Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ
mười một, Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 2
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ
giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Địa
điểm: Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục
Hiệp Hội
Khởi
giảng từ ngày mồng Bảy tháng Mười Một
năm 2005
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
duyệt: Đức Phong, Huệ Trang và Minh Tiến
Tập 1465
Chư vị
pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi
xuống! Chúng ta xem tiếp đoạn thứ tư là Giải
Phương (解妨, giải
trừ những chướng ngại) trong lời Sớ của
Thanh Lương đại sư. Đoạn này lại chia
thành sáu tiểu đoạn; hôm qua chúng ta đă học tập
tới đoạn thứ tư, hôm nay bắt đầu
xem từ đoạn thứ năm. Trước hết,
tôi đọc lời Sớ một lượt, để
quư vị thấy đúng chỗ.
(Sớ) Hựu
sở tạo thành hạnh, giai thí chúng sanh, bất khởi
Nhị Thừa chi tâm, an nhẫn cường nhuyễn
lưỡng cảnh, hoặc tăng thiện phẩm, tâm bất
dị duyên, diệu đạt tánh Không, thiện xảo hồi
chuyển, giai nguyện lợi vật, đồng thú Bồ
Đề. Nhị Thừa, thiên ma sở bất năng
động, thiện tri dược bệnh, quyết
đoán vô sai, tức Thập Độ Tề Tu chi hạnh
dă.
(疏)又所造成行,皆施眾生,不起二乘之心,安忍強軟兩境,或增善品,心不異緣,妙達性空,善巧迴轉,皆願利物,同趣菩提,二乘天魔所不能動,善知藥病,決斷無差,即十度齊修之行也。
(Sớ:
Lại nữa, đối với những hạnh đă tạo
thành (Phổ Hiền Hạnh) đều thí cho chúng sanh, chẳng
khởi tâm Nhị Thừa. An trụ, chịu đựng
nghịch cảnh và thuận cảnh, tăng trưởng
phẩm hạnh tốt lành, tâm chẳng duyên theo điều
ǵ khác, khéo thấu đạt tánh Không, chuyển biến thiện xảo, luôn
nguyện lợi lạc chúng sanh cùng tiến đến Bồ
Đề. Nhị Thừa và thiên ma
đều chẳng thể động, khéo biết cách chữa
bệnh, quyết đoán chẳng sai lầm. Đấy
chính là Thập Độ Tề Tu Hạnh).
Chúng ta xem đoạn thứ
năm này. Như chúng ta đă đọc trong những phần
trước, có Sự Hạnh, Lư Hạnh, Trí Hạnh, Đại
Bi Hạnh, Bi Trí Vô Ngại Hạnh, Chỉ Hạnh, Quán Hạnh,
Chỉ Quán Song Vận Hạnh, Giả Quán, Không Quán, Trung
Quán, Tam Đế Quán Hạnh. Hôm nay, chúng ta đọc
đoạn này, chính là Thập Độ Tề Tu Hạnh.
Do vậy, chúng ta có thể biết: Trí, Hạnh, Nguyện tuy
một mà ba, tuy ba mà một! Trong Hạnh có Trí và Nguyện,
trong Nguyện có Trí và Hạnh, trong Trí có Hạnh và Nguyện.
Đó là hạnh của Pháp Thân Bồ Tát, hạnh của Đại
Thừa Bồ Tát.
Chúng
ta xem đoạn văn này, “sở
tạo thành hạnh”. “Tạo” (造) ở đây là tạo tác. Chúng ta đă
hiểu rơ ư nghĩa chữ Hạnh. Trong ấy, có Trí và Nguyện.
Chúng sanh tạo tác, bất luận là khởi tâm động
niệm, hay sự tạo tác bằng ngôn ngữ; nói thật
ra, chẳng có Trí, chẳng có Nguyện, mà có ǵ? Có nghiệp,
thường nói là thiện nghiệp, ác nghiệp, và vô kư nghiệp
(nghiệp chẳng thiện, chẳng ác). Chúng sanh khởi tâm
động niệm, không ǵ chẳng là nghiệp, không ǵ chẳng
là tội!
Chúng
ta thấy các vị Pháp Thân đại sĩ trong hội Hoa
Nghiêm, các Ngài có khởi tâm động niệm hay không? Chẳng
có! Chúng ta phải biết điều này: Khởi tâm động
niệm là vọng tưởng, là vô minh phiền năo. Các Ngài
đă đoạn Kiến Tư phiền năo và Trần Sa phiền
năo. Cũng có nghĩa là: Đối với hết thảy
các pháp thế gian và xuất thế gian, [các Ngài] quyết
định chẳng có phân biệt, mà cũng chẳng có chấp
trước. Ngay cả tập khí phân biệt chấp
trước cũng đều đoạn. Đă phá một
phẩm vô minh. Vô minh là khởi tâm động niệm; [các
Ngài] cũng chẳng c̣n khởi tâm động niệm nữa,
nhưng tập khí khởi tâm động niệm hăy c̣n. Tiến
lên cao hơn là bốn mươi mốt tầng cấp
[Pháp Thân đại sĩ]. Từ Nhị Trụ, [tức
là] Sơ Trụ phá một phẩm vô minh, chứng một
phần Pháp Thân, tiến lên cao hơn là Nhị Trụ. Từ
Nhị Trụ cho đến Đẳng Giác, lại tiến
cao hơn nữa sẽ là Diệu Giác. Chúng ta cũng gọi
những cấp bậc ấy là bốn mươi tầng
cấp. Bốn mươi tầng cấp ấy, xét theo Lư
th́ có, về Sự bèn chẳng có. Nơi Sự, hoàn toàn là
pháp giới b́nh đẳng, xác thực là công phu có cạn
hay sâu khác nhau, cũng là do tập khí vô minh từ vô thỉ dầy
hay mỏng khác nhau. Đạt đến quả địa
Như Lai, tức là quả địa rốt ráo, mới
hoàn toàn đoạn hết [tập khí vô thỉ vô minh]. V́ lẽ
đó, Đẳng Giác Bồ Tát c̣n có một phẩm [sanh
tướng vô minh]. Sơ Trụ trong Viên Giáo đă phá một
phẩm vô minh trong bốn mươi mốt phẩm, hăy c̣n
có bốn mươi phẩm, mang theo (đới nghiệp)
nhiều quá. Ư nghĩa là như thế đó.
Đối
với Hạnh của các Ngài, đă là “chẳng khởi tâm,
chẳng động niệm”, cớ sao có tạo? Thành Hạnh
như thế nào? Đấy là cảnh giới giải
thoát chẳng thể nghĩ bàn. Chúng sanh có cảm, các Ngài
bèn ứng. Cảm ứng quyết định là hữu
duyên, chúng ta ắt cần phải ghi nhớ điều
này. Trong Phật pháp thường nói: “Phật chẳng độ kẻ vô duyên”. Ai chẳng
có duyên với Phật, Bồ Tát, sẽ chẳng dấy lên
tác dụng cảm ứng đạo giao. Hễ dấy lên
sự cảm ứng đạo giao, nhất định là
hữu duyên. Duyên không nhất định là thiện duyên hay
ác duyên, nhưng trong vô kư th́ chẳng có duyên! Bất luận
là thiện duyên hay ác duyên, thảy đều có cảm. Những
điều này đều là trước khi nhập pháp giới,
c̣n ở trong lục đạo, c̣n thuộc vào mười
pháp giới, v́ tập khí phiền năo chưa đoạn hết,
đương nhiên là có mối liên hệ qua lại với
chúng sanh trong ấy. Chỉ cần là có qua lại, sẽ là
hữu duyên. Bất luận cái duyên ấy cạn hay sâu, thảy
đều khởi tác dụng cảm ứng. V́ lẽ
đó, hễ chúng sanh có cảm, sự cảm ấy sẽ
rơ rệt, hoặc ngấm ngầm. Chúng ta thường nói,
có trường hợp là hữu tâm cầu (bọn phàm phu
chúng ta cầu Phật, Bồ Tát là hữu tâm cầu), có khi
là vô tâm cầu, chẳng có khởi tâm động niệm, nhưng
thật ra là có cầu, cầu Phật, Bồ Tát gia tŕ. Hữu
tâm cầu bèn có cảm ứng, mà vô tâm cầu cũng có cảm
ứng. Khởi tác dụng cảm ứng giống như
trong phẩm Phổ Môn đă nói: Quán Thế Âm Bồ Tát có
ba mươi hai ứng thân, đáng nên dùng thân ǵ để đắc
độ, bèn hiện thân ấy. Hiện thân th́ sẽ có tạo
tác, cùng chúng sanh qua lại, sẽ nhất định là có thuyết
pháp. Thuyết pháp cũng là tạo tác, nhưng sự tạo
tác ấy sẽ là “làm mà không
làm, không làm mà làm”. Phàm phu thấy các Ngài có tạo tác,
nhưng trên thực tế, các Ngài chẳng có tạo tác.
Ở
đây, nói đến “thành hạnh”.
Thành hạnh ǵ vậy? Phổ Hiền Hạnh, đều
thí cho chúng sanh. V́ vậy, nói theo lẽ hướng thượng,
[sẽ là] “chẳng có, chẳng không”. Có và Không chẳng hai,
giống như Tâm Kinh đă dạy: “Sắc tức là Không, Không tức là Sắc. Sắc chẳng
khác Không, Không chẳng khác Sắc”, đấy mới gọi
là Diệu, diệu hạnh, diệu pháp. Quư vị thấy Văn
Thù Bồ Tát có một biệt hiệu là Diệu Sanh (妙生), Ngài hiện
thân thuyết pháp, hết thảy các tạo tác đều
chẳng v́ chính ḿnh, chẳng có chính ḿnh. Tự và tha là một,
tự và tha bất nhị! V́ sao phàm phu tạo nghiệp? V́
sao Bồ Tát chẳng tạo nghiệp? [Nguyên nhân đă
được giải thích] ở ngay trong câu này! Hiểu
rơ câu này, quư vị sẽ biết: Hết thảy các hành vi
của Bồ Tát đều là v́ chúng sanh, chẳng có chính
ḿnh! Dẫu tạo nghiệp, cũng chẳng có cách nào
vướng quả báo. Phải có một cái Thể th́ mới
có quả báo. Ngài chẳng có, [tức là] Ngài chẳng có chính
ḿnh, ai sẽ chịu quả báo? Có chính ḿnh, sẽ có hứng
chịu quả báo, Ngài chẳng có! Giống như kinh Kim
Cang đă nói, Ngài chẳng có tứ tướng: “Vô ngă tướng, vô nhân tướng,
vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng”. Không
chỉ là chẳng có tứ tướng, mà tứ kiến
cũng đều chẳng có, tức là ư niệm đều
chẳng có! Nửa sau bộ kinh Kim Cang đă nói những ư
niệm ấy, tức là “ngă kiến,
nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến”, chẳng
hề có! Chúng ta tán thán sự thị hiện của Phật,
Bồ Tát; câu “sở tạo
thành hạnh” nhằm tán thán [các vị Bồ Tát thuộc
địa vị Pháp Thân đại sĩ] đă thành tựu
đại hạnh Phổ Hiền. Chúng ta tán thán như thế
đó.
V́
sao phàm phu tạo nghiệp? Do có ngă, [cho nên] ngă tướng,
nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng,
thảy đều trọn đủ. Hễ có ngă, bèn có tự
tư tự lợi. Hễ có người (thấy có kẻ
khác), giữa ta và người bèn có đối lập, có
mâu thuẫn trong ấy, những hiểu lầm bèn phát sanh.
[Nói] “chúng sanh” [là nói đến]
không gian, “thọ giả” (夀者) là thời
gian. Chúng ta nói là “thời không”
(時空, thời gian
và không gian). Họ tạo nghiệp, do nghiệp cảm, bèn
hiện ra lục đạo luân hồi. Trong lục đạo
bèn có quả báo, tức là ba thiện đạo và ba ác
đạo. Tương ứng với thiện, sẽ cảm
ba thiện đạo; tương ứng với ác, sẽ
chiêu cảm quả báo trong ba ác đạo.
“Giai thí chúng sanh, bất khởi Nhị
Thừa chi tâm”
(đều thí cho chúng sanh, chẳng khởi tâm Nhị Thừa):
Nhị Thừa là Thanh Văn và Duyên Giác. Tuy chẳng có chấp
trước, chẳng có Kiến Tư phiền năo, Nhị
Thừa c̣n có phân biệt. Đó gọi là “Ngă Chấp đă hết, Pháp Chấp hăy c̣n”. Nếu
chúng ta hỏi, ai chấp trước Pháp Chấp? Nếu
chẳng có Ngă, ai chấp trước Pháp Chấp? Hàng Nhị
Thừa xác thực là đă đoạn Ngă Chấp. Ở
đây, chúng ta hiểu: Tập khí Ngă Chấp chưa đoạn.
Đoạn Kiến Tư phiền năo dễ dàng, nhưng đoạn
tập khí của Kiến Tư phiền năo chẳng dễ
dàng như vậy đâu nhé! Bởi lẽ đó, hàng Nhị
Thừa có tập khí Kiến Tư, chưa đoạn Trần
Sa phiền năo. Ắt phải là tập khí của Trần
Sa phiền năo cũng đoạn sạch th́ mới có thể
phá một phẩm vô minh, vượt thoát mười pháp giới.
Những
Sự Lư này đều rất sâu, chẳng phải là cảnh
giới của chúng ta, chúng ta có cần biết hay không? Phải
biết! Đáng phải nên biết! Biết th́ có lợi
ích ǵ? Biết hiện thời cần phải làm những
ǵ. Hiện thời, phải coi nhẹ vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước, chớ nên thấy chúng
nghiêm trọng dường ấy. Đặc biệt là
trong cư xử giữa con người với nhau, cổ
nhân đă dạy chúng ta: “Quân tử
chi giao đạm như thủy” (Quân tử giao du với
nhau, thanh đạm như nước), kết giao với
nhau nhất định phải dùng cái tâm b́nh thường.
Tâm b́nh thường là ǵ? “B́nh”
(平) là b́nh đẳng,
“thường” (常) là vĩnh hằng. Giao du
cùng hết thảy mọi người, vĩnh viễn giữ
tấm ḷng b́nh đẳng. Đó gọi là “b́nh thường tâm”. B́nh đẳng tâm là Phật
tâm, b́nh đẳng tâm là chân tâm. Chấp tứ tướng,
hễ c̣n có “ngươi, ta, kẻ
khác”, sẽ chẳng phải là b́nh đẳng. Ta luôn mạnh
hơn ngươi một chút, đó là ǵ? Ngạo mạn, tham,
sân, si, mạn. Có Ngă, chấp trước cái thân này là ta. Hễ
có ta, chắc chắn là sẽ có tâm tham, có ngu si, có sân khuể,
có ngạo mạn. Phải biết những điều ấy
được gọi là “luân hồi
tâm”. Luân hồi tâm khởi tác dụng là luân hồi nghiệp,
quư vị làm sao có thể thoát khỏi lục đạo
luân hồi cho được? Do vậy, sau khi đă hiểu
những điều này, trong cuộc sống hằng ngày,
hăy thật sự dụng công, thứ ǵ cũng đều
xem nhẹ, điều ǵ cũng đều chẳng đáng
kể!
Chuyện
ǵ quan trọng nhất? “Thanh tịnh,
b́nh đẳng, giác” quan trọng nhất. Bất luận
trong hoàn cảnh nào, thuận cảnh hay nghịch cảnh,
thiện duyên hay ác duyên, làm thế nào để ǵn giữ
cái tâm “thanh tịnh, b́nh đẳng” của chính ḿnh, trọng
yếu lắm! V́ sao? Trong lục đạo chẳng có “thanh
tịnh, b́nh đẳng, giác”; trong lục đạo là tham,
sân, si, mạn, nghi. V́ thế, hăy suy nghĩ kỹ càng: Khởi
tâm động niệm của chính chúng ta là “thanh tịnh,
b́nh đẳng, giác”, hay là tham, sân, si, mạn, nghi? Nếu
niệm nào cũng đều chẳng ĺa khỏi tham, sân,
si, mạn, nghi, chắc chắn chẳng thoát khỏi lục
đạo luân hồi, mà niệm Phật cũng sẽ chẳng
thể văng sanh! Nếu khởi tâm động niệm tương
ứng với “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, chúc mừng
quư vị: Quư vị niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ, nhất định thành công! V́ thế, hết
thảy người và chuyện trong thế gian này, có ǵ
đáng để chấp trước? Có ǵ đáng coi là
nghiêm trọng? Những thứ ấy toàn là giả, chẳng
thật! Kinh Kim Cang nói hay lắm: “Hết thảy các pháp hữu vi, như mộng, huyễn,
bọt, bóng”. Quư vị chấp trước chúng để
làm ǵ? Hăy nên buông xuống! Chẳng buông xuống được,
đó là tập khí phiền năo! Cứ từ từ, mỗi
ngày buông một chút, buông xuống hằng ngày. Buông xuống
tới một mức độ nhất định, sẽ
rất dễ dàng, chẳng khó khăn ǵ! Mở đầu
rất khó, sau khi đă đột phá được chỗ
khúc mắc, sẽ dần dần dễ dàng hơn! Từ
đấy về sau, ngày càng dễ dàng hơn. Đạt
đến [địa vị] Pháp Thân Bồ Tát, sẽ hoàn
toàn chẳng có chính ḿnh, “chẳng
khởi cái tâm Nhị Thừa”!
Nhị
Thừa thiên trọng tự lợi, chẳng chủ động
lợi tha. Pháp Thân Bồ Tát chủ động lợi tha,
đấy gọi là “đại
từ đại bi”. Ḷng từ bi của hàng Nhị Thừa
chẳng phải là đại từ đại bi. Đức
Phật chia từ bi thành bốn cấp bậc:
1) Người
thế gian chúng ta cũng có từ bi. Ḷng từ bi ấy có
điều kiện, được gọi là “ái duyên từ bi”. Quư vị thích
ai, sẽ đối xử với kẻ đó rất từ
bi. Chẳng có tâm từ bi đối với kẻ chính ḿnh
không ưa thích. Đó gọi là Ái Duyên Từ Bi (愛緣慈悲). Đấy
là lục đạo phàm phu.
2) Lên cao
hơn nữa là Chúng Sanh Duyên Từ Bi (眾生緣慈悲). Đây
cũng là phàm phu, nhưng tâm lượng to lớn, biết
như thế nào? Biết có thể suy từ ta mà nghĩ
đến kẻ khác. Nói theo Đệ Tử Quy, sẽ là “phàm thị nhân, giai tu ái” (phàm
là người, đều phải thương yêu). Đó
là Chúng Sanh Duyên Từ Bi.
3) Nhị Thừa
và Bồ Tát là Pháp Duyên Từ Bi (法緣慈悲), tầng này
càng cao hơn nữa. Người ấy đối với
chân tướng của nhân sinh và vũ trụ, Phật pháp
gọi chân tướng sự thật này là “chư pháp Thật Tướng” đă dần dần
thấu hiểu. V́ thế, đối với hết thảy
chúng sanh, tâm từ bi chẳng sai biệt. Đó là Pháp Duyên Từ
Bi. Ḷng từ bi này thuộc vào tứ thánh pháp giới. Tứ
thánh pháp giới là Pháp Duyên Từ Bi.
4) Thoát ly
mười pháp giới, đạt đến Nhất Chân
pháp giới, đến thế giới Cực Lạc, sẽ
là Vô Duyên Từ Bi (無緣慈悲), [tức là
ḷng từ bi] chẳng có điều kiện. Chúng ta cũng
gọi [ḷng từ bi] này là đại từ đại bi. Ở
đây, [lời Sớ] bảo là “sở
tạo thành Hạnh, giai thí chúng sanh, bất khởi Nhị
Thừa chi tâm” (đối với những hạnh
đă tạo thành, đều thí cho chúng sanh, chẳng khởi
tâm Nhị Thừa).
Nhị
Thừa là Pháp Duyên Từ Bi, [ḷng từ bi được
nói đến] ở đây là Vô Duyên Từ Bi, giống
như Phật, chẳng kèm thêm bất cứ điều kiện
nào. V́ sao? Khắp pháp giới hư không giới và chính ḿnh
là một, quư vị c̣n nói chi nữa? Chẳng ai biết chân
tướng sự thật này, người đă biết, sẽ
chẳng kèm thêm điều kiện nào! Kinh nói: Hàng Nhị
Thừa độ chúng sanh, hễ hữu duyên các Ngài bèn
độ, chẳng có duyên sẽ không độ. Chẳng
giống như Pháp Thân đại sĩ. Pháp Thân đại
sĩ hễ hữu duyên bèn độ kẻ ấy; chẳng
có duyên, bèn kết duyên, thảy đều độ. “Trong cửa nhà Phật, chẳng
bỏ một ai”. A La Hán có phân biệt, Pháp Thân Bồ Tát
chẳng phân biệt, chẳng bỏ một ai. [Đấy
chính là] “chẳng khởi tâm Nhị
Thừa”.
“An nhẫn cường nhuyễn
lưỡng cảnh” (An trụ, chịu đựng nghịch
cảnh và thuận cảnh):
“Cường” (強) là nghịch cảnh,
“nhuyễn” (軟) là thuận cảnh, “an” (安) là an trụ. An trụ, nhẫn nại
trong hết thảy các cảnh giới. Đối với thuận
cảnh, phải an nhẫn, nhẫn ǵ vậy? Chẳng khởi
tham, si, chớ nên tham luyến. Đối với nghịch
cảnh, chẳng sanh sân khuể. Đấy gọi là công
phu an nhẫn. [Những điều trên đây là nói theo] hoàn
cảnh vật chất. Đối với hoàn cảnh nhân
sự, “cường” là ác
duyên. Gặp phải kẻ ác, quư vị phải có thể nhẫn,
chẳng sanh ḷng sân khuể, chẳng sanh tâm báo thù. “Nhuyễn” là thiện duyên. Quư
vị gặp những người tốt. Những người
ấy đối xử với quư vị thật tốt, rất
chăm sóc quư vị, cư xử rất hoan hỷ đối
với quư vị, chớ nên sanh ḷng tham luyến! Khi ấy,
rất dễ dấy ḷng tham. Do vậy, đối với thuận
cảnh dễ khởi tâm tham; nghịch cảnh dễ khởi
sân khuể. Trong tham và sân, nhất định là có si. V́ vậy,
nếu quư vị chẳng thể an nhẫn cường cảnh
và nhuyễn cảnh, sẽ dấy lên tham, sân, si.
Chúng
ta hăy ngẫm xem: Trong hoàn cảnh này, sống trong thế
gian này vài chục năm, có phải là hằng ngày khởi
tâm động niệm đều rơi vào tham, sân, si hay
không? Tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, chẳng sai tí nào! Thích
Ca Mâu Ni Phật nói như thế, mà mười
phương ba đời hết thảy chư Phật Như
Lai cũng nói như vậy. Chúng ta hăy quan sát tư duy cẩn
thận, đừng xem xét người khác, hăy tự xét
ḿnh. Công phu tu hành tốt đẹp hay không, nói thật ra là
do mức độ tham, sân, si, mạn, nghi có cạn, sâu, dầy,
mỏng khác nhau. Người chẳng học Phật th́
[tham, sân, si, mạn] rất nghiêm trọng, người học
Phật nhẹ hơn đôi chút. Chúng ta thấy công phu khá lắm,
tham, sân, si nhạt bớt, Giới, Định, Huệ tăng
trưởng, tức là công phu tu hành tốt đẹp. Tu
hành vài chục năm, đến lúc lâm chung, vẫn khởi
tham, sân, si, có [trường hợp như vậy] hay không?
Có chứ! Không chỉ là có, mà c̣n rất nhiều! Khi lâm
chung, hăy c̣n tham, sân, si, vẫn chưa buông xuống
được! Học Phật kiểu đó, đời
sau sẽ tùy thuộc người ấy tạo thiện
nghiệp hay ác nghiệp [mà sanh về đâu]. Nếu
người ấy suốt một đời làm lành, sẽ
lại sanh trong đường nhân thiên, chẳng thoát khỏi
tam giới, mà cũng chẳng thể văng sanh. Nếu
người ấy tạo tác ác nghiệp, sẽ vào ba ác
đạo. Tùy thuộc kẻ ấy tạo tác tội nghiệp
nhẹ hay nặng mà có súc sanh, địa ngục, ngạ
quỷ bất đồng. Chớ nên không biết điều
này! Đă biết, quư vị mới có thể dụng công, mới
biết tu hành như thế nào. Chẳng biết, quư vị
sẽ không biết cách tu như thế nào!
Niệm
Phật, niệm kinh có hữu dụng hay không? Kẻ chẳng
biết tu, cổ nhân bảo: “Miệng
niệm Di Đà, tâm tán loạn”. Trong tâm c̣n có tham, sân, si,
mạn, nghĩ tới những thứ ấy, miệng niệm
“A Di Đà Phật, A Di Đà Phật”,
[thế mà trong tâm] thấy kẻ này gai mắt, thấy chuyện
kia ngứa mắt, dẫu niệm Phật lớn tiếng
đến mấy đi nữa, niệm nhiều cách mấy
đi nữa, vô dụng! “Gào toạc
cổ họng vẫn uổng công”. Đó là ǵ? Kẻ ấy
đang tạo nghiệp! Trong các phần trước, chúng
tôi cũng từng thưa cùng quư vị: Kẻ ấy chẳng
biết niệm! Biết niệm, sẽ tương ứng
với tâm nguyện của A Di Đà Phật. Ở đây
nói “có trí, có nguyện”,
đó là tương ứng. Đó là một tiếng Phật
hiệu sẽ là một tiếng Phật: “Một niệm tương ứng một niệm Phật,
niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”,
tương ứng với những ǵ? Tương ứng với
Phật trí, tương ứng với Phật nguyện. Khởi
tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác, chẳng có
ǵ là v́ chính ḿnh, mà v́ hết thảy chúng sanh, hoàn toàn
tương ứng với chư Phật Như Lai. Đó gọi
là “biết niệm”, há có lẽ
nào cầu nguyện văng sanh mà chẳng sanh?
Trong
phẩm kinh này, chư Phật Như Lai thị hiện, chỉ
dạy chúng ta, chúng ta phải khéo học. Học rồi, thật
sự thay đổi quan niệm, sửa đổi hành vi.
Thật sự biết học, học rồi sẽ thật
sự vận dụng. “Hoặc
tăng thiện phẩm”: “Tăng”
(增) là tăng
thượng. Thiện tăng trưởng, ác giảm tổn,
chúng ta nói là “đoạn ác, tu
thiện, phá mê, khai ngộ”.
“Tâm bất dị duyên” (tâm chẳng
duyên theo lẽ khác): “Duyên” ở
đây là “phan duyên” (攀緣, nắm níu). Chư
vị hăy ngẫm xem: Chuyện này được gọi là
“nhất tâm bất loạn”. Trong phẩm kinh này, Phật, Bồ
Tát thị hiện, niệm niệm chẳng bỏ chúng sanh,
niệm niệm chỉ duyên nơi một chuyện. Chuyện
ấy chính là câu đầu tiên trong Tứ Hoằng Thệ
Nguyện: “Chúng sanh vô biên thệ
nguyện độ”. Đấy là bổn nguyện của
chư Phật Như Lai. Chỉ có một niệm ấy, quyết
định chẳng có niệm thứ hai, tâm chẳng duyên
chuyện khác!
Quư vị thấy
trong kinh văn thuộc phần sau, một trăm bốn
mươi mốt bài kệ đều là “đương nguyện chúng sanh” (nguyện cho
chúng sanh), tức là nói: Những hạnh đă tạo thành
đều tặng cho chúng sanh. Chẳng hề nói “đương nguyện ngă tự
kỷ” (nguyện cho chính tôi), mà đều là “đương nguyện chúng
sanh”. Chúng sanh có đạt được lợi ích chân
thật hay không? Khẳng định là có. Chúng sanh nghiệp
chướng và tập khí quá nặng, nguyện lực của
Phật, Bồ Tát gia tŕ họ, họ
chẳng tiếp nhận. Không tiếp nhận, Phật, Bồ
Tát vẫn gia tŕ y hệt. Chẳng phải là “không tiếp
nhận, ta sẽ chẳng gia tŕ ngươi nữa”. [Nói “chẳng
gia tŕ”] là Tiểu Thừa. Đối với [thánh nhân] Tiểu
Thừa, quư vị không tiếp nhận, các Ngài sẽ chẳng
gia tŕ. Quư vị thấy trong phần trước đă nói “bất khởi Nhị Thừa chi
tâm” (chẳng khởi tâm Nhị Thừa), [hàm ư: Dẫu]
chúng sanh chẳng tiếp nhận, vẫn gia tŕ, hết sức
cảm động ḷng người! Quư vị bài xích, cự
tuyệt, thậm chí phản đối, bày ra đủ mọi
hành vi bất thiện, chướng ngại Phật pháp, những
vị Bồ Tát ấy vẫn “đương
nguyện chúng sanh”, niệm
niệm chẳng bỏ, thật đấy, chẳng giả!
“Diệu đạt tánh Không, thiện
xảo hồi chuyển” (Khéo thấu đạt tánh
Không, chuyển biến khéo léo),
“diệu” (妙) là trí huệ
khởi tác dụng, tức diệu huệ! Thấy Không ở
chỗ nào? Từ trong Hữu bèn thấy Không th́ gọi là
Diệu. Thứ ǵ cũng đều chẳng có, quư vị
thấy là Không, chẳng coi là Diệu! Diệu là ǵ? [Nhận
biết] bản thể chính là Không, biết vạn sự,
vạn pháp, bao gồm thời gian và không
gian đều là “Sự có, Lư không; Tướng có, Tánh không”,
[điều đó thường được diễn tả
bằng thuật ngữ] “tánh
Không”. Đấy là trí huệ, tức trí huệ Bát Nhă,
chẳng cần đợi phân tích. Các khoa học gia
hiện thời sử dụng phân tích, hàng Nhị Thừa
sử dụng phân tích, phân tích đến cuối cùng, sẽ
trọn chẳng thể được, biết là do duyên tụ,
hay duyên tán. Duyên tụ, bèn hiện huyễn tướng ấy;
duyên tán, huyễn tướng ấy chẳng tồn tại.
Đó là Tích Không Quán (析空觀), [tức là]
phân tích cái Không. Chẳng như Pháp Thân Bồ Tát, các Ngài trí huệ
cao, trọn chẳng chấp trước tất cả các
hiện tướng (tướng được hiện
ra) ở trước mặt, quyết chẳng phân biệt.
V́ sao? Ngay nơi bản thể chính là Không.
Kinh
Bát Nhă dạy: “Nhất thiết
pháp, vô sở hữu, tất cánh không, bất khả đắc”
(Hết thảy các pháp chẳng có sở hữu, rốt
ráo không, chẳng thể được). Quư vị phân biệt
nó, há chẳng phải là sai lầm ư? Quư vị chấp
trước nó, càng sai hơn! Quư vị muốn chiếm hữu
nó, thân thể c̣n chẳng chiếm hữu được.
Toàn là vọng tưởng, thảy đều là vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước. Ngoài vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước ra, chẳng
có ǵ cả, thứ ǵ quư vị cũng chẳng đạt
được. Những ǵ quư vị đạt được
toàn là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước,
đó là “nghiệp”. V́ vậy, “muôn
thứ chẳng mang được, chỉ có nghiệp theo
thân”. Nghiệp cảm quả sẽ biến hiện, quả
là ǵ? Quả là biến hiện, vặn vẹo biến Nhất
Chân pháp giới thành mười pháp giới, biến thành lục
đạo, biến thành tam đồ. Bất luận biến
như thế nào, vẫn là huyễn giác, sự thật th́
sao? Sự thật chẳng biến đổi. Sự thật
là tánh Không. Tánh Không biến theo cách nào? Cái bị vặn vẹo
là h́nh tướng, Lư Thể vĩnh hằng bất biến.
Lư Thể là tánh Không. Do vậy, Bồ Tát thấu đạt
chân tướng sự thật.
“Thiện xảo hồi chuyển,
giai nguyện lợi vật, đồng thú Bồ Đề”
(Thiện xảo xoay chuyển, luôn nguyện lợi lạc
chúng sanh cùng tiến đến Bồ Đề): Chính ḿnh mừng
rỡ, cảm thấy may mắn v́ đời này gặp
thiện duyên, được nghe chánh pháp. Đấy chính
là do thiện căn, phước đức, nhân duyên
xưa kia, [cho nên] có thể tin, có thể hiểu, có thể
nhập, trọn đủ “tín,
giải, hành, chứng”. Quay lại nh́n đông đảo
chúng sanh trong chín pháp giới, nhất là trong lục đạo,
vẫn giống như bản thân chúng ta xưa kia, điên
đảo, lầm loạn [như thế đó]. Nay ta
đắc độ, chẳng cần người khác
đến khuyên dạy, tự nhiên cái tâm từ bi nẩy
sanh tràn trề, tự nhiên giống như chư Phật, Bồ
Tát đến giúp đỡ họ, chẳng có bất cứ
điều kiện nào. Chúng sanh cảm, nói theo cách hiện
thời sẽ là “dao động”. Khởi tâm động niệm,
nay chúng ta nói là “sóng tư tưởng”, dấy lên thiện
niệm, dấy lên một vọng niệm, hoặc khởi
một ác niệm, bất luận ư niệm của quư vị
là chánh hay tà, thiện hay ác, chẳng cần biết, làn sóng
của chúng đều giống nhau. Tốc độ dao
động ấy, ánh sáng chẳng thể sánh bằng, mà
điện năng cũng chẳng thể sánh bằng. Ánh
sáng và điện thua kém nó quá xa! Tốc độ của
ánh sáng và điện rất gần giống nhau, một giây
đi được ba mươi vạn cây số,
nhưng sóng tư tưởng vừa động bèn trọn
khắp pháp giới, ánh sáng và điện làm sao có thể
sánh bằng? Ánh sáng và điện vượt qua Ngân Hà, [nói
theo] hệ Ngân Hà của chúng ta, từ mé bên này, ví như
trong hệ Ngân Hà này, từ mé bên này [đi tới] mé bên kia,
các nhà khoa học bảo: Dùng tốc độ của ánh
sáng, phải mất hai mươi vạn năm! Trong vũ
trụ có vô lượng vô biên Ngân Hà giống như vậy,
sóng tư tưởng của chúng ta vừa dấy động
đă trọn khắp.
V́
thế, trên là khởi cảm ứng với chư Phật,
Bồ Tát: Ư niệm của chúng ta là cảm, Phật, Bồ
Tát bèn ứng. Dưới th́ đồng thời cũng khởi
sự cảm ứng đối với hết thảy
chúng sanh. Trong hết thảy chúng sanh, có yêu ma, quỷ quái, oán
thân trái chủ, đồng thời cũng khởi cảm ứng
với họ. Do đó, trên đường Bồ Đề,
có rất nhiều chướng duyên. Chướng duyên do
đâu mà có? Do trong đời đời kiếp kiếp từ
vô lượng kiếp đến nay, chúng ta đă có va chạm
với hết thảy chúng sanh, do như vậy mà có. Chẳng
có duyên gặp gỡ, sẽ không có chuyện ǵ. Có duyên gặp
gỡ, hễ gặp gỡ bèn phiền phức; chuyện là
như thế đó! Nhưng nếu quư vị thật sự
giác ngộ, thật sự giống như Phật, Bồ
Tát, những hạnh đă tạo thành đều thí cho
chúng sanh, oán thân trái chủ gặp quư vị cũng bội
phục, cũng chẳng nói năng ǵ được! Thiện
duyên th́ họ sẽ ngấm ngầm giúp đỡ quư vị,
làm thần hộ pháp cho quư vị. Ác duyên chúng sanh sẽ chẳng
hại quư vị. Quư vị chẳng có ư niệm tự
tư tự lợi, họ cũng rất tôn kính quư vị.
Nếu thiện căn và phước đức của họ
hiện tiền, họ cũng sẽ biến thành thần hộ
pháp của quư vị.
Nếu
trong quá tŕnh tu hành, quư vị do một niệm
mê hoặc, dấy ḷng kiêu căng, ngă mạn, sẽ giống
như quốc sư Ngộ Đạt đời Đường.
Rất nhiều người trong quư vị biết chuyện
quốc sư Ngộ Đạt: Ngài là vị cao tăng suốt
mười đời, chẳng dễ dàng! Mười
đời đều chẳng mất thân người, lại
c̣n đời đời kiếp kiếp đều có duyên
xuất gia tu hành, làm bậc cao tăng suốt mười
đời. Trong đời thứ mười, do tu hành rất
có thành tựu, làm thầy của đế vương, “quốc sư” là thầy của
đế vương! Hoàng Thượng là học tṛ của
Sư, cúng dường Sư một bảo tọa bằng
trầm hương. Trầm thủy hương khó có lắm!
Người Hoa gọi bảo tọa ấy là “thái sư ỷ” (太師椅, ghế thái
sư), giá trị liên thành[1].
Sau khi Sư nhận lấy, tâm ngạo mạn sanh khởi,
cảm thấy hết sức vinh diệu, ân sủng của
Hoàng Thượng mà! Chẳng phải là cái tâm b́nh thường
nữa, dấy lên một tí tâm ngạo mạn: “Há có ai trong
số những người xuất gia sánh bằng ta?” Do một
niệm ngạo mạn ấy, thần hộ pháp bỏ
đi! Thần hộ pháp chẳng nể t́nh! Quư vị thật
sự có đạo tâm, các Ngài nhất định hộ
tŕ quư vị. Đạo tâm của quư vị sai kém đôi
chút, các Ngài bỏ đi. Thần hộ pháp vừa bỏ
đi, oán thân trái chủ xộc tới, bám vào thân, mọc
ra một mụt ghẻ mặt người, gần như
khiến Sư mất mạng. Dẫu sao, Sư có thiện
căn sâu dầy, là bậc cao tăng mười đời,
cũng là có cảm. Trong tai nạn ấy bèn có cảm, tôn
giả Ca Nặc Ca giúp Sư điều giải (調解, điều
đ́nh, hóa giải). Oán thân trái chủ của Sư cũng
tiếp nhận, rời khỏi, ghẻ mặt người
được lành. Từ Bi Tam Muội Thủy Sám chính là
công án do tôn giả Ca Nặc Ca điều giải cho
Sư, rất đáng cho chúng ta cảnh giác.
Trong
lục đạo, sáu căn của chúng ta tiếp xúc cảnh
giới bên ngoài, chẳng biết khi nào sẽ dẫn phát tập
khí phiền năo của quư vị, sẽ đem lại rắc
rối! Các đồng tu tu hành trong hiện thời, bất
luận tại gia hay xuất gia, tôi thấy những
người bị oán thân trái chủ dựa vào thân cũng rất
nhiều! Thật sự hiểu đạo lư này, tín tâm bất
thoái, tín tâm chẳng trái nghịch, oán thân trái chủ đều
bội phục quư vị, sẽ chẳng t́m quư vị gây
phiền! Chúng ta phải hiểu Lư và Sự này. Sau khi đă
hiểu, không chỉ là chính ḿnh chẳng bị oán thân trái chủ
gây phiền phức, mà cũng có thể giúp đỡ những
người đă bị làm phiền, giúp họ điều
giải, khuyên can những oán thân trái chủ hăy xa ĺa. V́ sao? Sau
khi họ t́m đến, đôi bên đều đau khổ,
oan oan tương báo, khi nào mới có thể hóa giải? Chẳng
thà hiện thời giác ngộ, quay đầu, cùng nhau nghe
kinh, nghe pháp, niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ,
như thế sẽ tốt đẹp hơn! Rất nhiều
oán thân trái chủ nghe xong, đều tiếp nhận; hễ
tiếp nhận, bèn hóa giải. Chính ḿnh phải thật sự
dụng công, phải thật sự nỗ lực. Trong hết
thảy các pháp trên thế gian, chỉ có điều này là thật,
những thứ khác toàn là giả! A! Nay đă hết thời
gian rồi!
***
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời
ngồi xuống. Chúng ta xem tiếp phần Sớ của
Thanh Lương đại sư. Kế đó là “Nhị Thừa thiên ma sở bất
năng động, thiện tri dược bệnh, quyết
đoán vô sai, tức Thập Độ Tề Tu chi Hạnh
dă” (Nhị Thừa, thiên ma chẳng thể lay động,
khéo biết thuốc chữa bệnh, quyết đoán chẳng
sai, đấy chính là Hạnh cùng tu cả mười Độ):
Nhị Thừa, thiên ma chẳng thể lay động, không
phải v́ họ chẳng thể động, mà là do chính
quư vị đă bất động, kẻ khác sẽ chẳng
thể động. Nếu chính ḿnh có nghi hoặc, Nhị
Thừa và thiên ma sẽ có thể động. Nói cách khác, họ
có thể ảnh hưởng quư vị. Một thí dụ rơ
rệt nhất là như ngạn ngữ thường nói: “Dao ngôn chỉ ư trí giả”
(Lời đồn đại bị chặn lại bởi
người trí). Những kẻ b́nh phàm hễ nghe xong,
đều tin theo lời đồn đại, đều
chẳng bỏ công suy nghĩ, cứ tin là thật. Do vậy,
rất dễ làm chuyện sai lầm. Về sau, biết là
mắc lừa, lại do vấn đề thể diện,
chẳng chịu thừa nhận sai lầm của chính
ḿnh! Sai lầm ấy vĩnh viễn trở thành sai lầm
đến cùng! Chuyện như vậy, trong thế gian này,
xưa nay, trong ngoài nước rất ư là nhiều! V́
thế, thánh nhân ca ngợi: “Quá
nhi năng cải, thiện mạc đại yên” (Lầm
lỗi mà có thể sửa đổi, không điều ǵ tốt
lành to lớn bằng). Đó là sự biểu hiện của
đại trí, đại nhân, đại dũng. Biết lầm
lỗi của chính ḿnh, có thể sám hối, có thể nhận
lỗi. Bậc trọn đủ “trí, nhân, dũng” mới
có thể làm được. Làm sai mà chẳng thừa nhận,
cổ thánh tiên hiền nói kẻ đó là tiểu nhân, chẳng
phải là bậc quân tử, chẳng có trí huệ, chẳng
có nhân ái, chẳng có đạo nghĩa! Ba chữ “trí, nhân, dũng” đều chẳng
có!
Xác
thực là trong thế gian này, thánh hiền và quân tử ít ỏi,
phàm phu và tiểu nhân đông đảo! V́ sao thế giới
này gọi là Sa Bà? Chính v́ ư nghĩa này. Trong kinh, đức Phật
thường nói: “Diêm Phù Đề
chúng sanh, cang cường nan hóa” (Chúng sanh trong Diêm Phù
Đề cứng cỏi, khó giáo hóa). May mắn là có những
vị thánh hiền xuất thế ứng hóa trên thế
gian. Trong các vị quốc vương, đại thần,
cũng có rất nhiều vị là Phật, Bồ Tát ứng
hóa hiện đến. Đáng nên dùng thân quốc
vương để độ, bèn thị hiện thân quốc
vương. Đáng nên dùng thân đại thần để
độ, bèn hiện làm đại thần. Quốc
vương, đại thần độ chúng sanh như thế
nào? Hộ pháp. Thích Ca Mâu Ni Phật đem một sự nghiệp
to tát như thế, tức sự nghiệp văn hóa giáo dục
đa nguyên, giao cho ai hộ tŕ? Giao cho những
kẻ b́nh phàm sẽ chẳng đủ sức [để
tích cực hộ tŕ]. Quư vị thấy trong kinh điển
[đă chép rơ]: Đức Thế Tôn khi nhập diệt
đă dặn ḍ hàng quốc vương, đại thần,
những người ấy có quyền, có sức, có thế
lực, họ sẽ hộ tŕ [những vị hoằng
pháp] dễ dàng!
Nền
giáo dục của đức Phật được phát
huy rạng rỡ tại Trung Hoa nhờ vào [sự hộ
tŕ của] đế vương. Hán Minh Đế phái
đặc sứ sang Tây Vực cầu pháp, nghênh thỉnh
cao tăng Ấn Độ là Nhiếp Ma Đằng và Trúc
Pháp Lan, nghênh thỉnh hai vị cao tăng mang tượng
Phật và kinh Phật đến Trung Hoa. Đấy là
đế vương nghênh thỉnh. Trong ấy, cũng có
sự cảm ứng. Trước đó, Minh Đế nằm
mộng, mộng thấy một người thân sắc
vàng. Ngày hôm sau, vua bàn luận chuyện ấy [cùng quần
thần], có một vị đại thần hiểu biết,
tâu: - Thân kim sắc chính là Phù Đồ (Phật)[2].
Phật Đà là phiên âm, [nói gọn là] Phật. Phù Đồ
ở Tây Phương, là bậc thánh nhân ở Tây
Phương. Ông ta tâu: “Điều ấy đúng là một
loại cảm ứng”. V́ thế, hoàng đế hào hứng,
phái người sang Tây Vực nghênh thỉnh. Lịch đại
đế vương đều hộ tŕ [Phật giáo], Hán
Minh Đế dẫn đầu. Do vậy, h́nh thành ảnh
hưởng rộng lớn như thế đó tại
Trung Hoa.
Người
học Phật thuộc các tầng lớp trong xă hội
Trung Hoa rất đông. Người thành tựu cũng rất
nhiều! Thành tựu là kẻ hữu duyên, do duyên chín muồi.
Chẳng thành tựu vẫn là có duyên, nhưng
duyên chưa chín muồi! Người Hoa có duyên với Phật
như thế nào? “Gia gia Quán Thế
Âm, hộ hộ Di Đà Phật” (Nhà nhà Quán Thế Âm, nhà
nhà Di Đà Phật). Đă chín muồi, Nhị Thừa và
thiên ma sẽ chẳng thể động. Người ấy
quyết định thành tựu trong một đời này,
quyết định siêu phàm nhập
thánh. Tối thiểu là có thể thoát ly lục đạo
luân hồi, sanh vào tứ thánh pháp giới, cũng là siêu phàm
nhập thánh. Huống hồ, trong số đó, trải qua các
thời đại, người vượt thoát lục
đạo, vượt thoát mười pháp giới rất
nhiều! Chẳng giả! Văng sanh Tây Phương Tịnh
Độ, sẽ vượt thoát mười pháp giới, đấy
là [cơ duyên thành Phật] chín muồi. Do vậy, người
Hoa ai nấy đều biết có Phật. Biết là có Phật,
tức là trong A Lại Da có chủng tử, sẽ là kẻ
hữu duyên! Bất quá, chủng tử ấy chưa chín muồi;
tuy có chủng tử, nhưng chưa chín muồi. Trong kinh,
đức Phật dạy: “Chủng tử ấy vĩnh hằng
bất diệt”. Chẳng thể xác định là khi nào gặp
duyên, nó sẽ khởi tác dụng. Có người trong một
đời bèn gặp duyên. Có người đến đời
sau, hoặc đời sau nữa. Có người đến
mấy trăm đời, mấy ngàn đời, cho đến
c̣n có người sau mấy đại kiếp mới gặp
cái duyên ấy. Kim Cang chủng tử mà!
Hiện
thời, khoa học kỹ thuật phát triển, chúng ta lợi
dụng điều này để kết pháp duyên. Lợi dụng
mạng Internet, lợi dụng truyền h́nh vệ tinh
(Satellite TV), kết duyên càng rộng! Ai là người có
duyên? Người biết địa chỉ trang nhà (homepage
URL) của chúng ta trên Internet, biết tiếp nhận sóng của
đài truyền h́nh vệ tinh chúng ta th́ chính là người
hữu duyên. Thích xem, thích cùng nhau học tập, hằng
ngày cùng nhau học tập, tín nguyện tŕ danh, cầu sanh Tịnh
Độ, quyết định được văng sanh, chẳng
phí uổng đời này! Thật sự có người
đă thành tựu như vậy. Các đồng học kể
với tôi tin tức này. Họ học tập từ đài
truyền h́nh vệ tinh. Khi học, lại c̣n thật sự
có người phát đại tâm: Không chỉ là chính ḿnh học,
c̣n khuyên người khác học. Tự hành, hóa tha, đoạn
ác, tu thiện, tích lũy công đức, phước chẳng
luống uổng! Do vậy, điều khẩn yếu là
chính ḿnh thật sự tin, khéo hiểu, tận lực thực
hiện. Văng sanh chính là chứng quả.
Chính ḿnh chẳng dao động, Nhị Thừa
và thiên ma sẽ chẳng thể động. Hết thảy
các lời đồn đăi, hủy báng, vũ nhục, hăm
hại, đều là ma đến nhiễu loạn. Chính
ḿnh phải hiểu rành mạch, rơ ràng, chớ nên bị lừa!
Khi ma đến nhiễu loạn, phải làm như thế
nào? Chỉ cần chính ḿnh như như bất động,
chẳng quan tâm đến chúng, chuyện ǵ cũng đều
chẳng có. Hủy báng th́ cứ mặc họ hủy báng,
chớ nên đoái hoài. Hễ bận tâm, sẽ bị lừa!
Chẳng màng tới họ, họ hủy báng đến một
lúc nào đó, [thấy ta] chẳng có phản ứng: [Điều
đó] cũng có nghĩa là những lời lẽ hủy
báng cay nghiệt, dữ dằn của quư vị, tôi chẳng
tiếp nhận, tôi thật sự chẳng nhận lănh. V́ quư
vị chẳng hủy báng trước mặt tôi, tôi không
nghe. Quư vị viết thành văn tự đăng trên tạp
chí, hoặc nhật báo, tôi không đọc. Như vậy
th́ sẽ giống như kinh đă nói: Ở đây, tôi chẳng
tiếp nhận, cuối cùng vẫn trả lại cho chính
quư vị. Đức Phật dạy chúng ta như thế
đó!
Đối
với tất cả hết thảy những lời đồn
đăi, cũng giống như thế, chẳng cần tiếp
nhận. Kẻ chẳng có trí huệ tin tưởng, người
có trí huệ ở bên cạnh trông thấy rơ ràng, rành rẽ
cái nào đúng, cái nào sai. Kẻ hằng ngày chửi bới
người khác, luôn luôn [thấy] người này sai trái, kẻ
kia trật lất. Người bị mắng chửi chẳng
nói một câu nào. Người ấy lỗi lạc thay, có
tu dưỡng, đâm ra được người ta tán
thán: “Người ấy có tu dưỡng, người ấy
có đức hạnh”. Chớ nên [phản ứng trước
những lời khen, tiếng chê], bị kẻ khác sát hại
cũng chẳng oán hận. Chúng ta hăy nhớ xưa kia, Cam
Địa (Gandhi) bị kẻ khác ám sát chết. Trước
khi chết, Ngài dặn một câu: “Đừng truy cứu
hung thủ”. Nhân từ thay! Chẳng truy cứu hung thủ.
Hung thủ là người, hắn có lương tâm, sẽ
ân hận suốt đời: “Tôi đă giết lầm một
người tốt. Giết ông ta, ông ta chẳng hận
tôi. Ông ta chẳng oán hận, ông ta chẳng báo thù”. Thế
gian há có hạng người tốt như vậy ư? Khó
thể gặp gỡ! Tấm ḷng của Cam Địa
như thế đó, yêu thương con người, chẳng
oán hận. Chúng ta biết Ngài chết đi, chắc chắn
sẽ sanh thiên, chẳng đọa ác đạo, [bởi lẽ],
Ngài chẳng có tham, sân, si! Chẳng tham luyến thế gian
này, người khác dùng thủ đoạn độc ác ǵ
đi nữa, Ngài chẳng sân hận, do đă hiểu rành rẽ,
rơ ràng, chẳng ngu si. Ngài sẽ đến nơi đâu? Tối
thiểu là Dục Giới Thiên.
V́
thế, đối với kẻ hăm hại, quư vị chẳng
oán hận th́ sẽ là chánh xác. Nếu quư vị oán hận,
có trả thù, quư vị sẽ vào tam đồ. V́ sao? Chờ
đợi cơ hội báo thù. Oan oan tương báo, chẳng
xong, chẳng hết. Đau khổ lắm thay! Sai lầm mất
rồi! Đó là chẳng liễu giải chân tướng sự
thật. Người liễu giải chân tướng sự
thật, chắc chắn là chẳng có [oán hận, báo thù].
Chúng sanh làm chuyện sai trái là v́ họ vô tri, họ đáng
thương lắm, lẽ nào quư vị c̣n có thể giáng
thêm tội cho họ? Nếu họ là người hiểu
biết, nếu họ là kẻ hiểu chuyện, sẽ chẳng
thể làm như vậy! Nếu chúng ta trách móc họ, chúng
ta cũng biến thành kẻ chẳng hiểu chuyện, có
cùng mức độ như họ. Lỗi ở nơi
chúng ta, chẳng do ai khác, người khác đâu có sai!
Chúng
ta đọc sách thánh hiền, Khổng Mạnh dạy chúng
ta như thế nào? “Hành hữu
bất đắc, phản cầu chư kỷ” (Hễ
có chuyện ǵ chẳng làm được, hăy xét lại
chính ḿnh). Đức Phật dạy chúng ta như thế
nào? Đức Phật dạy chúng ta: “Từ bi làm gốc, phương tiện làm cửa”.
V́ thế, thánh hiền dạy chúng ta chẳng đi sai
đường. Nhất định phải biết: Con
người không phải chỉ có một đời này là
hết, điều này quan trọng hơn bất cứ ǵ
khác. Quư vị có đời trước, có đời sau. Những
ǵ quư vị đạt được trong đời này là
do tu tập trong đời quá khứ, quả báo trong đời
sau do quư vị gây tạo trong đời này. “Dục tri tiền thế nhân,
kim sanh thọ giả thị” (Muốn biết cái nhân
trong đời trước, những ǵ hưởng thụ
trong đời này chính là nó). Những ǵ quư vị hưởng
thụ trong một đời này chính là nó (tức là cái quả),
do cái nhân đă tạo trong đời trước. “Dục tri lai thế quả, kim
sanh tác giả thị” (Muốn biết cái quả trong
đời sau, những ǵ đă làm trong đời này chính
là [cái nhân của] nó). V́ sao chẳng làm lành? V́ sao cứ muốn
làm ác? Người khác đối xử ác với ta, ta dùng
điều thiện để đáp trả, dùng đức
báo oán, nêu gương tốt cho đại chúng trong xă hội,
chớ nên oan oan tương báo!
Người
khác toan xâm chiếm tài vật của ta, cứ cho họ.
Hăy hoan hỷ ban cho họ, chớ nên tranh chấp. Tranh chấp
th́ sai mất rồi! Chúng ta tin tưởng: Trong mạng của
ta có, ta cho kẻ đó; sau đó, sẽ lại có. Trong mạng
chẳng có, chắc chắn là chẳng đạt
được. Có được th́ cũng mất đi rất
nhanh. Trong mạng đă có, dẫu vứt bỏ, cũng chẳng
vứt bỏ được! Quư vị vứt chỗ này,
sau đấy lại có [cái khác] đưa đến. Khi
tôi mới học Phật, Chương Gia đại sư
đă dạy tôi những đạo lư ấy. Tôi tôn trọng
thầy, tin tưởng thầy, chẳng hoài nghi giáo huấn
của thầy, suốt đời y giáo phụng hành. Do
đó, trên đường Bồ Đề, đă hóa giải
khá nhiều tai nạn, đều b́nh an vượt qua. Phải
biết thực hiện như thế nào?
Ngạn
ngữ có câu: “Chẳng nghe lời
người già, bị thua thiệt trước mắt”.
Khổng Mạnh là “người già”, Phật, Bồ Tát là “người
già”. Các Ngài đối với chúng sanh chẳng có mong cầu
điều ǵ! Những hạnh đă tạo thành đều
thí cho chúng sanh. Chúng ta chẳng tin những vị ấy, quư
vị c̣n tin tưởng ai được nữa? Người
thế gian c̣n có phiền năo, c̣n có tập khí, c̣n có tham, sân,
si, mạn, c̣n có tự tư tự lợi, chúng ta chớ
nên hoàn toàn nghe theo lời họ. Thánh nhân chẳng có tự
tư tự lợi, chẳng có tiếng tăm, lợi
dưỡng, chẳng có tham, sân, si, mạn; có thể tin lời
của những vị ấy. Tin tưởng lời các vị
ấy, há chỉ là hàng ngàn, hàng vạn người? Chẳng
có ai không được lợi ích. Người y giáo phụng
hành có phước. V́ thế, câu này rất quan trọng.
Chúng
ta có chân tín, có thiết nguyện (nguyện thiết tha), có
trí huệ chọn lựa. Trong hết thảy các cảnh
giới, đều ǵn giữ giáo huấn của Phật,
Bồ Tát, như như bất động, sẽ chẳng bị cảnh giới bên
ngoài quấy nhiễu. Hăy nên xa ĺa cảnh giới bên ngoài.
V́ sao? Chẳng có ǵ tốt đẹp, chẳng có lợi
ích! V́ thế, suốt bốn mươi năm, tôi chẳng
tiếp xúc radio, TV, nhật báo, tạp chí. Thầy
Phương bảo tôi: “Những thứ ấy toàn là nhiễm
ô!” Khi xưa, tôi ở Đài Loan. Chánh phủ Đài
Loan đề xướng khôi phục nền văn hóa cố
hữu, có một cuộc vận động như vậy.
Có một hôm, tôi đang ở nhà thầy Phương, nhằm
lúc là dường như có ba người là viên chức của
bộ Giáo Dục [viếng thăm]. Họ hết sức
tôn trọng thầy Phương, thỉnh giáo thầy: “Phục
hưng văn hóa Trung Hoa th́ phải làm như thế nào?”
Chuyện ấy do Tưởng Tổng Thống (tiên sinh
Tưởng Giới Thạch) đề xướng, bộ
Giáo Dục chịu trách nhiệm chấp hành. Họ thỉnh
giáo thầy Phương làm như thế nào?
Nghe
xong, thầy Phương rất nghiêm túc, thái độ hết
sức nghiêm túc. Cả hai ba phút chẳng nói ǵ, sau đấy,
mới lên tiếng: “Nếu muốn phục hưng văn
hóa Trung Hoa, trước hết là phải đóng cửa ba
đài TV ở Đài Loan, đóng cửa tất cả các
đài truyền thanh. Nhật báo, tạp chí nhất loạt
đ́nh bản”. Những viên chức ấy nghe nói sững
sờ, lắc đầu thưa với thầy:
“Làm không được!” Sau đó, thầy bèn nói: “Những
thứ ấy hằng ngày phá hoại văn hóa Trung Hoa. Nếu
quư vị muốn phục hưng văn hóa Trung Hoa, trước
hết là phải diệt trừ những thứ phá hoại
th́ mới có thể phục hưng nền văn hóa ấy.
Nếu quư vị chẳng bài trừ những thứ
phá hoại văn hóa Trung Hoa, làm sao quư vị có thể phục
hưng cho được?” Ngày hôm đó, tôi ở bên cạnh
nghe những lời ấy, thầy nói đúng quá, chẳng
làm được! Những lời ấy được
nói từ bốn mươi năm trước, quư vị thấy
cảnh tượng rối beng trong xă hội Đài Loan hiện
thời, đă bị thầy nói trúng phóc mất rồi!
Tôi
nhớ các viên chức ấy c̣n hỏi một số câu nữa.
Trong khi tṛ chuyện, câu hỏi chánh yếu đă hỏi rồi,
trong khi chuyện gẫu, họ bàn luận: “Nước Mỹ
là cường quốc siêu cấp trên thế giới hiện
thời, là cường quốc siêu cấp lớn nhất.
Theo lịch sử ghi chép, La Mă của Âu Châu là cường
quốc bậc nhất trên thế giới cũng bị
tiêu vong”. Họ hỏi: “Trong tương lai,
đương nhiên là nước Mỹ cũng
sẽ bị diệt vong. Nguyên nhân bậc nhất khiến
cho nước Mỹ diệt vong là ǵ?” Chẳng có mảy
may do dự, chẳng suy nghĩ, thầy Phương lập
tức đáp: “TV!” Thuở ấy c̣n chưa có mạng lưới
điện toán, c̣n chưa có Internet, [chỉ có] TV. Thầy
c̣n nói: “Các ông phải cẩn thận. Nếu Đài Loan chẳng
khéo quản lư những phương tiện thông tin, trong
tương lai, sẽ bị thua thiệt bởi chúng”. Tôi
thấy chuyện này hiện thời đă xảy ra rồi!
Đó là ǵ vậy? Đối với giáo dục xă hội,
TV, radio, nhật báo, tạp chí, chính là giáo dục xă hội.
Hằng ngày quư vị dạy dỗ đại chúng trong xă hội,
quư vị dạy những ǵ, họ học những thứ
ấy!
Phương
tiên sinh xác thực là có trí huệ, cụ thấy rất thấu
triệt. Lăo nhân gia cũng không xem những thứ ấy, hằng
ngày đọc sách. Lại nữa, gần như vào lúc tuổi
già, toàn bộ những sách cụ đọc đều là
sách vở của cổ thánh tiên hiền. Sau khi Đại
Tạng Kinh xuất bản, cụ cũng tốn một
khoản tiền rất lớn để thỉnh một
bộ. Lúc tuổi già, cụ thật sự tiến nhập
cảnh giới Phật, cụ dạy học ở trường,
giảng những ǵ? Triết học trong kinh Phật. Tôi biết
tại đại học Đài Loan, cụ từng giảng
về Phật học đời Ngụy - Tấn, Phật
học thời Tùy - Đường. Trong chương tŕnh
tiến sĩ tại đại học Phụ Nhân, cụ
dạy Triết Học của kinh Hoa Nghiêm, mở ra mấy
khóa học với quy mô lớn, nghiên cứu kinh Phật
đến mức độ sâu xa. V́ thế, hễ chính
ḿnh chẳng nhận biết rơ ràng, chẳng có trí huệ, quư
vị sẽ có nghi hoặc, sẽ bị bên ngoài gây chướng
ngại. Đối với ngoại duyên gây chướng ngại,
nhất định là chính ḿnh phải bất động.
Hôm
qua, có một đồng tu từ Thâm Quyến đến hỏi
tôi một vấn đề: Những năm qua, ông ta dạy
lũ trẻ đọc kinh; hiện thời, chẳng thể
dạy nữa. Ông ta bảo chỉ c̣n sót lại mười
mấy đứa trẻ, vốn là [thoạt đầu] có
tới bảy tám chục đứa, hỏi tôi làm như
thế nào? Tôi hỏi ông ta: “Đệ Tử Quy ông có làm
được hay không?” “Không ạ!” Ông chẳng làm
được, làm sao có thể dạy kẻ khác cho
được? Ông đừng coi thường lũ trẻ
là con nít, chúng nó rất thông minh. Ông dạy bảo chúng nó,
chúng nó nhất định suy nghĩ: “Thầy chẳng làm được,
cớ sao thầy dạy tôi?” Về đến nhà, nh́n vào
cha mẹ: “Cha mẹ chẳng làm được, v́ sao bắt
con học?” V́ sao ở Trung Hoa Đại Lục có những
người dạy rất tốt, rất được
hoan nghênh? Chẳng có ǵ khác, chính họ đă làm được.
Những ǵ Thích Ca Mâu Ni Phật lăo nhân gia đă nói trong một
đời, nếu có câu nào Ngài chẳng làm được,
ai sẽ tin tưởng Ngài? Ai sẽ tôn sùng, học theo
Ngài? Khổng Tử suốt đời dạy người
khác, nếu có câu nào Ngài chẳng làm được, người
khác cũng chẳng thể nghe lời Ngài, cũng sẽ chất
vấn Ngài. Do vậy, trong các buổi giảng, tôi đă đề
cập nhiều lần: “Chính ḿnh
thảy đều làm được, sau đấy mới
nói, mới dạy người khác. Đó là thánh nhân. Đă
nói xong, chính ḿnh nhất định sẽ làm được,
đó là hiền nhân. Nói rồi chẳng làm được,
đó là kẻ lừa đảo!” Kẻ lừa đảo
th́ làm sao có thể thành công cho được? Há có đạo
lư ấy! Chẳng thể nào có chuyện đó! Chẳng có
ǵ khác, ông hăy tiếp tục đổ công dốc sức
nơi ba trăm sáu mươi câu trong Đệ Tử Quy
suốt một năm, thực hiện từng câu một rồi
lại mở lớp, sẽ thành công. Nhất định
là trước hết phải cầu nơi chính ḿnh!
“Thiện tri dược bệnh,
quyết đoán vô sai” (Khéo biết cách chữa bệnh,
quyết đoán chẳng sai): “Dược”
(藥) là
phương pháp, “bệnh” (病) là bệnh thái (病態, t́nh trạng
bệnh tật). Hết thảy chúng sanh trong xă hội hiện
thời mắc những chứng bệnh nào, quư vị có biết
hay không? Tự tư, tự lợi là bệnh, một mực
theo đuổi tiếng tăm, lợi dưỡng là bệnh.
Tham cầu hưởng thụ ngũ dục, lục trần
là bệnh. Tham, sân, si, mạn là bệnh. Hoài nghi giáo huấn
của thánh hiền, coi thường hoặc bài xích đều
là bệnh! Đó là bệnh căn! Những chứng bệnh
ấy sẽ cảm ứng thiên tai, nhân họa, phải
dùng phương pháp nào để đối trị? Đạo
chính là thuốc. Chúng tôi đọc đến tám chữ này
(“thiện tri dược bệnh,
quyết đoán vô sai”), tự nhiên liên tưởng đến
niên đại 1970 trong thế kỷ hai mươi, tiến
sĩ Thang Ân Tỷ (Arnold Toynbee) của nước Anh
đă nói: “Muốn giải quyết
những vấn đề xă hội trong thế kỷ hai
mươi mốt, chỉ có học thuyết Khổng Mạnh
và Đại Thừa Phật pháp”. Những vấn đề
trong thế kỷ hai mươi mốt chính là bệnh, học
thuyết Khổng Mạnh và Đại Thừa Phật
pháp là thuốc, “quyết
đoán chẳng sai lầm”, chúng ta không thể chẳng
bội phục!
Đối
với vấn đề này, chúng tôi cũng đă từng
thảo luận rất lâu. Tôi cũng đă từng hỏi
rất nhiều đồng tham đạo hữu: “Lời
ông Thang Ân Tỷ nói có phải là thật hay không?” Quư vị
thấy có bao nhiêu người học Phật trong và ngoài
nước, Đại Thừa Phật pháp có thể giải
quyết ư? Chúng ta là người học Phật, bất
luận tại gia hay xuất gia, Thập Thiện Nghiệp
chẳng làm được, Tam Quy Y chẳng
làm được, Ngũ Giới chẳng làm được,
có thể giải quyết vấn đề hay không? Chẳng
thể! Đối với học thuyết Khổng Mạnh,
trong những năm qua, người học tập học thuyết
của Khổng Mạnh trên thế giới ngày càng nhiều,
Tứ Thư, Ngũ Kinh, mười ba kinh, chỗ nào
cũng có người đang giảng giải, học tập,
có thể dấy lên tác dụng hay không? V́ sao chẳng dấy
lên tác dụng? Ông Thang Ân Tỷ nói sai rồi ư? Tôi khẳng
định: Lời ông Thang Ân Tỷ nói chẳng sai, mà
là do bản thân chúng ta đă làm sai, sai ở chỗ nào? Bản
thân chúng ta chẳng y giáo phụng hành. Đấy chính là
như tôi vừa mới nói, nói được, nhưng làm
chẳng được! Những điều Luận Ngữ
đă nói toàn là đạo lư, nhưng chính ḿnh chẳng làm
được! Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo
nói đạo lư rơ ràng, làm không được th́ chẳng hữu
ích chi cả!
V́
thế, tôi bảo các đồng tham đạo hữu, lời
ông Thang Ân Tỷ đă là chẳng sai, vậy th́ phải bắt
đầu thực hiện từ chỗ nào? Căn bản
của Nho ở nơi đâu? Căn bản của Phật
pháp ở nơi đâu? Điều này giống như cây cối,
hoa cỏ vậy. Tứ Thư, Ngũ Kinh, mười ba
kinh là cành, lá, hoa quả. Kinh luận Đại Thừa cũng
là cành, lá, hoa, quả, dễ coi lắm, nhưng quư vị chẳng
thật sự đạt được! Quư vị hái nó cắm
vào b́nh hoa, rất đẹp, nh́n rất sướng mắt,
hai, ba ngày sau nó chết khô! Hiện thời, chúng ta đối
xử với học thuyết Khổng Mạnh và Đại
Thừa Phật pháp giống như thế đó. Do vậy,
chúng ta nói tới chuyện phải t́m cội rễ, cội
rễ là một thứ sống động. Cội rễ
chẳng phải là đẹp mắt, nhưng sau khi đă
t́m được cội rễ, nó sẽ có thể nẩy
mầm, có thể trưởng thành, có
thể trổ hoa, có thể kết quả.
Cội rễ của Nho gia ở chỗ nào?
Trong giáo dục gia đ́nh, giáo dục luân lư đạo
đức. Quư vị phải nên phát hiện chuyện này:
Trung Hoa từ xưa tới nay coi trọng gia giáo nhất.
V́ thế, tôi nói điểm đặc sắc của giáo dục
Trung Hoa là giáo dục gia đ́nh. Giáo dục trong nhà trường
là tiếp nối của giáo dục gia đ́nh. Giáo dục
xă hội là giáo dục gia đ́nh được mở rộng.
Cho đến giáo dục của Phật giáo chính là giáo dục
đạt tới viên măn. Bốn loại giáo dục (giáo dục
gia đ́nh, giáo dục trong học đường, giáo dục
xă hội, và giáo dục Phật giáo) là nhất quán, là một
Thể. Đức Phật dạy chúng ta: Đại Thừa
Phật pháp nhất định phải nương vào Tiểu
Thừa làm cơ sở. Đức Phật nói rất rơ
ràng: “Chẳng trước là học
Tiểu Thừa, sau học Đại Thừa, chẳng phải
là đệ tử đức Phật”. Người Hoa
hiện thời chẳng học Tiểu Thừa. Trước
kia, người Hoa chẳng học Tiểu Thừa, nhưng
họ học Nho, học Đạo. Bất luận tại
gia hay xuất gia học Phật, đều có cơ sở
giáo dục gia đ́nh rất tốt đẹp, đều
từng đă học Nho và Đạo, Khổng, Mạnh,
Lăo, Trang, họ có cơ sở ấy! Cho nên họ tiến
nhập Phật pháp chẳng có vấn đề ǵ. Tam Quy, Ngũ
Giới, Thập Thiện, người ta thật sự có
thể thực hiện, thật sự có thể giải
quyết vấn đề trong xă hội. Hiện thời, căn
bệnh trong xă hội ngày nay là do thiếu sót những thứ
này. Do vậy, chúng tôi đặc biệt đề xướng
Đệ Tử Quy, đấy là cơ sở của cơ
sở. Trung tâm của Nho gia là hiếu đạo và hiếu
đễ! Cổ nhân nói rất hay: “Nghiêu Thuấn chi đạo, hiếu đễ nhi
dĩ hỹ” (Đạo của Nghiêu Thuấn chỉ là
hiếu đễ mà thôi), “Khổng
Tử chi đạo, nhân nghĩa nhi dĩ hỹ” (Đạo
của Khổng Tử chỉ là nhân nghĩa mà thôi). Phật
pháp là sư đạo, sư đạo nhất định
lấy hiếu đạo làm cơ sở. Chẳng có hiếu,
đễ, nhân, nghĩa, Phật pháp sẽ chẳng thể
sống sót. [Thiếu những thứ ấy], Phật pháp sẽ
là “hữu danh vô thực”, phải
hiểu điều này!
Hiện
thời, Phật pháp suy vi, chúng ta bất luận xuất
gia hay tại gia, đều là h́nh tượng của Phật
pháp, nhưng chẳng có thực chất của Phật pháp,
phải biết như thế! Tam Quy Y là [giáo pháp] nhập
môn truyền trao cho quư vị, về căn bản, [quư vị]
chẳng hiểu Tam Quy Y là ǵ? Tam Quy Y là quư vị vừa vào
Phật môn, liền đem tổng cương lănh, tổng
mục tiêu, và tổng phương hướng của sự
tu học truyền dạy quư vị, hy vọng suốt một
đời, quư vị sẽ có cái để tuân theo, chẳng
đến nỗi đi sai đường! Tam Quy Y là ǵ? Trong
Đàn Kinh, Lục Tổ Huệ Năng đại sư đă
nói rất hay, nói rành mạch, rơ ràng. Quy y Phật, Phật
có nghĩa là giác. Quy y Phật chính là quy y giác, giác chứ
không mê. Nay chúng ta vẫn mê chứ không giác, chẳng có
điều này (tức là chưa thật sự quy y Phật).
Pháp là chánh tri chánh kiến, chánh chứ không tà. Nay chúng ta vẫn
là tà chứ không chánh. V́ thế, chẳng có Pháp! Tăng
nghĩa là thanh tịnh. Sáu căn thanh tịnh, chẳng nhiễm
mảy trần. Nay chúng ta nhiễm chứ không tịnh. Những
ǵ chúng ta đă làm chính là “mê, tà, nhiễm”, Tam Bảo là Giác,
Chánh, Tịnh. Có quy y hay không? Chẳng có!
Do
chẳng có Tam Quy, Ngũ Giới sẽ chẳng làm
được, Thập Thiện chẳng làm được,
Đại Thừa Phật pháp chẳng thể cứu
được căn bệnh của thế kỷ hai
mươi mốt! Chúng ta phải chú ư lời nhắc nhở
của ông Thang Ân Tỷ. Hiện thời, đối với
chuyện tự hành, hóa tha trên toàn thể thế giới,
chẳng phải là đại kinh, đại luận, mà là
những thứ gần gũi, dễ hiểu nhất, tức
là Thập Thiện Nghiệp Đạo, Tam Quy, Ngũ Giới,
người xuất gia c̣n phải học Sa Di Luật Nghi,
chúng ta chẳng cần thực hiện [những pháp cao siêu
ấy nữa, hăy chú trọng] những thứ chướng
ngại này, chúng có thể hóa giải hết thảy xung
đột, có thể khôi phục sự an định và ḥa
b́nh của thế giới, thật sự hữu hiệu!
Làm bắt đầu từ chỗ nào? Bắt đầu
thực hiện từ chính bản thân ḿnh! Ta chẳng làm, sẽ
chẳng thể ảnh hưởng kẻ khác. Ta thật sự
làm được, ta thật sự hiểu rơ, có làm
được th́ mới hiểu rơ. Chẳng làm được,
sẽ vĩnh viễn chẳng thể hiểu rơ! “Nguyện đắc trí huệ
chân minh liễu” (Nguyện được trí huệ thật
sự sáng suốt, hiểu rơ) th́ phải nương vào Hành,
phải làm được! Sau khi đă làm được;
sau đấy, quư vị lại khuyên bảo người
khác, người ta sẽ tin tưởng.
Người
mong học làm người tốt rất nhiều, nhưng
chẳng có một tấm gương tốt. Chúng ta làm
như thế nào để nêu gương tốt cho người
khác trong thế gian, nêu gương tốt về Nho?
Gương tốt của Nho gia chính là Đệ Tử Quy.
Hiện thời, có khá nhiều vấn đề gia
đ́nh, vấn đề xă hội, và vấn đề học
đường, khắp nơi đều có vấn đề.
Chỉ cần liều thuốc này, học Đệ Tử
Quy, vấn đề ǵ cũng đều chẳng có! Nếu
c̣n thêm Thập Thiện Nghiệp, ngay cả cội gốc
của vấn đề cũng đều bị dẹp
trừ, thật sự có lợi ích ấy! Do vậy, ông Thang
Ân Tỷ “thiện tri dược
bệnh, quyết đoán vô sai” (khéo biết thuốc
để chữa bệnh, quyết đoán chẳng sai), chẳng
phải là phàm nhân! Chúng ta nhất định phải hiểu
rơ: Bản thân chúng ta thực hiện, [đó là] tự độ,
tự cứu. Chúng ta giúp đỡ người khác, tức
là độ tha. Chính ḿnh có thể làm được, đó
là thân giáo! Người biết xem, sẽ học thông hiểu.
Kẻ chẳng biết xem, sẽ chẳng hiểu biết.
Người có tâm tư tỉ mỉ, sẽ thấy rơ ràng,
rành rẽ.
Trong
xă hội hiện thời, cạnh tranh kịch liệt. Chúng
ta học theo Khổng Mạnh, Thế Tôn, trong thế gian
này, chúng ta suốt đời chẳng tranh chấp với
kẻ khác. “Ư nhân vô tranh, ư
thế vô cầu” (Chẳng tranh với người, chẳng
cầu nơi đời), cuộc sống sung sướng.
Người hiện thời than văn “áp lực quá nặng”,
chúng ta chẳng có mảy may áp lực nào! Thân thể chẳng
có áp lực, tinh thần chẳng có áp lực, hằng ngày ở
chung với thánh hiền. Bậc thánh hiền đang ở
chỗ nào? Sách vở chính là các bậc thánh hiền. Hằng
ngày đọc sách thánh hiền, hằng ngày nghe lời dạy
của thánh hiền, hằng ngày tư duy thánh hiền, hằng
ngày làm chuyện thuộc hành vi của thánh hiền, lẽ
nào người ấy chẳng sung sướng? Sung sướng
khôn sánh! Tuy chẳng tiếp xúc muôn h́nh muôn vẻ trong xă hội,
cũng như hoàn toàn chẳng ngó tới nhật báo, tạp
chí, TV, các h́nh thức truyền thông, nhưng bất luận
chuyện ǵ, hễ có người nhắc tới, ta đều
biết, chẳng phải là không biết. Chẳng cần tiếp
xúc mà đều biết. Biết như thế nào? Biết
tâm người hiện thời đang nghĩ ǵ? Nghĩ
tưởng chuyện tự tư tự lợi, nghĩ
tưởng tiếng tăm, lợi dưỡng, nghĩ tưởng
hưởng thụ ngũ dục lục trần, tham, sân,
si, mạn. Do vậy, ta biết suy nghĩ của họ, ta
biết việc họ làm, ta cũng biết những ǵ họ
sẽ hứng chịu. Chẳng cần tốn nhiều
tinh thần dường ấy để xem đọc những
tin tức từ các phương tiện truyền thông, chẳng
cần thiết!
Ta
có phương pháp đối trị, họ chẳng có. Họ
chẳng thể tưởng tượng sự sung sướng
của chúng ta! Sự sung sướng của chúng ta là “pháp hỷ sung măn”, là “học nhi thời tập chi, bất
diệc duyệt hồ? Hữu bằng hữu tự viễn
phương lai, bất diệc lạc hồ? Nhân bất
tri nhi bất uấn, bất diệc quân tử hồ?”
(Học rồi tu tập, cũng chẳng vui sao? Có bạn
bè từ phương xa đến, cũng chẳng sướng
sao? Kẻ khác chẳng biết mà chính ḿnh chẳng giận,
cũng chẳng phải là quân tử ư?). Họ chẳng
thể hiểu “Khổng Nhan
chi lạc”, tức là niềm vui của Khổng Tử,
Nhan Hồi! Chẳng tranh với người, chẳng mong
cầu nơi đời, an phận thủ thường. Họ
sống trong đời loạn, ta ở trong đời thịnh
trị thái b́nh. Họ loạn, ta chẳng loạn!
Đoạn
này nói về hạnh cùng tu Thập Ba La Mật, chúng ta
thường nói Lục Độ Tứ Nhiếp, ở
đây nói là “thập độ
tề tu” (mười độ cùng tu). Điều ấy
thuộc vào một trăm bốn mươi mốt nguyện
này, những nguyện ấy chính là Đệ Tử Quy của
hàng Pháp Thân Bồ Tát. A! Đă hết thời gian rồi!
Tập 1466
Chư vị
pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi
xuống. Chúng ta xem tiếp đoạn thứ tư là Giải
Phương (解妨,giải
trừ những điều chướng ngại) trong phần
năm môn phân biệt của [Hoa Nghiêm Kinh Sớ dành cho] phẩm
Tịnh Hạnh. Phần trước nói về “hạnh cùng tu mười độ”,
phần kế đó chính là hạnh Tứ Hoằng Thệ
Nguyện. Chúng ta xem đoạn kinh văn này.
(Sớ) Hựu
giai nguyện lợi sanh, giai thành Phật đức, kiến
ác tất linh kỳ đoạn, kiến thiện tất
linh kỳ cụ, tức Tứ Hoằng Thệ Nguyện
chi hạnh dă.
(疏)又皆願利生,皆成佛德,見惡必令其斷,見善必令其具,即四弘誓願之行也。
(Sớ: Lại
nữa, đều nguyện lợi lạc chúng sanh, đều
thành Phật đức, thấy điều ác, ắt làm
cho nó đoạn, thấy điều thiện, ắt làm
cho nó trọn đủ. Đấy chính là hạnh Tứ Hoằng
Thệ Nguyện).
Tứ Hoằng
Thệ Nguyện là tổng cương lănh trong Hạnh Môn
của chư Phật, Bồ Tát, các đồng học
đều biết hết sức rơ ràng, miệng thường
xuyên niệm, niệm đă làu làu rồi! “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, phiền
năo vô tận thệ nguyện đoạn, pháp môn vô lượng
thệ nguyện học, Phật đạo vô thượng
thệ nguyện thành”. Đó là Tứ Hoằng Thệ
Nguyện. Hết thảy chư Phật đều
nương theo cương lănh này để tu thành Phật,
hết thảy Bồ Tát không vị nào chẳng
nương theo [tổng cương lănh này] để tu
hành. V́ thế, nó là tổng phương
hướng, tổng mục tiêu, và tổng cương lănh
trong Hạnh Môn. Trong các buổi giảng, chúng tôi đă giảng
rất nhiều lượt, có cần phải giảng nữa
hay không? Cần chứ! V́ sao? Chẳng làm được.
Giáo
học Phật pháp và giáo học Nho gia xác thực là khác
nhau. Giáo học của Phu Tử là “cử nhất ngung, bất dĩ tam ngung phản”
(nêu ra một góc mà chẳng thể suy ra ba góc kia), Phu Tử
sẽ không dạy, ngươi quá ngu ngốc! Phật pháp khác
hẳn, Phật pháp thật sự là từ bi đến tột
bậc, “từ bi làm gốc,
phương tiện làm cửa”, nói hay quá! Phật pháp chẳng
sợ phiền phức, chẳng sợ trùng lặp, v́ sao? Đức
Phật biết căn tánh của hết thảy chúng sanh,
tập khí phiền năo quá ư là sâu, chẳng nhắc đi
nhắc lại vô số lần, sẽ chẳng cảnh tỉnh
được! Khi quư vị nói, họ gật đầu,
họ nghe thấy rất đúng, chớp mắt đă quên
tuốt, cảnh giới hiện tiền vẫn do phiền
năo làm chủ. Bản thân họ có biết hay không? Không biết!
Quư vị bèn hiểu tập khí phiền năo nghiêm trọng
dường ấy! Khi nào trong hết thảy các trạng
huống và cảnh duyên, quư vị đều có thể dấy
lên sự giác quán, tức là “công
phu quán chiếu” như Tông Môn đă nói, chúng ta thường
nói là “dấy tâm cảnh giác”,
công phu mới có thể đắc lực. Chẳng dấy
ḷng cảnh giác, công phu của quư vị chẳng có cách nào
đắc lực. Do vậy, hữu ư hoặc vô ư thường
nổi nóng. Do nguyên nhân ǵ? Đức Phật đă nói rất
hay: Tập khí Kiến Tư, Trần Sa, Vô Minh phiền năo
quá nặng!
Do
vậy, khá nhiều kinh điển trong giáo pháp Đại
Thừa đều nói: “Chúng
sanh Diêm Phù Đề cứng cỏi, khó giáo hóa”, không phải
chỉ riêng kinh Địa Tạng [nói như thế]. Phải
biết Sự và Lư này. Sau khi đă biết, chính quư vị sẽ
biết xử lư như thế nào? Đối trước
chúng sanh ương ngạnh khó giáo hóa, người thật
sự học Phật có thể thông đạt, lư giải Phật
pháp, [sẽ cảm nhận] hoàn cảnh là tốt hay xấu?
Tốt chứ! Chẳng phải là không tốt. Đúng
như trong kinh đức Phật đă dạy: “Tu hành trong thế giới Sa Bà một
ngày bằng tu hành một trăm năm trong thế giới
Cực Lạc”. Quư vị nói xem: Thế giới Sa Bà có tốt
đẹp hay không? Tốt lắm! V́ sao tu hành trong thế
giới Sa Bà có công đức và lợi ích thù thắng
như vậy? Trong cơi này, có nhiều nghịch cảnh.
Trong nghịch cảnh mà quư vị có thể tu đến mức
như như bất động, trong thuận cảnh
cũng tu như như bất động, quư vị đă
thành công. Hễ gió cảnh giới bên ngoài vừa động,
quư vị chịu không nổi, đến ngày nào quư vị mới
có thể thành công?
Những
kẻ tu hành b́nh phàm luôn mong mỏi t́m được một
hoàn cảnh thanh tịnh, [t́m được] một nơi
chẳng có phiền năo, chẳng có chướng ngại.
Quư vị hăy ngẫm xem: Quư vị có phước báo to cỡ
nào th́ mới có thể t́m được một nơi
như vậy? Nói thật thà, Thích Ca Mâu Ni Phật c̣n t́m chẳng
được! Từ kinh giáo, chúng ta thấy, thuở
đức Phật tại thế, bên ngoài có lục sư
ngoại đạo[3] quấy
nhiễu, phê b́nh, hủy báng, chướng ngại các học
tṛ, khiến cho các môn đồ mất tín tâm đối với
đức Phật. Đó là hoàn cảnh bên ngoài. Trong th́ có Lục
Quần tỳ-kheo[4], tức
là những học tṛ chẳng vâng lời, khuấy rối
trong Tăng đoàn, gây chuyện rắc rối. Oai đức
của Phật to lớn [mà c̣n gặp nghịch cảnh
như thế]. Dẹp yên họ, đă dẹp yên rồi họ
lại khuấy rối tiếp. Đấy cũng là Thích
Ca Mâu Ni Phật v́ chúng ta thị hiện.
Đức
Phật tại thế, trong Tăng đoàn c̣n là như vậy,
huống ǵ đời sau, huống hồ hiện thời lại
là thời kỳ Mạt Pháp! Nếu muốn trong Tăng
đoàn không có ai quấy rối, há chẳng phải là
phước báo c̣n to hơn Thích Ca Mâu Ni Phật ư? Chẳng
thể nào có chuyện đó được! Nếu muốn
trong Tăng đoàn chẳng có kẻ nào tới quấy rối,
chỉ có một cách: Chẳng cần lập Tăng
đoàn, ta tu một ḿnh tại gia th́ được! Một
người tu tại gia, cũng có lẽ c̣n có người
nhà quyến thuộc của quư vị kiếm chuyện làm
phiền! Quư vị nghĩ xem: Lắm nỗi khó khăn ngần
ấy! Những khó khăn ấy quư vị đều có thể
khắc phục, cho nên công phu tu hành của quư vị vượt
trỗi [công phu tu tập trong] thế giới Cực Lạc!
V́ sao? Thế giới Cực Lạc chẳng có những nỗi
phiền phức ấy, toàn là “các
vị thượng thiện nhân nhóm họp cùng một chỗ”.
Trong ấy, chẳng có kẻ t́m đến gây phiền phức,
chẳng có kẻ nào bất thiện. Do vậy, người
ấy tiến bộ chậm chạp, phiền năo tập
khí chẳng dễ dàng tiêu trừ. Thế giới Sa Bà có lắm
kẻ gây phiền phức, [cho nên] tiêu nghiệp chướng
nhanh chóng. Vấn đề ở chỗ nào? Quư vị phải
nhận biết.
Đạo
tràng nào cũng đều chẳng phải là ngoại lệ!
Tôi thân cận ba vị thầy. Tiên sinh Phương Đông
Mỹ là giáo sư đại học, người hủy
báng thầy rất nhiều, người phê b́nh thầy
cũng rất đông. Họ nói ngay trước mặt
tôi. Hơn nữa, c̣n có kẻ phê b́nh là đồng
hương, cùng là người huyện Đồng Thành
(thuộc tỉnh An Huy), hiểu biết trạng huống
gia đ́nh của thầy rất rơ ràng, dấy lên rất
nhiều chuyện thị phi. Tôi nghe nói, tâm có dao động
hay không? Hễ dao động, ai bị thua thiệt? Chính
tôi bị thua thiệt! Điều ǵ cũng đều chẳng
học được! Sau khi tôi nghe xong, như như bất
động. Chúng ta phải hiểu rơ lư này: Dẫu kẻ
khác nói Phương tiên sinh đủ thứ sai trái, tối
thiểu là [nói về] Phương tiên sinh hai mươi
năm trước, tôi cũng không quen biết [thầy thuở
đó]. Anh quen biết thầy ở quê nhà, tôi chẳng quen
biết! Hai mươi năm sau, cổ nhân nói: “Sĩ” (士) là người đọc
sách, “sĩ cách tam nhật, quát
mục tương khán” (kẻ sĩ cách biệt ba ngày,
phải dụi mắt nh́n). Người ấy đọc
sách mỗi ngày, dụng công mỗi ngày, sửa lỗi mỗi
ngày, những tập khí không tốt trước kia nay đều
sửa đổi cả! Đă sửa đổi, nhưng
quư vị chẳng biết, quư vị chẳng tiếp xúc thầy.
Tôi học tập với thầy, mỗi tuần gặp mặt
thầy, thường xuyên gặp mặt, những điều
quư vị đă nói tôi chẳng nhận thấy nơi thầy.
Phải hiểu đạo lư này!
Kẻ
ác có thể biến thành người tốt, người tốt
có thể biến thành người xấu, đích thân chúng
tôi đă kinh nghiệm. Người thân cận quanh ḿnh
trước kia hết sức tốt đẹp, sau khi bị
người khác “đâm bị thóc, chọc bị gạo”, ngay lập
tức thay đổi thái độ, biến thành kẻ cừu
địch. Trong tâm chúng tôi biết rơ, chúng tôi bị oan uổng,
người đó chẳng biết. Đến khi người
ấy đă biết, người ấy cũng hối hận.
Tuy hối hận, chẳng buông thể diện xuống
được, chẳng muốn gặp mặt tôi. Tôi rất
muốn gặp mặt người ấy, người ấy
cự tuyệt, chẳng bỏ thể diện được!
Những chuyện này đều là do có phiền năo tập
khí. Thầy Lư có kẻ hủy báng cụ, Chương Gia
đại sư cũng có kẻ hủy báng Ngài, trước
nay, tôi chẳng dao động, chỉ có một ḷng tôn
sư trọng đạo, chúng ta mới có thể học
được này nọ. Tổ Ấn Quang đă nói rất
tuyệt: “Một phần thành
kính được một phần lợi ích, mười phần
thành kính được mười phần lợi ích”.
Dẫu
đời này chúng ta làm điều tốt cách mấy
đi nữa, trước khi chúng ta học Phật, có tạo
ác nghiệp hay không? Có! Trong đời đời kiếp
kiếp quá khứ, có tạo ác nghiệp hay không? Có quá
đáng với người khác hay không? Chúng tôi tin tưởng,
khẳng định là có, rất ư là nhiều, vậy
th́ được rồi! Nay chúng ta mong học tốt
đẹp, những oán thân trái chủ trong quá khứ và
đời này sẽ đến chướng ngại, tới
gây phiền phức. Đó là lẽ đương nhiên! Họ
đến nhiễu loạn đạo
tràng, đến hủy báng sư phụ của chúng ta, hủy
báng pháp môn của chúng ta, chúng ta hiểu rơ: Họ đến
báo oán, đến gây chướng ngại. Chỉ cần bản
thân ta như như bất động, sẽ chẳng phá
hoại tín tâm, chẳng phá hoại nguyện tâm, chẳng
phá hoại sự học tập của ta, mà ngược
lại, sẽ khiến cho ta tiến bộ càng nhanh hơn.
Đối với những kẻ bịa chuyện, sanh sự
hủy báng, ta càng cảm kích họ. V́ sao? Họ giúp chúng ta
tăng tốc độ [tiến bộ], tiến cao
hơn!
Do
vậy, Ngẫu Ích đại sư đă nói rất hay: “Cảnh duyên không tốt, xấu”.
Thuận cảnh, nghịch cảnh, thiện duyên, ác duyên đều
b́nh đẳng, chẳng có tốt, xấu. “Tốt xấu do tâm sanh”. Chính quư vị phải
gánh trách nhiệm. Thị phi, thiện ác là do chính ḿnh sanh
tâm. Chính ḿnh dùng thiện tâm đối đăi, sẽ toàn là
cảnh giới tốt đẹp. Chính ḿnh dùng cái tâm bất
hảo để đối đăi, sẽ đều là cảnh
giới bất hảo! Nói cách khác, nơi người ta là
cảm, chúng ta ứng như thế nào? Nếu quư vị hiểu
đạo lư này, tu hành trong thế giới Sa Bà, sẽ tiến
bộ rất nhanh, khẳng định là sẽ vượt
trỗi thế giới Cực Lạc. Chẳng hiểu
đạo lư này, đối với thuận cảnh, thiện
duyên, sẽ sanh tâm hoan hỷ, đối với nghịch cảnh
ác duyên, sanh tâm sân khuể, chắc chắn là quư vị sẽ
đọa lạc. Sanh hoan hỷ là sanh tâm tham. Sanh tâm sân khuể
tức là khi cảnh giới bên ngoài đưa đến,
quư vị sẽ sanh cái tâm ǵ? Sanh tham, sân, si. Quư vị
tăng trưởng tham, sân, si, chẳng tăng trưởng
Giới, Định, Huệ. Tham, sân, si tương phản
Giới, Định, Huệ. Chẳng bị cảnh giới
bên ngoài dao động, vẫn y như cũ đúng pháp tu học,
chẳng bị quấy nhiễu chút nào, Giới, Định,
Huệ của quư vị sẽ tăng trưởng, tăng
trưởng trên mức độ rộng lớn. V́ thế,
cảnh duyên bên ngoài thật sự chẳng có tốt hay xấu.
Có người ở trong trạng huống ấy bèn tăng
trưởng Giới, Định, Huệ với mức
độ to lớn, có người tăng trưởng tham,
sân, si ở mức độ to lớn, quả báo chẳng
giống nhau! Bởi lẽ đó, cảnh duyên đúng là chẳng
có tốt hay xấu, tốt xấu ở nơi tâm, chúng ta
dùng tâm thái nào để đối với người,
đối với sự, đối với vật?
Tôi học Phật
đă nhiều năm ngần ấy. Hơn hai mươi
năm trước, ở Mỹ, đă viết một
đôi câu đối như thế này, nay đang treo trong Phật
đường, đấy chính là tâm đắc học Phật
của tôi. Chúng ta dùng cái tâm ǵ để đối với
người, đối với sự, đối với vật?
“Chân thành, thanh tịnh, b́nh
đẳng, chánh giác, từ bi”. Dùng thái độ ǵ
để xử thế? “Khán phá,
phóng hạ, tự tại, tùy duyên, niệm Phật” (Nh́n
thấu, buông xuống, tự tại, tùy duyên, niệm Phật).
Quư vị hỏi về sự tu học của tôi ư? Sự
tu học của tôi là hai mươi chữ ấy. Học Phật
năm mươi bốn năm, chẳng ĺa khỏi hai
mươi chữ ấy. V́ thế, gặp bất cứ cảnh
giới nào, tôi đều có thể chuyển. “Chuyển”
th́ công phu cao hơn chịu đựng, nhường nhịn
một bậc. Chịu đựng, nhường nhịn
th́ quư vị hăy c̣n chấp tướng, c̣n đang chế
phục phiền năo, c̣n đang đè nén. Khi chuyển, sẽ
là chuyển biến, chuyển ác thành thiện, chuyển mê thành
ngộ, chuyển phàm thành thánh, chuyển cảnh giới. Hai
mươi chữ ấy là điểm chuyển đổi
của tôi, vĩnh hằng bất biến.
“Thấy thấu suốt, buông xuống”
là do Chương Gia đại sư dạy, “thanh tịnh, b́nh đẳng,
giác” được dạy trong tựa đề kinh Vô
Lượng Thọ. Thầy Lư cho tôi bộ kinh ấy, tôi
có sứ mạng phổ biến, hoằng dương kinh ấy.
Trong quá khứ, có khá nhiều ư kiến phản đối
bản hội tập, tôi đă nói rơ ràng: Ư nghĩa thật
sự chẳng phải là phản đối bản hội
tập, mà là phản đối pháp sư Tịnh Không, tôi
hiểu rất rơ. Bất luận là lời lẽ, bất
luận là văn tự [chỉ trích], tôi đều chẳng
quan tâm, chẳng có phản ứng. Hủy báng th́ cứ mặc
cho họ nói, thích nói sao th́ cứ nói vậy, quyết chẳng
trả treo một câu nào! Về mặt văn tự, tuy quư
vị viết này nọ trên tạp chí, nhật báo, quư vị
thích viết bao nhiêu cứ viết bấy nhiêu, tôi chẳng
phản bác một chữ nào. Hai ba năm sau, sẽ tự
nhiên chẳng có chi nữa, tốt lành thay! Cái tâm thanh tịnh
trong sự tu học của bản thân chúng tôi chẳng bị
họ lay động, sóng to gió cả chẳng ăn nhập
ǵ đến tôi. Hằng ngày, tôi vẫn đọc kinh, vẫn
giảng kinh. Trong các đồng học, có vị nghe [những
lời chỉ trích] bèn dấy ḷng bất b́nh, đến
nói với tôi. Tôi khuyên bảo họ: Hăy nên tâm b́nh khí ḥa, “oan gia nên giải, chớ nên kết”,
chớ nên kết oán cùng kẻ khác. V́ vậy, người
ta chửi th́ cứ để cho họ chửi miết. Chửi
mệt rồi họ sẽ không chửi nữa. Họ muốn
đánh cứ mặc cho họ đánh, chẳng cần
đánh lại. Đánh tới khi mỏi tay, họ sẽ
chẳng đánh nữa! Như vậy th́ họ sẽ chẳng
chửi, mà cũng chẳng đánh được, thiên hạ
thái b́nh. Đấy chính là phương pháp hóa giải oán
đối.
Nếu
đạo tràng của chúng ta có kẻ như thế đến
nhiễu loạn, kẻ ấy muốn chửi bới, cứ
để cho hắn chửi. Cứ để mặc hắn,
chúng ta hăy khéo niệm Phật. Kẻ ấy chửi mệt
rồi, tự nhiên sẽ bỏ đi. Đến chửi
mấy lần đều chẳng có hiệu quả ǵ, kẻ
ấy sẽ chẳng đến nữa. Chớ nên căi lộn
với kẻ ấy, càng căi cọ, càng thêm khúc mắc! Sau
khi căi vă, cảnh sát ở bên ngoài tới, kư giả báo chí
t́m tới, h́nh tượng đạo tràng của chúng ta bị
phá hoại, người bị tổn thất thật sự
là chúng ta, kẻ đó chẳng bị tổn thất!
Nhưng chúng ta bỏ mặc đó, chẳng quan tâm tới,
mặc kệ các ngươi muốn làm sao th́ làm! Chửi
cũng chẳng căi lại, bị đánh cũng không đập
trả, dường như là chúng ta bị thua thiệt
đôi chút. Trên thực tế là chiếm đại tiện
nghi. Truyền ra ngoài, [người ta sẽ nói]: “Người
trong đạo tràng ấy có tu dưỡng. Người
trong đạo tràng ấy là người tốt”, người
bên ngoài tán thán quư vị. Mọi người từ bên ngoài
sẽ đến chỗ quư vị học tập. Ở chỗ
quư vị thật sự có đạo!
Đức
Phật dạy người tu hành đừng nói dối, chẳng
nói đôi chiều, chẳng ác khẩu, chẳng nói thêu dệt,
phải làm được [những điều trên đây]
th́ mới được. Đối với thiện nhân
là như thế, mà đối với ác nhân cũng là như
thế. Ở đây, đức Phật dạy chúng ta, hoàn
toàn chẳng phải là “quư vị đối với thiện
nhân bèn chẳng nói dối, chẳng nói đôi chiều, chẳng
nói thêu dệt, chẳng ác khẩu, c̣n đối với kẻ
ác th́ có thể [làm như vậy]”. Ngài chẳng nói như thế.
Đă là chẳng nói như thế, tức là đối với
hết thảy mọi người, nam, nữ, già, trẻ,
các nghề nghiệp, thiện nhân, ác nhân, đều b́nh
đẳng như nhau, đều dùng thiện tâm thiện
ư để đối đăi, tức là quư vị chẳng
sai. Như vậy th́ mới có thể đoạn phiền
năo của chính ḿnh, mới có thể phổ độ chúng sanh.
V́
đối với những chuyện này, chúng tôi học Phật
trong nửa thế kỷ qua, đă gặp rất nhiều.
Khá nhiều đồng tu chẳng biết xử lư như
thế nào, cảm thấy rất ưu lự, rất phiền
năo! Thật ra, [những nỗi phiền năo ấy] chẳng
có! Nếu chúng ta ưu lự, phiền năo, chúng ta đă bị
lừa, v́ sao? Họ đă đạt mục đích. Nếu
[chúng ta coi như] chẳng có những chuyện ấy, hết
thảy hành vi của kẻ đó chẳng khởi tác dụng. Chẳng khởi tác dụng, họ
sẽ không làm. Chính họ cũng biết chuyện ấy
chẳng phải là chuyện tốt đẹp, họ hy vọng
sẽ có thể đạt được hiệu quả,
thế mà chẳng có hiệu quả, họ c̣n thực hiện
để làm ǵ? Chẳng làm!
Chúng
ta đọc sách hiểu lư, nhất định phải hiểu:
Đoạn phiền năo từ trong cảnh giới là thật
sự đoạn. Chẳng khảo nghiệm bằng cảnh
giới, quư vị nói phiền năo của chính ḿnh đă nhẹ
nhàng, nh́n từ chỗ nào đây? Nh́n chẳng ra! Quư vị nói
trí huệ của quư vị tăng trưởng, cũng chẳng
nh́n ra. Đều là từ trong cuộc sống hằng
ngày, xử sự, đăi người, tiếp vật, mới
thật sự biết công hạnh của chính ḿnh đă đạt
đến giai đoạn nào? Có tăng tấn hay không? Mấy
năm trước, gặp chuyện ấy sẽ nổi
cáu; nay gặp những chuyện này, tâm b́nh khí ḥa, chẳng
nổi cáu, cho thấy quư vị có tiến bộ. Đối
với những kẻ t́m đến gây phiền, quư vị
sẽ tự nhiên rất khách sáo, đối đăi cung kính
với kẻ ấy. V́ sao? [Những người ấy
chính là] thầy đến khảo thí, kiểm xem công phu của
ta có tiến bộ hay không. Không chỉ chẳng oán hận
những kẻ ấy mà c̣n cảm tạ! Đều là lời
thật, cảnh giới của chính ḿnh tăng tấn trên
một mực độ lớn. Dẫu văng sanh tôi chẳng
dám nói là nắm chắc, nhưng sanh lên trời, khẳng
định là nắm chắc, chẳng có mảy may nghi hoặc
nào! Đă có điều kiện sanh thiên, đối với
Tịnh Tông mà chân tín, thiết nguyện, nhất tâm tu học,
quư vị sẽ thật sự nắm chắc văng sanh Tịnh
Độ, chẳng hoài nghi mảy may!
Đă
văng sanh Tây Phương Tịnh Độ, thân cận A Di
Đà Phật, chư thượng thiện nhân là đồng
tham hảo hữu của chúng ta. Sống trong thế giới
này chẳng lâu, ta sẽ rời đi, c̣n so đo với những
kẻ kiếm chuyện gây phiền phức trong thế giới
này nữa hay không? Chẳng cần nữa! Bất luận
kẻ kiếm chuyện gây phiền phức to lớn cỡ
nào, quư vị cũng đều chẳng so đo, sẽ là
tâm b́nh khí ḥa. Quư vị c̣n ham hố thế giới này, chứ
tôi ngay lập tức sẽ ra đi. Dẫu người
đó giết tôi, tôi hết sức cảm kích người
đó. V́ sao? Người đó khiến cho tôi ra đi ngay lập
tức, đúng là đưa tôi sang thế giới Cực Lạc.
Nếu không, tôi c̣n phải ở lại đôi ba năm.
Người ấy giết tôi chết, tôi lập tức ra
đi. Chẳng có mảy may tâm oán hận, chẳng có mảy
may ư niệm báo thù, quư vị mới có thể văng sanh. Nếu
quư vị oán hận, muốn báo thù, thôi rồi, quư vị vẫn
đọa trong tam đồ, sau đấy, t́m cơ hội
để báo thù. Sai mất rồi! Cơ hội làm Phật
trăm ngàn vạn kiếp khó gặp, há nên dễ dăi vứt
bỏ? Đó là nghiệp chướng sâu nặng, thật
sự sai lầm!
Do
vậy, học Phật th́ chúng ta nhất định phải
chuyển ư niệm, đó là chuyện cơ bản! Đối
với chuyện dạy học, tôi đă nói với khá nhiều
người theo đuổi công tác giáo dục. Tại đại
học, tôi đă bảo nhiều vị giáo sư: “Người
tiến hành công tác giáo dục, tín niệm đầu tiên là phải
khẳng định con người tánh vốn lành”. Trong
Tam Tự Kinh có nói: “Nhân chi
sơ, tánh bổn thiện” (Con người thoạt
đầu, tánh vốn lành), quư vị mới có tư cách tiến
hành công tác giáo dục. Con người tánh vốn lành, v́ sao
trở thành bất thiện? Họ chẳng được
giáo dục tốt đẹp! Tiếp đó, Tam Tự Kinh
nói: “Tánh tương cận, tập
tương viễn” (Tánh th́ giống nhau, do huân tập
mà khác nhau). “Tánh tương cận”
là do Khổng Tử nói. “Tập”
(習) là tập
quán (習慣, thói quen). Thói
quen không tốt khiến cho họ dần dần xa ĺa bản
tánh của chính ḿnh (bản tánh vốn là thiện), bị cảnh
giới bên ngoài ảnh hưởng, học theo những
điều chẳng lành. Đạo lư là như thế
đó.
Giáo
dục được kiến lập là v́ chuyện này. Cổ
thư đă ghi chép: Thời Nghiêu - Thuấn, chánh trị
được thực hiện tốt đẹp. Vua
Nghiêu, vua Thuấn đều là những vị vua nhân đức,
giáo hóa dân chúng, khiến cho dân chúng đều có thể no
cơm ấm áo, xă hội an định, thiên hạ thái
b́nh. Nhưng nếu chẳng dạy bảo những người
ấy, họ suốt ngày ăn no chẳng làm ǵ, có khác ǵ cầm
thú? V́ thế, mới ủy nhiệm ông Khế[5]
(Khế (契) là một
người, là tên của một người) làm Tư
Đồ. Tư Đồ (司徒) là một chức quan của
chánh phủ, chưởng quản chuyện dạy học.
Đấy chính là khởi đầu của chuyện thiết
lập một chức vụ chuyên quản lư giáo dục, giống
như bộ Giáo Dục của quốc gia hiện thời.
Vào thời cổ ở Trung Hoa, trong thời đại
Nghiêu - Thuấn, chánh phủ đă lập ra một quan chức
chuyên môn trông coi giáo dục. Dạy những ǵ? Dạy luân
lư đạo đức, cũng là dạy quư vị phải
biết mối quan hệ giữa con người với
nhau, quan hệ giữa con người và hoàn cảnh tự
nhiên, quan hệ giữa con người và thiên địa,
quỷ thần. Quư vị hiểu rơ những mối quan hệ
ấy, xử lư các mối quan hệ tốt đẹp, gia
đ́nh ḥa thuận, quốc thái dân an, mục đích đă
đạt được. Hết thảy những kỹ
thuật khác đều là chuyện nhỏ nhặt, con
người là căn bản. Do vậy, giáo dục Trung Hoa
là giáo dục nhân bản, là giáo dục thánh hiền. Ai nấy
đều là thánh hiền, ai nấy đều là người
tốt, ai nấy đều biết “hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư
trưởng”, ai nấy đều biết tôn trọng
người khác, kính yêu người khác, hỗ trợ hợp
tác.
Giáo
dục cận đại Tây phương thiên trọng khoa
học, kỹ thuật. Khoa học kỹ thuật là giáo học
trên phương diện sự vật, sơ sót nhân bản.
Khoa học kỹ thuật phát triển, ngày càng tiến bộ,
quan hệ giữa con người với nhau ngày càng xa lạ,
thậm chí cha con tương tàn, thường nghe nói tới
chuyện ấy. Anh em tàn sát lẫn nhau, tṛ giết thầy,
bạn học giết nhau, thường xuyên nghe nói, đă
chẳng c̣n là tin [sốt dẻo] đáng cho báo chí quan tâm nữa!
Đấy chính là như Nghiêu - Thuấn đă nói: “Chẳng có giáo dục luân lư, con
người ngay cả súc sanh cũng chẳng bằng!”
Từ mấy ngàn năm trước, đă thấy
được chân tướng sự thật này. V́ vậy,
lịch đại đế vương chẳng có ai không
coi trọng giáo dục, đề xuất “kiến quốc, quân dân, giáo học vi tiên” (kiến
thiết đất nước, cai trị nhân dân, giáo học
làm đầu). Để quốc gia b́nh trị, làm thế
nào để xă hội có thể an định? Làm thế
nào để quốc gia hưng thịnh (vận nước
tốt đẹp), cậy vào đâu? Cậy vào giáo dục.
Chẳng phải là cậy vào pháp luật, chẳng phải
là cậy vào cảnh sát, mà cậy vào giáo dục. Trong tổ
chức chánh phủ vào thời cổ, giáo dục xếp hạng
thứ nhất. Dưới Tể Tướng là lục bộ,
bộ thứ nhất là bộ Giáo Dục. Thời cổ,
không gọi là bộ Giáo Dục mà gọi là Lễ Bộ. Lễ
Bộ Thượng Thư chính là bộ trưởng Giáo Dục.
Trong lục bộ, ông ta lớn nhất. Những thiết
chế này đă ban cho đời sau, đặc biệt là
người hiện thời, một sự khải thị
rất lớn.
Gia
đ́nh coi trọng giáo dục; do đó, trong gia giáo có điều
khoản: “Bất hiếu hữu
tam, vô hậu vi đại” (Bất hiếu gồm ba
điều, chẳng có người thừa kế là lớn
nhất). “Hậu” (後) ở đây không có
nghĩa là quư vị có con cháu, chẳng phải là ư nghĩa ấy.
Trong đám con cháu của quư vị, chẳng có hiền nhân.
Đó là đại sự! Thánh nhân, hiền nhân là do dạy
dỗ mà có. V́ thế, “vô hậu
vi đại” (chẳng có con hiếu cháu hiền là chuyện
bất hiếu lớn nhất) chính là điều [bận
ḷng] lớn nhất trong gia giáo của quư vị! Trong xă hội
trước đây, vợ chồng kết hợp thành một
gia đ́nh, trong gia đ́nh có hai chuyện mà hai người
phải chia nhau đảm trách. V́ thế, “phu phụ hữu biệt” (vợ chồng có chức
trách khác biệt), có nhiệm vụ bất đồng. Chồng
phụ trách vấn đề kinh tế, tức kinh tế
của gia đ́nh, tức là cuộc sống vật chất;
chồng mưu sinh kiếm tiền nuôi nấng gia đ́nh.
Vợ ở nhà dạy dỗ thế hệ kế tiếp.
Thế hệ kế tiếp trong gia đ́nh quư vị có
thánh hiền hay không, có quân tử hay không, có người tốt
hay không, chính là nhiệm vụ của người vợ.
V́ thế, công tác của vợ nặng hơn chồng khá
nhiều. Chồng chỉ kiếm tiền nuôi gia đ́nh.
Gia đ́nh quư vị có tiền đồ hay không, có hy vọng
hay không, cậy vào con cái thuộc thế hệ sau có thành tài
hay không?
V́
lẽ đó, trong Văn Sao, Ấn Quang đại sư đă
nói rất nhiều. Đối với vấn đề bàn
đến chuyện nam nữ b́nh đẳng, nam nữ
đang tranh quyền trong hiện thời, Tổ Ấn
Quang đă nói rất hay: Tại Trung Hoa từ xưa tới
nay, quyền lực của nữ nhân vượt trỗi
nam tử khá nhiều. Gia đạo có thể truyền cho
đời kế tiếp hay không, sự nghiệp có thể
truyền lại hay không, thậm chí chánh quyền của quốc
gia có thể truyền thừa hay không, đều là [do vấn
đề] có người kế tục trong đời sau
[hay không]? Do vậy, “vô hậu
vi đại”. Nếu quư vị chẳng có thế hệ
kế thừa, gia đ́nh của quư vị đă xong đời,
sự nghiệp của quư vị chẳng có truyền nhân
(người kế thừa) thuộc thế hệ kế
tiếp, đến khi quư vị chết đi, sự nghiệp
liền tiêu tán. Bồi dưỡng nhân tài kế tục trọng
yếu hơn bất cứ điều ǵ khác, đó là sự
nghiệp to lớn trong gia đ́nh, do phụ nữ đảm
nhiệm. Đối với Khổng Phu Tử, bao nhiêu
người biết mẹ của Khổng Phu Tử, chẳng
biết cha Khổng Tử [là ai]. Bao nhiêu người biết
mẹ Mạnh Tử, chẳng biết cha của Mạnh Tử.
V́ sao? [Các vị thánh nhân thế gian ấy] do mẹ dạy
dỗ mà thành, đạo lư ở ngay chỗ này!
V́
vậy, Tổ Ấn Quang chủ trương: Phụ nữ
chẳng cần phải tranh quyền cùng nam giới trong xă
hội. Hăy ở nhà dạy dỗ con cháu cho tốt, khiến
cho từ nhà quư vị nẩy sanh thánh nhân, hiền nhân. Không
chỉ là rạng rỡ tổ tông trong gia đ́nh, mà người
khắp cả nước, người trên toàn thể thế
giới đều hưởng phước ấm từ
gia đ́nh của quư vị. Công tác ấy vĩ đại
lắm! Đáng tiếc là hiện thời chẳng có ai nói,
chẳng có ai biết. Nếu chúng ta không đọc Ấn
Quang Đại Sư Văn Sao th́ cũng không biết. Bao
nhiêu người đọc đến đoạn này trong
Văn Sao đều sơ sót ư nghĩa chánh yếu của
Tổ, chẳng lưu ư điều căn bản này, chuyện
này quá to lớn! V́ thế, chính ḿnh nhất định phải
phát đại nguyện lợi ích hết thảy chúng sanh.
Một
trăm bốn mươi mốt nguyện ở nơi
đây, nguyện nào cũng đều nhằm lợi ích
chúng sanh. Thấy điều ác, mong t́m phương pháp giúp đỡ
người khác đoạn ác, hăy dùng phương pháp nào?
Dùng cách “chính ḿnh hăy đoạn ác”, làm cho người khác thấy.
Quư vị chẳng cần khuyên họ! Quư vị khuyên họ,
chưa chắc họ đă có thể tiếp nhận. Mỗi
ngày quư vị đều làm như vậy, hằng ngày họ
đều trông thấy. Đôi ba năm, họ sẽ giác
ngộ, hoặc tám, mười năm, họ sẽ giác ngộ.
“Quư vị đă làm đúng, ta
làm chẳng đúng”, đă
giác ngộ! Phải tốn thời gian, phải kiên nhẫn!
Thấy điều lành, hy vọng người khác cũng sẽ
lành (cũng có điều tốt lành giống như vậy)
th́ cũng phải làm cho người khác thấy! Chẳng
làm, chắc chắn sẽ chẳng đạt được
hiệu quả.
Hiện
thời, xă hội động loạn, xung đột liên
tiếp xảy ra. V́ thế, trong xă hội, những người
lănh đạo quốc gia, những người lănh đạo
xí nghiệp, đoàn thể, những nhà lănh đạo tôn
giáo, những vị học giả, chuyên gia trong giới học
thuật, có người nào chẳng quan tâm hóa giải xung
đột, xúc tiến an định, ḥa b́nh? Liên Hiệp Quốc
đă lập ra một cơ cấu để chuyên môn nghiên
cứu chuyện này. Hằng năm chẳng biết đă mở
bao nhiêu hội nghị, đổ ra nhân lực, tài lực,
vật lực. Tôi đă tham gia năm lần, hiểu rơ: Chẳng
đạt được hiệu quả! Chúng tôi nghe các
chuyên gia, học giả bàn luận, có lư lắm, nói toàn những
điều hợp lư, cuối cùng th́ sao? Chẳng thể thực
hiện được! Tỷ lệ động loạn mỗi
năm một tăng, tai hại mỗi lần một
nghiêm trọng hơn, khiến cho rất nhiều người
tham dự công tác ḥa b́nh mất ḷng tin. Sau khi mở hội
nghị, có rất nhiều học giả, chuyên gia (chúng tôi
rất quen thuộc) có địa vị rất cao, có những
vị đảm nhiệm chức bộ trưởng Giáo Dục,
hoặc là giáo sư đại học, gặp mặt bàn luận
đều cười khổ, lắc đầu, làm không
được! Về sau, tôi không tham dự những cuộc
hội nghị ấy nữa, tôi đă hiểu rơ, đă liễu
giải. Chẳng tham gia th́ không biết, chứ sau khi
đă tham gia, thảy đều liễu giải: Nguyên nhân
căn bản ở chỗ nào? Bản thân chúng ta chẳng
làm được! V́ thế, chẳng có đủ sức ảnh
hưởng, chính ḿnh chẳng làm được mà!
Chính
ḿnh lúc chẳng vừa ḷng bèn nổi cáu, c̣n đập bàn,
làm sao được nữa? Vậy th́ làm sao có thể ḥa
b́nh? Tâm b́nh khí ḥa, quư vị thấy đó: B́nh bèn có ḥa. Tâm nếu
b́nh, khí sẽ ḥa; ḥa b́nh do đấy mà có. Sau khi đă
đối đăi b́nh đẳng th́ mới có sự cư
xử ḥa thuận. Tôi tham gia hội nghị kể ra cũng
chẳng ít lượt, tôi cũng được coi như
là một trong những người giảng diễn chủ
yếu. Mỗi lần tôi đều đề xuất: “Đối đăi b́nh đẳng,
cư xử ḥa thuận”. Nước lớn và nước
nhỏ phải b́nh đẳng, nước giàu và nước
nghèo phải b́nh đẳng, chủng tộc phải b́nh
đẳng, tôn giáo phải b́nh đẳng, mỗi nghề
nghiệp cũng phải b́nh đẳng. Sau khi đă b́nh
đẳng th́ mới có sự cư xử ḥa thuận. Nếu
bất b́nh đẳng, lấy đâu ra ḥa thuận? Bất
b́nh đẳng sẽ nẩy sanh xung đột xă hội,
sẽ tạo thành hiểu lầm, sẽ tạo thành đối
lập. Căn nguyên của tất cả hết thảy
xung đột là bất b́nh đẳng, b́nh đẳng
đối đăi rất trọng yếu!
Người
Hoa nói “ḥa b́nh” th́ Ḥa là quả, là sự cư xử ḥa thuận.
Quả do đâu mà có? Đối đăi b́nh đẳng, đó
là nhân. Trung Hoa và Ấn Độ có rất nhiều chỗ
giống nhau, đều đem quả báo để nói ở
đằng trước, nói nhân ở sau. Người thế
gian luôn coi trọng quả báo, quư vị nói đến quả
trước, họ sẽ chú ư. Sau đấy mới nói v́
sao có cái quả ấy, nhân là ǵ? Cái nhân của sự ḥa thuận
là b́nh đẳng. B́nh đẳng nhất định phải
bắt đầu thực hiện từ bản thân. Thực
hiện từ chỗ nào? Phải hóa giải ư niệm
đối lập với hết thảy mọi người,
hết thảy sự, hết thảy vật, hóa giải
những ư niệm hiểu lầm trong nội tâm của
chính ḿnh. Người khác hiểu lầm ta cũng
được, ta chẳng hiểu lầm kẻ khác.
Người khác đối lập với ta, cứ việc!
Ta chẳng đối lập với họ. Chư vị
phải hiểu, đối lập nhất định là song
phương; diệt trừ một phương th́
phương kia sẽ chẳng đối lập được
nữa. Họ đối lập, ta chẳng đối lập.
Xung đột là song phương, hiểu lầm cũng là
song phương. Chỉ cần nơi phía ta chẳng có,
nơi họ nhất định cũng sẽ dần dần
hóa giải. Sở dĩ Phật, Bồ Tát có thể tu hành
thành Phật, đạo lư là ở chỗ này.
V́
vậy, cổ thánh tiên hiền dạy chúng ta: “Hành hữu bất đắc, phản
cầu chư kỷ” (Hễ có ǵ chẳng làm được,
hăy xét lại ḿnh), “kỷ sở
bất dục, vật thi ư nhân” (điều ǵ chính
ḿnh chẳng muốn, chớ làm cho người khác). Quư vị
hạ thủ công phu tại đó, bất luận pháp thế
gian hay Phật pháp, đều có thể thành tựu. Dạy
người khác tu thiện như thế nào? Dạy người
khác đoạn ác như thế nào? Đều bắt đầu
thực hiện từ chính bản thân ḿnh. “Học vi nhân sư, hạnh vi thế phạm” (Học
làm thầy người, hạnh làm khuôn mẫu cho đời),
phải nêu gương tốt cho người khác xem. Con
người sống trên cơi đời rất ngắn ngủi,
một trăm năm xác thực là một cái khảy ngón
tay, một sát-na. Tôi đă tám mươi tuổi, nghĩ
đến cuộc sống xưa kia ở nông thôn lúc bảy,
tám tuổi, giống như ngày hôm qua! Tám mươi năm như
một cái khảy ngón tay, có ư nghĩa ǵ đâu? Lời
đức Phật nói chẳng sai tí nào, “vạn ban tương bất khứ, duy hữu nghiệp
tùy thân” (muôn thứ chẳng mang được, chỉ
có nghiệp theo thân). Trong thế gian này, cái ǵ là của quư vị?
Quư vị có thể mang theo thứ ǵ? Thân thể chẳng
mang theo được. Đă là chẳng mang theo được,
hăy buông xuống toàn bộ, chẳng cần nữa! Cái mang
theo được, hăy lưu ư, chỉ có nghiệp theo thân.
Quư vị có thể mang ác nghiệp theo được, thiện
nghiệp quư vị cũng có thể mang theo được,
tịnh nghiệp quư vị cũng mang theo được!
Quư vị hiểu rơ đạo lư này, chúng ta sẽ mang theo tịnh
nghiệp tốt nhất.
Tịnh
nghiệp là ǵ? Dùng cái tâm thuần tịnh, tâm thuần thiện
đối với hết thảy người, hết thảy
sự, hết thảy vật, mang theo [tịnh nghiệp ấy].
Đời sau, quư vị sẽ ở trên cơi trời, chẳng
ở trong nhân gian. Quư vị tu Tịnh Độ, quư vị
ở Tây Phương thế giới Cực Lạc, quư vị
thành Phật trong một đời, thù thắng lắm!
Mang theo tịnh nghiệp, chẳng mang theo nhiễm nghiệp,
thiện hay ác đều là nhiễm nghiệp. Tịnh nghiệp
là ǵ? Làm lành, nhưng chẳng chấp tướng. Đoạn
ác tu thiện chẳng v́ chính ḿnh th́ là tịnh nghiệp. Chẳng
có chính ḿnh, chỉ v́ chúng sanh, đấy là thuần tịnh,
thuần thiện, là Tứ Hoằng Thệ Nguyện Bồ
Tát hạnh! Được rồi, chúng ta nói tới chỗ
này.
**
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời
ngồi xuống. Xin xem phần Sớ kế tiếp.
(Sớ)
Cố Trí Thủ tổng tiêu chư
đức dĩ cầu kỳ nhân, Văn Thù linh thiện dụng
tâm, đốn hoạch chúng quả. Đản ngôn duy nguyện,
khởi bất hoặc tai!
(疏)故智首總標諸德以求其因,文殊令善用心,頓獲眾果,但言惟願,豈不惑哉。
(Sớ:
V́ thế, Trí Thủ là nêu chung các đức để cầu
cái nhân, Văn Thù dạy hăy khéo dụng tâm để nhanh
chóng đạt được các quả. Kẻ chỉ nói
[phẩm Tịnh Hạnh] là “chỉ có nguyện”, há chẳng
lầm lạc thay!)
Câu này nhằm
tổng kết. Trong phần trước là Giải
Phương, giả sử có người nêu ra câu hỏi
này: “Trong một trăm bốn mươi mốt nguyện
ấy, dường như chẳng có Hạnh, chỉ có
Nguyện, chẳng có Hạnh!” Trong đoạn này, Thanh Lương
đại sư đă phân tích, nói cặn kẽ [các nguyện
ấy] gồm mười bốn loại, chia đại
lược thành sáu đoạn. V́ thế, trong phần tổng
kết, Ngài nhắc đến Trí Thủ Bồ Tát. Phẩm
kinh này do Trí Thủ Bồ Tát hỏi, Văn Thù Bồ Tát giải
đáp. Một hỏi, một đáp khiến cho chúng ta khai
trí huệ.
“Trí Thủ Bồ Tát”: Quư vị hăy
xem danh hiệu của Ngài; danh hiệu đều nhằm
biểu thị pháp, chớ nên không biết điều này. “Tổng tiêu chư đức”
(Nêu chung các đức): Trí huệ đứng đầu
trong hết thảy các đức, đó là cái nhân. Do vậy,
trong phần [luận định về các] Hạnh trên
đây, trong Sự Hạnh có Lư Hạnh, có Trí Hạnh. Đấy
là cái nhân thật sự để tu hành chứng quả. Văn
Thù Bồ Tát trả lời [câu hỏi của Trí Thủ Bồ
Tát] nhằm dạy chúng ta: Trong hết thảy các cảnh
duyên, hăy khéo dụng tâm, quư vị sẽ có thể nhanh chóng
đạt được các quả. Trong các phần
trước, tôi đă nói chẳng ít, phải biết chuyển
cảnh giới. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật
đă nói rất hay: “Nếu có
thể chuyển cảnh, ắt giống như Như Lai”.
Bất luận cảnh giới ǵ, dẫu là cảnh giới
xấu hèn; hễ chuyển, sẽ biến thành cái nhân lành.
Trong phần trước, tôi đă nói: Dẫu có kẻ vô
duyên vô cớ giết ta, ta cũng chẳng có một tí oán hận
nào, chẳng có chút ư niệm báo thù nào, ta c̣n hoan hỷ cảm
tạ kẻ đó. V́ sao? Kẻ ấy đưa ta lên trời,
đưa ta sang thế giới Cực Lạc. Nếu chẳng
như vậy, ta tự đi, nói chung vẫn phải lần
lữa một khoảng thời gian nào đó. Kẻ ấy
đưa ta đi mau chóng ngần ấy! Hễ ư niệm
đă chuyển, chẳng có mảy may ác ư, thuần tịnh,
thuần thiện, quyết định chẳng kết oán cừu!
Dẫu là oán cừu trong đời quá khứ, thảy
đều hóa giải, khéo dụng tâm!
Tông
Môn thường nói, nhằm khảo nghiệm học tṛ, “nhĩ hội ma” (ngươi
hiểu chứ?) “Hội” (會, hiểu) có nghĩa là quư
vị có biết dụng tâm hay không? Phàm và thánh dụng tâm khác
nhau! Biết dụng tâm, thuần tịnh, thuần thiện,
chẳng có điều ǵ là không tốt. Người ấy,
thậm chí là đối với kẻ mắc chứng thần
kinh phân liệt, vô duyên vô cớ đến đạo tràng
gây ồn ào, ầm ĩ, nếu biết dụng tâm, sẽ
coi như chẳng có chuyện ấy, [coi đó] cũng là [cơ
hội tốt] để tiêu nghiệp chướng cho
chúng ta, nhằm khảo hạch công phu định lực,
khảo hạch trí huệ của mọi người. Nếu
tâm quư vị loạn, chứng tỏ quư vị tu hành chẳng
có công phu! Quư vị như như bất động, thiện
xảo phương tiện, ứng phó viên măn, chẳng kết
oán đối (chẳng đối lập, chẳng kết
oán), sẽ mau chóng đạt được các quả. “Chúng quả” (眾果) là có rất
nhiều quả trong ấy, chẳng phải là một.
Thông thường, do một chuyện mà Lục Ba La Mật
đều thành tựu, [hoặc nói rộng hơn] sẽ
là Thập Ba La Mật trong kinh Hoa Nghiêm. “Đản ngôn duy nguyện, khởi bất hoặc
tai”: Câu này ngụ ư chỉ trích. Sao quư vị có thể
nói một trăm bốn mươi mốt bài kệ ấy
chỉ có nguyện, chẳng có trí, chẳng có hạnh? Đó
là quư vị mê hoặc, Văn Thù Bồ Tát vừa giảng
giải, quư vị liền hiểu rơ!
Tiếp
đó, c̣n có hai đoạn nữa. Chúng ta xem đoạn vấn
đáp trước:
(Sớ) Phục
hữu vấn ngôn.
(疏)復有問言。
(Sớ:
Lại có kẻ hỏi rằng).
Đây là “lại
có”, tức là lại có người nêu ra nghi vấn.
(Sớ) Phù diệu
hạnh giả, thống duy vô niệm, kim kiến thiện,
kiến ác, nguyện ly, nguyện thành, b́ dịch thân tâm, khởi
đương vi đạo?
(疏)夫妙行者,統唯無念,今見善見惡,願離願成,疲役身心,豈當為道。
(Sớ:
Ôi! Diệu hạnh đều chỉ là vô niệm, nay thấy
thiện, thấy ác, nguyện ĺa, nguyện thành, nhọc nhằn
thân tâm, há đáng coi là đạo ư?)
Chư vị hăy
ngẫm xem, có kẻ nào nêu ra câu hỏi này hay không? Có chứ!
Lại c̣n có rất nhiều! Luôn luôn chẳng rời khỏi
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, sẽ
nêu ra câu hỏi này! Nếu nói đến diệu hạnh, diệu
hạnh là tu hành ở mức độ cao. Nay chúng tôi dùng
kiểu nói này, mọi người sẽ dễ hiểu
hơn. Phật môn nói là “hướng
thượng nhất trước” (noi theo lẽ hướng
thượng). Bất luận là tông nào, bất luận là
phái nào, Hiển Giáo, Mật Giáo, Tông Môn, Giáo Hạ, Đại
Thừa, Tiểu Thừa, hễ chú trọng hướng
thượng sẽ đều chỉ là vô niệm. Nói
đến tầng cao nhất, sẽ là vô niệm. Huệ Năng
đại sư truyền Thiền Tông, “dùng vô niệm làm Tông”. Tông là tông chỉ (宗旨), nguyên tắc
chỉ đạo cao nhất trong sự tu hành là “vô niệm”. Nh́n từ chỗ
này, người tu hành, tức những vị Bồ Tát ấy
thấy có thiện, ác, thành tựu thiện nguyện, ĺa ác
nguyện, đấy chẳng phải phân biệt, chấp
trước ư? Đối với chính ḿnh chẳng phải
là nhọc nhằn thân tâm ư? “B́”
là b́ lao (疲勞,
mệt mỏi), tu rất vất vả! “Khởi đương vi đạo”: Đấy
là Bồ Tát đạo ư? Bồ Tát đạo là như
vậy ư? Bồ Tát đạo th́ phải nên ly niệm.
Chúng ta nghe [hỏi như vậy] th́ dường như có
lư lắm chớ!
Lại
xem lời giải thích của Thanh Lương đại
sư như dưới đây:
(Sớ)
Đáp: Nhược tư kiến giả.
(疏)答,若斯見者。
(Sớ:
Đáp: Nếu thấy như vậy).
Sở dĩ
có loại kiến giải giống như trên đây.
(Sớ) Ly niệm
cầu ư vô niệm.
(疏)離念求於無念。
(Sớ:
Ĺa niệm để cầu vô niệm).
Công phu kiến
giải của kẻ ấy bất quá là như thế,
dùng ĺa niệm để cầu vô niệm.
(Sớ)
Thượng vị đắc ư chân vô niệm dă.
(疏)尚未得於真無念也。
(Sớ:
C̣n chưa đắc vô niệm thật sự).
Quư vị nói
xem: Kẻ ấy có phải thật sự là vô niệm hay
không? Thật sự vô niệm sẽ không nói những lời
lẽ ấy! Thốt ra những lời lẽ ấy, kẻ
đó đă khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp
trước; kẻ ấy lấy đâu ra vô niệm?
(Sớ) Huống
niệm vô niệm chi vô ngại da?
(疏)況念無念之無礙耶。
(Sớ:
Huống hồ vô ngại đối với niệm và vô niệm
ư?)
Đấy mới
là thật sự vô niệm. Niệm chính là vô niệm, vô niệm
chính là niệm. Niệm và vô niệm là một pháp, chẳng
phải là hai pháp; đấy mới là thật sự vô niệm.
Kẻ ấy đă phạm khuyết điểm ở chỗ
nào? Luôn đọa trong hai pháp, [thấy có] vô niệm và hữu
niệm đối lập. Thấy thiện và ác đối
lập. Nguyện xa ĺa và nguyện thành tựu đối lập,
toàn là hai pháp. Nói theo Đàn Kinh, “hai
pháp chẳng phải là Phật pháp, Phật pháp là pháp bất
nhị”. Quư vị hăy xem câu trả lời của Lục
Tổ Huệ Năng đại sư dành cho pháp sư Ấn
Tông có hợp lư hay chăng? Đấy là thật sự vô
niệm.
Niệm
chính là vô niệm, đó là “chân
vô niệm”. Khi chẳng khởi tác dụng, đúng là niệm
nào cũng đều chẳng có. Khi khởi tác dụng, thứ
ǵ cũng đều hiểu rơ, vô lượng nguyện hạnh
khởi tác dụng. Chẳng có tác dụng là Thể, khởi
tác dụng là Tướng và Dụng. Thể, Tướng,
Dụng là một, không hai. Có Thể, có Dụng; hễ có Dụng
bèn có Thể. Thể chẳng ĺa Dụng, Dụng chẳng
ĺa Thể. Nếu có Thể mà chẳng có Dụng, cái Thể
ấy cũng chẳng sử dụng được! Pháp Tánh
là Thể, Pháp Tướng là Dụng. Pháp Tánh rỗng lặng,
chẳng có dấu vết. Chúng ta nói đến Không, th́
Không cũng chẳng có, [đó là] Pháp Tánh. Pháp Tướng
chẳng có số lượng, vô lượng vô biên. Tuy là
vô lượng vô biên, ngay nơi cái Thể của nó chính là
Không, trọn chẳng thể được! Quư vị nói
nó là có hay không có? Tánh và Tướng chẳng hai, Lư và Sự
như một, thật sự vô niệm. Đạo lư này rất
ư là sâu, nếu quư vị chẳng nhận thức những
điều này, đối với Đại Thừa Viên
Giáo, sẽ có nhiều nỗi nghi vấn.
Do
vậy, tầng cao nhất chính là chẳng có pháp chướng
ngại. Trong Hoa Nghiêm Kinh Thanh Lương Đại Sư Sớ
Sao đă nói bốn thứ vô ngại: Lư vô ngại, Sự
vô ngại, Lư Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại,
[đó là] bốn thứ vô ngại. Đấy mới là Thật
Tướng của các pháp, tức là chân tướng của
hết thảy các pháp. V́ sao có chướng ngại? Nay
chúng ta th́ như thế nào? Hiện thời, chúng ta Sự Sự
đều có trở ngại, Lư Sự cũng bị trở
ngại, Lư và Sự chẳng thể tương thông, tức
là có chướng ngại. Lư có trở ngại, Sự
cũng có trở ngại, bốn loại đều có
chướng ngại. Nay chúng ta đang ở trong hoàn cảnh
ấy. V́ sao bốn thứ ấy đều có chướng
ngại? Chẳng có trí huệ!
Do
vậy, trong đoạn kinh văn này, người khải
thỉnh là ngài Trí Thủ, người giải đáp là ngài
Văn Thù, là bậc Bồ Tát trí huệ bậc nhất. Ở
đây, [lời Sớ] nói ngài Văn Thù dạy “hăy khéo dụng tâm”. Kinh Kim Cang
bảo “ba tâm đều chẳng
thể được”, dùng cái tâm ǵ? Toàn là vấn đề!
Nói viên dung như thế nào? Thưa cùng chư vị, trên sự
thật là viên dung, nhưng nói ra, rất khó thể diễn
tả viên dung. V́ sao? Quư vị nói bên này, chẳng thể
đồng thời chiếu cố bên kia; bởi lẽ,
ngôn ngữ hữu hạn! Không chỉ là ngôn ngữ hữu
hạn, mà tư duy tưởng tượng cũng có hạn
chế. Buông xuống ngôn ngữ, tư duy, quư vị sẽ
thấy viên dung. “Ngôn ngữ dứt
bặt, tâm hạnh xứ diệt”, pháp giới viên dung
bao gồm bốn thứ vô chướng ngại ở ngay
trước mặt. Do vậy, lỗi lầm ở chỗ
nào? Lỗi lầm ở chỗ sáu căn của chúng ta tiếp
xúc cảnh giới sáu trần bèn khởi tâm động niệm,
phân biệt, chấp trước; đấy là lầm lỗi.
Pháp giới viên dung vô ngại toàn bộ bị biến dạng,
thuận theo vọng tưởng của chúng ta mà vặn vẹo,
có phải là thật sự vặn vẹo hay không? Chẳng
có! Thật sự là như như bất động, quyết
định chẳng bị quư vị quấy nhiễu. Sự
vặn vẹo nơi quư vị chỉ là cảnh giới hư
huyễn, chẳng thật sự tồn tại, nẩy
sanh từ huyễn tưởng và huyễn giác, chẳng có
chuyện như vậy! Nếu Phật, Bồ Tát chẳng
nói xuyên suốt cho chúng ta biết, xác thực là suốt một
đời này, chúng ta có mộng cũng chẳng nghĩ tới
được, mê hoặc suốt một đời, đời
sau lại tiếp tục mê hoặc. Khi nào th́ mới có thể
phá mê, khai ngộ? Đúng là quá ư khó khăn! V́ thế, bộ
đại kinh này đúng là “trăm
ngàn vạn kiếp khó gặp gỡ”!
Vào
đời Thanh trước kia, ông Bành Tế Thanh là một
vị đại đức, đă nói: “Một ngày hiếm có khó gặp từ vô lượng
kiếp đến nay”. Quư vị đă được
nghe Phật pháp, [đấy chính là cơ hội] hiếm có
khó gặp từ vô lượng kiếp đến nay.
Người ta thấy [cơ hội ấy] quư trọng
dường ấy, khó có ngần ấy; v́ thế, cái tâm cầu
pháp, cái tâm học pháp sẽ khác hẳn, thành tựu tự
nhiên sẽ khác hẳn! Một phần thành kính, đạt
được một phần thành tựu; người ta mười
phần thành kính, khó trách người ta đạt
được mười phần thành tựu. Xác thực
là ông Bành Tế Thanh đă thấy thấu suốt, buông xuống.
Ông ta là một người rất lỗi lạc. Vừa
nhược quan bèn đỗ Tiến Sĩ, “nhược quan” (弱冠) là chưa
đầy hai mươi tuổi, lúc mười tám, mười
chín tuổi đă thi đậu Tiến Sĩ. Cha ông là Binh
Bộ Thượng Thư vào đời hoàng đế Càn
Long, giống như bộ trưởng Quốc Pḥng hiện
thời. V́ thế, nói theo cách hiện thời, ông ta là “con
em cán bộ cao cấp”, lại thông minh cỡ ấy,
chưa đầy hai mươi tuổi đă đỗ Tiến
Sĩ. Gia đ́nh rất giàu có, chẳng lo lắng về
cái ăn, cái mặc, chẳng ra làm quan mà đi học Phật.
Ông ta chẳng xuất gia, làm cư sĩ, học Phật hết
sức thành tựu!
Ông
ta nói: “Kinh Vô Lượng Thọ
chính là Trung Bổn Hoa Nghiêm”. Ông ta có soạn bộ Hoa
Nghiêm Niệm Phật Luận. Ông Bành trước tác rất
nhiều, đổ công dốc sức rất sâu nơi Nho,
Thích, Đạo, cuối cùng quy nhập Phật môn. Thật
sự là bậc có đạo đức, có học vấn,
chẳng phải là kẻ b́nh phàm! Ông Bành văng sanh Tây
Phương thế giới Cực Lạc, trong Tịnh
Độ Thánh Hiền Lục có chép truyện ông ta. Hiếm
có, khó gặp từ vô lượng kiếp đến nay,
câu này cũng do ông ta nói. Nói về điều ǵ vậy? Nói
về Tịnh Độ. Đời này, quư vị có thể
gặp gỡ pháp môn Tịnh Độ, gặp kinh Vô Lượng
Thọ, đó là đại sự, chẳng phải là chuyện
nhỏ nhặt đâu nhé! Ông đă biên soạn một bản
tiết giảo cho kinh Vô Lượng Thọ, “tiết” (節) là tiết lục (trích lục),
“giảo” (校) là so sánh với những
bản khác, hiệu đính kinh văn. Ông ta dựa trên bản
dịch của ngài Khang Tăng Khải, tức là bản dịch
kinh Vô Lượng Thọ của ngài Khang Tăng Khải,
tham khảo những bản dịch khác để giảo
đối. Bản tiết giảo này đọc rất
thông thuận, dễ đọc.
Hiện
thời, kinh Vô Lượng Thọ có chín phiên bản
được lưu thông, gồm năm bản dịch gốc,
một bản tiết giảo của ông Bành Tế Thanh, những
bản khác là bản hội tập: Bản của Vương
Long Thư vào đời Tống, bản của Ngụy Mặc
Thâm trong niên hiệu Hàm Phong nhà Thanh, [ông Ngụy sống] sau
thời ông Bành Tế Thanh. Ông Bành Tế Thanh sống vào thời
Càn Long. Bản cuối cùng là bản của Hạ Liên
Cư, vào đầu thời Dân Quốc. Tổng cộng có
chín bản, tức là kinh Vô Lượng Thọ có chín loại
phiên bản khác nhau. Đối với chín bản khác nhau ấy,
chúng tôi đều khắc in chung với nhau, in thành một
tập lớn. Những vị tu pháp môn Tịnh Tông đều
thấy toàn bộ. Sau khi quư vị đă xem xong cả chín phiên
bản, thích tŕ bản nào th́ dùng bản đó, đều tốt
đẹp, đều có thể thành tựu.
Lại
xem đoạn cuối cùng:
(Sớ) Hựu
vô niệm, đản thị hạnh chi nhất dă, khởi
thành nhất niệm viên đốn, như thượng sở
minh dă. Hành học chi giả, nguyện thiện lưu tâm.
(疏)又無念,但是行之一也。豈成一念頓圓,如上所明也。行學之者,願善留心。
(Sớ:
Lại nữa, vô niệm chỉ là một trong các hạnh,
há chẳng thành nhất niệm viên đốn như đă
nói trên đây ư? Người học Giáo và tu hành, xin hăy
khéo lưu tâm).
“Hạnh” là tu hành, “học” là học Giáo. Người tu hành, học
Giáo hăy khéo dụng tâm lưu ư. “Vô
niệm” là một môn trong tám vạn
bốn ngàn Hạnh Môn, như niệm Phật cũng là một
môn trong tám vạn [bốn ngàn] Hạnh Môn. Trong Niệm
Phật, c̣n chia thành Thật Tướng Niệm Phật,
Quán Tượng Niệm Phật, Quán Tưởng Niệm
Phật, và Tŕ Danh Niệm Phật, [những hạnh môn ấy]
đều được nói trong Quán Vô Lượng Thọ
Phật Kinh. Nay chúng ta chọn lựa pháp Tŕ Danh Niệm Phật,
là một loại trong tám vạn bốn ngàn pháp môn. Phải
biết điều này!
“Khởi thành nhất niệm đốn
viên”.
Hoa Nghiêm là nhất niệm đốn viên, nhất niệm
viên măn. Viên măn như thế nào? Ĺa vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước. Cũng là như chúng tôi
thường nói: Trong hết thảy các pháp thế gian và xuất
thế gian, quyết định chẳng khởi tâm, không
động niệm. Khởi tâm động niệm c̣n chẳng
có, lấy đâu ra phân biệt, chấp trước? Ở
trong cảnh giới, nhất niệm đốn viên. “Đốn” (頓) là nhanh chóng, “viên” (圓) là viên măn. Viên măn bằng cách nào? Một
niệm ấy viên măn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Nói chung,
tám vạn bốn ngàn pháp môn chẳng ĺa nhất niệm. Nhất
niệm là vô niệm, là không khởi tâm, chẳng động
niệm, chẳng phân biệt, không chấp trước, đă
viên măn! Người nào có thể làm được? Sơ
Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo đă làm được! Từ
Sơ Trụ trở lên, bốn mươi mốt địa
vị Pháp Thân đại sĩ, mỗi địa vị
Pháp Thân đại sĩ đều là nhất niệm đốn
viên.
V́
sao có bốn mươi mốt địa vị? Tập
khí vô thỉ vô minh dầy hay mỏng khác nhau! Trừ điều
này ra, quư vị ngay cả dấu vết đều chẳng
trông thấy, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn!
Chúng ta phải biết điều này, đấy mới là
thật sự hướng thượng! Câu hỏi trên
đây, tuy nói đến sự hướng thượng,
nhưng hướng thượng cũng có tầng cấp.
Người hỏi ấy chẳng phải là bậc
thượng thượng thật sự. Giống như
chúng ta lên lầu, ṭa cao ốc có mười mấy tầng,
tầng ấy là tầng cao nhất. Chúng ta hướng về
phía trước, lên cầu thang của tầng thứ nhất,
là nấc đầu tiên, c̣n có người ở nấc thứ
hai, có người ở nấc thứ ba, đều gọi
là “hướng thượng”. Tuy đều đang hướng
thượng, mỗi người ở mỗi bậc thang
khác nhau! Từ chỗ này, chúng ta quan sát, tư duy cẩn thận,
sẽ dần dần hiểu rơ. V́ thế, Phật pháp nói “từ bi làm gốc, phương
tiện làm cửa”. Từ bi là căn bản. Từ bi là
nguyện thứ nhất trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện,
“chúng sanh vô biên thệ nguyện
độ”. Chúng sanh chủng loại khác nhau, phải
dùng pháp phương tiện. “Phương”
(方) là
phương pháp, “tiện” (便) là tiện nghi. Nói theo kiểu
hiện thời, phương pháp thích hợp nhất,
phương pháp hữu hiệu nhất, th́ gọi là “phương tiện thiện xảo”.
Phương tiện thiện xảo chẳng phải là
pháp cố định, nhất định là ứng cơ
thuyết pháp (thuận theo căn cơ để thuyết
pháp). Chúng sanh căn cơ ǵ bèn dùng phương pháp ấy
để dạy họ; sau khi họ đă học, nhất
định sẽ dần dần tăng cao cảnh giới.
Như vậy th́ sẽ hữu hiệu.
Đối
với kẻ sơ học, chế định giới luật
đ̣i hỏi [phải tuân thủ] nghiêm ngặt. Có chướng
ngại, dường như là điều ǵ cũng đều
chẳng thuận tiện. Lúc tôi mới học Phật, bạn
đồng nghiệp của tôi có người đă học
Phật nhiều năm, c̣n khi ấy tôi mới chập chững
học, ông ta bảo tôi: “Lư luận trong kinh điển Phật
giáo hay lắm, nhưng giới luật th́ không được!”
Tôi nói: “Sao vậy?” Ông ta nói: “Giới luật quá rườm
rà, buộc anh phải tŕ giới, anh chẳng động
đậy ǵ được. Giống như dùng dây trói chặt
quư vị, chẳng tự do”. [Trong những kẻ học
Phật, người] ưa thích kinh luận, [chuộng] lư
luận [suông] chiếm đa số, thật sự học
cũng rất ư là ít, nguyên nhân là ở chỗ này! Thuở
ấy, chúng tôi suy ngẫm [cũng ngỡ là kiểu nói ấy]
đúng lắm, có lư! Chúng ta thích đọc kinh giáo, lư luận
giảng giải hay quá, nhưng khi dạy quư vị làm, quư
vị đều chẳng chịu làm. Dạy quư vị bố
thí, [quư vị vẫn] rất keo kiệt, chẳng buông xuống
được. Dạy quư vị tŕ giới, dạy quư vị
ăn chay, chẳng làm được! Sau đấy, dần
dần hiểu rơ đạo lư, mới biết sự dạy
bảo của đức Phật là chánh xác.
Dạy
quư vị đừng sát sanh, dạy quư vị ăn chay, mục
đích là ǵ? Trưởng dưỡng cái tâm từ bi, chẳng
nỡ ăn thịt chúng sanh. Trong cái tâm Bồ Đề,
chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi. Nuôi
dưỡng ḷng từ bi là nuôi dưỡng chánh giác, nuôi
dưỡng b́nh đẳng, nuôi dưỡng thanh tịnh,
nuôi dưỡng chân thành. V́ sao? Bồ Đề tâm, nhất
tâm! Có Thể, có Dụng; hễ có thể nuôi dưỡng một
cái, toàn bộ sẽ đều đạt được.
“Một chính là nhiều, nhiều
chính là một”, mục đích ở chỗ này. Đấy
là ư nghĩa thứ nhất. Ư nghĩa thứ hai là chẳng
kết oán cừu với chúng sanh. Sát sanh ăn thịt là kết
oán cừu với chúng sanh. Đức Phật dạy kiếp
binh đao trong thế gian, tức là chiến tranh. Tai nạn
chiến tranh chẳng phải là chuyện tốt lành, chiến
tranh là tai nạn! V́ sao có chiến tranh? Do kết oán nghiệp
cùng hết thảy chúng sanh. Kinh Phật nói: “Người chết làm dê, dê chết làm người”,
oan oan tương báo, chẳng hết, chẳng xong, rất
tàn khốc. Chúng ta muốn hóa giải oán kết,
phương pháp có hiệu quả nhất chính là chẳng
ăn thịt chúng sanh, đạo lư ở chỗ này!
Nay chúng ta lại
gặp một kiếp nạn, hiện thời mọi
người thường nhắc tới: Thân tâm đều
bất an, bệnh cúm gia cầm do loài chim (ôn dịch, bird
flu) lây lan. Tức là nói ôn dịch ấy do trời giáng xuống,
phiền toái rất lớn! Hiện thời là mùa Đông, cổ
nhân Trung Hoa thường nói: “Chỉ
sợ bệnh dịch mùa Đông chuyển thành bệnh dịch
vào mùa Xuân”, tai hại sẽ to lớn! Nhưng chúng ta nh́n
vào hiện tượng trước mắt, rất có thể
là bệnh dịch mùa Đông sẽ chuyển thành bệnh dịch
mùa Xuân! Hôm trước, có bạn bè đến phỏng vấn,
chúng tôi c̣n thâu một cuốn băng, đài TV Hoa Tạng
cũng đặc biệt hỏi về vấn đề
này! Nguyên nhân thật sự là ǵ? Vẫn chẳng phải là
do cầm thú bị ăn quá nhiều, chúng nó đến báo
thù hay sao? Quư vị hăy nghĩ xem, có hợp lư hay không?
Chúng
ta thấy căn bệnh dịch này, lại thấy tin tức
thông báo: Ở những chỗ bắt đầu phát hiện
chứng ôn dịch ấy, họ giết sạch gà, vịt,
ngỗng ở đó. Hễ giết, bèn giết mấy chục
vạn con, mấy trăm vạn con, tạo thành nghiệp
nhân của chứng bệnh cúm gia cầm đấy nhé! Quư
vị giết súc sanh nhiều ngần ấy, trong số
đó, có những con chẳng bị nhiễm bệnh, quư vị
đă giết chúng nó trước, oán khí ấy đến cỡ
nào? Quư vị chôn xác chúng ở đó, sau khi rữa nát, sẽ
biến thành virus gây bệnh. Ngày nào đó, một cơn gió
lớn cuốn qua, thổi đến nơi đâu, đến
chỗ nào, virus liền lan truyền đến nơi
đó. Đấy chẳng phải là biện pháp, chớ
nên giết! Nếu con người trúng phải loại
virus ấy, chẳng lẽ quư vị giết sạch
người ở chỗ ấy hay sao? Chẳng thể làm
như thế được, mà vội vă trị liệu,
c̣n có thể cứu được một nửa. Tôi nghe những
người trong giới y khoa bảo: Tỷ lệ sống
sót của người nhiễm phải loại virus ấy
là một phần hai, tức là một nửa có thể chữa
khỏi, nửa kia trị chẳng lành. Nếu quư vị hiểu
đạo làm người, có tâm yêu thương, phát hiện
những gia cầm hoặc loài chim (đối với loài
chim, quư vị chẳng thể khống chế chúng dễ
dàng. Gia cầm trong nhà th́ dễ khống chế) mắc bệnh,
hăy gắng chữa bệnh cho chúng, giống như đối
với người, nghiên cứu phương pháp trị liệu,
giúp cho chúng nó khôi phục, khỏe mạnh, đó là đúng.
Chớ nên giết! Càng giết, càng nghiêm trọng; càng giết,
[bệnh tật] càng nhiều. Đấy chẳng phải
là biện pháp.
Muốn
diệt trừ chứng ôn dịch này, phải dùng cách trị
liệu, chớ nên dùng cách sát hại. Khá nhiều người
hỏi tôi, tôi có cách nh́n như thế đó. Gia súc, gà, vịt
bị cúm, nếu có thể cho chúng uống thuốc chữa
cảm mạo, chữa khỏi rất dễ dàng, c̣n hữu
hiệu hơn [chữa bệnh cho] con người! V́ sao chẳng
giúp đỡ chúng, chẳng trị bệnh cho chúng, mà lại
giết chết chúng? Quư vị kết mối oán cừu này
đă sâu lắm, oan oan tương báo. Người hiện
thời chẳng tin chuyện này, chẳng có cách nào hết!
Chẳng phải là nói không tin bèn chẳng có đâu nhé, vẫn
có y hệt! Đến lúc oan oan tương báo, quư vị hối
hận th́ đă muộn. Quư vị giải thích với chúng
như thế nào đây? Quư vị nói ta khi ấy vô tri, giết
các ngươi oan uổng. Quả báo trong tương lai của
quư vị cũng là bị kẻ khác giết chết oan uổng,
cứ một báo đền trả một báo. Nhân duyên quả
báo chẳng sai suyển mảy may!
Trong
kinh, đức Phật đă nói: “Dục tri tiền thế nhân, kim sanh thọ giả
thị. Dục tri lai thế quả, kim sanh tác giả thị”, [nghĩa là] những ǵ chúng ta
tạo tác trong đời này chính là [cái nhân tạo thành] quả
báo trong đời sau. Đời này thời gian ngắn ngủi,
đời sau thời gian lâu dài. Trong lục đạo, chỉ
có thời gian trong nhân đạo là ngắn nhất. Thiên
đạo thọ mạng lâu dài, trong súc sanh có loài vật
trường thọ. Thọ mạng trong địa ngục
và ngạ quỷ đều rất dài, họ chịu khổ
quả. Đức Phật lại nói: “Dục tri thế thượng đao binh kiếp,
đản thính đồ môn dạ bán thanh” (Muốn biết
đao binh trong cơi thế, ḷ mổ hăy nghe tiếng nửa
đêm). Nửa đêm giết lợn hiện thời chẳng
nhiều như vậy. Hiện thời là giết mổ với
một số lượng lớn; v́ thế, chiến tranh
hiện thời khác hẳn xưa kia. Hiện thời, có
vũ khí sát thương với quy mô lớn: Một quả
bom hạch nhân (bom nguyên tử) nổ, sẽ giết chết
mấy trăm vạn người, há chẳng phải là v́
hiện thời giết mổ những loài súc sanh [với
số lượng quá lớn] ư? Một trận ôn dịch
giết chết mấy vạn, mấy chục vạn, trên
trăm vạn người, há chẳng phải là chuyện
giống như bom nguyên tử bùng nổ ư? Nhân như thế
nào, quyết định cảm quả báo như thế ấy,
chớ nên không biết, chớ nên chẳng suy nghĩ kỹ
càng!
Đồng
học tới hỏi tôi, tôi giảng Phật pháp cho họ
nghe, tôi nói chánh lư, nhất định chớ nên kinh hoảng!
Tai nạn c̣n chưa giáng xuống thân, chính ḿnh lại hoảng
hốt, sợ hăi, bị nó dọa sợ gần chết,
quư vị nói có oan uổng hay không? Là chuyện rất oan uổng!
Quư vị c̣n chưa mắc bệnh, ở trong nhà, hằng
ngày bị nỗi sợ hăi dọa chết ngất, sai mất
rồi! Cổ nhân nói có lư lắm: “Sanh tử hữu mạng, phú quư do thiên” (Sanh tử
có số, phú quư do trời). Quư vị chẳng đáng chết,
dẫu tai nạn kiểu nào hiện tiền đi nữa,
quư vị đều có thể miễn trừ. Chẳng phải
là nói khu vực này hễ có tai nạn, mọi người
đều chết sạch, chẳng c̣n một ai, chẳng
thể nào! Vẫn có một số ít sống sót, chẳng bị
kinh hăi bởi virus! Trong ấy có nghiệp nhân, nghiệp của
mỗi cá nhân khác nhau!
Sau
khi chúng ta nghe Phật pháp, hiểu những đạo lư
này, bèn hạ quyết tâm chẳng kết ác duyên với
chúng sanh nữa. Đối với những nghiệp duyên
đă làm trong quá khứ, chúng ta thường xuyên sám hối,
hồi hướng công đức do chính ḿnh đă tu tập,
tích lũy cho họ. Hằng ngày tu sám hối, hằng ngày hồi
hướng cho họ, hy vọng họ cũng có thể biết:
Trong quá khứ, chúng ta vô tri. Nay chúng ta khéo tu hành, trong
tương lai, sau khi chính ḿnh đă tu thành tựu, do họ
có duyên với chúng ta, nhất định sẽ độ
người hữu duyên trước. Họ ở trong lục
đạo, khổ chẳng thể diễn tả nổi.
Nếu có người độ họ, họ cũng hoan hỷ.
Như thế chính là chúng ta “ta và người đều có
lợi”. Nếu họ báo thù, gây chướng ngại,
đôi bên đều bất lợi. Nếu nói rơ ràng, nếu
hiểu minh bạch lư, tâm chúng ta sẽ định. Tâm
đă định, sẽ chẳng có ngờ vực, chẳng
bị lây nhiễm dễ dàng. Lây nhiễm là ǵ? Do có tâm kinh sợ!
Nghe chuyện ấy rất sợ hăi, sẽ dễ dàng bị
lây nhiễm. Chẳng để ư đến nó tí nào; đâm
ra, chẳng bị lây nhiễm dễ dàng. Dẫu đă bị
lây nhiễm, cũng đừng kinh hoảng, đừng sợ
hăi, cứ coi như chẳng có chuyện ấy, hăy khéo niệm
Phật. Chẳng thể trị bèn văng sanh, thời gian văng
sanh đă đến rồi. Nếu trị lành th́ cũng
được, lại tu vài năm, có ǵ đáng sợ hăi
cơ chứ?
Trung
Y có toa thuốc. Năm trước có căn bệnh SARS, chúng
tôi có được một toa thuốc rất tốt, tức
là Tam Tiên Thang (三鮮湯).
Toa thuốc ấy đă được công bố, chúng tôi
đăng tải trên Internet, đài truyền h́nh vệ
tinh Hoa Tạng cũng đă phát sóng. Nói thật ra, rất
đơn giản! Cải bắc thảo (Napa cabbage), củ
cải, đậu xanh, ba món ấy, tỷ lệ phải
chánh xác. Nếu bị ho th́ thêm lê, chẳng bị ho th́ không
cần thêm lê. Nấu thành nước canh uống như
trà, một ngày uống hai, ba lượt bèn có thể dự
pḥng, mà cũng có thể trị liệu, rất đơn
giản, chẳng phiền phức tí nào. Mùa Đông chính là
mùa sanh trưởng của cải bắc thảo và củ
cải, trời đă an bài chu đáo cho con người. Lúc
này có ôn dịch, những thứ ấy có thể giải trừ
ôn dịch. Quư vị phải tin tưởng, phải biết
dùng, không chỉ là tự ḿnh giúp đỡ chính ḿnh, mà c̣n phải
chẳng có tí ti tâm riêng tư nào, giúp đỡ người
khác. Tôi đă thông cáo toa thuốc ấy trên đài truyền
h́nh Hoa Tạng, mấy ngày nay chúng tôi phát h́nh vài lượt,
khiến cho mọi người đều biết. Nói thật
ra, những toa thuốc trị liệu như vậy trong
Trung Y có rất nhiều, đúng lư phải đều là hữu
hiệu. Chư vị có cơ duyên này, đều có thể
hướng về những vị lang y thỉnh giáo để
có nhiều toa thuốc ḥng tham khảo. Hôm trước,
cũng có một người bạn tặng tôi một toa
thuốc, trị bệnh cúm gia cầm, dường như
là dùng cây mắc cỡ (Mimosa Pudica). Nấu cây mắc cỡ
khô với nước, bỏ thêm đường phèn. Nếu
t́m chẳng được cây mắc cỡ khô, hăy nên dùng rễ
cây mắc cỡ bán trong tiệm thuốc Bắc, cũng hữu
hiệu! Người ấy dùng phương pháp này.
Do
vậy, tôi hy vọng các đồng học gặp phải
tai nạn này, chẳng kinh hoảng, chẳng sợ hăi, chớ
nên khủng hoảng. Người ăn chay đă chẳng
kết oán cừu với chúng sanh, trọng yếu lắm!
Chúng ta hằng ngày sám hối, phải nhận sai. Quá khứ
vô tri, đă sát hại rất nhiều chúng sanh. Chúng ta phải
nhận sai, phải hối lỗi; từ nay trở đi,
quyết định chẳng tổn hại chúng sanh. Một
niệm thiện tâm sẽ hóa giải rất nhiều nỗi
oán hận. Chúng ta khởi tâm động niệm, cảnh
chuyển theo tâm, phải tin tưởng lời dạy của
đức Phật: “Nếu có
thể chuyển vật, ắt giống như Như Lai”.
Một trăm bốn mươi mốt bài kệ trong phẩm
kinh này là nêu tỷ dụ, các thí dụ nhằm dạy chúng
ta chuyển đổi cảnh giới như thế nào! Thấu
hiểu th́ tốt lắm, có thể tự độ, lại
có năng lực độ tha. V́ thế, chúng ta tu hành, học
Giáo phải khéo lưu ư. Chúng tôi giảng phần Sớ của
Thanh Lương đại sư đến đây!
Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ
mười một, Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 2 hết
[1] “Liên thành” (連城): Ư
nói giá trị rất lớn, gần như vô giá. Thành ngữ
“liên thành” xuất phát viên ngọc
bích của Biện Ḥa. Khi viên ngọc này thuộc quyền
sở hữu của Triệu Huệ Văn Vương thời
Chiến Quốc, Tần Chiêu Vương đă viết
thư xin đổi bằng mười lăm thành. Theo Hàn
Phi Tử, Biện Ḥa nước Sở kiếm được
một tảng đá có ngọc tại Kinh Sơn, dâng lên Sở
Lệ Vương. Vua sai người giám định.
Người giám định nói chỉ là đá, vua phạt
tội khi quân bằng cách sai người chặt đứt
một chân Biện Ḥa. Tới thời vị vua kế tiếp
là Sở Vũ Vương, Biện Ḥa lại dâng tảng
đá ấy lên, lại bị người giám định
bảo chỉ là một tảng đá, bị phạt tội
chặt nốt chân kia. Đến khi Sở Văn
Vương tức vị, Biện Ḥa ôm tảng đá có ngọc
khóc thảm thiết dưới rặng Kinh Sơn. Sở
Văn Vương nghe chuyện, cảm thương, sai
người chẻ đá ra, quả nhiên được bảo
ngọc, bèn gọi viên ngọc ấy là ngọc Biện Ḥa
(Sử thường gọi là “Ḥa Thị Bích”, 和氏碧). Về sau, nước Tần chiếm được
viên ngọc ấy. Tần Thủy Hoàng sai chế thành ngự
tỷ, gọi là Truyền Quốc Ngọc Tỷ. Sau
đó, cái ấn ngọc ấy trở thành vật tranh giành
của các triều đại kế tiếp.
[2] Phù
Đồ (浮屠) là một lối phiên âm rất
cổ của chữ Buddha.
[3] Lục
sư ngoại đạo là sáu lănh tụ tôn giáo thời ấy
tại Ấn Độ:
1) A Kỳ Đa
Xí Xá Khâm Bà La (Ajita Kesakambalin), chủ trương Thuận
Thế Luận, chủ trương duy vật, cho rằng
con người do Tứ Đại hợp thành, chết
đi là hết, chẳng có đời sau, chẳng có nhân quả.
2) Ca La Cưu
Đà Ca Chiên Diên (Pakudha Kaccayana), chủ trương con
người do thất đại hợp thành (đất,
nước, gió, lửa, khổ, lạc và mạng), vật
chất, đau khổ, khoái lạc và linh hồn đều
chẳng liên quan ǵ với nhau.
3) Phú Lan Nan Ca Diếp
(Pūrṇa Kāśyapa): Chủ
trương thiện ác đă làm trong đời này chẳng
thể mang sang đời sau được, chẳng dẫn
đến quả báo trong đời vị lai, hoàn toàn theo
thuyết phủ định nghiệp nhân, không có ǵ là đạo
đức hay vô đạo đức.
4) Mạt Già Lê Câu
Xá Lê Tử (Makkhali Gosāla): Tu tiên bằng cách lơa thể,
khất thực, chủ trương con người bất
lực, đau khổ là chuyện tiền định.
5) San Xá Dạ Tỳ
La Chi Tử (Sanjaya Bellatthiputta): Chủ trương hoài nghi
luận.
6) Ni Càn Đà Nhă
Đề Tử (Nigantha Nataputta), c̣n gọi là Mahavira (đại
lực giả) chính là thỉ tổ của Kỳ Na Giáo
(đạo Jain hiện thời): Chủ trương gạt
bỏ mọi đau khổ bằng cách tránh tạo ác nghiệp.
[4] Lục
Quần tỳ-kheo (Sad-vargīka-bhiksu) là sáu tỳ-kheo
thường kết bè đảng, gây nên những chuyện
mất oai nghi, rắc rối trong Tăng đoàn, tạo
cơ hội cho đức Phật chế định giới
luật. Thông thường tên của sáu vị ấy được
kể như sau: Nan Đồ (Nanda), Ô Bạt Nan Đà
(Upananda), A Thuyết Ca (Aśvaka, Mă Túc), Bổ Nại Bà Tố
Ca (Punarvasu, Măn Túc, đôi khi c̣n phiên âm là Phú Na Bà Sa hoặc Phất
Na Bạt), Xiển Đà (Chanda, tức Xa Nặc, người
đánh ngựa của Thái Tử Tất Đạt Đa).
[5] Ông
Khế, họ Tử, tên là Khế, là con trai của Đế
Khốc, là em cùng cha khác mẹ của vua Nghiêu. Ông Khế
chính là tổ tiên của Tổ Ất (tức vua Thành Thang về
sau này). Ông cũng giúp Đại Vũ trị thủy. Sau
khi trị thủy xong, ông được vua Nghiêu phong cho
đất Thương Khâu (nay là thành phố Thương Lạc,
tỉnh Thiểm Tây). Huyền sử của Trung Hoa lại
nói ông được phong thêm chức Hỏa Chánh (thường
gọi là Khuyết Bá), giữ nhiệm vụ tế bái Hỏa
Tinh. V́ vậy, về sau, ông và Chúc Dung cùng được
tôn làm Hỏa Thần của Trung Hoa.