Đại Phương
Quảng Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười
một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 19
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Địa điểm: Hương Cảng Phật
Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ ngày mồng Bảy tháng
Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ Trang và Minh
Tiến
Tập 1499
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống.
Chúng ta xem tiếp tiểu đoạn thứ tư, tức
phần Đối Biện Thành Lệ (對辨成例) trong lời
chú giải của Thanh Lương đại sư. Câu thứ
tư là:
(Sớ) Thế đồng xuất
thế lệ, như thượng thăng lâu các, nguyện
thăng chánh pháp lâu đẳng.
(疏)世同出世例,如上升樓閣,願升正法樓等。
(Sớ:
Thể lệ trụ trong thế gian mà giống như
đă xuất thế, như “lên trên lầu gác, nguyện
lên lầu chánh pháp” v.v…)
Những điều này đều
là [chuyện thường thấy] trong cuộc sống hằng
ngày, nhất là chúng ta sống tại đô thị, đô thị
hiện thời toàn là cao ốc, mỗi ngày đều phải
lên xuống. Ở đây, đức Phật dạy chúng
ta, trong khi chúng ta lên cao ốc, hiện thời bất luận
là trèo cầu thang hay đi thang máy đều giống hệt
như nhau, quư vị không ngừng tiến lên cao hơn! Khi ấy,
trông thấy hiện tượng ấy, sẽ nghĩ “đương nguyện chúng sanh,
thăng chánh pháp lâu” (nguyện cho chúng sanh, lên lầu
chánh pháp). Quư vị thấy các vị Bồ Tát, đă là Bồ
Tát sẽ niệm niệm chẳng quên chánh pháp, thời thời
khắc khắc cảnh tỉnh chính ḿnh. Đấy là [lư
do] v́ sao các Ngài chẳng mê mất chính ḿnh, đạo lư ở
ngay chỗ này. Chúng ta thời thời khắc khắc quên bẵng
chánh pháp, chẳng có cách nào nâng cao chính ḿnh. Nói chung, sức cảnh
giác của chúng ta chẳng đủ.
Nói thật ra, sống trong xă
hội hiện thời, nếu chẳng có ḷng cảnh giác
kha khá, trong tương lai nhất định sẽ bị
thua thiệt, bị thua thiệt rất lớn! Nhưng
người hiện thời xác thực là đă mê hoặc,
mê quá sâu, chẳng biết tầm nghiêm trọng của những
vấn đề xă hội ở ngay trước mắt. Những
vấn đề ǵ vậy? Sơ sót giáo dục luân lư đạo
đức. Giáo dục luân lư đạo đức nhằm
dạy chúng ta làm người, dạy chúng ta hiểu rơ quan
hệ giữa con người với nhau. Trước hết,
phải hiểu rơ các mối quan hệ, quan hệ cha con, quan
hệ vợ chồng, quan hệ anh em, quan hệ giữa
người lănh đạo và kẻ được lănh
đạo, quan hệ bạn bè. Ngoài bốn mối quan hệ
ấy ra, tất cả hết thảy mọi người
đều là bằng hữu. Người trong bốn biển
đều là bằng hữu! Nay chúng ta nói “nhân loại trên
cả thế giới đều là bằng hữu”. Bằng
hữu giao du với nhau, một nguyên tắc quan trọng
nhất là “thành tín”, [tức
là] chân thành, giữ chữ Tín; đấy là nguyên tắc
cơ bản. Sau khi đă hiểu rơ các mối quan hệ, sẽ
dạy chúng ta đối xử với người khác
như thế nào, cha con đối xử với nhau như
thế nào, vợ chồng đối xử với nhau
như thế nào, vua tôi, anh em, bạn bè đối xử với
nhau như thế nào. Sau khi đă hiểu rơ, thảy đều
có thể thực hiện, gia ḥa, vạn sự hưng, xă hội
hài ḥa, quốc gia hài ḥa, thế giới hài ḥa.
Hiện thời, chủ tịch
Hồ Diệu Bang đề ra “thế
giới hài ḥa”, quư vị hăy ngẫm xem, thực hiện
từ chỗ nào? Thực hiện từ chính bản thân chúng
ta. Thực hiện từ bản thân ta như thế nào?
Chuyện này cần phải có trí huệ, phải tu dưỡng,
phải thông đạt chân tướng của vũ trụ
và nhân sinh. Sau khi đă thông đạt chân tướng, quư vị
sẽ biết phải đối xử như thế nào
th́ sẽ chẳng nẩy sanh sai lầm. Thánh nhân dạy dỗ
người khác, sự linh cảm, trí huệ và
phương pháp do đâu mà có? Chẳng phải là do chính
ḿnh dấy lên vọng tưởng; chúng ta biết thánh nhân chẳng
có vọng tưởng! Thánh nhân chẳng nằm mộng v́
các Ngài chẳng có vọng tưởng. Do đâu mà có? Từ
quy luật và sự vận hành trong thiên nhiên mà các Ngài
được khải thị, phỏng theo pháp tắc tự
nhiên. Thiên nhiên là hài ḥa, vũ trụ là hài ḥa, tất cả
hết thảy sinh vật là hài ḥa, con người đối
xử với nhau hài ḥa, từ chỗ này mà đạt được
khải thị.
Bất ḥa nẩy sanh như thế
nào? Bất ḥa nẩy sanh từ Ngă Chấp, “chấp” là chấp trước, chúng ta thường
nói “ích kỷ th́ sẽ bất ḥa”.
Ai nấy đều ích kỷ, đều v́ lợi ích của
chính ḿnh, toan xâm phạm lợi ích của kẻ khác, làm sao
có thể ḥa cho được? Tổn người lợi
ḿnh, ai nấy đều có ư niệm “tổn người, lợi
ḿnh”, phiền phức to lớn. Ta mong chiếm tiện nghi
của kẻ khác, kẻ khác toan chiếm tiện nghi của
ta, các vị ngẫm xem, kết quả là ǵ? Kết quả
là đấu tranh, kết quả là chiến tranh, sẽ bất
ḥa, phá hoại sự hài ḥa của vũ trụ, sự hài
ḥa của địa cầu cũng bị phá hoại. T́nh
trạng tệ hại này rất nghiêm trọng! Hiện thời
trên cả địa cầu, t́nh trạng suy vong đă
đạt tới t́nh trạng hết sức nghiêm trọng!
Giáo huấn của cổ
thánh tiên hiền và kinh điển của mỗi tôn giáo
đều dạy chúng ta đối xử ḥa thuận với
nhau, phải khiêm nhượng đối với nhau.
Người khác thiếu thốn, hễ ta có, nhất định
phải chủ động giúp đỡ họ, bỏ ḿnh
v́ người khác. Đấy là pháp tắc tự nhiên trong
vũ trụ; pháp tắc tự nhiên của vũ trụ
được gọi là “đạo
đức”. Đạo đức chẳng có ǵ khác! Đạo
đức là hiện tượng vận hành tự nhiên
trong vũ trụ. “Vô đạo
đức” chính là trái nghịch hiện tượng tự
nhiên, phá hoại sự hài ḥa. Thời gian đức Phật
tại thế để dạy học khá dài, cho nên sách vở
để giáo hóa hết sức phong phú, đặc biệt
là kinh Hoa Nghiêm. Năm xưa, lúc tôi mới
học, thầy Phương đă giới thiệu bộ
kinh này, bảo tôi đấy là khái luận của triết
học Phật giáo. Tôi theo học Triết Học với
thầy, khái luận của triết học Phật giáo là
bộ kinh điển này. Tôi vừa mới xem đôi chút,
hôm nay tôi giảng đến tập 1.499, ngày mai sẽ là tập
1.500. Mỗi tập là hai tiếng đồng hồ, ngày
mai sẽ là kinh Hoa Nghiêm giảng đến giờ thứ
ba ngàn! Ba ngàn giờ đă có thể nhập kinh văn rồi,
duyên rất thù thắng!
Kinh
này to lớn, mọi phương diện đều
được nói hết sức tỉ mỉ, nhất là
phẩm kinh này thuộc cùng một loại với Đệ
Tử Quy, Thập Thiện Nghiệp Đạo Kinh, và Sa Di
Luật Nghi. Loại này được gọi là “hành kinh” (行經, kinh để thực hiện, kinh để hành tŕ).
Đối với kinh điển, cổ đại đức
đă phân tích thành bốn loại, tức Giáo, Lư, Hành, Quả.
Có “giáo kinh”, có “lư kinh”, giảng về lư luận;
“hành kinh” nói về cuộc sống
hằng ngày, “quả kinh” nói
về cảnh giới nơi quả địa. Kinh Hoa
Nghiêm thảy đều trọn đủ [bốn loại
ấy]; nhất là bộ phận này (phẩm Tịnh Hạnh)
và phẩm Phạm Hạnh thuộc về hành kinh. Sau khi
chúng ta học xong, phải vận dụng vào cuộc sống,
sống cuộc đời của Phổ Hiền Bồ
Tát, sống cuộc đời của chư Phật
Như Lai. Đấy là sự hưởng thụ cao nhất
trong đời người. V́ thế, mỗi đồng
học chúng ta hăy nghiêm túc nỗ lực học tập ḥng cải
thiện phẩm chất của cuộc sống, cải
thiện khá nhiều quan niệm sai lầm của chúng ta.
Sau khi đă học, phải nghiêm túc sám hối, nghiêm túc sửa
đổi, cơ hội trăm ngàn vạn kiếp khó gặp
gỡ, là một ngày hiếm có khó gặp từ vô lượng
kiếp đến nay, chớ nên coi nhẹ, dễ dăi bỏ
qua! Phải nghiêm túc học tập, thảy đều là
trong cuộc sống hằng ngày.
Khi
chúng ta lên cầu thang, khi đi thang máy, phải nghĩ
đến nguyện này. Nguyện cho hết thảy chúng
sanh đều có thể nghe chánh pháp, đều có thể mỗi
năm, mỗi tháng đều nâng cao sự tu học chánh
pháp của chính ḿnh. Đấy là “thế đồng xuất thế”, nghĩa là ở
trong thế gian mà giống như đă xuất thế gian.
Nói thật ra, thế gian và xuất thế gian là một,
không hai, tùy thuộc quư vị dụng tâm [như thế nào].
Khéo dụng tâm, pháp thế gian và xuất thế gian là một;
chẳng khéo dụng tâm, sẽ là hai. Văn Thù Bồ Tát nói
hay quá! Tổng cương lănh là phải “khéo dùng cái tâm”, phải dùng cái tâm chánh đáng. Khéo
dùng cái tâm, nói chung, quyết định sẽ tương ứng
với Đại Bồ Đề tâm, là thực hiện
Đại Bồ Đề tâm; đấy là “khéo dùng cái tâm”. Đối với
người, đối với sự, đối với vật,
chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi,
chúng ta đều phải thực hiện th́ mới được.
Chẳng thể thực hiện, sẽ là tạo tội
nghiệp!
Quư
vị thấy đó, tương phản của chân thành là
hư ngụy, tương phản của thanh tịnh là ô
nhiễm. Quư vị có thị phi, nhân ngă, quư vị có tham,
sân, si, mạn, quư vị có tiếng tăm, lợi dưỡng,
đă ô nhiễm mất rồi! Tương phản với
b́nh đẳng là cao thấp, luôn cảm thấy chính ḿnh
cao hơn kẻ khác, luôn cảm thấy kẻ khác chẳng
bằng ta, kiêu căng, ngă mạn, khi dễ kẻ khác. Ngay
cả đối với con người mà c̣n khi dễ, huống
hồ những động vật và thực vật khác,
quư vị chẳng để vào mắt! Nếu quư vị liễu
giải nhân duyên quả báo trong ấy, tôi tin rằng quư vị
sẽ nhất định nghiêm túc sửa lỗi, quả
báo quá đáng sợ! Quư vị có thái độ khinh mạn
người khác, chẳng để ai vào mắt như vậy,
quả báo trong tương lai của quư vị sẽ là bị
người khác khinh thường, rẻ rúng! Nói cách khác, chẳng
có ai coi trọng quư vị, chẳng có ai tôn kính quư vị, vĩnh
viễn thuộc vào địa vị thấp hèn. “Một hớp uống, một
miếng ăn, không ǵ chẳng phải là đă được
định sẵn”. “Đă định sẵn” là do chính
ḿnh tạo tác. Khởi tâm động niệm, ngôn ngữ,
hành vi, chẳng có ǵ không có quả báo. Một ư niệm dẫu
vi tế, nhỏ nhặt đến mấy, đều chẳng
trốn khỏi quả báo! Cái nhân do chính ḿnh tạo ra, chính
ḿnh nhất định phải hứng chịu cái quả,
chẳng có ai có thể thay thế được. Những
đạo lư và sự thật này, không chỉ
là đức Phật đă nói rất rơ ràng trong kinh, mà trong
sách vở của những tôn giáo khác cũng như rất
nhiều sách vở thế gian đều nói đến; [đó
chính là] giáo dục nhân quả!
Ngạn
ngữ thường nói, trong Phật môn có câu: “Vạn pháp giai không, nhân quả bất
không” (Muôn pháp đều là không, nhân quả chẳng
không). V́ sao nhân quả chẳng không? V́ báo ứng chẳng không!
Chúng ta thường nói đến ba thứ: “Chuyển biến bất không, tương
tục bất không, tuần hoàn bất không”. “Tuần hoàn” là báo ứng, oan oan
tương báo, chẳng hết, chẳng xong! Một
người thật sự thông minh, có trí huệ, sẽ
trong một đời này tuyệt đối chẳng kết
oán cừu với một chúng sanh nào. Như vậy th́ kể
như là quư vị đă giác ngộ. Không chỉ là chẳng
kết oán với người khác, mà đối với súc sanh
cũng chớ nên kết oán. Không chỉ là đừng nên kết
oán với súc sanh, mà đối với thực vật
cũng đừng nên kết oán. Quư vị đừng thấy
thực vật dường như là chẳng đáng kể!
Ngày hôm qua, cư sĩ Trần Hiểu Húc[1]
nghe kinh ở chỗ chúng tôi, hôm nay cô ta đă về Bắc
Kinh. Cô ta có kể cho tôi nghe chuyện đă xảy ra trong
nhà ḿnh vào mấy năm trước. Có một đêm, hai vợ
chồng cô về đến nhà, cảm thấy từ
trường trong nhà rất khó chịu. Kẻ b́nh phàm
thường nói là “có thể có quỷ hồn ở trong ấy”,
cả hai vợ chồng đều cảm nhận
được.
Cô
ta liền nói, cô cũng là một Phật tử kiền
thành; cô nói: “Nếu thật sự có linh quỷ ở trong
nhà tôi, quư vị hăy làm cho đèn điện chớp lóe”.
Đèn điện làm sao có thể chớp lóe cho được?
Nói xong lời ấy, năm phút sau, quả nhiên đèn chớp
nhoang nhoáng, hai người đều sững sờ! Cô ta
nói: “Làm như thế nào đây? Chúng ta thuộc hai cơi Âm và
Dương khác nhau, chẳng có cách nào trao đổi”. Cô ta
bảo: “Như thế này th́ sẽ được, ban
đêm tôi ngủ, quư vị sẽ báo mộng cho tôi biết”.
Tối hôm đó đi ngủ, thật sự mộng thấy
một đám trẻ nhỏ đến cầu cứu: “Cầu
bà cứu giúp chúng tôi. Chúng tôi sắp chết khô, chúng tôi cần
nước lắm, sắp chết khô cả rồi!” Chúng
nó c̣n nói rất nhiều lần: “Chúng tôi là thảo mộc
trong sân nhà bà”, tức là cỏ nhỏ mọc trên mặt
đất. “Chúng tôi là cỏ cây trong sân nhà bà”. Nói vài lượt,
rất thận trọng.
Sáng
sớm hôm sau, cô ta tỉnh giấc, ra sân xem, cỏ trong sân
đă khô cả rồi! Đại khái là đă rất lâu chẳng
có ai tưới nước. Vốn trong sân có trồng hoa,
ông bố trông nom, hằng ngày tưới hoa, chứ không
tưới cỏ. Quư vị thấy thảo mộc, thần
thảo mộc là trẻ thơ, giống như trẻ nít.
Cô ta thấy t́nh h́nh ấy, vội vă lấy nước
phun lên chỗ đất trồng cỏ. Cha cô ở bên cạnh
nói: “Chẳng cần lo cho nó, chúng ta tưới hoa, chẳng
cần tưới cỏ”. Cô cũng không nói ǵ, có chuyện
như thế ấy. Chuyện này đă chỉ rơ: Cỏ
cây là sống động, có “linh”.
Chẳng phải là cỏ cây [có tác dụng biến hóa như
thế ấy], mà là do có những vong linh ở trên thảo
mộc. Giống như trẻ nhỏ, sau khi trẻ thơ
đă chết, chúng nó sẽ không chọn cây to, mà chọn cỏ
nhỏ, hoặc chọn hoa cỏ [để nương gá].
V́ thế, thần thảo mộc cũng như thần cây
là do có linh hồn bám vào cây ấy. Nếu năm tháng đă
lâu mà họ vẫn chẳng rời khỏi, sẽ có thể
tác quái, họ có thể biến hóa. Họ cũng tu hành ở
nơi đó, nhưng rốt cuộc là chánh pháp hay tà pháp,
cũng rất khó nói. Gặp chánh pháp quá ít; hễ gặp tà
pháp, sẽ biến thành yêu ma quỷ quái, đều thuộc
loại này. Do vậy có thể biết, chúng ta đều
phải tôn kính cỏ cây, đừng nên xem chúng là cỏ nhỏ.
Cô ta kể cho tôi nghe chuyện này. Hai vợ chồng họ
kể với tôi, chẳng giả, cô ta không bịa đặt
chuyện này để gạt tôi, mà là chuyện thật!
V́
thế, trong Giới Kinh, đức Phật đă dạy
người xuất gia: “Thanh tịnh
tỳ-kheo, bất đạp sanh thảo” (Tỳ-kheo
thanh tịnh, chẳng giẫm lên cỏ tươi). Cỏ
mọc xanh tươi, quư vị chớ nên đạp lên chúng
mà đi. Trừ phi nơi ấy chẳng có đường,
ắt đành phải đi qua đó. Đi như vậy gọi
là “khai duyên”. Nếu có
đường lộ [hẳn hoi], quư vị chớ nên
đi đường tắt, nhất định phải
đi trên con đường ấy, chẳng thể đạp
lên chỗ đất có cỏ. Trong Giới Kinh, đức
Phật dạy người xuất gia, người xuất
gia phải nên học, mà kẻ tại gia cũng nên học.
Chúng ta đối với hết thảy người, sự,
vật, đều chân thành, cung kính, quỷ thần sẽ đều
cung kính chúng ta. Nếu quư vị được thiên địa
quỷ thần tôn kính, sẽ ít gặp phải những tai
nạn. V́ thế, thành kính đối với hết thảy
người, sự, vật; đó là chuyện tốt, rất
quan trọng, chớ nên không nghiêm túc học tập. Cũng
phải nguyện cho hết thảy chúng sanh có cơ duyên gặp
gỡ chánh pháp, thời thời khắc khắc tăng cao
cảnh giới tu học, tâm lượng của chúng ta sẽ
mở rộng, ḷng ghen tỵ và chướng ngại của
chúng ta sẽ tự nhiên được hóa giải.
Lại
xem câu thứ năm:
(Sớ)
Dĩ nhân đồng quả lệ, như chánh xuất gia
thời, nguyện đồng Phật xuất gia đẳng.
(疏)以因同果例,如正出家時,願同佛出家等。
(Sớ: Thể lệ nhân giống như quả,
như khi xuất gia, nguyện xuất gia giống như
Phật v.v…)
“Đẳng” (等) là những trường hợp giống như vậy,
trong phần sau sẽ có rất nhiều! Xuất gia chẳng
phải là một chuyện dễ dàng! Trong kinh, đức
Phật đă dạy chúng ta, Xuất có bốn loại, Gia
cũng có bốn loại, phải hiểu điều này!
1)
Xuất th́ có “thân xuất, tâm
không xuất”, tức là thân đă xuất gia, nhưng niệm
niệm vẫn lưu luyến hưởng thụ ngũ dục,
lục trần, vẫn chẳng thể buông xuống tiếng
tăm, lợi dưỡng. Thân xuất, tâm chẳng xuất.
Đấy là loại thứ nhất.
2)
Loại thứ hai, “tâm xuất,
thân chẳng xuất”, đang là tại gia, nhưng tâm xuất
gia. Đấy là hàng tại gia cư sĩ tốt lành, tu
hành đúng pháp. Chúng ta thấy phần đầu của
kinh Vô Lượng Thọ có nói “Hiền
Hộ đẳng thập lục Chánh Sĩ” (mười
sáu vị Chánh Sĩ như Hiền Hộ v.v…). Các Ngài chính
là những người “tâm xuất,
thân chẳng xuất”, là hàng tại gia. Cư sĩ Duy Ma
cũng thị hiện tấm gương tốt nhất
cho chúng ta, tâm xuất, thân chẳng xuất. Ngài Duy Ma thuộc
địa vị Phật, Ngài chẳng phải là Bồ Tát,
mà là Phật. V́ thế, học tṛ của Thích Ca Mâu Ni Phật,
tức là các vị đại đệ tử như Mục
Kiền Liên, Xá Lợi Phất, Ca Diếp, gặp cư
sĩ Duy Ma, đều đảnh lễ ba lạy, nhiễu
theo chiều bên phải ba ṿng, lễ tiết hoàn toàn giống
như gặp Phật. Đấy là ǵ? Làm cho chúng ta thấy.
Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện làm một vị Phật
xuất gia, ngài Duy Ma thị hiện làm tại gia Phật,
cảnh giới tu chứng của các Ngài hoàn toàn giống
nhau, tức là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác
như kinh đă nói. Đối với sự thành tựu của
các Ngài, làm sao có thể coi thường cho được?
Hàng
tại gia tu hành thành tựu, họ cũng có thể chứng
quả A La Hán y hệt, có thể chứng quả vị Bồ
Tát, chúng ta chớ nên không biết điều này. V́ thế,
chớ nên khinh mạn người tu hành tại gia. Rất
nhiều vị xuất gia không hiểu, đặc biệt
là những người trẻ tuổi mới xuất gia
chưa được bao lâu! Chúng ta chớ nên không biết
điều này! Vừa khoác bộ quần áo ấy vào, cứ
ngỡ chính ḿnh ghê gớm lắm! Hàng tại gia cư
sĩ đều phải cung kính ta, bản thân người
ấy ngạo nghễ, ngă mạn. Đấy là tạo tội
nghiệp. Họ chẳng hiểu trong hàng tại gia cư
sĩ có rất nhiều vị chứng quả, có những
vị tu hành khai ngộ chứng quả, thật đấy,
chẳng giả! Đó là loại thứ hai.
3)
Loại thứ ba, “thân lẫn
tâm đều xuất”. Thích Ca Mâu Ni Phật đă thị
hiện nêu gương cho chúng ta. Những vị đệ
tử theo đức Phật thuở ấy, một ngàn hai
trăm năm mươi lăm vị, thảy đều
là “thân lẫn tâm đều xuất”.
4)
Loại thứ tư, “thân lẫn
tâm đều chẳng xuất”. Là hạng người
nào vậy? Tại gia cư sĩ. “Thân lẫn tâm đều chẳng xuất gia” chẳng
phải là nói tới người bên ngoài đâu nhé! Kẻ
bên ngoài không tính, ở đây là nói tới đệ tử
Phật, tức là đệ tử tại gia và xuất gia
của đức Phật, chẳng kể đến
người ngoài! Hạng người này cũng thọ Tam
Quy, Ngũ Giới, thậm chí c̣n thọ Bồ Tát Giới,
nhưng hoàn toàn chẳng hiểu, hoàn toàn chẳng thể thọ
tŕ. Hàng cư sĩ thân đă chẳng xuất, đối với
sự tu học trong Phật pháp chẳng biết một
điều ǵ, tâm cũng chẳng xuất. Thân lẫn tâm
đều chẳng xuất.
Đấy
là bốn loại Xuất! Gia cũng có bốn loại.
1)
Loại thứ nhất gọi là Điền Trạch Chi Gia
(田宅之家,nhà
pḥng ốc, ruộng nương). Tức là nói theo hiện
thời, quư vị có nhà cửa, có ruộng đất, có
đất đai, có pḥng ốc. Quư vị đă xuất
gia, bỏ sạch những thứ ấy. Đấy là khái
niệm xuất gia theo thế tục. Hạng xuất gia này
hoàn toàn chẳng thể liễu sanh tử, mà cũng chẳng
thoát khỏi tam giới; đấy là xuất gia nơi h́nh
tượng. Đấy là loại Gia thứ nhất.
2)
Loại thứ hai, Phiền Năo Gia. Phiền năo là nhà. Chẳng
đoạn phiền năo, quư vị sẽ chẳng thoát khỏi
lục đạo luân hồi. Phiền năo là nhân, luân hồi
là quả; do vậy, phiền năo là nhà. Buông xuống phiền
năo, xuất phiền năo gia, quư vị chẳng xuất
Điền Trạch Gia, làm tại gia cư sĩ, chẳng
phải là hàng xuất gia, chẳng sao hết, quư vị
đă đoạn phiền năo! Đấy chính là ǵ? Tâm xuất,
thân không xuất, người ấy có thành tựu! V́ thế,
Phiền Năo Gia trọng yếu hơn Điền Trạch Gia!
3)
Loại thứ ba, Tam Giới Gia, chính là lục đạo.
Tam giới lục đạo là nhà, thật sự là nhà. Quư
vị thấy chúng ta đời đời kiếp kiếp
đều đang luân hồi trong lục đạo, chẳng
thể xuất ly! Đấy là nhà, nói theo quả! Xuất
Phiền Năo Gia là nói theo nhân.
4)
Loại cuối cùng cao hơn nữa, “xuất Vô Minh gia”. “Xuất
vô minh gia” là ǵ? Không chỉ vượt thoát lục đạo,
mà mười pháp giới cũng vượt thoát. Do vậy,
xuất Vô Minh Gia, hạn độ thấp nhất là
Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo theo kinh Hoa Nghiêm, chính là Phần
Chứng Tức Phật. Ngài là chân Phật, chẳng phải
là giả Phật. Ngài dụng tâm thật sự là Bồ
Đề tâm. Do vậy, Sơ Trụ Bồ Tát được
gọi là Phát Tâm Trụ, phát cái tâm ǵ vậy? Bồ Đề
tâm. Bồ Đề tâm là chân tâm, Bồ Đề tâm mới
là bản tánh vốn lành, hoàn toàn trở về bổn thiện.
Giáo pháp Đại Thừa thường nói: “Hết thảy chúng sanh đều
có Phật tánh”. Hễ phát Bồ Đề tâm, quư vị
trở về Phật Tánh. Chúng tôi đă nói rất nhiều,
Thập Trụ Bồ Tát và quả vị rốt ráo chẳng
hai, chẳng khác, sai biệt ở chỗ nào? Sai biệt ở
chỗ [Thập Trụ Bồ Tát] vẫn c̣n vô minh. Bốn
mươi mốt địa vị là do tập khí vô minh cạn
hay sâu khác nhau. Trừ điều này ra, sai biệt ǵ
cũng đều chẳng có.
Do
vậy, thế giới hài ḥa, thế giới b́nh đẳng
là ở chỗ nào? Ở trong Hoa Tạng, trong thế giới
Cực Lạc. Nếu chúng ta muốn sanh vào Hoa Tạng, sanh
vào thế giới Cực Lạc, quư vị phải hiểu
hài ḥa rất trọng yếu. Trước hết, tự
ḿnh phải điều chỉnh sao cho thân tâm của chính
ḿnh hài ḥa, làm từ nơi ta! Trong các buổi giảng, chúng
tôi đă nói lời này hơn một ngàn lần, nói thường
xuyên, thường xuyên nhắc nhở các vị đồng
học. Mỗi lần tôi nhắc nhở mọi người
đều là một lần nhắc nhở chính ḿnh. V́ thế,
chính ḿnh rất có thọ dụng. Số lần [nhắc nhở]
quá nhiều, cho nên rất có thọ dụng. Chắc chắn
là phải đối với nội tâm của chính ḿnh,
chúng tôi nói tới chỗ sâu thẳm trong nội tâm, phải
buông xả ư niệm đối lập đối với người,
sự, vật. Ư niệm ấy chính là cội nguồn chống
trái hết thảy hài ḥa. Người khác đối lập
với ta, đó là chuyện của họ. “Tâm, Phật, chúng sanh, cả ba chẳng sai biệt”.
Đối với chuyện ấy, chúng ta không có cách nào!
Điều cần thiết là chúng ta chẳng đối lập
với họ. Ta chẳng đối lập với người
khác th́ sự đối lập của người khác
đối với ta cũng chẳng thể dấy lên
được! Hai bên đối lập nhau th́ mới có thể
sanh khởi sự đối lập. Một bên chẳng
đối lập, giống như đấm vào khoảng
không, quư vị đấm rồi chẳng có phản ứng
chi hết! Phải hiểu rơ đạo lư này!
Do
vậy, chẳng đối lập với hết thảy
mọi người, chẳng đối lập với hết
thảy sự vật, tâm b́nh đẳng, tâm thanh tịnh sẽ
hiện tiền. Chỉ cần chẳng đối lập,
thưa cùng chư vị, sẽ chẳng có tâm hoài nghi hết
thảy chúng sanh, chẳng c̣n hoài nghi nữa! Chúng ta nói là “chẳng có ngờ vực, lo âu”,
chẳng có mâu thuẫn, chẳng có xung đột, quư vị
nói có sung sướng lắm hay chăng? Quư vị hăy
nghĩ xem, đấy có phải là sự hưởng thụ
cao nhất trong đời người hay chăng? Từ
chỗ này, quư vị có thể thấu hiểu lạc thú của
Nhan Hồi, lạc thú của Khổng Tử, lạc thú của
chư Phật, Bồ Tát, quư vị mới có thể lănh hội
đôi chút! Nếu quư vị chẳng buông xuống ư niệm
đối lập với hết thảy người, sự,
vật trong chốn sâu thẳm của nội tâm, sẽ chẳng
thể lănh hội, chẳng thấu hiểu ư vị trong niềm
lạc thú của các bậc thánh hiền! Nói chung, quư vị
phải tự ḿnh buông xuống; thật sự buông xuống
th́ mới có thể lănh hội. “Học
nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ” (Học
rồi thường xuyên tập luyện, cũng chẳng
vui sao), quư vị sẽ hiểu câu nói ấy! Nếu quư vị
chẳng nhập cảnh giới ấy, có giảng giải
cho quư vị, quư vị vẫn nghe mà chẳng hiểu! Quư vị
chẳng hiểu [niềm lạc thú ấy] là chuyện
như thế nào, v́ trong nội tâm của chính quư vị có
chướng ngại!
Do
vậy, trước hết phải hóa giải các chướng
ngại trong nội tâm, sau đấy mới giúp đỡ
người khác. Nếu họ cũng hiểu đạo
lư này, cũng đổ công dốc sức nơi ấy, quá
tốt đẹp, cảnh giới của họ sẽ được
nâng cao nhanh chóng. Nếu họ chẳng hiểu, căn tánh
rất độn, tập khí phiền năo rất nặng,
làm như thế nào đây? Thánh nhân đă có giáo huấn, hăy
tŕ giới! Tŕ giới th́ hạng căn tánh trung hạ sẽ
được lợi ích rất nhiều, c̣n hạng
thượng thượng căn th́ sao? Bậc thượng
thượng căn cũng tŕ giới. V́ sao? Làm cho kẻ
trung hạ căn trông thấy. Chẳng thể nói là bậc
thượng thượng căn không tŕ giới, [nếu bậc
thượng căn không tŕ giới], kẻ trung hạ
căn thấy vậy, [sẽ tự nhủ]: “Họ chẳng
tŕ giới, v́ sao ta phải tŕ giới?” Do vậy, đức
Phật luôn tŕ giới. Trong cuộc sống hằng ngày, Thích
Ca Mâu Ni Phật xử sự, đăi người tiếp vật,
chẳng có điều ǵ không phù hợp giới luật, có
nghĩa là Ngài thảy đều thực hiện viên măn! Chắc
chắn là quư vị chẳng t́m thấy Ngài có chuyện ǵ
trái nghịch giới luật, tức là chẳng hề phạm
giới, dẫu là giới luật lớn hay nhỏ, chắc
chắn là chẳng t́m thấy! Ngài nêu gương cho mọi
người thấy, đó gọi là “đại từ đại bi, dùng thân giáo để
thị hiện”. Thân giáo th́ phải làm đến khi nào?
Chẳng có lúc nào xong! V́ sao? Chúng sanh chưa độ hết.
Chỉ cần c̣n có chúng sanh, Ngài sẽ làm như vậy,
nêu gương tốt nhất. Gương mẫu tốt nhất là tŕ giới; làm cho người
khác thấy, lợi ích đại chúng, lợi ích xă hội,
từ bi đến tột bậc! Giới nhỏ nhặt
cũng chẳng bỏ, từ bi đến tột cùng!
Do
vậy, trong quá khứ, xuất gia chẳng
dễ dàng! Quư vị ngẫm xem, xuất Phiền Năo Gia, xuất
Tam Giới Gia, xuất Vô Minh Gia, thật sự khó khăn!
Trong xă hội hiện tiền, càng khó hơn. Nếu chỉ
có h́nh thức xuất gia, tập khí phiền năo chẳng
đoạn mảy may; đó là bất hảo, quả báo rất
khổ. Đấy cũng là như ngạn ngữ đă
nói: “Địa ngục môn tiền,
tăng đạo đa” (Trước cửa địa
ngục, có lắm tăng sĩ và đạo sĩ). V́ sao? V́
sao họ xuất gia, tu đạo, mà đọa địa
ngục? Họ chẳng thật sự tu hành đúng pháp! Do
tội danh ǵ mà họ đọa địa ngục? Phá hoại
h́nh tượng của Phật đạo. Phật đạo
là thánh hiền, cớ sao ngươi lại phá hoại h́nh
tượng của thánh hiền? Nay học Phật, xuất
gia, khoác y phục của người xuất gia; đối
với kẻ tại gia, người ta biết quư vị
là đệ tử tại gia học Phật của Phật
môn, nếu ngay cả Tam Quy, Ngũ Giới và Thập Thiện
mà quư vị đều chẳng làm được, người
ta sẽ phê b́nh: “Ngươi phá giới, ngươi làm ác
(tương phản của Thập Thiện là Thập Ác).
Kẻ học Phật mà luôn làm ác th́ [người khác] cần
ǵ phải học Phật nữa!” V́ quư vị làm ác, người
ta phê b́nh toàn thể Phật giáo, quư vị đă phá hoại
toàn thể h́nh tượng của Phật pháp. Tội ấy
nặng nề, bằng với tội phá ḥa hợp
Tăng, [sẽ phải đọa vào] A Tỳ địa
ngục. Vậy th́ v́ lẽ nào quư vị phải khổ sở
làm như thế? Xuất gia, cơ duyên bị kẻ khác
chê cười càng nhiều hơn! Tại gia, nếu [kẻ
khác] chẳng quen biết, sẽ không biết quư vị học
Phật, họ chẳng chê trách quư vị. Nếu họ biết
quư vị học Phật, sẽ hủy báng quư vị. Đạo
lư ở chỗ này!
Từ
chỗ này, chúng ta có thể thấu hiểu [v́ sao] suốt
đời lăo pháp sư Ấn Quang chẳng thâu nhận
đồ đệ xuất gia, không thế độ cho
người khác, đại từ đại bi đấy!
Quư vị hăy nghĩ xem v́ sao? Thế độ một
người là đưa một người đến
địa ngục, thế độ hai người là
đưa hai người đến địa ngục. Tâm
tổ sư hiểu rất rơ, Ngài chẳng nhẫn tâm! Do vậy,
Ngài chỉ nhận thâu nhận đệ tử tại gia,
truyền thọ Tam Quy, Ngũ Giới cho người khác. Lăo
nhân gia suốt đời chẳng thâu nhận đồ
đệ xuất gia, suốt đời chẳng truyền
giới, v́ sao? Truyền giới, kẻ thọ giới chẳng
làm được, toàn là phá giới, toàn là phạm giới,
tội ấy khôn cùng! Chẳng làm chuyện xấu ấy!
Quư vị thấy Ngài suốt đời chẳng làm Trụ
Tŕ, chẳng làm Đương Gia, suốt đời chẳng
cất chùa, lưu lại tấm gương rất tốt
cho chúng ta, chúng ta hăy nên học tập lăo nhân gia. Nói theo kiểu
hiện thời, sẽ là “nh́n
vào tấm gương của lăo nhân gia, bèn mong được
bằng”, “mong được
bằng” chính là học tập. Ngài nêu gương tốt
cho chúng ta, là một vị tổ sư gần thời chúng
ta nhất. Nói cách khác, vào lúc này, ở chỗ này, chúng ta hăy
nên học tập theo Ngài!
Ngài
là một vị cao tăng đại đức, tín đồ
tại gia đông đảo, cúng dường nhiều. Đối
với hết thảy những thứ cúng dường nhận
được, Ngài chẳng tự ḿnh hưởng thụ,
mà hoàn toàn lần lượt dùng làm công đức thay cho họ.
Làm công đức thù thắng nhất, đáng gọi là “trăm điều lợi, chẳng
có điều tệ nào” chính là công đức nào vậy?
In kinh! Ngài gom góp những khoản cúng
dường ấy để thành lập Hoằng Hóa Xă. Hoằng
Hóa Xă ở Tô Châu được thành lập bởi tiền
cúng dường của đệ tử tổ Ấn Quang,
là Phật Kinh Lưu Thông Xứ (nơi phát hành kinh Phật).
Ngài tự ḿnh in kinh sách, in thiện thư, kết duyên khắp
mọi nơi. Thuở ấy, đó là phương pháp tốt
nhất, dùng những sách vở ấy để phổ
độ chúng sanh. Trong hiện tại, trừ sách vở
ra, c̣n có những thứ hiện thời thấy khá nhiều,
có băng thâu âm, có CD, có VCD, những thứ này c̣n thuận
tiện hơn văn tự. V́ thế, chúng ta phải biết
lợi dụng những thứ khoa học kỹ thuật ấy
để giới thiệu chánh pháp với quảng đại
quần chúng; trong ấy, chắc chắn chẳng có lỗi
lầm. Nếu quư vị dựng đạo tràng, trong thời
kỳ Mạt Pháp, nếu người xuất gia chẳng
buông xuống cái tâm danh lợi, “thân
xuất, tâm chẳng xuất”, họ sẽ tranh đoạt
tài sản trong chùa, phá hoại h́nh tượng Phật giáo.
Tổ sư thấy rơ ràng, thấy rành rẽ, [do vậy,
Ngài] chẳng làm chuyện này. Chúng ta phải quan sát cẩn
thận, chú tâm hiểu rơ, nghiêm túc học tập chuyện
này.
Đạo
tràng đúng pháp nhất, chúng ta chú tâm quan sát thuở Thích Ca
Mâu Ni Phật tại thế, quư vị sẽ thấy: Những
đạo tràng do cư sĩ cúng dường, mọi
người đều biết rơ, như Kỳ Thụ Cấp
Cô Độc Viên, Trúc Lâm Tinh Xá, đều là những
nơi mọi người rất quen thuộc. Ở những
nơi ấy, đức Phật đă giảng chẳng ít
kinh; tài sản ở những nơi ấy là của cư
sĩ, đức Phật chẳng tiếp nhận. Chẳng
phải là tặng cho đức Phật, đức Phật
chẳng tiếp nhận, [v́] đức Phật đă xuất
gia, mà là ǵ vậy? Cho mượn! Họ cung cấp nơi
chốn để giảng kinh, tu hành. Đức Phật
và các đệ tử chẳng dùng nữa th́ “vật quy nguyên chủ” (vật
trả về chủ nhân), [những cơ sở ấy] là
của bọn họ. Mượn để sử dụng
có kỳ hạn, [cơ sở] vẫn là của họ. Nhà
cửa bị hư hại, cần phải sửa chữa
là chuyện của họ. Đức Phật và những vị
xuất gia ấy quyết định chẳng nghe, chẳng
hỏi tới, tâm địa thanh tịnh. Trước kia,
những vị lăo ḥa thượng đă bảo chúng tôi: Thuở
đức Phật tại thế, nhà cửa bị dột,
các Ngài bèn né chỗ ấy, đến chỗ khô ráo để
tĩnh tọa. Thật sự chẳng thể ở nữa,
chẳng thể ở nữa th́ các Ngài sẽ ra đi. Sửa
chữa pḥng ốc là chuyện của chủ nhân các pḥng ốc
ấy. Các Ngài vẫn sống cuộc đời đi khất
thực, mỗi ngày ăn một bữa Ngọ, sống cuộc
đời đơn giản nhất, ǵn giữ thân tâm
thanh tịnh, b́nh đẳng, từ bi, chẳng có mảy
may ô nhiễm. Đó là thật sự xuất gia, thân lẫn
tâm đều xuất. Các Ngài đă thật sự thoát khỏi
Phiền Năo Gia, ra khỏi Tam Giới Gia, ra khỏi Vô Minh
Gia.
A
La Hán xuất Tam Giới Gia, Pháp Thân Bồ Tát xuất Vô Minh
Gia, sơ học xuất Phiền Năo Gia, đoạn phiền
năo từng bước một! Phiền năo tập khí của
chúng ta mỗi năm một ít hơn, quư vị mỗi
năm “xuất gia” thêm một
chút, đấy là thật sự thực hiện, là công phu
thật sự. Tuyệt đối chẳng phải là nói
quư vị đă tụng thuộc bao nhiêu kinh điển,
đọc làu làu bao nhiêu kinh điển, có thể giảng
bao nhiêu kinh điển, [dẫu có thể làm như thế]
mà chẳng đoạn phiền năo th́ chẳng có một tí tác
dụng nào cả! À! Nay đă hết thời gian rồi, chúng
ta nghỉ ngơi mấy phút.
**
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời
ngồi xuống. Xin xem tiếp câu thứ sáu kế đó:
(Sớ)
Xả ngụy quy chân lệ, như trước anh lạc,
nguyện đáo chân thật xứ đẳng.
(疏)捨偽歸真例,如著瓔珞,願到真實處等。
(Sớ: Thể lệ bỏ ngụy trở về
với chân, như “[khi] đeo anh lạc, nguyện đạt
đến chốn chân thật” v.v…)
Đấy
là một loại thể lệ nữa. Vào thời cổ, “anh” (瓔) quá nửa là những
món trang sức buộc vào hai bên mũ đội đầu;
“lạc” (珞) là
những thứ đeo trên thân. Những món anh lạc ấy
đều là vật trang sức. Người đời
coi chúng là đẹp, hiện thời, quư vị thấy
trong các tiệm kim hoàn, giá cả của những món anh lạc
rất đắt. Những thứ này cũng chẳng thật
sự tồn tại, Phật pháp đă dạy chúng ta: “Phàm những ǵ có h́nh tướng
đều là hư vọng”,
thứ ǵ là thật ? Đạo đức là thật. Quư
vị đeo đồ quư báu lóng lánh khắp thân, người
khác trông thấy rất hâm mộ, quư vị có lắm của
cải ngần ấy. Nói thật ra, chẳng bằng chính
ḿnh tu dưỡng đạo đức. Đạo đức
có thể cảm động ḷng người, có thể giúp
cho kẻ khác đoạn ác tu thiện, giúp kẻ khác phá mê
khai ngộ. Đấy là “chân
thật xứ”.
“Chân thật xứ” thực hiện
như thế nào? Trong phẩm kinh này, một trăm bốn
mươi mốt nguyện là chân thật xứ, quư vị
đều phải nên thực hiện hết. Những
năm qua, chúng tôi cực lực đề xướng Đệ
Tử Quy, Đệ Tử Quy là chân thật xứ. Một
người, bất cứ là ai, nếu có thể thật sự
thi hành Đệ Tử Quy, thưa cùng chư vị, người
ấy chắc chắn chẳng đọa vào ba ác đạo,
đời sau nhất định có thể giữ
được thân người. Đă thế, cuộc sống
sẽ thù thắng hơn đời này, cũng có nghĩa
là phước báo to hơn đời này. Đấy là
đạo lư nhất định, v́ Đệ Tử Quy là
thực hiện luân lư đạo đức. Luân lư đạo
đức chẳng phải là rỗng không, xác thực là
trong cuộc sống hằng ngày, trong công việc, trong xử
sự, đăi người tiếp vật, chúng ta quyết
định chớ nên sơ sót. Trước hết, phải
đọc thuộc ḷng sách ấy, có thể nhớ kỹ
càng. Chúng ta lại chia thành từng đoạn, có tất cả
một trăm mười ba điều, có khi một câu là
một điều, tối đa là có trường hợp
bốn câu là một điều, tám câu là một điều,
đều nói về cùng một chuyện. Hai câu nhằm nói
về cùng một chuyện là [những trường hợp]
phổ biến nhất. Nhất định phải làm
được, đấy là thực hiện đến chỗ
chân thật.
Ví
như chúng ta chia tất cả một trăm bốn
mươi mốt nguyện trong phần sau thành mười
đoạn. Đoạn thứ nhất là “Bồ Tát tại gia”, chính là tại gia tu hành. Chẳng
phải là sơ học, mà là Bồ Tát. Bồ Tát tại gia
mới có thể phát đại nguyện như thế, rất
gần gũi với hai mươi bốn điều trong
phần Nhập Tắc Hiếu của Đệ Tử Quy.
Gộp chung lại để xem, sẽ biết chúng ta phải
nên tu như thế nào. Đệ Tử Quy có câu: “Phụ mẫu hô, ứng vật
hoăn” (Cha mẹ gọi, hăy thưa ngay, chớ chần chờ),
trong Hoa Nghiêm, chư Bồ Tát biết: “Hết thảy chúng sanh đều là cha mẹ của
ta trong quá khứ, là vị lai chư Phật”, cảnh giới
của các Ngài chẳng giống kẻ khác. Đệ Tử
Quy dạy khi cha mẹ ruột gọi quư vị, quư vị
phải ngay lập tức đáp lời, chớ nên chần
chừ! Trong giáo pháp Đại Thừa, nhất là kinh Hoa
Nghiêm, Hoa Nghiêm là Nhất Thừa giáo. Trong quá khứ, tôi
cũng đă giới thiệu với quư vị: Trong Phật
pháp, kinh điển Nhất Thừa chỉ có ba bộ. Hoa
Nghiêm là một bộ, Pháp Hoa là một bộ nữa, bộ
kia là kinh Phạm Vơng. Kinh Phạm Vơng chẳng được
truyền toàn bộ sang Trung Hoa. Truyền sang Trung Hoa chỉ
có một phần là phẩm Tâm Địa Giới trong kinh
Phạm Vơng gồm hai quyển. Kinh ấy thuộc về Nhất
Thừa giáo.
Nhất
Thừa là ǵ? Nhất Thừa là trực tiếp thành Phật.
Sự tu học ấy lấy Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác làm tiêu chuẩn, đấy là Nhất Thừa giáo.
Nếu lấy Chánh Đẳng Chánh Giác làm tiêu chuẩn, sẽ
là giáo pháp Đại Thừa. Nếu dùng Chánh Giác làm tiêu chuẩn,
sẽ là giáo pháp Tiểu Thừa. V́ thế, tiêu chuẩn của
A La Hán và Bích Chi Phật là Chánh Giác, chúng ta gọi là Tiểu
Thừa. Nếu các Ngài là Chánh Đẳng Chánh Giác, sẽ là
Đại Thừa. Nhất Thừa là Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác. Chia như vậy cũng rất dễ
hiểu rơ, quư vị chẳng bị mê hoặc tí nào! Trong
giáo pháp Đại Thừa, chẳng cần nói là Nhất Thừa,
giáo pháp Đại Thừa đều là như vậy: Hết
thảy chúng sanh đều là cha mẹ. Quư vị xem Đại
Thừa Bồ Tát Giới Kinh, [sẽ thấy dạy] “hết thảy nam tử là cha
ta, hết thảy nữ nhân là mẹ ta”. Trong Bồ Tát Giới
Kinh [đă dạy như vậy]. Nói cách khác, bất cứ
ai gọi quư vị, quư vị đều phải trả lời,
lại c̣n phải đều cung kính. Ở Trung Hoa, vào
đời Châu, nhằm thời đại của Châu Văn
Vương; cách hiện thời hơn ba ngàn một
trăm năm, là thời của Châu Văn Vương. Từ
sử sách, chúng ta thấy mẹ của Văn Vương
(chẳng cần phải bàn căi chi nữa, [bà ta] thật sự
là thánh nhân) là bà Thái Nhậm. Khi có mang, [bà Thái Nhậm] đă
“thai giáo”. [Tức là] trong khi
mang thai, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo
tác đều chú tâm, cẩn thận, quyết định
chẳng có những chuyện “phản diện”, nghĩa là
bà ta tránh xa những chuyện bất thiện. Những điều
bất thiện, mắt chẳng nh́n, tai chẳng nghe, miệng
trọn chẳng nói, [sợ những thứ bất thiện
ấy] ảnh hưởng thai nhi. V́ thế, từ những
điều được ghi chép trong sách vở của Trung
Hoa, ta thấy bà Thái Nhậm đă thai giáo, đứa con
được [bà ta] sanh ra chính là Châu Văn Vương.
Trong
kinh Thư có chép, hôm Ngài (Châu Văn Vương) hạ sanh,
có một con chim màu đỏ. “Xích
tước” (赤雀) là một con chim sẻ sắc đỏ, mỏ ngậm
một vật giống như cái
được gọi là tấm cạc (card, thẻ nhỏ)
trong hiện thời. Mỏ chim ngậm tấm thẻ. Con
chim ấy bay tới nhà Châu Văn Vương, ngậm một
tấm thẻ, bỏ lại tấm thẻ ấy rồi
bay mất. Trên tấm thẻ có ghi chữ; v́ thế,
mọi người nói “đấy chính là điềm lành
cho biết thánh nhân hạ sanh!” Trên tấm thẻ ghi những
chữ ǵ? Câu thứ nhất là “kính
thắng đăi tắc cát, đăi thắng kính tắc diệt”
(cung kính chiếm phần lớn th́ sẽ tốt lành, dễ
duôi chiếm phần lớn th́ sẽ diệt vong), c̣n dài lắm! Nay chúng tôi thấy
chuyện này, đă nghĩ câu đầu tiên [có nghĩa là] “cung kính hết thảy”. Quư vị
thấy điều thứ nhất trong mười đại
nguyện vương của Phổ Hiền hạnh nguyện
là “lễ kính chư Phật”.
“Chư Phật” là hết thảy
chúng sanh, hết thảy chúng sanh đều có Phật Tánh.
Không chỉ là hết thảy mọi người, mà hết
thảy động vật, ngay cả muỗi, kiến cũng
đều có Phật Tánh, quư vị phải kính trọng
chúng. Trong phần trước, tôi đă báo cáo cùng quư vị,
đối với cây cối hoa cỏ đều phải lễ
kính, kính đấy nhé! Tương phản với Kính là “giải đăi”. Giải
đăi là chẳng cung kính. Nếu chúng ta xử sự, đăi
người tiếp vật, ḷng kính trọng vượt trỗi
sự giải đăi, [sẽ là] đại cát đại lợi,
quả báo là tốt lành. Nếu ngược lại, chúng ta
xử sự, đăi người tiếp vật bằng sự
giải đăi, qua loa có lệ, chẳng rất coi trọng,
chẳng có mảy may ư nghĩ cung kính, quả báo sẽ là
diệt, tức là chữ “diệt” trong “diệt vong”.
Trong
xử sự, đăi người tiếp vật, hai câu tiếp
đó nói rất hay. “Nghĩa”
(義) là đạo nghĩa. Nếu quư vị
đạo nghĩa nhiều hơn dục vọng, người
khác sẽ nghe lời, phục tùng quư vị, quư vị có thể
làm một người lănh đạo. Bí quyết ở ngay
chỗ này. Quư vị rất coi trọng đạo
nghĩa, xem rất nhẹ tiếng tăm, lợi dưỡng,
ngũ dục lục trần của chính ḿnh, quư vị sẽ
là một người lănh đạo rất tốt. Nếu
ngược lại, quư vị rất coi trọng dục vọng,
coi đạo nghĩa rất nhẹ, quả báo sẽ là hung
hiểm! Điều đó tương phản với cát lợi,
nên quả báo là hung! Hung đến mức độ nào? Tùy
thuộc quư vị làm như thế nào! Khi nghiêm trọng, sẽ
là mọi người chống đối, người thân
xa ĺa, mọi người chẳng thèm ngó ngàng tới quư vị,
chẳng có ai muốn qua lại với quư vị. V́ sao? Con
người quư vị chẳng có đạo nghĩa, chỉ
là ích kỷ, có ai muốn qua lại với quư vị? V́ thế,
“thụy tướng”
như cổ nhân đă nói chẳng phải là mê tín
Nhưng
vật được con chim ngậm tới cũng là một
tấm thẻ màu đỏ, nên gọi là “đan thư” (丹書, sách son), trên đó có viết chữ. Chuyện này
được gọi là “truyền thuyết” v́ đă quá
xa, thời gian đă quá lâu. Chúng ta thấy [chuyện này
được chép] vào đời Hán [trong bộ] Sử Kư
do Tư Mă Thiên trước tác. Tư Mă Thiên sống sau Châu
Văn Vương hơn một ngàn năm, đại khái
là khoảng hơn một ngàn hai trăm năm. Do vậy,
có người nói truyền thuyết ấy chưa chắc
đă đáng tin, nhưng chúng ta không khảo chứng chuyện
này. Chúng ta cảm thấy giáo huấn ấy rất trọng
yếu, chúng ta coi trọng lời giáo huấn trong ấy.
Trong lời giáo huấn ấy, Kính rất trọng yếu.
Quư vị thấy câu đầu tiên trong sách Lễ Kư là “Khúc Lễ viết, vô bất kính”
(Khúc Lễ nói “không có ǵ chẳng kính”); nguyện thứ
nhất trong Phổ Hiền hạnh nguyện là “lễ kính chư Phật”.
Chúng ta thấy khá nhiều nghi thức sám hối hoặc
bái sám trong Phật môn, quư vị thấy có những câu như
“nhất thiết cung kính, nhất
tâm đảnh lễ” rất nhiều! Học Phật,
học thánh, học hiền, thực hiện từ chỗ
nào? Thực hiện từ lễ kính. Đối với
người, đối với sự, đối với vật,
phải có kính ư. “Kính ư” là chân
thật, chẳng hư ngụy; cho nên thành kính. Cổ nhân
nói thành kính là “nhập đức
chi môn” (cửa ngơ để đạt tới đức
hạnh), quư vị học tập như thế nào? Khế
nhập cảnh giới đạo đức như thế
nào? Quư vị phải có thành, có kính, thành ở bên trong, kính
biểu hiện ra ngoài. Bên trong có sự chân thành, tự
nhiên bên ngoài là cung kính. Phải nên học tập điều
này; đấy là pháp chân thật.
Câu
kế tiếp…
(Sớ)
Dĩ nhân đồng pháp lệ, như kiến bệnh
nhân, nguyện ly quai tránh.
(疏)以人同法例,如見病人,願離乖諍。
(Sớ: Thể lệ “nhân và pháp tương đồng”,
như thấy người bệnh, nguyện ĺa chống
trái, tranh chấp).
Trong
xă hội hiện thời, chúng ta phải đặc biệt
nhận biết và học tập câu này. V́ sao? Xă hội hiện
thời có quá nhiều bệnh tật! Các h́nh thức, các chủng
loại [bệnh tật] đều có! Bệnh do đâu mà
có? Cổ nhân có câu: “Bệnh
tùng khẩu nhập”, [ư nói] ăn uống không cẩn thận,
tham ăn, thích ăn ngon, ăn đến nỗi đổ
bệnh! Nhất là người Hoa thích tẩm bổ, chẳng
phải là thể chất của người nào cũng
thích hợp với đồ bổ! Thể chất chẳng
thích ứng, chẳng thể tẩm bổ mà quư vị cứ
thường tẩm bổ, sẽ ngă bệnh! Ở Bắc
Kinh, tôi có gặp lang y họ Lưu. Thầy lang họ
Lưu đă chẩn bệnh cho tôi vài lần, đôi ba lần
nhắc nhở tôi. Ông ta nói: “Pháp sư à! Thân thể thầy
chớ nên tẩm bổ. Tất cả hết thảy thuốc
bổ thầy đều chẳng thể dùng được!”
Đấy cũng là chuyện tốt. V́ sao? B́nh thường!
Chẳng cần tẩm bổ là chuyện b́nh thường,
chẳng phải v́ chỗ nào đó có thiếu thốn; hễ
thiếu thốn th́ mới cần phải bổ sung, chẳng
cần tẩm bổ!
Do
vậy, có rất nhiều đồng học tặng thuốc
bổ cho tôi, tôi chẳng thể không thâu nhận, nhất
định phải thâu nhận. Không nhận, họ sẽ
phiền ḷng, nhất định phải nhận lấy.
Nhận lấy rồi làm sao đây? Chính ḿnh lại chẳng
thể dùng, tôi dùng chúng làm quà tặng để cúng dường
người khác, tu phước cho họ, triển chuyển
cúng dường! Có những vị lăo pháp sư, đại
đức cư sĩ cần dùng, tôi liền triển chuyển
cúng dường. Trong cuộc sống hằng ngày, không thể
chẳng chú ư, thực phẩm hiện thời rất đáng
khiến cho mọi người lo lắng. Tôi không xem báo
chí, cũng chẳng đặt mua báo, nhưng hàng xóm th́ có.
Sáng sớm đi ăn sáng, lúc đi có trông thấy báo c̣n
chưa nhặt vào, đặt ở bực cửa, tôi có nh́n
lướt qua đầu đề. Họ nói hạt
dưa năm mươi lăm phần trăm đều
có chất độc, khiến cho chúng tôi nghĩ Tết Âm
Lịch sắp đến. Ngày Tết, phải giao tiếp
khá nhiều. Những món ăn vặt như hạt dưa,
đậu phộng nói chung là chẳng tránh được.
Năm mươi lăm phần trăm hạt dưa có
độc, c̣n dám mua hạt dưa nữa hay không? [Điều
này] khiến cho chúng tôi liên tưởng tất cả những
thứ ăn vặt sợ rằng đều chẳng
đáng tin tưởng.
Những
kẻ làm kinh doanh hiện thời chẳng giống như
xưa kia. Những kẻ kinh doanh xưa kia có đạo
đức, dẫu nhằm kiếm tiền, họ chẳng
hại người, người hiện thời khác hẳn!
Tôi đă lấy tiền của quư vị, c̣n muốn hại
mạng quư vị. Đáng sợ quá! Quư vị ăn những
thứ có chất độc ấy vào, sẽ bị nhiễm
bệnh, khá nhiều căn bệnh như ung thư này nọ
đều từ đó mà ra. V́ thế, đối với
chuyện ăn uống trong hiện thời, phải đặc
biệt cẩn thận. Khi xưa, lúc thầy Lư c̣n tại
thế, tôi hoằng pháp ở ngoại quốc, mỗi lần
về thăm thầy, lăo nhân gia đều căn dặn: “Chớ ăn cơm ở tiệm!”
Thầy nói câu ấy tối thiểu hơn mười
lần, tạo ấn tượng hết sức sâu đậm
cho tôi. Trong tiệm ăn không sạch sẽ, dễ dàng sanh
bệnh.
Thầy
nói lời ấy gần như ba mươi năm trước.
Ba mươi năm trước xă hội c̣n tốt đẹp
hơn một chút, hiện thời chẳng giống ba
mươi năm trước. [Điều này] khiến cho
chúng tôi nghĩ tới câu nói của cổ nhân “tổn người, lợi
ḿnh”. Trước kia, câu ấy dường như là nói
vậy thôi, nói hơi quá lố, nhưng áp dụng câu ấy
vào xă hội hiện thời, sẽ là hoàn toàn chánh xác. V́ lợi
ích của chính ḿnh, chẳng sợ tổn
thương người khác, dẫu cho kẻ khác trúng
độc mất mạng, họ cũng chẳng bận
tâm, chỉ cần chính ḿnh kiếm lợi là được
rồi! Quư vị nghĩ xem, quư vị kiếm lợi
được mấy đồng? Một bao hạt
dưa bán được mấy đồng? Quư vị khiến
cho người ăn vào nhiễm bệnh, cái tâm sao mà tàn nhẫn
thế! Đại khái là v́ hiện thời chẳng có tâm,
cho nên họ cũng đâu có tàn nhẫn! “Chẳng có tâm” tức là chẳng có lương
tâm, c̣n biết làm thế nào được nữa!
Chúng
tôi thấy một tin như vậy, nghĩ tới lúc tết
nhất, tốt nhất là chúng ta đừng dùng những
thứ ấy, vẫn là một chén trà thanh đạm cúng
dường. Cổ nhân nói: “Đạo
nhân lai đáo đạo nhân gia, nhất chú thanh
hương, nhất trản trà” (Đạo nhân đến
chỗ đạo nhân, một nén hương thơm, một
chén trà). Tiếp đăi như thế là được rồi.
Chúng ta phải quan tâm đến sự an toàn và sức khỏe,
điều này quan trọng lắm! Những thứ vặt
vănh không quan trọng, phải chú ư sức khỏe của mọi
người, thân tâm khỏe mạnh, điều này là trọng
yếu! V́ thế, tôi cảm thấy để làm quà tặng
cho năm mới, [dùng] quyển Kiện Khang Chi Đạo
(健康之道, đường
lối để khỏe mạnh) do Vương lăo tiên sinh
đă in. Sách ấy hay lắm, làm quà tặng được
lắm! Ngoài ra, ở chỗ chúng ta có quyển sách nhỏ
là Diên Thọ Dược Ngôn (延壽藥言), c̣n có quyển sách nhỏ nữa là Thánh Hiền Thị
Giáo Xuất Lai Đích (聖賢是教出來的, thánh hiền là do dạy dỗ mà thành). Tôi cảm thấy
ba thứ ấy dùng làm quà tặng trong dịp Tết tốt
hơn bất cứ thứ ǵ khác. Không cần biếu tặng
những thứ ăn vặt, những thứ ấy chẳng
đáng tin cậy cho lắm. Chúng ta tặng ba quyển sách ấy,
thật sự giúp cho người khác thân tâm đều khỏe
mạnh.
Trông
thấy người bệnh, “nguyện
ly quai tránh”, “quai” (乖) là
trái nghịch pháp độ, “tránh”
(諍) là tranh luận, những thứ này bất lợi đối
với thân thể nhất. Nổi cáu, trong Phật môn có
nói: “Nhất niệm sân tâm khởi,
bách vạn chướng môn khai” (Một niệm sân tâm dấy,
trăm vạn cửa chướng mở). Trong quá khứ,
tôi ở Tân Gia Ba, cư sĩ Hứa Triết bảo tôi, mỗi
lần nổi nóng đại khái chỉ có dăm ba phút, ba
ngày sau vẫn chưa thể khôi phục. V́ thế, nóng giận
tổn thương thân thể nhất. Quư vị một
phen nổi nóng, tôi thường nói là chỉ tổn
thương người khác ba phần, đối với
chính ḿnh th́ sao? Đối với chính ḿnh, sẽ bị tổn
thương bảy phần. Ai bằng ḷng nóng giận? Kẻ
ngu si! Người thông minh chẳng làm chuyện ngốc nghếch
ấy! Quư vị gây tổn thương cho người khác
th́ ít, tổn thương chính ḿnh quá lớn. Quư vị chẳng
hiểu đạo lư này! Tổn thương thân thể nhất
chính là tức giận. Huống hồ kẻ thường
nổi nóng lại c̣n gieo cái nhân địa ngục! Nghiệp
nhân bậc nhất của địa ngục là sân khuể.
Tham dục đọa ngạ quỷ, ngu si đọa súc sanh,
sân khuể đọa địa ngục. Do vậy, một
người muốn khỏe mạnh, sống lâu, chẳng
đọa vào tam đồ, hăy thường xuyên giữ sao
cho tâm b́nh khí ḥa. Đấy chính là tu dưỡng.
Làm
việc, đối đăi kẻ khác, chẳng nhất
định phải nóng giận th́ mới có thể làm tốt
công việc được! Quá ít! Thật sự là một
người lănh đạo tốt, người ấy
đối với thuộc hạ, trong sự nghiêm khắc
có sự ôn ḥa, nồng hậu, khiến cho cấp dưới
vừa kính vừa sợ quư vị. Nghiêm khắc khiến họ
sợ quư vị, lại hết sức cảm tạ,
ưa thích quư vị, quư vị sẽ thành công. Cứ một
mực oai nghiêm, thường đ̣i hỏi nghiêm ngặt, hễ
động đến thường nổi nóng, thuộc hạ
tuy sợ quư vị, tâm họ chẳng phục. Đấy
chính là như Đệ Tử Quy đă nói: “Thế phục nhân, tâm bất nhiên. Lư phục nhân,
phương vô ngôn” (Dùng oai thế để khuất phục
người khác, tâm họ chẳng cho là đúng. Dùng lư khuất
phục người khác, đối phương chẳng
nói ǵ được nữa). Quư vị phải dùng lư để
khuất phục người khác. Lư là ǵ? Ḷng yêu
thương, che chở.
Lúc
tôi c̣n trẻ, cũng đă làm việc trong cơ quan chánh phủ,
lượng công việc cũng chẳng nhiều. Sau khi làm
xong việc, bèn xem báo, đọc sách. Có một hôm, tôi thấy
có cái ghế bành, bèn ngồi ngửa ra sau, giở hổng
hai chân trước lên, chúng tôi cảm thấy nằm ở
đó rất thoải mái. Cấp trên của tôi từ phía
sau tiến đến, vỗ vào vai tôi. Tôi vừa thấy
ông ta, ngay lập tức đứng lên. Ông ta chẳng quở
trách câu nào, bảo tôi: “Anh ngồi như vậy, ghế dễ
bị hư. Nếu chân ghế bị găy, anh sẽ ngă chổng
kềnh”. Một lời bộc lộ sự quan tâm, yêu
thương, tôi suốt đời sửa đổi tật
xấu ấy. Từ đấy trở đi, chẳng c̣n
ngồi theo kiểu đó nữa! V́ quư vị vừa toan ngồi
kiểu đó, lập tức nghĩ đến lời
khuyên bảo đầy yêu thương của ông ta. Thành
công đấy! V́ thế, chẳng cần phải ngay lập
tức đập bàn, trừng mắt, giáo huấn quư vị
một trận! Nếu ông ta giáo huấn tôi một trận,
sau khi ông ta bỏ đi, tôi vẫn chứng nào tật nấy!
V́ sao? Chẳng phục! Do vậy, một người lănh đạo
thành công là v́ người ấy có đạo lư. Từ kinh
nghiệm của bản thân, chúng tôi đă học được
những điều ấy. Đối đăi với
người khác luôn nồng hậu, thường xuyên “quan ái”, tức là quan tâm, yêu
thương, sẽ khiến cho kẻ khác tâm phục, khẩu
phục.
Do
chống trái, tranh luận là “trí
bệnh căn nguyên” (nguồn cội gây nên bệnh); “trí” (致) ở đây chẳng
phải là đối trị, mà là cội nguồn đem lại
bệnh tật cho quư vị. Tham, sân, si gọi là Tam Độc;
trong có Tam Độc, ngoài có dụ hoặc, há lẽ nào chẳng
sanh bệnh? Đă trừ khử Tam Độc ở bên
trong, dẫu bên ngoài có vi trùng gây bệnh, quư vị chẳng
dễ bị nhiễm bệnh. Năm nay, tổ chức y tế
thế giới có thông báo: Mùa Đông năm nay có thể có bệnh
dịch, tức là bệnh cúm gà, họ dự đoán sẽ
rất nghiêm trọng. V́ từ mùa Đông năm nay kéo dài
sang mùa Xuân năm sau, trong y học Trung Hoa cũng có cách nói ấy:
Bệnh dịch kéo dài từ mùa Đông sang mùa Xuân sẽ hết
sức nghiêm trọng. Tổ chức y tế thế giới
dự đoán người mắc bệnh sẽ lên đến
một ức người, tỷ lệ tử vong trên thế
giới là một phần hai. Nói cách khác, số người
tử vong v́ trận dịch này sẽ là hơn năm ngàn vạn
người!
Rất
nhiều người nghe tin tức này, kinh hoảng! Tôi bảo
họ, kinh hoảng là sai mất rồi! V́ sao? Quư vị nhất
định sẽ bị nhiễm bệnh. V́ sao? Kinh Phật
dạy: “Hết thảy các pháp
sanh từ tâm tưởng”, ôn dịch c̣n chưa phát tác,
hằng ngày quư vị đều nghĩ đến nó, [bệnh
dịch] bị quư vị tưởng thành, sai mất rồi!
Chúng ta phải nghĩ đến Phật, phải nghĩ
đến giáo huấn của đức Phật, đừng
nên nghĩ đến bệnh tật. Dẫu cho bệnh tật
bộc phát ở vùng này, quư vị chẳng nghĩ tới
nó, sẽ không bị lây nhiễm. Quư vị tin tưởng
lời Phật, “hết thảy
các pháp sanh từ tâm tưởng”, quyết định chẳng
run sợ, chẳng kinh hoảng. Mắc bệnh th́ một
phần hai, tức là c̣n có một phần hai chẳng bị
tử vong, c̣n có thể chữa lành. Chỉ cần chẳng
kinh hoàng, chẳng sợ hăi, ǵn giữ tâm b́nh khí ḥa, sẽ
chẳng bị lây nhiễm!
Trong
chuyện lây nhiễm, điều trọng yếu vẫn
là ăn uống. Nếu nói theo nhân quả, [bệnh dịch
là do] sát nghiệp quá nặng! Ăn thịt dễ bị
nhiễm bệnh, ăn chay chẳng dễ bị nhiễm
bệnh. V́ sao? Ăn chay quanh năm, chẳng kết oán cừu
với các động vật. Nói thật thà, trận ôn dịch
này vẫn là do những loài động vật ấy [gây
ra], Phật pháp nói là “thần thức”, thế gian gọi
là “linh hồn”, linh hồn của động vật đến
báo cừu, chúng nó tới báo oán. Chúng nó bị chết, chẳng
cam ḷng t́nh nguyện, đấy là nh́n theo nhân quả! V́ thế,
chọn cách ăn chay sẽ là tốt đẹp hơn!
Câu
thứ tám…
(Sớ)
Dĩ cảnh thành hạnh lệ, như kiến dũng tuyền,
nguyện thiện căn vô tận đẳng.
(疏)以境成行例,如見湧泉,願善根無盡等。
(Sớ: Thể lệ dùng
cảnh để tạo thành hạnh, như thấy suối
trào, nguyện thiện căn vô tận v.v…)
Đây là thể lệ thứ tám.
Từ trong cảnh giới, quư vị trông thấy cảnh
giới ấy, bèn hồi quang phản chiếu, thành tựu
công hạnh và công phu của quư vị. [Lời Sớ]
đă nêu thí dụ, quư vị trông thấy nước suối,
nước suối từ [mạch nước ngầm]
dưới đất từ từ tuôn trào ra ngoài, [đấy
gọi là] “dũng tuyền” (湧泉). Thấy cảnh giới ấy, hăy mong cho chính ḿnh,
mong cho hết thảy chúng sanh, hy vọng thiện căn của
hết thảy chúng sanh sẽ giống như suối trào,
không ngừng hiển lộ ra ngoài, chẳng ngừng
tăng trưởng, thiện căn vô tận! V́ thế, bậc
Đại Thừa Bồ Tát học từ nơi đâu?
[Lănh hội] Phật pháp từ chỗ nào? Sáu căn tiếp
xúc cảnh giới sáu trần, chẳng có ǵ không phải là
Phật pháp. “Dũng tuyền”
là nước, nước ngầm, nước ngầm
trong sạch, chẳng bị ô nhiễm. Nếu nước
suối tuôn ra nhiều, sẽ h́nh thành một cái ao nhỏ.
Nếu ở chỗ cao, sẽ tạo thành một cái thác nhỏ
tuôn xuống, chảy quanh năm chẳng ngừng. Do nó là
nguồn nước luôn chảy, thường là vào tiết
Đông cũng chẳng bị đóng băng, v́ nước
ngầm nóng ấm, nó có độ ấm. Quư vị nh́n vào hiện
tượng tự nhiên ấy, bèn nghĩ hết thảy chúng
sanh đều có thiện căn. Thiện căn giống
như nước suối nơi tâm địa, hy vọng
nó cũng giống như nước suối bên ngoài,
vĩnh viễn chẳng gián đoạn lưu lộ ra
ngoài, thành tựu hết thảy các thiện pháp. V́ thế,
đối với kẻ biết học, sáu căn và sáu trần
đều là tài liệu giảng dạy! Đấy gọi
là ǵ? Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh,
thật sự là Đại Phương Quảng Phật Hoa
Nghiêm Kinh trọn khắp pháp giới hư không giới. Tất
cả hết thảy người, sự, vật, khi quư vị
tiếp xúc, sẽ đều có thể cảm thụ, đều
biết “khéo dùng cái tâm”. Trông
thấy thứ ǵ, cũng đều có thể hồi quang
phản chiếu, đều có thể nâng cao cảnh giới
của chính ḿnh, đều có thể khiến cho thiện
căn của chính ḿnh phát hiện.
Câu
thứ chín…
(Sớ)
Dĩ vọng quy chân lệ, như kiến Bà-la-môn, nguyện
ly ác đẳng.
(疏)以妄歸真例,如見婆羅門,願離惡等。
(Sớ:
Thể lệ đem vọng quy về chân, như thấy
Bà-la-môn, nguyện ĺa ác v.v…)
Bà-la-môn
giáo thời cổ chính là tiền thân của Hưng Đô giáo (Hinduism, Ấn Độ giáo) hiện thời.
Hiện nay, không gọi là Bà-la-môn (Brahmanism), mà gọi là
Hưng Đô giáo. Tôi qua lại rất mật thiết với
họ. Nói theo Phật giáo, họ cũng rất lỗi
lạc; nói về lục đạo luân hồi sớm nhất
chính là do họ nói. Họ bảo họ có lịch sử
đă hơn một vạn năm. Người Ấn Độ
không coi trọng lịch sử, cho nên chẳng
ghi chép cặn kẽ, chân xác, đời đời
tương truyền. Theo tương truyền, [Bà-la-môn
giáo] đă lâu hơn một vạn năm. Trong giới học
thuật trên thế giới, họ thừa nhận [đạo
Bà-la-môn] đă tồn tại hơn tám ngàn năm trăm
năm. Tám ngàn năm trăm năm th́ cũng sớm hơn
lịch sử Phật giáo năm ngàn năm; thế giới
thừa nhận Phật giáo đă tồn tại hai ngàn
năm trăm năm. V́ thế, nó (Ấn Độ giáo) có
lịch sử lâu hơn Phật giáo.
Họ
tu Định, tu Thiền Định thế gian, cho nên chẳng
thoát khỏi lục đạo, nhưng công phu định
lực của họ có thể lên đến Phi Tưởng
Phi Phi Tưởng Xứ Thiên, tức là tột đỉnh
của Vô Sắc Giới. Họ đến đó rồi chẳng
thể lên cao hơn được nữa; do vậy, hiểu
lầm nơi ấy là Niết Bàn rốt ráo. Đấy là
sai lầm! Nói theo Phật pháp, họ ngỡ đó là Phật
quả rốt ráo; nhưng họ [trụ trong cảnh giới
ấy] là do công phu định lực duy tŕ, môn Định
ấy sâu lắm. Sau tám vạn đại kiếp, Định
lực của họ mất đi; sau khi đă bị mất
đi, họ liền đọa lạc xuống dưới.
Khi ấy, họ sẽ hủy báng thánh hiền, cho rằng:
“Có một loại đại Niết Bàn bất sanh bất
diệt như cổ thánh tiên hiền đă nói, ta đă chứng
đắc, v́ sao c̣n có sanh diệt? Lời của cổ
thánh tiên hiền chẳng đáng tin cậy, giả trất,
chẳng thật!” Đó là vọng ngữ, đại vọng
ngữ, hủy báng chánh pháp. V́ thế, quá nửa là đọa
lạc vào A Tỳ địa ngục. Đấy gọi là
“trèo cao, té nặng”, lên đến nơi cao nhất,
ngă xuống sẽ là đọa vào địa ngục. Do vậy,
đức Phật chẳng coi [chuyện sanh lên Phi Tưởng
Phi Phi Tưởng Xứ Thiên] là thiện pháp, vẫn thuộc
loại ác pháp, v́ kết quả vẫn bị đọa lạc.
Họ
phát hiện lục đạo; tuy đă phát hiện,
đúng như người Hoa đă nói “tri kỳ đương nhiên, nhi bất tri kỳ sở
dĩ nhiên” (biết đó là chuyện đương
nhiên, nhưng chẳng biết cội nguồn v́ sao mà có
chuyện ấy). V́ sao có lục đạo? Lục đạo
h́nh thành như thế nào? Có thể thoát ĺa lục đạo
hay không? Họ hoàn toàn không biết chuyện ấy. Đến
khi đức Phật xuất hiện trong cơi đời, mới
giảng đạo lư và nguyên cớ rơ ràng, minh bạch.
Đối với hai mươi tám tầng trời trong tam
giới, nghiệp nhân và quả báo của mỗi tầng
trời đức Phật đều nói rơ ràng. Bởi lẽ,
Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới, Dục
Giới có sáu tầng, Sắc Giới có mười tám tầng,
Vô Sắc Giới có bốn tầng, [tổng cộng là] hai
mươi tám tầng trời. Tu học th́ Dục Giới
Thiên tu Thập Thiện Nghiệp Đạo, thượng
phẩm Thập Thiện. Dục Giới có sáu tầng trời,
bốn tầng phía trên, nói đến bốn tầng phía
trên trong Dục Giới, [để sanh về đó], c̣n phải
tu Định. Tu Định chưa thành công, gọi là “chưa đắc Định”.
Đương nhiên cũng là mỗi tầng [đ̣i hỏi
Định lực] phải sâu hơn, giống như
đi thi, phải đạt tiêu chuẩn là sáu mươi
điểm. Kẻ chỉ được hai mươi
điểm, ba mươi điểm, chẳng trúng tuyển,
gọi là “chưa đắc
Định”. Trong “chưa đắc Định”,
cũng có cạn hay sâu. Dạ Ma Thiên là cạn nhất, sâu
hơn một chút là Đâu Suất, sâu hơn nữa là Hóa Lạc,
sâu hơn nữa là Tha Hóa Tự Tại Thiên. Lên cao hơn nữa,
Định đă đạt tiêu chuẩn, đủ điểm
số, đủ điểm bèn vượt thoát Dục Giới,
lên đến Sắc Giới.
Do
Sắc Giới là Tứ Thiền, [bao gồm] Sơ Thiền,
Nhị Thiền, Tam Thiền, và Tứ Thiền, bốn tầng
cấp ấy. Tứ Không Thiên cũng tu Định,
cũng là bốn đẳng cấp, gọi gộp chung [Tứ
Thiền và Tứ Không] là Tứ Thiền Bát Định. “Tứ Thiền” là nói về một
ḿnh Sắc Giới Thiên, “Bát
Định” là nói gộp chung Sắc Giới và Vô Sắc
Giới. Chẳng phải là nói ngoài Tứ Thiền có tám món
Định! Trong Bát Định bao gồm Tứ Thiền, đấy
là Thiền Định thế gian. Thiền Định thế
gian chẳng chân thật, chẳng thoát khỏi lục đạo
luân hồi. Do vậy, ở đây nói là “dĩ vọng quy chân” (dùng vọng trở về
chân). Bà-la-môn ngỡ Tứ Thiền Bát Định là chân thật,
đức Phật bảo chúng chẳng phải là chân thật,
[tu tập] những pháp ấy chẳng thoát khỏi lục
đạo. “Chân thật” th́ c̣n phải tu lên cao hơn, tức
là Đệ Cửu Định, nói theo danh từ Phật học
sẽ là Cửu Thứ Đệ Định, sẽ vượt
thoát lục đạo, đấy là sở chứng của
A La Hán. A La Hán chứng đắc Cửu Thứ Đệ
Định. Bát Định nếu lên cao hơn, sẽ thoát
khỏi tam giới, đấy là chân thật. V́ thế, trông
thấy Bà-la-môn, hăy nghĩ ta phải tu pháp chân thật. Ta chớ
nên tu đến chỗ cao nhất rồi vẫn phải
đọa lạc xuống dưới, vẫn phải luân
hồi y như cũ, sai mất rồi! Chúng ta phải thật
sự tu pháp thượng thượng thừa.
Nhưng
nương theo phương pháp tu Định ấy, nói thật
ra, pháp môn nào cũng đều là tu Định, pháp môn Niệm
Phật cũng là tu Định. Tám vạn bốn ngàn loại
h́nh thức bất đồng, phương pháp bất
đồng, thảy đều là tu Định. Nếu chẳng
phải là tu Định, sẽ chẳng phải là Phật
pháp. Tổng nguyên tắc và cương lănh của Phật
pháp là Tam Học Giới, Định, Huệ, “nhân Giới đắc Định,
nhân Định khai Huệ”, “khai Huệ” là đại
triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, sẽ thành
tựu. Do vậy, đức Phật tuyệt đối chẳng
rời khỏi Tam Học. Chúng ta rời khỏi Tam Học
mà mong thành tựu, đấy chẳng phải là Phật
pháp, mà là tà môn ngoại đạo, trong Phật pháp gọi
[hạng người như vậy] là “môn nội ngoại” (門內外, ngoại đạo ở trong Phật môn). Nh́n bề
ngoài là thờ phụng Phật, nhưng sự tu học bên
trong chẳng phải, trái nghịch Tam Học Giới,
Định, Huệ! Chớ nên không hiểu điều này,
v́ trong thời kỳ Mạt Pháp, hiện tượng này
ngày càng phổ biến, chúng ta phải hiểu rơ ràng, hiểu
minh bạch!
Học
Phật quyết định là nhập môn từ tŕ giới,
quư vị sẽ chẳng sai! Tŕ giới nhất định
phải thực hiện bằng Đệ Tử Quy, Đệ
Tử Quy là giới luật, quy củ! Chẳng thể
không học, đó là cơ bản của cơ bản. Hiện
thời, v́ sao chúng ta không thể thực hiện giới luật
được? V́ chẳng có Đệ Tử Quy! Hễ có
Đệ Tử Quy, học giới luật sẽ không khó!
V́ thế, trong kinh Phật Tạng, Phật Tạng là danh
xưng của một bộ kinh, chẳng phải là nói đến
Đại Tạng Kinh của nhà Phật, tên gọi của
kinh ấy là Phật Tạng Kinh. Trong Phật Tạng Kinh,
đức Thế Tôn đă nói một câu như thế này:
“Chẳng học Tiểu Thừa
trước, sau đó học Đại Thừa, sẽ chẳng
phải là đệ tử Phật”. Đấy là dạy
chúng ta, học Phật không thể nhảy vượt cấp,
phải tiến lên cao từng bước một, đó là
đúng!
Tại
Trung Hoa, từ giữa đời Đường trở về
sau, chẳng học Tiểu Thừa. Không học Tiểu Thừa
mà học Đại Thừa, có thể thành tựu hay không?
Có thể! Dựa vào ǵ vậy? Dựa vào Nho. V́ thế,
trong quá khứ, người Hoa bất luận là xuất
gia hay tại gia, đều đọc sách của Khổng
Tử. Đă có cơ sở từ Nho gia và Đạo gia,
dùng cơ sở Nho và Đạo để thay thế Tiểu
Thừa. Nay chúng tôi nói là “căn
cội Nho gia”, căn cội của Nho gia chính là Đệ
Tử Quy; v́ thế, chúng tôi chọn lựa môn “cơ sở
của cơ sở” này để làm căn bản cho chúng
ta. Từ cơ sở này bèn kiến lập Thập Thiện
Nghiệp Đạo; lại từ trên cơ sở Thập
Thiện Nghiệp Đạo, [hành tŕ] Tam Quy Ngũ Giới
sẽ chẳng có vấn đề ǵ! Lại tiến cao
hơn, sẽ có thể tiến nhập giới Sa Di của
hàng xuất gia. Từ giới Sa Di tiến lên giới tỳ-kheo,
tiến lên từng bước một.
Hiện
thời, chúng ta chẳng học tập Đệ Tử Quy,
điều ǵ cũng đều thất bại, thứ ǵ cũng
đều chẳng thể thành tựu, chúng ta chớ nên
không biết điều này, chớ nên không dụng công thực
hiện từ chỗ này. Nếu không, suốt cả đời
này, không chỉ là xuất gia học Phật chẳng thể
thành tựu, mà tại gia cũng chẳng thể thành tựu,
chớ nên không biết chuyện này [để rồi] học
Phật tối đa là chỉ tu một chút phước
báo trong nhân gian mà thôi! Lại nói lời chân thật, đă
tu phước báo rồi, chưa chắc đă hưởng
trong nhân gian! Nếu quư vị chẳng có Thập Thiện, Ngũ
Giới, do những phước đă tu, quư vị có thể
đến hưởng [phước báo] trong súc sanh đạo
hay ngạ quỷ đạo, c̣n có ma đạo nữa, có
thể sẽ đến hưởng phước trong loài yêu
ma quỷ quái. Như thế là sai mất rồi. A! Hôm nay
đă hết thời gian rồi, chúng tôi giảng tới chỗ
này!
Tập 1500
Chư
vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin
xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười một, câu
cuối cùng của đoạn thứ tư, tức đoạn
Đối Biện Thành Lệ trong phần chú sớ của
Thanh Lương đại sư. Chúng ta xem câu cuối cùng,
tức câu thứ mười.
(Sớ) Dĩ cận đồng viễn lệ,
như thọ Ḥa Thượng giáo, nguyện đáo vô y xứ
đẳng.
(疏)以近同遠例,如受和尚教,願到無依處等。
(Sớ:
Thể lệ do chỗ gần mà liên tưởng đến
chỗ xa, như nghe Ḥa Thượng dạy, bèn nguyện
đạt đến chỗ vô y v.v…)
Tiếp
nhận sự dạy bảo của Ḥa Thượng là gần,
là chuyện trước mắt, “đạt
đến vô y xứ” là xa. “Vô
y xứ” (無依處) chính là quả địa Như Lai rốt ráo,
cũng là địa vị Diệu Giác, xác thực là rất
xa xôi. Đối với câu này, chúng tôi cần giới thiệu
danh từ Ḥa Thượng. Tuy trong các buổi giảng,
chúng tôi đă nói rất nhiều, nhưng có những đồng
học mới đến, chưa hề nghe. Đây là một
điều thường thức quan trọng trong Phật
pháp ắt cần phải hiểu.
Ḥa Thượng (Upādhyāya) là phiên âm từ tiếng Phạn của Ấn
Độ, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Thân Giáo Sư
(親教師).
Vị thầy đích thân dạy chúng ta th́ học tṛ gọi
Ngài là Ḥa Thượng, đích thân dạy bảo! Trong nhà
trường hiện thời, chúng ta phải
hiểu, đối với người đích thân dạy
chúng ta, đối với vị thầy trực tiếp dạy
chúng ta, chúng ta có gọi họ là Ḥa Thượng hay không? Không
gọi! V́ họ là người chấp hành, chẳng phải
là người thật sự phụ trách việc chỉ dạy,
hướng dẫn; người thật sự phụ
trách dạy bảo chúng ta là Hiệu Trưởng của
nhà trường. V́ thế, chỉ có Hiệu Trưởng
mới có thể gọi là Ḥa Thượng.
Mỗi trường chỉ có một Hiệu Trưởng,
tức là mỗi ngôi trường có một Ḥa Thượng.
Ḥa Thượng chưa chắc trực tiếp lên lớp
dạy chúng ta, nhưng chương tŕnh học do Hiệu
Trưởng hoạch định, giáo viên do Hiệu Trưởng
mời đến. Thấy vị thầy nào có sự thấu
hiểu, có tâm đắc về một môn học nào, bèn mời
vị ấy đảm nhiệm [môn học ấy]. V́ thế,
người hoạch định toàn thể chương
tŕnh học là Hiệu Trưởng. Người chịu
trách nhiệm toàn thể về giáo dục chính là Hiệu
Trưởng. Giáo dục thành công, quốc gia khen thưởng
Hiệu Trưởng, chẳng khen thưởng giáo viên. Nếu
giáo dục thất bại, có vấn đề, trừng phạt
th́ cũng là trừng phạt Hiệu Trưởng. Chúng ta
phải hiểu điều này; đấy là ư nghĩa của
chữ Ḥa Thượng.
Vị
phụ trách lên lớp giảng dạy, trong tiếng Phạn
gọi là A Xà Lê (Ācārya). Nói cách khác, ngoài Ḥa Thượng ra,
người thật sự chịu trách nhiệm giảng dạy
đều gọi là A Xà Lê. A Xà Lê dịch sang nghĩa tiếng
Hán (chữ này cũng là phiên âm từ tiếng Phạn), sẽ
là Quỹ Phạm Sư (軌範師). [Hàm nghĩa] đạo đức và học vấn
của vị ấy đều có thể làm khuôn phép, nêu
gương mẫu cho bọn sơ học chúng ta, chúng ta
hăy nên học tập theo vị ấy. V́ thế, nay chúng ta
thường gọi vị thầy ấy là “pháp sư”, trong nhà trường
th́ gọi là “giáo viên” (giáo sư
các cấp tiểu học và trung học), hoặc “giáo thọ” (giáo sư đại
học), trong Phật pháp gọi theo danh từ tiếng Phạn
là Xà Lê (gọi tắt của A Xà Lê), chúng ta phải nên hiểu
rơ.
Nếu
quư vị thật sự hiểu rơ, sẽ hiểu Phật
pháp là giáo dục. Nói thật ra, Phật pháp chẳng phải
là tôn giáo, mà là giáo dục. Nhưng hiện thời chúng ta phải
biết, Phật pháp hiện tại đă bị biến chất
thành tôn giáo. Quư vị nói nó chẳng phải là tôn giáo, trên
h́nh thức, đă hoàn toàn là tôn giáo, giáo dục chẳng thấy
đâu nữa! Thời cổ, [Phật giáo] là giáo dục. Vào
đời Thanh, đại khái là các đời Khang Hy, Ung Chánh,
Càn Long chẳng cần phải nói, chúng ta thấy măi cho
đến các đời Gia Khánh, Đạo Quang, cho đến
Đồng Trị, càng về sau, [Phật giáo] dần dần
bị biến chất, đă bị biến chất sau thời
Đạo Quang, Hàm Phong, Đồng Trị. Tốc độ
biến chất cũng khá mau, đúng là mỗi thế hệ
sau đều kém hơn thế hệ trước! V́ sao biến
chất nhanh chóng như vậy? Trung Hoa có một câu ngạn
ngữ là “thượng hành, hạ
hiệu” (trên làm, dưới bắt chước theo). “Thượng” là thế hệ
trước, “hạ” là thế
hệ sau. Thế hệ trước làm như thế nào,
thế hệ sau nhất định phỏng theo thế hệ
trước. Thế hệ trước làm rất tốt,
thế hệ sau học theo điều tốt đẹp,
có tiến bộ, có tiến bộ mạnh mẽ. Nếu
thế hệ trước sơ sót, thế hệ sau nhất
định sẽ suy thoái nhanh chóng hơn. Chúng ta hăy ngẫm
xem, từ Hàm Phong, Đồng Trị cho đến hiện
thời gần hai trăm năm. V́ thế, giáo dục Phật
giáo ngày nay suy yếu đến tận đáy, người
thật sự nghiêm túc tu học theo kinh điển quá ít ỏi!
Thuở
tôi c̣n trẻ, lúc mười mấy, hai mươi tuổi,
tôi rất bài xích Phật giáo, cứ nghĩ Phật giáo là
mê tín, đâm ra chẳng bằng Cơ Đốc giáo, chẳng
bằng đạo Thiên Chúa[2].
Quê tôi có nhà thờ Cơ Đốc, có nhà thờ Thiên Chúa,
lúc tôi mười mấy tuổi, làm học tṛ, c̣n đến
nhà thờ lễ bái, nghe linh mục hoặc mục sư giảng
đạo. Trong Phật giáo, chẳng có ai giảng kinh, toàn
là pháp hội, kinh sám Phật sự, gây ấn tượng
cho đại chúng b́nh phàm trong xă hội: “Phật giáo là
để phục vụ người chết, chẳng liên
quan ǵ đến người sống cả!” Đấy là
một quan niệm rất sai lầm. Đạo Thiên Chúa,
đạo Cơ Đốc c̣n giảng giải đạo
lư, c̣n dạy quư vị làm người tốt như thế
nào. Khi đó, chúng tôi tiếp xúc họ, rất tôn trọng
các tôn giáo ấy!
Sau
khi Kháng Chiến thắng lợi, tôi theo học tại Nam
Kinh. Tôi ở nhà một bạn học gần như một
năm, tức là hai học kỳ. Trong nhà người bạn
học ấy, hiện thời nói “đa nguyên văn hóa”, lăo thái thái (bà nội) tin Phật,
cha người bạn học của tôi là tín đồ
đạo Hồi, tức đạo Y Tư Lan (Islam), mẹ
th́ theo Cơ Đốc giáo. Vẫn là mẹ lợi hại
hơn, con cái đều theo mẹ đi nhà thờ. Tôi
cũng đă vài lần theo cha người ấy đến
“thanh chân tự” (清真寺, giáo đường Hồi giáo), Hồi giáo cũng
giảng đạo. A Hoanh[3]
cũng giảng kinh. Nhưng Phật giáo th́ chỉ có ăn
chay, niệm kinh, hằng ngày lạy lục, van vái trước
Phật! Tuy tôi rất tôn kính bà cụ, nhưng chẳng có
cách nào tin tưởng, chẳng có cách nào tiếp nhận!
Măi
cho đến khi tôi ở Đài Loan thân cận tiên sinh Phương
Đông Mỹ, theo lăo nhân gia học Triết Học. Thầy
giới thiệu Triết Học trong kinh Phật, tôi mới
biết trong Phật giáo có thứ tốt đẹp, những
tôn giáo khác chẳng sánh kịp! Thầy Phương bảo
tôi: “Học Phật là sự
hưởng thụ cao nhất trong đời người”,
đến đâu để học? Học từ kinh
điển. Lời ấy đă chỉ cho tôi một con
đường sáng, học tập từ kinh điển. Chuyện
này cần phải gặp thiện tri thức thật sự,
thông Tông, thông Giáo. Kể ra, tôi rất may mắn, được
thầy Phương chỉ dạy khoảng hơn một
tháng; chưa đến hai tháng, tôi liền quen biết Chương
Gia đại sư. Từ đấy về sau, đối
với phương diện Phật pháp, được Chương
Gia đại sư dạy bảo. Chương Gia đại
sư lập chương tŕnh học cho tôi, khiến cho tôi
kính nể. Những bộ sách đầu tiên Ngài dạy tôi
xem là Thích Ca Phương Chí và Thích Ca Phổ. Thời đó,
chẳng mua những sách ấy được, đến
đâu để t́m? Trong chùa miếu có Đại Tạng
Kinh, đến đó sao chép lại. V́ thế, thuở
đó, chúng tôi có bản sao chép tay. Sao chép một lần, ấn
tượng hết sức sâu đậm! Sau khi đọc
xong sách ấy, hiểu Thích Ca Mâu Ni Phật là người
như thế nào, thật sự khiến cho những kẻ
trẻ tuổi như chúng tôi bội phục năm vóc sát
đất.
Thích
Ca Phật chẳng có một tí tâm riêng tư nào! Suốt
đời Ngài chưa hề nghĩ về chính ḿnh, niệm
nào cũng đều nghĩ đến những chúng sanh khổ
nạn trong thế gian, làm thế nào để có thể
giúp họ ĺa khổ được vui. Lăo nhân gia hiểu
rành rẽ, hết thảy chúng sanh khổ, v́ đâu mà khổ?
Do mê gây ra, mê hoặc, điên đảo đối với
chân tướng của vũ trụ và nhân sinh. V́ thế,
đối với vũ trụ và nhân sinh, họ thấy
sai, nghĩ sai, nói sai, làm cũng sai luôn, hoàn toàn trái nghịch
chân tướng sự thật, đem lại thiên tai nhân họa.
Giúp đỡ họ như thế nào? Giáo dục! Phải
giáo học, dạy họ giác ngộ. Đă giác ngộ, sẽ
liền thoát ĺa, sẽ vui sướng. Khổ và lạc là quả
báo, giác hay mê mới là cái nhân thật sự. Đă mê bèn có
khổ, đă giác sẽ có lạc. V́ thế, đức Thế
Tôn suốt một đời dạy học, dạy ǵ vậy?
Giúp đỡ hết thảy chúng sanh phá mê khai ngộ. Đối
với nền giáo dục Phật pháp, nếu quư vị thật
sự lư giải, sẽ tuyệt đối không thể nói
“chẳng tiếp nhận”, quư vị sẽ nghiêm túc nỗ
lực tu học. V́ sao? Có kẻ nào chẳng hy vọng ĺa
khổ được vui? Nỗi khổ trong thế gian
quá nhiều, nói chẳng tận! Đối với những
nỗi khổ chẳng thể nói trọn hết ấy, Phật
pháp đều giúp quư vị xa ĺa. V́ thế, mục tiêu của
Phật pháp là khiến cho hết thảy chúng sanh “ĺa nỗi khổ rốt ráo,
đạt được niềm vui rốt ráo”, đại
lạc viên măn rốt ráo trong Phật pháp. Một nền
giáo dục tốt đẹp như thế, nếu chúng tôi
chẳng được thầy giới thiệu, sẽ luống
uổng đời này!
Tài
liệu dạy học của đức Thế Tôn là ở
chỗ nào? Thưa cùng chư vị, cổ thánh tiên hiền
cũng là những người có ḷng, cũng thật sự
có trí huệ, các Ngài đă sưu tập, biên soạn thành một
bộ tùng thư, tức là Đại Tạng Kinh. Đấy
là tài liệu dạy học của Thích Ca Mâu Ni Phật thuở
Ngài tại thế, nội dung quá phong phú. [Những kinh
điển nhà Phật] được truyền sang Trung
Hoa là một bộ phận, chẳng phải là truyền
sang toàn bộ. Quư vị hăy ngẫm xem, trong bốn
mươi chín năm, Ngài đă giảng bao nhiêu? Hằng
ngày đều chẳng gián đoạn, quá phong phú. Vào thời
ấy, chưa phát minh ra công cụ biên chép. Người Ấn
Độ không có giấy, viết bằng ǵ? Viết lên lá
cây Bối Đa La. Viết lên lá cây, tức lá cây Bối. Hiện
thời, chúng ta vẫn nghe nói có Bối Diệp Kinh, đấy
chính là kinh văn chép trên lá cây.
Lá
cây ấy hơi giống lá chuối, phiến lá rất lớn,
có thể cắt thành từng mảnh, hai đầu xỏ
lỗ, dùng dây xâu lại. Quư vị nghĩ xem, là một thứ
cồng kềnh như thế đó. Một phiến lá
cũng cắt to nhỏ chẳng giống nhau. Lớn th́
đương nhiên là viết được nhiều
hơn một chút, nhỏ th́ viết ít hơn một chút, hoàn
toàn chẳng có quy cách nhất định. V́ thế, kích cỡ
cũng chẳng đều cho lắm. Một bộ sách,
như kinh Hoa Nghiêm [chẳng hạn], bộ kinh ấy
xưa kia dùng lừa, ngựa chở đến. Chở
kinh th́ chỉ sợ rằng một bộ kinh cũng phải
dùng rất nhiều thớt ngựa mới có thể chở
đến nơi đây. Sau đấy, quư vị hăy
nghĩ vận chuyển gian nan dường ấy, nếu
dây buộc bị đứt, toàn thể các phiến lá sẽ
xổ tung ra. Quư vị xâu lại, có khi xâu nhầm số
trang, người Hoa gọi chuyện này là “thác giản” (錯簡). Kinh Phật cũng chẳng ra ngoài lệ ấy,
cũng có t́nh h́nh ấy.
Trong
quá khứ, kỹ thuật ấn loát chẳng phát triển
cho lắm. Kỹ thuật ấn loát tại Trung Hoa đến
đời Tống mới phát minh, tức là thuật khắc
ván. Đến thời Nguyên, Minh mới khá phát triển.
Đại Tạng Kinh cũng được biên tập
vào đời Tống. Nói theo phương diện này,
người hiện thời thuận tiện hơn cổ
nhân, nhưng chẳng có phước báo như cổ nhân. Cổ
nhân tuy rất gian nan, vất vả mới có được
[kinh điển], nhưng họ hết sức nghiêm túc học
tập, đều được thọ dụng. Hiện
thời, kỹ thuật ấn loát tiến bộ quá nhiều,
kinh điển được lưu thông hết sức
phong phú, chỗ nào cũng đều có thể trông thấy,
chẳng có ai học tập! Người hiện thời
chẳng muốn đọc sách, người thích đọc
sách ngày càng ít! Chuyện này là như thế nào? Thế hệ
trước không đọc sách, trẻ nhỏ thuộc thế
hệ sau chẳng có hứng thú đối với sách vở,
thế hệ sau nữa càng chẳng có hứng thú, suy vi!
Chúng
ta bảo lưu bằng cách nào? Để bảo lưu, phải
cậy vào học tập. Kinh điển được
phiên dịch tại Trung Hoa toàn dùng văn chương Văn
Ngôn, nhưng cần phải biết đấy là văn
chương Văn Ngôn đơn giản, dễ hiểu nhất.
Những vị đại đức dịch kinh thuở ấy
nhận biết văn tự trong Phật pháp chẳng thể
quá sâu, càng đơn giản càng hay. [Văn tự dùng trong
kinh Phật] cũng chính là văn Bạch Thoại thuở ấy.
Trong văn học, loại văn này được gọi
là Biến Văn (變文), tức là chữ Biến trong Biến Thể hoặc
Biến Hóa, được gọi là Biến Thể
Văn. V́ thế, đem so với Tứ Thư Ngũ Kinh,
quư vị thấy [văn tự trong] kinh Phật đơn
giản, dễ hiểu hơn. Quư vị lại xem cổ
văn, quư vị mở cổ văn ra, hiện thời
thường thấy nhất là bộ Cổ Văn Quán Chỉ,
mọi người vẫn thường đọc, [sẽ
thấy] văn tự trong ấy sâu hơn[4]
kinh Phật. Do vậy, người hơi có đôi chút
cơ sở tiếng Hán, đọc kinh Phật sẽ chẳng
khó, đọc cổ văn [sẽ cảm thấy] khá khó
khăn. Chúng ta không thể chẳng cảm tạ dụng
tâm của các bậc đại sư dịch kinh thuở ấy,
luôn nghĩ cho người đời sau!
“Thọ Ḥa Thượng giáo” là
tiếp nhận sự giáo huấn của thầy. Ḥa
Thượng là vị thầy truyền pháp, chúng ta học
những thứ này nọ từ một vị thầy, vị
đó chính là Ḥa Thượng của ta. Ḥa Thượng có mối
quan hệ thân thiết với ta nhất, c̣n thân hơn cha mẹ.
Thân thể có từ cha mẹ, [đó là] thân mạng; huệ
mạng của chúng ta do thầy mà có. Chẳng có thầy dạy
dỗ, chúng ta sẽ chẳng mở mang trí huệ. V́ thế,
Ḥa Thượng là thân giáo sư, giống như đối
với người xuất gia, [vị Thân Giáo Sư] thân
thiết hơn vị Ḥa Thượng thế độ, mà
cũng thân thiết hơn vị Ḥa Thượng truyền
giới. Chúng ta có vị thầy thế độ, vị
thầy thế độ được gọi là Thế
Độ Sư, thường gọi là “sư phụ”. Khi
thọ giới, sẽ có Giới Sư Phụ, tức Đắc
Giới Ḥa Thượng, nhưng [những vị ấy] đều
chẳng thân thiết như Thân Giáo Sư. Đó là h́nh thức,
như thường nói “sư
phụ dẫn vào cửa”; vị Ḥa Thượng thế
độ dẫn quư vị vào cửa, vị thầy truyền
giới cũng dẫn quư vị vào cửa. “Tu hành tại cá nhân”, nếu quư vị thân cận
một vị thiện tri thức nào đó, đắc pháp
từ vị đó, vị đó có mối quan hệ thân thiết
nhất với quư vị trong suốt một đời! Vị
ấy chính là Đắc Pháp Ḥa Thượng của quư vị,
quư vị là pháp tử của Ngài, có mối quan hệ rất
thân thiết.
Đắc
pháp, quư vị thấy vậy bèn nghĩ “nguyện nhất thiết chúng sanh đáo vô y xứ”
(nguyện cho hết thảy chúng sanh đạt đến
chỗ không nương tựa). “Vô
y xứ” là Đại Niết Bàn, Vô Dư Y Niết Bàn, là
sự thân chứng (親證, đích thân chứng đắc) nơi quả địa
Như Lai. Đấy là Niết Bàn rốt ráo. Chúng ta vừa
tiếp nhận Phật giáo, liền mong mỏi hết thảy
chúng sanh ai nấy đều thành Phật. Cái tâm ấy to cỡ
nào, nguyện ấy sâu cỡ nào, niệm nào cũng đều
nhằm lợi ích chúng sanh. Lợi ích chúng sanh thật sự
là lợi ích chính ḿnh, Tự và Tha là một, không hai. Nghĩ
đến hết thảy đại chúng, luôn giúp họ
tăng tấn, dùng phương pháp ǵ để giúp đỡ?
Trước hết là chính ḿnh nêu gương tốt, điều
này quan trọng nhất! Bản thân quư vị chẳng có
h́nh tượng tốt đẹp, làm sao có thể ảnh
hưởng đại chúng cho được? Mỗi
người, chúng tôi giảng kinh thường nói, [mỗi
người đều là] tấm gương tốt nhất
cho tất cả hết thảy mọi người trong thế
gian, đạo tràng là gương mẫu tốt cho tất
cả hết thảy các đạo tràng trong thế gian, quư
vị mới có thể danh phù hợp thật, nguyện của
quư vị mới chẳng là nguyện suông, nguyện của
quư vị mới thực hiện được!
Do
vậy, điều khẩn yếu là các đồng tu chúng
ta, bất luận là ở trong đạo tràng, là người
làm việc cho đạo tràng, hoặc là thường lui tới
học tập trong đạo tràng, cho đến người
từ bên ngoài tới, là kẻ thỉnh thoảng đến
tham học, đều phải hiểu đạo lư này: “Học vi nhân sư, hành vi thế
phạm” (Học làm thầy người, hành vi làm khuôn mẫu
cho cơi đời). Hai câu ấy chính là Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, Thích Ca Mâu Ni Phật
đă làm được đầu tiên, dẫn đầu!
Chư Bồ Tát, A La Hán là học tṛ của Ngài, theo sát, lịch
đại tổ sư qua nhiều thế hệ ngần ấy
đă nêu gương tốt, chúng ta phải học tập
các Ngài. Đó gọi là “hộ
pháp”.
Học
Phật th́ phải thường nghĩ: “Khởi tâm động
niệm, ngôn ngữ, tạo tác của ta có giống một
vị Phật hay không? Có giống một vị Bồ Tát
hay không?” Nay chúng ta đọc quyển kinh này, hôm nay chúng tôi
giảng kinh đă đến tập thứ một ngàn
năm trăm, mỗi tập là hai tiếng đồng hồ,
ba ngàn giờ rồi đấy! Kinh Hoa Nghiêm có ba
mươi chín phẩm, chúng tôi giảng đến phẩm
thứ mười một. Phía sau c̣n có ba phẩm rất
dài, một phẩm là phẩm Thập Địa, phẩm
kia là phẩm Ly Thế Gian. Dài nhất là Phổ Hiền Bồ
Tát Hạnh Nguyện Phẩm, trong Bát Thập [Hoa Nghiêm Kinh,
phẩm này được] gọi là phẩm Nhập Pháp Giới,
có đến bốn mươi quyển kinh văn. V́ thế,
kinh Hoa Nghiêm có tất cả là chín mươi chín quyển!
Đối với chín mươi chín quyển, chúng ta nhất
định phải hiểu rơ, tu học trong một đời.
Ở đây, chúng ta học tập, cùng học tập với
mọi người chính là chuyện cả đời! V́ phẩm
Tịnh Hạnh thuộc quyển thứ mười bốn,
chín mươi chín quyển mà chúng tôi mới giảng đến
quyển thứ mười bốn, phần kệ tụng
ở phía sau quyển mười bốn vẫn chưa giảng
đến, đă tốn mất ba ngàn giờ rồi!
Đương
nhiên là trong quá khứ, tổ sư đại đức từ
xưa chẳng giảng theo kiểu như chúng tôi, tốc
độ tiến triển nhanh chóng. Chúng tôi dùng cách giảng
như thuở trước có được hay không? Các
đồng học yêu cầu, “không được, chẳng
đạt được thọ dụng!” Chúng tôi vẫn
giảng kinh văn, nghĩa lư, giáo huấn, nhưng điều
quan trọng nhất là chúng ta vận dụng vào cuộc sống
hiện thực như thế nào th́ mới là hữu dụng.
Giúp chúng ta sống cuộc đời thật sự hạnh
phúc, giúp chúng ta làm việc, giúp chúng ta học tập, xử
sự, đăi người tiếp vật, thật sự
nêu gương, làm điển h́nh cho đại chúng trong xă
hội. [Đấy mới là] chẳng phí uổng công sức
học môn này! Mục tiêu của bản thân chúng ta là Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. “Vô y xứ” là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác. Chúng ta cũng niệm niệm hy vọng hết thảy
chúng sanh đều có thể đạt đến Vô Y Xứ.
Người khác vượt trước chúng ta, quyết
định chẳng ghen tỵ, chúng ta chỉ hoan hỷ,
tán thán. Đấy là đúng! Chúng tôi giới thiệu mười
thể lệ trong phần Đối Biện tới
đây.
Kế
tiếp là đoạn thứ năm, Chánh Thích Kinh Văn.
Đấy là phần chánh thức giải thích kinh văn.
(Sớ)
Trường phân vi thập.
(疏)長分為十。
(Sớ: Phân tổng quát thành mười đoạn).
Đây
là nói về một đoạn lớn. Kinh văn trong phẩm
này được chia thành mười đoạn lớn. Ở
đây, trước hết là nêu ra tiểu đề của
mười đại đoạn. Đoạn lớn thứ
nhất.
(Sớ)
Sơ.
(疏)初。
(Sớ: Thứ nhất).
Tức
là đoạn lớn thứ nhất.
(Sớ)
Hữu thập nhất nguyện.
(疏)有十一願。
(Sớ:
Có mười một nguyện).
Toàn
phẩm có tổng cộng một trăm bốn
mươi mốt nguyện, phần đầu là mười
một nguyện.
(Sớ)
Minh tại gia thời nguyện.
(疏)明在家時願。
(Sớ: Nói về các nguyện lúc tại gia).
Quư vị thấy Bồ Tát tại gia phát những
nguyện ǵ. Hiện thời, tại gia Bồ Tát rất
nhiều. V́ thế, chúng ta học tập th́ phần này đương
nhiên là trọng điểm, tại gia Bồ Tát mà! Đoạn
lớn thứ hai…
(Sớ)
Hữu thập ngũ nguyện, xuất gia thọ giới
thời nguyện.
(疏)有十五願,出家受戒時願。
(Sớ: Có mười lăm nguyện, là những
nguyện khi xuất gia thọ giới).
Các
đồng học xuất gia phải hết sức nghiêm
túc nỗ lực học tập phần này. Nếu không, quư
vị sẽ chẳng phải là xuất gia thật sự.
Mục đích xuất gia của quư vị lại là ở
chỗ nào? Quư vị xuất gia hy vọng thành tựu điều
ǵ? Chẳng thể sai lầm mảy may! Theo Phật giáo sử,
xác thực là có rất nhiều người xuất gia tu học
rất khá, tŕ giới, tu phước, thông Tông, thông Giáo, cuối
cùng chẳng thoát khỏi tam giới. V́ sao? Tiếng tăm,
lợi dưỡng chẳng buông xuống, đối với
sự hưởng thụ ngũ dục, lục trần chẳng
buông xuống. Coi như vẫn c̣n khá, do tŕ giới, đời
sau chẳng mất thân người, quá nửa là đến
nơi đâu? Đời sau sẽ sanh về đâu? Quá nửa
là đi làm quan! Do làm quan, theo hầu đế vương,
thường nói là “tướng
tướng” (將相)[5],
hiện thời gọi là tỉnh trưởng, thị
trưởng, huyện thị trưởng, quá nửa
đều là do tu phước huệ trong Phật môn. Đối
với phước, họ có phước báo to ngần ấy;
về Huệ, họ thông minh, trí huệ, chẳng buông xuống
chút nào! Theo sách sử ghi chép, Tô Đông Pha đời trước
là người xuất gia, tức là hậu thân của ḥa
thượng Ngũ Tổ Giới. Đấy là một chi
phái trong Thiền Tông, Sư là tổ sư đời thứ
năm trong chi phái ấy[6], [Ngũ
Tổ Giới ở đây] chẳng phải là sư phụ
của Huệ Năng đại sư, chẳng phải là
vị ấy. Vị ấy (Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn)
đă vượt thoát mười pháp giới. Không chỉ
là vượt thoát lục đạo, [mà c̣n] vượt
thoát mười pháp giới, đă thật sự thành tựu.
Do đă minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật, vị
ấy (Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn) thật sự thành tựu.
Nhưng
có rất nhiều người xuất gia c̣n hâm mộ phú
quư, cũng mong đời sau làm quan to, nguyện ấy thật
sự thành tựu. Nguyện thành Phật, thành Bồ Tát rất
khó, tu phước báo nhân thiên trong Phật môn rất dễ
dàng! Nhưng quư vị phải ghi nhớ, vào thuở đó,
chẳng có đạo tràng chánh pháp nào mà chẳng siêng tu Giới,
Định, Huệ, dứt diệt tham, sân, si. Tuy tham, sân,
si chẳng thể diệt mất, nói chung là tham, sân, si đă
giảm thiểu mấy phần, điều này là khẳng
định. V́ thế, người ấy mới có phước
báo to ngần ấy. Nhưng chư vị nhất định
phải biết, con người chớ nên hưởng
phước. Hễ hưởng phước, sẽ như
thế nào? Mê hoặc, quên sạch những thiện nhân đă
tu tập, tích lũy trước đó, sẽ tùy thuận tham,
sân, si, mạn trong hiện tiền. Tham, sân, si, mạn mỗi
năm một tăng trưởng, phiền phức to lớn!
Hưởng hết phước báo, nghiệp báo hiện tiền,
nghiệp bất thiện hiện tiền, sẽ phải đọa
lạc xuống thấp hơn so với hiện tại.
Đức Phật đă từng nói về chuyện này, chẳng
phải là không nói. Đức Phật gọi chuyện này là
“tam thế oán”. Đời
thứ nhất, quư vị hộ tŕ Phật pháp trong Phật
môn, hoặc là giảng kinh, thuyết pháp, tu phước, tu
huệ. Đời sau hưởng phước, đời
sau làm quan để hưởng phước. Hưởng
hết phước rồi, tội nghiệp do quư vị
đă tạo trong đời này, tội nghiệp do quư vị
đă tạo trong đời quá khứ thảy đều
hiện tiền, quả báo là đi vào tam đồ! Đức
Phật đă cảnh cáo nghiêm ngặt người tu hành:
Chớ nên tham cầu phú quư thế gian, hăy nên chẳng quên
Tam Học Giới, Định, Huệ, mong mỏi đời
đời kiếp kiếp tăng thượng Tam Học,
quư vị sẽ chẳng mê hoặc.
Có
người phát nguyện đời đời kiếp kiếp
được làm thân người, học Phật pháp, hoằng
pháp lợi sanh. Có người phát nguyện ấy, thật
sự học, thật sự hành; trong cửa nhà Phật, có
cầu ắt ứng! Từ trong lịch sử, qua Từ
Bi Thủy Sám, chúng ta thấy một thí dụ rơ rệt nhất
là Ngộ Đạt quốc sư đă phát nguyện này.
Mười đời chẳng mất thân người; sau
khi chết đi, sang đời sau, lại đầu thai
vào nhân gian, quả nhiên chẳng trái nghịch nguyện vọng.
Ngài lại xuất gia, tiếp tục tu hành. Đến đời
thứ mười, đương nhiên là mỗi đời
càng thông minh hơn, tích lũy quá nhiều mà! Tam Học Giới,
Định, Huệ tích lũy quá nhiều; đạo đức,
tu tŕ và học vấn của quư vị mỗi đời một
cao hơn, đến đời thứ mười sẽ ảnh
hưởng rất lớn. Đế vương nghe tâu,
sau khi triệu kiến, bội phục Sư năm vóc sát
đất, bái Sư làm thầy, Sư trở thành quốc
sư[7].
Cũng
may, làm quốc sư cũng may, vẫn chưa bị mê. Tới
khi hoàng thượng biếu Sư một ṭa báu bằng trầm
hương, trước kia gọi là “thái sư ỷ” (太師椅, ghế thái sư) chạm trổ bằng trầm hương,
quá danh giá, quư báu. Sư liền dấy ḷng hoan hỷ, cảm
thấy ngạo mạn đôi chút: “Kẻ xuất gia trong
thiên hạ, ai có thể sánh bằng ta?” Ư niệm ấy vừa
sanh khởi, thần hộ pháp bỏ đi, Sư đọa
lạc, nẩy sanh phiền năo, chẳng sanh trí huệ. Ư niệm
kiêu căng, ngă mạn vừa nẩy sanh, tự cho ḿnh là đúng,
tự cho ḿnh là lỗi lạc, lập tức bị đọa
lạc! Oán thân trái chủ ngay lập tức dựa vào cơ
hội này t́m đến, Sư bị ghẻ mặt người,
gần như mất mạng! Rốt cuộc là tu hành cả
mười đời chẳng uổng công, tôn giả Ca Nặc
Ca là một vị A La Hán, Ngài có thần thông, giúp đỡ
Sư hóa giải kiếp nạn ấy, dạy Sư sám hối,
dạy Sư phải nghiêm túc tu hành th́ mới có thể tăng
tấn. Nếu không, quư vị [tuy có] công phu tu hành mười
đời, đời sau vừa chuyển thân liền đọa
lạc. Quư vị nói có đáng sợ lắm hay chăng?
Chúng
ta thấy người hiện thời, khi có một tí lợi
ích hiện tiền đă lộ vẻ kiêu ngạo! Ngộ Đạt
quốc sư lộ vẻ kiêu ngạo, liền bị ghẻ
mặt người, cao tăng mười đời đấy
nhé! Công đức tu học trong đời quá khứ của
chúng ta chẳng bằng Ngài, phước huệ đều
chẳng bằng Ngài, [chỉ v́] một chút chuyện nhỏ
nhặt trong hiện thời mà đă kiêu ngạo rồi,
đời sau chúng ta sẽ sanh về đâu? Quư vị hăy
nghĩ kỹ đi, tự ḿnh sẽ biết, chẳng cần
phải hỏi ai khác! Chư vị nghĩ kỹ xem, vấn
đề này nghiêm trọng lắm! Do vậy, người xuất
gia phải đặc biệt chú ư, v́ quư vị xuất gia,
sẽ chẳng làm việc, cuộc sống của quư vị
là do mười phương cúng dường. Cổ đại
đức đă nói rất hay: “Thí
chủ nhất lạp mễ, đại như Tu Di
sơn, kim sanh bất liễu đạo, phi mao đới
giác hoàn” (Một hạt gạo thí chủ, to như núi Tu
Di, đời này chẳng liễu đạo, đeo lông,
đội sừng đền)! Quư vị xuất gia, tín
đồ cúng dường quư vị, họ mong mỏi điều
ǵ? Mong quư vị sẽ thành đạo, họ sẽ được
phước. Nếu quư vị chẳng thành đạo, họ
cũng chẳng uổng công cúng dường quư vị,
đời sau quư vị phải đền trả mà! Đó
gọi là “ăn của người
khác tám lượng, quư vị phải trả họ nửa
cân”, phải đền nợ! V́ thế, người xuất
gia tu hành trong đời này chẳng thể thành tựu, quư
vị sẽ là kẻ mắc nợ! Đời này quư vị
mắc nợ bao nhiêu người, đều phải trả
đủ! Những lời này đều là lời thật.
Nhưng
hiện thời có lắm kẻ chai ĺ, bất nhân, họ cũng
biết nói, nhưng vẫn cứ làm. Niệm Phật văng
sanh Tịnh Độ là con đường tắt để
thành Phật, họ cũng chẳng nghiêm túc hành, đến
khi sắp chết mới ôm chân Phật. Có được
hay không? Bao nhiêu kẻ xuất gia lúc lâm chung, người hiện
thời nói là “mắc bệnh lú lẫn tuổi già”, thôi rồi!
Bị mất trí nhớ v́ tuổi già, trợ niệm cho người
ấy vô dụng. Người ấy đă si ngốc, hoàn
toàn chẳng ăn khớp với Phật pháp được!
Người
ta chết đi, người thế gian đều nói, người
Hoa nói Ngũ Phước th́ phước cuối cùng là chết
an lành. Khi chết sáng suốt, tỉnh táo, người như
vậy không học Phật cũng chẳng đọa ác
đạo. Chư vị ngẫm xem, có người nào đầu
óc tỉnh táo sẽ đi làm súc sanh, sẽ đi vào ngạ
quỷ? Chẳng thể nào! Đầu óc tỉnh táo, chắc
chắn là phước báo nhân thiên! Kẻ nào sẽ vào tam
đồ? Kẻ hồ đồ, mê hoặc, điên đảo,
kẻ đó sẽ vào tam đồ. Ai có thể đảm
bảo quư vị trong phút lâm chung cuối cùng đầu óc sẽ
sáng suốt, tỉnh táo? Đấy là đại phước
báo. V́ thế, người học Phật tu hành, sống trên
thế gian, phước báo ǵ cũng không cần, ta đều
chẳng hưởng, ta chỉ hy vọng khi lâm chung sáng suốt,
tỉnh táo, quư vị mới có thể niệm Phật văng
sanh, đó là chuyện chắc chắn đáng tin cậy.
Đừng để phước báo khiến cho quư vị
đầu óc mê muội, đừng để phước
báo khiến cho tuổi già bị mất trí nhớ, vậy
là hỏng bét mất rồi!
V́
thế, xuất gia chẳng phải là một chuyện dễ
dàng. Thật sự phát tâm, thân cư sĩ vẫn có thể
hoằng pháp y hệt, nhất định là phải y giáo phụng
hành. Xác thực là chẳng dễ gặp thầy tốt, nhưng
t́m cổ nhân, làm tư thục đệ tử của cổ
đại đức, chắc chắn là sẽ có thể
thành tựu. Trong đời này, chúng ta làm thật hay làm giả,
vẫn là như chúng tôi thường nói mười sáu chữ!
Nhất định là phải thường ghi nhớ
mười sáu chữ ấy, quyết định chẳng
thể vi phạm, ích kỷ, tiếng tăm, lợi dưỡng,
ngũ dục, lục trần, tham, sân, si, mạn, phải xa
ĺa! Hễ quư vị c̣n ích kỷ, chắc chắn sẽ tạo
nghiệp! Quư vị c̣n có tiếng tăm, lợi dưỡng,
c̣n tham cầu ngũ dục, lục trần hưởng thụ,
quư vị quyết định có tham, sân, si, mạn. Nói cách
khác, cho dù quư vị giảng kinh, thuyết pháp, hoằng pháp
lợi sanh, cũng chẳng thể văng sanh, những ǵ quư vị
đă tu chính là phước báo cho đời sau. Có phước
báo mà nếu quư vị chẳng được làm thân người,
sẽ đến đâu để hưởng? Súc sanh, ngạ
quỷ đều có phước! Hưởng phước
trong ngạ quỷ đạo, [làm] sơn thần, thổ
địa.
Trong
quá khứ, chúng ta đă nghe lăo pháp sư Đàm Hư kể:
Ngài có một vị sư huynh, tức là đồ đệ
của lăo ḥa thượng Đế Nhàn. Vị ấy tham
Thiền mà trở thành thần Thổ Địa. Tại
thiền đường Kim Sơn, vị ḥa thượng
thủ tọa có địa vị rất cao, chỉ kém Phương
Trượng, sau khi chết bèn thành thần Thổ Địa.
Đấy là có phước báo, hưởng phước
trong quỷ đạo, chẳng được làm thân người!
Hưởng phước trong súc sanh đạo, tức là súc
sanh hưởng phước. Hiện thời, rất nhiều
kẻ phú quư nuôi thú cưng, tức là [những chúng sanh ấy]
hưởng phước trong súc sanh đạo, quư vị có
bằng ḷng hay không? Chẳng mong như vậy, hăy nghiêm túc
học tập, chớ nên dính líu ích kỷ, tiếng tăm,
lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần, tham, sân,
si, mạn, đầu óc phải sáng suốt, những thứ
ấy hại chết người đấy nhé! Phật
pháp là Đề Hồ, những thứ đó là độc
dược. Người học Phật hễ dính một
chữ [trong những chữ trên đây; hễ dính phải],
Đề Hồ đă bị xen lẫn thuốc độc,
chớ nên không cẩn thận. Nay đă hết thời gian
rồi!
**
Chư
vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Chúng
ta xem tiếp câu thứ ba kế đó:
(Sớ)
Hữu thất nguyện, tựu tọa Thiền Quán thời
nguyện.
(疏)有七願,就坐禪觀時願。
(Sớ:
Có bảy nguyện, chính là những nguyện khi ngồi Thiền
quán tưởng).
Điều
này nói về sự tu học, Thiền và Quán đă bao gồm
trọn hết sự giáo học trong Phật giáo. Dụng
công trong Tông Môn (Thiền Tông) gọi là Thiền, dụng công
trong Giáo Hạ gọi là Quán. Dùng hai chữ này ư nghĩa sẽ
có ảnh hưởng sâu đậm hơn “kinh giáo” rất nhiều, v́ “kinh giáo” th́ chưa chắc đă có công phu trong ấy,
chưa chắc có thành tựu. Thiền Quán chính là công phu chân
thật, khác hẳn! Kinh Kim Cang đă nói về ư nghĩa của
Thiền rất khá, Đàn Kinh của Lục Tổ đại
sư hoàn toàn căn cứ trên những ǵ kinh Kim Cang đă dạy.
Tổ giảng càng rơ hơn, càng nói rành rẽ hơn. Kinh Kim
Cang dạy “chẳng chấp lấy
tướng” là Thiền, “như
như bất động” là Định; đấy là Thiền
Định. Hoàn toàn chẳng bảo quư vị khoanh chân xếp
bằng tĩnh tọa nh́n vách, chẳng phải vậy. Đó
là Thiền Định sơ cấp, vừa mới khởi
đầu th́ dùng phương pháp ấy để tu. Thiền
Định thật sự là sáu căn tiếp xúc cảnh
giới sáu trần, chúng ta thường nói là “không chấp trước, chẳng
phân biệt, chẳng khởi tâm, không động niệm”.
Đó là Thiền, nhất quyết chẳng bị cảnh
giới bên ngoài ảnh hưởng. Trong th́ như như bất
động, người Hoa gọi đó là Định.
Cũng có nghĩa là “ngoài chẳng
chấp tướng, trong chẳng động tâm”; đấy
là Thiền. V́ thế, nói: “Đi,
đứng, ngồi, nằm đều
là Thiền”.
Thuở
ấy, Huệ Năng đại sư đến Hoàng Mai
tham học; khi đó, Ngài hai mươi bốn tuổi, rất
trẻ! Ngũ Tổ bảo Ngài đến làm việc trong
pḥng xay xát, bửa củi, giă gạo. V́ đạo tràng người
ăn cơm đông đảo, hơn một ngàn người
ăn cơm, gạo phải giă, củi phải chẻ, Ngài
làm việc nặng nhọc suốt tám tháng. Ngài ở Hoàng
Mai tám tháng, tu ǵ vậy? Ngài thật sự tu Thiền Quán.
Ngũ Tổ biết rơ, người khác chẳng hiểu rơ
ràng! Huệ Năng đại sư tự hiểu rơ, Ngũ
Tổ hiểu rơ, kẻ khác nh́n chẳng ra, Ngài thật sự
đang tọa Thiền. “Tọa”
là dùng tư thái ngồi trong chuyện đi, đứng, ngồi,
nằm để tỷ dụ. “Tọa”
là bất động, chẳng phải là bảo quư vị
thật sự ngồi nơi đó. Ngài ở Hoàng Mai hằng
ngày giă gạo, hằng ngày bửa củi, làm sao có thể
ngồi mà giă cho được? Làm sao có thể ngồi mà
bửa củi cho được? Chẳng thể nào! “Tọa” là tỷ dụ cái tâm
bất động; thân động, tâm bất động.
Tâm bất động là không có vọng tưởng, chẳng
có tạp niệm, thấy hết thảy mọi người
bên ngoài đều là Phật, Bồ Tát, đều đáng để
tôn kính. Huệ Năng đại sư ở Hoàng Mai tám tháng,
chẳng khinh rẻ một ai, đối với bất cứ
ai cũng đều khiêm hư, tôn kính, đều xưng tán.
Tuy không ở trước mặt Ngũ Tổ, nhưng nhất
cử nhất động của Huệ Năng, Ngũ Tổ
đều biết rành rẽ, rơ ràng: Đấy là pháp khí, đấy
là kẻ sẽ truyền pháp. Đó là Thiền.
Giáo
Hạ th́ tu Quán, bất luận là Thiên Thai hay Hiền Thủ,
hai giáo phái lớn ấy, Pháp Tướng, cho đến Tịnh
Độ Tông. Tịnh Độ Tông có phải là tu Quán hay
không? Đúng vậy, chẳng sai, chính là tu Thiền Quán. Cổ
đại đức thường nói: “Chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”.
Giác là Quán. Phàm phu và Phật, Bồ Tát sai khác ở chỗ
nào? Sai biệt ở chỗ Phật và Pháp Thân Bồ Tát sáu căn
tiếp xúc cảnh giới sáu trần chẳng khởi tâm,
không động niệm; v́ thế, các Ngài thường ở
trong Thiền Định. Đi, đứng, ngồi, nằm,
không ǵ chẳng phải là Thiền! Ứng hóa khắp mười
phương, chỗ nào chúng sanh có cảm, Ngài sẽ hiện
thân đến đó giáo hóa chúng sanh, vẫn ở trong Thiền
Định. Hiện thân mà chẳng khởi tâm động
niệm, giáo hóa chúng sanh cũng chẳng khởi tâm động
niệm. Thích Ca Mâu Ni Phật đă nêu gương tốt
cho chúng ta thấy: Đi, đứng, ngồi, nằm đều
là Thiền. Đấy gọi là sự giáo học chân chánh,
là công phu chân thật! Giáo Hạ nói đến Chỉ và Quán,
Chỉ là buông xuống, Quán là thấy thấu suốt!
Thuở
trước, khi tôi mới học Phật, nếu Chương
Gia đại sư nói với tôi về Chỉ Quán, tôi sẽ
chẳng hiểu, sẽ thật sự khiến cho tôi bị
hồ đồ. Lăo nhân gia có
phương tiện thiện xảo, Ngài không nói Chỉ
Quán, mà nói là “thấy thấu suốt,
buông xuống” tôi hiểu
điều này dễ dàng, rất dễ tiếp nhận! “Thấy thấu suốt, buông xuống”,
buông xuống là Chỉ, thấy thấu suốt là Quán, gộp
chung lại sẽ là Thiền, tôi rất được lợi
ích. Lăo nhân gia thâm nhập sâu xa Phật pháp, diễn tả nông
cạn, có thể khiến cho tôi nghe hiểu, có thể tiếp
nhận, hoan hỷ tiếp nhận, sự giáo học ấy
chính là “Lư Cơ song khế”
(vừa khế lư vừa khế cơ), giáo học thành công!
Dứt
hết thảy ác, tu hết thảy thiện, [thường
nói gọn là] “chỉ ác, tu thiện”
th́ phải ly tướng. Nếu chẳng ly tướng,
sẽ là Thiền Định thế gian, tu đến mức
cao nhất, sẽ là Sắc Giới Thiên, hoặc Vô Sắc
Giới Thiên, chẳng thể vượt thoát [tam giới].
V́ thế, Chỉ Quán đều chẳng
thể chấp tướng. Kinh Bát Nhă dạy chúng ta: “Phàm những ǵ có h́nh tướng
đều là hư vọng”. Tuy là hư vọng, ác phải
dứt. Tuy dứt, chẳng ghim trong ḷng, giống như chẳng
có chuyện ấy. Thiện nhất định phải tu,
tuy tu thiện, vẫn chẳng ghim trong ḷng. Đó gọi là
“làm mà không làm, không làm mà làm”. “Không
làm” là hằng ngày đều làm, làm rất nghiêm túc, quyết
định chẳng chấp tướng, giữ cho cái tâm
thanh tịnh, chẳng bị ô nhiễm mảy may! Hễ chấp
“ta hôm nay đă làm bao nhiêu chuyện tốt, ta hôm nay đă ngưng
dứt”, chúng ta nói là “đoạn”,
nhà Phật thường nói là Đoạn, “hôm nay ta sẽ bắt
đầu đoạn phiền năo, đoạn những phiền
năo nào”. Quư vị có ư niệm ấy. Kẻ sơ học có
[ư niệm, đối với họ], “chẳng có ư niệm”
quá khó khăn! Nếu công phu dần dần tăng tấn,
tăng tấn tới mức “dứt ác mà chẳng có ư niệm
dứt ác”, chẳng có ư niệm ấy, tu thiện mà không dấy
khởi ư niệm tu thiện, công phu ấy đă khá rồi,
chúng ta thường nói là “công
phu đắc lực”, đă đắc lực! Nếu
thường xuyên vương vấn “ta làm bao nhiêu chuyện
tốt”, chẳng được rồi! Đấy là công
phu chẳng đắc lực.
Tổ
sư Đạt Ma đến Trung Hoa; trước mặt
Tổ, Lương Vũ Đế khoe khoang công đức
hộ tŕ Phật pháp của chính ḿnh: Vua đă độ bao
nhiêu người xuất gia, dựng bao nhiêu ngôi chùa, tạc
bao nhiêu tượng Phật. Thuở ấy, kinh phải chép
tay. Vua đă thỉnh người sao kinh, sao được
bao nhiêu bộ kinh sách, rất đắc ư! Đối với
chuyện hộ tŕ Phật pháp của hàng đế vương
trước ông ta, chẳng có ai làm nhiều bằng nhà vua. Vua làm thật sự nhiều! Nói theo mặt
công đức, người khác có thể làm ít hơn mà vẫn
có công đức. Nhà vua làm nhiều ngần ấy mà chẳng
có công đức! Nhà vua hỏi công đức của ông ta
có lớn hay không? Đạt Ma tổ sư nói lời thật
thà: “Tịnh vô công đức” (Hoàn
toàn chẳng có công đức). Nhà vua đă làm những chuyện
như thế nào? Nói theo Phật môn, sẽ là “phước đức trung sự”,
[tức là] ông ta đă tạo phước đức, chẳng
phải là công đức! Xét theo Sự th́ giống như
nhau, đoạn ác, tu thiện. Sự giống nhau, nhưng
chấp tướng th́ sẽ là phước đức, ĺa
tướng th́ là công đức. Chư vị phải hiểu
rơ ràng! Chấp tướng sẽ có quả báo; hễ thiện
th́ là quả báo trong ba thiện đạo, c̣n ác th́ là quả
báo trong ác đạo, quư vị chấp tướng mà!
Đoạn ác tu thiện, nhưng chẳng chấp tướng.
Chẳng chấp tướng, sẽ chẳng có quả báo trong
lục đạo. Quả báo ở chỗ nào? Nhất định
là vượt thoát lục đạo, đấy gọi là “công đức”. Công đức
có thể giúp đỡ quư vị tăng tấn, vượt
thoát lục đạo luân hồi, vượt thoát mười
pháp giới.
Người
nào làm được “đoạn ác tu thiện mà chẳng
để trong tâm”? A La Hán làm được. V́ thế, A La
Hán thoát khỏi lục đạo luân hồi, vượt
thoát tam giới lục đạo. Chúng ta chớ nên không biết
điều này! Đối với người niệm Phật
chúng ta, niệm Phật xác thực là pháp môn hết sức thù
thắng, thuận tiện. Ta đoạn ác, tu thiện, ta
vẫn chẳng ly tướng, ta c̣n chấp trước,
có thể văng sanh hay không? Có thể chứ! [Sanh vào] cơi Phàm
Thánh Đồng Cư. Nếu đoạn ác tu thiện mà
chẳng chấp tướng, sanh về Tây Phương Cực
Lạc thế giới, sẽ chẳng sanh trong cơi Phàm Thánh
Đồng Cư, mà tối thiểu là cơi Phương Tiện
Hữu Dư, khác hẳn! Cơi Phương Tiện Hữu Dư
là nơi A La Hán, Bích Chi Phật văng sanh. Quư vị chỉ cần
đoạn ác, tu thiện, chẳng chấp tướng, sẽ
giống như các Ngài. Nếu đoạn ác tu thiện mà
chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, [phẩm
vị của] quư vị sẽ rất cao, sẽ sanh vào cơi
Thật Báo Trang Nghiêm của thế giới Cực Lạc.
Cơi Thật Báo Trang Nghiêm là đạo tràng tu học của Pháp
Thân Bồ Tát; quư vị đến nơi đó, đấy
là công phu chân thật.
V́
thế, có bảy nguyện ấy, đấy là sự giáo
học chân thật và tu hành chân thật trong Phật pháp. Dùng
hai chữ Thiền Quán hay lắm! Chúng tôi thường nói “Thiền là Phật tâm”. Thiền
là chẳng có chấp trước, chẳng có phân biệt, chẳng
có khởi tâm động niệm, là Phật tâm. Giáo: Kinh
giáo là Phật ngôn, tức là lời nói của Phật. Giới
luạt là tâm hạnh của Phật, tức sự hành tŕ
của Phật nơi thân, khẩu, ư. Thiền là Phật tâm,
thân, khẩu, ư! Trong một phẩm kinh này, vừa mở
đầu, Trí Thủ Bồ Tát đă nói mười câu về
ba nghiệp thân, khẩu, ư thanh tịnh. Đó là h́nh tượng
nơi quả địa Như Lai rốt ráo. Thân, ngữ,
ư nghiệp thuần tịnh, thuần thiện, c̣n cao hơn
địa vị Đẳng Giác một tầng. V́ thế,
câu này là nói về khi dụng công cầu học.
Tiếp
đó, từ đoạn thứ tư cho đến đoạn
thứ mười đều là nói về cuộc sống
hằng ngày. Tuy trong [phần kinh văn dạy về] cuộc
sống hằng ngày đều là nói về cuộc sống
thường nhật của hàng xuất gia, hàng tại gia
đều có thể tu học giống hệt, phải hiểu
tinh thần của nó. Chẳng cần câu nệ h́nh thức,
h́nh thức là sống động, đức Phật không
có pháp nhất định để có thể nói, nhưng quan
trọng nhất là tinh thần. Người hiện thời
nói là “học sống động,
vận dụng sống động”. Thứ tư là…
(Sớ)
Hữu lục nguyện, minh tương hành phi quải thời
nguyện.
(疏)有六願,明將行披挂時願。
(Sớ:
Có sáu nguyện, nói về những nguyện thuộc về
chuyện ăn mặc lúc sắp ra đi).
Đây
là ra khỏi cửa. “Tương
hành” (將行, sắp đi), “hành” là
ra khỏi cửa. Ra ngoài, nhất định phải mặc
y phục chỉnh tề, nay chúng ta gọi “phi quải” (披掛) là ăn mặc. Do thuở ấy tại Ấn Độ,
vào thời đại ba ngàn năm trước, người
Ấn Độ mặc áo là quấn một tấm vải
lên người. Hiện thời, các vị thấy những
vị pháp sư Tiểu Thừa sẽ hiểu rơ, quần áo
thông thường của họ là như vậy, một tấm
vải quấn lên người, chẳng giống như
Trung Hoa. Trung Hoa xác thực là phải may cắt; y phục có
cổ, có tay áo. Thời cổ, Trung Hoa cũng chẳng mặc
quần, [mà mặc một thứ] gọi là “y thường” (衣裳). “Thường” (裳) là ǵ? Chính là cái váy. Nam nữ đều mặc váy. Cổ
Ấn Độ cũng giống như vậy, phía dưới
quấn váy, là một tấm vải, đó chính là “y thường”.
V́
thế, hiện thời quư vị thấy tượng Phật,
tượng Bồ Tát, chẳng thấy mặc quần, tuyệt
đối chẳng có, thảy đều là váy. Đó gọi
là “phi quải”: Thứ khoác ở
trên th́ gọi là “phi” (披), váy quấn ở dưới th́ gọi là “quải” (掛). Ra khỏi cửa, nhất định phải chú
trọng “phục trang” (服裝, ăn mặc, trang điểm) như chúng ta nói trong
hiện thời. Phục trang cũng nhằm biểu thị
thân phận của một người, tiện cho việc
hành lễ. V́ thế, gọi là “lễ
phục”. Trong phần trước tôi đă thưa cùng quư
vị, đệ tử Phật “học
vi nhân sư, hành vi thế phạm” (học làm thầy người,
hành vi làm khuôn phép cho cơi đời). Nhất cử nhất động
của người ấy đều là nêu gương, làm
khuôn phép cho đại chúng trong xă hội. V́ thế, tuy quần
áo của người ấy không lộng lẫy, nhưng
chỉnh tề, sạch sẽ, nhằm nêu gương tốt
cho đại chúng. Phần này có sáu nguyện; trong tương
lai, khi xem đến kinh văn, chúng ta sẽ có thể thấy.
(Sớ)
Ngũ hữu thất nguyện.
(疏)五有七願。
(Sớ: Đoạn thứ năm gồm bảy
nguyện).
Chúng
ta xem những điều kinh đă dạy bèn hiểu: Những
nguyện ấy được phát ra khi rửa ráy, súc miệng,
tắm gội. Những nguyện ấy đều là cuộc
sống hằng ngày. Chúng ta rửa mặt bèn phát nguyện
ǵ, chúng ta súc miệng bèn phát nguyện ǵ, chúng ta tắm rửa
bèn phát nguyện ǵ. Đó gọi là “luyện tâm qua sự việc”. Người ta học
điều ǵ cũng đều vận dụng hoàn toàn từng
ly từng tí trong cuộc sống, chẳng luống uổng
một ngày nào! Phải nghĩ lại bản thân chúng ta, ngày
nào cũng luống uổng, tu kiểu nào cũng chẳng có
cách nào sánh bằng họ. Họ từ sáng đến tối,
nói cách khác, chẳng có giây phút nào bỏ phí, nghĩ lại bản
thân chúng ta đă bỏ phí thời gian quá nhiều! Ngoài tụng
kinh, lạy Phật, đến lớp nghe giảng kinh, bèn
được tương ứng mấy phần ra; trừ
những lúc ấy ra, toàn là suy nghĩ loạn xạ, thảy
đều dẫn đến phiền năo dấy lên hiện
hành. Nếu quư vị suy ngẫm cẩn thận, dùng tỷ
lệ để tính toán, trong hai mươi bốn tiếng
đồng hồ, ta thật sự gởi tâm nơi đạo
được mấy giờ? Tâm chẳng đặt nơi
đạo, thuận theo thói tục, lại là bao nhiêu giờ?
So sánh đôi chút giữa hai đằng, bên nào nhiều hơn?
Bên nào nhiều hơn, trong tương lai sẽ hướng
đến đó. Bên Phật pháp nhiều, quư vị sẽ
tăng tấn; bên thế tục nhiều, quư vị sẽ
đọa lạc xuống dưới. Quư vị nói xem có đáng
sợ lắm hay không?
Thuở
trước, Hoằng Nhất đại sư chọn kinh
này làm kinh nhật tụng, có lư lắm! Ngài dùng hai phần,
tức là phẩm Tịnh Hạnh và phẩm Phổ Hiền
Hạnh Nguyện. V́ thế, chúng ta chỉ biết là Ngài
coi trọng giới luật, giới luật thực hiện
như thế nào? Giới luật được thực
hiện trong phẩm Tịnh Hạnh. V́ thế, nói thật
ra, phẩm Tịnh Hạnh chính là Đệ Tử Quy của
hàng Bồ Tát, Bồ Tát chẳng thể không học. Không học,
sẽ chẳng phải là Bồ Tát. Sa Di Giới, Tỳ
Kheo Giới, Bồ Tát Giới, thảy đều phải
thực hiện bằng phẩm Tịnh Hạnh. Một
trăm bốn mươi mốt nguyện là cuộc sống
hằng ngày, hằng ngày đều là như vậy.
Kế
đó là đoạn thứ sáu:
(Sớ)
Hữu ngũ thập ngũ nguyện, minh khất thực,
đạo hành thời nguyện.
(疏)有五十五願,明乞食道行時願。
(Sớ: Có năm mươi lăm nguyện, nói về
những nguyện khi khất thực, đi đường).
Khất
thực là một môn công khóa, người hiện thời nói
là “cơ hội giáo dục”.
Đức Phật coi trọng cơ hội giáo dục nhất,
hễ gặp người khác bèn khuyên dạy họ, Không nhất
định là dạy học trong giảng đường,
chẳng phải vậy, [mà là] dạy học mỗi khi có
cơ hội. Quư vị mỗi ngày đi khất thực, gặp
người khác, gặp chuyện nào đó, gặp những
vật chi đó, đối với chính ḿnh mà nói, người,
sự, vật chẳng có ǵ không nhằm biểu thị pháp,
khải thị cho quư vị. Người hiện thời nói
là “linh cảm”, giúp quư vị
phá mê khai ngộ. Đối với hết thảy người,
sự, vật, chúng ta phải dùng tâm thái ǵ để đối
đăi, [phần này] có đến năm mươi lăm
nguyện. Trong mười đoạn, phần này chiếm
nhiều nhất, quá nửa, gần như là một nửa.
Có tất cả một trăm bốn mươi mốt
nguyện, phần này chiếm tới năm mươi lăm
nguyện, chúng ta phải coi trọng tỷ lệ này!
Chúng
ta phải ghi nhớ, đối đăi với hết thảy
chúng sanh, người, sự, vật, phải nắm lấy
cơ hội giáo dục, quyết định đừng bỏ
lỡ! Đối với chính ḿnh, sẽ tăng cao cảnh
giới; đối với người khác, sẽ là giúp họ
phá mê, khai ngộ, quư vị phải thật sự có cái tâm
này! Hiện thời, khó khăn ở chỗ nào? Khó ở chỗ
chúng ta chẳng có cái tâm này, chẳng có nguyện này! Thật
sự có tâm nguyện này, người ấy sẽ chẳng
bỏ lỡ cơ hội, bất luận ở nơi nào!
Ví như khất thực, hoặc là đi đường,
gặp gỡ trên đường, gặp gỡ trên
đường có hai loại, một loại là đi cùng
chiều với chúng ta, loại kia là đi ngược chiều,
phải chào hỏi. Đi cùng đường, đi một
đoạn đường, có thể nói mấy câu, dài ngắn
đều chẳng nhất định, v́ mỗi người
có phương hướng, mục tiêu riêng. Đôi khi gặp
gỡ, chúng ta có thể cùng đi một đoạn
đường.
Khất
thực là đến nhà người khác, đấy là quy củ;
thí chủ tài cúng dường cho quư vị. “Tài” ở đây là một bát cơm, hoặc cho quư
vị một vốc cơm, chẳng đủ một bát,
quư vị lại đến nhà người khác khất thực.
Quy củ nhà Phật nhất định là khất thực
bảy nhà, khất thực cho đủ ăn. V́ thế, chẳng
phải là một nhà. Trước kia, trong nhà người ta
không nấu cơm nhiều như vậy, chẳng dư
nhiều như vậy. V́ thế, cho quư vị chút ít, chẳng
nhiều lắm. [Cơm xin từ] bảy nhà góp lại, quư
vị có thể ăn một bữa. Nếu nhà ấy là đại
gia tộc, là nhà phú quư, [xin từ] một nhà đă đầy
một bát, quư vị chẳng cần phải đến nhà
thứ hai. Xin từ một nhà chẳng đủ, quư vị
lại xin nhà khác, [xin từ] hai nhà đă đủ ăn,
chẳng đến nhà thứ ba. Tối đa là không thể
vượt quá bảy nhà!
Sau
khi đă khất thực xong, chẳng phải là khất thực
xong là có thể ăn ngay. Không thể, phải về đến
tịnh xá cùng ăn với đại chúng. Đức Phật
cũng là như thế, chẳng phải là khất thực
xong, có thể bất cứ lúc nào, đến ngồi ở
nơi đâu bèn ăn ngay tại đó, không được!
Nhất định phải trở về. Trở về ăn
cơm cũng có quy củ, v́ chắc chắn là có người
ngày hôm ấy đi khất thực chẳng xin được
ǵ, xin cả bảy nhà đều chẳng được!
Có dư th́ phải chia sẻ cho họ. C̣n có những người
xin được nhiều, trở về ăn cơm, mọi
người đều trộn cơm chung với nhau, gọi
là “ca-sa”, b́nh đẳng mà! Quư
vị xin được bát cơm cùng thức ăn rất
ngon, cơm của người khác rất tệ, phải
trộn chung lại để chia đều, b́nh đẳng
đấy! Phật môn thật sự làm được. Cơm
ăn trong bữa ấy c̣n dư, sẽ bố thí cho súc sanh,
tức là những loài chim thú, cúng dường chúng, chẳng
để hư nát. Chắc chắn là không được
giữ cơm lại để ăn vào hôm sau, không thể!
Hôm nay ta xin nhiều một chút, ngày mai chẳng cần đi,
không thể được! Đấy là ǵ? Đấy là
chú trọng vệ sinh. Xứ Ấn Độ trời nóng,
đồ ăn để đến hôm sau sẽ bị hư,
biến đổi hương vị; v́ thế, chẳng
thể để đến hôm sau. Những điều này
được quy định trong giới luật, cuộc
sống hằng ngày đấy nhé!
Trước
kia, ở quê nhà chúng tôi, tuy chẳng phải là phương Bắc,
chúng tôi thuộc miền Trung của Trung Hoa, khí hậu lạnh
lẽo hơn ở nơi đây, mùa Hè cũng rất nóng. V́
thế, cuộc sống của người ở nông thôn,
khi đó chẳng có tủ lạnh, thức ăn đều
phải coi xem có bao nhiêu người ăn, phải nấu
cho vừa khít. Thức ăn luôn luôn là chẳng nấu nhiều,
chỉ có thể ít hơn một tí. Chẳng thể [nấu
nướng] nhiều, hễ dư ra sẽ bị hư hoại.
Thức ăn không đủ th́ như thế nào? Thức ăn
không đủ th́ có những món rau củ muối chua, những
thứ ấy chẳng bị hư. V́ thế, cơm cũng
ít, mà đồ ăn cũng ít. Khi ăn không đủ, sẽ
bổ sung bằng các thứ ăn độn, bằng các
loại rau muối mặn, nhất định phải ăn
hết sạch như vậy, chẳng thể để thừa
lại, luôn theo cách ấy. Như hiện thời nhà nào cũng
có tủ lạnh, buổi trưa ăn c̣n dư th́ có thể
ăn vào buổi tối, buổi tối c̣n thừa th́ ngày mai
có thể ăn. Quư vị phải hiểu xưa kia, khi chẳng
có những thiết bị ấy, họ có phương pháp
[để giữ đồ ăn được lâu]. Trong
bất cứ nhà nào ở quê tôi cũng đều muối
dưa, v́ rau dưa đă thu hoạch không thể giữ măi,
chỉ có cách đem muối chua là có thể giữ lâu
được! Ấn Độ càng nóng hơn chúng ta, họ
mặc ba món quần áo là đủ rồi, [xứ ấy]
thuộc khu vực nhiệt đới, chắc chắc chẳng
thể giữ lại thức ăn.
Kế
đó là đoạn thứ bảy.
(Sớ)
Hữu nhị thập nhị nguyện, minh đáo thành khất
thực thời nguyện.
(疏)有二十二願,明到城乞食時願。
(Sớ: Có hai mươi hai nguyện, nói về những
nguyện khi vào thành khất thực).
Phần
trước là nói về chuyện khất thực trên
đường, đi đường, bây giờ là chuyên nói
về lúc đă đến thành thị, đó là chỗ đông
người. Thuở tại thế, đức Thế Tôn qua
đêm dưới cội cây, giữa trưa ăn một
bữa, đại khái là cách hương trấn, hương
thôn, hoặc thành thị đều chẳng quá xa. Nói theo
khoảng cách hiện thời, đại khái là khoảng
hai cây số, người trước kia nói là “ba dặm”,
ba dặm đường. “Dặm”
(lư, 里) xưa kia nhỏ
hơn hiện thời, một cây số bằng hai dặm
Tàu. V́ thế, xưa kia quê tôi nói là “năm mươi dặm”,
trên thực tế là hai mươi lăm cây số trong hiện
thời. Một trăm dặm bằng năm mươi cây
số trong hiện thời. Từ quê chúng tôi đến Hợp
Ph́[8] là
một trăm hai mươi dặm. Hiện thời, lái
theo đường xa lộ, sẽ là bảy mươi cây
số. Do vậy, khất thực thuở ấy khoảng
cách chẳng thể quá xa. Quá xa th́ thời gian đi về
sẽ quá lâu! Do vậy, đức Thế Tôn chọn rừng
cây, hoặc là tinh xá do người khác cung cấp cách thành
thị hoặc nơi cư trụ thông thường đại
khái chẳng thể xa hơn năm dặm đường.
Năm dặm đường là hai cây số rưỡi
trong hiện thời, khất thực thuận tiện. Kinh
điển phần nhiều nói là “ba dặm”, ba dặm là một
cây số rưỡi, thuận tiện cho quư vị khất
thực.
Chúng
ta phải hiểu, thuở ấy, dân cư trên thế giới
ít ỏi, chẳng đông như hiện thời. Vào thành, “thành” (城) là nơi có nhiều người cư trú. Nếu là
đô thành, sẽ là nơi đế vương cư trú.
[Những nơi ấy] đều là chỗ để người
tu hành khất thực, là nơi tăng tấn cảnh giới
cho người tu hành, đều khiến cho người tu
hành phát hoằng nguyện chân thật. Nguyện cho những
người ấy giác ngộ, nguyện những người
ấy chớ nên lưu luyến phú quư trong thế gian; vinh
hoa phú quư của thế gian, những thứ ấy chẳng
lâu dài. Thường xuyên có cái tâm ấy, sẽ chẳng mê mất
tự tánh, thật sự ǵn giữ sự cảnh giác cao độ,
chẳng bị mê mất bởi cảnh giới bên ngoài, chẳng
bị chuyển dời bởi cảnh giới bên ngoài.
(Sớ)
Bát hữu ngũ nguyện, minh hoàn quy tẩy dục thời
nguyện.
(疏)八有五願,明還歸洗浴時願。
(Sớ: Đoạn thứ tám có năm nguyện,
nói về những nguyện khi trở về tắm rửa).
Quư
vị mỗi ngày đều đi ra ngoài; nói thật ra, ra
khỏi cửa cũng là vận động rất tốt.
Tu hành, vận động, khất thực, hoằng pháp lợi
sanh, thảy đều có, chẳng uổng công đi ra ngoài.
Đi ra ngoài th́ phải quay về; sau khi khất thực,
phải quay về. Khi trở về, quư vị xem kinh Kim
Cang có thể thấy được đôi chút. Sau khi quay về
phải rửa chân. V́ quư vị đi ra ngoài, chư vị phải
hiểu, người thuở ấy chẳng đi giầy,
đều là để chân trần. Quư vị thấy h́nh
tượng vẽ hoặc tạc của Phật, Bồ
Tát đều chẳng mang giầy, phải biết điều
này! Đi đường xa như vậy, quay về, nhất
định là phải rửa chân trước đă. Nếu khi đi, chảy mồ hôi, có thể
tắm rửa. Chẳng đổ mồ hôi th́ không cần
tắm rửa; nếu đổ mồ hôi th́ cần phải
tắm rửa. Trong đoạn này có năm nguyện.
(Sớ)
Cửu hữu thập nguyện, minh tập tụng toàn lễ
thời nguyện.
(疏)九有十願,明習誦旋禮時願。
(Sớ: Đoạn thứ chín gồm mười
nguyện, nói về các nguyện khi tu tập, tụng niệm,
đi nhiễu, lễ bái).
Đây
là sau khi ăn xong bèn tụng kinh. Nay chúng ta gọi “toàn lễ” (旋禮) là “nhiễu Phật”.
Sau khi dùng cơm, xác thực là như người Hoa thường
nói “dùng cơm xong, bách bộ”,
khi vừa mới ăn xong, không nên ngồi hay nằm, rất
chẳng hợp phép vệ sinh. Ăn xong, nhất định
làm ǵ? Nhất định là đi kinh hành. Trong chùa miếu
đều là như vậy, đại chúng cùng nhau thọ
trai xong, tối thiểu phải nhiễu Phật nửa giờ,
giúp cho sự tiêu hóa. Sau đấy, quư vị sẽ ngồi
xuống, tham Thiền, làm chuyện chi đó, tốt lắm!
Chẳng thể vừa ăn xong liền làm ngay, không nên! Ăn
xong, cũng chớ nên đi ngủ. V́ thế, phần tu tập,
tụng niệm, nhiễu Phật có mười nguyện.
Cuối
cùng…
(Sớ)
Hữu tam nguyện.
(疏)有三願。
(Sớ: Có ba nguyện).
Khi
ngủ, khi nghỉ ngơi; chư vị hăy suy ngẫm nội
dung của phẩm kinh này, sẽ hiểu rơ cuộc sống
trong một ngày của đệ tử Phật. Các vị
hăy ngẫm xem, có phải là rất tương tự Đệ
Tử Quy hay không? Đệ Tử Quy hoàn toàn là [những
quy củ trong cuộc sống] của người tại
gia, mục đích là làm một người tốt thật
sự. Một trăm bốn mươi mốt nguyện
trong phẩm Tịnh Hạnh nhằm dạy [chúng ta] làm một
đệ tử tốt thật sự của đức Phật,
là học tṛ ngoan của Phật, Bồ Tát. V́ thế nói “giống” tức là giống Bồ
Tát, giống Phật. Nếu quư vị chẳng làm theo như
vậy, sẽ chẳng đoạn nổi phiền năo, cái
tâm thanh tịnh của quư vị sẽ chẳng thể hiện
tiền.
Năm
nay, nhà nước sẽ tổ chức luận đàn Phật
giáo thế giới tại Châu Sơn, chủ đề là “xă hội hài ḥa khởi đầu
từ tâm”, nêu ra ba câu “tâm tịnh
ắt cơi nước tịnh, tâm an ắt chúng sanh an, tâm
b́nh ắt thiên hạ b́nh”. Làm thế nào để tâm tịnh?
Làm thế nào để tâm an? Làm thế nào để tâm
b́nh? Phẩm Tịnh Hạnh là tài liệu dạy học tốt
nhất. Thật sự thực hiện một trăm bốn
mươi mốt điều này, mỗi ngày đều có
thể làm được, ba mục tiêu ấy sẽ thành tựu
viên măn. Tâm tịnh, cơi nước tịnh. Tâm an, chúng sanh
được b́nh an. Tâm b́nh, thiên hạ thái b́nh. Lời nói
này có một tầng ư nghĩa sâu hơn nữa, tức là
như trong giáo pháp Đại Thừa thường nói: “Hết thảy các pháp sanh từ
tâm tưởng”. Chư vị nghĩ xem có đúng hay không?
Nếu muốn thanh tịnh, nếu mong an toàn, nếu mong b́nh
đẳng, sự ḥa thuận ở ngay trong ấy. Người
Hoa nói “ḥa b́nh”, “đối xử
ḥa thuận, đối đăi b́nh đẳng”, đối
xử ḥa thuận là quả, b́nh đẳng là nhân. Đối
với người ngoài mà bất b́nh đẳng, chắc
chắn chẳng có ḥa thuận!
Do
vậy, đức Phật dạy các đệ tử, bất
luận tại gia hay xuất gia, chẳng thể không học
Lục Ḥa Kính. Lục Ḥa Kính là quy phạm cho cuộc sống
trong đoàn thể. Đệ tử Phật môn, bất luận
tại gia hay xuất gia, quư vị không thể rời khỏi
đoàn thể. Đoàn thể nói theo Phật pháp, sẽ là bốn
người ở chung với nhau, phải hiểu Lục
Ḥa Kính. Nếu quư vị là một gia đ́nh, hai vợ chồng
cùng với hai đứa con sẽ là bốn người. Có
thể tu Lục Ḥa Kính, gia đ́nh của quư vị là Tăng
đoàn, rất tuyệt diệu! Tăng đoàn nhất
định được chư Phật gia tŕ, chư Phật
Như Lai hộ niệm, long thiên thiện thần ủng hộ,
gia đ́nh quư vị hạnh phúc, chẳng có bất cứ
tai nạn ǵ, thật sự là “gia
ḥa, vạn sự hưng”.
Trong
tŕnh độ hiện tiền, phải biết học tập
Kiến Ḥa Đồng Giải như thế nào? Học Đệ
Tử Quy, học Thập Thiện Nghiệp, học phẩm
Tịnh Hạnh, kiến giải của chúng ta sẽ gần
gũi, cách nghĩ và cách nh́n của chúng ta sẽ gần gũi,
chẳng nẩy sanh lắm nỗi khác biệt! Đối
với câu Kiến Ḥa Đồng Giải, người hiện
thời nói là “thành lập nhận
thức chung”. Đấy là nhân tố cơ bản trong đối
xử ḥa thuận. Nếu cách nghĩ, cách nh́n của chúng
ta đối với hết thảy người, sự vật
khác nhau, chắc chắn chẳng thể nói tới chuyện
đối xử ḥa thuận được, quư vị sẽ
thường tranh luận. V́ thế, đây là điều
kiện tiên quyết để đối xử ḥa thuận,
chúng ta có cách nh́n và cách nghĩ chung. Tức là phải tuân theo
giáo huấn của cổ thánh tiên hiền, giáo huấn của
Phật, Bồ Tát, vấn đề này mới có thể giải
quyết.
Thứ
hai là Giới Ḥa Đồng Tu. Giới của người
Hoa là Đệ Tử Quy, ai nấy đều vâng giữ
Đệ Tử Quy, có lẽ nào gia đ́nh ấy chẳng
tốt đẹp? V́ thế, Thân Đồng Trụ, Khẩu
Vô Tránh, người một nhà ḥa khí, chẳng có tranh luận.
Ư Đồng Duyệt, gia đ́nh đầy ắp thơm
thảo, tràn đầy yêu thương, đúng là một
gia đ́nh hạnh phúc. Điều cuối cùng là Lợi Ḥa
Đồng Quân, hưởng thụ cuộc sống vật
chất và hưởng thụ tinh thần trong gia đ́nh
hoàn toàn như nhau, b́nh đẳng. Gia đ́nh ai nấy
đều là như vậy, thế giới này sẽ là thế
giới Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc, thế
giới Hoa Tạng h́nh thành như thế
nào? Chẳng có ǵ khác! Ai nấy đều tu Lục Ḥa Kính,
ai nấy đều tu Thập Thiện Nghiệp, ai nấy
đều tu phẩm Tịnh Hạnh. Mười một
điều trong phần đầu của phẩm Tịnh
Hạnh là tại gia, phần sau là xuất gia. Chúng ta có thể
học tập, có thể hấp thụ cuộc sống
tinh thần và những thứ tốt đẹp của
người xuất gia, vận dụng vào phạm trù học
tập của tại gia, thảy đều có thể hấp
thu. Chỉ là trên h́nh thức th́ khác nhau, biểu hiện chẳng
giống nhau, nhưng tinh thần là nhất trí; đấy
là giáo huấn của đức Phật.
Hôm
nay đă hết thời gian rồi, ngày mai chúng ta sẽ bắt
đầu học kinh văn. Trong phần kế tiếp,
chữ “Phật tử” là
[danh xưng do] Văn Thù Bồ Tát [dùng để] gọi ngài
Trí Thủ, gọi Ngài là Phật tử. Trí Thủ đại
diện cho mọi người chúng ta. Nói với Trí Thủ
là nói với chúng ta, chúng ta mở quyển kinh ra, phải thẳng
thừng gánh vác. Văn Thù Bồ Tát dạy ta, chẳng phải
là dạy ai khác! Phật tử là ta, quư vị mới thật
sự học được thứ này thứ nọ. Nếu
quư vị nói “Phật tử là
Trí Thủ Bồ Tát, chẳng phải là ta, chẳng phải
là nói với ta”, vậy th́ thứ ǵ quư vị cũng đều
chẳng học được! A! Hôm nay chúng tôi nói đến
chỗ này!
Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 19 hết
[1] Trần Hiểu
Húc (1965-2007) là một diễn viên của Trung Hoa Đại
Lục, vai diễn thành công nhất của cô là Lâm Đại
Ngọc trong bộ phim truyền h́nh Hồng Lâu Mộng
(năm 1984). Năm 1998, cô sáng lập công ty quảng cáo Thế
Bang rất thành công. Là một Phật tử thuần thành,
trước khi mất v́ chứng bệnh ung thư ngực
ba tháng, cô đă xin xuất gia, pháp hiệu Diệu Chân vào
ngày 23 tháng Hai năm 2007 tại Bách Quốc Hưng Long Tự
ở Trường Xuân. Cô mất vào ngày 13 tháng Năm
năm 2007. Sau đó, chồng cô là Hác Đồng cũng xuất
gia.
[2] Người
Hoa thường gọi những giáo phái tin theo Chúa Jesus,
nhưng không thuộc quyền quản hạt của ṭa
thánh La Mă (như Baptist, Tin Lành, Cơ Đốc Phục Lâm
v.v…) là Cơ Đốc giáo, và dùng chữ Thiên Chúa giáo để
chỉ Công Giáo La Mă. Đúng ra, Cơ Đốc giáo là từ
ngữ chính thức để dịch chữ Christianity, tức
là gọi chung các truyền thống tôn giáo tin vào kinh Thánh và
Chúa Jesus, Công Giáo La Mă chỉ là một phái trong đó. Để
tránh lầm lẫn, các sách vở trong giới học thuật
thường gọi các giáo hội cải cách, không tuân phục
ṭa thánh La Mă là Cơ Đốc Tân Giáo, các giáo hội Chính Thống
Giáo (Orthodox) thường được gọi chung là
Đông Chánh Giáo (như các giáo hội đạo Chúa tại
Nga, Bulgaria, Tiệp Khắc, Hy Lạp, đảo Cypre,
Syria, Phần Lan, Albania, Ai Cập, Trung Đông v.v…)
[3] A Hoanh (阿訇) là từ ngữ người
Hoa dùng để phiên âm chữ Akhund của tiếng Ba
Tư (c̣n viết là Akhoond, Akhwand). Người Hoa c̣n phiên âm
chữ này thành A Hành, A Oanh, A Hồng, hoặc Cáp Hoanh v.v…
Akhund có nghĩa là giáo sư hoặc học giả. Người
ta thường coi từ ngữ này tương
đương với chữ Imam trong tiếng Ả Rập.
Trong các đền thờ Hồi giáo, Akhoond hướng dẫn
các nghi thức tôn giáo, đồng thời kiêm nhiệm vai
tṛ giảng sư trong các trường Hồi Giáo (thường
gọi là Howzeh hoặc Madrasa). Điều đáng ngạc
nhiên là trong các sắc tộc theo đạo Hồi tại
Trung Hoa (vùng Tân Cương) và A Phú Hăn, chữ Akhund là một
danh xưng tôn quư, nhưng tại Iran, chữ Akhund thường
dùng với nghĩa châm biếm, miệt thị những
giáo sĩ đạo Hồi kém cỏi, thiếu học thức,
thô lỗ, tục tằn, thiếu đạo đức.
[4] “Sâu hơn” ở đây không có
ư nghĩa là ư nghĩa sâu xa, mà là do trong cổ văn thường
dùng các biện pháp tu từ, sử dụng nhiều điển
tích, ẩn dụ, hoặc chú trọng quá nhiều đến
âm điệu, thanh vận, cũng như quá ngắn gọn,
quá súc tích, trở thành bí hiểm, dễ gây hiểu lầm.
[5] Chữ Tướng
(將) thứ nhất
là tướng quân, chữ Tướng (相) thứ hai chỉ thừa
tướng, người đứng đầu các quan
văn. “Tướng tướng”
là từ ngữ thường được dùng để
chỉ chung các địa vị cao sang trong giới quan lại.
[6] Ngũ Tổ
Giới chính là ngài Sư Giới, không rơ năm sinh và năm
mất. Sư là bậc tông tượng trong tông Vân Môn nhà
Thiền, sống vào đời Tống, trụ tŕ chùa
Ngũ Tổ ở núi Ngũ Tổ tại Cận Châu (tỉnh
Hồ Bắc), là người nối pháp của thiền
sư Song Tuyền Sư Khoan. Do trụ tại chùa Ngũ Tổ,
nên ngài Sư Giới thường được gọi là
Ngũ Tổ Giới.
[7] Theo Viên Giác
Kinh Tu Chứng Nghi của ngài Tông Mật, Ngộ Đạt
quốc sư (809-882) là ngài Thích Tri Huyền, họ Trần,
quê ở Mỵ Châu, tỉnh Tứ Xuyên. Xuất gia từ
năm bảy tuổi (có thuyết nói là mười một
tuổi), cầu thế độ với pháp sư Pháp
Thái, được đặt pháp hiệu là Tri Huyền, tự
Hậu Giác. Sư chú tâm nghiên cứu, học tập kinh Niết
Bàn. Hai năm sau, do được thừa tướng
Đỗ Nguyên Dĩnh thỉnh cầu, Sư thăng ṭa tại
chùa Đại Từ ở Tứ Xuyên, thuyết pháp cho
đại chúng đông đến hơn một vạn
người. Ai nấy nghe giảng đều tán thán không
cùng. Năm mười bốn tuổi Ngài đă giảng
kinh Niết Bàn cho hoàng đế, đại thần,
văn vơ bá quan, các vị tôn túc trong Phật môn đến nghe đều tấm tắc khen ngợi.
Người đời gọi Ngài là Trần Bồ Tát. Sau
đó, Sư theo luật sư Trinh Biện thọ Cụ
Túc Giới, lại theo Tín pháp sư chùa An Quốc học
Duy Thức. Do đức hạnh cao sâu, học vấn quảng
bác, Sư được Đường Ư Tông ngưỡng
mộ, tôn làm quốc sư. Năm Hàm Thông thứ mười
(869), vua Đường Ư Tông đích thân đem bảo tọa
trầm hương đến chùa An Quốc biếu tặng
ngài Tri Huyền. Bảo tọa cao đến hai trượng,
thuần bằng gỗ đàn hương, lại dùng những
sợi tơ bằng vàng trang trí, đồng thời vua c̣n
ban tặng ngự hiệu Ngộ Đạt quốc
sư.
[8] Ḥa Thượng
Tịnh Không quê ở huyện Lô Giang, thuộc tỉnh An
Huy. Hợp Ph́ là tỉnh lỵ của tỉnh An Huy. Hợp
Ph́ c̣n có các tên gọi là Lô Châu, hoặc Lô Dương. Thành
phố này đă tồn tại trên hai ngàn năm, và chính là
quê hương của Bao Công. Đây là nơi xảy ra cuộc
chiến đẫm máu giữa Trương Liêu (nhà Bắc
Ngụy của Tào Tháo) và quân Đông Ngô. Trương Liêu chỉ
có tám trăm kỵ binh mà đă đánh bại quân Đông
Ngô đông đến hai trăm ngàn người. Đây
cũng là nơi xảy ra nhiều cuộc chiến quyết
liệt giữa quân Nam Tống và quân Kim. Hợp Ph́ nằm ở
phía Nam tỉnh An Huy, bên bờ Sào Hồ. Hiện thời,
huyện Lô Giang trực thuộc thành phố Hợp Ph́.