Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười
một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 20
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Địa điểm: Hương Cảng Phật
Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ ngày mồng Bảy tháng
Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ Trang và Minh
Tiến
Tập 1501
Chư vị đồng học,
xin mời ngồi xuống, xin xem phẩm Tịnh Hạnh
thứ mười một. Xem từ bài kệ tụng thứ
nhất.
(Kinh) Phật tử! Bồ Tát tại
gia, đương nguyện chúng sanh, tri gia tánh Không, miễn
kỳ bức bách.
(經)佛子。菩薩在家。當願眾生。知家性空。免其逼迫。
(Kinh: Này Phật tử! Bồ Tát ở nhà, nguyện
cho chúng sanh, biết nhà tánh Không, khỏi bị bức bách).
Trong
một trăm bốn mươi mốt bài kệ ấy, mỗi
bài là một đại nguyện. Mười một bài
đầu nói về người học Phật tại
gia. Các đồng học tại gia học Phật chiếm
tuyệt đối đại đa số. Phật, Bồ
Tát ứng hóa trên thế gian, đối tượng giáo hóa
chủ yếu là tại gia Bồ Tát. Số lượng xuất
gia Bồ Tát ít ỏi. Đó là “tục
Phật huệ mạng” (nối tiếp huệ mạng
của Phật), truyền thừa Phật pháp trải các
đời phải cậy vào họ. V́ thế, họ là khuôn
mẫu cho trời, người; đúng là “học vi nhân sư, hành vi thế phạm” (học
làm thầy người, hành vi làm khuôn mẫu cho cơi đời).
Họ có thân phận là thầy, hàng tại gia Bồ Tát
đều là học tṛ. Chúng ta có thể nh́n theo kiểu
này: Xuất gia là người chuyên môn đảm nhiệm, họ
có chức trách dạy học, suốt đời tiến
hành công tác giáo dục. Tại gia Bồ Tát học tập tốt
đẹp, có đức hạnh, có học vấn, cũng
có thể kiêm nhiệm công tác hoằng pháp lợi sanh.
Thuở
đức Phật tại thế, đă có một khuôn mẫu
rất tốt về chuyện này: Cư sĩ Duy Ma là tại
gia Bồ Tát, Ngài cũng là cổ Phật tái lai. Trên thực
tế, hoằng truyền Phật pháp th́ tại gia hay xuất
gia chẳng khác ǵ nhau. V́ thế, hai vị Phật đồng
thời xuất hiện trên thế gian. Thích Ca Thế Tôn là
xuất gia Phật, cư sĩ Duy Ma là tại gia Phật. Phàm
nhân trong thế gian chẳng hiểu rơ cho lắm, nhưng
những người học Phật đều hiểu rất
rơ ràng, đều hiểu rất minh bạch. Cư sĩ Duy
Ma giảng kinh, thuyết pháp, giáo học, các đồ
đệ của Thích Ca Mâu Ni Phật như Mục Kiền
Liên, Xá Lợi Phất, tôn giả Ca Diếp, A Nan v.v… mọi
người rất quen thuộc những vị ấy. Các
Ngài nghe cư sĩ Duy Ma giảng kinh, giữ lễ tiết
hoàn toàn giống như thấy Phật. Cũng là đảnh
lễ tam bái, nhiễu theo chiều bên phải ba ṿng, cung
kính nghe thầy dạy học. Phật pháp là sư đạo;
trong giáo học, thầy có địa vị cao nhất. Tuy
Ngài (cư sĩ Duy Ma) mang thân phận tại gia cư
sĩ, khi Ngài thăng ṭa, chính là thay Phật thuyết pháp,
chẳng khác đức Phật. V́ thế, những vị
đệ tử xuất gia của đức Thế Tôn,
thân phận đều là đại A La Hán, thấy cư
sĩ Duy Ma chẳng khác ǵ thấy đức Phật.
Phật
pháp phải cầu từ cung kính. Căn bản của Phật
pháp được kiến lập trên cơ sở hiếu
thảo cha mẹ, tôn trọng thầy. Chúng ta chớ nên không
biết điều này. Nh́n từ kệ tụng, bài thứ
nhất là tổng thuyết: Tại gia phải nên dùng tâm
thái như thế nào để học tập. Câu thứ
hai là “hiếu sự phụ mẫu”
(phụng sự cha mẹ với ḷng hiếu thảo). Hiếu
đạo được xếp hàng đầu. Hiếu
thảo cha mẹ, tôn trọng thầy, chẳng khác ǵ nền
giáo học truyền thống, giáo học luân lư đạo
đức năm ngàn năm của Trung Hoa. Từ đoạn
này, chúng ta đều có thể nh́n thấy [những điều
ấy]. Trong Ngũ Luân, quan trọng nhất là “phụ tử hữu thân, phu phụ
hữu biệt” (cha con có t́nh thân, vợ chồng có trách
nhiệm khác biệt). V́ thế, bài kệ thứ ba là “thê tử tập hội” (vợ
con tụ hội). Nền giáo dục Ngũ Luân truyền thống
của Trung Hoa hoàn toàn được bao gồm trong ấy.
Kinh
này từ Ấn Độ truyền sang. Phật giáo từ
Ấn Độ truyền sang Trung Hoa. Sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật
đă diệt độ một ngàn năm, Phật giáo truyền
đến Trung Hoa. Vào thuở ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật và
cổ thánh tiên hiền chưa hề gặp gỡ, cũng
chẳng hề trao đổi tin tức, nhưng những
ǵ các Ngài thấy, nghe, học tập, dạy bảo, nghiễm
nhiên hoàn toàn tương đồng. Đấy chính là
như ngạn ngữ Trung Hoa thường nói: “Anh hùng sở kiến đại
lược tương đồng” (Nói chung, anh hùng có
cách nh́n giống nhau), các Ngài hoàn toàn [có cách nh́n] giống
nhau. “Anh hùng”, người
nào là anh hùng? Có trí huệ và kiến thức vượt trỗi
người b́nh phàm. Chuyện người b́nh phàm chẳng
làm được, người ấy có thể làm
được, người ấy được gọi
là “anh hùng”. Thích Ca Mâu Ni Phật
là anh hùng; v́ thế, người đời sau dựng chùa
miếu thờ phụng Thích Ca Mâu Ni Phật, chỗ [thờ
phụng] tạc tượng Ngài được gọi là “Đại Hùng bảo điện”
(大雄寶殿). Chư vị phải biết Đại Hùng chính là
đại anh hùng. Gọi [chỗ thờ Phật] là “điện báu của bậc
đại anh hùng” nhằm ca ngợi Thích Ca Mâu Ni Phật.
Quư vị thấy đại điện thờ phụng Khổng
Tử ở Trung Hoa được gọi là Đại
Thành Điện (大成殿), tức là điện đường cư trụ
của bậc có thành tựu to tát, [Đại Thành nghĩa
là] đại thành tựu. “Đại
thành tựu” có cùng ư nghĩa với “đại anh hùng”. Chúng ta phải hiểu, phải
có thể lư giải những danh từ, thuật ngữ
này.
Gia
đ́nh là cơ sở của tổ chức xă hội, là tổ
chức cơ bản nhất. Đấy là gia đ́nh. Nói
theo người b́nh phàm, gia đ́nh là chỗ “tham ái hệ phược”
(tham ái buộc ràng) như kinh Phật đă dạy, hăy bồi
dưỡng từ chỗ này. Đó là
cái ổ. Ổ ǵ vậy? Cái ổ tham ái, là chỗ tham ái
trói buộc! Nếu chẳng thấy thấu suốt, chẳng
buông xuống được, đời đời kiếp
kiếp quư vị chẳng ĺa khỏi nhà! Nhưng chúng ta biết
“nhà” là vô thường, chẳng
phải là vĩnh hằng, mà là vô thường; cái tâm tham
luyến vô thường hết sức kiên cố. Nói cách
khác, đối với bất luận đường nào
trong lục đạo, hễ quư vị khế nhập
đường ấy, quan niệm đầu tiên sẽ là
t́m một cái “nhà”. V́ thế,
cái nhà ấy là nhà h́nh thức, là vô thường, “nhà” trong A Lại Da Thức
vĩnh viễn chẳng thể đoạn! Đấy
chính là lư do v́ sao con người đời đời kiếp
kiếp trong vô lượng kiếp chẳng thoát khỏi lục
đạo luân hồi!
Do
vậy, bài kệ thứ nhất trong phẩm Tịnh Hạnh
dạy chúng ta phải thấy thấu suốt “nhà”. “Thấy thấu suốt nhà”
chẳng phải là không cần đến nhà nữa! Vẫn
cần, xét theo h́nh thức, th́ luân lư đạo đức
c̣n được thực hiện viên măn hơn, thù thắng
hơn kẻ b́nh phàm. Trong phẩm kinh này, câu đầu tiên
Văn Thù Bồ Tát dạy chúng ta là “Bồ Tát khéo dùng cái tâm”, Ngài nói lời này hay quá!
Khéo dùng cái tâm, sẽ có thể thành tựu hết thảy
công đức “thắng diệu”.
“Thắng” (勝) là
thù thắng nhất. Gia đ́nh thù thắng nhất, “gia ḥa, vạn sự hưng”.
Quư vị thấy thế giới này, thịnh hay suy nh́n từ
chỗ nào? Từ gia đ́nh, từ con người, mỗi
cá nhân đều có thể khéo dùng cái tâm, mỗi gia đ́nh
đều là thù thắng. Thù thắng mà chẳng diệu, cho
nên công đức của người ấy chẳng viên
măn. Nếu nói theo lời tổ sư Đạt Ma, sẽ
là “hoàn toàn chẳng có công đức”.
Đó là ǵ? Phước đức, chẳng phải là công
đức. Có diệu, phước đức ấy sẽ
chuyển biến thành công đức, mấu chốt ở
ngay chỗ này! “Diệu” là ǵ?
Diệu là tuy rất thù thắng, đă thấy thấu suốt,
trong tâm chẳng có mảy may chấp trước đối
với cái nhà ấy. Trên h́nh thức, c̣n thực hiện
viên măn hơn kẻ b́nh phàm. Trong tâm thanh tịnh, b́nh đẳng,
đó là Diệu! Diệu (妙) là chẳng chấp tướng. Nh́n từ chỗ
này, quư vị mới hiểu pháp thế gian và Phật pháp
là một pháp, chẳng phải là hai pháp.
Do
vậy, trong thế giới Hoa Tạng, từ kinh Hoa Nghiêm,
ta thấy thế giới Hoa Tạng, từ kinh Vô Lượng
Thọ, sẽ thấy thế giới Cực Lạc, quư vị
thấy loại y báo và chánh báo trang nghiêm ấy, nhân gian và
cơi trời đều chẳng thể sánh bằng. Cổ
nhân đă nói một câu rất hay: “Chẳng đọc Hoa Nghiêm, sẽ không biết sự
phú quư trong nhà Phật”. Nơi nhân gian hay trên cơi trời,
kẻ phú quư trong nhân gian là đế vương! Sự phú
quư của các đế vương trên khắp thế giới,
nói chung là chẳng bằng [sự phú quư của các đế
vương] Trung Hoa. Sáu trăm năm trước, vào những
năm đầu khai quốc của nhà Minh, Trịnh Ḥa
đă xuống vùng Tây Dương bảy lần, đội
thuyền của ông hết sức to lớn. Hiện thời,
người phương Tây đă hiểu rơ, cũng nói lời
xuất phát từ lương tâm: “Người phát hiện
quả địa cầu này là người Hoa!” Trịnh
Ḥa và hạm đội đă đến nước Mỹ,
đến Phi Châu, đến Úc, gần như mỗi
nơi trên thế giới, người Hoa đều tới
trước. Người ngoại quốc phát hiện những
tân đại lục trễ hơn Trịnh Ḥa và hạm
đội hai, ba trăm năm. Người Hoa phát hiện
toàn bộ thế giới. V́ thế, có
khá nhiều vị lănh đạo quốc gia được
Trịnh Ḥa mời đến Trung Hoa du lịch, ngoạn cảnh.
Họ thấy đại điện của đế
vương Trung Hoa (hoàng cung) đều hết sức kinh
ngạc. Không chỉ là ở ngoại quốc chẳng
có, mà đúng là ngay cả nằm mộng cũng không tưởng
tượng được, mới thấy sự phú quư của
đế vương Trung Hoa [đến cỡ nào]!
Nhưng
kinh Phật dạy, đế vương trong nhân gian nếu
so sánh với Đao Lợi Thiên, Đao Lợi Thiên đáng
xưng là vương, đế vương nhân gian sẽ
biến thành lũ ăn mày! Đao Lợi Thiên đem so với
Đại Phạm Thiên, sẽ lại chẳng bằng.
Đại Phạm Thiên so với Ma Hê Thủ La Thiên, lại
là đuổi theo hít bụi chẳng kịp! Sự phú quư của
Ma Hê Thủ La thiên vương đem so với Hoa Tạng, so
với Cực Lạc, sẽ giống như trong kinh Phật
đă tỷ dụ: Hoa Tạng, Cực Lạc là hoàng cung, Ma
Hê Thủ La thiên vương là gă ăn mày! Làm sao có thể
so sánh cho được! Vậy th́ có cần phú quư hay không?
Cần chứ! Phú quư do đâu mà có? Chính là quả báo của
việc đoạn ác tu thiện, tích lũy công đức.
Quả báo của tạo tác ác nghiệp là tam đồ
địa ngục, chúng ta phải hiểu rơ, phải hiểu
minh bạch điều này. Ai nấy mong hưởng phước,
ai nấy mong phú quư, phải biết thực hiện như
thế nào? Đoạn ác, tu thiện. “Chư ác mạc tác, tuế tuế b́nh an; chúng thiện
phụng hành, vạn sự như ư” (Đừng làm các
điều ác, năm nào cũng b́nh an; vâng làm các điều
thiện, mọi chuyện đều như ư), chẳng có điều
ǵ không như ư! Nhân quả báo ứng là thật, là chân lư!
Ngay cả “vạn pháp đều
là Không” như Phật pháp đă dạy, nhân quả chẳng
không!
Do
vậy, tôi quy nạp nền giáo dục truyền thống
của Trung Hoa thành bốn thứ:
1)
Thứ nhất là giáo dục luân lư, dạy chúng ta về mối
quan hệ giữa con người với nhau: Quan hệ cha
con, quan hệ vợ chồng, quan hệ anh em, quan hệ bạn
bè, quan hệ vua tôi. Trong nhân gian, có thể nói là trong cơi
người và trên cơi trời, quan hệ giữa chúng ta và hết
thảy chúng sanh chẳng ngoài năm loại lớn ấy.
Phải hiểu rơ quan hệ, phải biết đối xử
như thế nào, phước đức ở ngay trong ấy.
V́ thế, giáo dục là dạy những thứ này, chẳng
phải là điều ǵ khác.
2)
Thứ hai là giáo dục đạo đức. Giáo dục đạo
đức chú trọng cách đối xử trong các mối
quan hệ khác nhau như thế nào, giữa con người
với nhau, giữa con người và thiên nhiên, giữa con
người với các chiều không gian khác nhau. Phật
pháp gọi [các chiều không gian khác nhau] là “mười pháp giới”. Chúng ta cư xử như
thế nào để những mối quan hệ ấy được
tốt đẹp. Đấy chính là giáo dục đạo
đức.
3)
Thứ ba là giáo dục nhân quả, vô cùng quan trọng!
4)
Thứ tư chính là cái được gọi là “giáo dục tôn giáo” trong hiện
thời. Giáo dục tôn giáo thiên trọng xuất thế gian.
Xuất thế và thế gian là một, chẳng hai. Đó gọi
là “xuất thế thật sự”.
“Cực cao minh nhi đạo trung dung” (Tột bậc cao
minh, nhưng theo đường lối trung dung), chúng ta chớ
nên không hiểu.
V́
thế, bốn loại giáo dục ấy chính là nội dung
của nền giáo dục truyền thống Trung Hoa. Dùng
phương pháp ǵ, thực hiện như thế nào, để
có thể khôi phục sự an định và ḥa b́nh trong xă hội,
hóa giải hết thảy xung đột, mâu thuẫn? Phải
cậy vào giáo dục. Ĺa khỏi giáo dục, [nhờ vào] những
thứ khác, sẽ chẳng thể thực hiện
được! V́ thế, từ năm ngàn năm kinh nghiệm
của Trung Hoa, luôn nói là “tu thân
vi bổn, giáo học vi tiên” (tu thân làm gốc, giáo học
làm đầu).
Ông
Thang Ân Tỷ (A. Toynbee) của nước Anh đă có viễn
kiến, có trí huệ, cho rằng: “Để giải quyết những vấn đề
xă hội trong thế kỷ hai mươi mốt, chỉ
có học thuyết Khổng Mạnh và Đại Thừa Phật
pháp”. Chuyện này tuyệt đối chẳng phải
là người Hoa tự ḿnh khoe khoang. Chẳng phải vậy,
mà là do người ngoại quốc nói, hết sức khách
quan! Văn hóa chẳng có quốc tịch. Văn hóa là tài sản
trí huệ chung của toàn thể nhân loại, bất cứ
ai [cũng đều] có thể học tập, sẽ có thể
khế nhập cảnh giới thù thắng nhiệm mầu.
Cảnh giới thù thắng nhiệm mầu là như
trước kia tiên sinh Phương Đông Mỹ đă nói:
“Sự hưởng thụ cao
nhất trong đời người”. V́ thế, thầy
dạy tôi, người ta không thể một ngày chẳng
đọc sách thánh hiền. Đọc sách thánh hiền mới
là sự hưởng thụ cao nhất trong đời
người. Sự hưởng thụ ấy chẳng liên
quan ǵ đến cuộc sống vật chất. Từ sách
vở, chúng ta thấy cuộc sống vật chất của
Khổng lăo phu tử chẳng giàu có, dư dả. Nói theo kiểu
hiện thời, phu tử thuộc loại trung lưu hạng
xoàng, có thể sống qua ngày, chẳng giàu có, dư dả.
Trong các học tṛ, cuộc sống nghèo khổ nhất là
Nhan Hồi. Kinh Thư đă chép: “Nhất
đan thực, nhất biều ẩm, cư lậu hạng,
nhân bất kham kỳ ưu” (Một giỏ cơm, một
cái bầu đựng nước uống, sống trong ngơ
nghèo cùng, người khác chẳng thể chịu đựng
nỗi vất vả ấy). Những kẻ b́nh phàm sẽ
cảm thấy chịu không nổi cuộc sống ấy,
quá khổ sở! “Hồi dă bất
cải kỳ lạc” (Nhan Hồi cũng chẳng thay
đổi niềm vui ấy). Khổng phu tử thấy
Nhan Hồi hằng ngày luôn hết sức vui sướng, ông
ta vui v́ điều ǵ? Cuộc sống tinh thần phong phú
đă khỏa lấp [những nỗi nhọc nhằn
trong] cuộc sống vật chất. Do vậy, nói thật
ra, cuộc sống vật chất chẳng cần phải
coi trọng, phải coi trọng cuộc sống tinh thần.
Đấy là kẻ đọc sách hiểu lư vậy!
Thích
Ca Mâu Ni Phật đă nêu gương tốt nhất cho chúng ta, thật sự là khó có.
Ngài đă đạt được phú quư, đáng nên hưởng
thụ. Thích Ca Mâu Ni Phật đă đạt được
[vinh hoa, phú quư], Khổng Tử và Nhan Hồi chẳng đạt
được. Thích Ca Mâu Ni Phật đă đạt
được; đă đạt được rồi thế
mà Ngài buông xả, sống cuộc đời như thế
nào? Sống cuộc đời của Nhan Hồi, c̣n khổ
hơn Khổng lăo phu tử! Lại phải nói là so với
Nhan Hồi, chỉ có [khổ nhọc] hơn, chẳng
hề kém! Nhan Hồi c̣n có cái ngơ nghèo hèn để ở, Thích
Ca Mâu Ni Phật nghỉ đêm dưới cội cây, giữa
trưa ăn một bữa, hằng ngày ra ngoài khất thực,
buổi tối t́m một cội cây to, ngồi xếp bằng
tĩnh tọa nghỉ ngơi đôi chút. Suốt đời
Ngài sống như vậy.
Những
người theo Thích Ca Mâu Ni Phật học tập
được gọi là tỳ-kheo. Tỳ-kheo (Bhikṣu) dịch sang nghĩa tiếng Hán là Khất Sĩ. Khất
(乞) là người ăn xin, Sĩ (士) là
có đạo đức, có học vấn. Nhóm người
ăn xin ấy có đạo đức, có học vấn.
Họ có [của cải, địa vị, danh vọng],
nhưng đă buông xả, chuyện này quá khó có, đă ban cho
chúng ta một khải thị rất to lớn. V́ sao các Ngài
phải làm như vậy? Làm như vậy có ư nghĩa ǵ?
Thưa cùng chư vị, kẻ b́nh phàm chẳng biết
trong ấy có niềm vui thú, có sự sung sướng. Thật
sự là sự hưởng thụ cao nhất trong đời
người chẳng ở nơi vật chất, mà là ǵ?
Chính là chẳng có phiền năo! Hễ có nhà, sẽ có phiền
năo! Nhất là trong xă hội hiện thời, quư vị có một
cái nhà, quư vị sẽ có rất nhiều nỗi phiền
năo! Xuất gia là thật sự xuất gia hay giả xuất
gia? Giả trất, chẳng thật! Ra khỏi cái nhà nhỏ
của quư vị, bèn dựng một ngôi chùa to! Cái nhà nhỏ
của quư vị chỉ có cha, mẹ, anh em mấy người;
dựng một ngôi chùa to là tạo ra rất nhiều tín
đồ, đồ đệ, mấy chục người,
mấy trăm người cùng sống với nhau, càng mệt
hơn! Chẳng hề xuất gia! [Chỉ là] ra khỏi một
cái nhà nhỏ, để đổi lấy một cái nhà to,
vẫn là chuyện khổ sở! Thật sự xuất
gia th́ phải như Thích Ca Mâu Ni Phật đă thị hiện.
Đó là thật sự xuất gia.
Sau
khi Phật giáo truyền đến Trung Hoa, các vị tổ
sư đại đức cũng sống trong tự viện
tùng lâm, các Ngài làm như thế nào? Các Ngài xác thực là khéo
dùng cái tâm, công đức thù thắng, nhiệm mầu, chẳng
giống như chúng ta trong hiện thời. Đấy là do
đại hoàn cảnh tại Trung Hoa và Ấn Độ
khác nhau! Trung Hoa có giáo huấn “hiếu
thảo cha mẹ, tôn trọng thầy”. Hơn nữa, từ
niên đại xa xôi, [luôn luôn là] tôn sư trọng đạo!
Đức Phật là thầy của chúng ta, làm sao có thể
để cho thầy đi xin ăn? Nếu thầy làm kẻ
ăn xin, học tṛ cũng đứng ngồi không yên, đáng
ngại quá! Xă hội cũng chửi bới, phê b́nh họ!
V́ thế, nhất định phải xây cất cung điện
cho thầy ở! Hoàng đế ở trong cung điện,
hoàng đế là học tṛ! Học tṛ sống trong cung
điện, nói chung là chẳng thể để thầy ở
trong nhà cửa xoàng xĩnh, tâm hoàng đế bất an. V́
thế, tự, miếu am, đường, đều phải
xây cất theo kiểu kiến trúc của hoàng cung. Chư vị phải biết kiến trúc của
hoàng đế là trên nóc lợp ngói màu vàng, chỉ có nhà
đế vương mới dùng, dân gian chẳng được
dùng! Chùa miếu đều dùng ngói vàng. Điều này biểu
lộ ḷng hiếu kính của đệ tử đối với
thầy. Những vị xuất gia ở nơi ấy, tâm
thái chẳng giống như chúng ta trong hiện thời.
Đạo tràng là do quốc gia xây dựng, là do các vị
trưởng giả đại phú dựng lên, là đạo
tràng thập phương, tuyệt đối chẳng phải
là sản nghiệp riêng tư của người xuất
gia nào. Chẳng phải vậy! Giống như khách sạn
trong hiện thời, phải hiểu đạo lư này.
Tuy
hoàn cảnh cư trụ rất tốt, quyết định
chẳng có tâm tham luyến. Thật sự thấy thấu
suốt, buông xuống, vẫn là có thể tuân thủ giới
luật do Thích Ca Mâu Ni Phật chế định cho người
xuất gia. Người xuất gia chẳng có tài sản, vẫn
là “ba y, một bát” y như cũ. V́ thế, người xuất
gia đến quải đơn trong tự viện, hành lư
rất đơn giản, ba y một bát. Khí hậu Trung Hoa
khác Ấn Độ. Ấn Độ là xứ nhiệt
đới, đúng là ba y một bát đă đủ. Người
Hoa c̣n phải có quần áo giữ ấm lúc Xuân, Thu. Trong
hoàn cảnh ấy, giới luật thông dung, có cho phép,
đó gọi là “khai duyên”. Bởi
lẽ, những thứ quần áo giữ ấm chẳng thể
không có. Nói thật ra, hành lư vẫn rất đơn giản,
chẳng hề dư thừa, đủ dùng là được
rồi. Quyết định chẳng coi tự viện là
tài sản của chính ḿnh, chẳng có quan niệm ấy. Nếu
coi nó là tài sản của chính ḿnh, coi các đồ đệ
là quyến thuộc của chính ḿnh, người [xuất
gia] ấy chẳng thoát khỏi lục đạo luân hồi,
hỏng bét! Phải nên như thế nào? Phải nên giống
như mười một bài kệ trong phần đầu
của phẩm kinh này đă nói! Những người ấy
đều có gia quyến, giống như hiện thời
chúng ta có tự, viện, am, đường, chẳng chấp
trước. Tại gia hay xuất gia, hễ là Bồ Tát, là
người tu hành thật sự, hoàn toàn chẳng vứt bỏ
gia nghiệp, tâm địa chẳng nhiễm. Công phu ấy
thuần thục; nói thật ra, c̣n cao hơn cảnh giới
của người xuất gia.
Chúng
ta mở kinh Vô Lượng Thọ ra. Phần đầu,
kinh văn giới thiệu những vị Thượng Thủ
của đại chúng tham dự pháp hội. Trước hết
là giới thiệu chúng tỳ-kheo, rồi đến Bồ
Tát chúng. Trong hàng Bồ Tát, sau khi giới thiệu mấy vị
như Văn Thù Bồ Tát, tiếp đó, lại giới
thiệu mười sáu vị Chánh Sĩ như ngài Hiền
Hộ. Mười sáu vị Bồ Tát ấy chính là hàng tại
gia Bồ Tát. Quư vị thấy tại gia Bồ Tát có đến
mười sáu vị, xuất gia Bồ Tát chỉ nhắc
đến bốn vị. Những vị tại gia Bồ
Tát toàn là thân phận Đẳng Giác Bồ Tát. Các Ngài có
địa vị b́nh đẳng với Văn Thù, Phổ
Hiền, Quán Âm, Thế Chí. Thành tựu của hàng tại
gia, ngài Duy Ma là tại gia Phật, b́nh đẳng với Thích
Ca Mâu Ni Phật, là Phật quả viên măn rốt ráo. Đấy
là Đại Thừa Phật pháp, là Nhất Thừa Phật
pháp, khích lệ các đồng học tại gia chớ nên
tự khinh, chớ nên tự ḿnh cam ḷng đọa lạc. [Hễ
cam ḷng đọa lạc là] sai mất rồi! Nhất
định phải hiểu rơ ư nghĩa to lớn trong Phật
pháp, liễu giải trạng huống sự thật.
Trong
Phật pháp, có nói “Thật
Tướng của các pháp”, hăy biết nghi thức ứng
hóa chúng sanh của Phật, Bồ Tát: “Đáng nên dùng thân ǵ để đắc độ,
bèn hiện thân phận như thế ấy để giúp đỡ,
giáo hóa chúng sanh”. Giáo hóa là dạy những ǵ? Nói chung, sẽ
là giúp đỡ hết thảy chúng sanh phá mê, khai ngộ, ĺa
khổ, được vui. Như vậy th́ quư vị mới
biết niềm vui của Phật, Bồ Tát là ǵ? Niềm
vui của Khổng Tử, Nhan Hồi là ǵ? Quư vị có thể
lănh hội. Thật sự là như ba câu đầu trong Luận
Ngữ, đó là cảnh giới của bậc thánh nhân. “Học nhi thời tập chi, bất
diệc duyệt hồ” (Học rồi thường
xuyên tập luyện, cũng chẳng vui sao?) Sự vui
sướng bậc nhất trong thế gian và xuất thế
gian, chẳng có niềm vui nào sánh bằng, chính là đọc
sách. Chẳng nhập cảnh giới ấy, sẽ không biết!
Họ làm sao hiểu được? Đă khế nhập
cảnh giới ấy th́ mới biết được. “Học nhi thời tập chi, bất
diệc duyệt hồ”. “Duyệt” là hỷ duyệt,
pháp hỷ sung măn, thường sanh tâm hoan hỷ. Sự hỷ
duyệt ấy chẳng từ sự kích thích bên ngoài, mà do
từ trong nội tâm phát ra, giống như nước suối,
tức “dũng tuyền”, vĩnh
hằng chẳng ngừng! Sự hỷ duyệt chính là sự
bổ dưỡng tốt nhất đối với thân thể
của chúng ta. Ngạn ngữ có câu: “Nhân phùng hỷ sự, tinh thần sảng” (Người
gặp chuyện vui, tinh thần sảng khoái). Người
vui sướng, toàn thân [đều cảm thấy] vui
sướng. Hiện thời, tiến sĩ Giang Bổn Thắng
của Nhật Bản đă làm thí nghiệm với nước
và đă chứng minh được điều này. Chúng tôi
thấy vậy rất hoan hỷ. Khi người ta đang
vui sướng, phản ứng nơi tế bào trên toàn thân
là kết tinh đẹp đẽ nhất, chẳng thứ
ǵ có thể sánh bằng. Tiến sĩ Giang Bổn Thắng
kể với tôi chuyện này. Ông ta đă làm thí nghiệm mấy
chục vạn lần trong mười năm. Bất cứ
thiện niệm nào, cũng chẳng thể sánh bằng hai
ư niệm “yêu thương” và “cảm ơn” đối với
phản ứng kết tinh của nước. Ông ta nói hai ư
niệm ấy có thể là cốt lơi của vũ trụ,
tôi bảo ông ta nói chẳng sai! Cốt lơi của vũ trụ
xác thực là “yêu thương”.
Từ
năm ngàn năm trước, quư vị đă thấy [cổ
nhân] phát hiện, nhận biết Ngũ Luân, họ cũng nghiêm
túc học tập, thực hiện. “Cha con có t́nh thân”, thân ái đấy! Nói theo Phật
pháp, sẽ là đại từ đại bi. Từ bi trọn
khắp pháp giới, đấy là chân tâm. Chân tâm, nói theo giáo
pháp Đại Thừa, sẽ là Bồ Đề tâm, chân
thành. Chân thành từ bi, thanh tịnh từ bi, b́nh đẳng
từ bi, chánh giác từ bi. Ḷng từ bi ấy trọn khắp
hư không pháp giới, trọn khắp hết thảy chúng
sanh. Đấy là ai? Là con người thật sự của
chính ḿnh, được gọi là tự tánh, hay bản tánh.
Tam Tự Kinh là sách dạy trẻ vỡ ḷng, câu đầu
tiên là “nhân chi sơ, tánh bổn
thiện” (con người thoạt đầu, tánh vốn
lành). Ḷng từ bi, yêu thương chính là bổn thiện, bản
tánh vốn lành, ai nấy đều là như vậy. Quư vị
thấy vũ trụ hài ḥa như thế đó, chúng sanh
đáng yêu như thế đó, nay v́ sao biến thành nông nỗi
này? Đức Phật dạy, [nguyên nhân là] do chúng sanh mê mất
tự tánh. Mê như thế nào? Hễ mê, bèn biến Ái thành
t́nh, biến thành tham, sân, si, mạn nghi, biến thành mừng,
giận, buồn, vui, yêu, ghét, ham muốn, biến thành thất
t́nh ngũ dục, biến chất. Cái Thể th́ sao? Thể
vẫn là nó. V́ thế, vô lượng vô biên phiền năo, thất
t́nh, ngũ dục, bản chất của chúng là bản
tánh vốn lành.
Đối
với sự giáo dục ấy, mục tiêu giáo dục chung
cực của Phật giáo là ở chỗ nào? Nhằm dạy
chúng ta hăy từ những tập tánh, tập khí phiền năo
ấy mà quay trở lại, trở về bản tánh. Đấy
là mục tiêu chung cực của giáo dục. Nho gia nói “tánh con người vốn lành”,
“nhân chi sơ, tánh bổn thiện”,
Phật pháp nói là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Bổn
Thiện là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Giác bèn
vui sướng, mê liền hồ đồ, có khổ. Giác là
lạc. V́ thế, giúp đỡ chúng sanh ĺa khổ
được vui; khổ và lạc là nói theo quả. Ĺa khổ
như thế nào? Phải giác ngộ, phải phá mê. Nếu
quư vị muốn đạt được lạc, phải
giác ngộ, phải khai ngộ. Hễ phá mê khai ngộ, quư
vị sẽ ĺa khổ được vui. Thật sự phá
mê khai ngộ; sau đấy, mới nói với quư vị một
câu thật thà, “tâm tưởng
sự thành”. Ư niệm vừa mới dấy lên, toàn thể
vũ trụ sẽ nẩy sanh biến hóa theo ư niệm của
quư vị, giống như tiến sĩ Giang Bổn Thắng
đă làm thí nghiệm với nước vậy: Chúng ta khởi
tâm động niệm, nước lập tức nẩy
sanh biến hóa. Ư niệm thiện, ư niệm bất thiện,
trong tâm hoan hỷ, hoặc trong tâm ưu lự, thảy
đều có phản ứng. Đáng tiếc là nhục nhăn
của chúng ta chẳng trông thấy sự phản ứng ấy,
phải dùng kính hiển vi, trông thấy từ kính hiển
vi.
Quư
vị hiểu rơ đạo lư này, sẽ hiểu phản ứng
mật thiết nhất đối với tâm t́nh của
chúng ta là ǵ? Chính là mỗi tế bào trên thân thể chúng ta;
chúng tùy thuận sự mừng, giận, buồn, vui của
chúng ta mà nẩy sanh phản ứng. V́ thế, người
thường sanh tâm hoan hỷ, thân thể khỏe mạnh.
Người thường sầu khổ, sẽ rất dễ
suy lăo, mà cũng lắm bệnh. Già, bệnh do từ ưu
lự sanh ra. “Nhân phùng hỷ sự,
tinh thần sảng” (Người gặp chuyện vui,
tinh thần sảng khoái), chánh xác, chẳng sai chạy tí
nào! “Ưu năng sử nhân
lăo” (Lo âu khiến cho con người già nua). Người
lắm nỗi ưu lự, sẽ lăo hóa rất nhanh, do
nguyên nhân nào? V́ ư niệm ấy khiến cho các tế bào trên
toàn thân, khí quan trên toàn thân đều nẩy sanh phản ứng.
Chuyện này chứng tỏ lời đức Phật đă
dạy trong kinh: “Hết thảy
các pháp sanh từ tâm tưởng”; điều này chẳng sai!
V́
thế, chẳng thể không cần nhà, chẳng thể
không yêu thương. Quư vị cần,
yêu thương, nhưng chớ nên chấp trước.
Đó gọi là công phu, đó gọi là giác hay mê. Người
giác chỉ có lạc, chẳng có khổ, chỉ có những
điều chánh đáng, chẳng có phản diện.
Đấy mới gọi là “chân
lạc”. Phàm phu th́ có sự vui sướng thù thắng
nơi gia đ́nh. Họ có vọng tưởng, có phân biệt,
có chấp trước; do vậy, niềm vui thuần chánh,
thuần tịnh, thuần thiện bị biến chất.
Sự biến chất ấy chắc chắn là lạc ít,
khổ nhiều. Quư vị thường bận ḷng, thường
lo nghĩ, nay chúng ta nói là “bận tâm quá nhiều chuyện”,
sai lầm mất rồi! V́ thế, nếu quư vị thật
sự tham cứu thấu triệt đạo lư này, [sẽ
hiểu] mục tiêu chung cực của Phật pháp là nhằm
thành tựu ai? Thành tựu hàng tại gia Bồ Tát!
Xuất
gia Bồ Tát là sơ học, là đang học tập; tại
gia Bồ Tát là đă thành công. Cũng giống như nói xuất
gia Bồ Tát là c̣n đang theo học trong nhà trường,
chưa tốt nghiệp; tại gia Bồ Tát đă tốt
nghiệp, họ tạo lập sự nghiệp trong xă hội.
Quư vị thấy hàng xuất gia Bồ Tát dần dần chứng
đắc A La Hán, giống như nắm được học
vị Học Sĩ (Cử Nhân). Đạt đến Bồ
Tát, th́ giống như giành được Thạc Sĩ, thành
Phật giống như giành được mảnh bằng
Tiến Sĩ. Sau khi đă nắm được, sẽ
như thế nào? V́ đại chúng trong xă hội mà phục
vụ. V́ đại chúng trong xă hội phục vụ chính
là “chúng sanh vô biên thệ nguyện
độ”. Dùng phương pháp ǵ? “Độ” (度) là phục vụ. Phục vụ bằng
phương pháp ǵ, bằng h́nh thức ǵ? Chẳng có phương
pháp nhất định, chẳng có h́nh thức nhất
định. Đáng nên dùng thân ǵ để
độ, bèn hiện thân ấy. Từ ba mươi hai ứng
thân của Quán Thế Âm Bồ Tát, quư vị liền
hiểu rơ. V́ thế, tŕnh độ của tại gia Bồ
Tát cao hơn xuất gia quá nhiều! Ai hiểu đạo
lư này? V́ thế, các đồng học tại gia đừng
coi thường chính ḿnh, đương nhiên là cũng chớ
nên ngạo mạn. Ngạo mạn là đại phiền
năo, là chướng ngại trọng đại. Hăy khéo nêu
gương tại gia học Phật, quư vị là Bồ
Tát thật sự!
Người
nhà, quyến thuộc, cha con, anh em có duyên phận thân thiết
nhất, gần gũi nhất. Nói cách khác, đấy là những
người ưu tiên được độ trước
nhất. Quư vị phải dạy họ như thế nào? Ở
ngay trong thế gian mà xuất thế gian, đấy là Phật
pháp viên măn rốt ráo, là mục tiêu chung cực của Phật
pháp, mới có thể nói là “phổ
độ chúng sanh”. Nhưng không trải qua sự tu học
giống như xuất gia, mà mong thật sự thực hiện
một gia đ́nh Bồ Tát, vẫn là một câu quen thuộc
“chẳng có lẽ ấy”!
Chư vị thấy Nam Truyền Phật Giáo, giống
như Thái Lan là xứ tôi đă đến thăm, ai nấy,
kể cả quốc vương và vương tử, tối
thiểu là trong đời cũng phải xuất gia ba
tháng! Kẻ b́nh phàm, thời gian [xuất gia] càng dài hơn,
có thể hoàn tục bất cứ lúc nào, có thể xuất
gia bất cứ lúc nào! Xuất gia để tiếp nhận
sự giáo dục của đức Phật và Bồ Tát. Phật
và Bồ Tát có nghĩa là ǵ? Phật là thánh nhân, Bồ Tát là
hiền nhân. Tiếp nhận sự giáo dục của Phật
và Bồ Tát chính là tiếp nhận sự giáo dục của
thánh hiền. Nay chúng ta nói tới chuyện tiếp nhận
nền giáo dục thánh hiền, mọi người đă
nghe rất quen tai, chẳng hoài nghi chút nào. Nghe nói “tiếp nhận sự giáo dục
của Phật, Bồ Tát” sẽ chẳng hiểu, ngỡ
đó là chuyện mê tín. Phật, Bồ Tát là tiếng Ấn
Độ, “thánh hiền” là tiếng
Hán, có cùng một ư nghĩa. Tiếp nhận sự giáo dục
của thánh hiền! Tại gia sống cuộc đời thánh
hiền, [đời sống của] tại gia sẽ viên
măn.
Giáo
dục thánh hiền và phú quư, bần tiện chẳng liên
quan với nhau. Chẳng phải là giáo dục thánh hiền [sẽ
dẫn đến] đại phú, đại quư; [nếu hiểu
như vậy], quư vị đă sai mất rồi, hoàn toàn lầm
mất rồi! Phú quư và bần tiện là nhân quả. Nếu
giáo dục thánh hiền là đại phú, đại quư, vậy
th́ Khổng Tử và Nhan Hồi lẽ ra phải phú quư.
Đấy là những bậc thánh nhân! Thánh nhân cũng có vị
rất túng quẫn, phải biết điều này. Do nghèo,
giàu, sang, hèn là mạng, trong mạng của quư vị chẳng
có, quư vị đến đâu để cầu? Có cầu,
cũng chẳng cầu được! V́ thế, Phu Tử
nói: “Nếu phú quư có thể cầu,
ta cầm roi ngựa cho kẻ khác, chăn ngựa cho kẻ
khác, ta cũng bằng ḷng”. Nếu chẳng cầu
được, cần ǵ cứ phải [truy cầu khốn
khổ]! Chẳng cần chầu chực kẻ khác như
vậy, chẳng cầu được! Bởi lẽ,
điều này [phải là] trong mạng có, [th́ mới ḥng cầu
được]. “Trong mạng
có” là như thế nào? Trong đời quá khứ đă tu
cái nhân, cái nhân của sự phú quư là bố thí. Do tài bố
thí, đạt được của cải, quư vị phát
tài to. Do pháp bố thí, được thông minh, trí huệ.
Do vô úy bố thí, được khỏe mạnh, sống
lâu. Trong hiện thời, những kẻ làm quan, làm đế
vương, làm Tổng Thống, làm bộ trưởng,
làm tỉnh trưởng, làm huyện thị trưởng,
tức là những kẻ lănh đạo, đều là quả
báo đạt được do đă thực hiện chuyện
hộ pháp hoặc hoằng pháp trong Phật môn. Quả báo ấy
thù thắng khôn sánh. Tuy “thắng”,
chẳng diệu! V́ họ chấp tướng, chẳng ĺa tướng. Nếu ĺa tướng, họ sẽ thành Phật,
thành Bồ Tát, thành A La Hán. Chẳng ĺa tướng, quả
báo của họ là phước báo nhân thiên. Chuyện là
như thế đó, học Phật chớ nên không biết
[chuyện này]. Nay thời gian đă hết rồi, chúng ta
nghỉ ngơi mấy phút.
***
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin mời
ngồi xuống. Chúng ta lại xem tiếp bài kệ thứ
nhất.
(Kinh) Phật tử! Bồ Tát tại
gia, đương nguyện chúng sanh, tri gia tánh Không, miễn
kỳ bức bách.
(經)佛子。菩薩在家。當願眾生。知家性空。免其逼迫。
(Kinh: Này Phật tử! Bồ Tát tại gia, hăy nguyện
chúng sanh, biết nhà tánh Không, thoát khỏi bức bách).
Trong
chú giải, Thanh Lương đại sư đă bảo:
(Sớ)
Kim sơ tại gia hữu thập nhất nguyện, sơ
nhất.
(疏)今初在家有十一願,初一。
(Sớ: Nay trước hết, hàng tại gia có
mười một nguyện, điều đầu tiên).
Tức
là bài kệ thứ nhất.
(Sớ)
Tổng cử tại gia, dĩ gia thị tham ái hệ phược
sở cố. Nhược liễu tánh Không, tắc tuy xử
cư gia, gia bất năng bách.
(疏)總舉在家,以家是貪愛繫縳所故。若了性空,則雖處居家,家不能迫。
(Sớ: Nêu chung về tại gia. Bởi
nhà chính là chỗ trói buộc bởi tham ái. Nếu hiểu
rơ tánh [của nhà] là Không, tuy ở tại nhà, nhà chẳng thể
bức bách [hành nhân]).
Tuy chú giải không nhiều, đă nêu rơ ư nghĩa. Học
Phật th́ các đồng học tại gia vẫn chiếm
đa số, hăy nên học tập như thế nào? Nói thật
ra, hiện thời, xuất gia và tại gia chẳng có ǵ
phân biệt! V́ sao? Cái tâm thật sự xuất gia chẳng
tồn tại! Trong phần trước, tôi đă thưa
bày cùng chư vị, có bốn loại “gia”. Đến đoạn sau nói về “xuất gia”, chúng tôi sẽ lại
thưa tŕnh cặn kẽ cùng quư vị, có điền trạch
gia, có phiền năo gia, có tam giới gia, có vô minh gia. Tại
gia có trọn đủ bốn loại “gia” ấy! Nói cách khác, quư vị có tài sản vật
chất, gia nghiệp, và gia sản. Đương nhiên là
trong gia đ́nh, phiền năo cũng nhiều! Ngạn ngữ
thường nói: “Gia gia hữu
bổn nan niệm đích kinh” (Nhà nào cũng có một
quyển kinh vốn khó đọc). Chuyện này là sự thật;
do vậy, khổ sở và phiền lụy v́ nhà! Bồ Tát và
phàm phu khác nhau, phàm phu mê chứ bất giác, vọng niệm
và tà niệm rất nhiều! Tà chứ chẳng chánh, tập
khí phiền năo rất nặng. Đấy là nhiễm ô, nhiễm
chứ không tịnh. Bồ Tát giác ngộ, hoàn toàn
tương phản với phàm phu. Bồ Tát giác chứ không
mê, chánh chứ không tà, tịnh chứ chẳng nhiễm. Gia
đ́nh Bồ Tát là gia đ́nh khuôn mẫu cho thế gian.
“Thế gian” có phạm vi rất
lớn. “Thế” (世) là
nói về thời gian; tam thế, có quá khứ, hiện tại,
tương lai. “Gian” (間) là
nói về không gian. Do vậy, “thế
gian” và “thế giới”
có ư nghĩa hoàn toàn như nhau. Nói theo khoa học hiện thời,
thời gian và không gian, [hay c̣n gọi tắt là] Thời
Không. Phạm vi của thời gian và không gian quá lớn! Quá
khứ vô thỉ, vị lai vô chung (quá khứ không có khởi
đầu, tương lai chẳng có kết thúc), đấy
là nói về thời gian. Đối với không gian, nay chúng
ta nói là “vũ trụ”, chẳng
có ngằn mé! Phật pháp quen nói là “thập phương tam thế”. Chư vị nên hiểu:
Trong “thập phương tam thế”
có bao nhiêu thế giới, nói theo danh từ khoa học hiện
thời, [sẽ là] có bao nhiêu tinh hệ (galaxy). Đại tinh
hệ, hiện thời thường gọi là “đại tinh hệ”. Hiện
thời, Ngân Hà (hệ Ngân Hà) được gọi là
“đại tinh hệ”. C̣n có những đại tinh hệ
lớn hơn nữa do vô số hệ Ngân Hà hợp thành
hay chăng? Khoa học vẫn chưa phát hiện, trong kinh
Phật đă có [đề cập]. Trong kinh Phật có
đại thế giới, do các hệ Ngân Hà làm cơ sở
để hợp thành. Hăy c̣n có thế giới lớn
hơn nữa! Chúng ta đă đọc phẩm Hoa Tạng
Thế Giới và phẩm Thế Giới Thành Tựu trong
những phần trước, thế giới được
nói trong kinh Hoa Nghiêm so với những phát hiện và hiểu
biết trong khoa học hiện thời, chẳng biết lớn
hơn bao nhiêu lần, rộng sâu chẳng có ngằn mé! Thế
giới và thế gian như thường nói đều
được gồm trọn trong ấy!
Ở
trong ấy, có bao nhiêu chúng sanh? Chúng ta chỉ có thể dùng
[các từ ngữ] “vô lượng,
vô biên” và “vô số, vô tận”
để h́nh dung. Tâm lượng Bồ Tát “đương nguyện chúng sanh”, nguyện cho tất
cả chúng sanh trong hết thảy các thế giới trọn
khắp pháp giới hư không giới. Tâm lượng ấy
to rộng, chúng ta phải học tập. Một trăm bốn
mươi mốt nguyện, câu thứ hai trong mỗi nguyện
đều là “đương
nguyện chúng sanh”, đều
là tâm lượng to ngần ấy. V́ vậy, nói thông thường,
đọc kinh Hoa Nghiêm th́ mức thu hoạch thấp nhất
sẽ là tâm lượng to hơn một chút. Có thể to
hơn một chút, chứ [thật sự] đạt đến
mức độ ấy (mức độ tận hư
không khắp pháp giới) rất khó! Nếu thật sự
đạt đến mức độ ấy, quư vị sẽ
chẳng phải là phàm phu, mà tối thiểu là Pháp Thân Bồ
Tát. Quư vị là Phần Chứng Tức Phật.
“Tri gia tánh Không”, câu này trọng
yếu nhất! “Gia” là một
vài chúng sanh hữu duyên với chúng ta. Cũng phải nói rơ
cùng quư vị về chúng sanh. Hai chữ “chúng sanh” xét theo nghĩa gốc, [sẽ là] hiện
tượng được sanh khởi do các duyên ḥa hợp,
bèn gọi là “chúng sanh”. Chúng
ta hăy ngẫm xem, có pháp nào trong thế gian chẳng phải
là chúng sanh? Động vật là do các duyên ḥa hợp mà sanh,
sanh ra hiện tượng như thế ấy. Thực vật
cũng là do các duyên ḥa hợp mà sanh. Khoáng vật, núi, sông,
đại địa, vẫn là do các duyên ḥa hợp mà sanh.
Bất cứ hiện tượng nào trong trọn khắp
pháp giới hư không giới, ngay như chư Phật, Bồ
Tát ứng hóa trong thế gian, đáng nên dùng thân ǵ để
đắc độ bèn hiện thân ấy, cái thân do các Ngài
đă hiện cũng là do các duyên ḥa hợp mà sanh. Danh
tướng và ư nghĩa được bao hàm trong [từ
ngữ] “chúng sanh” quá sâu, quá
rộng, sâu rộng chẳng có ngằn mé!
Trong
quan niệm của người b́nh phàm hiện thời, hễ
thấy chữ “chúng sanh”,
luôn nghĩ đến rất nhiều người. Thật
ra, đấy chẳng phải là nghĩa gốc của “chúng sanh”. Nghĩa gốc của
“chúng sanh” là “hiện tượng được sanh khởi do tất
cả hết thảy các duyên ḥa hợp”. Đương
nhiên là chúng ta đọc kinh, phải xem phần kinh văn
trước và sau đó! Câu “đương
nguyện chúng sanh” trong văn tự ở đây đă
bao hàm cảnh giới rất sâu. Nó bao gồm động vật,
thực vật, và khoáng vật. V́ sao nói [từ ngữ “chúng sanh”] bao quát nhiều
đến thế? Động vật chẳng cần phải
nói; hết thảy các chúng sanh đều có nhà. Thực vật
th́ như cây cối, hoa cỏ, tôi tin là chư vị đă
từng nghe nói có thần cây, thần thảo mộc,
cũng là do các duyên ḥa hợp mà sanh ra những thứ ấy.
Đối với khoáng vật, quư vị thấy có thần
núi, thần biển (biển cả có hải thần), sông
ng̣i có thần sông, có Hà Bá. Đào một cái giếng, trong giếng
cũng có thần. Khoáng vật cũng được bao gồm
[trong từ ngữ “chúng sanh”].
Đông đảo các chúng sanh như vậy đều
chưa khai ngộ. Chỉ cần chưa khai ngộ, họ
sẽ t́m một “gia”, họ
đều có gia tộc! Thần cây có gia tộc, thần thảo
mộc cũng có gia tộc của họ. Súc sanh lại
càng chẳng cần phải nói nữa! Kiến có gia tộc
của kiến, ong mật có gia tộc của ong mật, cọp
có gia tộc của nó. Mỗi động vật đều
có ổ của nó, phạm vi to ngần ấy! Không chỉ là
mong mỏi gia tộc của loài người giác ngộ,
[mà c̣n mong mỏi] gia tộc của súc sanh cũng giác ngộ,
gia tộc của quỷ thần cũng sẽ giác ngộ,
gia tộc của thiên thần cũng sẽ giác ngộ. Chúng
sanh trong chín pháp giới thảy đều giác ngộ,
đều sẽ “tri gia tánh
Không”. Người “biết
tánh của nhà là Không” chính là Bồ Tát.
Có
cần “gia” hay không? Cần
chứ! Cuộc sống trong gia đ́nh hết sức tốt
đẹp. V́ sao? Người một nhà là quyến thuộc
Bồ Tát, là gia đ́nh Bồ Tát. Ngũ luân bát đức
như đă nói trong nền giáo học truyền thống
chính là giáo dục nhân quả và tôn giáo. Mỗi cá nhân đều
đạt tới viên măn, đấy là gia đ́nh Bồ
Tát. Chỉ cần trong ấy có một vị Bồ Tát, vị
ấy sẽ biết cách dạy bảo người nhà. “Tu thân vi bổn, giáo học vi tiên”
(Tu thân làm gốc, giáo học làm đầu). Giáo học th́
dạy từ nơi đâu? Dạy từ người nhà!
Dạy người nhà chẳng tốt, tức là quư vị
tu thân chưa tốt. Chính ḿnh thật sự tu thân tốt
đẹp, quư vị sẽ có thể cảm hóa người
một nhà; đấy là đạo lư nhất định.
Khuôn
phép tốt nhất tại Trung Hoa vào thời cổ là vua
Thuấn. Chư vị đọc những ghi chép lịch sử,
[sẽ thấy] thời đại Nghiêu Thuấn cách hiện
thời gần như bốn ngàn năm. Hoàn cảnh sống
của nhà vua vốn rất tốt đẹp, rất bất
hạnh là mẹ mất sớm. Cha lại cưới d́ ghẻ,
d́ ghẻ cũng sanh con thơ. D́ ghẻ bất công, đối
xử với nhà vua rất tệ, luôn mong diệt trừ
ông ta. Phụ thân là kẻ chẳng có trí huệ, nghe lời
vợ, cho nên cha cũng đối xử rất tệ với
ông ta. Trong một gia đ́nh như vậy, ai cũng mong hại
nhà vua, lại c̣n luôn muốn đẩy nhà vua vào chỗ chết.
Sống trong hoàn cảnh ấy, xă hội hiện thời sẽ
bảo là “ngược đăi
nhi đồng”. Đúng là người nhà đă ngược
đăi vua Thuấn đến mức cùng cực!
Nhưng
vua Thuấn luôn hiếu thuận, tuyệt đối chẳng
nghĩ cha mẹ phạm lầm lỗi. Đúng như một
vị Bồ Tát được nói trong Phật pháp, chỉ
thấy lỗi của chính ḿnh, chẳng thấy lỗi của
kẻ khác. Vua Thuấn đối với cha, đối với
d́ ghẻ, đối với em trai do d́ ghẻ sanh ra, thật
sự chẳng thấy lỗi lầm của họ. Đọc
hai câu này từ kinh Phật, chúng ta vẫn chưa lănh hội
sâu xa. Đọc chuyện vua Thuấn, chúng ta sẽ lănh hội
rất ư là sâu! Nhà vua xác thực là chẳng thấy [lỗi
của kẻ khác], chỉ thấy lỗi của chính ḿnh: “Bản
thân chưa làm đủ tốt, cho nên cha, mẹ, em trai
không ưa ta!” Hằng ngày nghĩ đến lỗi lầm
của chính ḿnh, hằng ngày sửa đổi khuyết
điểm của chính ḿnh. Ba năm sau, do sửa đổi
hằng ngày, thật sự biến thành người hoàn mỹ,
chẳng có lầm lỗi. Nhà vua đă thành công, thật sự
trở thành thánh nhân.
Nay
chúng ta chẳng trở thành thánh nhân, lầm lỗi ở chỗ
nào? Hoàn toàn tương phản với vua Thuấn, chẳng
biết lầm lỗi của chính ḿnh, chuyên môn thấy lầm
lỗi của kẻ khác! V́ thế, quư vị vĩnh viễn
chẳng giác ngộ, tâm thuật của quư vị vĩnh viễn
bất chánh! Tâm quư vị chẳng thanh tịnh, đọa lạc
trong “mê, tà, nhiễm”, chẳng
thoát ra được! Gặp phải người, sự,
vật chẳng vừa ư, luôn oán trời hờn người,
làm sao chẳng khổ cho được? Chuyện này
trước hết phát sanh từ chỗ nào? Trong gia
đ́nh của chính quư vị. Kẻ làm cha mẹ trong hiện
thời thấy con cái chẳng nghe lời, thấy lầm
lỗi của chúng nó. Con cái hằng ngày thấy khuyết
điểm của cha mẹ, anh em ḍm ngó lỗi lầm của
nhau, đều chẳng biết chính ḿnh có lầm lỗi. V́
vậy, gia đ́nh trong hiện thời khổ nhiều, vui
ít! Khi chưa thành gia lập nghiệp th́ hâm mộ, mong mỏi
thành gia lập nghiệp. Khi đă thành gia lập nghiệp,
hối hận chẳng kịp! V́ thế, chúng ta hăy nên học
Phật, nghe nhiều, xem nhiều, nhất định là phải
đọc sách thánh hiền cho nhiều. Chẳng đọc
sách thánh hiền, sẽ không được. Sách thánh hiền
hướng dẫn chúng ta đi theo nẻo chánh.
Những
điều thuần chánh nhất, thù thắng nhiệm mầu
nhất nằm trong sách vở thánh hiền của Nho và Phật,
hễ đọc, nhất định phải hiểu ư
nghĩa của chúng. Sau khi đă đọc, nhất định
phải vận dụng [những giáo huấn ấy] vào cuộc
sống hằng ngày của chính ḿnh. Có như vậy, chúng
ta mới thật sự đạt được lợi
ích. Chỗ tốt đẹp trong chuyện đạt
được lợi ích được biểu hiện bằng
“pháp hỷ sung măn, thường
sanh tâm hoan hỷ”, biểu hiện thành bụng dạ rộng
răi, chẳng có ǵ không thể bao dung, phiền năo nhẹ
nhàng, trí huệ tăng trưởng. Người ấy lẽ
nào chẳng vui sướng? Chính ḿnh đă thành tựu,
đương nhiên là chính ḿnh sẽ giúp đỡ người
nhà. Đấy là đạo lư nhất định! Quyết
định sẽ ảnh hưởng người nhà, hằng
ngày sống cùng nhau, lẽ đâu chẳng bị ảnh
hưởng! Lâu ngày chầy tháng, dẫu là kẻ tối tăm,
ương bướng, chậm lụt, cũng sẽ dần
dần bị cảm động.
Chúng
ta thấy vua Thuấn mất ba năm cảm động
cha, mẹ, người nhà. Thuở ấy là thời đại
thượng cổ, nói chung là phong tục xă hội và ḷng người
thuần phác, [thế mà] phải tốn thời gian ba
năm! Nay trong xă hội hiện tiền, ba năm chẳng
được, phải mất bao lâu? Phải là ba
mươi năm. Ba mươi năm sẽ khiến cho
người nhà quư vị quay đầu, người một
nhà sám hối, ôm nhau đau xót khóc ṛng! Trong quá khứ đă
cư xử sai quấy, [hiện thời] quay đầu là
bờ, người nhà quư vị đă giác ngộ! V́ sao? Ai
nấy đều có lương tâm, bản tánh vốn lành;
v́ quư vị mê đă lâu, mê quá sâu, chẳng dễ quay đầu!
V́ thế, nhất định là phải giáo dục sâu thêm
để cảm hóa rất sâu, họ sẽ giác ngộ, sẽ
hiểu rơ, quay đầu là bờ! Cảm hóa sâu đậm
phải tốn thời gian lâu dài. Chẳng tốn thời
gian lâu dài, sẽ không được!
Hiện
thời, chúng ta tiếp nhận giáo dục, tức là tiếp
nhận giáo huấn của Khổng Mạnh và giáo huấn của
đức Phật hun đúc trong nhiều năm, chúng ta mới
thật sự giác ngộ. Đấy chính là kinh nghiệm học
tập của bản thân tôi. Từ lúc hai mươi sáu tuổi,
thầy dạy tôi những thứ ấy! Trong cuộc sống,
tôi đă t́m được một con đường, t́m
được mục tiêu. Năm mươi lăm năm giùi
mài chẳng bỏ, hằng ngày huân tập theo một mục
tiêu, một phương hướng ấy. Công phu dần
dần tiến bộ, chẳng phải là thành tựu trong
một thời gian ngắn ngủi! Thật sự quay lại,
rất tự nhiên, thầy dạy “thấy thấu suốt, buông xuống”, tôi làm rất tự nhiên, [phải
mất thời gian] ba mươi năm! Mười năm
đầu là miễn cưỡng, tốc độ tiến
triển rất chậm. Sau mười năm, chỉ cần
quư vị chẳng thoái chuyển, chỉ cần quư vị tiếp
tục nỗ lực, tiến bộ cũng dần dần
nhanh hơn. Sau ba mươi năm, tiến bộ giống
như cấp số nhân[1], cứ
nhân gấp bội lên! Khi ấy, mới thật sự thấu
hiểu “học nhi thời tập
chi, bất diệc duyệt hồ” (học rồi
thường xuyên tập luyện, cũng chẳng vui sao). Nói
cách khác, mới hiểu được ư vị trong câu nói ấy
của Khổng Tử, cũng có nghĩa là quư vị chẳng
khế nhập cảnh giới ấy, sẽ chẳng hiểu
ư vị trong câu nói ấy!
“Hữu
bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc
hồ” (Có bạn từ xa đến, cũng chẳng
vui sao). “Bằng” (朋) là ǵ? [Những người] chí đồng đạo
hợp, đều học tập đạo thánh hiền,
từ nơi xa đến đây tụ hội. Cổ nhân nói
là “dĩ văn hội hữu,
dĩ đạo hội hữu” (dùng văn chương
để nhóm bạn, dùng đạo để nhóm bạn),
cao siêu ngần ấy! “Nhân bất
tri nhi bất uấn, bất diệc quân tử hồ” (Người
khác chẳng biết đến mà không tức giận, chẳng
phải là bậc quân tử ư). Chính ḿnh đạo đức
và học vấn thành tựu, chẳng có ai biết. Không có
ai biết th́ sao? Vẫn vui sướng, quyết định
chẳng giảm bớt niềm vui (niềm vui sướng
trong tâm). “Không ai biết” là chẳng
có duyên. Nói cách khác, “chẳng có
duyên” tức là quư vị chẳng có cơ hội phục
vụ đại chúng; có phải là chuyện tốt hay
không? Chuyện tốt, chẳng phải vất vả ngần
ấy! Phục vụ đại chúng th́ có duyên bèn làm; chẳng
có duyên, sẽ không làm! Suốt một đời, Chương
Gia đại sư đă dạy tôi, “tùy duyên, đừng phan duyên”. Có duyên th́ phải
nên làm. Không làm, sẽ có lỗi với người khác. Chẳng
có duyên, không bắt buộc phải làm! Do vậy, suốt một
đời tùy duyên, chẳng phan duyên, quư vị sẽ tự
tại, sẽ giảm bớt rất nhiều khổ năo.
Giống
như chúng tôi hiện thời lập một trung tâm giáo dục
văn hóa tại quê nhà nhằm bồi dưỡng nhân tài
hoằng pháp Nho và Phật. Cũng là có duyên, làm chuyện này
thành công. Nếu chẳng có duyên, hễ chẳng có duyên, th́
sẽ không làm! “Biết nhà tánh
Không”, tuyệt đối đừng nên ghim chuyện
này trong ḷng, tâm phải thanh tịnh, tâm phải giác ngộ.
Có duyên, hăy nghiêm túc nỗ lực thực hiện. Sau khi thực
hiện có thành tích, khiến cho mọi người giác ngộ.
Đấy là chuyện tốt, có thể khiến cho hết
thảy chúng sanh ĺa khổ, được vui, có thể hóa
giải khá nhiều tai nạn trong thế gian này. Chuyện
khó có là các nhà khoa học hiện thời đă chứng
minh, chứng tỏ những đạo lư do đức Phật
đă dạy: “Hết thảy
các pháp sanh từ tâm tưởng, cảnh chuyển theo tâm”.
“Cảnh” là hoàn cảnh vật
chất. Sự cân bằng sinh thái trên địa cầu
chuyển biến theo ư niệm của con người. Mọi
người có ư niệm thiện, núi, sông, đại địa
đều biến thành thiện, Phong Thủy tốt đẹp!
Ḷng người bất hảo, toàn thể Phong Thủy
hư hoại! Phong Thủy nẩy sanh biến hóa theo lẽ
thiện ác trong tâm con người!
Giáo
dục của thánh hiền, Phật, Bồ
Tát chẳng có chi khác! Không ǵ chẳng nhằm dạy mọi
người làm một người thuần tịnh, thuần
thiện. C̣n như giàu sang, nghèo hèn, Nho nói rất ít, Phật
nói rất nhiều. V́ thế, có rất nhiều
người nghe nói: “Trong cửa
nhà Phật, có cầu ắt ứng”. Lời này là thật,
chẳng giả! Trong Phật pháp, có rất nhiều điều
là giáo dục nhân quả. Do vậy, nếu quư vị muốn
cải thiện cuộc sống, muốn cuộc sống vật
chất khá hơn, dư dả hơn một chút, chẳng
phải là không thể làm được, làm được
chứ! Quư vị hăy tu cái nhân! Ấn Quang đại sư
đă đề xướng hai thứ là Liễu Phàm Tứ
Huấn và Du Tịnh Ư Công Ngộ Táo Thần Kư. Bài [Du Tịnh
Ư Công Ngộ Táo Thần Kư] được in kèm vào sau sách Liễu
Phàm Tứ Huấn. Ngoài bộ sách ấy ra, suốt đời
lăo nhân gia đề xướng Cảm Ứng Thiên Vựng
Biên và An Sĩ Toàn Thư. Ba thứ ấy là tài liệu giảng
dạy tốt nhất trong sự giáo dục nhân quả.
Nếu
chúng ta muốn thay đổi quả báo, hăy sửa từ
cái nhân. Khổ là do cái nhân bất thiện cảm vời. Lạc
là do cái nhân lành chiêu cảm. Muốn ĺa khổ, đối với
tất cả hết thảy những điều bất
thiện, phải nên biết chúng ta chớ nên làm nữa! Nếu
muốn được vui, chúng ta phải nỗ lực làm
lành, sẽ có thể đạt được quả báo “ĺa khổ, được vui”.
Tiên sinh Liễu Phàm đă làm cho chúng ta thấy, tiên sinh Du Tịnh
Ư cũng làm cho chúng ta thấy; đấy là những tấm
gương rơ rệt nhất. Trong lịch sử Trung Hoa,
người làm theo phương pháp ấy, chẳng có một
ai không thành công. Tôi thưa cùng quư vị, tôi cũng là hiện
thân thuyết pháp. V́ sao? Tôi cũng tu như thế, cải
thiện hoàn toàn cuộc sống của chính ḿnh. Nhất
định phải biết làm từ nhân, đừng nên
hâm mộ quả báo của người khác, đừng nên
hâm mộ vinh hoa, phú quư. Phải biết người ấy
tu cái nhân ǵ, ta cũng làm được. Huống hồ
nhân quả lại thông ba đời; trong đời quá khứ
chẳng tu, đời này vẫn c̣n kịp.
Tôi
từ lúc hai mươi sáu tuổi tiếp xúc Phật pháp,
tiếp xúc những tài liệu giảng dạy nhân quả
báo ứng ấy, tôi mới bắt đầu học tập.
Sau hai mươi năm, nghiệp báo của chính ḿnh
được cải thiện trên một mức độ
lớn. Từ bốn mươi tuổi, bắt đầu
chuyển biến rơ rệt; từ đấy về sau, mỗi
năm một thù thắng hơn! Nhà Phật nói “pháp duyên”, pháp duyên lúc tuổi
già hết sức thù thắng. Có pháp duyên v́ xă hội, v́
chúng sanh, v́ thế giới, làm một ít chuyện tốt.
Hiện thời, khá nhiều quốc gia t́m tôi, hy vọng tôi
có thể giúp đỡ họ làm những công tác ǵ? Hóa giải
xung đột, khôi phục xă hội an định, ḥa b́nh,
phồn vinh, hưng vượng. Tôi hoan hỷ làm! Tôi biết
gốc bệnh ở chỗ nào, dùng phương pháp ǵ
để trị liệu. Gốc bệnh ở chỗ mê mất
tự tánh. Đă mê mất tự tánh, chỉ cần quư vị
t́m được gốc bệnh, sẽ biết làm như
thế nào! Phương pháp cứu vớt là ǵ? “Tu thân làm gốc, giáo học làm
đầu”! Phải nhờ vào giáo học, khiến cho
ai nấy đều biết tu thân. Quư vị hy vọng phát
tài, mong mỏi có trí huệ, mong mỏi khỏe mạnh, sống
lâu, có cầu ắt ứng. Quư vị phải hiểu đạo
lư, phải hiểu phương pháp, th́ mới có thể thu
được hiệu quả, chẳng thể làm càn, làm
quấy! Nếu trái nghịch lư luận và phương pháp,
chắc chắn là quư vị chẳng cầu được!
Mọi
người nhất định phải làm người tốt,
phải giữ tấm ḷng tốt, phải nói lời tốt,
phải làm chuyện tốt, làm người tốt. Người
tốt đương nhiên có quả báo tốt. Tiêu chuẩn
của người tốt là luân lư đạo đức của
Nho gia, nhân lành, quả lành, nhân ác, báo ác! Thập Thiện Nghiệp
Đạo, Tam Quy, Ngũ Giới của Phật pháp là
cơ sở, các đồng học học Phật tại
gia phải chú trọng dốc ḷng thực hiện. Nếu
các đồng học xuất gia chẳng làm được,
sẽ chẳng phải là xuất gia thật sự. Thật
sự xuất gia th́ nhất định là có cơ sở
tu học tại gia, cơ sở sâu dầy. Lại c̣n học
tập Sa Di Luật Nghi; đó là một vị Bồ Tát xuất
gia thật sự. Giáo dục của nhà Phật hy vọng
ai nấy đều làm Bồ Tát. “Làm Bồ Tát” là ai nấy đều giác ngộ,
ai nấy đều trọn đủ chánh tri, chánh kiến;
ai nấy đều có thể thanh tịnh chẳng nhiễm.
Chuyện này cần cậy vào giáo dục! Quư vị chẳng
nghiêm túc học tập, làm sao hiểu được!
Xă
hội hiện thời là một cái ṿ nhuộm to. Từ
khi có lịch sử, xưa nay, trong ngoài nước,
chưa hề t́m thấy một cái ṿ nhuộm lớn
như thế; nay nó đă xuất hiện, [đại
chúng] đọa lạc trong ấy! Nếu nói là chẳng bị
nhiễm đắm, người ấy chẳng phải là
phàm nhân, mà là Phật, Bồ Tát tái lai th́ mới có thể chẳng
nhiễm. Đối với chúng sanh trong chín pháp giới, [ngay
cả] A La Hán, Bích Chi Phật, Quyền Giáo Bồ Tát thả
chiếc bè Từ, đến nơi đây giáo hóa chúng sanh,
cũng khó tránh khỏi chẳng bị nhiễm ô. “Nhiễm ô” là thoái chuyển, quá
nghiêm trọng! Những người thiện căn sâu dầy
ấy, có thể chẳng bị ô nhiễm trong xă hội hiện
thời, chỉ là do dựa vào sự tinh tấn chẳng
lười nhác, sẽ chẳng bị ô nhiễm.
Trong
sự tinh tấn chẳng lười nhác, chính tôi đă có
kinh nghiệm. Năm xưa, tôi thường nói, rất nhiều
đồng học hỏi tôi, v́ sao tôi có thể chẳng nhiễm?
Chính quư vị phải sáng suốt tự biết ḿnh! Nếu
tôi tham Thiền, chẳng được, vẫn chẳng tránh
khỏi nhiễm ô. Nếu tôi niệm Phật, vẫn chẳng
được, đều chẳng chống nổi ảnh
hưởng từ xă hội! Tôi dùng phương pháp ǵ? Giảng
kinh, [phương pháp này] đối với tôi rất thích
hợp. V́ sao? Mỗi ngày khuyên người khác, [chính là] mỗi
ngày khuyên chính ḿnh. Tôi giảng bốn mươi tám năm,
người khác được lợi ích ít, tôi được
lợi ích nhiều! Mỗi ngày đều khuyên chính ḿnh, tự
nhiên trở thành thói quen, dưỡng thành thói quen ấy.
“Thói quen ấy” là thiện, là tốt. Nếu chẳng giảng
kinh, chỉ là chính ḿnh đọc kinh, sẽ chẳng
được, chẳng đủ sức mạnh, chẳng
có cách nào chống lại cảnh giới bên ngoài. Giảng
mỗi ngày, khuyên kẻ khác mỗi ngày, ít nhiều ǵ th́
lương tâm của chính ḿnh phát hiện.
Khuyên kẻ khác mà chính ḿnh chẳng làm được, sẽ
là chuyện mất mặt, tức là quư vị hằng ngày dối
gạt người khác! Thoạt đầu, chẳng làm
được; dần dần chính ḿnh làm được,
lương tâm phát hiện mà! Chuyện này chẳng thể
gián đoạn, thâm nhập một môn, huân tu lâu dài, sẽ
sanh ra sức mạnh. Tôi đi theo con đường
như vậy!
V́
vậy, tôi hết sức cảm kích thầy. Tiên sinh Phương
Đông Mỹ tiếp dẫn, Chương Gia đại
sư giúp tôi đặt vững cơ sở. Thầy Lư dạy
dỗ mười năm thành tựu tôi! Chính tôi có thể
giữ vững suốt đời giảng kinh hằng ngày!
Khi ấy, tôi mới vừa rời khỏi Đài Trung
đến Đài Bắc giảng kinh, có người kể
với thầy Lư: “Pháp sư Tịnh Không giảng kinh ở
Đài Bắc, mỗi ngày đều giảng!” Thuở ấy,
mỗi tối giảng một tiếng rưỡi; lúc ban
đầu giảng kinh theo kiểu ấy. Thầy nghe kể,
rất vui vẻ. Thầy chúng tôi giảng kinh ở Đài
Trung mỗi tuần hai lần, mỗi lần một tiếng
đồng hồ. Thầy c̣n phải tốn một giờ
để dịch sang Đài ngữ. V́ vậy, trên thực
tế là [giảng kinh chỉ có] một giờ. [Thầy giảng]
hai giờ mỗi tuần, c̣n tôi mỗi tuần được
mười mấy giờ. Nếu chẳng phải là
như vậy, mà nói là trong thế giới này, tôi có thể
chẳng thoái chuyển, tôi chẳng thể tin được.
Bản thân tôi đi theo con đường này, theo kinh nghiệm
của bản thân tôi, hết sức hữu hiệu đối
với loại căn cơ giống như tôi! Giùi mài chẳng
bỏ, sau khi đă khế nhập, sẽ có niềm vui thú
trong ấy. Niềm pháp hỷ do nỗi vui thú ấy sẽ
duy tŕ quư vị, khiến cho quư vị có thể dũng mănh,
tinh tấn, khiến cho quư vị có thể chẳng thay
đổi phương hướng, giùi mài chẳng bỏ!
Niềm vui thú đă khiến cho quư vị giữ vững.
Người b́nh phàm thường nói là “Tam Bảo gia tŕ”, Tam Bảo gia tŕ là như thế
đó. Nếu quư vị chẳng nhập cảnh giới, sẽ
chẳng đạt được pháp hỷ. Chẳng
đạt được pháp hỷ, sẽ chẳng
được Phật, Bồ Tát gia tŕ.
“Biết nhà tánh Không” chính là chẳng
nhiễm đắm, mà là ǵ vậy? Lợi dụng gia
đ́nh để phổ độ chúng sanh, để hoằng
dương Đại Thừa. Quư vị khiến cho gia
đ́nh tốt đẹp, sẽ khiến cho những người
xóm giềng nh́n vào, [thắc mắc] cớ sao gia đ́nh của
quư vị tốt đẹp ngần ấy? Thuở trước,
tôi ở Mỹ, từng ở thành phố Phượng Hoàng
(Phoenix), từng sống tại Khố Bách Đế Nặc
(Cupertino) ở Gia Châu (California), sống ở hai nơi ấy.
Hàng xóm thường thấy người sống trong nhà ấy,
bất cứ lúc nào cũng đều thấy mặt
mũi tươi cười, đều rất hoan hỷ,
họ ngấm ngầm dọ hỏi: “Bọn họ làm ǵ?
V́ sao vui sướng dường ấy?” Đáng tiếc là
chúng tôi trọn chẳng lập đạo tràng tại
đó, chẳng thường trụ nơi đó. Nếu chẳng
rời khỏi nơi ấy, thường trụ mười
năm, hoặc tám năm, một vùng sẽ bị cảm
hóa. Một nhà đă thấy, sẽ có thể truyền qua
nhà khác, mọi người đều biết, tự nhiên
sẽ mong đến học tập quư vị. Học ǵ? V́
sao các vị vui sướng ngần ấy, họ học
điều này!
Tôi
lập đạo tràng ở Đức Châu (Texas). Ngày đầu
tiên thành lập đạo tràng, hôm khai mạc đầu
tiên, mời hàng xóm (hàng xóm ở mấy con đường
[chung quanh]) đến dùng điểm tâm để tiếp
đăi họ. Phát thiếp mời mọc, họ đều
đến. Hăy xem đạo tràng Phật giáo mới này, giới
thiệu với họ chúng ta sẽ làm ǵ ở đây. Họ
thấy chúng tôi thờ Tây Phương Tam Thánh, [thắc mắc]
có ư nghĩa ǵ vậy? Tôi nói: “Thế giới Cực Lạc
là thế giới vui sướng”. Họ nói: “Chúng tôi muốn
học điều ấy”. Họ hỏi: “Quư vị dạy
điều ǵ?” “Chúng tôi dạy thanh tịnh, Tịnh Độ,
tâm địa thanh tịnh!” [Họ nói]: “Chúng tôi cần
điều ấy, chúng tôi muốn được vui sướng,
khỏe mạnh, sống lâu, những điều ấy
chúng tôi đều cần”. Tôi nói với họ: “Được
lắm! Chúng tôi sẽ đặc biệt mở một khóa
học cho quư vị vào thứ Bảy (họ được
nghỉ làm vào ngày thứ Bảy), các vị đều có thể
đến học tập. Chủ Nhật, quư vị đi
nhà thờ, theo Thượng Đế. Thượng Đế
là cha, là chúa của quư vị. Đức Phật là thầy,
chẳng xung đột!” Họ nghe nói, hết sức hoan hỷ.
V́ thế, người ở nơi ấy đều dần
dần tụ đến.
Chỉ
là rất đáng tiếc, thuở ấy, chúng tôi do quán
trưởng làm Đương Gia. Thường là có khi bà
sống ở nơi đó, có lúc phải đến nơi
khác. Do vậy, chúng tôi là những người phụ tá phải
cùng đi theo bà ta. Từ đầu đến cuối, chẳng
thể ở măi một nơi được! Xưa kia, thầy
Lư đă dạy tôi, thường lưu động bên ngoài
th́ chỉ có thể kết pháp duyên với mọi người,
chẳng thể độ chúng sanh. Tôi hỏi thầy v́
sao? [Thầy đáp]: “Há có kẻ nào nghe kinh vài lần đă
khai ngộ?” Tôi suy nghĩ, thấy rất có lư. Nhất
định là phải giáo học tại một chỗ
trong một thời gian dài. Đối với căn cơ
của người hiện thời, tối thiểu từ
mười năm trở lên, mới có thể đặt vững
nền tảng. Chẳng có mười năm giáo học, sẽ
chẳng thể vun quén căn cội! Đấy là gia
đ́nh có thể hoằng dương Đại Thừa Phật
pháp. Trước hết là “gia
ḥa” có thể cảm hóa xă hội, có thể nêu
gương tốt cho xă hội!
Biết
tánh của Nhà là Không, đối với nhà, bất luận
là người nhà quyến thuộc, tất cả hết
thảy tài sản, đều chẳng chấp trước,
chẳng phân biệt. Tất cả hết thảy mâu thuẫn
tranh chấp đều từ đấy mà ra. Quư vị
đều có thể thấy thấu suốt, có thể
buông xuống, lẽ nào gia đ́nh bất ḥa, chẳng vui
sướng cho được? Chẳng có bức bách! Chẳng
thể nào có chuyện ấy! Gia đ́nh vui sướng, người
một nhà vui sướng, phải hướng đến
mục tiêu ấy, phải tiến theo phương hướng
ấy. Hôm nay đă hết thời gian rồi!
Tập 1502
Chư
vị đồng học, xin mời ngồi xuống, xin
xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười một, xem từ
bài kệ tụng thứ hai.
(Kinh)
Hiếu sự phụ mẫu, đương nguyện
chúng sanh, thiện sự ư Phật, hộ dưỡng
nhất thiết.
(經)孝事父母。當願眾生。善事於佛。護養一切。
(Kinh: Hiếu thảo cha mẹ, nguyện cho chúng sanh,
khéo phụng sự Phật, hộ tŕ, phụng dưỡng
hết thảy).
[Đối
với người] tại gia, [Văn Thù Bồ Tát] nói tất
cả mười một chuyện, tức là mười một
bài kệ tụng. Ở đây, kệ tụng thuộc loại
bốn chữ, [tức là] mỗi câu có bốn chữ, mỗi
bài gồm bốn câu. Trong phần trước, bài kệ thứ
nhất dạy chúng ta hăy nhận biết chân tướng của
“gia”. Bồ Tát tại gia phải
biết chân tướng của nhà. Đức Phật
thường dạy chúng ta, vạn pháp sanh từ nhân duyên. “Nhân” là nghiệp đă tạo
trong đời quá khứ, có thiện nghiệp, có ác nghiệp,
có vô kư nghiệp. Vô kư là ǵ? Chính là chẳng thể nói là thiện
hay ác, bèn gọi là “vô kư” (無記). V́ thế, nghiệp có thể tổng quy nạp
thành ba loại lớn ấy. Thiện nghiệp nhân (chuyện
đă tạo trong đời quá khứ biến thành cái nhân,
nói theo đời này, nên gọi là “nghiệp nhân”), sẽ cảm quả báo thiện.
Ác nghiệp nhân sẽ cảm quả báo bất thiện, nhưng
để nghiệp cảm biến hiện quả báo,
điều kiện quan trọng nhất là Duyên. Nếu chẳng
có duyên, duyên khuyết thiếu, trong đời này, quả
báo sẽ chẳng hiện tiền. V́ thế, Phật pháp
chẳng nói là “nhân sanh”, mà
nói là “duyên sanh”. Nói cách khác, đức
Phật có thể giúp đỡ hết thảy chúng sanh, chẳng
có cách nào giúp đỡ nơi nhân, mà chẳng có cách nào giúp
đỡ nơi quả, [chỉ có thể giúp đỡ nơi
duyên]. Phật pháp thường nói: “Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả”. Chúng sanh
tạo nghiệp, mê hoặc, điên đảo, [đến
lúc] quả báo hiện tiền bèn sợ hăi! Bồ Tát hiểu
rất rơ ràng, rất minh bạch chuyện này. V́ thế, quả
báo hiện tiền, Ngài chẳng sợ. V́ sao? Tự làm, tự
chịu, sợ cũng chẳng có tác dụng ǵ! Tuy sợ,
vẫn phải chịu! Bồ Tát tạo tác rất cẩn
thận, quyết định chẳng tạo ác nghiệp,
mà sẽ là tạo thiện nghiệp. Bồ Tát sợ nhân,
Ngài đă hiểu rơ. Trong xă hội hiện thời, mọi
người chẳng hiểu đạo lư này, thật sự
có thể nói là làm càn, làm quấy, quả báo hiện tiền,
hối hận chẳng kịp!
Bài
kệ thứ nhất [nhằm dạy chúng ta] phải nhận
biết bản chất của nhà, nó là “duyên tụ, duyên tán”. Người một nhà có
duyên, trong đời quá khứ đă có duyên, hễ duyên tụ
th́ ở cùng nhau. Duyên đă tận, duyên sẽ có lúc tận.
Khi duyên đă tận, sẽ tan đàn xẻ nghé, mọi
người ly tán. Vô lượng kiếp trong quá khứ, chẳng
phải là một đời, hai đời, mà là vô số
đời! Đời đời kiếp kiếp chúng ta
đă kết duyên với bao nhiêu người, bao nhiêu chúng sanh.
Chư vị phải ghi nhớ, kết duyên có thiện, có
ác, có vô kư. Những thứ ấy đều biến thành chủng
tử trong A Lại Da Thức. Thuật ngữ trong kinh Phật
là “chủng tử”. Chủng
tử chính là nghiệp nhân. Đức Phật đă dạy
rành rành, bất cứ ai, bất cứ chúng sanh nào, thảy
đều trọn đủ chủng tử của mười
pháp giới. Nói cách khác, chúng ta có cái nhân làm Phật. Nếu
đời này chúng ta dùng Phật duyên, nhân và duyên tiếp
xúc, chắc chắn sẽ thành Phật. Quư vị có chủng
tử Phật, trong kinh, đức Phật thường diễn
tả chủng tử ấy như sau: “Hết thảy chúng sanh đều có Phật Tánh”.
Phật Tánh là cái nhân thành Phật, tức là chủng tử
Phật. Quư vị phải hiểu điều này, bồi
dưỡng nó. Cách bồi dưỡng là như thế nào?
Niệm! Hằng ngày niệm Phật, hằng ngày tưởng
Phật, quư vị sẽ thành Phật. Quư vị có hiểu
đạo lư này hay không? Có tin tưởng hay không?
Thí
nghiệm của tiến sĩ Giang Bổn Thắng đă cho
chúng ta một chứng minh khoa học rất hay. Ông ta dùng
nước làm thí nghiệm, nước là khoáng vật. Hằng
ngày chúng ta dùng t́nh yêu mến, dùng ái tâm, dùng thiện ư đối
với nước, nước sẽ phô bày sự kết
tinh đẹp đẽ nhất. Chúng ta chẳng có ư niệm
ấy, nó lại biến đổi, chẳng kết tinh như
thế nữa! Chúng ta dấy lên ư niệm, nó lại biến
thành kết tinh đẹp đẽ, niệm ǵ biến
thành đó. Trong kinh Đại Thừa, đức Phật
thường nói: “Hết thảy
các pháp sanh từ tâm tưởng”, quư vị phải ghi
nhớ câu này! Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng!
V́ thế, hằng ngày niệm Phật, quư vị sẽ
thành Phật; hằng ngày niệm Bồ Tát, quư vị sẽ
thành Bồ Tát. Đạo lư là như thế đấy! Niệm
Thập Nhị Nhân Duyên, sẽ biến thành Bích Chi Phật.
Niệm Tứ Đế, niệm Khổ, Tập, Diệt,
Đạo, sẽ thành A La Hán. Niệm từ, bi, hỷ, xả,
niệm Thập Thiện Nghiệp, sẽ sanh thiên. Do vậy,
cái nhân của mười pháp giới chẳng có một ai bị
thiếu khuyết! Giống như trong cái kho, hạt giống
ǵ cũng đều có, quư vị muốn thứ ǵ sanh
trưởng, có thể lấy hạt giống ấy ra
để khéo vun bồi. Ví như cái kho của chúng ta, bất
cứ loại hạt giống của ngũ cốc hoặc
các thứ lương thực nào cũng đều có, ta muốn
có gạo, bèn lấy hạt giống gạo (thóc giống)
ra, cày cấy, vun trồng kỹ lưỡng, nó sẽ sanh trưởng
thành gạo. Trong cái tâm của ta, trong cái kho A Lại Da có chủng
tử Phật, ta khéo vun bồi nó, lẽ nào đời này
ta chẳng làm Phật? Há có đạo lư ấy!
Phật
pháp giảng lư luận rành mạch, rơ ràng, nhưng người
hiện thời đều chẳng hiểu! Họ có chủng
tử tốt nhất, chẳng lấy ra gieo; họ muốn
lấy chủng tử xấu nhất, hư nát nhất
để gieo. Vậy là hỏng bét mất rồi! Hư nát
nhất là tham, sân, si! Tham th́ thứ ǵ cũng đều
tham, chẳng có ǵ không tham! Chủng tử tham là ngạ quỷ.
Trong tâm quư vị có chủng tử tham, hiện thời lại
có tâm tham, thứ ǵ cũng đều tham. Đó là duyên! Thôi
rồi! Chủng tử tham của quư vị lại cộng
thêm ư niệm tham và hành vi tham, cái duyên ấy đă kết! Vậy
th́ quả báo trong đời sau sẽ là ǵ? Đi vào ngạ
quỷ đạo. Chủng tử sân hận ư? Có chứ!
Hiện thời thường nổi giận, có cái tâm ghen tỵ,
có tâm ngạo mạn, thấy điều ǵ cũng chẳng
thuận mắt, đấy là duyên. Chủng tử sân khuể
tiếp xúc duyên này, đời sau sanh vào địa ngục.
Sân khuể là cái nhân của địa ngục, ngu si là cái
nhân của súc sanh. Ngu si là đúng sai chẳng biện định,
tà chánh không phân biệt được. Trước kia,
chúng ta nói là “hồ đồ”, kẻ hồ đồ sẽ
biến thành súc sanh.
Quư
vị thấy đó, từ vô lượng kiếp đến
nay, quư vị đă từng niệm Phật, từng niệm
Bồ Tát. Đó gọi là “một
phen thoảng qua tai, vĩnh viễn là hạt giống đạo”.
V́ thế, lời đức Phật dạy chẳng sai tí
nào! Trong tám thức của nội tâm, tức là trong A Lại
Da Thức của hết thảy chúng sanh, chủng tử của
mười pháp giới thảy đều trọn đủ.
Tùy thuộc đời này quư vị muốn gieo chủng tử
nào? Muốn gieo chủng tử ấy, quư vị tạo
duyên cho nó. Ví như thực vật, quư vị có hạt giống,
nó cần đất đai, cần phân bón, cần nước,
cần ánh sáng mặt trời, cần không khí, hết thảy
các điều kiện đều rất tốt, nó sẽ
tăng trưởng rất nhanh, tăng trưởng hết
sức tốt đẹp. Đạo lư này trọn chẳng
khó hiểu, v́ sao chúng ta chẳng khéo vun bồi chủng tử
Phật, Bồ Tát trong tâm địa, mỗi ngày vẫn muốn
tạo tác tội nghiệp vậy?
Đến
đạo tràng để làm ǵ? Chẳng học Phật, chẳng
học Bồ Tát, mà cũng chẳng học làm nhân thiên,
đến đạo tràng vẫn là tạo nghiệp. Lời
này là thật, chẳng giả! Đến đạo tràng mà
c̣n đèo theo tập khí tham, sân, si, mạn. Không chỉ là có
tập khí, mà c̣n thường phát tác ở nơi ấy, vậy
th́ quả báo của những ǵ quư vị đă tạo là
ǵ? Quả báo trong tam đồ! Đạo tràng là phước
địa thanh tịnh trang nghiêm, quư vị tạo tác tam ác
nghiệp trong ấy, tạo tham, sân, si, đă phá hoại
h́nh tượng của đạo tràng. Quư vị chẳng
phải là đến tu phước, mà là hy vọng ngay lập
tức sẽ vào địa ngục A Tỳ! Sai mất rồi!
Ở nơi đây, chúng ta mong mỏi thành tựu phước
báo, tối thiểu là đời sau chẳng mất quả
báo nhân thiên. Quư vị muốn làm người, phải thực
hiện Đệ Tử Quy. Đệ Tử Quy là nhân
đạo. Thực hiện Đệ Tử Quy một trăm
phần trăm, chắc chắn là quư vị chẳng đọa
tam đồ, đời sau có thể làm thân người. Nếu
tiến cao hơn một bước, quư vị khéo tu Thập
Thiện Nghiệp, tu từ, bi, hỷ, xả, đời
sau quư vị sẽ sanh thiên. Quư vị đến đạo
tràng này, phải biết phương hướng và mục
tiêu của chính ḿnh là ǵ? Hy vọng đời sau quư vị
chẳng đánh mất thân người, chẳng đọa
vào ba ác đạo, hy vọng đời sau sẽ sanh lên trời!
Đương
nhiên, hy vọng viên măn nhất của chúng ta là mong cho đời
sau quư vị sẽ thành Phật. Để đời sau
thành Phật, quư vị phải tu phẩm Tịnh Hạnh.
Một trăm bốn mươi mốt nguyện ấy quư
vị đều có thể làm được, đời
sau chắc chắn sẽ thành Phật. Đến làm Phật
nơi đâu? Đến làm Phật trong thế giới Cực
Lạc. Người có thể thực hiện mỗi
điều trong một trăm bốn mươi mốt nguyện
này, văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới,
thưa cùng chư vị, chẳng phải là sanh trong cơi Phàm
Thánh Đồng Cư, chẳng phải là sanh vào cơi
Phương Tiện Hữu Dư, mà sẽ sanh vào đâu?
Người ấy sanh vào cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Theo kinh
Vô Lượng Thọ sẽ là “thượng
bối văng sanh”, thượng bối đấy nhé! Trung
bối sanh vào cơi Phương Tiện Hữu Dư, hạ
bối sanh vào cơi Phàm Thánh Đồng Cư. Thượng bối
đến thế giới Cực Lạc, [sẽ là] hoa nở,
thấy Phật, ngộ Vô Sanh, rất mau chóng, [nghĩa là] sanh
về Tây Phương Cực Lạc thế giới bèn thành
Phật. Đấy là niềm kỳ vọng chân thật của
chúng ta đối với mọi người, đối với
hết thảy chúng sanh.
Trong
các bài kệ tụng, câu thứ hai trong mỗi bài là “đương nguyện chúng
sanh”, nguyện vọng của chúng ta là ở chỗ này!
Nguyện nào cũng đều hy vọng quư vị giác ngộ,
giác chứ không mê. Trong ấy, chẳng có một nguyện
nào dạy quư vị tạo tội nghiệp, chẳng có! Do
vậy, quư vị phải liễu giải chân tướng
của các pháp. Đầu tiên, dạy quư vị hăy liễu
giải chân tướng của nhà, gia đ́nh của quư vị
sẽ ḥa thuận. “Bức
bách” (逼迫) là ǵ? Nay chúng ta gọi “bức
bách” là xung đột. Vợ chồng xung đột, cha
con xung đột, anh em xung đột, ở đây gọi
là “bức bách”. Nếu biết
thể tánh của nhà là không tịch, người một
nhà của chư vị nhất định sẽ đối
xử ḥa thuận. V́ sao? Biết trong đời quá khứ,
chúng ta có thiện duyên, trong đời này mới có thể
tụ tập cùng một chỗ. Dẫu trong đời quá
khứ chẳng thuận thảo, nay đă giác ngộ, kể
như xong! Chẳng cần tính toán nợ cũ, đừng
nghĩ tới quá khứ, chuyện quá khứ một nét bút
xóa sạch! Trong kinh giáo, đức Phật đă dạy
chúng ta: “Bất niệm cựu
ác, bất tắng ác nhân” (Chẳng nghĩ tới điều
ác cũ, chẳng ghét kẻ ác). Tất cả hết thảy
những khúc mắc, chuyện chẳng thoải mái trong quá
khứ, đời trước, kiếp trước của
chúng ta, gặp gỡ lần này sẽ toan báo đền,
oan oan tương báo, [hiện thời] đă giác ngộ,
bèn giác ngộ [ân oán với mọi người] coi như
đă xong, chẳng c̣n báo đền nữa! Chẳng báo đền
nữa, sẽ đối xử ḥa thuận, khéo cùng nhau tu
hành, gia đ́nh là đạo tràng!
Tu
Lục Ḥa Kính trong gia đ́nh, tu Đệ Tử Quy và Thập
Thiện Nghiệp trong gia đ́nh, công đức chẳng
thể nghĩ bàn! Quư vị tu tốt đẹp, sẽ ảnh
hưởng thân thích, bằng hữu của quư vị. Thân
thích, bằng hữu thấy người một nhà của
các vị hạnh phúc mỹ măn dường ấy, chẳng
có ai không tán thán, chẳng có ai không hâm mộ, mọi người
sẽ học tập theo quư vị. [Gia đ́nh của] quư vị
là gia đ́nh Bồ Tát. Láng giềng, làng nước của
quư vị sau khi trông thấy, sẽ dần dần đều
bị cảm hóa. Sự cảm hóa ấy chính là phổ
độ chúng sanh. V́ thế, độ chúng sanh th́ điều
quan trọng nhất là bằng thân giáo, tôi làm cho quư vị
thấy. Cá nhân là gương mẫu, khuôn phép cho mọi
người. Gia đ́nh ta là gia đ́nh gương mẫu
trong các gia đ́nh. Đạo tràng, tôi đă nói điều
này mấy chục năm qua, phải là đạo tràng khuôn
mẫu cho tất cả các đạo tràng trong thiên hạ,
là đạo tràng đúng pháp. Quư vị nói công đức
này có nhiều hay không?
Một
đạo tràng thôi, chẳng cần nhiều! Trên thế giới
này, chỉ cần có một đạo tràng, [nếu như]
tất cả đại chúng trong đạo tràng ấy, tứ
chúng đồng học xuất gia và tại gia đều
có thể thực hiện Đệ Tử Quy một trăm
phần trăm, thực hiện Thập Thiện Nghiệp
một trăm phần trăm, thực hiện Lục Ḥa
Kính một trăm phần trăm; đạo tràng ấy sẽ
được chư Phật tán thán, long thiên thiện thần
bảo vệ, nơi ấy chẳng gặp tai nạn. Quư
vị nói xem, công đức to cỡ nào, thật sự tu phước
báo! Nếu quư vị chẳng cầu văng sanh, mà cầu phước
báo nhân thiên, đời sau quư vị sẽ là thiên
vương. Sanh vào nhân gian, quư vị sẽ là một vị
quốc vương có oai quyền nhất trong nhân gian,
hưởng thụ phú quư trong cơi trời người.
Nhưng quư vị không hiểu, ở trong đạo tràng
phá hoại Lục Ḥa Kính, hủy diệt đạo tràng ấy,
quả báo trong tương lai sẽ là A Tỳ địa
ngục, là địa ngục khổ nhất trong các địa
ngục. Cớ ǵ quư vị cứ phải đến
nơi này để tạo nghiệp ấy? Cớ ǵ quư vị
cứ phải làm chuyện ấy? Hiện thời, thậm
chí c̣n nói, “hết thảy những chuyện không tốt
đừng cho lăo pháp sư biết”. Quư vị không cho tôi biết,
chẳng phải là tôi không biết, tôi không nói đó thôi! Quư
vị cho tôi biết, tôi sẽ nói tới; không cho tôi biết,
tôi không đề cập; nhưng như thế nào? Tôi nh́n
trừng trừng thấy quư vị đọa lạc trong
địa ngục A Tỳ, đáng thương thay! Đức
Phật gọi những người ấy là “kẻ đáng thương xót”!
V́ sao? Khuyên lơn mà họ chẳng nghe!
Những
đạo tràng khác không giảng kinh, c̣n đạo tràng này
giảng kinh hằng ngày. Một đạo tràng như vậy,
quư vị t́m khắp cả thế giới, chẳng t́m thấy
một chỗ thứ hai! Đạo tràng giảng kinh chắc
là có, nhưng giảng mỗi ngày, một năm ba trăm
sáu mươi ngày chẳng ngừng, chẳng hề có! Sau
đấy, quư vị mới biết đạo tràng này thù
thắng, thù thắng ở chỗ nào? Giảng kinh nhằm
hiểu lư, liễu giải chân tướng sự thật.
Quư vị nghiễm nhiên dùng ác tâm và ác niệm phá hoại
đạo tràng, tạo tội nặng cỡ nào! Quư vị
làm chuyện xấu kiểu nào trên cả thế giới, tội
ấy đều chẳng nặng. Phá hoại đạo
tràng này, tội của quư vị nặng lắm! Quư vị có
suy nghĩ kỹ càng hay chưa?
Điều
thù thắng nhất của đạo tràng là mọi người
cùng nhau học Phật pháp, nhất là học kinh điển
thù thắng bậc nhất trong Phật giáo, tức là Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Quư vị đến
nơi này, chẳng học cùng mọi người, lại
phá hoại ở nơi đây! Người ta đang nghe
kinh ở đây, quư vị kéo người ấy ra ngoài làm
chuyện khác. Quư vị chẳng để cho người ấy
nghe buổi giảng kinh này, hành động ấy cũng
gây nghiệp rất nặng. Quư vị phải hiểu [nghiệp
ấy] nặng nề đến mức nào! Trong quá khứ,
chúng tôi đă từng giảng bộ Bồ Tát Thù Thắng
Chí Nhạo Kinh, có giảng kư. Quư vị trở về hăy
đọc cho kỹ, sẽ hiểu quư vị đă phạm
tội ǵ, trong tương lai sẽ mắc quả báo ǵ. Phá
hoại cơ duyên nghe pháp của người khác, quả
báo của chính quư vị trong tương lai sẽ là đời
đời kiếp kiếp ngu si! V́ sao làm chuyện ấy? Quư
vị có thể thành tựu một người, dẫn một
người bạn, hoặc một ai đó đến nghe
kinh, công đức ấy cũng rất ư to lớn, đời
đời kiếp kiếp được thông minh, trí huệ.
Quư vị giúp đỡ kẻ khác khai ngộ, tức là giúp
đỡ người ấy kết duyên với Phật! Do vậy, tôi cứ thường
khuyên lơn, khích lệ: Khi chúng tôi giảng kinh, tất cả
hết thảy mọi người trong đạo tràng thảy
đều nghe kinh, bất cứ chuyện ǵ cũng đều
tạm thời buông xuống, chẳng làm việc trong hai giờ
ấy. Có chuyện ǵ xảy đến, đợi sau khi
chúng tôi giảng kinh xong, quư vị sẽ lo liệu. Nhân
duyên ấy trăm ngàn vạn kiếp khó gặp gỡ, c̣n
có chuyện ǵ lớn hơn chuyện này khiến cho quư vị
phải bận ḷng? Nghe kinh nhiều năm ngần ấy,
ngay cả ư nghĩa này mà c̣n chẳng nghe hiểu, cho thấy
điều ǵ? Về căn bản, quư vị chẳng nghe
kinh! Căn bản là chẳng hiểu Phật pháp là ǵ!
Điều rất khó có là nay chúng tôi giảng phần kinh
văn này!
Bài
kệ thứ hai nói về vấn đề nhân sự (mối
quan hệ giữa mọi người với nhau) trong nhà.
Quư vị xem câu đầu, “hiếu
sự phụ mẫu, đương nguyện chúng sanh, thiện
sự ư Phật, hộ dưỡng nhất thiết”
(hiếu thảo cha mẹ, nguyện cho chúng sanh, khéo phụng
sự Phật, hộ tŕ, phụng dưỡng hết thảy).
Chúng ta xem phần chú giải của Thanh Lương đại
sư, hăy đọc chú giải một lượt.
(Sớ)
Thứ nhất.
(疏)次一。
(Sớ: Điều kế tiếp).
Đây
là bài thứ hai.
(Sớ)
Tại gia hành hiếu nguyện, dĩ thị chí đức
hạnh bổn, cố thủ nhi minh chi.
(疏)在家行孝願,以是至德行本,故首而明之。
(Sớ: Nguyện tại gia thực hiện hiếu
thảo, do hiếu chính là cội gốc của đức
hạnh cao tột, nên nêu ra đầu tiên).
Chúng
tôi nói câu này trước. Phật pháp là sư đạo, nhất
định phải biết điều này. Phật pháp là
giáo dục, là sư đạo. Sư đạo nhất
định phải kiến lập trên cơ sở hiếu
đạo. Chẳng có hiếu đạo, lấy đâu ra
sư đạo? V́ thế, đức Phật dạy chính
là thầy dạy học tṛ. Từ xưa tới nay, thầy
dạy tṛ là dạy ǵ? Dạy tṛ hiếu thuận với cha
mẹ, chẳng dạy chi khác! Năm ngàn năm giáo hóa
đều nhằm dạy luân lư đạo đức;
trong các buổi giảng, chúng tôi cũng nhắc tới chuyện
này rất nhiều! Giáo dục của Trung Hoa chẳng rời
khỏi Ngũ Luân, Bát Đức. Ngũ Luân là giáo dục
luân lư; về luân lư th́ dạy điều ǵ? [Chính là như]
trong các buổi giảng, [tôi thường nói] quan hệ giữa
người và người với nhau. Giữa con người
với nhau, phải nên đối xử với nhau như
thế nào. Quư vị nói xem vấn đề này to lớn cỡ
nào!
Xă
hội hiện thời loạn dường ấy, nguyên
nhân ở chỗ nào? Chẳng có ai biết mối quan hệ
giữa con người với nhau! Con cái giết cha, giết
mẹ mà coi như không có chuyện ǵ xảy ra, do không hiểu
mối quan hệ đấy mà! Tôi nghe cư sĩ Thái Lễ
Húc giảng Đệ Tử Quy, có trích dẫn một câu
chuyện. Tại Tứ Xuyên ở Trung Hoa, cũng là vào một
hai năm trước, có một đứa nhỏ mười
mấy tuổi đă hạ độc vào thức ăn giết
chết cả cha lẫn mẹ! Nhằm mục đích ǵ? Nhằm
mục đích lănh tiền bảo hiểm [nhân mạng] của
cha mẹ để mua một cái điện thoại di
động! Do một cái điện thoại di động
bèn có thể giết chết cha mẹ! Trên thực tế, tiền
bảo hiểm của cha lẫn mẹ mới được
một món tiền hơn một vạn nhân dân tệ! Về
sau, khi phá án, lúc bị quan ṭa thẩm vấn, nó tỉnh bơ
như không có chuyện ǵ. Về căn bản là chẳng
hiểu, chẳng hiểu mối quan hệ đối với
cha mẹ, căn bản là không biết giết cha mẹ là
có tội! Cớ sao con người biến thành như vậy?
Vào thời cổ tại Trung Hoa, có một câu cửa miệng
là “thất giáo” (失教). “Giáo” là giáo dục,
[“thất giáo”] nghĩa là chẳng được giáo dục,
“thất giáo” [nghĩa là
như vậy đó]. Nếu một người chẳng
tiếp nhận giáo dục, cổ thánh tiên hiền bảo
kẻ ấy chẳng khác ǵ súc sanh. Thậm chí c̣n chẳng
bằng súc sanh! Cọp, sói là mănh thú, chẳng ăn thịt
con cái của chính ḿnh. V́ thế, nói là “ngay cả cầm thú cũng chẳng bằng”!
Nếu
chúng ta nghiên cứu là do nguyên nhân nào ư? V́ sao tạo thành
như vậy? Chúng ta suy ngẫm cặn kẽ, [sẽ thấy]
là do chẳng có giáo dục luân lư đạo đức. Chẳng
có giáo dục luân lư, sẽ chẳng hiểu mối quan hệ
với người khác. Chẳng có giáo dục đạo
đức, sẽ chẳng biết phải nên đối xử
với người khác ra sao. Chẳng có giáo dục nhân quả,
sẽ không biết làm những chuyện ấy là sai lầm!
Tuổi nhỏ, mới mười mấy tuổi, nếu
quư vị đ̣i cha mẹ cho tiền mua điện thoại
di động, nhất định là cha mẹ chẳng
ưng thuận. Chẳng được ưng thuận,
làm thế nào đây? Hại chết họ! Tôi thấy t́nh
h́nh này trong xă hội hiện thời rất lo lắng, sợ
nó sẽ trở thành trào lưu, đáng ngại lắm!
Năm
trước, tôi ở Ba Lê và Luân Đôn, những đồng
học bên đó đă kể: Hai tuần trước, ở
Ba Lê nước Pháp đă xảy ra chuyện đứa em
trai giết anh. Thằng em mới mười bốn tuổi,
cũng coi như không có chuyện ǵ hết, [nó coi chuyện
sát nhân] giống như ǵ? Giống như giỡn chơi. Coi
chuyện giết người như chuyện chẳng
đáng kể chi hết! Lúc ấy, tôi nghe chuyện đó,
bảo những đồng học bên ấy: “Đấy
là điềm báo cho hiện tượng tận thế của
thế giới này, chẳng phải là chuyện nhỏ
nhoi, chẳng thể bỏ qua, coi nhẹ được!”
V́ sao? Hiện thời, mỗi tuần đều nghe thấy
chuyện ấy. Cha con, cha mẹ, vợ chồng giết
nhau, mỗi tuần có thể nghe thấy vài lượt, sẽ
nghe tin tức ấy [đăng tải] vài lần trên cả
thế giới. Mười năm sau, mỗi ngày có thể
nghe [chuyện ấy] mấy chục lần. Hai mươi
năm sau, mỗi ngày tối thiểu có thể nghe tin ấy
một hai trăm lượt. Tôi nói điều ấy
được gọi là “tận
thế”, đáng sợ lắm, đáng kinh hăi lắm!
Phần
tử khủng bố là do dạy dỗ mà ra. Tôi đă nói rất
nhiều: Phật, Bồ Tát là dạy dỗ mà ra, thánh hiền
là do dạy dỗ mà ra, người tốt do dạy dỗ
mà ra, kẻ xấu cũng là do dạy dỗ mà ra, phần
tử khủng bố vẫn là do dạy dỗ mà thành! Quư
vị dạy họ như thế nào? Hiện thời,
đối với sự giáo học, mọi người
đă quên bẵng trách nhiệm! Vào thời cổ, tại
Trung Hoa, bất cứ ai cũng có sứ mạng “quân, thân, sư”. “Quân” (君) là lănh đạo,
cầm đầu. Quư vị phải hướng dẫn
người khác tốt đẹp, lănh đạo địa
phương tốt đẹp, chớ nên nêu gương xấu.
“Thân” (親) là
thân ái, quư vị phải yêu thương, che chở họ. “Sư” (師) là
thầy, quư vị phải khéo dạy bảo họ. Dạy
luân lư đạo đức, dạy nhân quả báo ứng,
khiến cho họ trong đời này thật sự trưởng
thành tốt đẹp, làm một người tốt trong
thế gian, sống cuộc đời thật sự hạnh
phúc mỹ măn.
Giáo
dục hiện thời là ǵ? Trong nền giáo dục hiện
thời, ai nấy đều chẳng dạy, quốc gia
chẳng dạy. Trước kia, quốc gia chịu trách
nhiệm giáo dục, người làm đế vương
là “kiến quốc, quân dân, giáo
học vi tiên” (xây dựng đất nước, cai trị
nhân dân, giáo học làm đầu). Quốc gia chọn lựa,
đề bạt nhân tài, nay nói là “tuyển chọn cán bộ”. Những người
có học xưa kia, hễ ưu tú đều được
chọn làm quan. “Học nhi
ưu tắc sĩ” (Học vấn giỏi giang bèn làm
quan). Chế độ ấy do Hán Vũ Đế kiến
lập, lập ra vào đời Hán. Tuyển chọn, chọn
lựa đề bạt nhân tài ưu tú để làm cán bộ
cho nước nhà. Ai tuyển chọn? Chẳng phải là
do dân chúng tuyển chọn, mà là do quan viên địa
phương chọn lựa. Điều kiện là ǵ? Hai
điều kiện: Một là hiếu, hai là liêm. Kẻ ấy
có thể hiếu thuận với cha mẹ, sẽ có thể
tận trung v́ nước nhà, v́ xă hội. Nếu kẻ ấy
liêm khiết, sẽ chẳng tham ô. V́ thế, xưa kia, quan
viên địa phương đi khắp nơi ḍ hỏi,
xem xét những đứa trẻ nào vừa hiếu thuận
với cha mẹ, lại chẳng tham tiền, bèn chọn lấy
để quốc gia vun bồi, quốc gia bồi dưỡng.
Trong tương lai, nó sẽ trở thành quan viên hoặc cán
bộ cho nước nhà!
Điều
kiện chọn lựa, đề bạt ấy hay lắm,
đă đơn giản lại c̣n dễ hiểu, [các quan
viên địa phương] ngấm ngầm điều
tra, thăm ḍ. Ở trong nhà, nó có hiếu thuận với
cha mẹ hay không? Gộp hai điều kiện ấy lại
để chọn ra. Thời cổ, trường học
ít, mỗi huyện chỉ có một trường, học
tṛ được chọn lựa như vậy. Sau khi
đă nhập học [trường huyện], học phí
hoàn toàn do đất nước trả, hết thảy các
thứ chi phí cấp dưỡng trong cuộc sống đều
do quốc gia cấp phát. V́ thế, gia đ́nh của chính đứa
trẻ ấy chẳng cần phải bận ḷng. Người
cùng khổ cũng vậy, chỉ cần con cái được
nhập học, sẽ được một phần
lương bổng của quốc gia, được quốc
gia vun vén cho. Chế độ ấy hay lắm, măi cho đến
đời Thanh đều là như vậy. Qua nhiều
đời, chế độ tuyển cử hiếu liêm chẳng
phế bỏ. Đến thời Dân Quốc mới bị
gạt bỏ, đúng là đáng tiếc!
V́
thế, đối với chữ Hiếu ở đây, Ngài
(Thanh Lương đại sư) bảo là “chí đức”, là “hạnh bổn”. Đối với
chữ Chí Đức và Hạnh Bổn, trong lời Sao c̣n
có chú giải, chúng ta đọc lời Sao một lượt,
rất hay!
(Sao)
Dĩ thị chí đức đẳng giả.
(鈔)以是至德等者。
(Sao: “Chí đức” v.v… chính là).
Lời
Sao giảng về câu “chí đức
hạnh bổn, cố thủ nhi minh chi” (là đức tột
cùng, là cội gốc của hạnh, nên nêu ra đầu
tiên), giảng giải câu ấy.
(Sao)
Tức ngoại điển ư.
(鈔)即外典意。
(Sao:
Ư nghĩa từ sách vở ngoài nhà Phật).
“Ngoại điển” nghĩa
là chẳng phải kinh điển của Phật giáo, mà là
sách vở của Nho gia. Ư nghĩa ấy
xuất phát từ sách vở của Nho gia. Tiếp đó,
nêu ra [cụ thể].
(Sao)
Cố Hiếu Kinh, Phu Tử ngữ Tăng Tử viết.
(鈔)故孝經夫子語曾子曰。
(Sao: Bởi trong Hiếu Kinh, Khổng Tử bảo
Tăng Tử).
Khổng
phu tử nói với học tṛ của Ngài là Tăng Tử.
(Sao)
Tiên vương hữu chí đức yếu đạo, dân
dụng ḥa mục, thượng hạ vô oán, nhữ tri chi
hồ?
(鈔)先王有至德要道,民用和睦,上下無怨,汝知之乎。
(Sao: Tiên vương có đạo trọng yếu,
đức tột cùng, khiến cho dân chúng ḥa thuận,
người trên kẻ dưới chẳng oán hờn nhau,
ông có biết hay chăng?)
Quư
vị xem mấy câu này, [đó chính là điều] cần
thiết cấp bách cho xă hội hiện thời! Xă hội
hiện thời bất ḥa, người trong xă hội hiện
thời đầy ắp oán hận. Ai mà chẳng không hy vọng
nhân dân đối xử ḥa thuận, kẻ trên người
dưới chẳng oán hận nhau? Hiện thời, kẻ
trên oán dân đen không nghe lời, không tuân thủ pháp tắc,
kỷ cương. Nhân dân ở phía dưới th́ chẳng
vừa ḷng đối với cấp lănh đạo, nay
thường nói là “dân oán”.
Trong những vấn đề khiến dân chúng oán hận,
chuyện dễ nẩy sanh nhất chính là sự mất quân
b́nh giữa người giàu và kẻ nghèo! Nghèo và giàu vốn
chẳng quân b́nh, v́ sao? Nghiệp báo của mỗi cá nhân khác
nhau, trong đời quá khứ đă tạo nghiệp khác
nhau! Nhưng nếu là người thật sự hiểu
lư, người giàu có thể giúp đỡ kẻ nghèo, sẽ
chẳng có oán hận. Người giàu có chỉ lo hưởng
phước, không chịu giúp đỡ kẻ nghèo, sẽ
là như ngạn ngữ đă nói: “Một nhà no ấm, ngàn nhà oán”. Một nhà quư vị
sống đời phú quư, ngàn nhà đều oán hận, quư vị
có dễ sống hay chăng? Chẳng dễ sống!
Năm
trước, tôi sang thăm Ấn Nê (Indonesia). Indonesia có vài lần
biến loạn bài trừ người Hoa, người Hoa
cũng bị tổn hại khá nặng! Tôi nói với các bằng
hữu Hoa Kiều: “Họ oán hận các vị, các vị
hăy nên t́m cách hóa giải. Ở đây, quư vị kiếm rất
nhiều tiền, mà chẳng biếu tặng họ. Nếu
quư vị bỏ ra một phần mười thâu nhập
để bố thí, giúp đỡ người nghèo, tuyệt
đối sẽ chẳng có những cuộc động
loạn ấy, người dân nhất định sẽ ưa
thích, yêu mến quư vị. Không chỉ là chẳng tổn hại,
mà sẽ c̣n giúp đỡ quư vị. Quư vị chẳng ban tặng,
đương nhiên là sẽ bị oán hận, sẽ có những
sự kiện như vậy nẩy sanh”. Tôi nói: - Tôi chẳng
phải là người dân Indonesia, nhưng tôi hết sức
quan tâm đến chuyện giáo dục. V́ sao? Giáo hóa họ
tốt đẹp hơn! Tôi tặng học bổng cho
đại học Indonesia. Đối với sáu thành phố
lớn của Indonesia, tại mỗi thành phố, tôi chọn
ra một trường đại học, hằng năm trao
học bổng. Tôi chẳng cầu mong ǵ, tôi không mong di dân
đến định cư tại Indonesia. [Tôi làm như vậy
v́] đấy là chuyện chúng ta phải nên làm. Hiện thời
đất nước họ xă hội động loạn,
nguyên nhân là ở chỗ nào? Cần phải bồi dưỡng
nhân tài. Bởi lẽ, giáo dục quan trọng hơn bất
cứ điều ǵ khác! Tôi lập quỹ học bổng
tại sáu ngôi trường, người Indonesia có cái nh́n
đối với tôi như thế nào? Chính họ kể điều
ấy với tôi: “Thưa pháp sư, người Indonesia
nói, pháp sư Tịnh Không c̣n yêu mến Indonesia hơn
người Indonesia”. Tôi đă dùng bao nhiêu tiền? Quá ít. Tâm
chân thành quan tâm, giúp đỡ họ, điều này quan trọng
lắm! Chúng ta hy vọng xă hội an định, hy vọng
nhân dân đều có thể đối đăi b́nh đẳng,
cư xử ḥa thuận.
Quốc
gia Indonesia thừa nhận năm tôn giáo[2],
năm tôn giáo hết sức ḥa thuận, tôi cùng họ
cư xử rất tốt. Họ tặng tôi học vị
Tiến Sĩ danh dự, tôi rất hoan hỷ tiếp nhận.
Đây là một nước Hồi giáo lớn bậc nhất
trên thế giới, toàn quốc là hai ức ba ngàn vạn
người. Người theo đạo Hồi (Y Tư Lan
giáo, Islam), chiếm đến tám mươi sáu phần
trăm, gần như là hai ức người! V́ thế,
đại học đạo Hồi có thể làm như vậy,
tôi cũng rất cảm động. Nơi ấy an định,
toàn thể châu Á sẽ an định. Chúng ta xem xét vấn
đề, hăy nh́n vào toàn thể thế giới, đừng
nên nh́n vào một quốc gia, một vùng, mà hăy nh́n vào toàn thể
thế giới. Giúp đỡ toàn thể thế giới
hóa giải xung đột, khôi phục an định, ḥa
b́nh, đấy là một chuyện tốt đẹp. “Dân chúng ḥa thuận, kẻ trên
người dưới không oán hận”, nguyên nhân là ǵ?
Như trong phần trước đă nói, “chí đức yếu đạo”. Đức
đạt tới đỉnh cao nhất th́ gọi là “chí đức”.
Quư
vị xem phần kinh văn kế tiếp…
(Sao)
Chú vân.
(鈔)注云。
(Sao: Chú giải rằng).
Dưới
đó có chú giải.
(Sao)
Chí đức giả, hiếu đễ dă.
(鈔)至德者,孝悌也。
(Sao: “Chí đức” là hiếu đễ).
“Chí đức” là ǵ? Hiếu
đễ, phải dạy! “Hiếu”
là con cái phụng sự cha mẹ, tức là biết mối
quan hệ đối với cha mẹ, biết phải
đối đăi với cha mẹ như thế nào. Hiếu
đấy! “Đễ” (悌) là đối đăi tôn trưởng, đối với
những người tuổi tác lớn hơn ta, phải
nên dùng tâm thái như thế nào để đối đăi.
[Ai nấy] đều biết hiếu, đều biết
kính, thiên hạ sẽ thái b́nh. V́ thế, giáo dục luân lư của
Trung Hoa là hiếu đễ. Đối với giáo dục
đạo đức, phần tiếp đó là nói về “hạnh bổn”.
(Sao)
Yếu đạo giả.
(鈔)要道者。
(Sao: Đạo trọng yếu).
“Chí đức” là hiếu
đễ, “yếu đạo”
tức là đạo trọng yếu nhất chính là ǵ?
(Sao)
Lễ nhạc dă.
(鈔)禮樂也。
(Sao:
Là lễ nhạc).
Dùng
lễ để ép hành vi của chúng ta vào khuôn khổ.
Căn bản của lễ, thưa cùng quư vị, chính là Đệ
Tử Quy. “Nhạc” là âm nhạc,
ca múa. Dùng lễ để điều ḥa cái thân, ngôn ngữ,
cử chỉ, động tác của chúng ta phải hợp
lễ, trong Đệ Tử Quy đều có! Nhạc nhằm
điều ḥa cái tâm, tức là [điều ḥa] t́nh tự, ổn
định tâm t́nh của chúng ta. Khổng tử “san Thi Thư, định lễ nhạc”
(san định kinh Thi và kinh Thư, ấn định lễ
nhạc). Quư vị xem kinh Thi, thời cổ gọi [bộ
sách ấy] là Kinh Thi. Những bài thơ trong kinh Thi đều
có thể phổ nhạc để ca hát. Trong khi nhảy
múa, có thể biểu diễn. Đấy là ca múa, [những
bài thơ trong kinh Thi] là ca từ (lời ca). Chúng có tiêu chuẩn,
Phu Tử đă định ra tiêu chuẩn: “Nhất ngôn dĩ tế chi, viết tư vô tà” (Có
thể nói gộp chung bằng một lời, chẳng
nghĩ tà vạy). Nay chúng ta nói là “biểu diễn văn nghệ”, biểu diễn
văn nghệ vào thời cổ có tiêu chuẩn là “tư vô tà”. Quư vị tham dự
những cuộc tụ hội văn nghệ, những ǵ
quư vị được xem, được nghe, được
tiếp xúc, tuyệt đối sẽ chẳng khiến cho
quư vị nẩy sanh ư niệm bất hảo. Nghệ thuật
của Trung Hoa [thời cổ] là như thế đấy!
Quư
vị thấy hát tuồng trong quá khứ, người hiện
thời đă không thích xem nữa. B́nh Kịch, Côn Khúc[3], các
loại tuồng từng vùng rất nhiều, nội dung của
chúng là ǵ? Đều chẳng ngoài trung, hiếu, tiết,
nghĩa, giáo dục điều này. Chúng chính là giáo dục.
Trong ấy, đặc biệt nhấn mạnh, “thiện có thiện báo”, người lành nhất định
có kết quả tốt đẹp. “Ác có ác báo”, kẻ ác
đến cuối cùng nhất định bị trừng
phạt, biểu diễn những điều ấy. Thời
cổ, trường học chẳng nhiều như vậy,
chẳng phát đạt như vậy, nhân dân được
tiếp nhận giáo dục bằng lễ nhạc. Lễ
biểu diễn ở chỗ nào? Trong cúng tế. Trong gia
đ́nh, cúng bái tổ tiên đều có lễ tiết. Tế
Khổng Tử là đại tế điển (cuộc lễ
trịnh trọng với quy mô lớn), đám cưới, đám
ma, dựng vợ gả chồng, thảy đều có lễ
tiết nhất định. Học lễ từ trong ấy.
Từ các tiết mục văn nghệ, đă học
được lễ nhạc. Có thể nói là hiếu đễ,
lễ nhạc thảy đều biểu diễn, nhân dân
tiếp nhận sự giáo dục từ chỗ này. V́ thế,
vào dịp Tết, ngay cả nông thôn cũng đều có biểu
diễn các tuồng hát, dùng loại phương thức này
để giáo học phổ cập, “giáo học làm đầu”! Người học tập
“tu thân vi bổn”. Chúng ta chớ
nên không biết chí đức yếu đạo, hiện thời
th́ sao? Hiện thời đúng là rất ít người biết!
Các
tiết mục giải trí hiện thời, quư vị xem TV,
xem phim ảnh, xem Internet, tôi suốt bốn mươi
năm chưa tiếp xúc, dứt tuyệt duyên với những
thứ ấy, ngay cả báo chí tôi cũng chẳng xem! Hằng
ngày, tôi xem kinh Phật, xem sách vở của thánh hiền.
Trong căn pḥng nhỏ của tôi có Đại Tạng Kinh,
có Tứ Khố Toàn Thư, tôi mỗi ngày đọc những
thứ ấy. Làm bằng hữu với cổ nhân,
tương đối cách xa người hiện thời
đôi chút, nhưng cũng không [hoàn toàn] xa cách! Hằng ngày
giảng kinh, dạy học ở đây, tiếp xúc cùng hiện
tại. Trong ấy, có niềm vui thú, toàn là chánh diện, chẳng
có thứ ǵ phản diện. V́ thế, mới thấu hiểu
sâu đậm lời Phu Tử đă nói: “Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt
hồ” (Học rồi thường tập luyện,
cũng chẳng vui sao). Trong ấy, có chân lạc. Đối
với chí đức yếu đạo, nếu quư vị
chẳng thật sự thâm nhập cảnh giới của
thánh hiền, sẽ chẳng hiểu nổi! Sau khi đă hiểu,
quư vị có thể y giáo phụng hành thực hiện, xác thực
là có lạc trong ấy. Đó là chân lạc, chẳng phải
là giả lạc. Lạc ấy chẳng phải do sự kích
thích từ bên ngoài, mà là sự hỷ duyệt sanh từ
trong nội tâm, pháp hỷ sung măn. Phật pháp thường
nói là “thường sanh tâm hoan hỷ”.
Người thường sanh ḷng hoan hỷ, như trong phần
trước đă nói, mỗi tế bào trên toàn thân đều
là kết tinh đẹp đẽ nhất. Đó là khỏe
mạnh, sống lâu, chẳng có ưu lự, chẳng có vướng
mắc, chẳng có phiền năo, thân tâm thanh tịnh! Nay thời
gian đă hết rồi, chúng ta nghỉ ngơi mấy phút.
**
Chư
vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Chúng
ta xem phần chú giải tiếp theo.
(Sao)
Cố thượng chí thiên tử, hạ chí thứ nhân,
giai đương hành hiếu, vô thỉ chung dă.
(鈔)故上至天子,下至庶人,皆當行孝,無始終也。
(Sao: V́ thế, trên là cho đến thiên tử,
dưới là cho đến thường dân, đều thực
hành hiếu, chẳng có khởi đầu hay kết thúc).
Mấy
câu này hết sức trọng yếu! Bất luận là
thiên tử sang cả bên trên, cho đến dưới là bá
tánh b́nh dân, ai nấy đều phải nên tận hiếu.
“Hiếu” là căn bản
để làm người, cho nên lịch đại đế
vương Trung Hoa không ai chẳng dùng hiếu để trị
thiên hạ. Bản thân đế vương nêu
gương cho nhân dân thấy, nhân dân tất nhiên là “trên làm, dưới bắt
chước theo”. Thấy bề trên nêu gương, tự
nhiên họ học tập theo; đấy là giáo học. V́
thế, đế vương đă thật sự thực
hiện ba chữ “quân, thân,
sư”. Đấy là sứ mạng, là chức trách của
họ. “Quân” là lănh đạo,
hướng dẫn nước nhà đạt đến
giàu, mạnh, an vui, hướng dẫn luân lư, đạo
đức. Đấy là lănh đạo. “Thân”: Thân là phải nuôi nấng dân chúng, phải thực
hiện đường lối cai trị rất tốt,
khiến cho cuộc sống của nhân dân có thể sống
rất tốt đẹp, chẳng thiếu hụt. Đó
là trách nhiệm về Thân. Thân là phải dưỡng dân. Nếu
chỉ có dưỡng, cuộc sống rất giàu có, dư
dả, cơm áo có thể ăn no, mặc ấm, sống rất
thoải mái, nhưng nếu không dạy dỗ, người
và cầm thú chẳng khác nhau cho mấy! Sở dĩ con
người khác cầm thú là do giáo dục. V́ thế, quốc
gia kiến lập giáo dục, nếu muốn thu được
hiệu quả tốt đẹp, vua một nước nhất
định phải dẫn đầu học tập, nêu
gương tốt cho nhân dân.
Theo
lịch sử Trung Hoa ghi chép, sớm nhất là thời Nghiêu
Thuấn. Vào thời Nghiêu Thuấn, [nước nhà] mới
thiết lập cơ cấu chuyên môn xúc tiến giáo dục.
Sách chép điều này như sau: “Sử
Khế” (sai ông Khế), Khế (契) là tên người[4], “vi Tư Đồ” (làm Tư
Đồ). Tư Đồ (司徒) là một
chức quan, là danh xưng của một viên chức, chủ
quản giáo dục. V́ thế, cũng giống như là nói
chánh phủ có cơ cấu chuyên môn dạy học. Về
sau, diễn biến thành bộ Lễ. Dưới Tể
Tướng có sáu bộ, bộ thứ nhất là giáo dục,
giáo học làm đầu mà! Trong sáu bộ, sắp xếp tên
gọi bộ trưởng, giáo dục được xếp
hàng đầu. Lễ Bộ Thượng Thư chính là bộ
trưởng bộ giáo dục trong hiện thời. Nếu
Tể Tướng chẳng thể trông nom sự việc,
Lễ Bộ liền thay thế. Có thể thấy mọi
người tôn trọng giáo học ngần ấy! Đế
vương và đại thần cùng nhau học tập.
“Vô thỉ chung”, câu này nói hay lắm!
Chúng ta học luân lư đạo đức, có lúc tốt nghiệp
hay không? Chẳng có! Có nói lứa tuổi nào mới bắt
đầu hay không? Chẳng có! Học từ tấm bé!
Trong phần trước, tôi đă nhiều lần thưa
tŕnh cùng chư vị về chuyện này. Giáo dục tại
Trung Hoa là từ bé sanh ra được ba bốn ngày bèn bắt
đầu. Quyết chẳng phải là như hiện thời
nói đến “độ tuổi đi học”: Tới lúc
ba bốn tuổi th́ học mẫu giáo, sáu bảy tuổi
có thể vào Tiểu Học. Chẳng có tuổi nhập học,
tại Trung Hoa chẳng có! Tại Trung Hoa, học là “chẳng có khởi đầu
hay kết thúc, sống đến già, học đến
già”, vẫn học chẳng xong! Đấy là quan niệm
giáo học của Trung Hoa, chẳng có ai không học, trên là
từ thiên tử, dưới là cho đến thường
dân, hằng ngày đều học! Chẳng thể nói là
đă già rồi [không học nữa]! Năm nay, tôi đă
tám mươi tuổi, vẫn học, hằng ngày đọc
sách, chẳng có ngày nào không đọc sách. Nếu không đọc
sách, ngày ấy sẽ rất khó chịu, toàn thân chẳng thoải
mái. Đọc sách bèn rất thoải mái. Đấy là lời
chân thật. Có những người tuổi tác đă cao,
sáu mươi, bảy mươi: “Sáu bảy mươi tuổi
rồi c̣n đọc sách làm chi nữa?” Quan niệm ấy
sai rồi! Do vậy, người hiện thời có quan niệm
sai lầm đông lắm, người thật sự hiểu
biết quá ít!
Hành
hiếu đạo rất khó khăn, nhưng nhất định
là phải học, phải thi hành Đệ Tử Quy. Phải
biểu hiện ḷng hiếu trong cuộc sống hằng
ngày. Cha mẹ dạy, ngay lập tức phải vâng. Đấy
là lễ tiết, là chuyện nên làm. Cha mẹ bảo quư vị
làm việc, phải ngay lập tức sốt sắng thực
hiện. Nhưng vấn đề ở chỗ nào? Quư vị
thấy Đệ Tử Quy dạy: “Thân sở háo, lực vi cụ” (Điều ǵ cha
mẹ ưa thích, hăy tận lực lo liệu). Kẻ làm
cha mẹ hiện thời đều tham tài, “con hăy tận
hết sức kiếm tiền về cho ta”, chuyện này
khó quá! Quư vị làm như thế nào? V́ thế, thường
ngày trong nhà, bản thân quư vị chẳng thể không đọc
sách thánh hiền! Gia đ́nh là một luận đàn, thường
xuyên cùng người nhà, cha mẹ, vợ con thảo luận
ư nghĩa luân lư đạo đức, những sự thật
về nhân quả báo ứng, thường thảo luận những
chuyện ấy, khiến cho quan niệm của người
nhà thay đổi, chớ nên thuận theo thế tục. Thế
tục đă khiến cho chúng ta lầm lạc!
V́
sao ḷng người hiện thời bất thường? Xă
hội hướng dẫn sai lầm, hướng dẫn
lầm lạc nghiêm trọng. Chúng tôi từ bé, trước
lúc lên mười, đă tiếp nhận một tí giáo dục
luân lư đạo đức, giáo dục nhân quả từ
miếu Thành Hoàng; hiện thời mọi người chẳng
tin, nhưng tôi tin tưởng! Tôi suốt đời chẳng
thay đổi, thiện có thiện báo, ác có ác báo. Xem tướng
đoán mạng, tôi cũng tin tưởng. Từ nhỏ, lúc
rất nhỏ tôi không biết, chẳng nhớ được,
chứ khi hai mươi hai tuổi, tôi đến Đài
Loan, khi đó, đă hiểu chuyện rồi, được
tiếp xúc những người đoán mạng coi tướng,
xem tướng cho tôi. Cũng rất khó có, họ cũng
không giấu giếm, nói mạng của tôi rất khổ.
Họ nói trong mạng của tôi, cung Tài rỗng tuếch,
suốt đời chẳng có tiền. Bất luận làm
chuyện ǵ, cũng đều chẳng thể kiếm tiền.
Trong mạng chẳng có quan ấn, anh cũng chẳng làm
quan được. Ngay cả làm những vị chủ quản,
anh cũng chẳng có phần! Sau này, tôi xuất gia, xuất
gia th́ anh cũng chẳng có mạng làm Trụ Tŕ. Trụ
Tŕ, Đương Gia, những địa vị ấy
đều là có quyền lực, anh đều chẳng có
phần. Suốt đời này, anh chỉ có thể làm thanh
chúng, trong mạng chẳng có! Chẳng có th́ cầu chẳng
được!
Trong
quá khứ, tôi đă từng thấy một vị tướng
quân, làm Thiếu Tướng, được thăng chức
lên Trung Tướng. Mệnh lệnh c̣n chưa công bố,
nhưng tin tức đă lộ ra, ông ta biết tin rất vui
vẻ, bày một bàn tiệc rượu mời các bạn
thân đến ăn mừng. Mệnh lệnh vẫn
chưa được công bố. Khi đang uống rượu,
chẳng biết là như thế nào, do uống quá nhiều
hay là như thế nào đó, chết ngỏm, chết ngay
trên bàn tiệc! Bằng hữu liền nói: “Ông ta chẳng
có mạng ấy. Mạng ông ta chỉ có một sao. Hai sao
đè ông ta chết tươi!” Chúng tôi nghe nói vậy, [cảm
thấy] có lư quá. Người chẳng thể tranh đua với
mạng, trong mạng có th́ nhất định sẽ có.
Trong mạng chẳng có, không cần tranh! Giáo dục nhân quả
khiến cho chúng ta suốt đời tâm b́nh khí ḥa. Tuy cuộc
sống hết sức khổ sở, chúng ta vẫn chẳng
oán trời hờn người!
Lăo
cư sĩ Châu Kính Trụ tặng tôi quyển Liễu Phàm
Tứ Huấn. Thuở ấy, có lẽ tôi khoảng hai
mươi lăm tuổi, c̣n chưa học Phật. Tôi
đă đọc một hơi quyển sách ấy ba
mươi lần, đại khái là hơn ba mươi lần
trong hơn một tháng, hết sức cảm động!
Các tập khí ác lúc trẻ của tiên sinh Liễu Phàm tôi thảy
đều có. Ông ta c̣n có một chút phước báo, tôi thua
kém ông ta. Ông ta c̣n có thể đậu Tú Tài, tôi ngay cả Tú
Tài trong mạng cũng chẳng có! Ông ta c̣n có thể làm huyện
trưởng, mạng tôi chẳng có huyện trưởng,
chẳng bằng ông ta. Đọc sách ấy, rất cảm
động. Lời khai thị của thiền sư Vân Cốc
khiến cho chúng tôi hiểu, những ǵ thầy bói xem tướng
đă đoán chính là định số, định số
là tiền định. Đời trước, quư vị chẳng
tu, đời trước chẳng tu tài bố thí, há quư vị
có của cải? Đời trước nhất định
là rất keo kiệt, vắt cổ chày ra nước, cho
nên đời này túng quẫn. Đời trước chẳng
tu vô úy bố thí, đời này đoản mạng. Người
ta coi bói cho tôi, không chỉ một người, mà rất
nhiều người đều nói tôi sống không quá bốn
mươi lăm tuổi, tôi rất tin tưởng.
Cũng may là đời trước chắc là có một
chút pháp bố thí, có nghĩa là c̣n có một chút thông minh, trí
huệ, từ nhỏ đă được luân lư, đạo
đức, nhân quả un đúc, c̣n có một chút lương
tâm, chẳng dám làm chuyện thương thiên hại lư, chẳng
dám làm chuyện tổn người lợi ḿnh. Đấy
là giáo dục nhân quả.
Sau
khi được thiền sư Vân Cốc khai thị,
hướng dẫn, chúng tôi mới hiểu trong định
số có biến số. Biến số là mỗi ngày có cộng,
trừ, nhân, chia. Quư vị làm chuyện tốt, bèn cộng
thêm điểm, làm chuyện xấu, bèn bớt điểm.
Quư vị làm chuyện tốt to lớn, bèn nhân lên; làm chuyện
xấu to lớn, bèn chia ra! Hằng ngày bị cộng, trừ,
nhân, chia, mỗi năm đều cộng, trừ, nhân,
chia. Chúng tôi bèn hiểu rơ, những khuyết điểm, tập
khí của chính ḿnh đều phải sửa đổi, nghiêm
túc sửa, đoạn ác tu thiện, tích lũy công đức,
sửa đổi vận mạng! Tiên sinh Liễu Phàm đại
khái sửa đổi trong bốn, năm năm, tôi cũng
gần như là như vậy. Do sửa đổi, mạng
vận về sau chẳng tương ứng [với những
lời đoán định trước đó]. Nhưng lúc bốn
mươi lăm tuổi, tôi vẫn bị bệnh một
trận, tôi nghĩ rằng ḿnh sẽ phải ra đi! Tôi
hoàn toàn chẳng cầu trường thọ, mà cũng chẳng
cầu phú quư, điều ǵ tôi cũng không cầu. Sau khi
đă học Phật, chỉ cầu niệm Phật, cầu
sanh Tịnh Độ. Trong lúc ngă bệnh, niệm A Di
Đà Phật, cầu đức Phật đến tiếp
dẫn. Niệm suốt một tháng, lành bệnh! Đời
này, tôi rất ít khi bị bệnh!
Có
một năm, tôi gặp Cam Châu Hoạt Phật. Vị này
là bạn đă lâu, Ngài lớn hơn tôi mười mấy
tuổi, cũng là học tṛ của Chương Gia đại
sư. V́ thế, chúng tôi có t́nh sư huynh sư đệ,
Ngài là lớp đàn anh của tôi! Khi gặp tôi, Sư rất
hoan hỷ, bảo tôi: “Pháp sư Tịnh Không ơi! Sau
lưng ông, chúng tôi thường bàn luận về ông đấy”.
Tôi hỏi: “Bàn luận chuyện ǵ về tôi vậy?” Sư
đáp: “Người rất thông minh, khá lắm, đáng tiếc
là chẳng có phước báo, lại đoản mạng”.
Tôi đáp: “Không cần nói sau lưng, cứ nói ngay mặt
tôi, tôi có thể tiếp nhận, chẳng kiêng dè chi hết”.
Sư bảo: “Trong mấy năm nay, ông hằng ngày giảng
kinh, thuyết pháp, đă biến đổi rồi”. Tôi nói:
“Biến đổi ra sao?” “Không chỉ là trong tương
lai ông có đại phước báo, mà thọ mạng c̣n rất
dài!” Rất đáng tiếc là năm sau, sư Cam Châu văng
sanh. Đấy là một vị thượng sư tốt
trong Mật Tông, rất khó có!
Trong
những năm qua, chúng tôi đoạn
ác tu thiện càng nghiêm túc, càng nỗ lực. Tuy gặp rất
nhiều nỗi vùi dập, bị người ta hiểu lầm,
hủy báng, lăng nhục, chướng ngại, thậm
chí hăm hại, chúng tôi chẳng mảy may ôm ḷng oán hận.
Không chỉ là chẳng oán hận, trả thù, mà tôi c̣n lập
trường sanh lộc vị cho họ. Hằng ngày, chính
tôi tụng kinh, niệm Phật, đều hồi hướng
cho họ. Họ đều là thiện tri thức của
tôi, nhắc nhở tôi, giúp tôi tiêu nghiệp chướng. Dẫu
trong đời này chẳng tạo ác nghiệp, tôi biết
là đời đời kiếp kiếp trước đă
tạo ác nghiệp quá nhiều. V́ thế, tôi nghĩ những
hành vi của họ đối với tôi đều giúp cho
tôi tiêu nghiệp chướng; do vậy, tôi cảm ơn.
Những kẻ b́nh phàm thấy vậy, đều cảm
thấy rất lạ lùng. Họ chẳng hiểu “oan gia nên tháo gỡ, chẳng nên
buộc”. Họ chướng ngại, hủy báng tôi, tôi
nghĩ: Chắc là đời trước, ta đă chướng
ngại, hủy báng họ, ăn miếng trả miếng
đó mà! Nay họ đối với tôi như vậy, tôi
tiếp nhận, chẳng hề hủy báng, chẳng hề
oán hận, đă giải quyết xong xuôi! Từ nay về
sau là bạn tốt. V́ thế, tôi thường chúc phước
cho họ, hy vọng họ khỏe mạnh, sống lâu, phước
huệ tăng trưởng. Đấy là tâm thái đă học
Phật và chưa học Phật khác nhau, hành vi khác hẳn!
Trong đời này, tham, sân, si, mạn, những nỗi ghen
tỵ, oán hận thảy đều hóa giải, thân tâm yên ổn,
pháp hỷ sung măn. Đối với giáo huấn của chư
Phật, Bồ Tát, thánh hiền, chúng tôi đều có thể
thực hiện trong cuộc sống và trong công việc.
Công
việc của tôi là giảng kinh, giáo học. Trừ chuyện
này ra, tôi chẳng có công việc chi khác. V́ thế, trong mạng
chẳng có tiền, tôi không bận tâm. Trong mạng chẳng
có quan ấn, tôi không dựng chùa miếu, chẳng lănh chúng.
Chư vị biết các đạo tràng trước kia là
do Hàn quán trưởng lập ra, đại khái là trong mạng
bà ta có quan ấn, có phước báo, bà ta có thể lănh chúng,
những người ấy đều nghe lời bà ta. Sau
khi bà đă mất, tôi lập một đạo tràng ở
Đồ Văn Ba (Toowoomba) nhằm ổn định những
đồng học xuất gia do bà ta thu nhận mà lập
đạo tràng ấy, giao đạo tràng cho họ. Tôi cùng
chánh phủ địa phương, các trường, cũng
như cư dân địa phương của Úc có mối
quan hệ hết sức tốt đẹp; v́ thế, các
đồng học muốn tôi đứng tên để làm
việc cho tiện. Tôi nói: “Được! Đứng tên
đă ba năm rồi, năm nay sẽ không đứng tên
nữa”. Vào tháng Ba, bên kia có pháp hội, tức là dịp kỷ
niệm chín năm Hàn quán trưởng văng sanh, tôi thừa dịp
pháp hội ấy, chẳng cần danh xưng ấy nữa,
cũng chẳng đứng tên nữa, giao hết cho họ.
Tôi nói, quư vị chừa cho tôi một căn pḥng là
được rồi. Nếu tôi nghỉ phép sang đó, có
chỗ để ở, tôi đă hết sức măn ư. Tôi xuất
gia, thầy đặt tên cho tôi là Tịnh Không, suốt
đời này, tôi phải làm sao cho danh phù hợp thực: “Có
thanh tịnh, điều ǵ khác cũng đều chẳng
có, danh tương xứng với thực!” Tốt lắm!
Chẳng vướng mắc, chẳng ưu lự, chẳng
có ǵ thừa thăi, vướng bận, chẳng có phiền năo!
V́
thế, trong thời đại hiện tại, như
Đệ Tử Quy đă dạy: “Thân sở háo, lực vi cụ, thân sở ác, cẩn
vi khử” (Điều ǵ cha mẹ ưa thích, hăy tận
lực lo tṛn; điều ǵ cha mẹ ghét, hăy kính cẩn trừ
bỏ). Chuyện này khó làm! V́ sao? Thế hệ làm cha mẹ,
thậm chí thế hệ làm ông bà, đều đă sơ
sót giáo dục luân lư đạo đức. V́ nhằm thời
kỳ chiến tranh, loạn lạc, hằng ngày lo tỵ nạn,
đúng là lo thân c̣n chẳng xuể! V́ thế, đă sơ
sót chuyện chăm nom, dạy bảo con cái. Đời loạn
mà! Mọi người đều rất coi trọng cuộc
sống vật chất. Nếu yêu cầu quư vị làm chuyện
không hợp lư, chúng ta chẳng thể chống trái, nhưng
cũng chẳng thể làm theo. Vậy th́ b́nh thường
cần phải giảng giải về nhân quả luân lư
đạo đức cho nhiều, kể nhiều chuyện
xưa, người già thường thích nghe chuyện
xưa. Kể những chuyện nhân quả báo ứng khiến
cho họ hiểu: “Trong mạng có th́ mới có; trong mạng
chẳng có, chẳng thể cưỡng cầu”. Chẳng
cưỡng cầu, chúng ta an bần lạc đạo, cuộc
sống trong gia đ́nh sẽ rất viên măn, rất hạnh
phúc. Khổng lăo phu tử cũng sống rất nghèo túng,
chẳng giàu có, dư dật. Nhan Hồi nghèo túng, ai nấy
đều biết, nhưng cuộc sống rất vui
sướng. Vui với đạo, “ư nhân vô tranh, ư thế vô cầu” (chẳng
tranh với người, chẳng cầu nơi đời),
chuyện này quan trọng lắm!
Nếu
muốn cải thiện cuộc sống vật chất của
chính ḿnh tốt hơn, đức Phật dạy chúng ta, quư
vị phải tin tưởng. Tài do đâu mà có? Bố thí. Chương
Gia đại sư dạy tôi điều này, tài bố thí.
Tôi chẳng có tiền của, thuở đó, tôi mỗi
tháng kiếm được năm sáu chục đồng
Đài Loan mới[5], tự
ḿnh nuôi thân rất miễn cưỡng, lấy đâu ra tiền?
Chương Gia đại sư bảo tôi: “Một đồng,
hai đồng th́ có thể bớt ra được chứ?”
“Dạ được!” Mỗi tháng bớt ra năm đồng,
mười đồng vẫn được, vẫn không
khó, vậy là được rồi! Tài Bố Thí đấy!
Khi ấy, tôi cũng thường đến chùa miếu.
Trong chùa miếu, có người phóng sanh, mọi người
đến quyên tiền, tôi cũng bỏ ra hai ba đồng.
Có người in kinh, quyên mộ ở đó, tôi cũng có
thể quyên tặng dăm ba đồng. Hoan hỷ làm! Thường
là hễ gặp những chuyện ấy, bèn thường
làm, càng làm càng nhiều! V́ thế, làm đến hiện thời,
chính ḿnh nghĩ lại, [cảm thấy] chẳng thể
nghĩ bàn! Chúng tôi tặng Đại Tạng Kinh, số
lượng cũng rất đáng kể! Ngày hôm qua, tôi tính
thử, hai mươi năm qua, chúng tôi đă biếu tặng
Đại Tạng Kinh trên khắp thế giới, trước
kia, tôi tính theo số lượng từng bộ Đại
Tạng là năm ngàn năm trăm bộ, [không ngờ]
trong đó đă bỏ sót một ngàn bộ, nay nhớ ra,
đă vượt hơn sáu ngàn năm trăm bộ, chẳng
thể nghĩ bàn! Chẳng ngờ được! V́ thế,
tài thí càng thí càng nhiều. Pháp bố thí, càng thí càng có trí huệ.
Vô úy bố thí, càng thí càng khỏe mạnh, càng trường
thọ.
Vô
úy bố thí th́ thoạt đầu là ăn chay. Ăn chay là
vô úy bố thí. Chẳng ăn thịt chúng sanh, yêu
thương, che chở chúng sanh, chẳng c̣n tổn
thương, tàn hại chúng sanh nữa! Phóng sanh là tích cực
cứu vớt, bảo vệ chúng sanh, quan tâm người
già, quan tâm người tàn tật. Tôi đều vui vẻ
giúp đỡ họ. Trong thế giới hiện thời,
ai nấy lo âu xă hội bất an, phần tử khủng bố.
V́ thế, tôi tham gia nhà trường, tham dự khá nhiều
hội nghị ḥa b́nh của Liên Hiệp Quốc, tận
tâm tận lực giúp đỡ họ, làm thế nào để
hóa giải xung đột, xúc tiến an định, ḥa b́nh.
Những điều này thuộc loại vô úy bố thí.
Nếu
quư vị hỏi thông thường tôi làm những chuyện
ǵ, tôi làm ba chuyện ấy,
tài bố thí, pháp bố thí, vô úy bố
thí, vĩnh viễn chẳng có chừng hạn, chẳng cầu
quả báo. Tuy không cầu quả báo, chi phí trong cuộc sống
hằng ngày chẳng thiếu thốn, luôn có khá nhiều
đồng tu biếu tặng, đồ ăn thứ mặc
đều dùng không hết. Quần áo mặc không hết, thực
phẩm cũng ăn không hết, đến khắp
nơi tặng lại cho người khác, tặng cho
người cần thiết. Tuy chẳng có nhà cửa, hoàn
cảnh cư trụ vẫn khá lắm. Tôi cảm thấy
cách sống này, [đúng như] thuở trước thầy
tôi đă nói, là sự hưởng thụ cao nhất trong
đời người! V́ thế, phải dạy cha mẹ,
dạy người nhà, để họ biết nghiệp nhân
quả báo chẳng sai sót mảy may, đừng mê muội lương
tâm mà tổn hại người khác, sai mất rồi! Ngạn
ngữ thường nói “tổn
người, lợi ḿnh”, chẳng
thể làm chuyện này! Tổn người, chắc chắn
sẽ hại chính ḿnh, chẳng phải là lợi lạc
chính ḿnh. Lợi người mới thật sự là lợi
lạc chính ḿnh. Trong các buổi giảng, tôi đă nói lời
này rất nhiều lần, nhất định phải
thông hiểu!
Cầu
tài, nghĩ trọn mọi phương pháp để kiếm
tiền, quư vị bán những món đồ giả để
lừa gạt người khác. Như hôm trước chúng
tôi xem báo, tôi đă có nói với quư vị rồi đó. Trên
báo có đăng tin với tiêu đề về hạt
dưa. Tết nhất, hạt dưa là thứ bán theo thời
vụ. Nghiễm nhiên có tới năm mươi lăm phần
trăm [hạt dưa] có chất độc, thứ này c̣n
có thể ăn được hay chăng? Bán hạt
dưa, quư vị nói có thể kiếm được bao
nhiêu tiền? Đó là thứ có chất độc, chẳng
sợ kẻ khác bị bệnh, không màng đến sự
sống chết của người khác, cái tâm ấy bất
hảo! Quư vị buôn bán để kiếm tiền, nếu
trong mạng quư vị mỗi năm có thể kiếm
được một trăm vạn; quư vị rắp tâm
bất nhân, chẳng có ḷng nhân từ, chẳng có đạo
đức, chẳng đoái hoài người khác chết sống
ra sao, bán những thứ có chất độc, có hại
cho sức khỏe, đại khái là năm nay quư vị chỉ
có thể kiếm tiền được năm mươi
vạn! Nửa kia đâu rồi? Đă bị chiết giảm
một nửa! Quư vị vẫn tưởng chính ḿnh giỏi
giang lắm, rất có tài, năm nay ta kiếm được
không ít. Chẳng biết năm nay của cải trong mạng
quư vị lẽ ra phải nhiều gấp đôi, đă bị
chiết giảm rồi! Nếu quư vị làm việc
đúng lương tâm, hàng thật, giá thật, chẳng
tăng giá, lúc nào cũng có thể nghĩ thay cho người
khác, lúc nào cũng tạo thuận tiện cho người khác,
trong mạng quư vị năm nay kiếm được một
trăm vạn, có thể là năm nay kiếm được
hai trăm vạn, tăng thêm! Thêm điểm! Người
thế gian chẳng hiểu đạo lư này, cư xử
luôn khiến cho phước báo của chính ḿnh bị giảm
bớt. Quư vị nói xem, rất đáng tiếc!
Toàn
bộ những chuyện này đều là giáo dục, là do lỗi
chẳng đọc sách, do lỗi chẳng hiếu học.
Khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác đều
bất thiện, kẻ ấy mong tưởng đạt
được thiện báo, há có lẽ ấy? V́ thế,
thiện phước trong mạng do tu tập trong đời
quá khứ đều chẳng thể hưởng viên măn
trong đời này, đều bị chiết giảm rất
lớn! Rất đáng tiếc! Oan uổng quá! V́ thế, tại
gia mà cha mẹ tuy có những đ̣i hỏi chẳng hợp
lư, mong mỏi quư vị kiếm tiền bằng cách nào
đó, dùng thủ đoạn như thế nào đó, chớ
nên tiếp nhận, hăy nói cho rơ ràng! Nếu làm như vậy,
chắc chắn là sẽ chiết giảm phước báo
trong mạng của chính ḿnh. Đúng lư, đúng pháp, chắc
chắn đạt đại lợi ích, chớ nên không biết
điều này!
Chúng
ta lại xem tiếp lời chú giải kế đó.
(Sao)
Ngôn hạnh bổn giả.
(鈔)言行本者。
(Sao: Nói là “cội gốc của hạnh”).
“Hạnh” là hành vi, “bổn” là căn bản, “hạnh bổn” là căn bản
của hành vi.
(Sao)
Tục điển dĩ hiếu vi bách hạnh chi bổn.
(鈔)俗典以孝為百行之本。
(Sao: Sách vở thế tục coi hiếu là cội
gốc của trăm hạnh).
Đây
gọi là “bách thiện, hiếu
vi tiên; vạn ác, dâm vi thủ” (trăm điều thiện,
hiếu đứng đầu; muôn điều ác, dâm cầm
đầu). Hiện thời, người trong thế gian
này bất hiếu, dâm đứng đầu, đích xác là
xếp hàng đầu, họ chẳng biết đó là
căn bản của ác! Muôn điều ác, dâm đứng
đầu! V́ thế, kẻ tạo tác hết thảy những
điều bất thiện, vẫn làm quan lớn, vẫn
hưởng phước báo rất lớn, chúng ta biết
là kẻ ấy trong đời quá khứ đă tích lũy phước
đức sâu dầy như thế đó! Nếu kẻ ấy
có thể khéo dùng cái tâm, giống như Văn Thù Bồ Tát ở
đây đă dạy chúng ta, thành tựu hết thảy công
đức thù thắng, nhiệm mầu, phước báo của
người ấy có thể kéo dài mười mấy đời,
hai mươi mấy đời, phước báo quá lớn!
Đời đời kiếp kiếp hưởng chẳng
hết! Nhưng kẻ ấy sơ sót giáo dục luân lư
đạo đức, chỗ nào cũng dùng tâm hạnh bất
thiện để đối nhân xử thế, phước
báo [đáng lẽ hưởng trong] mười đời,
hai mươi đời, đă bị hưởng hết
sạch ngay trong đời này! Nếu phước báo chẳng
đủ sâu, đại khái là năm, sáu mươi tuổi
đă hưởng hết, lúc về già sẽ rất thê thảm.
Công ty đóng cửa, sự nghiệp thất bại,
đó là chiết giảm, suy hụt, ngay cả lúc tuổi
già trong đời này cũng không thể chống chọi nổi!
Tu tập, tích lũy sâu dầy, có thể sẽ truyền
được mười đời, hai mươi đời,
v́ tâm hạnh bất thiện [mà bị] chiết giảm.
Quư vị có thể hưởng một đời, đời
sau đă hết, chẳng có nữa! Cổ nhân thường
nói “phú bất quá tam đại”
(chẳng giàu hơn ba đời), đấy đều là
do chính ḿnh đời đời kiếp kiếp trong quá khứ
đă tích lũy rất sâu, rất dầy. Chớ nên không
biết những sự thật và đạo lư này!
Hiếu
đễ là căn bản, là điều kiện tiên quyết
để chẳng bị mất thân người! Lễ nhạc
là căn bản để tu thân. V́ thế, trong mấy
năm gần đây, chúng tôi đặc biệt coi trọng
chuyện học tập Đệ Tử Quy, học tập
Thập Thiện Nghiệp Đạo, học tập Liễu
Phàm Tứ Huấn. Nếu chúng ta có những cơ sở ấy,
sẽ có thể học tập phẩm Tịnh Hạnh. Chẳng
có cơ sở ấy, sẽ chẳng tiến nhập phẩm
Tịnh Hạnh được! Chúng ta niệm niệm cùng
nhau nghiên cứu thảo luận, gieo chủng tử vào
trong A Lại Da Thức, chủng tử của phẩm Tịnh
Hạnh [chính là] chủng tử kim cang bất hoại! Khi
nào nó mới có thể nẩy mầm? Mới có thể
đâm nhánh, trổ hoa, kết quả? Khi nào quư vị thực
hiện Đệ Tử Quy, Thập Thiện Nghiệp Đạo,
Sa Di Luật Nghi một trăm phần trăm, chủng tử
ấy sẽ đâm chồi, quá trọng yếu! V́ thế,
Phật pháp được kiến lập trên cơ sở
hiếu đạo, Phật đạo lấy hiếu
đạo làm căn cơ. Trong Tịnh Nghiệp Tam Phước,
chúng ta đọc thấy câu đầu tiên là “hiếu dưỡng phụ mẫu,
phụng sự sư trưởng”:
(Kinh)
Hiếu sự phụ mẫu.
(經)孝事父母。
(Kinh: Hiếu thảo cha mẹ).
Kế
đó là:
(Kinh)
Đương nguyện chúng sanh.
(經)當願眾生。
(Kinh: Nguyện cho chúng sanh).
Nhất
định phải biết cảnh giới này. “Chúng sanh” ở đây chính là hết
thảy chúng sanh trong hết thảy các cơi Phật trọn
khắp pháp giới hư không giới. Thật sự vô
lượng vô biên, vô số vô tận, quư vị thấy tâm
lượng to ngần ấy!
(Kinh)
Thiện sự ư Phật, hộ dưỡng nhất
thiết.
(經)善事於佛。護養一切。
(Kinh: Khéo phụng sự Phật, hộ tŕ, phụng dưỡng
hết thảy).
V́
sao phải “thiện sự
ư Phật”? Dùng cái tâm hiếu thuận cha mẹ để
hiếu thuận với Phật giống hệt như vậy.
Phải hiểu chỗ này! Ân đức của Phật lớn
như ân đức của cha mẹ, Phật là thầy! Cổ
thánh tiên hiền đă xem thầy ngang hàng với cha mẹ.
Trong cổ lễ, quư vị nh́n vào cách gọi tên: Vào thời
cổ, nam tử hai mươi tuổi trưởng thành, cử
hành quan lễ, tức là lễ đội mũ. Chưa
trưởng thành th́ là đồng tử (童子, thiếu niên), đă đội mũ th́ là người
lớn. Thiếu niên th́ ai nấy đều có thể gọi
tên, quư vị là một đứa trẻ mà. Đội
mũ là người đă trưởng thành, phải tôn trọng
quư vị, chẳng thể gọi thẳng tên. Hễ gọi
thẳng tên tức là thiếu lễ phép đối với
quư vị. V́ thế, sau khi hành quan lễ, những người
cùng hàng, anh em, bạn bè tặng cho quư vị tên tự. Do vậy,
có tên thật, có tên chữ (tự). Kể từ ngày ấy
trở đi, mọi người chỉ gọi [quư vị]
bằng tên chữ (tự), chẳng gọi tên thật, [thể
hiện] sự tôn kính đối với quư vị. Ngay cả
vua cũng gọi quư vị bằng tên tự, không gọi
tên thật, cung kính mà!
Chỉ
có hai người có thể gọi quư vị bằng tên, suốt
đời gọi tên quư vị, hai người nào vậy? Thứ
nhất là cha mẹ, cha mẹ suốt đời gọi
quư vị bằng tên. Người thứ hai là thầy, thầy
to như cha mẹ, suốt đời thầy gọi quư vị
bằng tên. Nh́n vào tang lễ, quư vị cũng có thể
nh́n ra. Con cái giữ đạo hiếu ba năm, để
tang ba năm, mặc hiếu phục (孝服, đồ tang). Học tṛ để tang thầy
cũng ba năm, gọi là “tâm
tang”, không mặc đồ tang, sai khác ở chỗ này!
[Để tang] cha mẹ th́ có hiếu phục, đối
với thầy, chẳng mặc hiếu phục, giữ
tâm tang suốt ba năm. Điều này cho thấy thầy
có địa vị b́nh đẳng với cha mẹ. V́ sao?
Chúng ta có thân mạng từ cha mẹ, cha mẹ có ân dưỡng
dục. Trừ thân thể ra, chúng ta c̣n có trí huệ, huệ
mạng do thầy mà có. Thầy dạy dỗ, chúng ta mới
mở mang trí huệ. V́ thế, đối với hai cái mạng,
huệ mạng do thầy ban cho, đức Phật là thầy.
“Thiện sự ư Phật”
chính là báo ân thầy! Tiếp đó…
(Sao)
Dẫn Phật giáo chứng, Bồ Tát Giới diệc vân, hiếu
dưỡng sư tăng phụ mẫu, hiếu danh vi giới,
diệc danh chế chỉ.
(鈔)引佛教證,菩薩戒亦云,孝養師僧父母,孝名為戒,亦名制止。
(Sao: Dẫn lời Phật dạy để làm chứng
th́ Bồ Tát Giới cũng nói: “Hiếu dưỡng
sư, tăng, cha mẹ, hiếu gọi là Giới, cũng
gọi là ngăn dứt”).
Trích
dẫn mấy câu ấy, cũng chớ nên không biết
điều này. Chúng ta quay lại xem những điều
được nói trong phần Sớ.
(Sớ)
Đại Tập kinh vân, thế nhược vô Phật, thiện
sự phụ mẫu, sự phụ mẫu giả, tức
thị sự Phật.
(疏)大集經云,世若無佛,善事父母,事父母者,即是事佛。
(Sớ: Kinh Đại Tập dạy: “Nếu cơi
đời chẳng có Phật, khéo phụng sự cha mẹ.
Phụng sự cha mẹ chính là phụng sự Phật”).
Nói
lời này rất hay. Hiện thời, đức Phật
chẳng trụ trong thế gian, chúng ta chỉ cần có thể
hiếu thuận với cha mẹ, sẽ giống như hiếu
thuận với Phật. Phật và cha mẹ b́nh đẳng.
(Sớ)
Phụ mẫu ư ngă vi tiên giác cố.
(疏)父母於我為先覺故。
(Sớ:
Cha mẹ là người giác ngộ trước chúng ta).
Chúng
ta giác ngộ sau cha mẹ, cha mẹ [giác ngộ] trước.
(Sớ)
Kim phiên lệnh sự Phật giả, sanh trưởng Pháp
Thân cố.
(疏)今翻令事佛者,生長法身故。
(Sớ: Nay bảo đổi sang phụng sự Phật,
v́ để sanh trưởng Pháp Thân vậy).
Tôi
vừa mới nói, đức Phật dạy bảo chúng
ta, Pháp Thân huệ mạng của chúng ta do Phật mà có. Thân
mạng do cha mẹ mà có, Pháp Thân huệ mạng có
được từ nơi Phật. Đây là nói rơ v́ sao phải
hiếu thuận với Phật, Bồ Tát, đạo lư ở
chỗ này!
Tiếp
đó là nói:
(Sớ) Hộ dưỡng nhất
thiết giả.
(疏)護養一切者。
(Sớ:
Hộ tŕ, phụng dưỡng hết thảy).
Kinh
Phật nói điều này là…
(Sớ)
Nhất thiết chúng sanh giai ngă tử, cố hộ chi.
(疏)一切眾生皆我子,故護之。
(Sớ: Hết thảy chúng sanh đều là con của
ta, cho nên phải bảo vệ).
Quư
vị thật sự phát Bồ Đề tâm, quư vị sẽ
hiểu hết thảy chúng sanh và chúng
ta có mối quan hệ ǵ! Hết thảy chúng sanh đời
đời kiếp kiếp lần lượt làm cha con, làm
anh em với chúng ta, quan hệ hết sức mật thiết!
V́ thế, nói là “ái hộ” (愛護, yêu thương, bảo vệ). Có ai mà
chẳng yêu thương, bảo vệ con cái? Quư vị coi hết
thảy chúng sanh như con cái của chính ḿnh để yêu
thương, che chở giống y hệt, đấy là “cố hộ chi” (v́ thế, bảo
vệ).
(Sớ)
Nhất thiết nam nữ giai ngă phụ mẫu, cố
dưỡng chi.
(疏)一切男女皆我父母,故養之。
(Sớ: Hết thảy nam nữ đều là cha mẹ
ta, cho nên phụng dưỡng).
Đây
cũng là như Bồ Tát Giới Kinh đă nói: “Hết thảy nam tử đều
là cha ta, hết thảy nữ nhân đều là mẹ ta”.
Có phải phụng dưỡng cha mẹ hay không? Phải
phụng dưỡng. V́ thế, đối với hết
thảy chúng sanh, phải có tâm phụng dưỡng, có hạnh
phụng dưỡng. Đối với hết thảy
chúng sanh, ắt phải có ḷng yêu thương, che chở.
(Sớ)
Sanh sanh vô bất tùng chi thọ thân, cố b́nh đẳng
kính chi, Pháp Thân Phật cố.
(疏)生生無不從之受身,故平等敬之,法身佛故。
(Sớ: Đời đời chẳng có ai là ta
không thọ thân từ họ; v́ thế, b́nh đẳng cung
kính, v́ họ chính là Pháp Thân Phật vậy).
Đây
là nói rơ hết thảy chúng sanh đều là Pháp Thân Phật.
V́ thế, Phật pháp nói: “Mười
phương ba đời Phật, cùng chung một Pháp Thân”.
Chúng ta cùng hết thảy chúng sanh trong trọn khắp
pháp giới hư không giới có mối quan hệ ǵ? Đấy
là như tôi thường nói, một sanh mạng cộng
đồng Thể, mối quan hệ này mật thiết lắm!
Làm sao chẳng kính cho được? Lẽ nào chẳng hiếu
cho được? Làm sao có thể không yêu thương, bảo
vệ cho được? Làm sao có thể không phụng
dưỡng được? Không liễu giải th́ chẳng
có cách nào! Sau khi đă hiểu rơ, sẽ khác hẳn, tâm thái
hoàn toàn thay đổi. Quư vị đối với kẻ
khác một ḷng thành kính, một ḷng hiếu thuận, một
ḷng cung kính, toàn tâm toàn lực giúp đỡ người khác,
giải quyết những nỗi khổ nạn của người
khác. Có ai mà chẳng ưa thích tiếp nhận? Chẳng có
lẽ ấy!
Do
vậy, trong những năm qua, tôi tiếp xúc những quốc
gia, nhân dân khác nhau, tiếp xúc các tôn giáo khác nhau, đều
được hoan nghênh. Quư vị hỏi về nguyên nhân,
nhiều người đă hỏi tôi, “thầy dùng phương
pháp ǵ vậy?” Tôi đáp: Hết sức đơn giản,
chính là “chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, từ bi quan
tâm chiếu cố”, tự nhiên sẽ được hồi
đáp hết sức tốt đẹp. Chúng ta cư xử
ḥa hợp, thật sự có thể kính yêu lẫn nhau, hỗ
trợ hợp tác. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng
tôi nói tới đây!
Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 20 hết
[1] Cấp số
nhân (Geometric Series) là một chuỗi số, trong đó, mỗi
số sau bằng số trước nhân với một hằng
số. Chẳng hạn 1, 2, 4, 8, 16, 32… là một cấp số
nhân. Sự sanh trưởng của vi trùng tuân theo cấp số
nhân. Mỗi con vi trùng tự đứt làm đôi, sanh ra hai
con mới. Mỗi con lại tự đứt thành đôi,
trở thành bốn con mới v.v…
[2] Indonesia công nhận
năm tôn giáo là Hồi giáo, Thiên Chúa giáo (bao gồm Công Giáo
và các hệ phái Tin Lành, Cơ Đốc v…), Phật giáo, Ấn
giáo và Khổng giáo.
[3] Côn Khúc (昆曲) vốn là một loại
thể hát tuồng phát xuất từ huyện Côn Sơn của
Tô Châu từ cuối đời Nguyên, đầu đời
Minh. Lối hát này về sau phổ biến khắp Tô Châu,
Thượng Hải, Vô Tích. Nhiều điệu hát Côn Khúc
đă được đưa vào B́nh Kịch (Kinh Kịch).
Diễn viên không chỉ hát mà c̣n phải múa, đồng thời
biểu cảm (thường gọi chung là “vũ đạo”).
Do lối hát này phức tạp, uyển chuyển, nên
thường được gọi là “bách hư chi mẫu” (mẹ của trăm lối hát
tuồng). Tùy theo cách phát âm và ngữ điệu của từng
địa phương mà lại chia thành Bắc Khúc và Nam
Khúc. Nói chung Côn Khúc dễ nghe và êm ái hơn các lối hát khác
trong Kinh Kịch.
[4] Tử Khế
(子契) là con trai của
Đế Khốc (Cơ Tuấn), anh em cùng cha khác mẹ với
vua Nghiêu. Ông có công giúp Đại Vũ trị thủy. Về
sau, Tử Khế được vua Thuấn phong cho đất
Thương Khâu (nay là thành phố Thương Lạc, tỉnh
Thiểm Tây). Ông c̣n được phong làm Hỏa Chánh (chức
quan chuyên trông coi về việc duy tŕ lửa), kiêm thờ phụng
Hỏa Tinh. Nơi thờ phụng, duy tŕ lửa thiêng
được gọi là Quyết Bá Đài. Về sau, dân
chúng coi ông và Chúc Dung là thần lửa.
[5] Tân Đài Tệ
là tiền cho chánh quyền Tưởng Giới Thạch
phát hành tại Đài Loan từ năm 1949 cho đến hiện
thời. Đồng tiền này được phát hành nhằm
thay thế đồng tiền cũ bị
mất giá nghiêm trọng sau khi chính quyền Quốc
Dân Đảng bị mất Hoa Lục, phải chạy
sang Đài Loan.