Đại Phương
Quảng Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười
một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 21
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Địa điểm: Hương Cảng Phật
Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ ngày mồng Bảy tháng
Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ Trang và Minh
Tiến
Tập 1503
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin
xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười một, xem từ
bài kệ tụng thứ ba.
(Kinh) Thê
tử tập hội, đương nguyện chúng sanh, oán
thân b́nh đẳng, vĩnh ly tham trước.
(經)妻子集會。當願眾生。怨親平等。永離貪著。
(Kinh: Vợ con nhóm họp, nguyện cho chúng sanh, oán
thân b́nh đẳng, măi ĺa tham chấp).
Bồ
Tát tại gia có tất cả mười một nguyện,
cũng là mười một bài kệ trong kinh văn. Nguyện
thứ nhất mong chúng ta “tri
gia tánh Không” (biết tánh của nhà là Không), tức là liễu
giải chân tướng sự thật, chẳng đến
nỗi mê đắm gia đ́nh. Chuyện này hết sức
trọng yếu! Có cần “gia”
(gia đ́nh) hay không? Cần thiết, nhưng chớ nên mê!
Đối với chuyện hôn nhân, thuở tôi c̣n trẻ, bốn
mươi mấy tuổi, giảng kinh ở Đài Bắc,
tại Đài Trung có một vị đồng học đă
lâu nghe tôi giảng kinh cũng đă mấy năm. Có một
hôm, viết thư cho tôi, [cho biết] ông ta quen biết một
cô gái tại Đài Trung, tính kết hôn, hỏi tôi có nên hay
không? Ông ta cũng là một Phật giáo đồ rất kiền
thành. Tôi nhận được phong thư ấy, gởi bưu
thiếp cho ông ta, chỉ viết một chữ, [tức là
chữ] Hôn (婚), gởi cho ông ta. Sau khi nhận được, ông
ta chẳng kết hôn. Ông ta chỉ hiểu ư tôi một nửa,
chẳng hoàn chỉnh. Chữ Hôn (婚) ấy là ǵ? Do nó
gồm chữ Nữ (女) và chữ Hôn (昏) [ghép lại], [ông ta bèn nghĩ tôi có ư nói] “trông thấy nữ nhân, đầu
óc tối tăm”, chẳng phải là ư nghĩa ấy hay
sao? Ông ta hiểu ư nghĩa theo kiểu ấy; v́ thế, chẳng
kết hôn, suốt đời cũng chẳng kết hôn. Hiện
thời, ông ta chắc cũng đă bảy mươi mấy
tuổi, nhỏ hơn tôi mấy tuổi.
Văn
tự chữ Hán là phù hiệu trí huệ, khiến cho quư vị
trông thấy những chữ ấy liền lănh hội ư
nghĩa. Đấy có phải là bảo quư vị đừng
kết hôn hay không? Chẳng phải vậy, mà chính là bảo
quư vị cứ lấy vợ gả chồng, nhưng
đừng hôn ám! Đó là đúng. Nam nữ có thể kết
hôn, nhưng quư vị chẳng mê, đầu óc vĩnh viễn
sáng suốt, tỉnh táo; đó là lư trí, chẳng phải là cảm
t́nh. Đấy là đúng, đấy mới là lănh hội hoàn
chỉnh ư nghĩa. Vị cư sĩ ấy chỉ lănh hội
một nửa, nhưng vẫn là khá lắm, vẫn có thể
hiểu ư nghĩa của chữ này. Biết “tánh của nhà là Không”, quan trọng
lắm!
Thứ
hai, trong gia đ́nh, điều quan trọng nhất là hiếu
đạo. Trong phần trước, tôi đă thưa bày
cùng chư vị: Phật pháp là sư đạo, sư đạo
nhất định lấy hiếu đạo làm cơ sở.
Ở trong nhà bất hiếu với cha mẹ, làm sao có thể
tôn trọng thầy cho được? Quư vị thấy “Tịnh Nghiệp Tam Phước”,
Tịnh Nghiệp Tam Phước không chỉ là nguyên tắc
chỉ đạo tu học cao nhất cho các đồng học
Tịnh Tông, mà là toàn thể Phật pháp. Bất luận Đại
Thừa hay Tiểu Thừa, Tông Môn, Giáo Hạ, Hiển giáo,
Mật giáo, nó (Tịnh Nghiệp Tam Phước) đều
là nguyên tắc chỉ đạo cao nhất. Kinh Quán Vô Lượng
Thọ Phật nói ba câu, câu đầu tiên là “hiếu dưỡng
cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng
giết, tu Thập Thiện Nghiệp”. Đó là điều đầu tiên. Điều
này là ǵ? Điều này chính là “thế
gian thiện”, [hay c̣n gọi tắt] là “thế thiện”, làm người tốt, làm thiện
nhân trong thế gian. Hiếu đứng đầu trăm
điều thiện!
Vào
thời cổ, quốc gia tuyển chọn, đề bạt
nhân tài, nay chúng ta nói là “bồi
huấn cán bộ” (bồi dưỡng, huấn luyện
cán bộ). Quốc gia cần rất nhiều người
quản lư, [v́ thế phải] bồi dưỡng những
cán bộ quốc gia thuộc các tầng lớp. Tiêu chuẩn
để tuyển chọn, đề bạt là ǵ? Chính là
hai chữ “hiếu liêm”. Ai tuyển
lựa, đề bạt? Người lănh đạo thuộc
chánh phủ trung ương, trước kia là hoàng thượng.
Hoàng thượng ủy thác chuyện này cho quan viên địa
phương; hiện thời nói là huyện thị trưởng,
trước kia là huyện lệnh (縣令, quan huyện). V́ thế, họ thường cải
trang, ngấm ngầm nghe ngóng, [tức là] chẳng mặc quan
phục, mà mặc y phục thông thường để
đi ra ngoài nghe ngóng. Nghe ngóng xem trẻ con nhà nào hiếu
thuận cha mẹ. Biết hiếu thuận với cha mẹ,
nó sẽ trung thành với quốc gia; hễ liêm khiết, nó
sẽ chẳng tham ô. Quư vị thấy từ trước
tới nay, từ đời Hán, Trung Hoa đă thành lập
chế độ này, măi cho đến đời Thanh đều
chẳng thay đổi. Tuy có những kẻ [làm quan] tham ô,
hủ bại, nhưng chẳng nhiều cho lắm, rốt
cuộc vẫn là thiểu số. Từ lịch sử,
chúng ta thấy những người thật sự v́ nước,
v́ dân rất nhiều. V́ thế, hai điều Hiếu và Liêm
chính là căn cội.
“Hiếu dưỡng cha mẹ,
phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết,
tu Thập Thiện Nghiệp”. Đấy là căn bản
của Phật pháp, bất luận là Đại Thừa hay
Tiểu Thừa, Tông Môn hay Giáo Hạ, Hiển Giáo hay Mật
Giáo, đều phải lấy chuyện này làm căn cội.
Trong kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo, đức
Phật đă nói rất hay, Thanh Văn Bồ Đề, Duyên
Giác Bồ Đề, cho đến Vô Thượng Bồ
Đề, pháp nhân thiên, thảy đều dùng chuyện này
làm gốc, lấy chuyện này làm cơ sở. Ĺa khỏi
căn cội này, ĺa khỏi cơ sở này, sẽ chẳng
có Phật pháp! Bản thân chúng ta phải thường xuyên
cảnh tỉnh chuyện này. Chúng ta có làm được
hay không? Nếu chẳng làm được, hàng tại gia
ngay cả Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện đều
làm không được, hàng xuất gia ngay cả Sa Di Luật
Nghi làm không được, xuất gia cần phải có Tam
Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện, Sa Di Luật Nghi th́ mới
được coi là một người xuất gia [thật
sự]. Đấy là căn bản!
Nếu
chẳng có những thứ ấy, vậy th́ ở trong Phật
môn, điều này là do thầy Lư đă dạy chúng tôi
trước kia, “quư vị sẽ
làm chuyện Phật học, chẳng phải là học Phật”! “Làm chuyện Phật học” chính
là coi Phật giáo như một môn học thuật thế
gian để nghiên cứu. [Nghiên cứu] triết học
trong kinh Phật chính là “làm chuyện Phật học”. “Làm
chuyện Phật học” sẽ chẳng dính dáng ǵ đến
chuyện hành tŕ! Học Phật là nguyện vọng của
ta, ta mong học giống hệt như Thích Ca Mâu Ni Phật.
Đó gọi là “học Phật”. Đức Phật là tấm
gương tốt đẹp cho chúng ta. Học Nho, chúng ta
học giống như Khổng Tử, học theo Mạnh
Tử, phải học rất giống. Khổng Mạnh là
mô h́nh, là gương mẫu cho chúng ta. Đấy gọi là
“học Phật”. V́ thế, học Phật và Phật học
là hai chuyện, chẳng phải là một chuyện, chúng ta
phải hiểu rơ ràng.
Hiện
thời, tôi đă nói chuyện này quá nhiều! Hàng tại
gia chẳng làm được Thập Thiện Nghiệp.
Chẳng làm được Thập Thiện Nghiệp, vậy
th́ Tam Quy, Ngũ Giới càng chẳng cần phải nhắc
tới nữa! Giả trất! Người xuất gia chẳng
thể thực hiện Sa Di Luật Nghi, do nguyên nhân nào? Chẳng
có căn cội! Nói theo kiểu hiện thời, sẽ là
chúng ta “đă sơ sót đối
với sự giáo dục cơ sở”. “Giáo dục cơ sở” là ǵ? Trong kinh Phật Tạng,
đức Thế Tôn đă dạy: “Không học Tiểu Thừa trước, sau là học
Đại Thừa, sẽ chẳng phải là đệ tử
Phật”. Học một thứ ǵ đó, chẳng thể
vượt cấp! Vượt cấp là thiên tài, thiên tài trăm
ngàn năm mới xuất hiện một người. Lúc
tôi mới học Phật, rất thích đọc Đàn
Kinh, nhất là bản Tiên Chú của cư sĩ Đinh Phước
Bảo. Thầy tôi thấy vậy bèn cảnh cáo tôi chẳng
thể học thứ ấy. Ba vị thầy của tôi
đều nói như vậy, có thể thấy [đúng
như] cổ nhân đă nói “anh
hùng đại lược có cách nh́n giống nhau”. Tiên sinh Phương
Đông Mỹ, Chương Gia đại sư, và lăo cư
sĩ Lư Bỉnh Nam đều nói như vậy. Họ nói
chẳng thể học thứ ấy! Tôi thưa: “Con xem
[sách ấy] rất hứng thú. Trước Huệ
Năng đại sư chẳng có một ai, sau Huệ
Năng đại sư cũng chẳng xuất hiện một
Huệ Năng thứ hai”. Phương tiên sinh nói càng ư vị
hơn: “Đó là bậc thiên
tài, một bước lên trời. Ngài đă thật sự
lên được. Anh chẳng có bản lănh ấy! Hễ anh
chẳng lên được, sẽ ngă nhào, tan xương
nát thịt. Đó là Đốn Giáo! Chúng ta chẳng phải
là căn cơ thượng thượng thừa, Ngài chẳng
phải là căn tánh Đại Thừa, mà là căn tánh
thượng thượng thừa”.
Nói
thật ra, chúng ta là căn tánh trung hạ. Căn tánh trung hạ
th́ như thế nào? [Giống như] trèo thang lầu, trèo lên
từng bậc một, phải tiến hành từng bước,
giống như đi học vậy. Từ Mẫu Giáo, Tiểu
Học, Sơ Trung (Trung Học đệ nhất cấp, cấp
hai), Cao Trung (Trung Học đệ nhị cấp, cấp
ba), Đại Học, [cho đến] Cao Học, quư vị
học như vậy là đúng, chẳng sai! Chẳng thể
nói “Mẫu Giáo, Tiểu Học, Trung Học ta đều
không học! Ta muốn vào Cao Học”, chẳng có lẽ ấy!
Xưa nay, trong ngoài nước đều chẳng t́m thấy.
Đấy là chẳng thể vượt cấp, phải học
theo đúng thứ tự. Quư vị học như vậy
th́ mới vững vàng, chắc thật. Kinh Phật Tạng
đă dạy, “trước hết
là học Tiểu Thừa”; nay chúng ta chẳng học Tiểu
Thừa.
Thế
nhưng khi Phật giáo truyền sang Trung Hoa, đúng là
trước hết học Tiểu Thừa, sau đó học
Đại Thừa. Kinh luận Tiểu Thừa, tức Tứ
A Hàm, đă được phiên dịch rất khá, dịch
rất kỹ. Đối chiếu với kinh tạng Tiểu
Thừa bằng tiếng Pāḷi, họ đại khái chỉ có nhiều
hơn chúng ta khoảng năm mươi bộ. Kinh Tiểu
Thừa chẳng dài, quư vị hiểu là chúng ta đă phiên dịch
hết sức đầy đủ. Vào thời Tùy - Đường,
Tiểu Thừa có hai tông phái là Câu Xá Tông và Thành Thật Tông.
V́ sao về sau chẳng học Tiểu Thừa nữa, hai
tông ấy chẳng c̣n? Từ giữa đời Đường
trở đi, Phật giáo Trung Hoa dùng Nho và Đạo để
thay thế Tiểu Thừa, hay lắm! Bởi lẽ, bất
luận hàng tại gia hay xuất gia học Phật, đều
có căn cơ Nho gia và Đạo gia, Khổng, Mạnh, Lăo,
Trang, như vậy th́ được! Hơn một ngàn
năm qua, quư vị thấy Phật giáo xuất hiện bao
nhiêu nhân tài. Nếu so sánh với Ấn Độ, xác thực
là chỉ hơn, chứ không kém, xuất hiện rất nhiều
vị tổ sư đại đức.
Nhưng
hiện thời xuất hiện phiền phức là v́ lẽ
nào? Chẳng có Khổng, Mạnh, Lăo, Trang, Tiểu Thừa
cũng chẳng học, ngay lập tức tiến nhập
kinh điển Đại Thừa (lời Phật dạy
nói chung là v́ bọn [phàm phu độn căn như] chúng
ta). V́ lẽ ấy, ngay cả Thập Thiện Nghiệp
cũng làm không được, Tam Quy, Ngũ Giới cũng
chẳng làm nổi. Tam Quy là quy y “giác,
chánh, tịnh”. Quư vị xem Lục Tổ Đàn Kinh, [sẽ
thấy] Lục Tổ truyền trao Tam Quy, Ngài chẳng nói “quy y Phật, quy y Pháp, quy y
Tăng” như chúng ta trong hiện thời. Ngài chẳng nói
kiểu ấy, lăo nhân gia dạy: “Quy y giác, quy y chánh, quy y tịnh”, “Phật là giác, Pháp là chánh, Tăng là tịnh”. “Quy y Phật” là giác chứ
không mê, “quy y Pháp” là chánh chứ
không tà, “quy y Tăng” là tịnh
chứ chẳng nhiễm; v́ thế, gọi là Phiên Tà Tam Quy
(翻邪三皈, quy y nhằm sửa trừ tà vạy). Tà là ǵ? “Mê, tà, nhiễm” chính là tà! Ngược
lại là “giác, chánh, tịnh”;
giác chứ không mê là quy y Phật. Nay chúng ta đă thọ Tam
Quy Y, vẫn mê hoặc, điên đảo, chẳng giác ngộ,
vẫn là tà tri, tà kiến, chẳng phải là chánh tri, chánh
kiến, tâm vẫn ô nhiễm, chẳng thanh tịnh, vẫn
là “mê, tà, nhiễm” y hệt như cũ. V́ thế, Tam Quy [của
chúng ta] giả trất, chẳng thật! Chẳng giữ Ngũ
Giới được! Không sát sanh, không trộm cắp,
không tà dâm, không uống rượu, không vọng ngữ, chẳng
làm được điều nào! Không sát
sanh, nhưng c̣n có ư niệm hại người, ư niệm
ấy vẫn thuộc về sát sanh. Không trộm cắp, nhưng
c̣n có ư niệm chiếm tiện nghi của kẻ khác. Đấy
là cái tâm trộm cắp! V́ thế, toàn bộ đều là giả!
Do nguyên nhân nào? Chẳng có Tiểu Thừa!
V́
vậy, trong những năm qua, chúng tôi đặc biệt đề
xướng Đệ Tử Quy. Đệ Tử Quy chính
là giáo học truyền thống của Nho gia, là căn cội!
Căn cội của Nho gia là Đệ Tử Quy, phải
ghi nhớ điều này. Căn cội của Phật pháp
là Thập Thiện Nghiệp. Như vậy th́ chúng ta hiểu
Thập Thiện Nghiệp là [cơ sở chung của] Đại
Thừa và Tiểu Thừa, nhưng nhất định là phải
có cơ sở Đệ Tử Quy, chúng ta sẽ là từ
Tiểu Thừa học Đại Thừa. Trước
kia, chẳng học, nay phải học bổ sung, cấp tốc
bổ sung! Ắt phải chú trọng thực hiện Đệ
Tử Quy một trăm phần trăm, hành tŕ Thập Thiện
Nghiệp Đạo một trăm phần trăm, chúng ta
sẽ có căn cội. Đối với văn hóa truyền
thống, chúng ta có căn cội, đối với Phật
pháp Đại và Tiểu Thừa, chúng ta cũng có căn cội.
Căn cội là sống động, nó sẽ nẩy mầm,
đâm tược, sẽ đơm bông, kết trái. Chẳng
có căn cội, những kẻ học đại kinh,
đại luận, những kẻ học Tứ Thư
Ngũ Kinh, hoặc mười ba kinh của Nho gia, có hữu
dụng hay không? Chẳng hữu dụng! Chẳng thể
thực hiện, sẽ biến thành Nho học, chẳng phải
là học Nho! Học khá nhiều kinh luận Đại Thừa,
[chỉ là] Phật học, chẳng phải là học Phật.
Phải hiểu rơ ràng chuyện này! Nếu làm chuyện thuộc
về Nho học hay Phật học, sẽ chẳng thể
liễu sanh tử, chẳng thể khai trí huệ, nhất
định là phải nghiêm túc học Phật.
Học
Phật th́ quư vị chẳng thể không nương theo Giới,
Định, Huệ. Đệ Tử Quy là Giới, là giới
căn bản, là căn bản của căn bản. Thập
Thiện Nghiệp là Giới. Dùng điều này làm cơ sở,
vậy th́ Tam Quy, Ngũ Giới, các giới, oai nghi, sẽ chẳng
có vấn đề! “Trọn
đủ các giới, chẳng phạm oai nghi”, vấn đề ǵ cũng
đều được giải quyết, chẳng khó
khăn! Chúng ta chẳng dưỡng thành thói quen. Hiện tại,
chúng ta toàn là tập khí ác, chứ tập khí tốt hay tập
khí thuận theo Pháp Tánh chẳng được dưỡng
thành. Phải dùng Đệ Tử Quy, phải dùng Thập
Thiện Nghiệp để bồi dưỡng, chúng ta mới
có thể thật sự noi theo Phật đạo, tức
là con đường thành Phật!
Do
vậy, học Phật, nói thật ra, Phật pháp thường
nói “nhân duyên sanh”, [nghĩa
là] Phật pháp do nhân duyên mà sanh. Duyên đúng là rất quan trọng.
Một duyên quan trọng nhất trong các duyên là thầy. Quư
vị gặp được thầy là một vị thiện
tri thức thật sự, vị ấy sẽ hướng
dẫn quư vị đi theo nẻo chánh. Nếu chẳng phải
là một vị thiện tri thức thật sự, đường
lối của vị ấy sẽ mắc sai lầm, sẽ
nẩy sanh vấn đề! Chuyện này chỉ có thể
gặp, chẳng thể cầu; không phải là bất cứ
ai cũng đều có thể gặp gỡ [cơ hội
này] trong một đời! Sau khi đă gặp, bèn dùi mài chẳng
bỏ, nhất định phải nắm chặt cơ hội
ấy, chúng ta mới có thể thành tựu trong đời
này. Nói chung là quyết tâm mong thành tựu trong một đời,
đừng đợi đến đời sau. Nếu quư
vị nghĩ “hăy đợi sang đời sau”, đời
sau hễ đọa lạc, bị mê khi cách ấm, rất
phiền toái! Hễ đọa lạc, tuyệt đối
chẳng phải là đọa một đời, mà có thể
là đọa lạc khá nhiều đời, khá nhiều kiếp,
quư vị mới lại gặp cơ hội này. Chuyện
này chính là như trong kinh điển đức Phật
thường nói: “Thân người
khó được, Phật pháp khó nghe”. V́ thế, điều
quan trọng nhất là “nhận
biết cơ hội, nắm chặt cơ hội, nỗ
lực học tập”.
Điều
thứ hai, quư vị thấy Phật pháp nói về hiếu
đạo, hiếu thuận cha mẹ. Quư vị có thể
hiếu thảo với cha mẹ th́ mới có thể tôn
sư trọng đạo, mới có thể
“thiện sự ư Phật” (khéo
phụng sự Phật). Phật là thầy. Sư đạo
được kiến lập trên cơ sở hiếu
đạo. Chẳng có hiếu đạo, lấy đâu ra
sư đạo? Kẻ chẳng biết hiếu thuận
với cha mẹ mà có thể hiếu thuận với thầy,
nhất định là có mưu đồ, chẳng phải
là chuyện tốt. Chẳng có lẽ ấy! Đó là ǵ? Chẳng
thuận theo Pháp Tánh, chẳng thuận theo quy tắc tự
nhiên. Bởi lẽ, hiếu thảo với cha mẹ th́ mới
có thể tôn trọng thầy! Một người có thể
trở thành bậc đội trời đạp đất
là do cha mẹ và thầy hợp tác chặt chẽ dạy dỗ
mà ra. Cha mẹ dạy con cái tôn sư trọng đạo, thầy
dạy tṛ hiếu thuận cha mẹ. Cả hai
phương diện cùng dạy như vậy th́ mới dạy
dỗ thành công!
Trong
truyền thống năm ngàn năm của Trung Hoa, điều
đáng ca ngợi nhất là giáo dục. Tôi đi tuyên
dương khắp nơi trên quốc tế. Đúng là bất
cứ quốc gia hay dân tộc nào cũng đều chẳng
có, đấy là trí huệ của tổ tiên. Kế đó,
tôi tuyên dương y dược. Trung Y có lịch sử và
kinh nghiệm năm ngàn năm, Tây Y bất quá mới ba
trăm năm, làm sao có thể sánh bằng? Hiện thời,
người phương Tây sang Trung Hoa, sang Ấn Độ
để t́m kiếm những thứ quư báu. Đường
lối của họ đă bị trục trặc, đă nẩy
sanh vấn đề, họ tính sang phương Đông cầu
cứu. Đó là chuyện tốt, chẳng phải là chuyện
xấu! Phương Đông có một thứ để cứu
họ, chính là “tu thân làm gốc,
dạy học làm đầu”. Khá nhiều vấn đề
phức tạp trên thế giới hiện thời, xác thực
là phải nhờ vào giáo học th́ mới có thể thu
được hiệu quả, mới thật sự có thể
hóa giải.
Bài
kệ thứ ba nói đến chuyện “thê tử tập hội” (vợ con tụ họp).
Tôi đọc bài kệ này, nghĩ đến giảng
đường Quang Minh của lăo ḥa thượng Thọ
Dă trên đường Lam Đường (Blue Pool Road). Ba
mươi năm trước, tôi đă giảng kinh
Lăng Nghiêm hai tháng tại giảng đường ấy
vào năm 1977. Năm nay là 2006, vừa khít ba mươi
năm! Trong Phật đường của Ngài, có một cặp
câu đối nói về chuyện này, [vế trên là]: “Phu thê thị duyên, hữu thiện
duyên, hữu ác duyên, oan oan tương báo” (Vợ chồng
là duyên, có thiện duyên, có ác duyên, oan oan tương báo). Vế
dưới là “nhi nữ thị
trái, hữu thảo trái, hữu hoàn trái, vô trái bất lai”
(con cái là nợ, có đ̣i nợ, có đền nợ, không nợ
chẳng đến). Đôi câu đối ấy hay quá!
Đôi câu đối ấy nói về chuyện “thê tử tập hội”.
Người trong thế gian chẳng thể tránh né chuyện
này, phải hiểu v́ sao người trong một nhà có thể
trở thành cùng một nhà? Trong hiện tại, gia đ́nh
có vấn đề chiếm đa số. Hiện thời,
người một nhà ḥa thuận, vui vẻ, hết sức
hiếm hoi! Quư vị thấy trên toàn thế giới, tỷ
lệ ly hôn cao ngần ấy. V́ sao họ ly hôn? Do vợ chồng
xung đột!
V́
thế, ngày nay nói đến xung đột trên thế giới,
xung đột khủng bố, hóa giải xung đột bằng
cách nào? Nguồn cội của xung đột là ǵ? Căn cội
ở ngay trong nhà, chẳng phải là ở bên ngoài. Quư vị
hăy ngẫm xem, trong nhà quư vị có ḥa thuận hay không? Cha
con trong một nhà có xung đột hay không? Vợ chồng
có xung đột hay không? Anh em có xung đột hay không? Nếu
đều có thể đối xử ḥa thuận, quư vị
có thể nói đến ḥa b́nh, có thể nói đến chuyện
hóa giải xung đột. Nếu gia đ́nh của chính quư
vị có vấn đề, chẳng thể giải quyết
được, làm sao quư vị có thể giúp đỡ
đại chúng trong xă hội hóa giải xung đột, xúc
tiến ḥa b́nh? Chuyện này chẳng làm được. Quư
vị có nói ra, chẳng có ai tin tưởng! Tôi đă tham
gia rất nhiều hội nghị ḥa b́nh quốc tế,
phát biểu trong hội nghị, bảo cho mọi người
biết căn nguyên của xung đột. Sau đấy,
tôi mới nói sâu hơn một tầng. Đấy vẫn
chưa phải là căn nguyên, căn nguyên thật sự ở
chỗ nào? Căn nguyên thật sự chính là mâu thuẫn
trong nội tâm của quư vị. Chính ḿnh xung đột với
chính ḿnh, tức là từ trong nội tâm của chúng ta,
đối lập với người khác, đối lập
với sự việc, đối lập với vật. Hễ
có đối lập, sẽ nẩy sanh xung đột. Nghi
lự và hoài nghi sẽ tạo thành mâu thuẫn, đối
lập tạo thành xung đột, từ nội tâm mà ra! V́
thế, tiến hành công tác ḥa b́nh, [hăy ghi nhớ] “gia ḥa, vạn sự hưng”.
Vua Thuấn vào thời cổ là một tấm gương
tốt nhất. Vua Thuấn làm như thế nào? Hóa giải
từ nội tâm, đối với người, đối
với sự, đối với vật, hóa giải sự
đối lập. Chẳng có đối lập, chẳng
có nghi lự, chẳng có mâu thuẫn, chẳng có xung đột.
V́ thế, trong thời gian ba năm, nhà vua có thể cảm
hóa cả nhà, có thể cảm hóa người sống trong cùng
một vùng với Ngài!
Cổ
thánh tiên hiền dạy chúng ta: “Hành
hữu bất đắc, phản cầu chư kỷ”
(Có chuyện ǵ chẳng làm được, hăy xét lại
chính ḿnh). Câu này đúng lắm, vấn đề chắc chắn
chẳng ở bên ngoài, mà là trong nội tâm của chính ḿnh. Quư
vị chỉ có cách phản tỉnh sâu xa, mới có thể
giải quyết vấn đề, mới có thể khai trí
huệ. Đức Phật dạy rất hay: “Hết thảy chúng sanh đều
có trí huệ và đức tướng của Như Lai”.
Mắt đức Phật thấy chúng sanh trong chín pháp giới
đều b́nh đẳng, ai nấy đều có trí huệ
viên măn, đức năng viên măn, tướng hảo viên
măn. Nay chúng ta gọi “tướng
hảo” là “phước báo”. V́ sao hiện thời chẳng
có những thứ ấy? Kinh Hoa Nghiêm đă nói rất hay: “Chỉ v́ vọng tưởng, chấp
trước, mà chẳng thể chứng đắc”. Kinh
Hoa Nghiêm đă nói minh bạch. Vọng tưởng là vô minh
phiền năo, phân biệt là Trần Sa phiền năo, chấp
trước là Kiến Tư phiền năo. Nếu chúng ta nói
bằng những danh từ Pháp Tướng ấy, tức
là nói đến vô minh, nói đến Kiến Tư, nói
đến Trần Sa, kẻ sơ học chẳng dễ
hiểu! Kinh Hoa Nghiêm nói hay lắm, [kinh dùng thuật ngữ]
“vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước”. Đâm ra quư vị nghe xong, dường
như đă hiểu, tuy chưa chắc quư vị đă thật
sự hiểu, nhưng quư vị có thể tiếp nhận
khái niệm ấy. V́ đối với những thứ ấy,
vọng tưởng là ǵ? Chính là khởi tâm động niệm.
Sáu căn của chúng ta tiếp xúc cảnh giới lục
trần bên ngoài, khởi tâm động niệm, c̣n chưa có
phân biệt, c̣n chưa có chấp trước. Đó gọi
là “vô minh”.
Chư
vị hiểu, chân tâm là tịch tĩnh. Chẳng khởi
tâm, không động niệm, đấy chính là chân tâm hiển
lộ, đó là Phật. Bồ Tát chẳng đoạn vô
minh. Nói cách khác, Bồ Tát vẫn c̣n khởi tâm động
niệm, nhưng Ngài chẳng có chấp trước và phân
biệt, nên Ngài có trí huệ cao hơn chúng ta. A La Hán, đây
là nói đến những vị thuộc tầng cấp
thành tựu thấp nhất, Ngài có khởi tâm động
niệm, có phân biệt, nhưng chẳng chấp trước,
đă đoạn Kiến Tư phiền năo, chứng quả
A La Hán, vượt thoát lục đạo luân hồi. Chúng
ta học Phật, phải nắm lấy nguyên lư và nguyên tắc
cao nhất này, rèn luyện trong cuộc sống hằng
ngày. Đó gọi là “tu”. “Tu”
(修) là “tu chánh” (修正, sửa đổi cho đúng), “hành” (行) là hành
vi. Trong quá khứ, chúng ta quen thói chấp trước, toàn
là phân biệt, toàn là khởi tâm động niệm. Nay
chúng ta uốn nắn chúng, chẳng c̣n chấp trước
đối với hết thảy người, sự, vật.
“Chẳng chấp trước” là buông xuống Kiến
Tư phiền năo. “Chẳng phân biệt” là buông xuống Trần
Sa phiền năo. “Chẳng khởi tâm, không động niệm”
là buông xuống Vô Minh phiền năo. Trong giáo pháp Đại Thừa
thường nói: “Phá một phẩm
vô minh, chứng một phần Pháp Thân”. Đấy là
đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất
thế gian, chẳng khởi tâm, không động niệm, Pháp
Thân Bồ Tát đấy!
Trong
kinh Hoa Nghiêm, từ Sơ Trụ trở lên, bốn
mươi mốt địa vị Pháp Thân đại
sĩ, bốn mươi mốt tầng cấp ấy đều
chẳng khởi tâm, không động niệm,
chẳng phân biệt, không chấp trước. Rốt cuộc,
các Ngài c̣n có giai cấp hay không? Nói thật thà, chẳng có
giai cấp! Các Ngài trụ trong Nhất Chân pháp giới. V́
sao đức Phật vẫn nói có bốn mươi mốt
tầng cấp? Bốn mươi mốt tầng cấp ấy
do đâu mà có? Tập khí vô thỉ vô minh chẳng đoạn.
Vô minh đă đoạn, tập khí chưa đoạn. Dùng
phương pháp ǵ để đoạn tập khí? Chẳng
có phương pháp nào! Tập khí cần thời gian rất
dài để dần dần tự nhiên chẳng c̣n nữa.
V́ thế, cổ đại đức thường nói: “Thử xứ dụng bất
đắc lực” (Ở chỗ này, không thể dùng sức
được). Hễ quư vị dùng sức, quư vị lại
có phân biệt, chấp trước; chỗ này không dùng sức
được! Do vậy, bọn phàm phu chúng ta, tức là
những kẻ ở trong mười pháp giới, nh́n vào Nhất
Chân pháp giới, chắc chắn là quư vị chẳng thấy
bốn mươi mốt giai cấp chi hết! Nh́n không ra!
Đấy là pháp giới b́nh đẳng, thật sự là
pháp giới b́nh đẳng, nhưng công phu xác thực là có
cạn hay sâu khác nhau.
Trong
giáo pháp Đại Thừa thường nói: Để thành Phật,
cần phải tu hành ba đại A-tăng-kỳ kiếp.
Nhất định phải biết ba đại A-tăng-kỳ
tính từ đâu, chính là kể từ ngày “phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp
Thân”. Nói cách khác, hóa ra “ba đại
A-tăng-kỳ kiếp” là nói về thời gian đoạn
sạch tập khí vô thỉ vô minh sẽ dài như thế
đó, chẳng có bất cứ phương pháp chi cả! Cổ
nhân đă tỷ dụ rất hay, v́ chúng ta chẳng dễ
ǵ lănh hội chuyện này. Cổ nhân dùng b́nh rượu để
tỷ dụ. B́nh rượu chứa rượu, đă
đổ sạch rượu, xác thực là chẳng c̣n rượu
nữa. Lau chùi sạch bóng bên trong, ngửi thử, vẫn
thấy có mùi. Đó gọi là “tập
khí”, dùng chuyện này để sánh ví tập khí. Khi nào tập
khí hoàn toàn chẳng c̣n nữa? Quư vị mỗi ngày ngửi
nó, [sẽ thấy] đúng là ngày càng nhạt hơn. Đại
khái phải mất hai, ba tháng mới ngửi thấy hoàn
toàn chẳng c̣n mùi! Quư vị hiểu rơ đạo lư này, sẽ
thấu hiểu hàng Bồ Tát trong Nhất Chân pháp giới
tu như thế nào, chẳng thể tu!
Bồ
Tát trong Nhất Chân pháp giới [tối thiểu] là Sơ Trụ
Bồ Tát. Các Ngài có năng lực này, thuận theo cái tâm mà ứng
với khả năng tiếp nhận [của kẻ
được hóa độ]. Nơi nào có cảm, các Ngài sẽ
ứng. Cảm ứng đạo giao, đáng nên dùng thân ǵ
để đắc độ, Ngài bèn hiện thân ấy.
Chẳng có thân h́nh nhất định, chẳng có pháp nhất
định để có thể nói. Ắt phải trải
qua ba đại A-tăng-kỳ kiếp, tập khí vô minh ấy
hoàn toàn chẳng c̣n. Do hoàn toàn chẳng c̣n nữa, Ngài bèn chứng
đắc địa vị Diệu Giác. Chúng tôi dùng b́nh
rượu làm tỷ dụ, quư vị sẽ có thể
tưởng tượng ra: B́nh rượu ấy đúng
là lau chùi cách nào cũng chẳng được, nó vẫn
có mùi. Bỏ mặc ở đó, để ở đó, mở
toang nắp b́nh, phải mất hai, ba tháng mới hoàn toàn chẳng
c̣n mùi. Đó gọi là “vô công dụng
đạo”. V́ thế, trong mười pháp giới th́ có
tu, có học; trong Nhất Chân pháp giới chẳng có. Chớ
nên không hiểu đạo lư này!
Hoa
Nghiêm thuộc về cảnh giới này, thuộc loại ứng
hóa. Bồ Tát ứng hóa trên thế gian, biết rành rẽ,
rơ ràng Ngài đến để làm ǵ? Ngài đến giúp
đỡ chúng sanh, thay chúng sanh giải quyết vấn
đề. Vấn đề của chúng sanh là ǵ? Khổ!
Giúp họ ĺa khổ được vui. Để ĺa khổ
được vui th́ phải ĺa khổ như thế nào, được
vui như thế nào? Dạy học, phá mê khai ngộ. Khổ
do đâu mà có? Do mê, đối với chân tướng của
vũ trụ và nhân sinh, trong Phật pháp nói là “tánh, tướng, sự, lư, nhân,
quả” hoàn toàn không biết, thuận theo vọng tưởng
của chính ḿnh mà tạo tác vô lượng vô biên nghiệp.
Nghiệp tuy có thiện nghiệp và ác nghiệp, chẳng
thoát khỏi lục đạo luân hồi. Do thiện nghiệp,
thọ sanh trong ba thiện đạo; do ác nghiệp, thọ
sanh trong ba ác đạo, quư vị chẳng thoát khỏi! Chỉ
có giác ngộ, giác ngộ như thế nào? Chẳng tạo
nghiệp. Trong cuộc sống thường ngày, có tạo hay
không? Vẫn tạo tác, tạo tác ǵ vậy? Tịnh nghiệp.
Đấy là Bồ Tát thị hiện cho chúng ta.
Một
trăm bốn mươi mốt bài kệ ở đây nhằm
dạy chúng ta cương lănh tu học này: “Bồ Tát khéo
dùng cái tâm”. Khéo dùng cái tâm, đối với Sự, có thể
vẫn làm, nhưng tâm địa thật sự chẳng
nhiễm mảy trần, cũng là “ĺa hết thảy các tướng, chính là hết thảy
các pháp”. Chuyện ǵ đều có thể trải qua, giống
như trong phần cuối kinh Hoa Nghiêm, năm mươi
ba lần tham học của Thiện Tài đồng tử
đă nêu gương cho chúng ta thấy: Trong năm
mươi ba lần tham học, có vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước hay không? Chẳng có! Thông
qua sự khảo nghiệm trong tham học, sẽ thấy
quư vị c̣n có vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước hay không? Hễ thật sự chẳng có, tức
là thật sự thành tựu! Đó là công đức chân thật.
Trong phần trước, Văn Thù Bồ Tát dạy ngài Trí
Thủ, bảo: “Bồ Tát thiện
dụng kỳ tâm, thành tựu nhất thiết thắng diệu
công đức” (Bồ Tát khéo dùng cái tâm, thành tựu hết
thảy công đức thù thắng, nhiệm mầu). “Thắng” (勝) là thù thắng. “Thù thắng”
(殊勝) là chẳng ĺa khỏi
thế gian. “Diệu” (妙) là ǵ? Diệu là ĺa thế gian, trong tâm địa chẳng
ô nhiễm mảy may, biết hết thảy các pháp giống
như kinh Kim Cang đă nói: “Phàm
những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”,
“hết thảy pháp hữu vi,
như mộng, huyễn, bọt, bóng”. Đối với
hết thảy các pháp, Ngài chẳng có chấp trước,
chẳng có phân biệt, chẳng có vọng tưởng. Ĺa
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, đó
là Diệu! Chẳng ĺa khỏi chúng sanh trong chín pháp giới,
[đó là] thù thắng, [nói gộp chung lại, sẽ là] “thắng diệu công đức”.
Thật sự là “làm mà không làm,
không làm mà làm”, tam luân thể
không. Quư vị nói có vui sướng lắm không? Đấy
chính là như khi giới thiệu Phật pháp cho tôi, tiên sinh
Phương Đông Mỹ đă bảo [học Phật là]
“sự hưởng thụ cao
nhất trong đời người”. Quư vị chẳng
nhập cảnh giới này, sẽ chẳng biết. Cảnh
giới này mới là sự hưởng thụ cao nhất
trong đời người!
Giá
trị không ǵ sánh bằng của Phật pháp ở ngay chỗ
này, chỉ đáng tiếc là người hiện thời
không chịu học. Chẳng biết bảo bối tốt
đẹp dường ấy, ở ngay trước mặt
mà bỏ lỡ. Đây là một chuyện rất đáng tiếc!
Chúng ta đă biết, phải có trách nhiệm, có nghĩa vụ
tuyên truyền rộng răi, lăng xê rộng răi, ngơ hầu
ai nấy đều giác ngộ “người nào cũng
đều có Phật tánh”. Phật pháp là ǵ? Phật pháp là Tánh
Đức của chính ḿnh, chẳng phải là ở bên
ngoài, hoàn toàn vốn có sẵn trong tự tánh, như Tam Tự
Kinh đă nói: “Nhân chi sơ, tánh
bổn thiện”, [nghĩa là] bản tánh vốn là thiện.
Điều thật sự khó có là đức Thích Ca Thế
Tôn đă v́ chúng ta giảng thấu triệt, giảng rơ ràng
ngần ấy, khiến cho bọn căn tánh trung hạ
như chúng ta đều có thể thọ dụng. Chúng ta cảm
tạ đức Phật đă từ bi thị hiện ở
nơi đây.
Chúng
ta đă biết cái nhân của chuyện “thê tử tập hội” chẳng phải là vô
duyên vô cớ, mà đều là do có mối quan hệ trong
đời quá khứ. Nếu đời quá khứ có ân, gia
đ́nh ấy sẽ khá tốt đẹp, vợ chồng
êm ấm, trăm năm giai lăo, có thể sống hạnh
phúc suốt đời. Nếu là báo oán, oán thân, nếu
như là trả oán, sẽ hằng ngày căi nhau, hằng ngày bất
ḥa. Do những [t́nh cảnh như vậy] đều có tiền
nhân (cái nhân từ trước), những quả báo mà quư vị
trông thấy trong hiện tại đều có tiền nhân.
Đôi câu đối của lăo ḥa thượng Thọ Dă hay
quá, “oan oan tương báo”. Vậy
th́ hóa giải oan oan tương báo như thế nào? Phải
giác ngộ! Sau khi đă giác ngộ, [những nỗi ân oán]
trong đời quá khứ đều một nét bút xóa sạch,
coi như xong, chẳng báo oán nữa! V́ thế, vợ con là
căn cội ái dục, hăy chuyển biến họ thành quyến
thuộc trong đạo pháp. Chúng ta là đồng học, đồng
tham đạo hữu, gia đ́nh là đạo tràng, hăy khéo
học tập Phật pháp, làm học tṛ của Thích Ca Mâu
Ni Phật, tiếp nhận giáo huấn của Thích Ca Mâu Ni
Phật, y giáo phụng hành, hóa giải những oán kết trước
đây. Chớ nên bị trói buộc bởi ân ái! Chúng đều
là giả, chẳng thật, biến thành quyến thuộc
trong đạo pháp như vậy. “Vĩnh ly tham trước” (Vĩnh viễn ĺa tham
chấp): “Tham” (貪) là
nói về kẻ thân, “trước”
(著) là chấp trước, là nói về kẻ oán. V́ thế,
san bằng oán thân, chẳng có oán thân nữa, biến thành
quyến thuộc trong đạo pháp.
Câu
thứ hai trong kinh văn trọng yếu hơn bất cứ
chi khác, ngàn muôn phần chớ nên sơ sót, chớ nên quên bẵng!
“Đương nguyện chúng sanh”.
Nguyện này không chỉ là san bằng nỗi bất b́nh
trong nhà của ta, [mà c̣n] mong mỏi cho “chúng sanh”, tức là hết thảy chúng sanh trong hết
thảy các cơi Phật khắp pháp giới hư không giới.
Quư vị nói tâm lượng ấy to cỡ nào! Đúng là “tâm bao thái hư, lượng châu
sa giới”, hy vọng mọi
nhà đều có thể ḥa hợp, mọi nhà đều hóa
giải oán kiếp trong bao đời quá khứ và hiện
tiền. Thực hiện từ chỗ nào? Thực hiện
từ bản thân, thực hiện từ gia đ́nh ta. Gia
đ́nh của chính ta thực hiện tốt đẹp, sẽ
ảnh hưởng đến xóm giềng, ảnh hưởng
thân thích bằng hữu. V́ sao? Nhà họ bất ḥa, thấy
nhà quư vị cớ sao ḥa thuận dường ấy? Cớ
sao người trong một nhà hoan hỷ, vui sướng ngần
ấy? Đó là ǵ? Đấy chính là hóa tha!
Phải
nêu gương tốt nhất cho hết thảy chúng sanh. Cá
nhân ta tu học phải làm mẫu, nêu gương tốt
cho hết thảy mọi người. Gia đ́nh của ta
là gia đ́nh gương mẫu cho gia đ́nh của chúng
sanh trong vô lượng vô biên cơi Phật trọn khắp pháp
giới hư không giới. Chẳng phải là gương
mẫu cho Hương Cảng, hay gương mẫu của
Trung Hoa, chẳng phải là gương mẫu trên địa
cầu, mà là gương mẫu của khắp pháp giới
hư không giới. Nếu tâm lượng chẳng
được như vậy, sẽ chẳng tương ứng
với lời dạy của Phổ Hiền Bồ Tát. Lời
của Phổ Hiền Bồ Tát chính là tổng cương
lănh, mọi người nhất định phải ghi nhớ.
“Nhược chư Bồ Tát,
thiện dụng kỳ tâm, tắc hoạch nhất thiết
thắng diệu công đức” (Nếu các Bồ Tát
khéo dùng cái tâm, sẽ đạt được hết thảy
công đức thù thắng, nhiệm mầu). Câu ấy là tổng
thuyết (nói tổng quát). Câu ấy chính là câu thứ hai
trong một trăm bốn mươi mốt bài kệ tụng,
[tức câu] “đương
nguyện chúng sanh”, quư vị mới biết dụng tâm.
Vậy
th́ chúng ta có muốn học làm một người tốt
hay không? Có muốn học làm một người giác ngộ
hay không? Có muốn làm một người quang minh chánh đại
hay không? Có muốn làm một người thanh tịnh, quyết
định chẳng ô nhiễm hay không? Tam Quy Y là ba nguyên tắc
chỉ đạo cao nhất trong tu hành, “giác, chánh, tịnh” làm cho ai xem? Làm cho người
trong thiên hạ xem. Người trong nhà quư vị đều
đạt được “giác,
chánh, tịnh”, làm cho hết thảy các gia đ́nh khác
nh́n vào. Đạo tràng này, tất cả các đồng học
trong đạo tràng, kể cả những vị làm công quả,
đều có thể thực hiện “giác, chánh, tịnh”, làm gương mẫu tốt
đẹp cho hết thảy các đạo tràng trong khắp
pháp giới hư không giới. Đấy mới là “công đức thắng diệu”,
được chư Phật hộ niệm, long thiên thiện
thần, chẳng có vị nào không tán thán. Đó gọi là “học Phật”.
V́
thế, học Phật và Phật học là hai chuyện, chớ
nên không phân biệt rơ ràng! Học Phật th́ quư vị mới
có thể khai trí huệ. Trí huệ hiện tiền, bất
cứ nghi nan tạp chứng thế gian và xuất thế
gian nào đưa đến trước mặt quư vị,
thảy đều có thể hóa giải. Quư vị hăy
nghĩ xem, học Phật tốt đẹp hay Phật học
tốt hơn? Phải hiểu rơ ràng! Thật sự muốn
học Phật, quư vị phải ghi nhớ: Chẳng thực
hiện từ Đệ Tử Quy, quư vị sẽ chẳng
làm được! V́ thế, đối với kinh th́ có thể
nghe [bất cứ kinh điển nào phù hợp], nhưng
hành th́ phải hành Đệ Tử Quy. Hy vọng thực
hiện Đệ Tử Quy một năm. Quư vị thực
hiện trọn hết thiên văn tự ấy. Kinh văn
trong Đệ Tử Quy chỉ có ba trăm sáu mươi
câu, mỗi câu ba chữ; từng câu, từng chữ đều
làm được! Đă có cơ sở ấy, Thập Thiện
Nghiệp Đạo sẽ chẳng có vấn đề, khẳng
định là có thể làm được. Làm được
Thập Thiện Nghiệp Đạo, Tam Quy Ngũ Giới
sẽ là thật, chẳng giả. Trong Phật môn, quư vị
là tại gia Bồ Tát, thật sự là Bồ Tát Ưu Bà Tắc.
Vị Bồ Tát ấy “đương
nguyện chúng sanh”, có cái tâm to lớn ấy th́ chính là Bồ
Tát, tức là Đại Bồ Đề tâm. Ta y giáo phụng
hành, chẳng v́ chính ḿnh, mà v́ hết thảy chúng sanh. Nay ta
thực hiện Đệ Tử Quy một trăm phần
trăm, ta biểu diễn, ta làm cho hết thảy chúng sanh
trông thấy. Đấy là Bồ Tát. Nếu v́ chính bản
thân ta, ta học hay không, chẳng sao cả! Nếu nhằm
nêu gương tốt cho toàn thể xă hội, quư vị sẽ
chẳng thể không học. Đó là Bồ Tát. V́ chính ḿnh th́
là Tiểu Thừa. Nhất là v́ hết thảy chúng sanh
trong khắp pháp giới hư không giới, sẽ là Đại
Bồ Đề tâm, chính là Phổ Hiền Bồ Tát, chẳng
phải là hàng Bồ Tát b́nh phàm!
Do
vậy, phải hiểu “vĩnh
ly tham trước”. “Tham” là ĺa kẻ thân, [tức là] những
kẻ có ân trong đời quá khứ. “Trước” là chẳng c̣n chấp trước. Đối
với chuyện oán hận, trong quá khứ có chuyện xích mích, tức là đ̣i nợ, trả nợ, báo
ân, báo oán. Bất luận là đ̣i nợ hay trả nợ,
báo thân (報親, báo đáp những người có t́nh thân với
ḿnh), hay báo oán, đời này chúng ta gặp gỡ, hăy giác ngộ,
b́nh đẳng, đối xử b́nh đẳng, đối
xử ḥa thuận, đó là đúng pháp. Coi gia đ́nh như đạo tràng. Gia đ́nh có gia
nghiệp, chẳng trở ngại! Hằng ngày đi làm,
làm việc xong, khi trở về, học tập trong gia
đ́nh. Gia đ́nh là trường học, gia đ́nh là đạo
tràng! Chẳng cần xem TV, chẳng cần đọc nhật
báo, tạp chí. Những thứ đó toàn là ô nhiễm. Đối
với những sách vở xuất bản trong thế gian
này, lại c̣n có các báo cáo khoa học, ta cứ thường
xem, không được rồi! Những thứ đó làm
sao có thể sánh bằng kinh Phật! Đừng lăng phí thời
gian! Hăy nhất tâm hướng về đạo, một
phương hướng, một mục tiêu, chẳng có ai
không thành tựu. A! Đă hết thời gian rồi, chúng
tôi nói tới chỗ này!
***
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi
xuống. Xem tiếp bài kệ thứ tư:
(Kinh)
Nhược đắc ngũ dục, đương nguyện
chúng sanh, bạt trừ dục tiễn, cứu cánh an ổn.
(經)若得五欲。當願眾生。拔除欲箭。究竟安隱。
(Kinh: Nếu được ngũ dục, nguyện
cho chúng sanh, nhổ mũi tên dục, rốt ráo an ổn).
Trong
rất nhiều kinh điển, đức Phật đă
vô số lần cảnh giác chúng ta.
“Tài, sắc, danh, thực, thùy, địa
ngục ngũ điều căn” (Tài, sắc, danh vọng,
ăn uống, ngủ nghê; chính là năm cái gốc của
địa ngục). Người đọc [những câu ấy]
rất đông, trong những trước tác của bậc
cổ đại đức đều trích dẫn những
câu này, có mấy ai thật sự giác ngộ? Phàm và thánh sai
khác ở chỗ mê hay ngộ, mà cũng là do nhiễm hay tịnh.
Nhiễm là phiền năo, thanh tịnh là trí huệ. Kinh Kim
Cang đă nói rất hay: “Tín tâm
thanh tịnh, tắc sanh Thật Tướng” (Tín tâm
thanh tịnh bèn sanh ra Thật Tướng), Thật Tướng
là Bát Nhă. Phiền năo và trí huệ là một Thể, một
Thể có hai mặt, chúng ta nói là “chánh diện” và “phản
diện”. Chánh diện là giác, phản diện là mê. Giác là Phật,
Bồ Tát; mê th́ là phàm phu. Phàm phu và Phật, Bồ Tát là một,
chẳng hai! Nói xuyên suốt, phàm phu và Phật là do chính bản
thân của quư vị [mê hay giác]. Tự tánh giác, quư vị sẽ
thành Phật. Tự tánh mê, sẽ là phàm phu, quư vị sẽ
đọa lạc. Làm thế nào để ǵn giữ “giác
chứ không mê”? Quư vị hạ thủ công phu ở chỗ
này, mới thật sự có thể quay đầu, có thể
thật sự trở về tự tánh. Phàm phu chẳng có chi
khác, từ vô lượng kiếp đă mê mất tự
tánh. Chúng tôi thường nói: Mê mất tự tánh từ vô
lượng kiếp đến nay, thời gian mê muội
đă quá lâu, mê đă quá sâu, rất khó quay đầu. “Rất khó quay đầu” là cách
nói nhằm h́nh dung, hoàn toàn chẳng phải là lời thật,
sợ điều ǵ? Sợ là quư vị bất giác. Thật
sự là một niệm giác, phàm phu bèn thành Phật.
Khi
tôi mới bắt đầu học Phật, tuổi trẻ
chưa hề tiếp xúc Phật pháp, trông thấy những
tự viện, am, đường, có khi đến đó ngoạn
cảnh, trông thấy toàn là pháp hội kinh sám Phật sự.
V́ thế, đă tạo thành một quan niệm nơi tôi:
“Phật giáo nhằm phục vụ người chết”!
[Đối với Phật giáo], chẳng có hảo cảm,
[có thành kiến]: Đâm ra [Phật giáo] chẳng bằng Cơ
Đốc giáo, Thiên Chúa giáo và Hồi giáo. Đấy là những
chuyện tôi được tiếp xúc khi c̣n là học tṛ,
học Tiểu Học, học Sơ Trung (cấp hai), tôi rất
tôn kính họ. V́ sao? Họ giảng đạo, có khi tôi đến
nghe giảng, cảm thấy vẫn là hết sức có lư! Nhưng
trong Phật pháp, chẳng có ai giảng đạo, chuyện
này tạo thành nỗi hiểu lầm rất lớn trong xă
hội. Do hiểu lầm bèn phản cảm, chê Phật
giáo là mê tín. Nói thật ra, chẳng thể trách người
khác. Bản thân chúng ta chẳng nói rơ ràng, nói rành mạch giáo
huấn của đức Phật. Nếu nói rơ ràng, nói minh
bạch, nói sâu hơn, nói rộng hơn những tôn giáo
khác, nói rạch ṛi, không chỉ là những kẻ b́nh phàm có
thể tiếp nhận, mà tín đồ của các tôn giáo
khác cũng có thể tiếp nhận.
Đối
với những tín đồ các tôn giáo khác, tôi luôn cổ
vũ, khích lệ họ học Phật. V́ sao? Phật giáo
là giáo dục. Quư vị đến học nhằm mở
mang trí huệ. Trí huệ đă khai, quư vị sẽ có thể
giảng giải kinh điển của tôn giáo chính ḿnh càng
hay hơn, có trí huệ mà! Phật giáo nhất quyết chẳng
ép buộc quư vị vứt bỏ những tôn giáo ấy
để học Phật giáo. Đức Phật chẳng
có ư nghĩ ấy. Đức Phật chẳng làm chuyện
thiếu đạo đức ấy, chúng ta phải biết
điều này! Quư vị thấy trong kinh Hoa Nghiêm có Bà La
Môn. Bà La Môn chẳng phải là Phật giáo, mà chính là Ấn
Độ giáo hiện thời, tức Hưng Đô giáo (Hinduism).
[Trong kinh Hoa Nghiêm] có ngoại đạo. “Ngoại đạo” là những tôn giáo khác, đều
dùng danh từ này để nói khái quát! Đức Phật
hoàn toàn chẳng dạy họ bỏ tôn giáo của chính ḿnh
để học theo Ngài. V́ sao? [Nếu dạy vứt bỏ
như vậy], sẽ là dạy người
khác bất hiếu với cha mẹ, há có lẽ ấy! Phật
giáo là giáo dục, chẳng mâu thuẫn với tôn giáo.
Ở
Mỹ, tôi có nói với những người hàng xóm, họ
phần nhiều là giáo đồ Cơ Đốc, hoặc
tín đồ Thiên Chúa giáo, chúng tôi lập một đạo
tràng tại đó. Sau khi thành lập đạo tràng, trước
ngày khai mạc, tôi phát thiếp mời hàng xóm ở mấy con
đường lân cận, chúng tôi có tiệc trà chiêu đăi,
tiếp đăi họ đến thăm viếng, báo cho họ
biết chúng tôi làm những ǵ ở đây. Những người
ấy rất hoan hỷ. Chúng tôi nói, Tịnh Độ Tông
thờ phụng Tây Phương Tam Thánh. Họ hỏi tôi:
“Tông chỉ của Tịnh Độ Tông là ǵ?” Tôi đáp:
“Giáo học Tịnh Độ Tông nhằm dạy chúng ta học
sung sướng. Thế giới Cực Lạc là [một
thế giới] sung sướng”. Họ nói chúng tôi cần
chuyện ấy, họ muốn sung sướng. Vô lượng
thọ, trường thọ, họ nói điều này
cũng muốn. Họ chẳng muốn đoản mạng,
họ mong trường thọ. Điều thứ ba là
thanh tịnh, họ nói những điều ấy chúng tôi
đều cần! Ở đây, chúng tôi học vui sướng,
học vô lượng thọ, học thanh tịnh. Đấy
là đặc điểm của Tịnh Độ Tông. Mọi
người đều rất hoan hỷ. Tôi nói: “Được
lắm! Hoan nghênh các vị! Thứ Bảy tôi sẽ đặc
biệt mở lớp dành cho quư vị. Quư vị đến
đây học Phật pháp với tôi, tức là học vui
sướng, học thanh tịnh, học vô lượng thọ.
Ngày Chủ Nhật, quư vị đi nhà thờ, học tôn
giáo của quư vị. Phật giáo là giáo dục. Trong trường
có thầy, ở nhà có cha mẹ, c̣n trong tôn giáo th́ Thượng
Đế là cha, là phụ mẫu, là Chúa của quư vị. Ở
nhà có cha mẹ, có Chúa, ở trường có thầy, chẳng
xung đột!” Họ nghe nói rất vui thích, thứ Bảy
đều đến, ngày Chủ Nhật th́ đi nhà thờ.
Nếu
quư vị chẳng thể ĺa khỏi sự ô nhiễm của
thế tục, ngũ dục là ô nhiễm, có cần tài, sắc,
danh vọng, ăn uống, ngủ nghê hay không? Cần chứ!
Vừa phải mà thôi, chớ nên có tâm tham trong đó. Hễ
quư vị có tâm tham, sai lầm mất rồi! V́ thế, ở
chỗ này, chúng ta thấy Thích Ca Mâu Ni Phật dạy chúng
ta như thế nào? Tôi đă thưa tŕnh cùng các đồng
học rất nhiều lần: Lúc tôi mới học Phật,
ngày đầu tiên đến bái phỏng Chương Gia
đại sư. Khi ấy, thầy Phương đă giới
thiệu Phật giáo, giới thiệu Triết Học trong
kinh Phật cho tôi hơn một tháng. Chưa đến hai
tháng, tôi bèn có duyên phận thân cận đại sư. Lúc ấy,
tôi hai mươi sáu tuổi. Tôi liền thưa: “Nay con
đă biết chỗ tốt đẹp và thù thắng trong
Phật giáo, thỉnh giáo đại sư, có phương
pháp ǵ để khiến cho con khế nhập rất nhanh
chóng hay không?” Kẻ trẻ tuổi tánh t́nh nóng vội. Chương
Gia đại sư thấy tánh t́nh chúng tôi bộp chộp,
Ngài bèn dùng phương pháp rèn giũa. Toàn là giáo dục. Ngài
nghe xong, nhướng mắt nh́n tôi, tôi nh́n Ngài, nh́n nhau
hơn nửa tiếng đồng hồ, chẳng thốt
ra câu nào! Nửa giờ khiến cho cái tâm tôi được
định, v́ sao? Do chờ Ngài mở miệng nói năng!
Suốt cả một đời, trước nay tôi
chưa hề gặp cách giáo dục ấy!
Nửa
giờ rồi Ngài nói một chữ Có, tôi cũng rất
chú ư nghe. Chẳng có phần sau, Ngài lại chẳng nói chi hết!
Lần này, thời gian chẳng lâu như vậy, đại
khái là năm phút. Sau năm phút, Ngài nói sáu chữ, “khán đắc phá, phóng đắc
hạ” (thấy thấu suốt, hăy buông xuống). Ngài
nói chẳng mau như tôi nói, Ngài nói rất chậm. Nói từng
chữ một, nói sáu chữ ấy! Tôi có thể lănh hội
“thấy thấu suốt, buông
xuống”. Tôi tiếp tục thỉnh giáo lăo nhân gia, thực
hiện từ chỗ nào? Lần này thời gian im lặng
chẳng dài, Ngài bảo tôi: “Bố
thí”. Thực hiện từ bố thí, bố thí là buông xuống.
Về
sau, sau khi chúng tôi đă khế nhập giáo pháp Đại Thừa,
mới hiểu sáu chữ do lăo nhân gia ban cho tôi trong ngày
đầu tiên, thực hiện bằng cách buông xuống,
chính là bí quyết tu học cao nhất trong Đại Thừa
Phật giáo từ Sơ Phát Tâm cho đến địa vị
Như Lai! “Thấy thấu suốt”
là ǵ? Trí huệ. Buông xuống, tâm sẽ thanh tịnh. “Buông xuống” thuộc về
Giới và Định, “thấy
thấu suốt” là Tam Học Giới, Định, Huệ.
Nếu Ngài nói Tam Học Giới, Định, Huệ, sẽ
khiến cho tôi là kẻ sơ học trở nên hồ đồ.
Đấy là ǵ? Thật sự có trí huệ, phương tiện
thiện xảo, lập tức có thể nhiếp thọ
người khác. Thấy thấu suốt giúp buông xuống,
buông xuống giúp thấy thấu suốt. Ngày đầu
tiên, Ngài dạy tôi xem sách, chẳng phải là kinh điển.
Ngài bảo tôi đọc Thích Ca Phổ và Thích Ca Phương
Chí. Thuở ấy, chẳng có sách, Ngài dạy tôi hăy đến
chùa miếu t́m trong Đại Tạng Kinh để sao chép.
Do vậy, thuở đầu tôi học kinh điển nhà
Phật, sao chép kinh. Những kinh sách nhà Phật chẳng thể
mua ngoài chợ sách được, đều phải đến
tự miếu mượn kinh để sao chép lại. Kinh
điển lại chẳng thể mượn về. Chỉ
đành lợi dụng thứ Bảy, Chủ Nhật, hoặc
buổi tối tan sở, chẳng có chuyện ǵ bèn đến
tự miếu, có thể sao chép, một hai giờ!
Chuyện
này có nghĩa là ǵ? Chẳng phải là quư vị học Phật
ư? Học Phật th́ phải nhận biết Thích Ca Mâu
Ni Phật. Quư vị chẳng biết ǵ về Ngài cả,
cái tâm cung kính, kính ngưỡng đối với Ngài sẽ
chẳng thể nẩy sanh được! Giống như
quư vị đối với lịch sử uyên nguyên của
gia đ́nh chẳng biết chút ǵ, cái tâm yêu thương
đối với gia đ́nh sẽ không thể sanh khởi
được! Đạo lư giống như nhau! Sự liễu
giải của quư vị càng khắc sâu, tự nhiên quư vị
sẽ thật sự quan tâm, sẽ yêu thương nó! Do vậy,
Ngài chỉ dạy tôi phương pháp: “Trước hết,
con phải nhận biết Thích Ca Mâu Ni Phật!” Những tác
phẩm đó là truyện kư về Thích Ca Mâu Ni Phật, do
người đời Đường viết. Sau khi
đọc xong, bội phục [đức Phật] năm
vóc sát đất! Người thế gian truy cầu ngũ
dục, không ǵ chẳng hưởng dụng đến mức
tột cùng. Thích Ca Mâu Ni Phật đă đạt được
toàn bộ ngũ dục, mang thân phận vương tử.
Tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ dục lục
trần, Ngài nhất loạt trọn đủ, [thế mà
dứt khoát] buông bỏ! Mười chín tuổi ĺa khỏi
gia đ́nh, tầm sư phỏng đạo. Ngài muốn v́
chính ḿnh, v́ chúng sanh giải quyết một vấn đề.
Vấn đề ǵ vậy? Vấn đề sanh, lăo, bệnh,
tử! Đấy là đại sự trong đời
người, thật sự là “ĺa
khổ, được vui”. Nỗi khổ sanh, lăo, bệnh,
tử, nếu nói rộng ra, sẽ là tám khổ: Cầu chẳng
được, yêu thương phải chia ĺa, oán ghét mà cứ
phải gặp gỡ, Ngũ Ấm lừng lẫy. Các nỗi
khổ ấy là như thế nào? Khổ do đâu mà có? V́
sao có khổ? Làm thế nào để ĺa khổ? Ĺa khổ
ḥng được vui. Đấy là nói đến động
cơ (motivation) của đức Phật!
Ngài
biết danh lợi, ngũ dục là căn bản của
khổ, phải trừ bỏ căn bản ấy. Suốt
cả đời, Ngài đă v́ chúng ta mà thị hiện: Thật
sự chẳng có tâm tham. Đối với tài, sắc, danh
vọng, ăn uống, ngủ nghê, tiếng tăm, lợi
dưỡng, xác thực là chẳng có mảy may tâm tham! Thật
sự buông xuống! Chúng ta học Phật, quư vị phải
học theo Thích Ca Mâu Ni Phật. Trước hết, quư vị
phải buông xuống những thứ ấy. V́ sao? Những
thứ ấy không chỉ chướng ngại sanh tử,
chướng ngại giải thoát, mà c̣n chướng ngại
quư vị khai ngộ. Chỉ cần quư vị dính dáng những
thứ ấy, chắc chắn là quư vị sẽ chẳng
thể khai ngộ ngay trong đời này! Quư vị học Phật,
đọc kinh, nghiên cứu, tôi thường nói tỷ dụ:
Quư vị đọc kinh, hằng ngày đọc kinh, niệm
Phật chính là “miệng có, tâm
không”. Giống như chúng ta ăn cơm, quư vị xem thực
đơn vậy! Kinh sách ví như thực đơn. Quư vị
coi xong, nghiêm túc học tập, nghiên cứu, thảo luận,
thậm chí quư vị c̣n viết khá nhiều luận văn.
Nói đến nỗi hoa trời rơi tán loạn, nhưng
quư vị chẳng làm được! Vậy là giống
như đồ ăn đă dọn ra bàn, quư vị vẫn
chẳng ăn, mùi vị ǵ cũng chẳng biết! Quư vị
chẳng đạt được pháp hỷ, vẫn mừng,
giận, vui, buồn, vẫn sống cuộc đời của
người thế gian, chẳng sống cuộc đời
của Thích Ca Mâu Ni Phật. Nếu quư vị biến đạo
lư trong kinh giáo thành tư tưởng và kiến giải của
chính ḿnh, biến giáo huấn trong kinh điển thành hành vi
trong cuộc sống của chính quư vị; tức là quư vị
đă nuốt thức ăn rồi, có thể biết
hương vị, cũng có được chất bổ
dưỡng, mới thật sự đạt được
lợi ích nơi pháp. Quư vị chẳng thể làm
được, thứ ấy sẽ là của người
khác, chẳng phải là của quư vị.
V́
thế, sự chỉ dạy của thầy có mối quan
hệ quá lớn. Trước hết là dạy quư vị nhận
biết, tôi tôn kính Phật, lẽ nào chẳng tôn kính những
vị đại sư truyền bá Phật giáo? Kính Pháp,
đương nhiên là quư vị sẽ kính Tăng. Tôi chẳng
biết chút nào về Phật pháp, cái tâm cung kính đối
với những vị thầy truyền pháp làm sao sanh khởi
cho được? Do vậy, hiện thời, sự truyền
thừa ấy đă bị mất đi, [đại chúng]
chẳng hiểu những đạo lư này, chẳng có thiện
tri thức thật sự, phương pháp tiếp dẫn
sai lầm. V́ thế, tôi cảm thấy chính ḿnh hết sức
may mắn, suốt năm mươi lăm năm học Phật,
chẳng đi theo đường lối oan uổng. Ba vị
thầy đều là thiện tri thức thật sự, ngạn
ngữ nói “chuyện này có thể
gặp, chứ không thể cầu”!
Trông
thấy Thích Ca Mâu Ni Phật đă đạt được
sự hưởng thụ ngũ dục lục trần,
Ngài có thể bỏ sạch sành sanh như vậy, chuyện
này đáng cho chúng ta tư duy sâu xa! V́ sao Ngài sống cuộc
đời “giữa trưa
ăn một bữa, qua đêm dưới cội cây”, sống
cuộc đời khất thực? Đức Phật
đề xướng “ĺa khổ,
được vui”, chúng ta thấy cuộc sống ấy
quá khổ! Đó là “ĺa vui,
được khổ”! Quư vị thấy người
thế gian bảo ngũ dục là lạc, địa vị
là quốc vương, nói theo thời cổ sẽ là “quư vi thiên tử, phú hữu tứ
hải” (thiên tử sang cả, giàu có đầy ắp bốn
biển). Tất cả hết thảy chúng sanh đều theo
đuổi mục tiêu này! [Thế mà] đức Phật
đă đạt được, lại vứt bỏ, sống
cuộc đời khổ sở ngần ấy. Chúng tôi đọc xong, suy nghĩ rất nhiều
bữa, vẫn nghĩ không thông! Không nghĩ ra, xếp vấn
đề để đó. Chuyện này được gọi
là “nghi t́nh” trong Phật pháp.
Tiểu nghi có tiểu ngộ, đại nghi có đại
ngộ! Về sau, dần dần khế nhập kinh
điển, mới hoảng nhiên đại ngộ, hiểu
rơ trong ấy có chân lạc!
Niềm
vui này khiến cho chúng tôi nghĩ đến Nho gia. Quư vị
thấy các vị đại đức trong Nho gia xưa
kia thường nói “Khổng Nhan
chi lạc” (niềm vui của Khổng Tử, Nhan Hồi),
[đấy chính là điều] Nho gia mong cầu, nhưng rất
ít người làm được. V́ sao chẳng làm
được? Chẳng thể buông xuống ngũ dục,
lục trần. Tiếng tăm, lợi dưỡng
cũng không buông xuống được! Do vậy, họ
chẳng thể thấu hiểu! Quư vị thấy Nhan Hồi,
“cư lậu hạng, nhất
đan thực, nhất biều ẩm” (sống trong ngơ
nghèo hèn, một giỏ cơm, một bầu nước uống).
Phu Tử tán thán ông ta. Nếu kẻ b́nh phàm sống cuộc
đời như vậy, sẽ là “nhân bất kham kỳ ưu, Hồi dă bất cải
kỳ lạc” (kẻ khác chẳng thể kham nỗi lo
âu ấy, Nhan Hồi cũng chẳng thay đổi niềm
vui)! Nhan Hồi suốt ngày từ sáng đến tối vui
thích khôn cùng, sung sướng khôn cùng, sống cuộc đời
như vậy đó! Nhưng cuộc sống của Thích Ca
Mâu Ni Phật c̣n khổ hơn ông ta. Ông ta c̣n có cái ngơ hèm
nghèo nàn để ở, Thích Ca Mâu Ni Phật nghỉ đêm
dưới cội cây. Lại nữa, đối với cội
cây lại c̣n quy định “chẳng thể hằng ngày
đều ở dưới cội một cái cây”, phải
thường xuyên thay đổi. V́ sao? Chẳng khởi tâm
tham đối với gốc cây ấy. Nếu một cội
đại thụ rợp bóng mát mẻ, được lắm
chớ, rất thoải mái, ta dấy ḷng tham! [V́ thế,
để đối trị ḷng tham, phải] đổi chỗ
hằng ngày!
Những
đệ tử theo học với Ngài, từ trong kinh,
chúng ta thường thấy là một ngàn hai trăm năm
mươi lăm người. Những vị này là Thường
Tùy đệ tử, sống cuộc đời giống hệt
Thích Ca Mâu Ni Phật, đi khất thực hằng ngày! Khất
thực chính là “phương tiện
vi môn” (phương tiện làm cửa). Bởi lẽ,
khi khất thực, chẳng phải là nói “nay ta ăn chay
[chỉ nhận thức ăn chay]”. Người ta cho ǵ
ăn đó, chẳng có phân biệt, chẳng có chấp
trước, b́nh đẳng! Trong giáo pháp có dạy “không sát
sanh”. V́ thế, chúng ta phải hiểu: Khi đức Phật
khất thực ở bên ngoài, chăng kiêng kỵ đồ
mặn! Đấy là “phương
tiện làm cửa”, chẳng gây thêm phiền phức cho
đại chúng. Quư vị ăn thứ ǵ bèn bố thí [cho người
xuất gia khất thực] thứ đó!
Ăn
chay là do Lương Vũ Đế của Trung Hoa đề
xướng. Lương Vũ Đế đọc kinh Lăng
Già, trong kinh, đức Phật xác thực đă nói: “Bồ Tát từ bi, chẳng nhẫn
tâm ăn thịt chúng sanh”. Lương Vũ Đế thấy
vậy, hết sức cảm động. Do đó, bèn
ăn chay. Nhà vua vốn là đại hộ pháp của Phật
môn. Phong trào ăn chay là do lăo nhân gia đề xướng.
Phong trào này được triển khai rất nhanh chóng, Phật
môn hưởng ứng. Về sau, dần dần các cư
sĩ cũng hưởng ứng. V́ thế, chư vị
phải biết: Ăn chay trong Phật giáo chỉ có tại
Trung Hoa. Quư vị sang Nhật Bản, Đại Hàn đều
chẳng có. Sang bên đó, [người xuất gia] sống cũng
chẳng thuận tiện cho lắm. Nhưng hiện thời,
họ cũng biết người xuất gia Trung Hoa ăn
chay, cho nên đặc biệt chuẩn bị thức ăn
chay cho quư vị. Trong món chay c̣n có hương vị của
đồ mặn, [v́] nồi chẳng sạch [hết mùi vị
đồ mặn]. Quư vị phải hiểu họ đă tận
tâm tận lực, đừng gây phiền toái, phải hiểu
chuyện này! Ăn chay xác thực là có lợi, rất hữu
ích cho sức khỏe thân tâm.
Đối
với chuyện ăn chay th́ cũng là khi tôi hai mươi
sáu tuổi, tiếp xúc Phật pháp chưa đầy nửa
năm bèn chọn cách ăn chay. V́ sao? Tôi đă hiểu rơ.
Trước khi tôi học Phật, tôi ưa thích, tôn kính
đạo Hồi nhất. V́ thế, hiện thời, trên
quốc tế, tôi quan hệ cùng đạo Hồi thân thuộc
như thế là có uyên nguyên. Thuở ấy, sách vở đạo
Hồi không nhiều lắm. Tôi đi học trong trường,
khi đang học Sơ Trung (cấp hai), bạn học của
tôi là tín đồ đạo Hồi. Tôi cũng đến
giáo đường đạo Hồi nghe giảng đạo.
Họ có những sách báo, tôi cũng rất hoan hỷ xem. Về
sau, tôi mới hiểu, đạo Hồi tại Trung Hoa có
văn hóa của Nho, Thích, Đạo trong ấy, chẳng
giống với đạo Hồi ở ngoại quốc.
Đạo Hồi tại Trung Hoa nói “ngũ công, ngũ điển”. “Ngũ công”[1] là do kinh Cổ Lan nói. “Ngũ điển” là luân lư
của Trung Hoa, họ thêm vào. V́ thế, trong [giáo thuyết
của đạo Hồi tại Trung Hoa] đă dung hợp
văn hóa Nho, Thích, Đạo, tôi rất ưa thích. Trong ấy
có nói “hiếu thảo cha mẹ,
tôn trọng thầy”, nói những điều này; đó
là luân lư đạo đức.
Đối
với chuyện ẩm thực, họ có chọn lựa. Chư
vị đều biết, họ chẳng ăn thịt lợn,
thịt chó. Những người ngoài đạo không hiểu,
chế giễu họ. Trên thực tế, họ chọn lựa
những món ẩm thực theo cách vệ tánh, c̣n cách ăn uống
thông thường của chúng ta là “vệ sinh”. “Sinh” là sinh lư (生理, physiology), sức khỏe sinh lư, c̣n “tánh” (性) là tánh t́nh. Có rất nhiều loại thực phẩm
chẳng tốt cho tánh t́nh. Sau khi quư vị ăn vào, sinh lư
sẽ bị ảnh hưởng. Ví như trong Phật môn,
đức Phật cấm ăn ngũ tân. Những thứ
như hành, tỏi, hẹ v.v… là ngũ tân. Khất thực
th́ không quản, cho ǵ ăn nấy, chẳng chọn lựa.
Nhưng thông thường, đức Phật dạy mọi
người đừng ăn những thứ ấy. V́
sao? Không tốt cho tánh t́nh, chúng có tánh chất không tốt.
Ăn sống sẽ vượng hỏa nơi gan, sẽ
nóng giận. Nếu tánh t́nh của quư vị chẳng mềm
mỏng, thường ăn những thứ ấy, sẽ
thường xuyên nổi giận, sẽ làm mất ḷng kẻ
khác. V́ thế, quư vị phải hiểu v́ sao đức Phật
ngăn cấm. Ăn những thứ ấy đă nấu
chín, nó dễ giúp cho quư vị sanh ra hormone (nội tiết tố),
dẫn khởi những sự xung động trong tánh t́nh.
Đạo lư là như thế đó, kinh Lăng Nghiêm đă
nói rất rơ ràng. Người học Phật chúng ta phải
thường ǵn giữ cái tâm thanh tịnh, ǵn giữ tánh
t́nh rất tốt đẹp, hiền lành. Do vậy, chúng
ta tránh không ăn những thứ ấy. Nhưng dùng làm thuốc
th́ không kể, hễ thuốc men cần phải dùng những
thứ ấy th́ được phép. Do vậy, mỗi giới
điều đều có khai duyên. Đối với “khai, giá, tŕ, phạm”, nhất
định phải hiểu rơ ràng, hiểu minh bạch.
Không
ăn động vật nhằm bảo vệ cái tâm từ
bi. Do vậy, đối với thực phẩm, đạo
Hồi biết vệ sinh và vệ tánh, bảo vệ tánh
t́nh tốt đẹp, rất có lư. Sau này, tôi thấy trong
Phật giáo c̣n hoàn thiện hơn nữa, bảo vệ cái
tâm từ bi. Phật giáo bảo vệ ba điều, vệ
sinh, vệ tánh, lại c̣n vệ tâm. Cách ăn uống
như vậy mới là viên măn. Tôi hiểu rơ điều
này, chẳng mê tín chút nào. Tôi phải chọn lựa cách
ăn uống tốt nhất ḥng bảo vệ thân thể
của chính ḿnh. Vệ sinh, vệ tánh, vệ tâm; v́ lẽ
này, dường như là sau khi đă tiếp xúc Phật
pháp sáu tháng, tôi bèn chọn lựa cách ăn chay. Khi đó,
tôi c̣n đi làm trong công sở, bếp ăn tập thể
cũng được lắm, họ chiếu cố rất
chu đáo. Chúng tôi ăn chay, họ chỉ cho chúng tôi một
món. Người ăn chay không nhiều lắm! Do vậy,
phải hiểu v́ sao phải bỏ [ăn mặn], đối
với thân thể chúng ta, những thứ ấy chẳng
có lợi cho lắm!
Phải
bỏ tiền tài, v́ sao? Hễ tham tài, quư vị sẽ tạo
rất nhiều ác nghiệp. V́ sao suốt đời Thích
Ca Mâu Ni Phật chẳng dựng đạo tràng? Các tín
đồ cúng dường, mọi người đều
biết, cúng dường [những nơi] như Trúc Lâm tinh
xá, Kỳ Thụ Cấp Cô Độc Viên. Quư vị phải
thấy cho rơ: Sản quyền (產權, quyền sở hữu tài sản), chủ quyền
vẫn thuộc về họ, giống như nói như thế
nào? Đức Phật mượn dùng! Khi ta không dùng, sẽ
trả lại quư vị. Đấy là đúng, thật sự
chẳng có tài sản. Chẳng có tài sản sẽ không
vướng mắc, chẳng phải lo sầu! Trong hàng tín
đồ, chẳng có ai tranh chấp, chẳng có thứ ǵ
để tranh giành, quư vị thấy cái tâm của quư vị
thanh tịnh lắm chứ! Hiện thời, chánh phủ
đề xướng “tâm tịnh,
tâm an, tâm b́nh”, đức Phật đă làm được.
Chỉ cần quư vị có tài sản, sẽ có kẻ tranh
chấp. Những thứ ấy phiền phức lắm!
Quư vị c̣n lo âu, vướng mắc! Quư vị phải
tham cứu thấu triệt những đạo lư này, sau đấy
mới hiểu chính ḿnh phải học tập như thế
nào!
Đời
này, tôi học Phật đă năm mươi lăm năm,
bắt đầu từ lúc hai mươi sáu tuổi,
đă năm mươi lăm năm rồi! Giảng kinh, dạy
học bốn mươi tám năm, tôi chẳng có đạo
tràng, chẳng có nơi cư trú. Đạo tràng là của
người khác, chỗ ở là được cho mượn
sử dụng. Tôi vừa mới nói đó, sản quyền,
quyền sở hữu thuộc về người khác. Chỗ
tôi đang ở hiện thời tại Hương Cảng
là của bà cụ Trần. Bà cúng dường, bất luận
tôi ở bao nhiêu ngày, bà đều hoan hỷ. Tôi chẳng ở,
sẽ trả lại bà ta. Thanh tịnh, tự tại! Chẳng
phải là của tôi. Nhà của bà cho tôi ở, chỉ trao
ch́a khóa cho tôi. Đóng thuế nhà chi đó là chuyện của
bà ta, tôi đều chẳng biết, ngay cả điện
nước, tiền điện thoại đều do bà ta
trả, tôi chẳng phải bận tâm mảy may. Đấy
là ǵ? Đức Phật dạy chúng tôi, thuở ấy, Thích
Ca Mâu Ni Phật trụ tại Trúc Lâm tinh xá, hoặc trụ
tại Kỳ Thụ Cấp Cô Độc Viên, có tánh chất
như vậy. Như thế th́ có thể tiếp nhận.
Chứ nếu bà ta tặng căn nhà này cho tôi, đă hại
tôi rồi! Tôi xuất gia, bà lại tặng cho tôi một
cái nhà, tôi phải bận tâm cỡ nào? [Nếu tôi nhận cái
nhà ấy], mắc lừa mất rồi! Quư vị sẽ
khổ sở!
Thầy
Phương dạy tôi “học
Phật là sự hưởng thụ cao nhất trong cuộc
đời”, tôi suốt đời cảm kích thầy
đă vạch ra một con đường tốt đẹp
như thế. Không ai có thể nêu ra, thầy dạy tôi, tôi
tiếp nhận. Suốt đời quư vị chẳng bận
ḷng, chẳng có một tí chuyện ǵ phải quan tâm, cái tâm
thanh tịnh lắm, cái tâm vui sướng lắm! Trong tâm
chẳng có ưu lự, chẳng có phiền năo, chẳng có
vướng mắc, chẳng có gánh nặng, thân lẫn tâm
đều chẳng có gánh nặng. Do vậy, thật sự
giải thoát. Việc làm mỗi ngày là đọc kinh, dạy
học, quư vị nói có vui sướng lắm hay không! Suốt
ngày từ sáng đến tối đều là dạy học,
ai tới nói chuyện với tôi cũng đều là dạy
học. Hai người tṛ chuyện với nhau đều
là dạy học, đều là khuyên nhủ, bảo ban, chẳng
dính dáng tiếng tăm, lợi dưỡng!
Cận
đại, chúng ta thấy một tấm gương, thầy
Lư thường muốn tôi học tập theo vị ấy.
Học Phật phải t́m một tấm gương; trong
thời cận đại, thầy dạy tôi học theo Ấn
Quang đại sư. Hành trạng cả đời của
Ấn Quang đại sư thật sự giống như Thích
Ca Mâu Ni Phật, là một gương mẫu thật tốt
cho chúng ta. Học theo Ngài như thế nào? Từ Văn
Sao! Hiện thời đă có in toàn tập. Hằng ngày đọc
sách của Ngài, hằng ngày nghe giáo huấn của Ngài,
đó là đúng. Hằng ngày đọc [Văn Sao] là hằng
ngày theo Ngài, tôi chẳng có ngày nào rời khỏi Ngài. Hằng
ngày đọc kinh, chẳng rời Phật. Hằng ngày
đọc Văn Sao, chẳng rời khỏi thầy. Trong
ấy có nhiều nỗi vui sướng; niềm vui ngũ
dục, lục trần làm sao có thể sánh bằng!
Người
thế gian mê luyến ở nơi đây, cho nên “đương nguyện chúng sanh,
bạt trừ dục tiễn” (nguyện cho chúng sanh, nhổ
bỏ mũi tên tham dục). Ngũ dục, lục trần,
tiếng tăm, lợi dưỡng; đấy là những
thứ bên ngoài, là những thứ hết sức bất hảo,
có thể dẫn khởi tập khí phiền năo tham, sân, si,
mạn trong A Lại Da của quư vị. Bên trong đă có chủng
tử, tức là có chủng tử của tập khí phiền
năo; những thứ bên ngoài là ngoại duyên. Chúng là duyên bất
thiện, duyên phiền năo. Chủng tử và duyên kết hợp,
bèn dấy lên hiện hành. Hễ hiện hành, sẽ rất
đau khổ. Quư vị chẳng dẹp trừ những thứ
ấy, tâm làm sao có thể an cho được? Lẽ
đâu có thể thanh tịnh cho được? Lẽ nào có
thể b́nh đẳng cho được? Quư vị phải
nghiêm túc dẹp trừ nó; sau đấy, quư vị mới
thấu hiểu niềm vui của Khổng Tử, Nhan Hồi,
niềm vui của đức Thế Tôn. Đoàn thể của
đức Thế Tôn to như vậy, đại chúng có niềm
vui, niềm vui ấy là ǵ? Trong Luận Ngữ có một câu
nói rất hay: “Học nhi thời
tập chi, bất diệc duyệt hồ” (Học rồi
thường xuyên tập luyện, cũng chẳng vui sao?)
Rất khó thấu hiểu được! Giống như
chúng tôi vừa nêu tỷ dụ. Quư vị thật sự
ăn món ăn ấy, mới biết hương vị của
nó. Chẳng ăn, sẽ không hiểu, chỉ nh́n sẽ
không được!
Hiện
thời đang làm chuyện Phật học, Phật học
là quư vị nh́n, chứ không nếm! Cổ nhân nói là “kể chuyện ăn, đếm
của báu”, chính ḿnh chẳng
có phần! Nhất định là phải khế nhập; trong
khế nhập, sẽ có rất nhiều nỗi vui sướng.
Sự vui sướng v́ đạo ấy chẳng thể
diễn tả được, kẻ khác chẳng có cách nào
thấu hiểu! V́ thế, sau khi tôi đă khế nhập cảnh
giới, mới hiểu được câu nói “học nhi thời tập chi”
trong Luận Ngữ! “Học”
(學) là học hỏi, “tập” (習) là thực
hiện, “tập” là làm
được. Toàn bộ những ǵ quư vị đă học
đều làm được, vui sướng lắm!
Chư
vị đồng học, nay tôi khuyên mọi người học
Đệ Tử Quy. Nếu học được Đệ
Tử Quy, sẽ vui sướng khôn sánh! Bản thân quư vị
vui sướng, cả nhà quư vị ḥa thuận, khẳng
định là quư vị sẽ cảm hóa người trong
nhà. Nếu quư vị lại có thể thấu hiểu Phật
pháp, người trong nhà quư vị rất khó buông xuống
ngũ dục, quư vị có gia đ́nh, phải làm như thế
nào? Hăy nhạt bớt, giảm thiểu, chớ nên quá nồng
đậm! Phải giảm thiểu ngoại duyên, trong kinh
văn thuộc phần sau có nói đến chuyện này. Ví
như nhà nào trong hiện thời cũng đều có TV,
đối với các tiết mục TV, phải chọn lựa!
[Những tiết mục có tánh chất] bạo lực, t́nh
dục, quyết định không xem. Chuyện này quan trọng
lắm! Những thứ chánh đáng th́ có thể xem, bớt
xem những thứ như tin tức. V́ sao? Cổ nhân nói: “Biết chuyện ít, ít điều
phiền năo. Quen nhiều người, lắm nỗi thị
phi”. Chẳng cần thiết, quư vị mong biết nhiều
như thế để làm ǵ?
Tôi
đă hơn bốn mươi năm chẳng xem TV, chẳng
nghe radio, nhật báo, tạp chí thảy đều không tiếp
xúc, hơn bốn mươi năm! V́ thế, đối với
cuộc sống trên thế giới, người khác hỏi
đến, [tôi đều thưa]: “Thiên hạ thái b́nh, chẳng
có chuyện ǵ”. Do không biết, nên chẳng có chuyện ǵ,
thiên hạ thái b́nh. Họ hằng ngày tiếp xúc, suốt
ngày từ sáng đến tối bận ḷng, sống cuộc
đời nhọc nhằn quá! Tôi ở Cát Long Ba (Kuala
Lumpur), ông Mă Cáp Địch (Mahathir) hỏi tôi một câu
cũng rất thú vị. Ông ta hỏi: “Thầy điều
ǵ cũng chẳng tiếp xúc, thứ ǵ cũng chẳng
xem, dường như là chuyện ǵ thầy cũng biết?”
Tôi đáp: “Đúng thế, chuyện trọng yếu th́ tôi
biết”. “Biết bằng cách nào?” Rất nhiều đồng
học đến kể cho tôi biết. V́ thế, tôi có những
tin tức từ chỗ này! Các đồng học không nói với
tôi, tôi sẽ không biết. Nhưng số lượng những
điều tôi biết rất ít. Một tuần thỉnh
thoảng có mấy lần như thế, chẳng phải
là hằng ngày đều có. Đôi khi suốt cả tuần,
chẳng có chuyện chi hết!
V́
thế, ở đây, tôi phải trịnh trọng thưa
cùng các đồng học, xin mọi người hăy thứ
lỗi. Chư vị đừng nên viết thư cho tôi,
tôi không trả lời thư. Các vị cũng đừng
nên gọi điện thoại, tôi không nghe điện thoại.
Tâm của quư vị mới có thể thanh tịnh. Quư vị
đến chỗ này thăm hỏi, nhất định là
tôi sẽ tiếp kiến quư vị, nhưng thời gian tiếp
kiến cũng có hạn. Đấy là quư vị phải
thường xuyên bảo vệ “giác,
chánh, tịnh” của chính ḿnh. Đối với những
ngoại duyên, các duyên bất hảo ấy, quư vị phải
biết tránh né như thế nào, kể cả chuyện
ăn uống, sinh hoạt của chính ḿnh.
Tôi
suy ngẫm, hiện thời đối với chuyện
ăn uống, sinh hoạt, nói thật thà, vẫn là “giữa
trưa ăn một bữa” là tốt nhất. Một là bớt
việc, hai là có lợi cho sức khỏe của thân thể.
Thầy thuốc kiểm tra, thân thể tôi chẳng có bệnh
tật ǵ, đặc biệt nhắc nhở tôi: “Pháp sư
à! Thân thể thầy chẳng thể tẩm bổ, hễ
tẩm bổ là hỏng!” V́ thế, tôi mong mọi người
đừng nên tặng thuốc bổ cho tôi. Tặng các thứ
thuốc bổ, tôi đều dùng làm quà để tặng
lại cho người khác. Chư vị phải biết điều
này. Ngoài chuyện ăn uống thông thường ra, tôi
không ăn những thứ lặt vặt. Trong quá khứ uống
nước, hiện thời uống chút trà, nhưng trà
cũng rất nhiều, các nơi đều biếu tôi trà.
Trà uống không hết, tôi đều dùng làm quà biếu lại
người khác. Cuộc sống hết sức đơn
giản!
Suốt
đời tôi giữ cho “danh
tương xứng thực”. Khi xuất gia, sư phụ
đặt cho tôi pháp danh Tịnh Không. Tôi thường suy gẫm,
ta có thanh tịnh hay không? Ta có phải là Không hay chăng?
Danh và thực phải tương xứng. Danh và thực chẳng
tương xứng, người ta gọi tên quư vị
chính là chửi quư vị đấy. V́ sao? Quư vị chẳng
làm được. Cái tên ấy hay lắm! Thứ ǵ
cũng đều phải buông xuống, buông xuống mới
tự tại, buông xuống th́ trí huệ sẽ hiện tiền.
Trí huệ của con người là b́nh đẳng. Do hết
thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng
của Như Lai, [cho nên] b́nh đẳng. Cớ sao có trí huệ
chênh lệch chẳng đều? Nguyên nhân là do [mỗi người]
buông xuống nhiều hay ít khác nhau! Kẻ hoàn toàn chẳng
buông xuống được th́ chính là ngu si! Chẳng có trí
huệ! Nhưng người thế gian có phước báo,
chúng ta thấy rất rơ ràng, chẳng có trí huệ. Họ
có phước báo là do tu từ đời trước. Ngay
cả kinh Cổ Lan (Q’uran) của đạo Hồi cũng
nói: “Chân Chúa (Allāh) dựa
theo tiền định để sáng tạo vạn vật”.
Allāh sáng tạo người này, người này suốt
đời hưởng phước. Tạo ra kẻ khác, kẻ
khác suốt đời chịu tội. Vậy th́ chẳng
phải là Allāh rất thiếu công bằng ư? Chẳng
phải vậy! Allāh đă nương theo tiền định,
“tiền định” chính là
nghiệp do quư vị đă tạo trong đời quá khứ!
Trong đời quá khứ tạo điều thiện, Allāh
bèn cho quư vị hưởng phước. Trong đời
quá khứ đă làm chuyện bất thiện, Allāh bèn cho
quư vị chịu tội. Rất có lư! Nói kiểu ấy khiến
cho chúng ta thật sự tâm phục, khẩu phục. Allāh
lại khích lệ chúng ta, trong một đời này, nhất
định phải đoạn ác tu thiện, tích lũy
công đức, chẳng khác lời đức Phật dạy!
V́ vậy, quư vị quan sát kỹ càng kinh điển của
thánh hiền, [sẽ thấy] những chỗ mâu thuẫn rất
ít, chỗ dung thông quá nhiều. Những quan điểm trọng
yếu đều dung thông.
Tôi
thường nói “tôn giáo là một
nhà, tất cả các tôn giáo là người một nhà”. Ở
Nhật Bản, tôi đă nói điều này với những
vị nhân sĩ thuộc giới tôn giáo tại Nhật Bản.
Những người tôi được tiếp xúc đều
là các vị Phương Trượng, Trụ Tŕ của các
chùa miếu, đều là những vị lănh đạo tôn
giáo rất có địa vị, tôi khuyên họ: “Các tông phái
Phật giáo bất đồng hăy đối xử ḥa thuận
với nhau, người một nhà mà!” [Phật giáo] Nhật
Bản có mười ba tông phái, kinh điển để
căn cứ của mỗi tông phái đều do Thích Ca Mâu
Ni Phật đă nói, do Thích Ca Mâu Ni Phật truyền lại.
Giống như một cặp cha mẹ sanh dưỡng
mười ba đứa con. Nếu con cái bất ḥa, quư vị
nói xem cha mẹ thương tâm cỡ nào? Mười ba tông
phái chẳng qua lại với nhau, Thích Ca Mâu Ni Phật mỗi
ngày ứa lệ, các vị có biết hay không? Sai mất rồi!
Anh em phải tương thân tương ái, phải hỗ
trợ hợp tác. Tôi khích lệ họ [như thế
đó]! Đối với các tôn giáo bất đồng th́
sao? Tôi nói các tôn giáo bất đồng là anh em bên nội bên
ngoại của chúng ta, có phải chiếu cố hay không?
Phải chiếu cố! Làm sao có thể chẳng qua lại
cho được? Làm sao có thể bài xích cho được?
Quư vị chẳng học thông suốt!
Tôi
qua lại cùng các tôn giáo bất đồng, tôi nói với họ:
- Tôi có lư luận cơ sở. Cơ sở là ǵ vậy? Tôi
đọc kinh của quư vị c̣n nghiêm túc hơn các vị
nữa. Tôi mở Kinh Thánh ra, tôi là tín đồ Cơ Đốc
hoặc tín đồ Thiên Chúa giáo kiền thành. Tôi thật sự
học theo quư vị, rất tôn kính quư vị, th́ tôi mới
học được điều này lẽ nọ. Nếu
nói “đây là ngoại đạo, tham khảo nó”, ngay cả
những điều hời hợt bề ngoài quư vị cũng
chẳng học được! Tôi đọc kinh Cổ
Lan, tôi là tín đồ đạo Hồi kiền thành, tuyệt
đối chẳng khác ǵ đọc kinh Phật, tôi mới
có thể thâm nhập, mới có thể thấu hiểu, mới
có thể đối xử với họ dung hợp như
thế ấy. Tôi có thể giảng kinh điển của
quư vị, tôi có thể giảng chỗ nào cũng hợp
đạo, tôi có thể giảng khiến cho quư vị cũng
gật đầu, cũng sanh ḷng hoan hỷ. Đại học
Hồi giáo tặng tôi học vị Tiến Sĩ chẳng
uổng công!
Thật
sự làm, thật sự học, sau đấy mới hiểu
thông suốt hoàn toàn pháp thế gian và xuất thế gian. Cổ
đại đức thường nói: “Một kinh đă thông, hết thảy các kinh đều
thông”. Không chỉ là thông suốt hết thảy các kinh
trong Phật môn, mà [kinh điển của] tất cả
các tôn giáo đều thông. V́ sao? Kinh Hoa Nghiêm nói rất hay, hết
thảy chúng sanh và hết thảy vạn vật trong hư
không pháp giới, [đều là] do tâm hiện thức biến.
“Duy tâm sở hiện, duy thức
sở biến”. Cái tâm tánh “có thể hiện” (năng hiện)
là một, cái thức “có thể biến” (năng biến)
cũng là một, cho nên “mười
phương ba đời Phật, cùng chung một Pháp Thân”,
há lẽ nào chẳng thông? V́ thế, vũ trụ là hài ḥa,
vốn là hài ḥa. Tinh hệ là hài ḥa, địa cầu là hài
ḥa, vạn vật là hài ḥa. V́ sao bất ḥa? Đă mê th́ sẽ
bất ḥa, giác th́ sẽ hài ḥa; chỉ là do liên quan đến
giác hay mê. V́ thế, giáo dục Phật giáo, giáo dục tôn
giáo chẳng có chi khác, đều nhằm giúp cho hết thảy
chúng sanh phá mê, khai ngộ. Người ta chỉ cần giác
ngộ, mối quan hệ giữa con người với
nhau sẽ là cư xử hết sức tốt đẹp,
thật sự là tương thân tương ái, tôn kính lẫn
nhau, hợp tác lẫn nhau, mâu thuẫn nẩy sanh ở chỗ
nào?
V́
thế, tổ tiên trong năm ngàn năm của Trung Hoa
đă rất thông minh, đúng là thánh nhân, biết lấy “giáo học làm đầu”. Bất
luận là gia đ́nh, bất luận là ḍng họ, gia
đ́nh lấy giáo học làm đầu, ḍng họ lấy giáo
học làm đầu, xă khu lấy giáo học làm đầu,
huyện thị lấy giáo học làm đầu, quốc
gia lấy giáo học làm đầu, giáo học được
xếp hàng đầu. Đ̣i hỏi học tṛ phải thực
hiện từ chính bản thân ḿnh. Nhất định phải
làm từ chính ḿnh! V́ thế, cổ thánh tiên hiền nói: “Tự thiên tử dĩ chí ư
thứ nhân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bổn” (Từ
thiên tử cho đến thường dân, nhất loạt
lấy chuyện tu thân làm gốc). Giáo học đ̣i hỏi
mọi người phải biết tu thân làm gốc, thiên hạ
sẽ thái b́nh, thế giới này sẽ là thế giới Cực
Lạc, thế giới này sẽ là thế giới Hoa Tạng.
Hoa Tạng, Cực Lạc chẳng hai, chẳng khác với
Sa Bà. Quư vị phải hiểu khác biệt ở chỗ
nào, chẳng khác biệt ở chỗ nào, phải hiểu
rơ ràng, phải hiểu minh bạch. “Rốt ráo an ổn” chính là thế giới Hoa Tạng.
A! Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng tôi nói tới
chỗ này!
Tập 1504
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi
xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười
một, xem bài kệ thứ năm.
(Kinh)
Kỹ nhạc tụ hội, đương nguyện chúng
sanh, dĩ pháp tự ngu, liễu kỹ phi thật.
(經)妓樂聚會。當願眾生。以法自娛。了妓非實。
(Kinh: Kỹ nhạc tụ hội, nguyện cho
chúng sanh, dùng pháp tự vui, hiểu nhạc chẳng thật).
Nay
chúng ta gọi Kỹ (妓) là biểu diễn, ca múa, biểu diễn hư kịch
trên quy mô lớn. Nhạc (樂) là âm nhạc.
Chúng ta hiểu “tụ hội”
(聚會) giống như dạ tiệc văn nghệ trong hiện
thời, có quy mô lớn. Nhạc theo quy mô lớn, được
gọi là “nhạc giao hưởng”, một nhạc đoàn
hay nhạc đội lớn có từ mười mấy
đến mấy chục người. Từ xưa tới
nay, tại Trung Hoa, đă dùng chuyện này để giáo học.
Cổ thánh tiên vương dụng tâm hết sức chu
đáo. V́ lănh thổ quá rộng, dân cư đông đúc, vào
thời cổ chẳng có trường học, những
trường học do quốc gia sáng lập rất hữu
hạn. Mỗi quận huyện lập một trường,
[việc học hành] thật sự trở thành quy chế
là vào đời Hán.
Trước
nhà Hán, giáo dục tại Trung Hoa là giáo dục trong gia
đ́nh, nhưng chẳng phải là giáo dục trong xă hội
không được biết đến! Quốc gia biết,
những người thuộc các tầng lớp lănh đạo
đều biết, những người già đều hết
sức coi trọng. Đó gọi là “ngụ giáo ư nhạc” (寓教於樂, ngầm dùng nhạc để dạy, hoặc những
ư nghĩa giáo dục đều được chứa
đựng trong nhạc). Do vậy, cổ nhân nói “tiên vương chí đức yếu
đạo” (đức tột cùng, đạo trọng
yếu của tiên vương). Trong phần trước, chúng
ta đă đọc điều này, đă trích dẫn. Thanh
Lương đại sư đă trích dẫn. “Chí đức” (至德) là giáo dục luân lư, “yếu
đạo” (要道) là giáo dục đạo đức. Phương thức
giáo dục đạo đức quan trọng nhất là
dùng phương thức ǵ để giáo hóa chúng sanh? Dùng lễ nhạc, dùng phương cách
như thế nào? Chính là cái được chúng ta gọi là
“biểu diễn văn nghệ,
dạ tiệc văn nghệ” trong hiện thời, dùng
phương pháp này! V́ thế, gặp dịp lễ tết,
mừng lễ, do mọi người đoàn tụ
trong những dịp ấy, tạm thời ngưng làm việc
để xem biểu diễn. Phương thức biểu
diễn quá nhiều, bao gồm cả những tṛ tạp kỹ
trong ấy. Thể loại diễn xướng nghệ thuật
tại Trung Hoa rất nhiều, là loại nghệ thuật
nhân gian. Soạn lời ca, phổ nhạc đều là những
văn sĩ, xác thực là họ đă đều
được giáo dục đàng hoàng. V́ thế, quư vị
thấy những lời ca, cũng như những câu đối
thoại, những lối diễn xướng trong các tuồng
hát đều hết sức văn nhă. Lại c̣n có ư
nghĩa giáo dục rất sâu trong ấy, dùng phương
thức này để giáo hóa thính chúng. Thính chúng từ
xưa tới nay, cho đến đầu thời Dân Quốc
cũng giống như thế. Người dân ở nông
thôn không biết chữ, nhưng họ hiểu đạo
lư làm người. Họ biết “hiếu, đễ, lễ, nhạc”, họ học
từ chỗ nào? Học từ những chỗ này, chúng ta
nói là “nghệ thuật dân gian”,
học từ những chỗ này. Đó gọi là giáo dục
xă hội.
Nghệ
thuật dân gian đủ màu đủ vẻ rất nhiều.
Từ xưa tới nay, nó có một nguyên tắc chỉ
đạo cao nhất, tức là “tư
vô tà” (思無邪, chẳng nghĩ tà vạy) như Khổng Tử đă
nói. Bất luận dùng phương thức biểu diễn
nào, cũng chẳng thể khiến cho thính chúng có tà tư,
tà niệm; [hễ có tà tư, tà niệm] th́ sai mất rồi!
Nguyên tắc chỉ đạo này xác thực đă
được thực hiện hơn hai ngàn năm tại
Trung Hoa, đến một trăm năm gần đây mới
suy thoái, dần dần biến chất, phong thái ngày càng
đi xuống. Chúng ta học theo Âu Tây, [nghệ thuật biểu
diễn của] Âu Tây xác thực là giải trí, chẳng có ư
nghĩa giáo dục trong ấy, [nội dung toàn là] cuồng
hoan, đáng ngại quá! Phong khí xă hội hiện thời bại
hoại, ai phải chịu trách nhiệm? Đương
nhiên là do quốc gia sơ sót, chẳng tận hết chức
trách, chẳng chế định pháp luật nghiêm ngặt
để hạn chế. Chuyện này cũng có nỗi phiền
phức! Hiện thời, dân chủ tự do cởi mở,
nhân dân từ trên xuống dưới đúng là chỉ mong
cầu lợi, toàn nh́n vào mục tiêu lợi lộc, luân lư
đạo đức đă chẳng c̣n, ai c̣n nghĩ đến
luân lư đạo đức?
Người
hiện thời nghĩ tưởng lợi ích cá nhân của
chính ḿnh, tuyệt đối chẳng nghĩ đến lợi
ích của kẻ khác, xác thực là “tổn người, lợi ḿnh”. Nếu [là kẻ]
có lương tâm, gây tổn thất cho người khác c̣n
có chừng mực. V́ sao? Chẳng hại người khác.
Hiện thời, tiêu chuẩn này chẳng c̣n nữa! Trong sự
gây tổn thất cho người khác, ắt sẽ hại
người, thậm chí hại mạng. Đáng kinh hăi quá!
Rơ rệt nhất là thuốc men. Trong giới y dược
bèn bán thuốc giả, thuốc giả sẽ khiến cho
người ta mất mạng! Quư vị bán thuốc kiếm
được bao nhiêu tiền, nhưng uống thuốc ấy
vào, tối thiểu là chẳng trị hết bệnh,
cũng đừng nên hại người, như vậy th́
vẫn c̣n có một tí lương tâm. Hiện thời, chẳng
có đạo đức, “tôi bán cho quư vị thuốc giả,
quư vị uống vào sống hay chết, chẳng ăn nhằm
ǵ đến tôi! Miễn sao tôi kiếm được tiền!”
Quư vị nói xem xă hội kiểu ấy c̣n làm sao được
nữa! Phong khí ấy đă h́nh thành, từ nay về sau,
chúng tôi chẳng thấy có dấu vết cải thiện,
chẳng trông thấy. Nếu c̣n phát triển như vậy,
đáng kinh hăi quá, rất đáng sợ! Mười năm
sau, không chỉ là thuốc men, sợ rằng ngay cả thức
ăn cũng đều trở thành vấn đề. Thế
giới này c̣n có thể sống được nữa hay
chăng? Người trong thế giới này c̣n có thể sống
sót nữa hay chăng?
Khi
xưa, nói chung là ba bốn mươi năm trước,
khi tôi thân cận thầy Lư để học Phật. Tôi
thân cận lăo nhân gia lúc ba mươi mốt, ba mươi hai
tuổi, hơn bốn mươi năm trước. Thuở
ấy, lăo nhân gia thường bảo chúng tôi: “Người
hiện thời đáng thương, ba bữa cơm đâu
có phải là ăn cơm! Ba bữa cơm là uống thuốc
độc”. Gạo luôn xen tạp những
chất hóa học. Gạo đẹp mắt, nh́n rất
đẹp đẽ. Người hiện thời chỉ nh́n
bề ngoài. Rau dưa trông rất đẹp mắt, tống
vào đó cả đống thuốc sát trùng. Tôi nghe người
bán rau nói với bạn thân “rau này chẳng thể ăn”,
ăn rau ǵ? Chính họ tự trồng rau cho chính ḿnh ăn,
trồng tách biệt hẳn. Rau họ bán cho người
ngoài đều tưới đẫm thuốc sát trùng, c̣n
họ ăn rau không tưới thuốc. Đó là giữ
tấm ḷng ǵ vậy? V́ thế nói “ba bữa cơm đều là uống thuốc độc”!
Ăn chay cũng chẳng thể tránh khỏi! Do đó,
trong xă hội hiện thời, có khá nhiều căn bệnh
kỳ quái, bệnh do đâu mà có? Bệnh từ miệng
vào. Chúng ta uống nước, biết là trong nước
máy ở thành thị luôn có các chất thuốc hóa học [để
khử trùng]. V́ thế, tiêu độc sát khuẩn, độc
bị tiêu, vi khuẩn bị giết, nhưng bản thân nó
(nước máy) cũng là chất độc, chẳng phải
là nước thanh khiết thật sự! Hiện thời,
rất khó uống được nước thật sự
thanh khiết. Các nhà khoa học ngoại quốc đă báo
cáo, mấy năm nữa, có thể là trong không khí cũng có
chất độc. Quư vị nói xem, làm sao sống
được cơ chứ!
Chúng
ta xem bài kệ này, liên tưởng đến rất nhiều
vấn đề. Có ai chẳng hy vọng sống cuộc
đời rất hạnh phúc, rất vui sướng? Thông
thường, công việc rất vất vả, vào dịp
lễ tết, ngày nghỉ, tín ngưỡng tôn giáo, tín
ngưỡng dân gian, trong tôn giáo có rất nhiều ngày lễ,
trong phong tục dân gian, khi tụ hội trong lễ lạc
tôn giáo thông thường, trước kia quá nửa là đều
hát tuồng tạ thần (cúng tạ thần) đă phù hộ
cho nơi ấy b́nh an. Nói thật ra, chánh phủ không chỉ
chẳng ngăn cấm, mà c̣n rất tôn trọng, cũng rất
ra sức giúp đỡ. V́ sao? [Những hoạt động
ấy có tác dụng bổ trợ] thúc đẩy giáo dục
xă hội, nhờ vào cơ hội ấy khiến cho đại
chúng từ trong sự giải trí, vui chơi, có thể học
được “hiếu, đễ, trung, tín”, có thể học
được “lễ, nghĩa, liêm, sỉ”, có thể học
được “thiện ác báo ứng”. Đấy là chuyện
tốt. Trung Hoa từ xưa tới nay, giáo dục luân lư, giáo
dục đạo đức, giáo dục nhân quả, và giáo
dục tôn giáo, đều dùng phương thức này để
thúc đẩy. V́ thế, kẻ không biết chữ vẫn
hiểu lễ, biết làm người, biết làm như
thế nào để thành một người tốt. Hiện
thời, tuy khoa học kỹ thuật phát triển, trường
học mở ra san sát khắp nơi; trên thực tế,
đâm ra hiệu quả chẳng bằng cổ nhân. Chuyện
này đáng khiến cho chúng ta suy nghĩ sâu sắc.
Bồ
Tát thấy sự tụ hội ấy, bèn phát đại
tâm, “đương nguyện
chúng sanh, dĩ pháp tự ngu, liễu kỹ phi thật”
(nguyện cho chúng sanh, dùng pháp để tự vui, hiểu
rơ kỹ nhạc chẳng thật). Trong ấy có ư nghĩa
rất ư là sâu! Người giác ngộ, người học
Phật, hiểu điều ǵ? Biểu thị pháp. Thiện
Tài đồng tử tham học năm mươi ba lần,
thành tựu viên măn trong một đời, Ngài tu như thế
nào? Thưa cùng chư vị, Ngài tu phẩm Tịnh Hạnh.
Một trăm bốn mươi mốt nguyện này đều
được thực hiện hoàn toàn trong cuộc sống
hằng ngày, Ngài hiểu cách biểu thị pháp. Kỹ nhạc,
tụ hội là biểu thị pháp, phải như thế
nào? Người giác ngộ thưởng ngoạn trong ấy.
Người khác thưởng ngoạn nội dung mừng,
giận, buồn, vui trong ấy, thấy những điều
ấy; c̣n người tu đạo thưởng ngoạn,
sẽ tu ǵ? “Phàm những ǵ có
tướng đều là hư vọng”, học “Không Hữu bất nhị,
Tướng có, Thể không, Sự có, Lư không”, họ tu những
điều ấy. Từ ngay nơi tướng mà ĺa
tướng, họ biết: “Hết
thảy các pháp vô sở hữu, rốt ráo không, chẳng thể
được”. Cùng thưởng ngoạn ca múa như
nhau, cùng xem nghe một vở tuồng như nhau, quư vị
thấy mỗi người cảm nhận khác nhau. Phàm phu
có sự cảm nhận của phàm phu, đạo nhân (người
tu đạo) có sự cảm nhận của đạo nhân,
chẳng giống nhau!
Từ
năm mươi ba lần tham học cuối kinh Hoa Nghiêm,
chúng ta thấy những vị đại thiện tri thức
đại diện cho bốn mươi mốt địa
vị Pháp Thân đại sĩ, tức là hàng Pháp Thân Bồ
Tát. Các Ngài trụ trong Nhất Chân pháp giới, thuần chân,
vô vọng, thuần tịnh, vô nhiễm. Nhất Chân pháp giới
ở nơi đâu? Ở ngay tại nơi đây, là xă hội
hiện thực của chúng ta. V́ sao chúng ta sống trong thế
giới Sa Bà Kham Nhẫn nhằm đời ác ngũ trược?
Thật ra, hoàn cảnh ô trược ở chỗ nào? Chẳng
hề ô trược! Do ư niệm của quư vị ô trược,
tâm quư vị ô trược, hoàn cảnh bên ngoài biến thành
vặn vẹo. Trong các buổi giảng, chúng tôi đă nhắc
tới đạo lư này rất nhiều. Nếu tâm địa
của quư vị thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần,
cảnh giới của quư vị sẽ là thứ đẹp
đẽ nhất. Giống như từ thí nghiệm với
nước của tiến sĩ Giang Bổn Thắng, từ
chỗ này, có thể đạt được sự chứng
minh bằng khoa học. Ta dùng cái tâm thanh tịnh đối
với một chén nước, nó sẽ hiển lộ kết
tinh hết sức tốt đẹp. Giống như vậy,
hai người chúng ta ở cùng một chỗ, quư vị
dùng cái tâm ô nhiễm, tâm oán hận đối với nó, nó sẽ
phản ứng bằng cách hiện ra kết tinh cũng rất
xấu xí. Nước chẳng có tâm!
Nếu
quư vị hiểu đạo lư này, thế giới này là cơi
Phàm Thánh Đồng Cư, có Bồ Tát trụ trong thế
gian này, cũng có A La Hán trụ trong thế gian này. Tại Trung
Hoa, chư vị đọc Tam Muội Thủy Sám sẽ biết,
tôn giả Ca Nặc Ca là A La Hán, trụ tại Tứ Xuyên.
Quư vị đọc truyện kư của Pháp Chiếu đại
sư, sẽ thấy Sư ở núi Ngũ Đài thấy Đại
Thánh Trúc Lâm Tự của Văn Thù Bồ Tát. Ở nơi
đó, nghe Văn Thù Bồ Tát giảng kinh, Sư c̣n hướng
về Văn Thù Bồ Tát thỉnh giáo (thuở ấy
đă bước vào thời Mạt Pháp). Thời kỳ Mạt
Pháp, căn tánh của con người ngày càng độn, tu
pháp môn ǵ tốt nhất? Văn Thù Bồ Tát dạy Sư
tu pháp môn Niệm Phật. Cách niệm Phật như thế
nào? Văn Thù Bồ Tát c̣n niệm mấy tiếng cho Sư
nghe. Sư học hiểu, về sau, không tham Thiền nữa,
đổi sang niệm Phật, trở thành tổ sư của
Tịnh Độ Tông, là tổ sư đời thứ
tư của Tịnh Độ Tông. Trong Tịnh Tông, Sư
được gọi là Ngũ Hội Pháp Sư. Ngũ Hội
Niệm Phật là do Văn Thù Bồ Tát dạy cho Sư,
nhưng thật ra, Ngũ Hội Niệm Phật đă bị
thất truyền!
Trong
thời Dân Quốc, có những vị pháp sư biên soạn
Ngũ Hội Niệm Phật Phổ. Ba mươi năm
trước, lần đầu tiên tôi đến
Hương Cảng giảng kinh, đă trông thấy [nhạc
phổ ấy]. Ở Trung Hoa Phật Giáo Thư Quán có vài bản.
Tôi thỉnh một quyển đem về Đài Loan in lại,
có thể phối hợp với nhạc phổ để
xướng tụng, rất êm tai. Tôi nghe xong, bảo: - Đây
chẳng phải là [cách niệm Phật] do thiền sư
Pháp Chiếu truyền lại. V́ sao? Âm điệu niệm
Phật do Bồ Tát truyền dạy nhất định là
có thể nhiếp tâm, khiến cho quư vị nghe xong, chính quư
vị niệm, sẽ có thể niệm đến mức đạt
được cái tâm thanh tịnh. Ngũ Hội Niệm Phật
kiểu này chẳng phải, nó thuộc loại âm nhạc
hiện thời, nghe hay lắm, rất sướng tai,
nhưng chẳng thể đạt được cái tâm
thanh tịnh. Có lợi ích hay chăng? Có chứ! Lợi ích ở
chỗ nào? Tiếp dẫn kẻ sơ cơ. Có nghĩa là
trong các dịp lễ lạc, ăn mừng, có thể dùng
để biểu diễn nhằm tiếp dẫn kẻ
sơ cơ. Người không học Phật nghe thấy,
nhất định là sẽ rất hoan hỷ. V́ thế,
dùng nó để tiếp dẫn, được lắm. Nếu
chúng ta thật sự tu niệm Phật, cầu nhất tâm
bất loạn, tâm chẳng điên đảo, xoang điệu
ấy chẳng dùng được! Chúng ta phải hiểu
rơ chuyện này, phải biện định rơ ràng! Tôi
cũng cho làm rất nhiều đĩa Ngũ Hội Niệm
Phật nhằm tiếp dẫn kẻ sơ cơ.
“Dĩ pháp tự ngu” (Dùng pháp
để tự vui), quư vị thật sự hiểu ư
nghĩa biểu thị pháp. Sáu căn của chúng ta tiếp
xúc cảnh giới lục trần, không có ǵ chẳng phải
là biểu thị pháp. Nếu quư vị hiểu toàn bộ ư
nghĩa biểu thị pháp, sẽ nhập cảnh giới
Hoa Nghiêm. Sáu căn tiếp xúc tướng sáu trần sẽ
chẳng mê. Chẳng mê là khai ngộ. Chẳng tà, sẽ
đắc chánh tri chánh kiến. Chẳng nhiễm, sẽ
tăng trưởng cái tâm thanh tịnh, thanh tịnh
tăng thượng! Phải là người như thế
nào th́ mới hiểu thấu sự biểu thị pháp? Phương
pháp tốt nhất là đọc nhuần nhuyễn kinh Hoa
Nghiêm; thật đấy, chẳng giả tí nào! Người
đọc nhuần nhuyễn kinh Hoa Nghiêm sẽ hiểu!
Khi sáu căn tiếp xúc sáu trần xứ, quư vị đều
có thể chuyển biến cảnh giới, sẽ giống
như ở đây. Có thể tham gia các cuộc tụ hội
vui chơi hay không? Có thể tham gia! Ca hát, khiêu vũ thảy
đều có thể tham gia. Trong giới kinh, đức Phật
ngăn cấm tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, sa-di, sa-di-ni chẳng
được tham dự. V́ sao? Họ chẳng hiểu sự
biểu thị pháp, chẳng đủ Định Huệ,
t́nh chấp rất nặng. Ở những nơi chốn
giải trí, họ chẳng sanh trí huệ, mà sanh phiền
năo. Phiền năo ǵ vậy? Mừng, giận, buồn, vui, nẩy
sanh những thứ ấy. V́ thế, đức Phật phải
ngăn cấm.
Đối
với Đại Thừa Bồ Tát th́ không ngăn cấm;
trong năm mươi ba lần tham học ở phần
sau, đều có [những trường hợp Thiện Tài
vào chốn tụ hội, ăn chơi][2].
Chẳng ngăn cấm hàng Đại Thừa Bồ Tát, v́
sao? Đại Thừa Bồ Tát biết “liễu kỹ phi thật” (hiểu rơ kỹ nhạc
chẳng thật). Ngài biết “Tướng
có, Tánh không, Sự có, Lư không”; v́ thế, quyết định
chẳng bị ô nhiễm. Ở trong ấy, Ngài nâng cao Tam Học
Giới, Định, Huệ của chính ḿnh. Giới, Định,
Huệ được thành tựu từ chỗ này. Từ
năm mươi ba lần tham học trong phần sau, quư vị
sẽ thấy. Biết như thế nào? Nhiễm và tịnh
chẳng hai, chân và vọng như một. Ở trong cảnh
giới ấy, thật sự nhập pháp môn Bất Nhị.
“Nhập pháp môn Bất Nhị”
chính là hàng Pháp Thân Bồ Tát từ Sơ Trụ trở lên,
vượt trỗi Nhị Thừa, vượt trỗi Quyền
Giáo. Nói cách khác, vượt trỗi mười pháp giới,
làm sao có thể giống họ cho được? Huống
hồ Hoa Nghiêm lại là pháp Nhất Thừa, vượt trỗi
Đại Thừa. Không chỉ là [vượt xa] Tiểu
Thừa, mà c̣n vượt trỗi Đại Thừa, là
pháp Nhất Thừa, là pháp thượng thượng thừa.
Chúng
ta vừa mới nói “Tam Học
Giới, Định, Huệ tăng thượng”. Giới
dạy chúng ta “chớ nên xem
nghe ca múa, những thứ tụ hội”, là nói về
chuyện này. V́ sao Bồ Tát tham gia, chẳng phải là Ngài đă
phá Bồ Tát giới ư? Chẳng có! Quư vị nói theo Luật
Nghi Giới th́ dường như Ngài chẳng tuân thủ
Luật Nghi Giới. Nhị Thừa có Định Cộng Giới,
Bồ Tát có Đạo Cộng Giới. V́ quư vị c̣n có vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, đức Phật
chế định khá nhiều giới luật: Điều
nào có thể làm, điều nào chẳng thể làm. Chẳng
thể làm, [thường gọi là] “chỉ tŕ” (止持), quyết định cấm ngặt! Điều nhất
định phải làm, sẽ gọi là “tác tŕ” (作持). Quư vị ngẫm xem, Đại Thừa Bồ Tát vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước thảy
đều đoạn, Ngài c̣n cần những thứ ấy
hay sao? Ngài chẳng phạm thứ ǵ, v́ sao? Kinh Kim Cang
đă nói rất hay, “vô ngă tướng,
vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả
tướng”. Thử hỏi ai phạm giới? Ai tŕ giới?
Tŕ và phạm đều chẳng có! Đó gọi là “tŕ giới viên măn”. Quư vị
c̣n có tŕ và phạm, nếu phỏng theo cách nói của Lục
Tổ đại sư, sẽ là tŕ giới và phạm giới
là hai pháp. “Hai pháp chẳng phải
là Phật pháp, Phật pháp là pháp bất nhị”. Lục
Tổ nói sai rồi ư? Chẳng sai! Như vậy là ǵ?
Đó là nói về những vị mà ta thường gọi
là “bậc đắc đạo”,
họ đă phá tứ tướng và tứ kiến. Kinh Kim
Cang nói: “Vô ngă kiến, vô nhân kiến,
vô chúng sanh kiến, vô thọ giả kiến”. Tâm họ
đạt tới “giác, chánh, tịnh”,
quyết định là thanh tịnh bất nhiễm, quyết
định là chánh tri, chánh kiến, quyết định là giác
chứ không mê. Phải hiểu rơ đạo lư này!
Chúng
ta có thể học hay không? Phải tùy thuộc công phu của
chính ḿnh. Nếu thấy những thứ ấy mà c̣n dấy
động cảm t́nh; “dấy
động cảm t́nh” là ǵ? Nó sẽ dẫn khởi tập
khí phiền năo trong A Lại Da Thức; sau khi xem xong, sẽ
khiến cho tham, sân, si bùng lên. Vậy là chẳng được
rồi, quư vị phải né tránh. Chúng ta là kẻ sơ học,
chẳng chống nổi sự dụ dỗ, mê hoặc, chỉ
có cách xa ĺa. Đấy là chánh xác, thánh hiền thế gian và
xuất thế gian đều dạy chúng ta như vậy.
Bản thân chúng ta biết căn tánh của chính ḿnh chẳng
phải là bậc thượng thượng thừa,
cũng chẳng phải là bậc thượng thừa. Tôi
liễu giải chính ḿnh là căn tánh trung hạ; v́ thế,
thầy dạy tôi phương pháp ngẫm ra rất có lư: “Chẳng
đọc nhật báo, không xem tạp chí, không xem TV, không
nghe radio”. Những thứ ấy là ǵ? Đều thuộc
loại kỹ nhạc. Xa ĺa chúng! Như vậy th́ cái tâm sẽ
thanh tịnh.
Kế
đó, câu thứ ba là “dĩ
pháp tự ngu” (dùng pháp để tự vui). Câu này nhằm
nói với ta. Cảnh giới của ta rất thấp, chẳng
cao! “Pháp” ở đây là Phật
pháp, pháp của thánh hiền. Mỗi ngày đọc sách thánh
hiền, mỗi ngày niệm kinh, mỗi ngày cùng các đồng
tu đạo hữu thảo luận Phật pháp, đàm luận,
tôi coi chuyện ấy là vui. Đúng như ba câu trong đoạn
thứ nhất ở phần đầu Luận Ngữ: “Học nhi thời tập chi, bất
diệc duyệt hồ” (Học rồi thường
xuyên tập luyện, cũng chẳng vui sao); đấy
chính là “dùng pháp để tự
vui”. “Hữu bằng tự
viễn phương lai, bất diệc lạc hồ”
(Có bạn từ phương xa đến, cũng chẳng
vui sao). Đấy cũng là “dùng
pháp để tự vui”. Giống như trong cuộc tụ
hội hai tiếng đồng hồ ngày hôm nay, có đồng
tham đạo hữu đông đảo ngần ấy tụ
hội ở chỗ này để học tập phẩm Tịnh
Hạnh của kinh Hoa Nghiêm, “dùng
pháp để tự vui”. Căn tánh trung hạ nhất
định phải đi theo đường này.
Đến
khi cảnh giới của chúng ta đă tăng tấn, chúng
ta có nên đi xem, thưởng thức hay không? Phật pháp nói
đến duyên. Ví như hiện thời giao thông nhanh chóng,
thuận tiện, sự nghiệp du lịch phát triển.
Trước kia chẳng có, hiện thời hết sức
phổ biến. Chúng ta tổ chức một đoàn sang ngoại
quốc du ngoạn, trong khi ngắm cảnh, viếng
thăm, có lúc cũng phải đến những chỗ vui
chơi. Lần đầu tiên tôi đến
Mỹ theo Vạn Quốc Đạo Đức Hội, vầy
đoàn với họ. Họ xin visa cho tôi, tôi đi với họ.
Vạn Quốc Đạo Đức Hội mở đại
hội đại biểu lần thứ ba tại Lạc
Sam Cơ (Los Angeles), mời tôi làm cố vấn, tôi
đi theo đoàn của họ. Trong chương tŕnh của
họ có tiết mục đến Lạp Tư Duy Gia
Tư (Las Vegas), là chỗ ṣng bài của Mỹ, [đến
thăm] ṣng bài nổi tiếng. Tôi chẳng thể nói không
đi, đành đi cùng với họ, đến thăm
ṣng bài. Họ đi chơi bài, tôi chẳng chơi, đứng
xem họ [chơi bài]. Trong ấy có ca múa, biểu diễn,
tôi cũng cùng họ thưởng thức tại đó.
Đó là “tùy duyên, không phan duyên”.
Nếu bản thân chúng ta thường ưa thích những
thứ đó, quư vị sai mất rồi! Quư vị đi
theo đoàn thể, chẳng thể tách rời đoàn thể,
ở trong những trường hợp ấy, quư vị phải
ghi nhớ “dĩ pháp tự ngu”
(dùng pháp để tự vui sướng). Nhưng nh́n vào
[những nơi chốn ấy], sẽ có lợi cho việc
hoằng pháp lợi sanh của chúng ta. V́ sao? Liễu giải
trạng huống xă hội trong hiện thời. Xem nhiều,
nghe nhiều, liễu giải nhiều ḥng nghiên cứu cách
đối trị như thế nào!
Chúng
dạy điều ǵ? Xác thực là “giết, trộm, dâm, dối”.
Chúng ta liễu giải trạng huống xă hội, sẽ
hiểu, giáo dục luân lư đạo đức, giáo dục
tôn giáo, giáo dục nhân quả đều trọng yếu
hơn bất cứ ǵ khác! Trước kia, đối với
sự trọng yếu [của ba loại giáo dục ấy],
thấy cổ đại đức nói như thế, cái
tâm cảnh giác của chính ḿnh chẳng đủ; trong
Văn Sao, Ấn Quang đại sư thường đề
cập. Quư vị phải đích thân nh́n thấy, mới hiểu
chúng thật sự quan trọng, mới nghĩ đến
kinh giáo, mới suy nghĩ thấy giáo huấn của tổ
sư đại đức có dụng ư quá sâu, mới có thể
cảm nhận được! Nếu không, sẽ chẳng
thể cảm nhận! Thấy, nghe, rất sơ lược
lướt qua, chẳng ghim trong ḷng. Quư vị đích thân
thấy đủ loại, đủ vẻ, mới biết
cội nguồn động loạn của xă hội này!
Ṣng bài tạo tội rất nặng, nó khiến cho bao nhiêu
người khuynh gia bại sản. V́ sao người ta mê
cờ bạc ngần ấy? Đó là tâm lư ǵ thế? Nó
được tạo thành như thế nào? [Điều này]
khiến cho chúng ta suy nghĩ cặn kẽ, [sẽ thấy
nguyên do là v́] con người có cái tâm “ưa nhàn nhă, ghét nhọc
nhằn”. Nếu đánh bạc mà thắng, sẽ kiếm
tiền quá dễ dàng, dễ dàng hơn bất cứ loại
kinh doanh nào! Nhưng họ cũng biết “mười người
đánh bạc, chín người thua”; họ cứ ngỡ họ
thuộc loại may mắn! [Dẫu đúng là] “mười
người đánh bạc, chín người thua”, họ sẽ
thắng! Có cái tâm lư cầu may như thế đó. Đến
cuối cùng, chẳng có ai không thất bại. Sự tai hại
của tâm lư cầu may, hy vọng “chẳng tốn công mà
được hưởng”, tuyệt đối chẳng
thua tham, sân, si. Chúng ta nói “giết, trộm, dâm”, [cái hại
do tâm lư cầu may gây ra] tuyệt đối chẳng thua giết,
trộm, dâm.
Nói
cách khác, trong ṣng bài, “giết, trộm, dâm” thảy đều
đầy ắp, hết sức đáng sợ! Một ḿnh
chúng tôi, nói thật thà, tôi không dám bước vào. Tôi đi
theo đoàn thể gồm bốn năm chục người
đến ngoạn cảnh, ngắm nh́n. Tôi vào thăm hai ṣng
bài, thứ nhất là ṣng bài ở Las Vegas nước Mỹ,
quy mô rất lớn. Thứ hai là ṣng bài Vân Đỉnh ở
Mă Lai, quy mô khá nhỏ, cũng là do các đồng tham đạo
hữu khi tổ chức đoàn du lịch đă dẫn tôi
đi xem. Ở trong gia đ́nh, hiện thời những thứ
kỹ nhạc tụ hội gần như nhà nào cũng có,
chính là TV. Mỗi tối, ngồi trước máy TV xem phim nhiều
tập, hoặc là xem [truyền h́nh trực tiếp những]
dạ hội liên hoan, các tiết mục ca múa âm nhạc.
Quư vị xem xong, xem nghe kỹ càng, nội dung trong ấy là
ǵ? Có tương ứng với nguyên tắc chỉ đạo
của Khổng lăo phu tử hay không? Nguyên tắc của
phu tử là “tư vô tà” (chẳng
nghĩ tà vạy).
Những
thứ ấy có ư nghĩa giáo dục luân lư đạo đức
chánh đáng hay không? Hay là phản diện, hoàn toàn phá hoại
giáo dục luân lư đạo đức? Nếu quư vị
nói nó chẳng phải là giáo dục, sai mất rồi. Nó
chính là giáo dục! TV là giáo dục, Internet là giáo dục, nhật
báo tạp chí thảy đều thuộc loại giáo dục
xă hội. Quư vị thấy chúng có nội dung giáo dục là
ǵ; sau đấy, quư vị mới hiểu v́ sao thế giới
hiện thời rối loạn dường ấy? Do dạy
dỗ mà ra. Quư vị dạy họ những ǵ? Nếu luôn
có thể tuân thủ nguyên tắc chỉ đạo của
Khổng phu tử, xă hội sẽ chẳng nẩy sanh các
vấn đề! “Tư vô tà”:
Ngôn từ nhất định chẳng tà, hành vi nhất
định cũng chẳng tà, xác thực là chánh tri chánh kiến.
Ngôn hạnh, cử chỉ đều là chánh ngôn, chánh hạnh.
Xă hội sẽ tốt đẹp ngần ấy. V́ thế,
giáo dục luân lư đạo đức, giáo dục nhân quả,
giáo dục xă hội đă khiến cho quốc gia dân tộc
cư xử ḥa thuận trong suốt năm ngàn năm.
Cư xử ḥa thuận là do dạy dỗ mà ra! Hiện thời,
toàn thể xă hội động loạn cũng là do dạy
dỗ mà ra! Tùy thuộc quư vị dạy theo cách nào, quư vị
dùng thứ ǵ để dạy.
Chúng
ta học Phật, nếu muốn trong một đời
này, thật sự sống cuộc đời thanh tịnh,
hạnh phúc, có thể đạt được hay không?
Câu trả lời là khẳng định, có thể đạt
được! Quư vị ắt phải giữ vững
giáo huấn của thánh hiền, phải tin sâu nhân quả
báo ứng. Hai điều kiện ấy quan trọng
hơn bất cứ ǵ khác. Tin sâu giáo dục nhân quả, quư
vị sẽ tâm b́nh, khí ḥa, biết phú quư, cùng quẫn, hanh
thông trong một đời đều là mạng. Trong mạng
có, sẽ tự nhiên đạt được. Trong mạng
không có, đừng cưỡng cầu. Thật sự có thể
“chẳng tranh với người,
chẳng mong cầu nơi cơi đời”, tâm quư vị sẽ
b́nh lặng lắm! Cuộc sống với cái tâm b́nh lặng
dễ sống lắm.
Khi
xưa, tôi có lần giảng kinh ở Đài Bắc, sau khi
giảng xong, lúc trở về, ngồi xe taxi. Người
tài xế taxi nói với tôi: “Hiện thời rất khó sống!”
Tôi bảo ông ta: “Tôi thấy chẳng khó sống”. Ông ta hỏi:
“Sao vậy?” Tôi nói: “Chỉ cần ông chẳng tranh giành với
người khác. Ông hăy nghĩ xem, một bộ quần áo,
mặc cẩn thận th́ tối thiểu là có thể mặc
mười năm. Trong nhà ông mua tủ lạnh, ông dùng cẩn
thận th́ cũng có thể dùng mười năm”. Ông ta
suy nghĩ thấy cũng đúng. “Không nên thấy những
kiểu dáng mới mẻ [mà ham muốn mua sắm], mỗi
năm đều có kiểu dáng mới. Hiện thời,
khoa học kỹ thuật phát triển, cứ ba tháng sẽ
ra một kiểu dáng mới. Kiểu dáng mới ra đời,
[bèn nghĩ] những thứ kiểu cũ trong nhà chúng ta đáng
nên đào thải. Tuy chúng nó c̣n có thể tiếp tục sử
dụng rất nhiều năm, ông chẳng cần nữa,
mua thứ mới. Kiểu cọ quần áo cũng chẳng
đúng, không hợp trào lưu mới, ông phải chạy
theo thời trang. Như vậy là ông sẽ khổ sở, hằng
ngày phải liều mạng kiếm tiền. Nếu về
căn bản, ông không màng tới nó, ta dùng những thứ gia
cụ đă có từ lâu. Ta dùng đến khi không thể
dùng được nữa mới thay đổi, chẳng
phải là ông sẽ rất tự tại ư? Ông làm việc
một ngày có thể nghỉ ngơi hai ngày”. Ông ta suy ngẫm
thấy có lư lắm!
Bản
thân quư vị phải biết sống cuộc đời
vui sướng, chớ nên học đ̣i người khác.
Người ta nói “những món đồ của tôi lỗi
thời, người ta sẽ cười tôi!” Tôi thường
nói: “Cười quư vị ư? Cười chết người
th́ kẻ bị cười chết là họ, chứ quư vị
đâu có bị chết. Họ cười người
khác, cười chết luôn. Họ chết, ta chẳng chết”.
Sau khi quư vị đă thông hiểu đạo lư này, cái tâm sẽ
an. Tâm an lư đắc, đă hiểu rơ đạo lư rồi,
cuộc đời rất dễ sống. “Ông lái xe taxi, mỗi
tháng chỉ cần lái mười ngày, có thể dùng cả
tháng. Cần ǵ vất vả như vậy? Hoặc là ông
siêng năng lái suốt năm, làm một năm xong, tối
thiểu là ông có thể nghỉ một năm. Ông nói xem có
vui sướng lắm hay không?” Chẳng tranh với người,
chẳng cầu nơi đời. Con người phải
biết tiết kiệm, phải biết tiếc phước;
điều này rất quan trọng! Hiện thời, dễ
sống hơn xưa kia. Mỗi ngày tranh đua với kẻ
khác, hằng ngày cạnh tranh với kẻ khác, quư vị sẽ
khổ không thể nói nổi, sai mất rồi! Từ trên
cơi trời sanh xuống đây, chẳng phải là để
cạnh tranh với kẻ khác, chẳng phải là để
cho quư vị ganh đua với kẻ khác. V́ thế, quư vị
đă hiểu, sẽ sống cuộc đời rất
sung sướng, hết thảy tùy duyên, chẳng phan duyên.
Nếu quư vị hiểu đạo lư Phật pháp đôi
chút, hiểu giáo huấn của cổ thánh tiên hiền
đôi chút, sẽ vui sướng khôn sánh! Đối với
của cải, hăy bố thí cho nhiều, càng thí càng nhiều.
Pháp Bố Thí được thông minh, trí huệ. Vô Úy Bố
Thí được khỏe mạnh, sống lâu. Ba thứ ấy
quư vị đều có thể cầu được; cớ
sao không cầu? V́ sao hằng ngày cứ phải ganh đua,
tranh chấp với kẻ khác? Sai mất rồi! A, bây giờ
đă hết thời gian rồi, chúng tôi giảng tới chỗ
này.
***
Chư
vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Chúng ta xem
tiếp bài kệ thứ sáu kế đó.
(Kinh)
Nhược tại cung thất, đương nguyện
chúng sanh, nhập ư thánh địa, vĩnh trừ uế
dục.
(經)若在宮室。當願眾生。入於聖地。永除穢欲。
(Kinh: Nếu ở trong cung điện, hoặc nhà
cửa, nguyện cho chúng sanh, được vào thánh địa,
vĩnh viễn trừ khử uế dục).
“Cung” (宮) là cung điện. Cung và điện thường
được nói gộp chung, nhưng cung và điện có
sai khác. “Điện” (殿) là nơi làm việc, là chỗ để lo việc
công, là chỗ họp hành. “Cung”
là chỗ ở của cá nhân. Quư vị thấy hoàng cung ở
Bắc Kinh, phía trước là điện phủ, chính là nơi
để đế vương và các đại thần làm
việc. Đại điện, như điện Thái Ḥa, điện
Trung Ḥa, điện Bảo Ḥa[3]
đều là nơi nhóm họp, mở cuộc họp. “Cung” ở bên trong, là chỗ ở
riêng tư của đế vương, được gọi
là Cung. V́ thế, chỗ ở của vương hầu
đều gọi là Cung. Nay chúng ta gọi Cung là căn nhà lớn,
pḥng ốc rất nhiều, giàu có, lộng lẫy, nguy nga.
Chỗ ở của hàng b́nh dân được gọi là “thất” (室), nhà của dân chúng b́nh phàm gọi là Thất. Hiện
nay đang nhằm thời đại dân chủ, cho nên có thể
nói nhà của kẻ giàu có đều có thể nói là thuộc
loại cung điện, sang trọng, lộng lẫy, nguy
nga!
Ở
những chỗ ấy, tâm thái Bồ Tát chẳng giống chúng
ta. Các Ngài có thể thấy cảnh giới ấy mà quay về
tự tánh. “Cung thất” là
chỗ ở riêng tư của cá nhân, trong ấy, có người
nhà, quyến thuộc. Nói dễ nghe hơn, trong ấy có ân,
có ái; nhưng quư vị phải hiểu phản diện của
ân ái là oán hận. Xưa nay, trong ngoài nước đều
chẳng thể tránh khỏi, nhất là nơi cung thất
của vương hầu. Thời cổ, phi tần rất
đông, Trung Hoa hay ngoại quốc đều như nhau. Nói
theo kiểu bây giờ, vương hầu theo quy chế “một
chồng, nhiều vợ”. Hoàng đế có tam cung, lục
viện[4], c̣n
có bảy mươi hai phi tần. Một nam nhân sống
chung với nhiều nữ nhân ngần ấy, nếu chẳng
nẩy sanh oán hận, sẽ là chuyện chẳng thể nào
có! Ghen tỵ, oán hận khó ḷng tránh khỏi! V́ thế, Bồ
Tát biết nơi ấy chẳng phải là nơi chốn
sạch sẽ, [mà là chốn] “uế
dục”. Trông thấy điều này, chúng ta nghĩ đến
“thánh địa”. Thánh địa
là tự viện am đường trong tôn giáo, hoặc chỗ
cư trụ của bậc thánh hiền, chỗ giáo học
của bậc thánh hiền. Những nơi ấy đều
là thánh địa. Đây là tánh cảnh giác rất cao, hễ
trông thấy điều uế ác, bèn liên tưởng đến
thứ đối lập với chúng là thánh giáo. Đúng như
cổ đại đức đă nói “chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”.
V́ thế, người ấy có thể ǵn giữ “tịnh chứ chẳng nhiễm,
chánh chứ không tà, giác chứ không mê”, quư vị thấy
người ấy đă vận dụng Tam Quy, thật sự
quy y!
Chúng
ta vào những chỗ ấy, ví như hiện thời đến
Bắc Kinh ngắm cảnh, nhất định là sẽ
đến du ngoạn tại Tử Cấm Thành, viếng Cố
Cung. Quư vị có giống như Bồ Tát “đương nguyện chúng sanh, nhập ư thánh
địa, vĩnh trừ uế dục” hay không? Quư vị có nghĩ đến câu ấy hay không? Thời
thời khắc khắc đề cao cảnh giác; không nhất
định là khi đang xem hoàng cung. Thông thường mỗi
ngày về nhà, quư vị đều phải nghĩ đến.
Người Hoa thường nói “mỗi
nhà đều có một bản kinh vốn khó niệm”,
quyển kinh khó niệm ấy chính là “uế dục” đang nói ở đây, cũng có
nghĩa là nó dễ dẫn phát phiền năo nhất. Chỗ
vĩnh viễn bồi dưỡng tập khí phiền năo chính
là “cung thất”. Chư vị
nghĩ xem có đúng hay không? Do vậy, từ nơi phản
diện, hăy nghĩ đến đạo tràng thanh tịnh trang
nghiêm. Thánh địa là đạo tràng, là chỗ thánh nhân trụ,
là nơi chốn giáo học của thánh nhân.
Thời
cổ, chẳng có nhiều trường học ngần ấy.
Từ bút kư của cổ nhân, chúng ta đă thấy rất
nhiều, tuyệt đại đa số người
đọc sách đến đâu để đọc sách?
Đều đến tự miếu.
Trong tự miếu có tàng kinh lâu, hoặc tàng kinh các, tức
là “thư viện” như ta thường gọi trong
hiện thời. Không chỉ là có kinh Phật, mà sách vở
của ba nhà Nho, Thích, Đạo đều được
sưu tập, tàng trữ rất phong phú. Những tài liệu,
sách vở để tham khảo mà người đọc
sách cần đến [th́ trong tàng kinh lâu] đều có hết.
V́ thế, [nho sĩ] thuở trước đều đến
tự miếu để đọc sách. Không nhất định
là kẻ học Phật, mà đa số mọi người
đều thích đến chùa miếu đọc sách, hoàn cảnh
thanh tịnh mà! Trước kia, quả thực là những người
xuất gia có học vấn thật sự, Nho, Thích, Đạo
họ đều thông. Quư vị đọc sách, có thắc
mắc, thỉnh giáo họ, họ đều bằng ḷng
giúp đỡ quư vị. Có mở lớp dạy mọi người
hay không? Chuyện này chúng ta không biết, rất hiếm có
văn bản ghi chép rơ ràng, nhưng quư vị thỉnh giáo họ,
họ nhất định sẽ rất sốt sắng giảng
giải. Những vị cao tăng ấy Nho, Thích, Đạo
đều thông. [Giảng giải cho người khác] xét
theo Phật giáo, chính là hành Pháp Bố Thí. Trước kia, thông
thường là những người đọc sách, như
Tú Tài chẳng hạn, sau khi đă đậu Tú Tài, chuẩn
bị đi thi Cử Nhân, hoặc thi Tiến Sĩ, đều
chọn cách cư ngụ tại chùa miếu, hoàn cảnh
thanh u. Đọc sách ở nơi ấy, đợi đến
kỳ thi sẽ tham gia khảo thí. Đó là “nhập ư thánh địa”, thanh tịnh vô nhiễm.
Những điều này đều nói về cuộc sống
hằng ngày. Nhưng hiện thời chùa miếu thanh tịnh
vô nhiễm chẳng nhiều. V́ sao? Mở rộng cửa cho
khách du lịch ngoạn cảnh; [trào lưu này] do thời đại
h́nh thành, chẳng có cách nào tránh được!
Tôi
ở hải ngoại trong một thời gian rất dài. Năm
đầu tiên trở về, tại Bắc Kinh đến
thăm cụ Triệu Phác Sơ, được cụ coi
trọng, cụ tiếp đăi tôi cũng hết sức lễ
độ, thân thiết. Lần đầu tiên gặp mặt,
thời gian chúng tôi gặp mặt là hơn bốn tiếng
đồng hồ. Cụ mời tôi dùng cơm, phái đoàn
của tôi có đến mười mấy người, cụ
đều mời cả. Trong hội Phật giáo, bày hai cái
bàn, cụ cùng vợ, c̣n có thư kư của cụ, chúng tôi đàm
luận rất vui vẻ. Khi ấy, tôi bàn với cụ về
vấn đề tự, viện, am, đường. Tôi nói:
Hiện thời nhà nước mở rộng du lịch ngoạn
cảnh, những đạo tràng ấy đều là những
kiến trúc đă lâu ngàn năm, trăm năm, nhất
định là khách du lịch muốn đến [ngoạn cảnh].
Nói cách khác, những tự viện, am, đường ấy
c̣n có thể tu đạo hay không? Chẳng thể! Đă là
chẳng thể, sẽ chuyên môn làm địa điểm
để du lịch tham quan! A! Sẽ mang lại một khoản
thu nhập cho nhà nước, khoản thu nhập ấy cũng
kha khá. Nhưng phải bồi dưỡng, huấn luyện
chúng thường trụ trong chùa miếu thành hướng
dẫn viên du lịch, v́ du khách giới thiệu, giới
thiệu Phật pháp cho khách viếng thăm. Họ đến
nơi ấy, trước hết, quư vị giới thiệu
lịch sử của nơi ấy. Người ngoại
quốc thấy vậy cũng rất lấy làm lạ, lịch
sử của họ chẳng lâu xa như chúng ta. Sau đấy
mới giới thiệu Phật pháp. Phật là ǵ, giới
thiệu những vị Bồ Tát và sự biểu thị
pháp của các vị Bồ Tát, khiến cho họ hiểu rơ:
Phật giáo chẳng phải là đa thần giáo, chẳng
phải là tôn giáo cấp thấp, mà là giáo dục, là biểu
thị pháp.
Tôi
nêu ra một thí dụ để nói. Ví như quư vị bước
vào sơn môn. Thiên Vương Điện là kiến trúc
đầu tiên, chính giữa điện là Di Lặc Bồ
Tát (Bố Đại ḥa thượng) đối diện với
cửa chính. Quư vị vào cửa, sẽ thấy Ngài trước
tiên. Đấy là ǵ? Bài học đầu tiên khi vào cửa
Phật. Di Lặc Bồ Tát bụng rất to, cười
toe toét, biểu thị điều ǵ? Sanh tâm b́nh đẳng,
thành tướng hỷ duyệt! Con người đối
xử với nhau bằng một bầu hoan hỷ, vẻ
mặt phải tươi cười tiếp đăi người
khác, nhân duyên của quư vị mới tốt đẹp. Bản
mặt lạnh tanh, chẳng thèm quan tâm đến ai, ai muốn
quan tâm quư vị nữa? Xă hội cần hài ḥa, gia đ́nh
cần ḥa thuận, vẻ mặt tươi cười đón
tiếp người khác. Chuyện này quan trọng hơn bất
cứ điều chi khác, Ngài dạy quư vị chuyện này.
Bụng to biểu thị điều ǵ? Bao dung. Chuyện ǵ
cũng đều phải bao dung. Chớ nên so đo quá lố.
So đo th́ dù là người nhà cũng sẽ kết thành nỗi
oán hận, huống hồ người ngoài! V́ thế, khá
nhiều người chẳng biết những nỗi oán cừu
do đâu mà kết thành. Do nói năng hoặc thái độ
cố ư hay vô ư, khiến cho kẻ khác mất ḷng! Mất ḷng
bậc quân tử th́ chẳng sao. Họ hiểu lư, sẽ chẳng
để trong bụng. Mất ḷng phường tiểu
nhân, sẽ rất phiền phức! Kẻ tiểu nhân ghi hận,
nói chung là sẽ có một ngày họ sẽ báo thù, quư vị
sẽ bị phiền phức to lớn. Trong lịch sử,
những trường hợp như vậy rất ư là
nhiều!
Do
vậy, thầy dạy chúng tôi. Trong quá khứ, tôi ở Đài
Trung. Thầy Lư mở một lớp học kinh tại đó.
Tôi tham dự, có hơn hai mươi người theo học.
Có những người thật sự muốn học, nghe
lời, thầy đối với họ có đánh, có chửi,
bày ra bản mặt khó ưa đối với họ. C̣n
những kẻ chuộng mặt mũi, có ḷng tự tôn rất
cao, thầy Lư đối với loại học tṛ như vậy
hết sức khách sáo, chưa bao giờ thốt ra câu nói nào
quá đáng! Thuở ấy, tôi mới học, cảm thấy
rất lạ lùng. Thầy bảo tôi theo vào pḥng, đóng cửa
bảo (nhằm dạy tôi): “Người thật sự muốn
học, nếu anh không dạy họ, sẽ có lỗi với
họ. Kẻ chuộng thể diện, chẳng thể tiếp
nhận, anh chớ nên làm mất ḷng họ, hăy khách sáo. V́
sao? Họ trọn chẳng muốn học, hoàn toàn chẳng
phải là thật sự đến học, cần ǵ phải
kết oán cừu với họ?” Tôi mới hiểu rơ, đối
với học tṛ, quư vị cũng phải quan sát. Đúng như
Ấn Quang đại sư đă dạy, người ấy
có một phần thành kính, quư vị sẽ dạy một
phần, chẳng cần dạy hai phần. Người ấy
có mười phần thành kính, quư vị sẽ dạy
mười phần. Quư vị chẳng thể dạy chín
phần! Nếu quư vị dạy chín phần, sẽ có lỗi
đối với người ấy.
Thầy
quan sát căn cơ của tṛ, tṛ thuộc hạng người
như thế nào th́ dùng thái độ như thế ấy.
Chúng tôi mới hiểu rơ, hằng ngày quan sát thầy suốt
mười năm. “Quan sát”
là học tập theo thầy. Đạo lư ấy rất dễ
dàng, vài ngày là đă hiểu rơ rồi. Nhưng thực hiện
trong cuộc sống hằng ngày, xử sự, đăi người
tiếp vật, chẳng phải là chuyện dễ dàng như
vậy. Phải quan sát một thời gian dài, rèn luyện một
thời gian dài, quư vị mới hiểu được. V́
thế, có những kẻ ăn nói nghe chối tai, hễ nói
có lư th́ ta tiếp nhận; nói điều vô lư, ta không màng tới,
chẳng cần phải ghim trong ḷng, không ghi nhớ cừu
hận. Nhưng chúng ta nói cho người khác nghe, quư vị
phải quan sát, người ấy có thể tiếp nhận
bao nhiêu, có thể nín nhịn bao nhiêu, nhất định phải
biết. Hễ vượt qua mức độ bao dung, nhẫn
nại của họ, sẽ sanh oán, sẽ nẩy sanh oán hận,
phiền toái sẽ xảy đến. Kết oán rất dễ
dàng, hữu ư hay vô t́nh kết oán. Hóa giải niềm oán hận
cũng chẳng phải là chuyện dễ! Rất ít người
biết đạo lư này!
V́
thế, trong thế giới hiện thời, v́ sao oán khí nhiều
dường ấy? Tôi cũng thường nói: Chúng ta xử
sự, đăi người tiếp vật, bố thí ân
đức nhiều, hay là vẫn hữu ư, vô t́nh làm mất
ḷng kẻ khác nhiều hơn? Quư vị sẽ hiểu,
trong tương lai, khi quư vị cư xử trong cơi đời,
người tôn kính, yêu mến quư vị là nhiều hay ít,
người oán hận, t́m cách làm phiền quư vị sẽ
nhiều hay ít, quư vị sẽ hiểu rơ. Trong một đời
này, chúng ta xử sự, đăi người tiếp vật,
bố thí ân đức ít, kết oán nhiều, vậy th́ oán
thân trái chủ của quư vị sẽ nhiều. Trong tương
lai, kẻ báo ân rất ít, chẳng có mấy ai! Quư vị nói
có phiền phức hay không? Quư vị chẳng giác ngộ, trên
thế giới hiện thời, chẳng có ai dạy quư vị.
Trừ kinh Phật ra, quư vị đến nơi đâu
để học? Quư vị chẳng học được!
Phật tổ, tổ sư đại đức, không vị
nào chẳng dạy chúng ta nhất quyết đừng kết
oán cừu với người khác. Không chỉ là chẳng
thể kết oán cừu đối với con người,
mà đối với súc sanh cũng chớ nên kết, đối
với quỷ thần cũng chớ nên kết, toàn thể
sẽ gây phiền phức, nhân duyên quả báo chẳng sai sót
mảy may! Chớ nên không hiểu đạo lư này!
Đối
với bài học đầu tiên trong Thiên Vương Điện,
quư vị thật sự hiểu rơ, hăy giới thiệu điều
ấy với khách du lịch văn cảnh, họ sẽ hiểu
Phật giáo chẳng phải là mê tín. Dùng ǵ vậy? Dùng nghệ
thuật để dạy quư vị phải bao dung, phải
khoan hồng độ lượng đối với
người khác, phải tươi cười đón tiếp
người ta. Sự giáo dục ấy hay quá! Hai bên [tượng
Di Lặc Bồ Tát] là Tứ Đại Thiên Vương. [Vị
thứ nhất là] Đông Phương Tŕ Quốc Thiên Vương
(Dhṛtarāṣṭra,
Đề Đầu Lại Tra). Sự biểu
thị pháp của Ngài là biểu thị sự tận hết
chức trách, “tŕ quốc” (持國, duy tŕ, ǵn giữ đất nước). Trong xă hội,
quư vị lập thân như thế nào, chúng ta nói là “đứng
ở chỗ chẳng thất bại”. Quư vị phải biết
giữ bổn phận, chịu trách nhiệm. Trong xă hội,
quư vị theo đuổi nghề nghiệp nào, hăy thực
hiện rất tốt đẹp những chuyện thuộc
về bổn phận của chính ḿnh, cùng mọi người
hỗ trợ hợp tác, quư vị sẽ thành công. Chuyện
chẳng thuộc về bổn phận của chính ḿnh chẳng
cần hỏi đến, chẳng liên quan ǵ đến ta.
Ai nấy đều thực hiện tốt đẹp chuyện
thuộc về bổn phận của chính ḿnh, nhưng nhất
định phải biết hợp tác với mọi người.
Giống như trong thân thể của chúng ta, mắt chỉ
quản thấy, chẳng quản nghe, quản bổn phận
của chính ḿnh. Tai chỉ quan tâm nghe, chẳng bận tâm thấy.
Nếu mắt c̣n muốn xen vào nghe, thứ ǵ cũng đều
muốn quản, sẽ nẩy sanh rắc rối! Trong xă hội,
chúng ta có một công việc, hăy làm tốt công việc của
chính ḿnh, giống như trong một thân thể, mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, mỗi thứ có phạm vi công
năng [chuyên biệt], nhưng chúng có sự hợp tác mật
thiết, chẳng phải là không hợp tác, mà là hợp tác
mật thiết, chịu trách nhiệm, tận hết chức
trách.
Nam
Phương Tăng Trưởng Thiên Vương (Virūḍhaka, Tỳ Lưu Lặc Xoa), biểu thị sự tiến bộ như chúng ta đă
nói trong hiện thời. Hằng ngày đều phải có
tiến bộ, mỗi ngày một mới hơn. Nói theo Phật
pháp, sẽ là “tinh tấn không
ngừng”. Không chỉ là đạo đức của
quư vị phải tiến bộ, học thuật phải
tiến bộ, thậm chí cuộc sống vật chất
cũng phải tăng cao hơn. Nói như vậy có lư lắm!
Như thế nào th́ mới có thể hoàn thành hai chuyện
này? Làm thế nào để đạt được? Hai
điều ấy (tŕ quốc và tăng trưởng) là mục
tiêu của chúng ta. Tây Phương Quảng Mục Thiên
Vương (Virūpākṣa, Tỳ
Lâu Bác Xoa) và Bắc Phương Đa
Văn Thiên Vương (Vaiśravaṇa, Tỳ Sa Môn) nhằm dạy quư vị cách làm như thế nào?
Hăy xem nhiều, nghe nhiều, chẳng dạy quư vị nói
nhiều! “Xem nhiều” là như chúng tôi thường nói: “Đọc vạn quyển sách,
đi vạn dặm đường”, đến khắp nơi tham học. Tăng
trưởng trí huệ của chính ḿnh,
tăng trưởng kỹ thuật và năng lực của
chính ḿnh, quư vị mới thật sự có thể gánh vác
trách nhiệm, tận hết chức trách. Quư vị thấy
một bài học hay như thế đó, lấy đâu ra
mê tín? Nếu quư vị có thể giới thiệu [bài
học ấy] cho du khách. Du khách đến nơi đây là đă
đóng học phí, thật sự học được thứ
ǵ đó để đem về, họ sẽ rất hoan hỷ!
Trong
Phật giáo, mỗi vị Phật, Bồ Tát, mỗi vị
thần hộ pháp đều có ư nghĩa biểu thị pháp,
đều nhằm dạy người. Các Ngài chẳng phải
là thần minh, chúng ta phải hiểu điều này. Tôi nói
với cụ Phác Sơ [như vậy], cụ Phác Sơ
nghe nói rất vui thích. Tôi nói tất cả tự viện,
am, đường thảy đều trở thành địa
điểm du lịch, thật sự tu hành ở chỗ nào?
Tạo lập cái mới, lập đạo tràng, xây dựng
mới th́ chẳng cần phải xây theo h́nh thức chùa miếu.
V́ thuở ấy, tôi ở Mỹ, tôi bèn nói với cụ:
Những viện đại học ở Mỹ rất đáng
để bắt chước. Hiện thời, giao thông thuận
tiện, chẳng bế tắc giống như trước
kia. Hiện thời, do giao thông tiện lợi, mỗi một
tông, tức tám tông phái Đại Thừa và hai tông phái Tiểu
Thừa đều có thể khôi phục. Mỗi tông lập
một đạo tràng là đủ rồi. Trong mỗi đạo
tràng, chia thành hai bộ phận: Một là học hội, bộ
phận kia là học viện. Phải dùng danh từ mới,
chẳng dùng chữ “tự, viện,
am, đường”, không dùng danh từ cũ, dùng chữ
mới.
“Học hội” là đạo
tràng tu hành, “học viện”
là đạo tràng học tập, nghiên cứu các kinh giáo. Ví
như Tịnh Độ Tông của chúng ta có Tịnh Tông Học
Viện và Tịnh Tông Học Hội. Tịnh Tông Học Hội
là chỗ để mọi người cộng tu, Tịnh
Tông Học Viện là nơi nghiên cứu kinh giáo. Mỗi
tông đều tập trung vào một chỗ. Người học
theo tông ấy có thể đến đó, chỗ ấy sẽ
dần dần h́nh thành một thành thị. Thành thị này
được gọi là Tịnh Độ Tông, là Tịnh
Độ Thành; chỗ kia được gọi là Hoa Nghiêm
Thành, chỗ nọ là Thiên Thai Thành. Để Phật giáo thật
sự hưng vượng, hoàn toàn tạo dựng theo h́nh
thức trường học, chẳng cần theo kiểu
cung điện, hoàn toàn thoát khỏi h́nh thức ấy. Những
chỗ cũ đều để làm du lịch, ngắm cảnh,
chỗ mới dùng để khôi phục nền giáo dục
của đức Phật. Cụ Phác Sơ nghe nói rất
vui thích. Rất đáng tiếc, khi ấy, [chánh sách] tôn giáo
[tại Hoa Lục] vẫn chưa hoàn toàn cởi mở,
đồng thời cụ tuổi tác đă quá cao rồi!
Chúng tôi gặp mặt lần đầu, nói chuyện hơn
bốn tiếng đồng hồ. Tôi trở về Hương
Cảng. Các đồng học ở Hương Cảng
đều hết sức kinh ngạc. Cụ Phác Sơ thông
thường tiếp khách đều chẳng quá nửa tiếng.
[Họ cho rằng] chúng tôi là đồng hương, [cho nên
được cụ Phác Sơ tiếp đón] khác hẳn!
Từ sau khi quen biết, mỗi lần đến Bắc
Kinh, chúng tôi đều gặp mặt.
Năm
xưa, ở trong nước tôi có hai vị hộ pháp. Cụ
Triệu Phác Sơ là một, hiểu rơ tôi. Vị thứ
hai là lăo ḥa thượng Mính Sơn[5], đây
là một vị pháp sư giảng kinh, hết sức yêu thương
tôi. Hiện thời, cả hai vị đều khuất bóng
cả rồi! Đời người tri kỷ khó gặp,
chỉ có hiểu biết nhau sâu đậm, yêu thương
cũng sâu đậm. Mỗi lần, gặp mặt, cụ
Phác Sơ đều khuyên tôi: “Hăy trở về, lá rụng
về cội”. Tôi nhận lời, tôi nói: “Sớm muộn ǵ
nhất định tôi sẽ quay về, nói chung là tùy thuộc
duyên phận”. Thuở ấy, Chương Gia đại
sư dạy tôi “tùy duyên, đừng
phan duyên”. Đó là đúng. Nếu phan duyên, nhất định
phải làm như thế này, như thế nọ, quư vị
sẽ rất khổ. Hết thảy đều nghe theo sự
an bài của Phật, Bồ Tát, tôi cũng rất tự tại.
Cả đời tôi đều tùy duyên, quyết định
chẳng phan duyên. Điều này (bài kệ này) nhằm nói bất
luận ở nơi đâu, đều hiểu ư nghĩa biểu
thị pháp.
Do
tự viện, am, đường hiện thời đều
biến thành đạo tràng du ngoạn, thậm chí c̣n có nhiều
nơi tôi nghe nói lấy chuyện kinh sám pháp hội làm chánh
yếu, là một đạo tràng như vậy đó. Đạo
tràng thật sự cùng nhau cộng tu, tham Thiền, niệm
Phật, hoặc nghe kinh, nghe pháp ít lắm! Chúng tôi cũng
liễu giải t́nh h́nh này; không chỉ là riêng tại Trung
Hoa, mà trên cả thế giới cũng đều như thế,
ở Đài Loan cũng chẳng phải là ngoại lệ!
Do vậy, chúng tôi nghĩ nhất định phải lợi
dụng kỹ thuật cao cấp [để truyền bá Phật
pháp]. Phương pháp này cũng chẳng phải do chúng tôi
nghĩ ra, mà là do tiên sinh Phương Đông Mỹ dạy
tôi. Cụ bảo công cụ khoa học chẳng có thiện
hay ác, chẳng có đúng hay sai, thứ công cụ tốt như
vậy phải nên dùng để dạy học. Nếu nội
dung các tiết mục được phát h́nh là t́nh dục,
là bạo lực, là giết, trộm, dâm, dối, khiến
cho toàn thể xă hội rối ren; v́ sao chẳng dùng thiết
bị tốt đẹp như thế để hoằng dương
giáo dục luân lư đạo đức? Thầy Phương
nói với tôi lời ấy, tôi có ấn tượng ấy.
Nhưng chuyện này cũng phải có duyên. Giàn thiết bị
ấy cần chẳng ít tiền; thuở ấy, tôi vừa
mới xuất gia không lâu, một đồng c̣n chẳng có,
đâu dám nghĩ đến những thứ ấy! Muốn
có một cái quạt điện c̣n chưa dám mong. Dường
như thuở ấy tại Đài Loan, mua một cái quạt
điện phải mất ba bốn trăm đồng, chẳng
dám mong mỏi! Làm sao dám nghĩ đến giàn thiết bị
ấy?
Nhưng
tôi giảng kinh ở Đài Loan hai mươi năm, suốt
hai mươi năm mới có một đạo tràng, tức
là Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán. Đại
khái cũng to cỡ giảng đường của chúng ta
trên tầng mười một. Ở Đài Loan, [Đồ
Thư Quán] rộng năm mươi B́nh, là một chỗ
hẹp như vậy đó. Chúng tôi giảng kinh tại đó
chẳng lâu, đại khái là hai ba tháng, tại Nữu Ước
có một Hoa kiều đến đó gặp tôi, nghe kinh vài
lần, nghe rất hoan hỷ, hỏi ư tôi, muốn mời
tôi sang Nữu Ước giảng kinh. Đạo tràng của
chúng ta mới thành lập chẳng lâu, nếu tôi đi, [mọi
việc] sẽ phải đ́nh lại. Tôi nói “duyên chưa
chín muồi”, đồng thời, ra ngoại quốc th́ tôi
cũng chẳng có chi phí nhiều ngần ấy. Ông ta nói:
“Nếu chẳng được vậy th́ con có thể đem
băng thâu âm và thâu h́nh sang Mỹ”. Tôi nói: “Vậy th́ được,
nhưng tôi chẳng có thiết bị”. Bọn họ cũng
rất khó có. Sau khi quay về, bèn gởi cho tôi hai vạn Mỹ
Kim, giúp đỡ chúng tôi lắp đặt một bộ
thiết bị như vậy. V́ thế, chúng tôi đổi
Đồ Thư Quán thành Thị Thính (視聽,nghe, nh́n), thêm chữ Thị Thính, thành Hoa Tạng Phật
Giáo Thị Thính Đồ Thư Quán, [nguyên do] là như thế
đó.
Từ
Nhật Bản gởi về một giàn máy. Thời đó,
đài Hoa Thị (華視, đài truyền h́nh Trung Hoa) lắp đặt cho tôi.
Chủ nhiệm phân bộ tin tức của đài Hoa Thị
khi đó là bạn học của tôi. Ông ta chọn mua một
giàn máy từ Nhật Bản, cũng thuận tiện mua giùm
tôi một bộ. Thời ấy, giá cả đắt lắm,
dường như một giàn máy khoảng ba mươi vạn
đồng Đài Loan. Khi ấy mới có một giàn thiết
bị như thế, từ đấy, bắt đầu
thâu h́nh. Băng thâu h́nh và thâu âm chuyên cung cấp cho Nữu
Ước, Hoa Kỳ, gởi băng thâu h́nh giảng kinh sang
đó. Duyên khởi cội nguồn của việc thâu âm và
thâu h́nh là như thế đó. Nếu chẳng phải là do
người ta đến t́m chúng tôi, chúng tôi chẳng dám nghĩ
đến. Suốt đời, chúng tôi chẳng hóa duyên, chẳng
hướng về ai xin tiền, chẳng nghĩ chính ḿnh phải
làm như thế này, như thế nọ. Chẳng hề có!
Đều là duyên chín muồi, chuyện ấy sẽ
được thực hiện tốt đẹp. Duyên chẳng
chín muồi, chuyện ấy sẽ chẳng dễ thực
hiện! Tôi vừa mới nói trật rồi, một giàn máy
thuở ấy tính bằng tiền Đài Loan, giá mấy chục
vạn đồng Đài Loan. Tiền Đài Loan mấy chục
vạn, chứ tiền Mỹ chẳng nhiều như thế.
Thuở ấy, họ biếu tặng chúng tôi dường
như tất cả là hơn hai vạn Mỹ Kim. Món tiền
hơn hai vạn đồng cũng rất có giá trị, ở
Đài Loan rất có giá. Đây là lần đầu tiên có
thiết bị ấy. V́ thế, đạo tràng hiện thời
phải nên kiến lập trên không trung th́ mới có thể
sanh ra hiệu quả.
Thầy
Lư dạy tôi suốt đời phải học theo pháp sư
Ấn Quang. Pháp sư Ấn Quang suốt đời chẳng
thâu đồ đệ xuất gia, chẳng truyền giới,
chẳng lập đạo tràng. Tôi cảm thấy lăo nhân
gia thị hiện hết sức có lư. V́ sao? Thu nhận
đồ đệ, dựng đạo tràng phải bận
tâm, tâm chẳng dễ ǵ thanh tịnh được. Huống
hồ bản thân chúng tôi chẳng có phước báo! Kẻ
chẳng có phước báo, dẫu có cầu cạnh người
ta, người ta cũng không quan tâm đến quư vị! V́
thế, suốt một đời, Chương Gia đại
sư dạy tôi đi theo con đường giảng kinh,
giáo học. Trừ chuyện giảng kinh, giáo học ra, hết
thảy chẳng nghe, chẳng hỏi tới. Lập đạo
tràng ở Đài Bắc là do Hàn quán trưởng ra mặt,
bà ta đứng ra phụ trách, chịu trách nhiệm quản
lư. Tôi nói: “Được lắm! Các vị thực hiện,
tôi chỉ cần có chỗ để giảng kinh là
được rồi”. Đạo tràng được thành
lập như vậy đó, quy mô rất nhỏ. Đến
khi tôi rời khỏi Đài Loan, đạo tràng của chúng
ta phát triển, nếu theo cách tính diện tích của Đài
Loan, th́ là hai trăm năm mươi B́nh. Chúng ta chiếm
trọn một tầng [làm giảng đường], mua lại
những pḥng ốc ở tầng dưới để làm
liêu pḥng, làm pḥng ngủ cho khách, nhà bếp, pḥng ăn, mới
có quy mô như thế ấy, hai trăm năm mươi B́nh.
Một B́nh nếu nói theo mét vuông trong hiện thời, sẽ
là bốn mét vuông. Một B́nh là bốn mét vuông. Nói cách khác, tổng
diện tích là một ngàn mét vuông. Phát triển đến cuối
cùng, thành một chỗ to chừng đó. V́ thế là một
đạo tràng rất nhỏ.
Nhưng
do chúng tôi dùng băng thâu h́nh; thuở ấy, chúng tôi lưu
thông băng thâu h́nh, lưu thông băng thâu âm, dần dần
sanh ra ảnh hưởng. V́ thế, hiệu quả giảng
kinh được khuếch đại. Chúng tôi không phải
là chỉ có sách vở, hằng năm không ngừng in kinh, lưu
thông toàn thế giới. Hơn nữa, khi đó chúng tôi có băng
thâu âm, tức là băng thâu âm giảng kinh, có băng thâu h́nh,
lưu thông sớm nhất tại Đài Loan và ở ngoại
quốc. Mọi người sau khi được tiếp
xúc đều rất hoan hỷ. Về sau, duyên ở ngoại
quốc chín muồi, thường nghe thấy có những
đồng học mời mọc tôi. Do vậy, chúng tôi cũng
thừa dịp này đi xem thử để mở rộng
tầm mắt, mọi người nên hiểu nguyên do như
vậy. Nhất là trong hiện thời, đă phát triển
đến Internet, vệ tinh, là những chuyện chẳng
thể ngờ được! [Đăng tải những
video giảng kinh trực tiếp] trên Internet đến nay đă
tám năm, [phát sóng chương tŕnh truyền h́nh] vệ
tinh đă tṛn ba năm, khởi sự từ năm 2003. Chuyện
ǵ tôi cũng đều không biết, ai phát tâm thực hiện
tôi cũng không biết, nhưng nghe nói hiệu quả cũng
được lắm. Hiện thời, khắp toàn cầu
có thể đồng loạt tiếp sóng nghe được.
[Phát qua vệ tinh] th́ do họ phải đánh phụ đề
(caption) lên màn h́nh, nên ước chừng bị chậm trễ
một, hai tháng. Sau khi đă gắn phụ đề rồi
mới truyền ra ngoài. Đấy là nói đến “thánh địa”. Thánh địa,
thanh tịnh địa trong hiện thời là ở trên không
trung, chẳng ở trên mặt đất. Tuy nhục nhăn của
chúng ta chẳng trông thấy, nhưng có thiết bị tiếp
sóng, bất cứ lúc nào cũng đều
có thể cùng nhau học tập, thuận tiện hơn! Lại
xem bài kệ kế tiếp là bài thứ tám.
(Kinh)
Thượng thăng lâu các, đương nguyện chúng sanh,
thăng chánh pháp lâu, triệt kiến nhất thiết.
(經)上昇樓閣。當願眾生。昇正法樓。徹見一切。
(Kinh: Lên trên lầu gác, nguyện cho chúng sanh, lên lầu
chánh pháp, nh́n thấu hết thảy).
Thời
cổ, lầu gác ít ỏi. Thật sự là hàng vương
hầu, kẻ phú quư mới có thể dựng lầu,
thường dân chẳng có. Hiện thời, lầu rất
cao. Những ṭa cao ốc mấy chục tầng, cổ nhân
dẫu nằm mơ cũng chẳng dám nghĩ tới. Đây
là thuận theo khoa học kỹ thuật, văn minh vật
chất tăng tiến. Hiện thời, trên thế giới
đă có cao ốc cao hơn một trăm tầng. Ở Hương
Cảng, đại khái những nơi cư trụ thường
là [cao ốc] từ ba bốn chục tầng trở lên. “Thượng thăng lâu các”,
chẳng biết hằng ngày phải lên xuống bao nhiêu
lượt, có hồi quang phản chiếu, nghĩ chúng ta phải
“thăng chánh pháp lâu” hay không?
“Chánh pháp lâu” (lầu chánh pháp)
là ǵ? Tăng tấn cảnh giới của chính ḿnh. Cũng
có nghĩa là nâng cao đạo đức, học vấn, kỹ
năng của chính ḿnh, đó gọi là “thăng chánh pháp lâu”. V́ quư vị đứng ở
chỗ cao mới có thể thấy xa. Trong thơ của cổ
nhân có câu: “Dục cùng thiên lư mục,
cánh thượng nhất tằng lâu” (muốn thấy trọn
ngàn dặm, lên thêm một tầng lầu). V́ thế, quư vị
ở tầng cao nhất trong mấy chục tầng mới
có thể nh́n rất xa, “triệt
kiến nhất thiết” (thấy thấu triệt hết
thảy). Đấy là quư vị có trí huệ, có đạo
đức, có học vấn, mới có thể thấy các tầng
lớp khác nhau trong toàn thể xă hội, nhất là trong xă hội
hiện đại, thật sự rất cần bậc đại
đức nh́n xa trông rộng!
Trong
xă hội hiện thời, ai nấy thường nói đến
xung đột, đúng vậy, xung đột quá ư là nhiều.
Tôi thường nói đến sự xung đột trong gia
đ́nh, vợ chồng xung đột, cha con xung đột,
anh em xung đột, xung đột trong ṿng bạn bè, gần
như chẳng có ǵ không xung đột. Vua tôi cũng xung
đột, chủ nhân và công nhân viên chức xung đột,
thành ra xă hội ǵ vậy? Cứu văn bằng cách nào? Pháp luật
chẳng cứu được! Dẫu pháp luật quy định
nghiêm ngặt đến mấy đi nữa, bao nhiêu kẻ
thông minh vẫn t́m được kẽ hở pháp luật.
Báo thù chẳng thể giải quyết, hội nghị
cũng chẳng thể giải quyết. Chúng tôi đă đến
khắp nơi trên toàn thế giới để xem xét, đă
tham gia các hội nghị quốc tế, khiến cho chúng tôi
quay lại ngẫm nghĩ: Tổ tiên chúng ta có năng lực
ǵ để duy tŕ một dân tộc đông như thế,
một bản đồ quốc gia rộng ngần ấy
trong suốt năm ngàn năm, khiến cho nhân dân đối
xử ḥa thuận, dùng phương pháp ǵ vậy? Đạo
lư ǵ vậy? Chú tâm phản tỉnh, quan sát, tư duy, sẽ
thấy tổ tiên đă dạy mọi người: “Tu thân làm gốc, giáo học làm đầu”, chúng tôi mới hoảng nhiên
đại ngộ. Nhu cầu bức thiết trong xă hội
hiện thời chính là tám chữ ấy! Tám chữ ấy có
thể giúp chúng ta hóa giải tất cả xung đột, nhất
định là phải lấy “tu
thân làm gốc”.
V́
thế, trong những năm qua, chúng tôi đến khắp
nơi tặng chữ Ái trên toàn thế giới. Tôi có giải
thích đơn giản: Tặng chữ Ái th́ điều quan
trọng nhất là yêu thương chính ḿnh! Chính ḿnh chẳng
yêu thương chính ḿnh, quư vị chẳng thể yêu thương
người khác được! Đầu tiên là quư vị
phải học sao cho biết yêu thương chính ḿnh. Yêu
thương chính ḿnh là ǵ? Sách dạy vỡ ḷng cho trẻ là
Tam Tự Kinh mở đầu bằng câu: “Nhân chi sơ, tánh bổn thiện”. Nếu quư vị
có thể yêu thương chính ḿnh, tức là yêu cái bổn
thiện của quư vị! Bản tánh của ta vốn thiện,
chẳng có mảy may tà ác. Ta c̣n có tà ác, [tức là đă] trái
nghịch bổn thiện, chẳng biết yêu thương
chính ḿnh. Kẻ yêu thương chính ḿnh, nhất định
sẽ có thể quán triệt luân lư, nhất định sẽ
có thể tuân thủ đạo đức, nhất định
có thể tin sâu nhân quả. Đó là yêu thương chính ḿnh.
Đă yêu thương chính ḿnh, sau đấy mới có thể
yêu kẻ khác, mới có thể yêu xă hội, mới có thể
yêu thương quốc gia, mới có thể yêu hết thảy
chúng sanh. Lên lầu chánh pháp, thấy thấu triệt hết
thảy. A! Nay đă hết thời gian rồi, chúng tôi giảng
tới chỗ này!
Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 21 hết
[1] “Ngũ công” là cách người
Hoa diễn tả năm điều quy định chánh yếu
của tín đồ đạo Hồi, thường gọi
là Arkna al-Islam (thường được dịch sát theo từng
chữ là “các cột trụ trong đạo Hồi”), bao gồm
Shahada (tuyên bố đức tin. Tín đồ đạo Hồi
phải tuyên xưng “chỉ có một Chúa duy nhất là
Allāh và chỉ có Muhammad là sứ giả của Chúa”),
Salat (cầu nguyện, hướng về thánh địa
Mecca cầu nguyện năm lần một ngày), Zakat (bố
thí), Sawm (nhịn ăn trong mùa chay Ramadan, nhịn ăn
để sám hối chuộc tội), và Hajji (hành
hương đến thánh địa Mecca tối thiểu
một lần trong đời). “Ngũ
điển” là tên gọi khác của Ngũ Thường,
tức nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
[2] Chẳng hạn
như Thiện Tài đến gặp kỹ nữ Bà Tu Mật
Đa (vị thiện tri thức thứ hai mươi bảy).
[3] Thái Ḥa Điện
là điện lớn nhất trong hoàng cung của Bắc
Kinh, xây dựng từ niên hiệu Vĩnh Lạc thứ
tư (1406) đời Minh Thành Tổ, thoạt đầu
được gọi là Phụng Thiên Điện, đến
đời Gia Tĩnh đổi thành Hoàng Cực Điện,
sang thời Thuận Trị lại đổi thành Thái Ḥa
Điện. Thông thường, điện này c̣n được
gọi là Kim Loan Điện. Đây là nơi tượng
trưng cho quyền lực hoàng đế. Điện này
dùng để cử hành những buổi đại điển
như lễ tức vị của hoàng đế, sách lập
hoàng hậu, trao kiếm lệnh cho nguyên soái xuất chinh,
cũng như các điển lễ khác như lễ mừng
sinh nhật nhà vua, lễ nguyên đán… Dưới đời
Minh, đây là nơi thường xuyên để nhà vua thiết
triều nghị sự. Đây cũng là nơi tổ chức
thi Đ́nh và xướng danh các sĩ tử thi đậu
tiến sĩ (lễ Truyền Lô).
Trung Ḥa Điện
được xây dựng vào năm Vĩnh Lạc 18 (1420),
thoạt đầu gọi là Hoa Cái Điện. Sau khi xây dựng
lại sau vụ hỏa hoạn mới đổi thành
Trung Cực Điện, rồi lại đổi thành Trung
Ḥa dưới đời Thuận Trị nhà Thanh. Đây là
nơi để hoàng đế tiếp nhận sự triều
bái của các quan viên trước khi xa giá sang Thái Ḥa Điện
cử hành đại điển, cũng như nơi vua tạm
nghỉ giữa các buổi lễ. Đây cũng là nơi
hoàng đế xét duyệt các chi tiết về lễ nghi
cùng với quan chức, phê duyệt ngọc điệp (ghi
chép về gia phả của hoàng triều), phê duyệt các bản
tấu chương nếu không làm việc tại ngự
thư pḥng. Nơi này cũng được sử dụng
làm chỗ ban yến cho các vị đại thần trong
các điển lễ. Dưới đời Thanh, cuộc
thi Đ́nh được chuyển sang điện Trung Ḥa,
nhưng lễ Truyền Lô vẫn cử hành tại điện
Thái Ḥa.
Bảo Ḥa Điện
cũng được xây vào năm Vĩnh Lạc 18, thoạt
đầu có tên là Cẩn Thân Điện, đến đời
Gia Tĩnh đổi thành Kiến Cực Điện, và lại
đổi tên thành Bảo Ḥa Điện dưới thời
Thuận Trị. Nơi này dùng để tiếp đăi, ban
yến cho các ngoại phiên (các vương công thuộc Mông
Cổ, Tây Tạng, Măn Châu), cũng như các vị đại
thần từ nhị phẩm trở lên, xét duyệt các sự
vụ do Tông Nhân Phủ đệ tŕnh, cũng như tiếp
kiến sứ bộ các nước vào chầu.
[4] “Tam cung lục viện” là từ
ngữ phiếm chỉ nơi ở của vợ cả và
các vợ lẽ của nhà vua. Theo quy chế đời
Thanh, chính giữa của “nội
đ́nh” tức khu vực trong cố cung nằm sau cửa
Càn Thanh, bao gồm ba cung: Càn Thanh Cung (là nơi ở của
vua, bao gồm tẩm điện tức pḥng ngủ, có ngự
thư pḥng để vua phê tấu chương, hoặc họp
riêng với các vị cố vấn đại thần),
Giao Thái Điện (công dụng chủ yếu là để
các phi tần, nữ quan khánh chúc sinh nhật hoàng hậu),
và Khôn Ninh Cung (tẩm cung của hoàng hậu). Lục viện
thật ra gồm mười hai viện (sáu viện ở
phía Đông của nội đ́nh gọi là Đông Cung, gồm
Trai Cung, Cảnh Nhân Cung, Thừa Càn Cung, Cảnh
Dương Cung, Vĩnh Ḥa Cung), và sáu viện ở phía Tây
(Tây Cung, bao gồm Trữ Tú Cung, Dục Khôn Cung, Vĩnh Thọ
Cung, Trường Xuân Cung, Hàm Phước Cung và Trùng Hoa
Cung).
Bảy mươi hai phi tần
là quy chế đă có từ đời Đường, ngoài
chánh cung hoàng hậu ra, các thê thiếp của hoàng đế
bao gồm: Tứ phu nhân (Quư phi, Thục phi, Đức phi,
Hiền phi), Cửu Tần (Chiêu Nghi, Chiêu Dung, Chiêu Viện,
Tu Nghi, Tu Dung, Tu Viện, Sung Nghi, Sung Dung, Sung Viện), hai
mươi bảy thế phụ (gồm các tước vị
Tiệp Dư, Mỹ Nhân, và Tài Nhân, mỗi cấp gồm
chín người), c̣n lại là các ngự thê. Về sau mở
rộng thêm thành tám mươi mốt ngự thê, bao gồm
các tước vị Bảo Lâm, Ngự Nữ, Thái Nữ
(mỗi địa vị là hai mươi bảy người).
Ngoài ra lại c̣n có các chức nữ quan chia thành Lục
Thượng gồm Thượng Cung, Thượng Nghi,
Thượng Phục, Thượng Thực, Thượng Tẩm,
Thượng Công. Chẳng hạn như Thượng Phục
lo chuẩn bị quần áo, đồ trang sức cho vua và
các phi tần, may vá, trông coi người hầu giặt
giũ v.v… Tuy vậy, nếu vừa mắt nhà vua, các nữ
quan trong nội cung, bất kể cấp bậc nào, vẫn
có thể được vua “ngự hạnh”.
[5] Ḥa thượng
Mính Sơn (茗山,1914-2001), quê ở Tây
Hương, huyện Diêm Thành, tỉnh Giang Tô. Xuất gia
năm mười chín tuổi, thọ Cụ Túc năm hai
mươi tuổi. Tốt nghiệp Phật học viện
vào năm 1933. Trong suốt thời Kháng Nhật, Sư bôn ba
lo liệu Phật sự tại Hồ Nam, luôn chú trọng
bồi dưỡng giáo lư và đào tạo tăng tài. Kháng
chiến thành công, Sư trở về Định Huệ ở
Giang Tô lập Phật học viện. Sư từng đảm
nhiệm chức vụ xử lư thường vụ của
hội Phật Giáo Trung Quốc. Đời Sư từng gặp
bao nỗi thăng trầm. Khi Cách Mạng Văn Hóa nổ
ra, chánh quyền Trung Cộng đóng cửa chùa, đuổi
tăng sĩ về nguyên quán. Sư đă sáu mươi tuổi,
vẫn bị đi về nông thôn “ḥa nhập quần chúng”,
thực chất đi lao động khổ sai tại vùng
quê. Sư vẫn luôn hoan hỷ, an nhiên tự tại, sách tấn
đồ chúng “nông Thiền hợp
nhất”. Do đạo đức cao tột, Sư
đă từng được Vạn Phật Thánh Thành cung
thỉnh chứng minh tam đàn đại giới vào
năm 1989. Sư được các nơi như Đài
Loan, Đông Kinh mời sang hoằng pháp diễn giảng nhiều
lần.