là Không, trọn chẳng
thể được, kể cả thân thể của chính
chúng ta. Quư vị tham cứu thấu triệt chân tướng
sự thật này, sẽ chứng quả A La Hán. A La Hán là
như thế nào? Trong phần trước, chúng tôi đă từng
thưa tŕnh: “Biết hết thảy
là Không”. Đấy chính là Nhất Thiết Trí. Nhất
Thiết Trí là biết vạn pháp đều Không. Chẳng
phải là không có vạn pháp, vạn pháp là “Tướng có, Thể không”, do vậy, trọn chẳng
thể được! Chẳng thể được mà quư
vị mong được, [tức là] quư vị đang dấy
vọng tưởng. Muốn được th́ sai mất
rồi! “Trọn chẳng thể được” mà quư vị
cứ nhất định muốn đạt được.
Vậy là quư vị chấp trước, chẳng thể nào!
Do
vậy, quư vị phải nghĩ thấu suốt, nghĩ
thấu suốt chính là “thấy
thấu suốt” (看破, khán phá) như Chương Gia đại sư
đă dạy tôi. Đă hiểu rơ, trong hết thảy các
pháp sẽ chẳng c̣n chấp trước, chẳng c̣n phân
biệt, chẳng c̣n khởi tâm động niệm. V́ sao?
Tất cả đều là giả, khởi tâm động
niệm là sai lầm. Biết các hiện tượng trong
toàn thể vũ trụ là chuyện như thế nào, đức
Phật đă nói tuyệt diệu: “Tự tánh khởi tác dụng”. Ngài nói câu này tột
cùng hay khéo! Các hiện tượng trong toàn thể vũ trụ
chính là ǵ? Tự tánh khởi tác dụng. Tự tánh có Thể,
có Tướng, đương nhiên là có tác dụng. Tướng
chẳng phải là thật, là giả, cho nên nó có thể nẩy
sanh biến hóa thuận theo cái tâm của chúng sanh. Đấy
chính là như đức Phật thường nói, chính là nói
với chúng sanh trong lục đạo: “Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”.
Thiện pháp sanh từ tâm tưởng, ác pháp cũng sanh từ
tâm tưởng. V́ thế, hễ tâm là thiện, chẳng có
ǵ bất thiện! Thiện tâm là ǵ? Hoàn cảnh nhân sự tốt
lành, hoàn cảnh vật chất cũng tốt lành, mưa ḥa
gió thuận. Nếu tâm bất thiện, hoàn cảnh nhân sự
sẽ bất thiện, hoàn cảnh vật chất cũng bất
thiện, thiên tai, nhân họa. Đấy là đức Phật
nói về hiện tượng trong lục đạo chúng sanh,
hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng. V́ thế,
giáo dục quá trọng yếu.
Đối
với mục đích giáo dục, chúng tôi đă nói rất
nhiều, làm như thế nào để khiến cho con người
ǵn giữ ư niệm tốt lành. V́ tánh con
người vốn lành, “nhân
chi sơ, tánh bổn thiện”, làm thế nào để
có thể giữ ǵn bản tánh? Nếu ai nấy đều
có thể ǵn giữ, thế giới này sẽ là thế giới
Hoa Tạng, là thế giới Cực Lạc. Hết thảy
các pháp sanh từ tâm tưởng, tâm địa của mỗi
cá nhân đều thiện, hành vi đều thiện, thế
giới này sẽ là thế giới Cực Lạc. V́ thế,
mục tiêu thứ nhất của giáo dục ở ngay chỗ
này. Mục tiêu thứ hai là làm thế nào để khuếch
đại thiện tâm và thiện hạnh, ḥa lẫn cùng hết
thảy chúng sanh, dung hợp thành một Thể. Đấy
là sự giáo dục của đức Phật.
Xă
hội hiện thời biến thành nông nỗi này là do phương
hướng giáo dục sai lầm! Nó chẳng nhằm dạy
con người tốt lành, mà nhằm dạy họ thành kẻ
bất thiện! Dạy con người những ǵ? Dạy
người ta cạnh tranh, dạy người ta đấu
tranh, dạy người ta ích kỷ, dạy người ta
tổn người lợi ḿnh. Ai nấy đều có cái tâm
như vậy, xă hội rối loạn! Hiện thời, mức
độ rối loạn đă đến mức khiến
cho mọi người mắt ngó sững, ḷng kinh hoảng!
Có rất nhiều đồng tu nói với tôi: “Hiện thời,
con cái chẳng nghe lời cha mẹ. Không chỉ là chẳng
vâng lời, lại c̣n thường xuyên đấu khẩu,
căi lẫy với cha mẹ là chuyện rất b́nh thường.
Nhà nào cũng đều có thể thấy chuyện này!” Hiếu
thuận là ǵ, chẳng có ai hiểu! Không chỉ là trẻ
nhỏ không hiểu, kẻ làm cha mẹ cũng chẳng biết
luôn! V́ sao biến thành nông nỗi này? Hiện thời là ong óng
căi trả, đấu khẩu; mười năm sau, chỉ
sợ rằng hằng ngày đánh nhau; đánh nhau ắt sẽ
dùng đến dao, đến súng. Tôi h́nh dung chuyện này là
ǵ? Giáo dục khủng bố! Hiện thời, nói đến
phần tử khủng bố, phần tử khủng bố
là do dạy dỗ mà ra! Hiện thời, mỗi gia đ́nh
đều dạy dỗ theo kiểu như vậy; trong tương
lai, con cái của quư vị đều biến thành phần
tử khủng bố. Khủng bố đối với ai?
Đối với cha mẹ, đối với anh em trai, đối
với chị em gái, đối với người trong họ,
gia đ́nh sẽ biến thành nơi chốn khủng bố.
Trong xă hội, lại càng chẳng cần phải nói nữa,
đáng kinh hăi quá! Thế giới này c̣n có thể duy tŕ được
chăng? Đó gọi là “ngày tàn
của thế giới”.
V́
thế, trong hiện thời, nếu chẳng cứu văn giáo
dục luân lư đạo đức, quư vị hăy nghĩ: Trong
tương lai, vấn đề xă hội sẽ nghiêm trọng
dường ấy. Cứu như thế nào? Hăy học Đệ
Tử Quy, những ai [cần phải] học? Nam, nữ,
già, trẻ, các nghề nghiệp, mọi người cùng học,
xă hội mới được cứu, mới có thể
quay đầu. Trẻ nhỏ học, người lớn
chẳng học, chẳng thâu được hiệu quả!
Người lớn học, trẻ nhỏ không học, cũng
chẳng thâu được hiệu quả. Giáo dục toàn
dân, chẳng phải là giáo dục toàn thể dân chúng của
một quốc gia, mà là giáo dục toàn thể nhân dân trên thế
giới. Chúng ta phải có sự nhận thức này, phải
có tấm ḷng từ bi này, thúc đẩy mở rộng sự
giáo học này. Đấy là “tự
cứu, cứu người khác”. Cứu người khác
thật sự là cứu chính ḿnh! Một ḿnh ta niệm Phật
văng sanh thế giới Cực Lạc, muốn trốn tránh
trách nhiệm, quư vị có thể trốn thoát hay không? V́ sao
chẳng trốn được? Chưa chắc quư vị
đă có thể văng sanh thế giới Cực Lạc! Quư vị
hỏi v́ sao ư? Quư vị chẳng có tâm từ bi. Chẳng
có tâm từ bi, [tức là] trong Bồ Đề tâm đă thiếu
một [yếu tố] là từ bi. Quư vị thấy đó,
chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, sau đó chẳng
có từ bi, Bồ Đề tâm của quư vị sẽ chẳng
viên măn, chỉ sợ thế giới Cực Lạc chẳng
thâu nhận quư vị.
Phải
có tâm từ bi! Tâm từ bi là bỏ ḿnh v́ người, toàn
tâm toàn lực giúp đỡ người khác! Giúp người
th́ chớ nên chấp tướng, chớ nên có phân biệt,
chấp trước. Quư vị giúp đỡ người mà
vẫn là “chân thành, thanh tịnh,
b́nh đẳng, chánh giác” y như cũ, sẽ luôn tiến
cao hơn. Nếu quư vị có phân biệt, chấp trước,
chuyện này sẽ khó lắm. Bồ Đề tâm của quư
vị đă bị biến chất, chẳng phải là Bồ
Đề tâm thật sự. Hăy nhớ, đức Phật
đă dạy: “Hết thảy
các pháp sanh từ tâm tưởng”. Tâm đă biến chất,
toàn bộ những việc làm của quư vị đều
bị biến chất. Cứ ngỡ chính ḿnh là thiện,
trên thực tế là bất thiện, v́ tâm biến chất.
Trong quá khứ, thầy Lư thường dạy chúng tôi, Ngài
nêu một tỷ dụ: Một chén đề-hồ, kinh Phật
nói đề-hồ là một thứ để uống ngon
lành nhất. Bỏ thêm vào đấy một giọt độc
dược, toàn thể sẽ biến thành thuốc độc!
Tỷ dụ ấy có ư nói: Trong thiện tâm, chớ nên xen tạp
mảy may ư niệm bất thiện nào. Hễ xen tạp, toàn
thể thiện tâm sẽ biến thành xấu xa! Quư vị
nói “chân thành, thanh tịnh, b́nh
đẳng, chánh giác”, mà chẳng có từ bi, những điều
trước đó toàn là giả! Chân thành, thanh tịnh, b́nh
đẳng, chánh giác đều chẳng có! Chân thành biến
thành hư ngụy, thanh tịnh biến thành ô nhiễm, b́nh
đẳng biến thành kiêu căng, ngă mạn, chánh giác biến
thành mê hoặc. Năm điều là một, một chính là năm!
Trong
chân thành, chắc chắn sẽ hàm nhiếp viên măn “thanh tịnh, b́nh đẳng,
chánh giác, từ bi”. Trong từ bi, quyết định có “chân thành, thanh tịnh, b́nh
đẳng, chánh giác”. Một và nhiều dung hợp lẫn
nhau, đấy mới là viên măn, là thuần thiện! Thiện
tâm thật sự chính là “nhân
chi sơ, tánh bổn thiện”, cái bổn thiện ấy
[chính là thiện tâm]. Nay chúng ta làm như thế nào để
có thể từ bất thiện quay về bổn thiện,
sẽ có niềm vui sướng to lớn trong ấy. Các
đồng học ở đây, ai nấy thiện căn sâu
dầy! Nếu chẳng phải là thiện căn, phước
đức, nhân duyên nhiều đời nhiều kiếp, quư
vị sẽ chẳng thể nào đến giảng
đường này nghe kinh Hoa Nghiêm suốt hai tiếng
đồng hồ. Bài kệ Khai Kinh có câu: “Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ” (Trăm ngàn
muôn kiếp khó gặp gỡ). Quư vị thấy Hương
Cảng có bao nhiêu người? Đừng nói Hương Cảng,
trong ṭa cao ốc này có bao nhiêu người, có mấy ai
bước vào giảng đường để nghe kinh Hoa
Nghiêm? Quư vị bèn hiểu [lư do v́ sao] Phật, Bồ Tát hết
sức cảm thán: “Thân người
khó được, Phật pháp khó nghe”. Được làm
thân người, chẳng biết nghe Phật pháp, luống
uổng đời này! Quư vị có thể thấu hiểu
tầng [ư nghĩa] này, mới hiểu làm thân người th́
điều đáng quư nhất là ǵ? Nghe Phật pháp. Sau khi đă
nghe Phật pháp, làm sao người ấy có thể bỏ
qua cho được? [Sẽ là] giùi mài chẳng bỏ!
Trong
nhân gian, điều ǵ sung sướng nhất? Nghe pháp là
sung sướng nhất. Quư vị mới hiểu câu đầu
tiên do Khổng lăo phu tử đă nói trong Luận Ngữ: “Học nhi thời tập chi, bất
diệc duyệt hồ” (Học rồi thường xuyên
tập luyện, cũng chẳng vui sao). “Duyệt” (悅) là vui sướng. Trong thế giới này, trong nhân
gian, trên cơi trời, chẳng có điều nào vui sướng
bằng chuyện này. Tuyệt đối
chẳng phải là niềm vui do ăn uống thỏa thích
như người thế gian đă nói. Ăn uống thỏa
thích th́ trong tương lai phải vào tam đồ, phải
đến đó chịu khổ! Hơn nữa, để
ăn uống thỏa thuê trong hiện tiền, quư vị phải
đổi bằng cái giá cỡ nào? Quư vị suy ngẫm, [sẽ
thấy] chẳng đáng giá! Phải trả cái giá ǵ vậy?
Bản tánh bị ô nhiễm, ô nhiễm nghiêm trọng. Đấy
là cái giá quư vị phải trả. Đối với thân thể
này, thân thể sống theo kiểu đó, kiểu sống ấy
bất b́nh thường, chính là lối sống chẳng lành
mạnh, quư vị sẽ mắc phải đủ thứ
bệnh tật, giảm sút tuổi thọ trên một mức
độ rộng lớn.
Lúc
tôi c̣n trẻ, thầy có nói với chúng tôi, thầy là một
vị thầy lang rất giỏi, [tôi đang nói về] thầy
Lư. Thầy bảo tôi, suốt đời thầy xem bệnh,
chẳng có lần nào xem bệnh lầm lẫn. Thầy bảo:
“Ta nắm chắc chuyện này!” Thầy cũng từng làm
quan ṭa. Thầy nói: “Làm quan ṭa xét các vụ án, nếu chẳng
lưu ư, sẽ khiến kẻ khác bị oan uổng”. Thầy
nói: “Chuyện ấy có thể có, chứ chẩn bệnh, dùng
thuốc, trong đời này, quyết định chẳng
phạm sai lầm!” Lời ấy có dụng ư rất sâu! Thầy
nói theo lư luận của y học Trung Hoa, [tức là dựa
theo] những điều được nói trong chương
Linh Xu của Hoàng Đế Nội Kinh, phần luận định
về thọ mạng của con người. Con người
là một cỗ máy. Cỗ máy ấy vận hành, quư vị phải
khéo bảo dưỡng nó. Yêu thương, bảo dưỡng
nó, sẽ có thể dùng đến hai trăm năm. Tức
là nói cỗ máy ấy thông thường có thể sử dụng
tới hai trăm năm. Dùng chẳng lâu như thế, tức
là bản thân quư vị chẳng biết dùng, đă phá hư
nó. Cụ nói lời ấy rất hợp lư.
V́
thế, Phật môn đề xướng ăn chay; khi đó,
tôi đă nghĩ, đạo dưỡng sanh trong nhà Phật
là viên măn nhất. Người trong xă hội chỉ biết
vệ sinh, “sinh” là sinh lư. Đạo
Hồi biết “vệ tánh”,
đối với thức ăn, họ có chọn lựa.
Phàm những ǵ có tánh chất bất hảo, thảy đều
không ăn. Phật giáo chọn lựa ăn chay, chính là “vệ từ bi tâm”, tức là
bảo vệ cái tâm từ bi. V́ thế, cách ăn uống của
Phật giáo là vệ sinh, vệ tánh, tức là tánh t́nh rất
thiện lương, lại c̣n vệ tâm, tức là “vệ từ bi tâm”. Đấy
là viên măn! Tôi hiểu rơ đạo lư này, chọn lựa ăn
chay, ba phương diện đều quan tâm. Đấy là
cách sống lành mạnh nhất. Người trong thế
gian chẳng hiểu, tưởng ăn chay có công đức
chi đó! Tôi chẳng phải là xuất phát từ chỗ ấy,
mà là do thông đạt lư luận! Đấy là sự chọn
lựa lành mạnh nhất, tốt đẹp nhất, vệ
sinh, vệ tánh, vệ tâm. A! Nay đă hết thời gian rồi,
chúng ta nghỉ ngơi mấy phút!
***
Chư
vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin
xem tiếp đoạn thứ tư kế đó.
(Sớ)
Đối biện thành lệ.
(疏)對辨成例。
(Sớ: Đối chiếu để biện
định, lập thành các thể lệ).
Ngài
Thanh Lương đă giải thích đơn giản.
(Sớ)
Vị nhược dĩ sơ hậu nhị sự
tương đối biện lệ, lược hữu
thập lệ.
(疏)謂若以初後二事相對辨例,略有十例。
(Sớ: Nghĩa là đối chiếu hai chuyện
trong câu đầu tiên và câu sau của mỗi bài kệ để
biện định các thể lệ th́ đại lược
có mười thể lệ).
“Sơ
hậu” là nói đến các bài kệ tụng trong phần
sau, cứ mỗi bài kệ là bốn câu, xem xét đối
chiếu câu đầu tiên và câu cuối cùng. Câu đầu
tiên đều là nói về Sự, câu cuối cùng là nguyện.
V́ thế, [mỗi bài kệ] đều có Sự và nguyện.
Tiếp đó, Ngài cũng nêu các thể lệ rất rơ
ràng. Ngài đă nêu ra mười thể lệ. Thể lệ
thứ nhất chính là…
(Sớ)
Hội sự đồng lư.
(疏)會事同理。
(Sớ: Hội quy Sự đồng nhất với
Lư).
Đấy
là một thể lệ. Mười thể lệ này cũng
là cương lănh. Trong cuộc sống hằng ngày của
chúng ta, nếu quư vị đă hiểu rơ, có thể nói là thảy
đều vận dụng [những thể lệ ấy] vào
cuộc sống, vận dụng vào xử sự, đăi
người tiếp vật. Như trong phần trước
đă nói “Bồ Tát thiện dụng
kỳ tâm” (Bồ Tát khéo dùng cái tâm), chúng ta phải học
từ chỗ này.
Hễ
học hiểu, sẽ sống cuộc đời của Phật,
Bồ Tát. Hiện tiền, trong thế gian này, sống cuộc
đời của Phật, Bồ Tát, trong ấy, thật sự
có niềm vui thú, thật đúng như tiên sinh Phương
Đông Mỹ đă nói: “Là sự
hưởng thụ cao nhất trong đời người”.
Chẳng áp dụng vào kinh Hoa Nghiêm, câu nói ấy sẽ rất
khó lănh hội, sự hưởng thụ cao nhất trong
đời người mà! Có thể tịnh hạnh, có thể
thực hiện, chúng ta thi hành (“hành”
là hành vi), khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo
tác thảy đều đạt đến thanh tịnh.
Trong Phật pháp thường nói: “Tâm tịnh, ắt cơi Phật tịnh”. Tịnh bằng
cách nào? Phẩm Tịnh Hạnh đă cung cấp phương
pháp tốt nhất, những điển h́nh tốt nhất,
người có tâm hăy nên học tập. Tâm tịnh, hành thiện,
tịnh và thiện chẳng tách rời, niệm Phật có
lẽ nào chẳng văng sanh!
Nay
chúng ta xem thể lệ thứ nhất, tức là “hội Sự đồng Lư”.
(Sớ)
Như Bồ Tát tại gia, Sự dă. Tánh Không, Lư dă.
(疏)如菩薩在家,事也;性空,理也。
(Sớ: Như “Bồ Tát tại gia” là Sự, “tánh
Không” là Lư).
Đây
là bài kệ tụng đầu tiên trong phần sau: “Bồ Tát tại gia,
đương nguyện chúng sanh, tri gia tánh Không, miễn kỳ
bức bách” (Bồ Tát tại gia, nguyện cho chúng sanh,
biết nhà tánh Không, thoát khỏi bức bách). [Nói về] tại
gia Bồ Tát. Tại gia tu hành [vẫn có thể] thành Phật
giống hệt [như bậc xuất gia]. Xuất gia mà nếu
chẳng biết tu hành, sẽ chẳng bằng tại gia! Tại
gia và xuất gia là một, chẳng hai, quư vị sẽ nhập
pháp môn Bất Nhị. Đó là cảnh giới cao nhất
trong Phật pháp.
Chúng
ta xem kinh văn [nói về] Bồ Tát tại gia. Mở kinh văn
của kinh Vô Lượng Thọ [ra xem], nghiễm nhiên
đức Thế Tôn đă nói tới mười sáu vị
tại gia Bồ Tát, “Hiền Hộ
đẳng thập lục Chánh Sĩ” (mười sáu vị
Chánh Sĩ như Hiền Hộ v.v…), đấy là hàng tại
gia Bồ Tát, thuộc địa vị ǵ? Thưa cùng quư vị,
Đẳng Giác Bồ Tát! Các Ngài chứng đắc địa
vị chẳng hai, chẳng khác Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù,
Phổ Hiền! Ngài Hiền Hộ đứng đầu các
vị tại gia Bồ Tát, giống như trong một đoàn
thể, Ngài là trưởng nhóm, trong Phật pháp th́ gọi
là Thủ Tọa (首座). Ngài có đức hiệu là Hiền Hộ, trong ấy
bao hàm ư nghĩa rất sâu. “Hiền”
(賢) là nói về sự thành tựu của
chính Ngài. Sự thành tựu của Ngài chẳng khác Phổ
Hiền. “Hộ” (護) là hộ pháp. Hộ tŕ chánh pháp, chánh pháp tồn tại
lâu dài trong thế gian, hộ tŕ chúng sanh ít tai, ít nạn, hộ
tŕ người tu hành được hết thảy những
điều thuận tiện. Quư vị thấy ư nghĩa [trong
danh hiệu Hiền Hộ] sâu cỡ nào, tại gia Bồ
Tát đấy nhé!
Phật
pháp có thể tồn tại lâu dài trong thế gian hay không,
thưa cùng chư vị, chẳng phải là trách nhiệm của
hàng xuất gia Bồ Tát, mà là [trách nhiệm của] tại
gia Bồ Tát. Người tại gia có cảm, Phật, Bồ
Tát sẽ có ứng; kẻ tại gia chẳng cảm, Phật,
Bồ Tát sẽ không đến. Thế nhưng chúng sanh
đang mê, họ làm sao có thể biết chuyện này cho được?
Giống như trong Thích Ca Phổ có chép: Thích Ca Mâu Ni Phật
thị hiện thành đạo, ban đêm thấy sao Mai, đại
triệt đại ngộ, đức Thích Ca thành Phật.
Sau khi thành Phật, sự nghiệp của Ngài là phổ độ
chúng sanh. Độ chúng sanh th́ nhất định phải
có chúng sanh đến khải thỉnh. Người thế
gian chẳng biết chuyện này, cũng chẳng có ai
đến khải thỉnh. Nếu lúc đó chẳng có ai
đến khải thỉnh, đức Phật sẽ thị
hiện nhập Niết Bàn, Ngài ra đi. Người thế
gian chẳng biết, chư thiên Tịnh Cư trông thấy.
Tịnh Cư Thiên ở đâu? Ngũ Bất Hoàn Thiên trong
Tứ Thiền Thiên được gọi là Tịnh Cư
Thiên.
Tứ
Thiền là cơi Phàm Thánh Đồng Cư. Đệ Tứ
Thiền có phước báo lớn nhất, chẳng có đại
tam tai. V́ thế, Tứ Thiền là phước điền.
Thánh nhân ở trong ấy. “Thánh
nhân” là hàng thánh nhân thuộc Tam Quả, cũng tu hành ở
nơi đó. Tam Quả là A Na Hàm. Các Ngài chẳng đến
nhân gian, chẳng tới Dục Giới, mà tu hành ở nơi
đó. Từ nơi ấy, nếu vượt lên cao hơn,
sẽ thoát khỏi lục đạo. Chứng quả A La
Hán, sẽ vượt khỏi lục đạo, đấy
là thánh nhân. Các Ngài trông thấy [đức Phật thị
hiện thành đạo], các Ngài có Thiên Nhăn, thấy Thích Ca
Mâu Ni Phật thị hiện thành đạo dưới cội
Bồ Đề, chẳng có ai đến khải thỉnh.
Các Ngài vội giáng xuống; đă giáng xuống, bèn biến
thành thân người, đối trước Thích Ca Mâu Ni Phật
đảnh lễ, thỉnh lăo nhân gia trụ thế, hoằng
pháp lợi sanh. Những vị Tịnh Cư Thiên đă thay
chúng ta khải thỉnh. Nếu chẳng có các vị ấy
khải thỉnh, sẽ chẳng có bốn mươi chín
năm giảng kinh thuyết pháp của đức Thế
Tôn! Ngài thành Phật, nhập Bát Niết Bàn, chẳng có ai biết!
V́
sự khải thỉnh ấy, đức Phật mới
trụ thế. Do vậy, chư thiên Tịnh Cư hóa thân làm
người cầm đầu thỉnh đức Phật
thuyết pháp. Các Ngài đến nghe kinh đầu tiên, lắng
nghe Phật pháp. Dần dần, do thấy có người
đang nghe, Thích Ca Mâu Ni Phật đang giảng kinh, có mấy
người đang ngồi nghe tại đó, kẻ khác ṭ
ṃ, cũng đến. Những người như vậy kéo
đến ngày càng nhiều. Nghe đức Phật giảng,
đức Phật giảng khế cơ, khế lư. Trừ
phi quư vị chẳng tiếp xúc, hễ quư vị tiếp
xúc, chẳng có ai không sanh ḷng hoan hỷ. Quư vị có vấn
đề nghi nan ǵ nêu ra, đức Phật đều giải
đáp cho quư vị. Đă kéo đến, thính chúng ngày càng
đông; về sau, h́nh thành Tăng đoàn. Sự nghiệp giáo
học từ đấy bèn triển khai. V́ thế, đối
với chuyện chánh pháp tồn tại lâu dài trong thế
gian, hàng tại gia Bồ Tát khởi tác dụng to cỡ nào!
Hiện
thời, chánh pháp chẳng tỏa rạng, vấn đề
xuất hiện ở chỗ nào? Hàng tại gia Bồ Tát chẳng
nghe kinh, hàng tại gia Bồ Tát chẳng nghiêm túc tu hành! Họ
bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh xă hội! Hiện
thời, có khá nhiều vị tại gia Bồ Tát cầu phước,
tu phước báo. Đến đạo tràng, chùa miếu
thắp nhang, đến dựng chùa, đến tạo kim
thân Phật, tạo tượng Phật. Tất cả
đều là những chuyện thuộc về tu phước,
chẳng mở mang trí huệ. Họ chẳng hiểu trong
chánh pháp thật sự có huệ, trong huệ nhất định
là có phước. Trong phước, chẳng có huệ.
Người có trí huệ, há chẳng có phước báo? Há có
lẽ ấy! Người có trí huệ, nhất định
sẽ đặt tu huệ hàng đầu, phước là
thứ kèm theo. Phước báo là thứ kèm theo, đấy
là chẳng sai! Chỉ chú trọng tu phước, sơ sót
tu Huệ, sai lầm mất rồi!
Chuyện
này khiến cho chúng tôi nghĩ đến thuở Đạt
Ma Tổ Sư sang Trung Hoa. Có người tiến cử Ngài
lên Lương Vũ Đế. Lương Vũ Đế
là Phật tử kiền thành, nghe nói có một vị cao tăng
Ấn Độ đến [Trung Hoa], ngay lập tức triệu
kiến. Chúng ta biết Vũ Đế hộ tŕ Phật pháp
nổi tiếng trong lịch sử, [nhà vua] suốt đời
dựng chùa. Theo sách sử ghi chép, [nhà vua đă] dựng bốn
trăm tám mươi ngôi tự miếu am đường
lớn nhỏ. Độ tăng, vua ưa thích người
xuất gia; đối với người xuất gia, nhà
vua đều tu cúng dường, mười mấy vạn
người. Đấy là bậc đại hộ pháp
trong Phật môn. Bản thân nhà vua cũng cảm thấy rất
tự hào, tiếp kiến Đạt Ma Tổ Sư, Lương
Vũ Đế bèn hướng về Tổ thỉnh giáo: “Trẫm
làm nhiều chuyện như thế, công đức của
trẫm có lớn hay không? Trẫm có công đức to cỡ
nào?” Đạt Ma Tổ Sư trả lời nhà vua bằng
một câu: “Tịnh vô công đức”
(Hoàn toàn chẳng có công đức), nhà vua làm những việc
ấy chẳng có công đức chi cả! Lương
Vũ Đế nghe vậy rất cụt hứng. Nói năng
chẳng hợp ư, bèn đuổi Tổ đi. Nếu Lương
Vũ Đế hỏi: “Phước đức của ta
to cỡ nào?” [Tổ sẽ trả lời] “phước
đức to không cùng!” Đó là chuyện thuộc về phước
đức, chẳng phải là công đức. Công đức
là ǵ? Công đức là tu “thanh tịnh,
b́nh đẳng, giác”, đấy là công đức.
Do
đó, phước đức và công đức chẳng giống
nhau, làm nhiều chuyện như vậy, chấp tướng.
Hễ chấp tướng, sẽ là phước đức;
ly tướng là công đức. Sự là như nhau, làm nhiều
chuyện như thế, nếu [coi như] chẳng có chuyện
ấy, làm mà không làm, không làm mà làm, đó là công đức!
Nhất định phải phân biệt rơ ràng giữa công
đức và phước đức. Nói cách khác, tâm thanh tịnh
làm hết thảy việc thiện th́ đều là công
đức. Tâm ô nhiễm, có cái tâm ích kỷ, [mưu cầu]
tiếng tăm lợi dưỡng xen lẫn vào, làm bất
cứ thiện sự ǵ, đều là phước đức.
V́ thế, nh́n theo sự tướng, sẽ chẳng nh́n ra!
Nh́n từ tâm địa, sẽ hiểu rơ rành rành. Đàn
Kinh đă nói rất hay: “Thử
sự phước bất năng cứu” (Chuyện này
phước chẳng cứu được). “Thử sự” chính là đại
sự sanh tử. Nếu muốn thực hiện đại
sự vượt thoát lục đạo luân hồi, [cậy
vào] phước đức sẽ chẳng làm được.
Phước đức là đời sau quư vị sẽ đạt
được phước báo nhân thiên. Chúng ta hiểu, những
chuyện Lương Vũ Đế đă làm thuộc về
phước báo nhân thiên; hơn nữa, [do phước báo mà
sanh vào] thiên đạo th́ cũng chỉ giới hạn
trong Dục Giới Thiên. Nhưng đối với Dục
Giới Thiên, chúng ta thường thấy là [sanh vào] Tứ
Vương Thiên và Đao Lợi Thiên, chứ [do phước
báo mà mong sanh vào] Dạ Ma Thiên, e rằng chẳng được!
[Để sanh vào] Dạ Ma Thiên, phải tu Định, nhà
vua chẳng có công phu ấy. V́ thế, sẽ sanh vào Dục
Giới Thiên, chẳng thể thoát khỏi lục đạo
luân hồi.
Tại
gia Bồ Tát hộ pháp th́ phải nên vượt trỗi Lương
Vũ Đế, chẳng cần phải làm nhiều chuyện như
vậy. Những chuyện ấy là phước báo. Chúng ta chẳng
có phước báo to như vậy, nhưng chúng ta tận
tâm tận lực thực hiện, phước báo sẽ viên
măn. Người ta có một vạn đồng, bỏ ra một
ngàn đồng để làm chuyện tốt, một phần
mười; ta chỉ có một trăm đồng, ta đem
trọn một trăm làm chuyện tốt. Tỷ lệ của
ta là một trăm phần trăm, phước báo của
ta vượt trỗi người đó. Cho thấy: Chẳng
phải là người nghèo không thể làm chuyện tốt.
Tu phước hoặc tu tập tích lũy công đức,
chẳng phân biệt giàu hay nghèo, ai nấy đều có thể
làm được viên măn. Chỉ cần cái tâm của quư vị
thanh tịnh viên măn, không có ǵ chẳng viên măn! Phật pháp nói:
“Hết thảy các pháp sanh từ
tâm tưởng”, chúng ta phải hiểu ư nghĩa của
câu nói ấy. Tâm quư vị viên măn, phước đức và
công đức của quư vị sẽ viên măn. Có mong cầu
được báo đền, cầu phước cho đời
sau, sẽ đạt được “phước đức”. Chẳng mong cầu báo
đền, ta cầu sanh Tịnh Độ, đấy là công
đức! Trọn chẳng cầu đời sau làm quan,
phát tài, chẳng có ư niệm ấy. Tu tập hết thảy
các việc thiện, v́ chúng sanh, chẳng v́ chính ḿnh, mà v́ chánh
pháp tồn tại lâu dài th́ mới có thể thoát ĺa tam giới
lục đạo. Những điều ấy là Sự.
Bồ
Tát biết tánh Không, “Sự có,
Tánh không”. Do vậy, tánh Không là Lư. Quư vị thấy đó,
đối với Lư và Sự, biết tánh Không. V́ sao người
ấy không chấp trước? V́ sao chẳng cầu phước
báo? Trong Phật môn có nói, trong kinh điển có nói, người
thế gian làm quốc vương hay làm Tổng Thống
trong hiện thời, làm đại thần, hiện thời
nói là bộ trưởng, hoặc làm tỉnh trưởng,
phước báo tu từ chỗ nào? Nói theo Phật pháp,
đều là do trong đời quá khứ đă cúng dường
Tam Bảo mà đạt được, phước báo
đấy! Nếu quư vị tu Tài Bố Thí, đời này quư
vị sẽ đạt được của cải. Hộ
tŕ Tam Bảo, phước báo là đế vương, chức
vụ đứng đầu bá quan, là bậc quư nhân quyền
uy, vinh hiển, đều là do tu phước nơi Tam Bảo.
Nếu chuyên tu Tài Bố Thí, đời này người ấy
sẽ được giàu to, chẳng có địa vị, nhưng
phát tài to lớn. Chuyên môn chỉ hành Pháp Bố Thí, người
ấy thông minh, trí huệ. Hiện thời, những vị
được gọi là chuyên gia, học giả, các giáo sư
nổi tiếng, đều là do đời trước đă
tu Pháp Bố Thí mà đạt được quả báo.
Tu
Vô Úy Bố Thí, sẽ được khỏe mạnh, sống
lâu; chuyện này cũng chẳng phân sang hèn! Chúng ta thấy
rất nhiều người nghèo, là người ở nông
thôn, sống hơn trăm tuổi, thân thể rất khỏe
mạnh. Tôi ở Úc, tại Úc có một thôn toàn là người
già, đều trường thọ, tám mươi tuổi
là người trẻ nhất. Chín mươi, hơn trăm
tuổi vẫn làm việc, động tác rất linh hoạt.
Hỏi đến tuổi tác, đă ngoài chín mươi! Chúng
ta chẳng thể không tôn kính. Cuộc sống
khá nghèo khổ, [họ rất khỏe mạnh, sống lâu
là do] trong đời quá khứ đă tu Vô Úy Bố Thí, [nghèo
khổ là v́ chẳng tu Tài Bố Thí]. Chúng ta thấy vậy,
trong tâm cũng hiểu rất rơ, mong chính ḿnh đạt
được. Nếu ta muốn sống lâu, phải
tu Vô Úy Bố Thí. Nếu muốn thông minh, trí huệ, ta phải
tu Pháp Bố Thí. Nếu muốn đạt được
của cải, tiền bạc tiêu dùng chẳng thiếu thốn,
ta phải tu Tài Bố Thí. Tu ba thứ bố thí, sẽ đạt
được ba thứ quả báo ấy, nhưng chẳng
phải là làm quan lớn, chẳng phải là người lănh
đạo trong các tầng lớp xă hội, chẳng phải
vậy! Người lănh đạo nhất định đối
với Tam Bảo, điều trọng yếu nhất là hộ
pháp, hoằng pháp và hộ pháp.
Trong
việc hoằng pháp và hộ pháp, cũng có rất nhiều
người xuất gia, tu hành rất khá, hoằng pháp lợi
sanh, nhưng tham luyến phú quư thế gian! Trông thấy
đế vương, thấy Tể Tướng, rất
hâm mộ, được rồi, đời sau ra sao? Đời
sau sẽ giống như họ, làm đế vương, làm
Tể Tướng, tu được [quả báo ấy]. V́
thế, Thích Ca Mâu Ni Phật đă nêu tấm gương tốt
nhất cho chúng ta. Ngài sanh vào nhà đế vương, là vương
tử, vứt bỏ ngôi vua, vứt bỏ vinh hoa phú quư, nêu
gương tốt nhất. Quư vị muốn làm một vị
đế vương, tuyệt đối chẳng phải
là tu phước trong Phật môn một đời! Chúng ta
ngẫm xem, phước báo đế vương tối
thiểu là mười đời! Quư vị thấy Ngộ
Đạt quốc sư, mười đời tu hành, Ngài
chẳng mong làm hàng tại gia, mười đời đều
là xuất gia. Ngài đạt đến địa vị quốc
sư. Hoàng Thượng tôn Ngài làm thầy, làm quốc
sư, khiến cho chúng ta liên tưởng: Nếu Ngài luyến
mộ phú quư nhân gian, do mười đời tu hành, nếu
chẳng làm Hoàng Thượng, tối thiểu cũng làm Tể
Tướng, nhưng hễ hưởng phú quư, sẽ mê hoặc.
Đă mê hoặc th́ nếu do một chánh sách sai lầm, quư
vị đă hại bao nhiêu người, phước đức
tu hành trong mười đời đều bị chiết
giảm hoàn toàn. Điều này đáng sợ lắm! Rất
có thể xảy ra!
Chúng
ta thấy khá nhiều đế vương vào cuối triều
đại, đừng nh́n vào những vị vua khai quốc.
Bậc khai quốc rất thông minh, có trí huệ. Đó là ǵ?
Họ tu hành mười mấy đời, chẳng bỏ
tu huệ, cho nên chẳng hồ đồ. Nếu tu phước
trong Phật môn, tu đại phước báo mà sơ sót tu
huệ, tức là sơ sót đối với phương
diện nghe kinh, nghe pháp, y giáo tu hành, chỉ chú trọng chăm
sóc Tăng đoàn, giúp đỡ đại chúng tu hành.
Đấy là sơ sót tu huệ! Phước báo trong tương
lai của họ là làm vua cuối triều đại. Họ
chẳng có trí huệ, nhưng có đại phước báo;
do có quyền thế như vậy, họ làm rất nhiều
chuyện sai quấy, tạo rất nhiều tội nghiệp.
Nhân quả nói ra sẽ rất phức tạp, hăy chú tâm lănh
hội. Hưởng hết phước, nghiệp báo hiện
tiền, phải đọa trong tam đồ, kinh Phật
gọi là “tam thế oán”.
Đời thứ nhất tu phước, có đại phước
báo, làm đế vương vào cuối triều đại,
làm đế vương đều là đại phước
báo. Nói chung là do đă tu phước trong nhiều đời
nhiều kiếp, nhưng luôn thiên trọng phước, thiếu
sót tu huệ. Nhân như thế nào, sẽ có quả như
thế ấy! Bậc đế vương khai quốc, mấy
đời vua đầu, nhất định đều là
phước huệ song tu. V́ thế, họ chẳng hồ
đồ, chẳng điên đảo. Chẳng thể nói
là không có chánh sách sai lầm! [Vẫn có], ít thôi! Vẫn đúng
là nhiều thiện sự, ít chuyện bất thiện. Sau
khi đă chết, vẫn chẳng mất phước báo
nhân thiên, dư phước đấy! Nhưng chẳng lớn
như phước báo trước đó! V́ thế, có thể
hiểu: “Sự có, Tánh không, Tướng có, Lư không”. Hiểu
đạo lư này, quư vị sẽ không chấp trước.
Câu
thứ hai…
(Sớ)
Xử nhiễm phiên nhiễm lệ.
(疏)處染翻染例。
(Sớ: Thể lệ ở trong nhiễm mà biến
đổi nhiễm).
Thể
lệ này cũng rất hay!
(Sớ)
Như nhược đắc ngũ dục, nhiễm dă, bạt
trừ dục tiễn.
(疏)如若得五欲,染也,拔除欲箭。
(Sớ: Nếu như đạt được
ngũ dục, đấy chính là nhiễm, bèn nhổ trừ
mũi tên dục).
“Dục tiễn” là tỷ dụ.
(Sớ)
Phiên nhiễm dă.
(疏)翻染也。
(Sớ: Đó là biến đổi nhiễm).
Điều
này có nghĩa là ǵ? Ở trong ô nhiễm mà chẳng nhiễm,
công phu chân thật! Bồ Tát chẳng ĺa nhà, ở nhà th́ ngũ
dục, lục trần, thứ ǵ cũng đều trọn
đủ, nhưng Bồ Tát tâm địa thanh tịnh, biết
“phàm những ǵ có tướng
đều là hư vọng”, biến gia đ́nh thành đạo
tràng, coi thân quyến như pháp lữ, coi như đồng
tham đạo hữu, tu tâm thanh tịnh trong ấy, cao minh
thay! Đấy là “xử nhiễm
nhi bất nhiễm” (ở trong cảnh ô nhiễm mà chẳng
nhiễm). Ngài hoàn toàn chẳng ĺa ô nhiễm, nhưng có thể
bất nhiễm, đấy là có công phu bậc khá, phải
có gia giáo rất khá! Thời cổ, chẳng ít người
có công phu và sự thành tựu ấy, hiện thời chẳng
có. Dẫu trong đời quá khứ, quư vị có thiện
căn sâu dầy, nhưng trong đời này, quư vị từ
nhỏ chẳng được chăm sóc kỹ càng, chẳng
có ai dạy quư vị. Hằng ngày xem TV, hằng ngày tiếp
xúc xă hội hiện tại, dần dần quư vị sẽ
bị chúng huân tập, thiện căn bị mai một, thiện
căn chẳng thể hiện tiền. Sau khi quư vị đă
dưỡng thành tập khí không tốt, dưỡng thành tập
tánh bất thiện, làm sao quư vị có thể thành tựu cho
được?
Do
vậy, chúng ta thấy các vị đế vương khai
quốc nhà Châu, tức Thái Công, Vương Quư, Văn Vương,
đă tích lũy công đức trong bao nhiêu đời! Trong
gia đ́nh sanh ra thánh nhân. Phu nhân của Thái Công là Thái Khương,
phu nhân của Vương Quư là Thái Nhậm. Thái Nhậm là mẹ
của Văn Vương, Thái Khương là bà nội của
Ngài, đều rất hiểu cách dạy trẻ. Dạy
trẻ nhỏ ngăn ngừa ô nhiễm, bảo vệ bản
tánh của chúng, bản tánh vốn lành. “Nhân chi sơ, tánh bổn thiện”, làm thế nào
để có thể bảo vệ tánh vốn lành, không cho trẻ
bị ô nhiễm. Đặc biệt là Thái Nhậm, tức
là mẹ của Văn Vương, khi hoài thai bèn “thai giáo”. “Mục bất thị ác
sắc, nhĩ bất văn dâm thanh, khẩu bất xuất
ngạo ngôn” (Mắt chẳng nh́n ác sắc, tai chẳng
nghe tiếng dâm, miệng chẳng nói lời kiêu ngạo),
đối với thân, ngữ, ư như nhà Phật đă nói,
bà đều giữ thanh tịnh, thiện lương. Tâm
địa thanh tịnh, hành vi thiện lương, ảnh
hưởng thai nhi. C̣n chưa sanh ra, c̣n đang mang thai mà đă
dạy như vậy, dụng tâm như vậy. Văn Vương
được sanh ra, chúng ta có thể suy ra mà biết mẹ
Ngài sẽ giáo dưỡng như thế nào!
Do
vậy, thánh nhân là do dạy dỗ mà ra, hiền nhân là do dạy
dỗ mà ra, người tốt cũng là do dạy dỗ mà
ra. Hiện thời, mọi người nói đến phần
tử khủng bố, tôi cũng nói “phần tử khủng
bố cũng là do dạy dỗ mà ra!” Tùy thuộc quư vị
dạy như thế nào! “Kiến
quốc, quân dân, giáo học vi tiên” (Xây dựng đất
nước, cai trị nhân dân, giáo học làm đầu). Đối
với quốc gia, giáo dục được xếp hàng
đầu; đối với gia đ́nh, [giáo dục] cũng
được xếp hàng đầu. Quư vị làm cha mẹ,
dạy dỗ con cái theo kiểu nào? Nếu quư vị chẳng
khéo dạy con, cả hai vợ chồng đều có cuộc
sống bận rộn, giao con cho người hầu.
Người hầu chuyện ǵ cũng chẳng biết, họ
chỉ mong trẻ nhỏ ngoan ngoăn, chẳng làm phiền họ,
sẽ cho trẻ xem TV! Trẻ coi say sưa, sẽ ít làm phiền
kẻ hầu. Trẻ sẽ học ǵ từ TV? Học bạo
lực, t́nh dục, giết, trộm, dâm, dối, chẳng
phải là quư vị dạy trẻ làm phần tử khủng
bố ư? Nó lớn lên, chẳng cần nói là rất lớn.
Hiện thời, tôi nghe nói, các đồng học có kể
cho tôi biết, trong những kẻ phạm tội, lứa
tuổi phạm tội nhỏ nhất là cỡ tuổi nào?
Hai tuổi, bốn năm tuổi đă giết người!
Ở
Mỹ, chúng tôi thấy một đứa học tṛ nhỏ
giết bạn học, giết thầy, [thế mà cái tin ấy]
chẳng phải là tin tức nóng sốt, thường xuyên
có [chuyện như vậy] mà! Chuyện ấy chẳng coi
ra ǵ ư? Quư vị dạy chúng nó thành phần tử khủng
bố, quư vị đă đào tạo [chúng nó] đấy! Phần
tử khủng bố ở nơi đâu? Trong gia đ́nh,
chúng nó chẳng biết hiếu thuận cha mẹ, chẳng
biết tôn trọng bậc tôn trưởng. Từ nhỏ,
đă trả treo với người lớn. Chuyện này chẳng
phải là chuyện nhỏ, chớ nên coi thường! Nếu
lớn hơn một chút, nó sẽ cùng quư vị căi cọ.
Lại lớn hơn chút nữa, nắm đấm của
nó lợi hại hơn quư vị. Nó sẽ đánh đấm;
hễ đánh đấm bèn khua dao, rút súng! V́ thế, phần
tử khủng bố từ trong nhà quư vị dạy ra, quư
vị nói có đáng sợ lắm hay không? Nếu quư vị muốn
một nhà ḥa thuận, phải dạy dỗ [con cái] bằng
sự giáo dục của thánh hiền, TV lẫn Internet
đều chớ nên xem!
Khi
tôi ở Mỹ, lúc đó, cháu nội của Hàn quán trưởng
học lớp Một Tiểu Học. Lớp Một của
Mỹ đă dùng computer để dạy học, trẻ đă
học rành cách dùng computer. Trong computer có những tiết mục
ǵ, người lớn chẳng biết! Buổi tối, thấy
trẻ nhỏ đă khuya lắc khuya lơ vẫn c̣n đang
coi computer, người làm cha mẹ nói: “Quư vị thấy
con tôi chăm chỉ ghê chưa? Đă khuya như vậy mà
nó vẫn c̣n làm bài, vẫn chưa ngủ”. Nó đang xem ǵ?
Xem t́nh dục, xem bạo lực, quư vị cũng không biết,
quư vị cứ tưởng nó đang làm bài tập. Há nó có
lắm bài tập như vậy ư? Học tṛ Tiểu Học
há có bài tập phải làm đến nửa đêm, làm tới
một, hai giờ sáng vẫn chưa xong. Chẳng có lẽ
ấy! Người lớn chẳng cảnh giác, c̣n khen ngợi,
chẳng có tánh cảnh giác, chẳng biết dạy trẻ
nhỏ! Như vậy là đời sau trong gia đ́nh của
quư vị chẳng xuất hiện thánh nhân, chẳng sanh ra
hiền nhân, mà sẽ sanh ra phần tử khủng bố, quư
vị chớ nên không biết! Trẻ nhỏ xác thực là
có thiện căn, cần được người khác dạy
bảo, chớ nên không biết điều này. Cháu nội của
Quán Trưởng vẫn khá lắm, v́ bà nội thường
dạy nó, kèm cặp nó cho đến mười hai tuổi.
Coi như là có một chút căn cội, có năng lực phân
biệt thị phi, thiện ác, điều này chẳng dễ
dàng!
V́
thế, kẻ làm cha mẹ trong hiện thời không biết
cách dạy dỗ. Ở Mỹ, chúng tôi đă gặp một
thầy giáo Tiểu Học là Long Khắc Lạp Khắc
(Ron L. Clark), hiện thời, [ông ta] rất nổi tiếng
tại Mỹ. Trong học đường, thầy Ron dạy
Tiểu Học, chuyên môn dạy những đứa trẻ
ương bướng, những đứa trẻ cứng
đầu, những thầy giáo khác chẳng thể dạy
bèn giao cho thầy Ron dạy, thảy đều đạt
được hiệu quả rất tốt đẹp.
Thầy dùng phương pháp ǵ để dạy? Phương
pháp của thầy Ron vốn là do bà nội dạy thầy
từ nhỏ, phải biết làm người như thế
nào, xử thế như thế nào, do bà nội dạy cho
thầy. Thầy Ron viết thành một tập sách nhỏ
gồm năm mươi lăm điều nhằm dạy
người khác, thu được hiệu quả rất
tốt. Đệ Tử Quy gồm có một trăm mười
ba điều, nội dung phong phú hơn năm mươi lăm
điều ấy quá nhiều! Nếu cha mẹ đều
hiểu đạo lư này, dựa theo Đệ Tử Quy để
dạy con cái, con cái trong tương lai sẽ là thiện nhân,
là hiền nhân. Tiến cao hơn, sẽ là thánh nhân. Trong gia đ́nh
chẳng xuất hiện nhân tài, cha mẹ có trách nhiệm!
Quư vị phải nghiêm túc, phải học, khéo dạy dỗ
con! Đặc biệt là trong xă hội hiện tại, do hết
thảy ô nhiễm, hết thảy những thứ bất
thiện đă qua trung gian của TV và Internet mà ngấm vào tận
gia đ́nh của quư vị. V́ thế, câu này ở nơi đây
chính là công phu tu hành đắc lực, có năng lực ở
trong ô nhiễm mà chẳng tiếp nhận ô nhiễm, biến
đổi nhiễm thành tịnh.
Câu
thứ ba là…
(Sớ)
Tương tự loại đồng lệ. Như nhược
hữu thí, linh nhất thiết năng xả đẳng.
(疏)相似類同例。如若有施,令一切能捨等。
(Sớ: Thể lệ “những điều tương
tự sẽ xếp thành cùng loại”. Như nếu có bố
thí, sẽ có thể khiến cho hết thảy đều
có thể xả).
Bất
luận là chính ḿnh, bất luận là thấy người
khác, khi thí xả, khi hành bố thí, người khác trông thấy
bèn nẩy sanh ư niệm. Đối với chính ḿnh mà nói, hết
thảy đều có thể bỏ, chẳng có ǵ không thể
xả. Trong tương lai, khi đọc đến phần
sau của bộ đại kinh này, chúng ta sẽ thấy,
những thứ ngoài thân, [ngay cả] quốc gia, ngôi vua
đều có thể bố thí, quư vị nhường cho người
khác. Đó là Thí, thí xả! Vợ con đều có thể bố
thí, chẳng có ǵ không thể bỏ, bỏ sạch sành sanh!
Ở
Mỹ, tôi đă thấy một trường hợp, rất
lạ lùng. Khi đó, ngay cả Hàn quán trưởng cũng
cảm thấy chẳng thể nghĩ bàn. Tại thành phố
Phượng Hoàng (Phoenix), tiểu bang Á Lợi Tang Na
(Arizona), con trai bà ta là Cao Quư Vũ có quen một người
bạn Mỹ, rất thân thiết. Người bạn Mỹ
ấy kết hôn cũng đă vài năm, chẳng có con cái.
Vợ anh ta rất thích một người bạn của
chồng, người bạn ấy cũng rất thích vợ
anh ta. Anh ta rất khảng khái, ly hôn vợ để vợ
lấy người bạn ấy, lại c̣n đến
tham dự hôn lễ! Anh ta nói với người khác: “Tôi yêu
vợ tôi, bạn tôi càng yêu nàng hơn tôi, chăm sóc nàng chu đáo
hơn tôi”. Anh ta nói: “Sống với người ấy, nhất
định là nàng sẽ hạnh phúc hơn sống với
tôi”. Có thể xả! Chẳng có tâm riêng tư, đó là thật
sự yêu thương! Người thế gian nói yêu là ǵ? Yêu
là chiếm hữu. Chiếm hữu chẳng phải là yêu,
mà là ích kỷ. Thật sự yêu thương là hy vọng cô
ta sống cuộc đời thật sự hạnh phúc. “Có
người có thể cho nàng cuộc sống sung sướng
hơn ta”, quư vị nói xem, có nên xả hay không? Nếu quư vị
chẳng xả, tức là chẳng yêu thương cô ta! Ở
Mỹ, nghiễm nhiên có chuyện như thế, rất nhiều
người Hoa chẳng có cách nào lư giải chuyện này, nhưng
trong Phật pháp th́ có. V́ thế, chẳng có ǵ không thể bỏ.
Cuối cùng là đến những ǵ? Đầu, mắt, năo,
tủy. A La Hán gặp một người nói: “Này La Hán! Mắt
tôi bị hỏng, ông có thể tặng mắt cho tôi hay không?”
La Hán đáp: “Được, ta tu Bố Thí Ba La Mật”, liền
móc mắt cho người ấy. Người ấy nói: “Ông
móc trật rồi! Tôi muốn mắt phải, chẳng cần
mắt trái!” La Hán nói: “Sao ông không nói sớm? Ông nói sớm, tôi
sẽ bố thí con mắt ấy cho ông. Nay tôi mù rồi, cả
hai mắt đều mù”. Sau khi người ấy có
được con mắt, bèn vứt toẹt xuống đất,
chun mũi: “Không được! Con mắt của ông chẳng
thể dùng được!” A La Hán bèn nghĩ: “Hành Bồ
Tát đạo khó quá, thôi đi, ta vẫn làm A La Hán th́ tốt
hơn”. Người đến thử thách là một vị
trời, coi thử tâm địa của người ấy
có phải là chân thành, thanh tịnh hay không? A La Hán công phu vẫn
chưa đủ mức, chẳng thể chịu nổi
khảo nghiệm, vẫn lui về làm Tiểu Thừa. Bồ
Đề đạo khó hành!
Bồ
Tát phải tu Nhẫn Nhục Ba La Mật! Bố Thí là tu phước,
Nhẫn Nhục là thành tựu. Chỉ có bố thí, chẳng
thể nhẫn nhục, đối với công đức và
phước đức, chắc chắn là chẳng thể
thành tựu công đức, phước đức sẽ đợi
đến đời sau để hưởng. V́ thế,
chúng ta đọc kinh Kim Cang, trong kinh Kim Cang nói về Lục
Ba La Mật, đặc biệt nhấn mạnh hai điều
này, tức là Bố Thí và Nhẫn Nhục. Hết thảy các
pháp do Nhẫn mà thành tựu. Cũng giống như vậy,
chúng ta thấy người có thể xả tài, biết hết
thảy các tài vật ngoài thân đều có thể bỏ, đó
là ngoại tài, thân thể là nội tài, chẳng có ǵ không xả
được! Hễ xả, tâm sẽ thanh tịnh; đă
bỏ th́ “chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” sẽ
hiện tiền. Hễ xả, tâm đại từ bi sẽ
tràn trề nẩy sanh, tự nhiên sanh khởi. Đừng
nói là phát, phát là do người khác khuyên, có khuyên cũng chẳng
phát ra được. V́ sao? Có chướng ngại! “Chẳng
thể xả” là chướng ngại. Sau khi đă bỏ,
sẽ chẳng có chướng ngại; cho nên, tự nhiên hiện
tiền. Tài có thể xả, pháp có thể xả, vô úy bố
thí, khiến cho hết thảy chúng sanh được an lạc
là vô úy bố thí.
Trong
ăn uống, ăn thịt có hai nhân tố:
1)
Một là quá khứ nó đă ăn quư vị, hiện thời
quư vị ăn nó, đằng này báo đền đằng
kia. Kinh Phật có nói: “Nhân tử
vi dương, dương tử vi nhân” (Người chết
làm dê, dê chết làm người).
2)
Loại khác là đời trước chẳng có oán hận
sâu xa với nó như vậy. Đời này quư vị mổ
xẻ và ăn thịt nó, sẽ kết thành oán hận. Oan
oan tương báo, chẳng hết, chẳng xong. Loại khác
nữa là đối phương đă giác ngộ. Quư vị
ăn nó, nó chẳng hận quư vị. V́ sao? Đền trả
nghiệp báo. Nó đă hiểu rơ, sau khi nó giác ngộ, chẳng
c̣n nghĩ báo thù, nó liền siêu thăng. Hoặc là sanh vào nhân
đạo, hoặc là sanh trong thiên đạo, đă vượt
thoát, cũng có kẻ niệm Phật văng sanh Tịnh Độ.
Quan hệ trong lục đạo rất phức tạp, chớ
nên không biết. Hăy đọc kinh cho nhiều, nương
theo kinh giáo để tu học, dần dần quư vị sẽ
thông hiểu. Hôm nay đă hết thời gian rồi!
Đại Phương Quảng Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười một,Tịnh
Hạnh Phẩm
Phần 18 hết