Đại Phương Quảng
Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười
một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 22
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Địa điểm: Hương Cảng Phật
Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ ngày mồng Bảy tháng
Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ Trang và Minh
Tiến
Tập 1505
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin mọi người hăy
ngồi xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ
mười một, bài kệ thứ bảy[1]
trong phần mười một bài kệ nói chung của
hàng tại gia. Hôm qua, chúng tôi đă bỏ sót, hôm nay chúng tôi [giảng]
bổ sung bài kệ ấy.
(Kinh)
Trước anh lạc thời, đương nguyện
chúng sanh, xả chư ngụy sức, đáo chân thật xứ.
(經)著瓔珞時。當願眾生。捨諸偽飾。到真實處。
(Kinh: Khi đeo anh lạc, nguyện cho chúng sanh, bỏ
trang sức giả, đến chỗ chân thật).
Trong
chú giải, Thanh Lương đại sư đă chú thích.
(Sớ)
Tại cảnh viết anh, tại thân viết lạc, lạc
dĩ tŕ y, anh dĩ hệ quan.
(疏)在頸曰瓔,在身曰珞,珞以持衣,瓔以繫冠。
(Sớ: Nơi cổ gọi là Anh, nơi thân gọi
là Lạc. Lạc để buộc áo, Anh để buộc
mũ).
Đấy
là giới thiệu về Anh Lạc thời cổ. Chúng ta
đọc xong, bèn hiểu Anh (瓔) là dây buộc
mũ. Thời cổ, hễ đội mũ th́ hai bên có
dây để buộc, [sợi dây] đó gọi là Anh. Lạc
(珞) là thứ để đeo trên thân. Ví như người
xuất gia chúng ta đeo chuỗi tràng hạt, coi như là Lạc.
Cái ṿng móc áo ca-sa cũng coi như là Lạc. Thời cổ,
nam nữ đều đeo Anh Lạc; hiện thời,
đàn ông đội mũ không nhiều lắm. Dẫu
đội mũ, cũng không có dây buộc. Trừ phi vào
lúc tiết Đông rất lạnh, ở phương Bắc
dường như c̣n có, những nơi khác thường
là rất hiếm thấy. Nói chung, những thứ ấy
đều là vật trang sức, là vật trang sức để
đeo trên thân thể.
Đức
Phật dạy chúng ta: Trông thấy những vật trang sức
ấy, hoặc khi chính chúng ta đeo những vật trang sức
ấy, phải biết phát nguyện, “đương nguyện chúng sanh, xả chư ngụy
sức” (nguyện cho chúng sanh, bỏ các thứ trang sức
hư ngụy). Những thứ trang sức ấy đều
chẳng thật. Không chỉ là trang sức chẳng thật,
trong kinh Đại Thừa, đức Phật thường
dạy chúng ta: Ngay cả thân thể này cũng chẳng thật.
Không chỉ là thân thể chẳng thật, mà vạn sự
vạn vật trên thế giới này cũng chẳng thật,
phải biết điều này! Trên thân có đồ trang sức,
trong các kiến trúc có những vật trang sức. Hiện
thời, vào dịp lễ tết, tết Âm Lịch sắp
đến, chúng ta thấy khá nhiều nơi có rất nhiều
vật trang trí vào dịp Tết. Phàm là trông thấy những
thứ ấy, phải dấy lên nguyện này, “đương nguyện chúng sanh,
xả chư ngụy sức, đáo chân thật xứ”
(nguyện cho chúng sanh, bỏ các thứ trang sức hư giả,
đạt đến chỗ chân thật).
Cảnh
giới trong câu thứ hai có phạm vi rộng lớn vô
lượng. “Chúng sanh” không
chỉ là nói về chúng ta trong hiện tiền, cũng không
chỉ là nói về chúng ta trên quả địa cầu này,
hoặc trong thế giới Sa Bà này, mà là như đă nói
trong các phẩm Hoa Tạng Thế Giới và Thế Giới
Thành Tựu trong phần đầu kinh Hoa Nghiêm: Tất cả
hết thảy chúng sanh trong vô lượng vô biên vô tận
vô số các cơi Phật khắp pháp giới hư không giới.
Tâm lượng ấy to cỡ nào! Đấy là tâm lượng
của Tỳ Lô Giá Na Phật. Tỳ Lô Giá Na Phật (Vairocana)
đại biểu cho mỗi chúng sanh, Tỳ Lô Giá Na Phật
là ai? Là Pháp Thân của chính hết thảy chúng sanh, Lô Xá Na Phật
(Locanā) là Báo Thân của chính ḿnh. Khắp pháp giới hư không
giới là một Thể. Chúng ta nói là “một sanh mạng cộng đồng thể”
hăy c̣n xa lắm! Nếu nói chân thật, [sẽ là] một Thể.
Toàn thể vũ trụ là một Thể, tâm lượng của
quư vị mới có thể mở rộng.
“Xả chư ngụy sức”
(Bỏ các thứ trang sức hư ngụy): Câu này có ư
nghĩa quá sâu, quá rộng, trong ấy bao hàm ư nghĩa sâu xa
(nghĩa thú rất sâu), nhằm dạy chúng ta, chúng ta
cũng nguyện cho tất cả hết thảy chúng sanh, giống
như lăo cư sĩ Hạ Liên Cư đă nói: “Phải thật sự làm, chớ
nên làm giả!” Hiện thời, đồ trang sức giả
rất nhiều, người ta thường thích đồ
giả. Khi tôi ở Mỹ, có một đồng tu chuyên làm
những món châu báu giả bán khắp thế giới. Quả
thật, chúng được làm hết sức đẹp
đẽ. Nếu chẳng phải là người thông thạo,
sẽ chẳng có cách nào phân biệt những món đồ
do người ấy [chế tạo] là những món châu báu
giả. Người ngoại quốc thích những món giá rẻ.
Vào thuở ấy, châu báu thật sự phải là mấy vạn
hoặc mấy chục vạn Mỹ kim. Những món châu
báu giả của ông ta chỉ cần năm đồng,
đại khái là đắt nhất cũng không hơn
mười đồng! Nói chung là từ mười đồng
trở xuống. V́ thế, người ta thích mua. Đeo
lên nh́n cũng rất đẹp; có mất đi cũng chẳng
đau ḷng, thật sự làm rất khéo. Công xưởng ấy
có quy mô rất lớn; tôi đến tham quan, đúng là lóng
lánh chói mắt!
Tôi
xem xong, được mở mang rất nhiều. Trong kinh
điển, đức Phật đă dạy, sự khải
phát lớn nhất là trong kinh chúng ta thường đọc
thấy là tỷ dụ của cổ nhân: “Dĩ kim tác khí, khí khí giai kim” (Dùng vàng làm đồ
vật, món nào cũng đều là vàng). Tỷ dụ này đă
coi vạn sự vạn vật trong toàn thể vũ trụ
giống như các món vật dụng khác nhau, lóng lánh chói mắt.
Thể là Pháp Tánh; sánh ví vàng như Pháp Tánh. Kinh Hoa Nghiêm đă
nói hết thảy vạn vật trong khắp pháp giới
hư không giới, “duy tâm sở
hiện, duy thức sở biến”. Cái có thể hiện
(năng hiện) là tâm tánh, sánh ví tâm tánh như vàng, ví vạn
vật như các món đồ. V́ thế, nh́n ngắm mọi
vật ở nơi đó (công xưởng ấy), đối
với tỷ dụ ấy, có ấn tượng hết sức
sâu đậm. Cũng khéo sao, ở đây, chúng ta đọc
đến bài kệ này, [nhận biết] chúng ta phải bỏ
hư ngụy. Thứ ǵ cũng đều là hư ngụy!
Kinh Kim Cang nói rất hay: “Phàm những
ǵ có tướng đều là hư vọng”, chẳng
có ǵ là chân thật. Tôi đă tổng kết kinh Đại Bát
Nhă bằng bốn câu, [tổng kết] sáu trăm quyển
Đại Bát Nhă như sau: “Hết
thảy các pháp vô sở hữu, rốt ráo không, trọn chẳng
thể được”. Nếu quư vị thật sự
hiểu rơ, thật sự hiểu rành rẽ, quư vị có muốn
buông xuống hay không? Buông xuống ǵ vậy? Buông xuống vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, quư vị sẽ
là Pháp Thân Bồ Tát. Phàm phu và Bồ Tát sai biệt ở ngay
chỗ này.
Nhưng
hết thảy chúng sanh từ vô thỉ kiếp tới nay,
dễ phạm nhất là sát giới. Dễ phạm tội
giết chóc nhất! Nhất là đối với những
thứ côn trùng bay, ḅ, động đậy như muỗi,
ruồi, kiến, hễ trông thấy bèn muốn giết. Cố
ư hay vô t́nh giết chúng, ăn thịt chúng sanh, ngỡ
đó là chuyện nên làm, chẳng biết đấy là sai lầm!
V́ thế, dễ phạm nhất là Sát. Khó đoạn nhất
là dâm! Đối với dâm, dẫu quư vị đă đoạn
dâm nơi thân, có thể là khởi tâm động niệm
hăy c̣n có ư niệm [dâm]. Đoạn ư niệm th́ mới có thể
liễu sanh tử, thoát tam giới; chẳng đoạn ư
niệm sẽ không được! Chư vị hăy ngẫm
xem, khó khăn ngần ấy! V́ sao khó khăn ngần ấy?
Quư vị chấp trước cái thân là chính ḿnh, chấp trước
vạn sự vạn vật là thật sự có. Điều
ấy gọi là Ngă Chấp và Pháp Chấp, hai thứ t́nh chấp,
chẳng biết chúng thật sự là hư vọng. Biết
là hư vọng, quư vị sẽ có thể bỏ. Biết chúng
là hư vọng, gọi là “thấy
thấu suốt”. Có thể bỏ là “buông xuống”. Thấy thấu suốt giúp quư vị
buông xuống, buông xuống giúp quư vị thấy thấu suốt
sâu hơn một tầng. Thấy thấu suốt và buông xuống
giúp nhau thành tựu kể từ Sơ Phát Tâm măi cho đến
địa vị Như Lai.
Quư
vị nói Bồ Tát dùng công phu ǵ để chứng đắc
Phật quả viên măn rốt ráo? Chính là thấy thấu suốt
và buông xuống. Nếu dùng danh từ Phật giáo [để
diễn tả], sẽ là Chỉ Quán. Quán (觀) là
thấy thấu suốt, Chỉ (止) là buông xuống;
đấy là danh từ trong Phật học. Nhưng nói Chỉ
Quán th́ chẳng dễ hiểu cho lắm! Thay đổi danh
từ thành “thấy thấu suốt,
buông xuống”, mọi người sẽ dễ hiểu.
Giống như đức Thế Tôn [đă làm như vậy]
trong kinh Hoa Nghiêm. Từ kinh luận Đại Tiểu Thừa,
quư vị thấy Ngài nói “Kiến
Tư phiền năo, Trần Sa phiền năo, Vô Minh phiền năo”,
đối với kẻ mới học [những thuật
ngữ ấy] rất khó hiểu! Danh từ [được
sử dụng] trong kinh Hoa Nghiêm là “vọng tưởng, phân biệt, chấp trước”.
Chúng ta nghe những danh từ ấy [sẽ cảm thấy]
dường như chẳng khó hiểu. Vọng tưởng
là Vô Minh phiền năo, phân biệt là Trần Sa phiền năo, chấp
trước là Kiến Tư phiền năo. Ư nghĩa hoàn toàn
giống hệt như nhau, [chỉ là] thay đổi danh từ!
Những điều này đều thuộc về
phương tiện giáo học, là phương tiện
để độ chúng sanh trong Phật pháp.
Từ
những chỗ này, chúng ta phải thấu hiểu: Đức
Phật chẳng có pháp nhất định để có thể
nói, Ngài ứng cơ thuyết pháp. Do ứng cơ (應機, thuận theo căn cơ của từng đối
tượng được hóa độ), chẳng có h́nh
tướng nhất định, đáng nên dùng thân ǵ để
đắc độ bèn hiện thân ấy. Thuyết pháp,
chẳng có pháp nhất định để có thể nói,
nhưng Ngài có một nguyên tắc: “Giúp quư vị khai ngộ, giúp quư vị quay đầu”.
Quư vị từ mê hoặc, điên đảo quay lại, chẳng
thể làm giả, phải thật sự làm! “Thật” là ǵ? Tương ứng
với Tánh Đức là thật, trái nghịch Tánh Đức
th́ là giả. Trong Đàn Kinh, Lục Tổ Huệ Năng
đại sư của Tông Môn đă nói rất hay, nếu
(bất luận là tại gia hay xuất gia học Phật)
chẳng thể y giáo phụng hành, đó gọi là “nói được, chẳng làm
được”, có nghĩa là “miệng
lành, tâm chẳng lành”. Nói khá lắm, nhưng chẳng có cái
tâm ấy! Đó là hư ngụy; giống như đeo anh
lạc khắp người, chưa chắc đă thật
sự phú quư! Chúng ta phải hiểu rơ ràng ư nghĩa của
tỷ dụ này. Thật sự làm, nhất định là y
giáo phụng hành. Nếu “miệng
đúng, tâm sai”, vậy là chúng ta lạy Phật, tụng
kinh, niệm Phật hằng ngày đều vô dụng! Cổ
nhân bảo chuyện này là “hăm
phá hầu lung diệc uổng nhiên” (hét toạc cuống
họng vẫn uổng công), chẳng tương ứng!
Thật
sự làm từ nơi đâu? Chúng ta học Tịnh Độ,
phải ghi nhớ Thích Ca Mâu Ni Phật khi nhập diệt
đă dạy: Khi đức Phật tại thế, đức
Phật là thầy. Đức Phật khuất bóng, dựa
vào ǵ? Đức Phật dạy chúng ta “lấy Giới làm thầy”, bất luận Tông
Môn hay Giáo Hạ, Hiển Giáo hay Mật Giáo, Đại Thừa
hay Tiểu Thừa, thảy đều phải tuân thủ điều
này. Do vậy, quư vị chẳng thể nào không tŕ giới!
Phật pháp là ǵ? Giới, Định, Huệ là Phật
pháp, “giác, chánh, tịnh” là Phật
pháp. Trong tựa đề kinh Vô Lượng Thọ, “giác, chánh, tịnh” được
nói thành “thanh tịnh, b́nh đẳng,
giác”. Thanh tịnh là Giới, b́nh đẳng là Định,
giác là Huệ. Tam Học và Tam Bảo vốn là một Thể.
“Nhân Giới đắc Định,
nhân Định khai Huệ”, đấy là con đường
ắt phải trải qua để từ phàm phu tu thành Phật
đạo của hết thảy chư Phật trong quá khứ,
hiện tại, tương lai, là con đường để
thành Phật. Nếu chúng ta ĺa khỏi con đường
này, nói là sẽ t́m được một con đường
khác để có thể thành Phật, vậy th́ quư vị cứ
t́m đi! Mười phương chư Phật đều
noi theo con đường này, lẽ nào quư vị có thể
không coi trọng giới luật cho được? Cổ
đức dạy rất hay: “Chẳng
có Giới, sẽ chẳng có Phật. Phật ấy là giả,
là đồ trang sức rởm, chẳng thật!” “Nếu
chẳng có lễ, sẽ chẳng có Nho!” Trong sự hành
tŕ của Nho gia, lễ nghĩa có công hiệu giống
như giới luật trong nhà Phật.
Nay
chúng ta hăy quan sát, phản tỉnh: Người học Phật
chẳng ít! Tại Trung Hoa lẫn ngoại quốc đều
không ít, người thành tựu không nhiều lắm, do nguyên
nhân ǵ vậy? Kẻ tại gia học Phật chẳng làm
được Thập Thiện, chẳng làm được
Tam Quy, Ngũ Giới. Kẻ xuất gia học Phật th́ Sa
Di Luật Nghi chẳng làm được. Đấy chẳng
phải là “đồ trang sức
rởm” ư? Chẳng phải là đồ giả
ư? V́ sao chẳng làm được? Rất mong làm, v́ sao
chẳng làm được? Phải biết điều
này. Nói theo phương diện giáo học, chúng ta đă
sơ sót cơ sở, chẳng học tập theo thứ tự,
đă sơ sót sự giáo dục cơ sở. Kinh Phật Tạng
nói rất hay: “Chẳng trước
là học Tiểu Thừa, sau học Đại Thừa, chẳng
phải là đệ tử Phật”. Đức Phật
dạy chúng ta tu học Phật pháp phải làm theo thứ tự.
Tiểu Thừa là Tiểu Học trong Phật giáo, Đại
Thừa là Đại Học của Phật giáo. Trong Đại
Học cũng có thứ tự. Nhà Phật nói “tam thừa”, tức là Tiểu
Thừa, Trung Thừa, và Đại Thừa. Thanh Văn là Tiểu
Thừa, Duyên Giác là Trung Thừa, Bồ Tát là Đại Thừa,
làm theo từng bước, tiến cao hơn từng bước
một. Đức Phật dạy chúng ta điều ấy,
[hăy tuân theo] thứ tự.
Phật
giáo truyền đến Trung Hoa, phương pháp tu học
này cũng được truyền sang. Vào thời đại
Nam Bắc Triều và Tùy - Đường, phong khí dịch
kinh đạt tới tột đỉnh trong lịch sử.
Kinh luận Tiểu Thừa được phiên dịch khá
đầy đủ; từ Đại Tạng Kinh chúng ta
có thể thấy điều này. Đồng thời, vào
thuở ấy, cũng thành lập hai tông phái [Tiểu Thừa],
tức Thành Thật Tông và Câu Xá Tông. Thật sự là “trước học Tiểu Thừa,
sau học Đại Thừa”, nhập môn từ chỗ
này. Trung Hoa có mười tông phái, Đại Thừa có tám
tông, nhưng từ giữa đời Đường trở
đi, người học Phật tại Trung Hoa chẳng
học Tiểu Thừa, hai tông phái ấy (Thành Thật Tông
và Câu Xá Tông) cũng chẳng c̣n nữa. Hai tông phái đến
đời Tống hoàn toàn biến mất, tại Trung Hoa
chỉ c̣n tám tông phái, tức là tám tông phái Đại Thừa.
V́ sao? V́ sao chẳng tuân thủ lời đức Phật dạy?
Chẳng phải là không tuân thủ! Các vị tổ sư
đại đức đă hiểu rất rơ ràng: Khổng,
Mạnh, Lăo, Trang của Trung Hoa, tức là sự tu học Nho
gia và Đạo gia đă đủ sức để có thể
thay thế Tiểu Thừa. V́ thế, từ Khổng, Mạnh,
Lăo Trang tiến nhập Phật môn c̣n thuận tiện
hơn học Tiểu Thừa. Trung Hoa đă có cơ sở
tốt đẹp ngần ấy. Do đó, trong hơn một
ngàn năm qua, trải qua các đời, bất luận xuất
gia hay tại gia, người thành tựu đều chẳng
ít! Có thể nói là thành tựu vượt trỗi Ấn
Độ.
Nhưng
hiện thời nẩy sanh vấn đề, Trung Hoa đă
trải qua một trăm năm động loạn. Sau khi
nhà Măn Thanh vong quốc, xă hội chưa hề có ngày nào an
định. Nhà Măn Thanh mất, quân phiệt cát cứ[2]; kế
đó là chiến tranh giữa Trung Hoa và Nhật Bản, khiến
cho trật tự trong toàn thể xă hội rối loạn,
chúng ta sơ sót cách giáo học truyền thống, măi cho
đến hiện tại, vẫn chẳng thể khôi phục.
V́ thế, kẻ trẻ tuổi trong hiện thời chẳng
biết Nho, người học Phật chẳng biết Tiểu
Thừa, cho nên mới tạo thành [t́nh trạng] người
tại gia lẫn kẻ xuất gia học Phật đều
chẳng đạt được thành tựu. Giống
như thầy thuốc chữa bệnh, nay chúng ta biết
gốc bệnh ở đâu; do vậy, trong những năm
qua, chúng tôi dốc toàn lực đề xướng Đệ
Tử Quy, đề xướng Thập Thiện Nghiệp
Đạo, đề xướng Sa Di Luật Nghi. Những
thứ ấy là cột trụ, là khóa tŕnh bắt buộc ắt
phải tu tập. Ngoài ra, c̣n chọn lựa những tác phẩm
do Ấn Quang đại sư lăo nhân gia đề xướng
như Liễu Phàm Tứ Huấn, Cảm Ứng Thiên Vựng
Biên, Văn Xương Đế Quân Âm Chất Văn của
Đạo gia, Vạn Thiện Tiên Tư, Dục Hải Hồi
Cuồng, bỏ các thứ trang sức hư ngụy. Đấy
là giáo dục nhân quả.
Hiện
thời, nếu chúng ta ĺa khỏi giáo dục luân lư, giáo dục
đạo đức, giáo dục nhân quả, chắc chắn
là quư vị chẳng đạt được lợi ích
nơi Phật pháp. Có cơ sở như vậy, quư vị học
Đại Thừa, bất luận là tông phái nào, tôi tin là quư
vị đều có thể đạt thành tựu. Nếu chẳng
có cơ sở ấy, cơ sở ấy chẳng phải
là quư vị đă từng học, từng đọc, nhớ
rất làu làu, kiểu đó vô dụng, [để hữu dụng
th́] quư vị phải làm được! Biến lư luận
trong sách vở thành tư tưởng của chính ḿnh, biến
giáo huấn trong sách vở thành hành vi sinh hoạt của
chúng ta. Như vậy th́ mới có tác dụng, quư vị mới
có thể siêu phàm nhập thánh. Đấy là “đáo chân thật xứ” (đạt đến
chỗ chân thật), phải thật sự làm! Chúng ta niệm
Phật văng sanh cũng phải kiến lập trên cơ sở
này. Quư vị mới nắm chắc văng sanh, mới thật
sự ra đi.
Quư
vị lại chú tâm quan sát người niệm Phật văng
sanh, thật sự văng sanh. Quư vị quan sát họ khi c̣n sống;
[sẽ thấy] những người ấy chẳng phải
là một thiện nam tử, thiện nữ nhân thật sự
ư? Cũng có nghĩa là những người ấy chẳng
trái nghịch luân lư, đạo đức, nhân quả, và
giáo huấn của thánh hiền, thật sự làm theo. [Thật
sự làm theo] hoặc nhiều hay ít, mỗi người mỗi
khác. [Làm theo] nhiều hay ít, sẽ ảnh hưởng đến
phẩm vị văng sanh trong tương lai của người
ấy. Người ấy làm nhiều, phẩm vị sẽ
cao. Người ấy làm ít, phẩm vị sẽ thấp
hơn một chút. Nếu hoàn toàn chẳng làm, rất khó
văng sanh! Nhưng có kẻ hoàn toàn chẳng làm theo, mà cũng
có trường hợp văng sanh Tịnh Độ. Đó là
ǵ? Suốt đời tạo tội nghiệp, giống
như ông Trương Thiện Ḥa đời Đường,
làm đồ tể giết trâu, khi lâm chung, thấy rất
nhiều kẻ đầu trâu đến đ̣i mạng.
Khi đó, ông ta kinh hoàng, sợ hăi, bèn cầu cứu, đáng
sợ thay! Khá nhiều kẻ đầu trâu đến đ̣i
mạng. Ông ta khi lâm chung đầu óc sáng suốt, chẳng
hồ đồ, thấy cảnh giới ấy bèn lớn
tiếng kêu cứu. Duyên khéo phù hợp, có một vị xuất
gia đi ngang cửa, nghe tiếng ông ta gọi, bước
vào, hỏi han chuyện ǵ? “Rất nhiều kẻ đầu
trâu đ̣i mạng tôi”. Vị xuất gia thắp một nắm
hương, bảo ông ta cầm lấy, ngay lập tức
niệm A Di Đà Phật cầu sanh về thế giới
Cực Lạc.
Ông
ta suốt đời chẳng học Phật, được
vị xuất gia ấy giảng giải, ngay lúc đó, ông
ta nghe xong, tin tưởng, chẳng hoài nghi, ngay lập tức
cầm hương niệm “A
Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật”. Niệm
mấy tiếng, bảo mọi người: “Những kẻ
đầu trâu chẳng c̣n nữa! A Di Đà Phật đến
tiếp dẫn tôi”. Ông ta văng sanh. Đấy là nguyện thứ
mười tám trong bốn mươi tám nguyện, “khi lâm chung, một niệm hay
mười niệm đều có thể văng sanh”. Đó chính
là sám hối văng sanh. Suốt đời tạo tác ác nghiệp
vẫn được, nhưng ở trong ấy có ư
nghĩa rất sâu, quư vị ắt phải hiểu, chớ
nên cầu may!
[Quư
vị cứ nghĩ] “Trương Thiện Ḥa lâm chung vẫn
có thể văng sanh, nay ta làm chuyện xấu nhiều hơn
một tí cũng chẳng sao! Lâm chung niệm Phật vẫn
có thể [văng sanh] mà!” Chẳng sai! Trương Thiện Ḥa
lâm chung đầu óc sáng suốt, quư vị có dám chắc lâm
chung đầu óc rất tỉnh táo hay không? Nếu hồ
đồ th́ thôi rồi! Quư vị đă bị nghiệp lực
lôi đi mất rồi! V́ thế, đối với chuyện
này, chẳng thể cầu may được! Trương
Thiện Ḥa có duyên tốt đẹp, nhân cũng tốt! Trong
đời quá khứ, nhất định đời đời
kiếp kiếp đều là người niệm Phật.
Nếu không, lâm chung bảo ông ta niệm Phật, lẽ nào
ông ta chẳng hoài nghi? Làm sao có thể tiếp nhận, thật
sự làm theo được? Chẳng đơn giản, chẳng
phải là chuyện ngẫu nhiên! Trong đời quá khứ
đă gieo cái nhân, khi lâm chung mới gặp duyên. Nhân duyên quả
báo chẳng sai sót mảy may, phải biết điều
này! Nay chúng ta gặp gỡ duyên này, phải trân quư, phải
nắm chặt, chắc chắn là chẳng thể buông lỏng,
quyết định chớ nên cầu may. “May mắn” chính
là đồ trang sức hư ngụy, nhất định
phải nghiêm túc hành tŕ, coi chuyện này là đại sự
trọng yếu nhất phải thực hiện trong một
đời này.
Trên
thế gian này, thứ ǵ cũng là giả. Quư vị thấy
con người mất đi, đem theo được ǵ? Đức
Phật dạy chẳng sai tí nào! “Muôn thứ không mang được, chỉ có nghiệp
theo thân”. Người b́nh phàm trong thế gian suốt
đời tạo thiện nghiệp, ác nghiệp. Suốt
đời làm việc thiện, đời sau hưởng
phước báo trong cơi nhân thiên, lâm chung có thụy tướng
tốt lành, rất cát tường, chẳng đọa
trong ba ác đạo. Suốt đời tạo tác bất
thiện, khi lâm chung, dáng vẻ chẳng dễ coi. Sẽ
đến nơi đâu? Đi vào tam đồ! Kẻ vào
trong tam đồ đông lắm, [người sanh trong]
đường nhân thiên rất ít, chẳng nhiều, chớ
nên không biết. Do vậy, cổ đại đức bảo
chúng ta, dẫu ở một ḿnh, chẳng thể không thận
trọng. Chỉ niệm suông đằng miệng, chẳng
thể được! “Miệng
có, tâm không”! Bề ngoài làm ra rất dễ coi, bên trong chẳng
ĺa khỏi ích kỷ, chẳng buông xuống tiếng
tăm, lợi dưỡng, vẫn c̣n tham cầu hưởng
thụ ngũ dục, lục trần y hệt như
cũ! Đó là giả trất, chẳng thật! Dùng sự
hư ngụy, giả thiện, hiện thời gọi là “chân thiện, chân tu giả mạo”
để gạt người th́ được, quư vị
có thể dối gạt Phật ư? Quư vị có thể lừa
dối chính ḿnh ư? Chúng ta phải nghiêm túc phản tỉnh,
kiểm điểm chuyện này!
Thấy
người khác chẳng phải là chân tu, chẳng cần phải
phê b́nh. Nếu quư vị phê b́nh, giáo huấn người ấy,
sẽ làm mất ḷng người
ta, kết thành oán cừu với người ấy, vậy
là sai mất rồi! Thấy kẻ khác không tốt, hăy quay
lại hồi quang phản chiếu, [tự xét] ta có [phạm
những lỗi ấy] hay không? Đấy là người
thật sự tu hành! Cảnh giới bên ngoài là một tấm
gương. Kẻ b́nh phàm, tức là phàm nhân, phàm phu trong thế
gian, chỉ thấy lỗi của kẻ khác, chẳng thấy
lỗi của chính ḿnh. Thấy lỗi của chính ḿnh quá
ư là khó! Trong Phật môn, thường nghe nói “khai ngộ”, khai ngộ là ǵ vậy?
Thấy lỗi của chính ḿnh là khai ngộ. Ngộ rồi
sẽ bắt đầu tu, có thể sửa đổi những
lỗi lầm của chính ḿnh; đó gọi là “tu hành”. Nếu ta một ngày chẳng
thấy lỗi của chính ḿnh, sẽ là một ngày chẳng
biết sửa đổi cho tốt đẹp hơn! Thấy
lỗi của chính ḿnh thật khó!
Do
vậy, đức Phật dạy các đệ tử, bất
luận tại gia hay xuất gia, v́ sao bảo quư vị đọc
tụng kinh luận hằng ngày? Kinh luận là một tấm
gương. Quư vị đọc xong, sẽ tùy văn nhập
quán. Đức Phật dạy ta không sát sanh, hôm nay ta có làm
được điều ấy hay không? Đức Phật
dạy ta không trộm cắp, có làm được điều
này hay không? Chuyện đức Phật dạy Bồ Tát
không sát sanh bao hàm vô lượng vô biên ư nghĩa sâu rộng!
Chúng ta đối với một người, đối với
một tiểu động vật, hễ có ư niệm bất
thiện, đều gọi là sát sanh. V́ sao? Có ư niệm sát
sanh, tuy chẳng làm, hăy c̣n có ư niệm ấy. Ta chán ghét hắn,
ta không ưa hắn, [những ư niệm ấy] đều
thuộc về sát tâm! “Trộm cắp” là ǵ? Ta chẳng tính
ăn trộm kẻ khác, nhưng ta có ư niệm chiếm tiện
nghi của người ta. Ư niệm ấy chính là cái tâm trộm
cắp. Tuy nay quư vị chẳng có hành vi trộm cắp,
nhưng quư vị chẳng đoạn cái tâm trộm cắp,
rất vi tế!
Mười
điều trong Thập Thiện Nghiệp Đạo bao gồm
khái quát hết thảy các thiện pháp thế gian và xuất
thế gian. Tương phản [của Thập Thiện]
là Thập Ác như giết, trộm, dâm, dối v.v… cũng
bao gồm khái quát vô lượng vô biên ác nghiệp của hết
thảy chúng sanh! Phật, Bồ Tát tu Thập Thiện. Quư
vị thấy kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo đă
nói hay quá: “Thanh Văn Bồ
Đề, Duyên Giác Bồ Đề” thuộc về Tiểu
Thừa, “cho đến Vô Thượng
Bồ Đề”, đấy là Đại Thừa. Đức
Phật c̣n nói thêm, c̣n bao gồm pháp nhân thiên, [nghĩa là] quư
vị làm cách nào [để đời sau được
sanh] làm thân người! Quư vị sanh thiên như thế nào?
Thảy đều dùng Thập Thiện Nghiệp làm cơ
sở. Ngài đă sánh ví rất hay! Thập Thiện Nghiệp
giống như đại địa, có thứ nào có thể
rời khỏi đại địa mà sanh tồn hay
chăng? Tiểu Thừa giống như cây nhỏ, Đại
Thừa giống như cây to, đều phải
nương cậy đại địa. Chẳng có đại
địa, quư vị sẽ chẳng thể sanh tồn! Tỷ
dụ hay quá. Quư vị mới hiểu tầm trọng yếu
[của Thập Thiện Nghiệp]. Ĺa khỏi Thập Thiện,
quư vị sẽ tu Thập Ác. Nghiệp nhân của Thập
Ác là tam đồ, tức ngạ quỷ, địa ngục,
súc sanh, quư vị chớ nên không biết! Nguyện này nhắc
nhở chúng ta: Hễ thấy các món trang sức, biết
chúng đều là giả, đều chẳng thật. Trong
mắt người tu hành, biết “phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư
vọng”, đồ trang sức hư ngụy! Chúng tôi
nói bài kệ này tới đây. Chúng ta lại xem bài kế tiếp.
Bài thứ tám hôm qua đă nói rồi, bỏ sót bài kệ [thứ
bảy] này. Chúng ta xem bài thứ chín.
(Kinh)
Nhược hữu sở thí, đương nguyện
chúng sanh, nhất thiết năng xả, tâm vô ái trước.
(經)若有所施。當願眾生。一切能捨。心無愛著。
(Kinh: Nếu có bố thí, nguyện cho chúng sanh, bỏ
được hết thảy, tâm chẳng yêu chấp).
Quư
vị thấy người tu xả thí, nay chúng ta nói là “làm chuyện
tốt”. Thí xả vào thời cổ, ở đây là nói về
cổ Ấn Độ, người Ấn Độ đều
biết, đó là tập tục của họ. Đối với
người tu hành, không chỉ là Phật môn, đa số
những người tu hành trong các tôn giáo khác đều khất
thực, đều là “ăn một
bữa giữa trưa”. Do vậy, ăn một bữa
giữa trưa chẳng chỉ giới hạn trong Phật
môn, mà rất nhiều tôn giáo đều là như vậy. Dân
chúng b́nh phàm đều rất cung kính những vị tu hành
ấy, đều biết bố thí. Thí ǵ vậy? Thí một
chút thức ăn, thực phẩm, đấy là chuyện
thông thường nhất. Lại c̣n thí cũng chẳng nhiều!
Do vậy, người tu hành đi khất thực, một
bát cơm phải xin từ vài nhà. Quư vị biết là [thí
chủ] bố thí chẳng nhiều cho lắm!
Trong
nhà người ta, xét ra cơm ăn ngày hôm nay c̣n có thể
dư ra, sẽ bố thí cho quư vị. Tùy thuộc số
lượng dư ra, có dư nhiều, sẽ cho quư vị
nhiều hơn. Số lượng ít th́ cho quư vị ít
hơn. Quư vị chẳng đủ, lại sang xin nhà người
khác ở cách vách. Do đức Phật quy định khất
thực [tối đa] là bảy nhà, [nếu] cả bảy
nhà đều chẳng xin được, bèn ôm bát rỗng
quay về. Làm như thế nào? Đại chúng có người
xin được nhiều, sẽ chia sớt cho quư vị.
Do vậy, khất thực chẳng phải là xin xong là chính
ḿnh có thể ăn, chẳng phải vậy! Nếu làm vậy
sẽ khó coi, oai nghi sẽ chẳng đẹp cho lắm!
Sau khi xin xong, quay về tinh xá, trở về đạo
tràng, những thứ xin được thảy đều
cùng tập hợp một chỗ, gom hết lại để
phân chia lần nữa, dựa theo sức ăn của mỗi
cá nhân nhiều hay ít để chia ra. Nếu c̣n dư, sẽ
thí cho chúng sanh, cho những loài chim, thú. Đấy là quy củ
trong Phật môn. Người khác trông thấy sẽ tôn kính,
[đoàn thể tăng sĩ ấy] có trật tự, có lễ
tiết, chẳng rối loạn tí nào, có quy củ. [Đối
với đoàn thể ấy], đại chúng mới có thể
sanh khởi cái tâm cung kính.
Đối
với người tu hành, tín chúng thực hiện Tài Bố
Thí (bố thí các vật phẩm), c̣n người tu hành
đối với họ (tín chúng) là Pháp Bố Thí. Nhất
định là nếu họ (tín chúng) có câu hỏi ǵ, hễ
nêu ra, sẽ giải đáp cho họ. Đấy là Pháp Bố
Thí. Chẳng có câu hỏi, sẽ chú nguyện cho họ, chúc
phước cho họ, cũng là v́ họ thuyết pháp. Nói
năng chẳng nhiều, thời gian không dài, mấy câu
khuyến khích, khích lệ họ, dặn ḍ họ. V́ thế,
thí chủ tài thí, pháp sư [đáp tạ bằng] pháp thí. Chẳng
thể ăn không! [Phải thuyết pháp hoặc chú nguyện
để đáp tạ], đó là Pháp Cúng Dường. Thí chủ
tài cúng dường cho quư vị, quư vị đối với
họ bèn hành Pháp Cúng Dường. Đấy là nêu ra một
thí dụ.
Bất
luận là người khác bố thí cho chính ḿnh, hoặc thấy
người khác đang thí xả, người khác đang
phụng hiến, chúng ta thấy, nghe, tiếp xúc, đều
phải nên phát nguyện, “nguyện
cho chúng sanh, có thể xả hết thảy”. Chẳng có
ǵ không thể buông xuống, “tâm
vô ái trước” (tâm chẳng yêu mến, chấp trước).
Thanh Lương đại sư đă chú giải rất
đơn giản.
(Sớ)
Nhất thiết tất xả, diệc xả tâm dă.
(疏)一切悉捨,亦捨心也。
(Sớ: Hết thảy đều xả, mà
cũng xả cái tâm).
Xả tâm ǵ vậy? Xả vọng
tâm, quư vị chẳng có cách nào xả chân tâm! Xả trừ
vọng tâm, chân tâm hiển lộ. Vọng tâm là ǵ? Vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước. Chỉ cần
buông xuống vọng tưởng, phân biệt, chấp trước,
chân tâm sẽ hiện tiền. Ngay cả cái tâm cũng phải
xả, huống hồ vật ở ngoài tâm, có thứ ǵ chẳng
thể xả ư? Chúng ta hăy ngẫm xem, người học
Phật tại gia hay xuất gia, v́ sao học vất vả
ngần ấy? Học khó khăn dường ấy? Chính
là do chẳng liễu giải chân tướng sự thật,
[cho nên] hết thảy đều không buông xuống
được! Hễ không buông xuống được,
quư vị sẽ có Khổ Thọ.
“Tâm vô ái trước”: “Ái” (愛) là tham ái, là ngu
si, là vọng tưởng. “Trước”
(著) là chấp trước, tức Ngă Chấp và Pháp Chấp.
Kinh Hoa Nghiêm nói “phân biệt, chấp
trước”. “Trước”
là chấp trước, Ái là vọng tưởng; đấy
chính là tham, sân, si. “Tâm vô ái trước”
tức là trong tâm chẳng có tham, sân, si. Xả trừ tham,
sân, si là đúng. Đối với hết thảy các pháp,
đều hiểu rơ ràng, minh bạch; đấy là Huệ.
Đối với thuận cảnh chẳng tham luyến, đối
với nghịch cảnh chẳng sân khuể, quư vị thật
sự buông xuống. Cảnh duyên có trở ngại sự
hay không? Chẳng trở ngại sự. Kinh Hoa Nghiêm nói “Lư Sự vô ngại, Sự Sự
vô ngại”. Cái thật sự gây ra chướng ngại
chính là ǵ? Tham, sân, si, mạn là chướng ngại, chướng
ngại nghiêm trọng. Chỉ cần có những thứ ấy,
toàn thể hoàn cảnh và hết thảy các pháp đều
bị vặn vẹo, biến Nhất Chân pháp giới thành
mười pháp giới, biến Pháp Thân thanh tịnh thành
thân trong mười pháp giới lục đạo. Tuy là biến,
[chỉ là] tướng biến, tánh chẳng thay đổi!
Đạo lư này rất ư là sâu! Nay thời gian đă hết
rồi, chúng tôi nói tới chỗ này.
***
Chư vị pháp sư, chư vị đồng học,
xin hăy ngồi xuống. Bài kệ thứ chín nói về bố
thí, “nhất thiết năng xả”
(hết thảy đều có thể bỏ). Lời giáo huấn
này của đức Phật dành cho chúng sanh có ư nghĩa rất
sâu trong ấy. Mê chứ không giác, đặc biệt là chúng
sanh trong lục đạo, có kẻ nào chẳng mong tiền
tài, chẳng cầu thông minh, trí huệ, chẳng cầu khỏe
mạnh, sống lâu? Đức Phật chẳng cấm mọi
người chớ nên mong cầu. Đức Phật chẳng
hề ngăn cấm, mà ngược lại c̣n dạy mọi
người đạo lư và phương pháp để cầu.
Đức Phật chỉ là dạy [những điều ấy],
thật sự là v́ [khiến cho hành nhân] thật sự phát tâm tu hành, giác ngộ. Mục đích của
Ngài [là giúp cho chúng sanh] chẳng c̣n luân hồi trong lục
đạo nữa. Muốn vượt thoát luân hồi, vượt
thoát mười pháp giới, phải xả những thứ
ấy.
Đối
với chuyện phú quư, cùng quẫn, hanh thông, cát, hung, họa, phước trong suốt một đời của
lục đạo phàm phu, không ai là chẳng đă định
sẵn, thường nói là “định
số”. Ngạn ngữ Trung Hoa có câu: “Nhất sanh giai thị mạng, bán điểm bất
do nhân” (Suốt đời đều do mạng, chẳng
nửa điểm do người). Người thời cổ
hiểu nhân quả, tin tưởng vận mạng. Do vậy,
dẫu gặp cảnh nghèo túng, gặp cảnh khổ nạn,
họ cũng chẳng oán trời, chẳng hờn người.
V́ sao? Trong mạng phải nên xảy đến [những chuyện
như vậy], làm sao quư vị có thể trốn khỏi?
Đó gọi là “sanh tử hữu
mạng, phú quư do thiên” (sống chết có mạng, phú quư
do trời), chính ḿnh chẳng thể làm chủ được!
Niềm tin và tư tưởng ấy được gọi
là Túc Mạng Luận (宿命論). Đức Phật có nói đến Túc Mạng hay
không? Nói chớ! Đức Phật cũng nói. V́ sao? Đấy
là một hiện tượng tự nhiên, xác thực là tồn
tại trong vũ trụ, nhưng Phật pháp c̣n có một
chiêu quư vị ắt phải thấu hiểu: Túc Mạng là
định số, ngoài định số c̣n biến số.
Chư vị đọc Liễu Phàm Tứ Huấn sẽ
biết, Khổng tiên sinh đoán mạng cho ông Liễu Phàm,
[những ǵ ông Khổng đă tiên đoán chính là] định
số. Quư vị thấy ông ta đă đoán [vận hạn]
lưu niên[3] cho Viên Liễu Phàm;
nói ông Viên là người đọc sách, làm quan, suốt
đời phải nên theo đuổi nghề nghiệp nào,
cũng là do trong mạng đă định sẵn. Quư vị
làm sai nghề, sẽ càng vất vả!
Định
số do đâu mà có? Do ai định? Do những nghiệp
mà chính ḿnh đă tạo tác trong đời quá khứ cảm
vời quả báo trong đời này, do chính ḿnh định,
chẳng phải do ai khác định đoạt cho quư vị!
Người khác định cho quư vị, nếu bảo là
do Thượng Đế định, hay do Phật, Bồ
Tát định, vậy th́ v́ sao Phật, Bồ Tát cho kẻ
này phú quư, cho người kia nghèo hèn? Như vậy là rất
thiếu công bằng! Dựa vào đâu? V́ thế, phải
là do nghiệp lực của chính ḿnh chiêu cảm, chẳng
phải do người khác định cho chúng ta. Phật
môn có một câu ngạn ngữ rất hay: “Dục tri tiền thế nhân”, [nghĩa là] nếu
chúng ta muốn nghĩ xem trong đời quá khứ đă tạo
cái nhân ǵ, “kim sanh thọ giả
thị”, những ǵ quư vị đă hứng chịu trong
một đời này, khổ, lạc, ưu, hỷ, phú quư,
bần tiện, cát, hung, họa, phước, đều do
nghiệp đă tạo trong kiếp trước quyết
định. “Dục tri lai thế
quả, kim sanh tác giả thị”: Nếu quư vị muốn
nghĩ xem đời sau có quả báo như thế nào, vậy
th́ trong đời này, quư vị khởi tâm động niệm,
ngôn ngữ, tạo tác, chính là tạo cái nhân trong đời
này, cảm vời quả báo trong tương lai. Đấy
là chân lư, là chân tướng sự thật trong lục đạo.
Định
số có thể sửa, chẳng phải là không thể sửa.
V́ sao? Trong định số có cộng, trừ, nhân, chia, chớ
nên không hiểu đạo lư này! Nếu quư vị làm lành, do
tâm thiện và hạnh thiện, sẽ được cộng
thêm; trong định số của quư vị được
cộng thêm. Nếu quư vị tạo ác, sẽ bị trừ
bớt, sẽ bị giảm thiểu. Hằng ngày đều
có cộng, trừ, nhân, chia. Đại thiện bèn nhân lên,
đại ác bị chia ra. Tiểu thiện liền cộng
vào, tiểu ác bèn trừ đi. Hằng ngày đều có cộng,
trừ, nhân, chia! Nhưng đối với kẻ b́nh phàm,
mức độ “cộng, trừ, nhân, chia” chẳng lớn.
V́ thế, xem bói vẫn c̣n khá chuẩn xác. Chẳng thể
chuẩn xác một trăm phần trăm, nhưng có mức
chuẩn xác khá cao. Đạo lư ở chỗ này! Nếu quư
vị hiểu đạo lư này, sẽ chuyên làm việc thiện,
chẳng c̣n tạo ác nữa. Do vậy, sẽ từ cộng
biến thành nhân. Nếu quư vị chẳng hiểu đạo
lư này, chẳng tin nhân quả, chẳng tin báo ứng, không
điều ác nào chẳng làm, sẽ là từ trừ biến
thành chia, sự tổn thất ấy quá lớn!
Chư
vị đọc Tứ Huấn của tiên sinh Liễu
Phàm, đọc Du Tịnh Ư Công Ngộ Táo Thần Kư (bài kư về
chuyện ông Du Tịnh Ư gặp ông Táo), quư vị sẽ hiểu
rơ: Vận mạng do chính ḿnh kiến lập, chính ḿnh có thể
biến đổi, chính ḿnh có thể sáng tạo. Chỉ cần
quư vị hiểu đạo lư này, hiểu phương pháp
này, y giáo phụng hành, trong một đời này, vận mạng
của quư vị từ nay trở đi đều thay
đổi! Cổ nhân đă có rất nhiều trường
hợp như vậy, người hiện thời cũng
không phải là ngoại lệ. Chỉ cần hiểu
được đạo lư và phương pháp này, chẳng
có ai không thể thay đổi [vận mạng]. Trong những
bạn bè tôi quen biết, c̣n có mấy người cuộc
sống rất vất vả, thậm chí toan tự sát, gặp
tôi, tôi đưa Liễu Phàm Tứ Huấn cho họ xem.
Tôi nói: “Bạn thấy đó, tôi nương theo
phương pháp này, tôi sửa được! Bạn
cũng có thể sửa đổi, thảy đều có
hiệu quả, lại c̣n có hiệu quả hết sức
thù thắng!”
Thí
tài được của cải. Trong mạng chẳng giàu
có cho lắm, hăy bố thí. Khi bố thí, chẳng cầu
mong ǵ, tốt lắm! Nếu chẳng cầu ǵ, lợi tức
sẽ rất sâu dầy. Nếu có mong cầu, tuy có lợi
tức, rất mỏng, chẳng nhiều cho mấy!
Cũng có nghĩa là: Trong mạng quư vị đă có, dẫu
vứt đi, cũng chẳng vứt được. Trong
mạng chẳng có, dẫu cầu, cũng chẳng cầu
được! Nhưng chẳng trụ tướng (chấp
vào tướng) để bố thí, bố thí vô điều
kiện, quả báo của sự thí xả ấy sẽ chẳng
thể nghĩ bàn. Cầu thông minh, trí huệ, hăy tu Pháp Bố
Thí. Pháp Bố Thí có phạm vi rất rộng, phải hiểu
điều này! Ta hiểu, người khác chẳng hiểu,
nhưng họ chịu học, ta bằng ḷng dạy họ.
Đấy là Pháp Bố Thí. Dạy họ may quần áo là Pháp
Bố Thí. Quư vị dạy họ nấu nướng
cũng là Pháp Bố Thí, nhiệt tâm dạy bảo họ.
Đương nhiên thù thắng nhất là Phật pháp.
Đối với Phật pháp, quư vị biết một
câu, sẽ nói với họ một câu. Quư vị biết hai
câu, sẽ nói với họ hai câu, đều là Pháp Bố
Thí. Thật sự chẳng biết nói, gặp họ bèn
khuyên họ niệm một câu A Di Đà Phật, họ niệm
theo quư vị. Đấy cũng là Pháp Bố Thí. Chẳng thể
xem văn tự, chẳng biết chữ, hiện thời
đĩa CD giảng kinh, dạy học rất nhiều, quư
vị tặng cho họ, bảo họ tự nghe, đều
là Pháp Bố Thí. Đạo tràng giảng kinh, quư vị báo cho
họ biết tin tức ấy, khuyên họ đến nghe.
Phương pháp để thực hiện Pháp Bố Thí quá
nhiều! Sách Phật, thiện thư khuyên làm lành, hăy tặng
cho nhiều! Toàn bộ đều là Pháp Bố Thí. Do Pháp Bố
Thí, sẽ được thông minh, trí huệ. Quư vị
chướng ngại Pháp Bố Thí, quả báo sẽ là ngu
si. Chướng ngại kẻ khác đến nghe kinh,
chướng ngại người khác học Phật, quả
báo là ngu si. Chướng ngại kẻ khác làm lành, sai mất
rồi!
Trong
Vô Úy Bố Thí, tốt nhất là quư vị biết chẳng
kết oán cừu với chúng sanh nữa! Thực hiện từ
chỗ nào? Hăy từ chẳng ăn thịt chúng sanh, thực
hiện từ chỗ này. Chẳng kết oán cừu với
chúng sanh, quả báo sẽ là khỏe mạnh, sống lâu.
Người trong thế gian hiện thời có một quan
niệm sai lầm, cứ nghĩ “chỉ có ăn thịt
th́ mới có chất bổ, đồ chay chẳng có chất
dinh dưỡng”. Sai mất rồi! Sai lầm đặc
biệt to tát! Quư vị thấy người xuất gia
trong Phật môn ăn chay, rất nhiều vị tại gia
cư sĩ ăn chay, thân thể họ rất khỏe mạnh.
Tôi ăn chay đă năm mươi lăm năm, mọi
người đều thấy chuyện này. Tôi ăn rất
đơn giản, tất cả hết thảy đồ
bổ ǵ đi nữa, tôi nhất loạt chẳng dùng. Tôi
cũng ăn rất ít, thân thể rất khỏe! Toàn thân
chẳng có bệnh tật ǵ! Vào tháng Mười Một
năm ngoái, tôi ở Bắc Kinh ngă bệnh vài ngày. Cuối
cùng, thầy lang họ Lưu chẩn mạch, bảo tôi: “Nguyên
nhân khiến thầy bị bệnh là do ruột và dạ
dày có virus”. Sau khi tôi uống thuốc Bắc bốn ngày, thầy
lang nói virus hoàn toàn chẳng c̣n nữa, thân thể rất tốt.
Thầy lang bảo tôi có thể ăn uống b́nh thường.
V́ trong lúc bị bệnh chỉ có thể ăn cháo, ăn dưa
muối, một giọt dầu cũng chẳng thể
ăn; nay ăn uống b́nh thường như cũ. V́ thế,
ăn chay chẳng kết oán cừu cùng chúng sanh. Đấy
là Vô Úy Bố Thí.
Quyết
định chớ nên có tâm sát hại chúng sanh. Không chỉ
là [chớ nên] giết, mà cái tâm tổn hại chúng sanh cũng
chớ nên có. Tâm niệm đă chẳng có, đương
nhiên là quư vị sẽ chẳng có hành vi. Tôi thường nói:
Mùa Hè muỗi đốt chúng ta, quư vị phải biết
v́ sao nó tới đốt ta? Vẫn chẳng phải là v́
đói, muốn kiếm chút ǵ để ăn ư? Ăn
no, nó sẽ không có chuyện ǵ nữa! Nếu chúng ta hoan hỷ
bố thí, cúng dường nó một bữa ăn, cho nó
ăn no, nó sẽ đi. Nếu chẳng muốn bố thí
cho nó, đuổi nó đi là được rồi. Đập
nó một phát chết tươi, sai lầm! Đấy là sát
sanh, quư vị đă kết oán cừu với nó. Những tiểu
động vật thường thấy trong nhà như gián,
kiến, thảy đều có sanh mạng, đều phải
yêu thương. Chúng quá nhiều, nhiễu loạn chúng ta,
có thể thương lượng với chúng, xin chúng chớ
nên quấy nhiễu. Chúng nó rất nghe lời, có thể tṛ
chuyện, chẳng phải là không thể tṛ chuyện! Những
trường hợp như vậy trong nhiều năm qua
chúng tôi đă làm rất nhiều. Rất nhiều vị tại
gia cư sĩ đều học biết [phương pháp],
có thể trao đổi cùng những tiểu động vật
ấy: Chúng ta đôi bên sống với nhau cùng một chỗ,
an ổn vô sự, chẳng nhiễu loạn lẫn nhau.
Chúng nó muốn t́m thứ ǵ ăn, ta để ở ngoài cửa
để cúng dường chúng nó. Đối với những
động vật như gián, chuột, ta để những
thức ăn c̣n dư ở bên ngoài, để ở chỗ
cố định, chúng nó sẽ tới đó ăn, sẽ
không ḅ lung tung khắp nơi. V́ thế, phải hiểu đạo
lư, phải biết phương pháp, tâm nhất định
phải là tâm yêu thương, che chở hết thảy
chúng sanh, quyết định chớ nên tổn hại!
Thí
tài, thí pháp, thí vô úy, quả báo là như vậy đó, quư vị
mới có thể đạt được của cải,
được thông minh, trí huệ, được khỏe
mạnh, sống lâu. Đức Phật dạy bọn chúng
sanh trong lục đạo, câu nào cũng đều là chân
thật. Nếu quư vị muốn xuất ly lục đạo
luân hồi, có phải làm những chuyện ấy hay không?
Phải làm! Phải làm, nhưng đừng cầu quả
báo. Ta thí tài, không cầu tài. Thí pháp cũng chẳng cầu
thông minh, trí huệ. Thí vô úy, ta cũng không cầu khỏe mạnh,
sống lâu. Ta chỉ cầu sanh về Tây Phương Cực
Lạc thế giới, há có chuyện chẳng làm được
ư? Có thể xả hết thảy, xả sạch sành
sanh, người ấy sẽ thành Phật.
Xả,
chư vị phải ghi nhớ, chẳng phải là xả
nơi Sự. Hết thảy sự tướng, vạn vật
đều là giả, chẳng thật! Phàm những ǵ có tướng
đều là hư vọng. Hư vọng th́ phải xả,
phải biết điều này, nhưng quan trọng nhất
chính là xả sự yêu mến và chấp trước trong
tâm! Phải bỏ sạch thứ này! Đối với điều
ǵ thuận theo ư ḿnh, chẳng có tâm tham. Bỏ sạch tham
ái, chẳng có tham ái. Điều ǵ chẳng thuận theo ư
ḿnh, đừng sân khuể, khiến cho tâm quư vị khôi phục
“giác, chánh, tịnh”. “Giác, chánh,
tịnh” là chân tâm của chính ḿnh, là Phật Tánh. Quư vị
có thể bỏ sạch tham, sân, si, mạn, thị phi, nhân
ngă, tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục
trần, chúc mừng quư vị! Quư vị cách Phật chẳng
xa. Nếu quư vị mong liễu sanh tử, thoát tam giới,
chứng quả vị Phật, Bồ Tát, chẳng khó! V́
sao những kẻ b́nh phàm học Phật khó khăn ngần
ấy? [Nguyên nhân là do] người ấy (người học
Phật) chẳng chịu xả, không buông xuống
được! Đối với những thứ ấy, người
ấy hết sức chấp trước, sai mất rồi!
Tích lũy công đức, đoạn ác tu thiện; nói thật
ra, trong Phật môn, có thể tu, công đức thù thắng
khôn sánh!
Tu
trong Phật môn như thế nào? Trong Phật môn, nhất
định phải tu Lục Ḥa Kính. Lục Ḥa Kính là có thể
xả, hết thảy đều có thể xả. Quư vị
thấy điều thứ nhất là Kiến Ḥa Đồng
Giải. Chúng ta đối xử với kẻ khác, bản
thân chúng ta có ư kiến, có thành kiến, phải bỏ chúng
đi, thuận theo người khác. Chúng ta chẳng có ư kiến,
chẳng có thành kiến, hăy bỏ! Nếu không bỏ, mỗi
người có một cách nh́n riêng, ai nấy có cách nghĩ
riêng, sẽ đấu tranh, chẳng nhường nhịn
lẫn nhau, sự ḥa thuận sẽ bị phá hoại, sẽ
bất ḥa. V́ thế, từ kinh điển, chúng tôi đọc
thấy Kiến Ḥa Đồng Giải trong Phật pháp,
đúng là bội phục từ trong nội tâm. Đức
Phật chẳng nói tri kiến của quư vị đều
là sai lầm, [tri kiến của] ta là chánh xác, các vị nhất
định phải theo tôi! Đức Phật chẳng nói
kiểu đó, đức Phật nói như thế nào? Mọi
người hăy bỏ sạch những thành kiến đi,
[tri kiến] sẽ giống hệt như nhau! Quư vị nói
xem, nói kiểu đó mọi người có phục hay không?
Chẳng bàn căi chi nữa! Tâm thanh tịnh! Trong cái tâm thanh tịnh,
chẳng có một tạp niệm; đấy mới thật
sự là Kiến Ḥa Đồng Giải.
Tâm
không thanh tịnh, chỉ có cách dùng giới luật. Mọi
người cùng ở chung một chỗ, ấn định
một công ước, ấn định một
chương tŕnh, cùng nhau tuân thủ. Đấy là lâm thời,
tạm thời. Khi thật sự đạt đến ḥa
kính, tức là tâm thanh tịnh hiện tiền, tâm b́nh đẳng
hiện tiền, Lục Tổ Đàn Kinh đă nói rất
hay: “Bổn lai vô nhất vật,
hà xứ nhạ trần ai” (Vốn chẳng có một vật,
chỗ nào vướng bụi trần). Đó là nói đến
minh tâm kiến tánh. Tâm xác thực đạt đến
thanh tịnh, tịch diệt; do vậy, “Phật Phật đạo đồng”, mới
thật sự là đạt đến Kiến Ḥa Đồng
Giải. Quyết định chớ nên xung đột với
đại chúng, chớ nên có ư kiến về người
khác. Trong một đạo tràng, hăy nghe theo ai? Đạo tràng
có Trụ Tŕ, hăy nghe theo vị ấy. Ư kiến bất
đồng cũng phải buông xuống, vẫn nghe theo vị
ấy, chớ nên thuận theo ta. Hễ “ta có ư kiến,
ngươi có ư kiến”, quốc gia sẽ loạn tùng phèo!
V́ thế, trong một tự viện, am, đường
nghe theo vị Trụ Tŕ, một trường học nghe
theo hiệu trưởng, một công ty, hăng, tiệm nghe
theo chủ nhân, một gia đ́nh nghe theo gia trưởng, một
quốc gia nghe theo người đứng đầu đất
nước; đấy là chánh xác. Nhất định phải
hiểu đạo lư này!
Điều
thứ hai là Giới Ḥa Đồng Tu, quư vị phải tŕ
giới. Tŕ giới th́ phải xả! Ví như Ngũ Giới,
[điều đầu tiên là] “không sát sanh”, chúng ta phải
bỏ sạch ư niệm và hành vi sát sanh. Đối với
[giới điều] “không trộm cắp”, chúng ta phải
bỏ sạch hành vi và ư niệm trộm cắp. Chớ nên
như thế nữa, thảy đều phải bỏ sạch!
Sau đấy mới có thể “thân
đồng trụ, khẩu vô tránh, ư đồng duyệt,
lợi đồng quân” (thân cùng ở, miệng chẳng
tranh căi, cùng vui vẻ chia sẻ ư kiến, lợi lộc
cùng chia đều). Thứ ǵ cũng đều bỏ sự
ham muốn của chính ḿnh, bỏ tập khí của chính
ḿnh, có thể cư xử ḥa thuận cùng đại chúng.
Nếu chính ḿnh cứ nhất định khăng khăng
phải như thế này, như thế nọ, quư vị sẽ
chẳng thể thuận thảo với đại chúng
được. Nhất định phải hiểu đạo
lư này!
Kinh
văn chỉ có bốn câu, gồm mười sáu chữ,
bao hàm ư nghĩa sâu rộng vô tận. Triển khai ra, muôn sự
muôn pháp thảy đều ở trong mười sáu chữ
ấy. Đấy là như kinh Hoa Nghiêm thường nói: “Một chính là hết thảy, hết
thảy chính là một”. Một bài kệ là hết thảy
các kinh, hết thảy các kinh là một bài kệ, viên dung lẫn
nhau vô ngại. Chúng ta lại xem bài kệ thứ mười:
(Kinh)
Chúng hội tụ tập, đương nguyện chúng sanh,
xả chúng tụ pháp, thành Nhất Thiết Trí.
(經)眾會聚集。當願眾生。捨眾聚法。成一切智。
(Kinh: Chúng hội tụ tập, nguyện cho chúng
sanh, bỏ các tụ pháp, thành Nhất Thiết Trí).
Ư
nghĩa của bài kệ này khá khó hiểu. Thanh Lương
đại sư chú giải cũng rất đơn giản:
(Sớ)
Liễu tụ vô tánh, thành Phật trí dă.
(疏)了聚無性,成佛智也。
(Sớ:
Hiểu rơ Tụ chẳng có tánh, đó là cái trí để
thành Phật vậy).
Câu
này bao hàm ư nghĩa rất sâu. “Tụ”
(聚) là tụ hội. Trên cơi trời, hay trong nhân gian, cho
đến ngạ quỷ, súc sanh, có ai chẳng thích tụ
hội? Luận Ngữ c̣n nói: “Hữu
bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc
hồ” (Có bạn từ phương xa đến,
cũng chẳng vui sao). Do vậy, đây là điều
thường t́nh của con người. Nhất là vào dịp
Tết, người nhà, quyến thuộc đoàn tụ, bạn
bè thân thiết đoàn tụ. Trong xă hội hiện thời,
mối quan hệ giữa con người với nhau rất
chặt chẽ. Đồng nghiệp tụ hội, bạn
học tụ hội, những người cùng nghề tụ
hội, rất nhiều! Đối với những sự
tụ hội ấy, nếu nói thật ra, quư vị phải
liễu giải chân tướng sự thật của nó. Chân
tướng là tụ tán. Quư vị thấy duyên tụ, hôm
nay lần tụ hội này rất đông người. Mấy
giờ sau, duyên tán, chẳng c̣n nữa. Quư vị có thể thấy
“duyên tụ th́ có, duyên tán th́
không”. Có và Không là một, chẳng hai. Do vậy, nó chẳng
có thể tánh. “Tánh”
[được nói trong bài kệ này] là “thể tánh”, có nghĩa là nó (sự tụ hội ấy)
chẳng chân thật. Từ chỗ này, có thể dễ thấy
nhất. Nếu quư vị lại có thể liên tưởng
tất cả hết thảy các pháp, [hăy suy nghĩ] hết
thảy các pháp được h́nh thành như thế nào? Duyên
tụ bèn hiện tướng, tướng bèn sanh khởi.
Duyên tán, tướng liền diệt. Hết thảy các
pháp sanh, diệt, tụ, tán vô thường, [điều này
chính là] sự khải phát rất lớn đối với
chính ḿnh, [giúp cho chính ḿnh] liễu giải chân tướng sự
thật của toàn thể vũ trụ.
Không
chỉ mười pháp giới là như thế, Nhất
Chân pháp giới cũng chẳng phải là ngoại lệ.
V́ thế, gọi là “thành Phật
trí dă” (chính là cái trí để thành Phật). Đức
Phật hiểu điều này quá
rơ ràng, quá minh bạch. Do vậy, trong hết thảy các sự
tụ hội, không chỉ là người, sự, vật thảy
đều có, mà núi, sông, đại địa cũng là “duyên tụ, duyên tán”, mới
thật sự thấu hiểu hết thảy các pháp “vô sở hữu, rốt ráo không,
trọn chẳng thể được”. Trong hoàn cảnh
nhân sự bèn bao hàm vật, [tức là] bao
hàm vạn vật, xác thực là vạn vật; động
vật, thực vật, và khoáng vật đều
được bao hàm. Núi có sơn thần, cây có thụ thần.
Đệ tử Phật phải biết tùy duyên thí giáo, phải
giúp đỡ họ, giúp họ giác ngộ, giúp họ hiểu
lư, sự tụ hội ấy sẽ chẳng luống uổng!
Chúng ta tham gia tụ hội để góp phần náo nhiệt,
vậy là chẳng có ư nghĩa chi hết! [Sự tụ hội
ấy] chẳng cần thiết!
Đệ
tử Phật tham gia tụ hội, nhất định phải
giới thiệu giáo huấn của đức Phật với
mọi người, thật sự giúp đỡ đại
chúng phá mê, khai ngộ, ĺa khổ, được vui; sự
tụ hội ấy sẽ có ư nghĩa, có giá trị. Tuy
chính ḿnh làm những chuyện ấy, phải hiểu ư
nghĩa trong hai câu kệ này: “Chẳng
chấp tướng, làm mà không làm, không làm mà làm”. Giúp
đỡ hết thảy chúng sanh, tam luân thể không, chính
ḿnh quyết định chẳng cảm thấy “ta hôm nay
làm chuyện tốt, đă dạy rất nhiều người
ngần ấy”. [Nếu nghĩ như vậy], quư vị
đă chấp tướng. Chẳng nghĩ chính ḿnh đă
làm, vong ngă! Hễ đạt được “vong ngă, vô ngă tướng, vô nhân tướng,
vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng”, đúng
rồi! Đó là đă thành Phật trí, đấy mới là
thật sự tương ứng với vô tánh, chẳng có
mảy may phân biệt, chấp trước nào! “Làm mà không làm, không làm mà làm”, đạo
lư này quá sâu.
Nếu
quư vị c̣n có phân biệt, chấp trước, hăy ngẫm
xem, tâm quư vị chẳng thanh tịnh. Tâm có ô nhiễm, thân
sẽ không thanh tịnh, hoàn cảnh sẽ không thanh tịnh,
là do đạo lư này. Trong các buổi giảng, chúng tôi
đă nói đạo lư này rất nhiều. Hễ nhắc tới,
chư vị đều có thể lư giải cuộc sống
ấy chẳng dễ sống! V́ thế, buông xuống vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, buông xuống
ích kỷ, buông xuống hết thảy tạo tác. [Hăy chú ư,
tuy nói là “buông xuống”], hết thảy tạo tác vẫn
làm y như cũ, vẫn làm, chẳng phải là không làm! “Buông xuống” [hết thảy
các tạo tác] là ǵ? Trong tâm ta c̣n nghĩ “ta phải làm điều
này, điều nọ”, phải buông xuống ư niệm ấy,
chớ nên có! [Hễ c̣n có ư niệm] “ta đă làm chi đó”, “ta
c̣n muốn làm chuyện ǵ đó”, sẽ chẳng thể
được! Chớ nên có ư niệm ấy, đó là vọng
tưởng. Chư vị nghĩ đến chỗ này, sẽ
thấy ư nghĩa sâu xa.
Tụ
hội là duyên. Sự tụ hội ở đây được
hiểu theo nghĩa rộng, chẳng phải là nghĩa hẹp!
Tụ hội với người khác là duyên, tụ hội
với sự việc cũng là duyên, tụ hội với
vạn vật trong trời đất vẫn là duyên, do nhân
duyên mà tụ hội. Tăng tấn chính ḿnh như thế
nào? Giúp đỡ chúng sanh như thế nào? “Chúng sanh” cũng được hiểu theo
nghĩa rộng. Đấy gọi là Phật pháp. “Thành Nhất Thiết Trí”: Trong
Phật pháp thường nói ba loại trí. Nhất Thiết
Trí có thể bao hàm viên măn ba loại trí huệ. Chúng ta thấy
câu này, chẳng thể nói Ngài (Văn Thù Bồ Tát) chỉ
nói đến Nhất Thiết Trí, chẳng nói tới Đạo
Chủng Trí, mà cũng chẳng nói Nhất Thiết Chủng
Trí. Nói một trí đă bao gồm hết thảy [các loại
trí] trong ấy, trí huệ chân thật mà!
1)
Nhất Thiết Trí là biết Không, muôn pháp đều là Không,
trọn chẳng thể được. Trí huệ ấy
được gọi là Nhất Thiết Trí.
2)
Đạo Chủng Trí là biết hết thảy vạn sự
vạn vật, tức là biết các hiện tướng (現相, các tướng được biến hiện), do
đạo lư nào mà sanh ra những hiện tướng ấy?
[Đó là] Đạo! “Chủng”
(種) là các thứ, là nhiều. Hết thảy vạn sự
vạn vật do đạo lư nào mà có những thứ ấy,
do đâu mà có chúng? Diễn biến như thế nào? Kết
quả trong tương lai là ǵ? Quư vị đều thông
đạt những điều ấy th́ gọi là Đạo
Chủng Trí.
3)
Loại thứ ba là Nhất Thiết Chủng Trí. Nhất
Thiết là trí thể, Đạo Chủng là trí tướng.
Hiện tướng và lư thể là một, không hai; đấy
gọi là Nhất Thiết Chủng Trí. Hợp hai trí lại.
Nguyên lai, sâm la vạn tượng “Tướng có, Tánh không, Sự có, Lư không”, quư vị
c̣n có thể khởi tâm động niệm ư? Quư vị
c̣n có thể phân biệt, chấp trước ư?
Đương nhiên là sẽ buông xuống; đấy chính
là cảnh giới của Như Lai và Pháp Thân Bồ Tát, là
trí huệ của Phật, Bồ Tát. Nếu chúng ta sống
trong cảnh giới ấy, sẽ rất vui sướng,
thật sự vui sướng. Sự vui sướng ấy
chẳng phải là lạc như trong khổ lạc của
thế gian. Chẳng phải vậy! Chẳng có cách nào h́nh
dung, chẳng có cách nào tưởng tượng! V́ thế,
kinh Phật thường nói là “chẳng
thể nghĩ bàn”. Cảnh giới ấy chúng ta chẳng
thể tưởng được, mà cũng chẳng có
cách nào diễn tả được. Chỉ khi nào quư vị
khế nhập cảnh giới th́ mới hiểu
được! V́ thế, thường nói ví von là “như nhân ẩm thủy, lănh
noăn tự tri” (như người uống nước,
nóng lạnh tự biết). Giống như quư vị uống
một chén nước, nước nóng hay lạnh, chỉ
có nếm thử, bản thân quư vị sẽ biết, chẳng
có cách nào diễn tả được! Có nói ra, cũng là
mơ hồ. Tôi nói lạnh, lạnh đến mức
độ nào, không biết! Tôi nói nóng, nóng tới cỡ nào,
cũng chẳng biết. Lại xem bài kệ cuối cùng:
(Kinh)
Nhược tại ách nạn, đương nguyện
chúng sanh, tùy ư tự tại, sở hành vô ngại.
(經)若在厄難。當願眾生。隨意自在。所行無礙。
(Kinh: Nếu gặp ách nạn, nguyện cho chúng
sanh, tùy ư tự tại, việc làm vô ngại).
Tại
gia, nói thật ra, xuất gia cũng chẳng ra ngoài lệ ấy,
chẳng thể tránh khỏi tai nạn! Tai nạn là do những
nghiệp bất thiện đă tạo tác trong đời
đời kiếp kiếp từ vô thỉ kiếp tới
nay cảm vời, phải biết điều này! Biết
chuyện này, vậy th́ trong đời này, hăy cẩn thận,
chú ư, đừng tạo ác nghiệp. Trong quá khứ, khi
chúng tôi mới học Phật, thầy thường ra rả
căn dặn, chớ nên kết oán cừu với chúng sanh!
Thầy trích dẫn khá nhiều câu chuyện lịch sử
để bảo ban: Do vô t́nh hay cố ư làm mất ḷng kẻ
khác, trong tương lai họ sẽ đều phục hận!
Cố ư làm mất ḷng kẻ khác, trong tương lai, họ
sẽ báo thù trực diện. Do vô t́nh làm mất ḷng người
khác, trong tương lai người ta cũng sẽ vô t́nh
gây tổn hại cho quư vị. Nhân quả báo ứng đúng
là chẳng sai suyển mảy may!
Ngôn
ngữ và thái độ rất quan trọng. Đây là một
môn đại học vấn! Khổng Tử giáo học,
môn thứ nhất là đức hạnh, môn thứ hai là ngôn
ngữ, xếp chuyện “làm người như thế nào”
vào hàng đầu! Giáo dục là nhằm dạy những ǵ?
Chính là dạy quư vị biết làm người, dạy quư
vị làm một người tốt, dạy quư vị làm một
người có đức hạnh. Sau đấy mới dạy
quư vị làm việc (biện sự, 辦事). Nay chúng ta gọi “biện sự” là chức nghiệp hoặc nghề
nghiệp. Các ngành nghề, học thuật, chức nghiệp
đều xếp vào sau [đức hạnh], Nho gia gọi
[những thứ nghề nghiệp] bằng từ ngữ “chánh sự” (政事). Đức hạnh, ngôn ngữ, chánh sự, cuối
cùng là văn học. Chánh sự, nói theo ngôn từ hiện
thời, chính là trong một đời này, quư vị học
được một loại kỹ thuật hoặc
năng lực chi đó để làm bản lănh kiếm sống
trong đời này. Cổ nhân rất coi trọng kiểu
giáo dục này. Trong xă hội, quư vị làm một người
hữu dụng, bản thân quư vị có năng lực kiếm
sống độc lập. Thời cổ, phân chia thành các
loại sĩ, nông, công, thương; hiện thời, phân
loại càng nhiều, càng phức tạp hơn, giống
như trong đại học mở ra khá nhiều khoa hệ
(academic department). Quư vị học môn nào, trong tương
lai theo đuổi nghề nghiệp nào, điều ấy
thuộc loại Chánh Sự.
Căn
bản là đức hạnh và ngôn ngữ, cuối cùng mới
là văn học. Quư vị có đức hạnh, có học
vấn, có năng lực, đối với cuộc sống
tinh thần và vật chất trong thế gian này, quư vị
đều chẳng phải lo nghĩ; sau đấy mới
nâng cao phẩm chất cuộc sống của chính ḿnh, giống
như cái hiện thời gọi là “văn nghệ” (文藝, văn học nghệ thuật) được xếp
vào cuối cùng. Nếu cuộc sống vật chất của
quư vị gặp khó khăn, c̣n nói tới văn nghệ chi
nữa? Làm sao nói tới chuyện hưởng thụ về
mặt tinh thần cho được? Do vậy, tuy Phu Tử
nói đơn giản là bốn khoa, nói thật ra, bốn
khoa ấy chính là tổng cương lănh của tất cả
học thuật trong xă hội hiện đại. Nhưng
hiện thời học thuật nẩy sanh vấn đề,
những vấn đề ấy do đâu mà xuất hiện?
Do chẳng có đức hạnh và ngôn ngữ đứng
trước! Do chẳng có những thứ ấy, nên đă
tạo thành sự động loạn trong xă hội. Toàn thể
xă hội bất an, quư vị phải biết nguyên nhân là ở
chỗ nào!
Nếu
nay chúng ta muốn khôi phục trật tự b́nh thường,
ngoài việc khéo học giáo dục luân lư đạo đức
ra, chẳng có cách nào khác! Học từ chỗ nào? Hăy bắt
đầu học từ Đệ Tử Quy. Trong Đệ
Tử Quy có đức hạnh, lại c̣n có ngôn ngữ.
Đấy là tối thiểu, mức độ thấp nhất,
tầng cấp thấp nhất. Chẳng vun quén căn cội
vững vàng ở chỗ này, mai sau, tai nạn càng nhiều
hơn! Tai nạn do đâu mà có? Chính là do trong cuộc sống
thường ngày, quư vị đă hữu ư hay vô t́nh kết oán
cừu với người khác. Nếu nghiêm trọng, quả
báo sẽ ở ngay trong đời này. Khi quư vị đă lớn
tuổi, sẽ thấy quả báo hiện tiền. Đối
với quư vị, kẻ trẻ tuổi chẳng có ḷng cung
kính, chẳng tôn trọng, khinh dễ quư vị. Quư vị bị
khổ nạn, chẳng có ai giúp đỡ quư vị. Trong
đời này, khi tuổi tác đă lớn đôi chút, quư vị
sẽ cảm nhận được. Cổ nhân nói hay lắm:
“Ái nhân giả, nhân hằng ái
chi, kính nhân giả, nhân hằng kính chi” (Yêu thương
người, người sẽ luôn yêu mến. Kính người,
người sẽ luôn kính trọng ta). Ta chẳng yêu
thương người khác, ai sẽ yêu thương quư vị?
Chẳng kính trọng người khác, người ta sẽ
kính trọng quư vị ư? Chẳng có lẽ này!
V́
thế, đối với người, đối với
sự, đối với vật, hăy giữ ḷng yêu kính.
Điều quan trọng nhất là khiêm hư, đối xử
ḥa thuận, vẻ mặt ḥa hoăn, tươi vui. Oan gia hăy nên
cởi gỡ, chớ nên thắt buộc. Phải biết
là đời đời kiếp kiếp trong quá khứ, có
lúc gặp gỡ thiện duyên, học được rất
nhiều thứ, ít tạo ra rất nhiều nghiệp.
Đương nhiên là cũng có rất nhiều đời
nhiều kiếp chẳng có duyên phận ấy, bèn tùy thuận
tập khí phiền năo của chính ḿnh gây tạo khá nhiều
nghiệp chướng. Trong đời này, dẫu chúng ta
làm việc thiện, thuần tịnh, thuần thiện, vẫn
gặp khá nhiều chướng ngại. Những chướng
ngại ấy do đâu mà có? Nói theo phía chính ḿnh, [đó là
do] nghiệp chướng hiện tiền. Nói theo
phương diện xă hội, [sẽ là] chúng sanh chẳng
có phước. Nếu chúng sanh có phước, quư vị sẽ
làm những việc tốt lợi ích chúng sanh. Dẫu chính
ḿnh có nghiệp chướng, nghiệp chướng ấy
cũng sẽ tạm thời chẳng hiện tiền. V́
sao? Quư vị thay chúng sanh làm chuyện tốt, oán thân trái chủ
tạm thời chẳng t́m đến quư vị. Tạm thời
không t́m đến, chứ hoàn toàn chẳng tiêu trừ. Ngày
nào quư vị chẳng làm chuyện tốt, họ sẽ đến
t́m quư vị.
Cổ
nhân giáo huấn người khác, mối cừu hận sâu
nhất là “sát phụ chi cừu
bất cộng đới thiên” (mối thù giết cha chẳng
đội trời chung), kẻ làm con chẳng thể không
báo nỗi oán cừu ấy! Nhưng công việc của cừu
nhân hiện thời là làm việc thay cho đại chúng
trong xă hội. Ví như người ấy làm quan, làm một
huyện thị trưởng, hiện thời kẻ ấy
làm khá lắm, v́ muôn dân trong huyện thị ấy phục
vụ, quư vị sẽ chẳng thể báo cừu, một
vị quan tốt mà! Nhân dân đều hưởng phước
từ người ấy. Quư vị giết kẻ ấy,
tức là người trong cả huyện ấy sẽ
không có phước. V́ thế, lúc này chẳng thể báo.
Đợi cho đến khi nào? Đợi cho đến
khi kẻ đó cáo lăo hoàn hương mới báo thù. Chỉ
cần v́ nhân dân, v́ xă hội, v́ đại chúng toàn tâm toàn lực
làm chuyện tốt, oán thân trái chủ trọn chẳng dám
đụng tới. Người học Phật hiểu đạo
lư này, sẽ đem công đức của những việc
này hằng ngày hồi hướng cho oán thân trái chủ, hy
vọng trong tương lai, khi ta từ chức chẳng
làm nữa, họ sẽ chẳng báo thù. Hóa giải oán kết
ấy, dùng tâm chân thành hồi hướng, dùng tâm chân thành
chia sẻ công đức này cho họ. Người học
Phật hiểu điều này, kẻ chẳng học Phật
chẳng hiểu, quan hệ cũng rất lớn. Cừu
hận thường là nhiều đời nhiều kiếp
chẳng thể hóa giải, oan oan tương báo, càng báo
càng phiền phức, càng báo càng nghiêm trọng. V́ thế, nhất
định là phải hiểu cách hóa giải, dùng ân huệ
đối xử với họ, chớ nên khiến cho họ
oán hận. Có oán hận, đôi bên đều cùng đau khổ.
Không chỉ là một đời này, mà là đời đời
kiếp kiếp đau khổ, đáng thương quá!
Đúng là đáng thương, kinh Phật thường cảm
thán hạng người này là “kẻ
đáng thương xót!” Lời này là thật, chẳng
giả. Nay đă hết thời gian rồi, chúng tôi giảng
tới chỗ này.
Tập 1506
Chư
vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem phẩm
Tịnh Hạnh thứ mười một, bài kệ cuối
cùng trong phần nói chung về hàng tại gia là bài kệ thứ
mười một:
(Kinh)
Nhược tại ách nạn, đương nguyện
chúng sanh, tùy ư tự tại, sở hành vô ngại.
(經)若在厄難。當願眾生。隨意自在。所行無礙。
(Kinh: Nếu gặp ách nạn, nguyện cho chúng
sanh, tùy ư tự tại, việc làm vô ngại).
Tại
gia hay xuất gia, bất luận nam, nữ, già, trẻ, cũng
chẳng luận phú quư hay nghèo hèn, trong suốt một đời
người, nói chung, đều chẳng tránh khỏi bệnh
tật, tai nạn. “Ách nạn”
(厄難) cũng bao gồm cả bệnh tật. Nói thật
ra, người đời chẳng biết nghiệp nhân. Do
vậy, khi gặp tai nạn, không ít kẻ oán trời hờn
người: “V́ sao trời cao khiến cho tôi khổ sở
dường này? Bị tai nạn nhiều ngần này?” Chẳng
biết những ách nạn ấy đều có tiền nhân
(前因, cái nhân từ
trước)! Những chuyện gặp gỡ của tất
cả hết thảy chúng sanh trong một đời, tuyệt
đối chẳng thể có một chuyện nào, dẫu
là chuyện nhỏ nhặt đến mấy đi nữa,
mà chẳng có cái nhân từ trước, tuyệt đối
chẳng có [chuyện nào không có cái nhân trước đó].
Ngạn ngữ Trung Hoa thường nói: “Nhất ẩm, nhấc trác, mạc phi tiền định”
(Một hớp uống, một miếng ăn, không ǵ chẳng
định sẵn). Chuyện dẫu nhỏ nhặt đến
mấy vẫn là tiền định. Đạo Hồi dạy
mọi người tin vào tiền định: “Allāh dựa theo tiền định để sáng tạo
vạn vật”, bao
gồm cả con người, nhân loại cũng được
gộp trong ấy. V́ sao Thượng Đế tạo ra
người này được hưởng phước? Tạo
ra người kia khiến cho họ chịu tội? Chẳng
phải là Allāh không công bằng, chẳng phải
là Allāh cố ư làm như thế, thảy
đều là dựa theo tiền định. Phật pháp
nói càng rơ ràng hơn. Ba nhà Nho, Thích, Đạo tại Trung
Hoa đều nói rất minh bạch: “Tạo thiện nhân nhất định được
thiện quả, tạo ác nghiệp quyết định có
ác báo”. Giáo dục nhân quả hết sức trọng yếu.
Nhưng trong xă hội hiện tiền, v́ khoa học kỹ
thuật phát triển, tạo thành sức tấn công rất
lớn đối với luân lư, đạo đức, nhân
quả, tôn giáo. Sức mạnh ấy đă khiến cho nền
văn hóa truyền thống bị phá hoại nghiêm trọng.
Người
hiện thời chẳng biết luân lư đạo đức
là ǵ. Khoa học đem lại cho con người cuộc sống
ham muốn hưởng thụ vật chất, sống cuồng
hoan, phóng túng, xem nhẹ ḷng yêu thương hoàn cảnh tự
nhiên. Con người hiện thời dựa vào khoa học
để chinh phục tự nhiên. Nói thật ra, “chinh phục tự nhiên” chính
là phá hoại hoàn cảnh sinh thái tự nhiên, có thể là [triệt
hạ] toàn thể rừng rậm. Chúng tôi đến
Trường Giang, năm 2000 chúng tôi đến chơi Trường
Giang, [trông thấy] toàn bộ rừng rậm nguyên thủy
hai bên bờ Trường Giang đều bị chặt trụi.
Hiện thời, dùng máy móc [để tiêu diệt rừng rậm]
quá dễ dàng! Con người muốn chinh phục nó, muốn
lợi dụng cuộc đất ấy, nào có biết
đă tạo thành ǵ? Tạo thành ngập lụt, lụt lội,
chẳng thể ǵn giữ đất, đá. Đấy là
sự phản kháng của thiên nhiên đối với nhân
loại. Thiên tai, nhân họa, thủy tai, hạn hán, băo tố,
động đất, nguyên nhân đều là do con người
gây ra.
Quư
vị thấy thời cổ có cần sử dụng khoa học
kỹ thuật hay không? Cần chứ! Từ mấy ngàn
năm trước đă bắt đầu dùng, nhưng con
người [thuở ấy] có luân lư, đạo đức,
nhân quả, tôn giáo ràng buộc. Khoa học kỹ thuật
chỉ cần áp dụng vào cuộc sống thường
ngày vừa đúng mức bèn thôi, chẳng phá hoại hoàn cảnh
sinh thái. Mọi người đối xử với nhau bằng
lễ nghĩa; đối với thiên nhiên, tức là đối
với động vật, thực vật, và thiên nhiên
đều có tâm kính sợ. Trong Phật pháp, từ kinh Hoa
Nghiêm, chúng ta thấy có thần cây, thần núi, thần sông,
thần biển, hà bá. Đấy là ǵ? Đấy là kính sợ
thiên nhiên, chúng ta tôn trọng họ, chẳng dám dễ
ngươi phá hoại!
Người
hiện thời chẳng tin tưởng, cho đó là giả.
Người học Phật chúng ta hiểu rơ ràng! Tại
Đồ Văn Ba (Toowoomba) ở Úc, chúng tôi c̣n gặp chuyện
này. Chúng tôi mua một căn nhà cạnh Học Viện.
Căn nhà ấy đă quá lâu đời, chúng tôi đập
bỏ để xây một căn mới. Trong lúc công tŕnh đang
thi công, nơi cổng có mấy cái cây cần phải chặt
đi th́ xe chở vật liệu mới có thể vào
được. Chúng tôi vâng theo quy củ trong Phật môn,
đúng như giới luật đă dạy: Ba ngày trước
đó đă tụng kinh, niệm chú, cúng tế thần cây,
xin ông ta chuyển nhà. Đức Phật dạy chúng tôi làm,
chúng tôi liền làm theo. Ba hôm sau, chúng tôi đến chặt
cây ấy. Trong học viện, có một đồng học
mấy hôm sau nằm mộng, mộng thấy thần cây
nói với người ấy: “Sau này quư vị chặt cây,
tối thiểu là báo cho tôi biết trước bảy ngày”.
[Chỉ báo trước] ba ngày, họ chuyển nhà quá vội
vàng, hy vọng là bảy ngày. Vị đồng học đó
kể cảnh mộng ấy với tôi, tôi nói: “Thật
đấy! Người Úc làm ǵ cũng đều rất
chậm, cứ tà tà. Đại khái là thần cây ở Úc
cũng giống như người Úc, động tác
cũng hết sức thong thả, cần phải bảy
ngày [để dọn nhà], [phải báo] trước bảy
ngày”. V́ thế, tôi bảo mọi người: “Sau này quư vị
muốn chặt cây, [phải nhớ] cây cao bằng thân
người sẽ có thần cây [ngự trên đó]”.
Cũng
có lẽ [quư vị] sẽ hỏi: “Rất nhiều người
chặt cây, v́ sao thần cây chẳng t́m họ?” Đúng vậy!
Đối với kẻ ấy, thần cây chẳng làm thế
nào được, có t́m kẻ ấy cũng vô dụng. T́m
chúng ta sẽ hữu dụng, chúng ta tin tưởng, tôn trọng,
kính yêu họ. V́ thế, họ vui ḷng giao tiếp với
chúng ta. Chúng ta phải hiểu: Thần cây thường theo
sát bên cạnh những kẻ ấy. Ngày nào đó, kẻ ấy
vận suy, thần cây liền báo thù kẻ ấy. V́ thế,
thiên, địa, quỷ thần, thiên thần, tất cả
hết thảy thực vật và khoáng vật trên mặt
đất đều có thần. Quư vị tin tưởng,
họ sẽ t́m quư vị. Quư vị chẳng tin, họ sẽ
báo thù quư vị!
Ở
Bắc Kinh, chúng tôi có một đạo hữu, đồng
tham đạo hữu, cô ta cũng được quỷ
thần báo mộng vào buổi tối. Những quỷ thần
ấy giống như trẻ nhỏ, là trẻ nít, phát ra tiếng
trẻ nít cầu cứu. Họ nói: “Chúng tôi sắp chết
khô”. Nói khá nhiều lần, “tôi là thần cây cỏ trong nhà
bà, tôi là thảo mộc trong nhà bà. Đă rất lâu không
được tưới nước, chúng tôi sắp chết
khô nên đến cầu cứu”. Sáng sớm ngày hôm sau, cô ta
đích thân ra sân xem. Đúng là như thế! Sân có rất
nhiều hoa, cha cô mỗi ngày tưới hoa, không tưới
cỏ. Cỏ mọc trên mặt đất ông cụ không
tưới, những cây nhỏ mọc bên cạnh cũng
không được tưới. Cô ta thấy t́nh h́nh như
vậy, vội vă tưới nước. Cha cô bảo:
“Không cần! Tưới hoa thôi! Cỏ cây cứ mặc kệ
chúng!” “Chúng đến báo cho con biết!” Quư vị có thể
giúp đỡ chúng nó, chúng nó sẽ đến cầu xin quư
vị, giống như con người vậy! Quư vị thấy
người nào mà khi quư vị có tai nạn sẽ nghĩ t́m
tới người đó! Kẻ nào chẳng quan tâm đến
quư vị, ắt quư vị chẳng t́m đến kẻ
đó. Con người có cùng một cái tâm này, tâm có cùng một
lư này. Động vật, thực vật, quỷ thần, cũng
đều chẳng ra ngoài lệ ấy! Đấy chẳng
phải là nói “hễ tin th́ có, chẳng tin th́ không”. Chẳng
phải vậy! Họ luôn có, tin hay không tin, họ đều
có. Đó là chân tướng sự thật. Hễ tin th́ sẽ
như thế nào? Tin th́ họ sẽ qua lại cùng quư vị.
Không tin, họ chẳng qua lại với quư vị. Do vậy,
“có hay không” là “có qua lại hay không”! Quư vị tin tưởng,
tôn trọng họ, họ sẽ qua lại, sẽ đến
t́m quư vị. Quư vị chẳng tin, chẳng tôn trọng họ,
họ chẳng qua lại với quư vị, v́ qua lại với
quư vị chẳng có tác dụng ǵ! Đạo lư là ở chỗ
này!
V́
sao người học Phật, người thiện tâm,
nói theo Phật pháp là “người
thiện căn sâu dầy” thường có những chuyện
này, quư vị thường có thể gặp gỡ? Quư vị
phải hiểu rơ đạo lư này, có thể tiếp nhận,
có thể tin tưởng, có thể giảng cho họ nghe.
Đấy là sự thật, chẳng phải là mê tín. Quư vị
hoàn toàn chẳng liễu giải chân tướng sự thật
này mà tin tưởng th́ là mê tín, nhưng chẳng tin th́ cũng
là mê tín. [Nguyên nhân là v́] chưa hiểu rơ ràng. Phải hiểu
rơ ràng, phải hiểu minh bạch. Đọc sách thánh hiền
th́ ít nhiều cũng liễu giải đôi chút. Nếu thật
sự tu hành, tâm địa thanh tịnh, người ấy
sẽ nhận biết chuyện này, càng thâm nhập hơn!
V́
lẽ ấy, trong hoàn cảnh hiện thời, nếu quư vị
lắng ḷng quan sát kỹ, [sẽ thấy] đối với
những tai họa trong thiên nhiên, cũng có thể nói [nguyên
nhân là do] quư vị xung đột với người khác, quư
vị xung đột với hoàn cảnh thiên nhiên, quư vị
xung đột với quỷ thần. Quỷ thần rất
đông, trong không trung có, trong hư không có [quỷ thần].
Xung đột với họ như thế nào? Quư vị thấy
hằng ngày trên không trung có bao nhiêu máy bay phản lực? Những
chất khí thải được phun ra đều có chất
độc, không khí bị ô nhiễm. Ô nhiễm nghiêm trọng,
trong tương lai, chắc chắn sự sanh tồn của
con người trên địa cầu sẽ gặp phải
sự trả thù [của thiên nhiên]. Các nhà khoa học
cũng cảnh cáo: Hiện thời, khí quyển bị ô nhiễm,
những thứ vật chất có chất độc
đang trôi bồng bềnh trong khí quyển. Nếu có một
ngày nào đó, trọng lượng của những chất
trôi nổi ấy vượt quá điểm băo ḥa, chúng nó sẽ
rơi xuống. Hễ rơi xuống đất, một
cơi đại địa đều tử vong. Đừng
nói là động vật chẳng thể sống sót, cỏ
cây cũng chẳng thể sống sót. Có người nói
đó chính là ngày tàn của thế giới.
Có
rất nhiều cách nói về tận thế, ở đây
là một cách, tức là khí quyển bị ô nhiễm, hết
sức đáng sợ! Khoa học kỹ thuật hiện thời
cũng chẳng có cách nào cứu vớt! Trừ phi toàn thể
nhân loại giác ngộ, chẳng c̣n phá hoại hoàn cảnh tự
nhiên, tuân thủ quy tắc luân lư, đạo đức, đoạn
ác, tu thiện, thế giới này mới được cứu!
Vấn đề trong hiện thời là toàn thể thế
giới, toàn thể nhân loại chối bỏ luân lư, đạo
đức, tin tưởng khoa học. Chẳng phải là
khoa học không tốt, nhưng khoa học chẳng phải
là vạn năng. Khoa học có thể giúp đỡ con người
trong những phương tiện cục bộ, nhưng nó
có tác dụng phụ. Nếu chẳng biết ngăn ngừa
những tác dụng phụ ấy, khoa học có thể hủy
diệt nhân loại. Tôi tin tưởng là hiện thời mọi
người đều biết như vậy. Nay chúng ta mắt
thấy, tai nghe, được tiếp xúc, đều có cảm
xúc ô nhiễm nghiêm trọng! Hiện thời, kẻ b́nh phàm
cũng ư thức sự vật bị ô nhiễm nghiêm trọng,
nước bị ô nhiễm dường ấy! Chúng ta chú
trọng [bảo vệ] những ao nước, sông ng̣i
trong vùng phụ cận, có thể giải quyết vấn
đề hay không? Chẳng thể giải quyết! V́ sao? Biển
cả bị ô nhiễm, khí quyển bị ô nhiễm, toàn
thể nhân loại đều chẳng cứu được.
Đấy là tai nạn chưa hề có tiền lệ trong
lịch sử.
Nhưng
các nhà khoa học cho biết: Trên địa cầu đă có
chuyện tuần hoàn giống như vậy. Trong quá khứ
đă xảy ra vài lần. Tôi đă từng xem một báo
cáo nói là hơn một vạn năm trước, trên địa
cầu đă xuất hiện một nền văn minh khoa
học kỹ thuật cao, tức Á Đặc Lan Đề
Tư (Atlantis). Do v́ nhân dân theo đuổi hưởng thụ
vật chất, không ǵ chẳng làm, hoàn toàn mất sạch
luân lư, đạo đức, tạo thành sự biến hóa
trên lớp vỏ của toàn bộ địa cầu,
đại lục bị ch́m xuống đáy biển.
Nơi ấy nay chính là Đại Tây Dương. V́ sao gọi là Đại Tây
Dương ̣̣̣(Atlantic Ocean)? Thuở ấy, quốc gia có nền khoa học kỹ thuật phát triển nhất được gọi
là Đại Tây Quốc (Atlantis). Do toàn thể lớp
vỏ trái đất
nẩy sanh biến hóa, lục địa ch́m xuống,
đất đai mới nổi lên, tức là địa
đồ như trong hiện thời. Chúng tôi ở Mỹ,
tức là mười mấy năm trước khi ở Mỹ,
đă thấy một tấm bản đồ. Bản đồ ấy
nói rơ, từ năm 2000 cho đến
năm 2100, toàn thể thế giới sẽ nẩy sanh biến
hóa, cũng gần giống như Á Đặc Lan Đề
Tư thuở ấy, khá nhiều lục địa bị
ch́m xuống biển, trong biển cũng có không ít lục
địa nổi lên. Khí hậu nẩy sanh biến hóa rất
lớn, nhiệt đới biến thành hàn đới, hàn
đới biến thành nhiệt đới, trục tâm của
địa cầu thay đổi. Do sự biến hóa ấy,
chúng ta biết là những sinh vật trên địa cầu
chẳng thể sống sót. Do nhiệt đới đột
nhiên biến thành hàn đới, [các sinh vật thuộc nhiệt
đới] chẳng thể thích ứng; hàn đới biến
thành nhiệt đới, cũng chẳng thể thích ứng[4].
Đại ách nạn, là ách nạn chưa từng có, chẳng
phải là tiểu tai nạn, làm như thế nào đây?
Do
vậy, trong hiện thời, tôi thường nói với những
đồng học khá thân cận: Chúng ta phải tận
toàn tâm toàn lực, phải nghiêm túc tu tŕ, tŕ giới niệm
Phật, hồi hướng công đức ấy cho hết
thảy chúng sanh trong pháp giới. Đừng nghĩ sức
của chúng ta quá yếu mỏng, [cứ hồi hướng],
sẽ dấy lên tác dụng. Thứ nhất là đối với
chính ḿnh, chính ḿnh phải có cái tâm cảnh giác cao độ.
Tai nạn xảy đến, chớ hoảng sợ, chớ
kinh hăi. Liễu giải rơ ràng đấy là do cộng nghiệp
của chúng sanh trên địa cầu cảm vời, chúng
ta có nơi tốt lành để đến, đến thế
giới Cực Lạc, đến các cơi Phật. Những
kẻ theo tôn giáo không tin những điều này, họ có
thể lên cơi trời. Chẳng đoạn dục! Dục
Giới có sáu tầng trời, hoàn cảnh sống trong [các
tầng trời] Tứ Vương, Đao Lợi, Dạ Ma,
Đâu Suất đều tốt hơn địa cầu quá
nhiều, quư vị có thể sanh vào thiên đạo. Đấy
gọi là “tùy ư tự tại, sở
hành vô ngại”. Nếu quư vị chẳng có sự nhận
biết này, chẳng chuẩn bị cho chuyện này, mai sau,
sẽ bị phiền toái. Tai nạn hiện tiền, trở
tay không kịp, tâm ư hoảng loạn, nhất định sẽ
đọa vào tam đồ, sai mất rồi! [Ách nạn
được nói] trong bài kệ này bao gồm những bệnh
tật nho nhỏ, những trở ngại nho nhỏ của
cá nhân cho đến [những tai nạn ảnh hưởng
tới] toàn thể nhân loại, tức là “ngày tận thế” như các tôn giáo ngoại quốc
thường nói. Chúng ta chớ nên không biết.
“Đương nguyện chúng
sanh” ở chỗ này, tối thiểu là câu “đương nguyện chúng sanh”
của chúng ta phải khái quát toàn thể nhân loại, tức
là toàn thể nhân loại trên địa cầu, c̣n phải
bao gồm tất cả các sinh vật trên địa cầu,
tất cả chúng sanh sống trên quả địa cầu
này. Đọc kinh Hoa Nghiêm, chúng ta chớ nên có nghi vấn.
Trong những phần trước, chúng ta đă đọc
thấy quá nhiều. Trong bộ kinh này, đức Phật
đă nói hơn ba mươi loại chúng sanh, chúng ta hăy nên
tin tưởng lời Phật. Chỗ thù thắng nhất
trong cảnh giới do đức Phật đă nói chính là
đức Phật trọn chẳng dạy chúng ta chỉ
tin Ngài là đúng, chẳng phải vậy! Chỉ tin Ngài, sẽ
biến thành tôn giáo, sẽ biến thành mê tín! Đức Phật
chẳng như vậy. Đức Phật dạy chúng ta
hăy chứng minh lời Ngài dạy là sự thật. Giáo huấn
kiểu này cao minh tột cùng. V́ thế, Phật pháp nói “tín, giải, hành, chứng”. Cuối
cùng nhất định là quư vị phải tự ḿnh chứng
minh, quư vị mới thật sự được thọ
dụng. Nếu bản thân quư vị chẳng thể
đích thân chứng, chỉ dừng lại ở chỗ
tin tưởng lời Phật dạy, quư vị chẳng khai
ngộ, chẳng thể chứng quả. Chỉ có thể
coi quư vị vẫn là một Phật tử kiền thành, nhưng
quư vị cũng đạt được lợi ích. V́
sao? Quư vị có thể y giáo phụng hành, khẳng định
là quư vị sẽ đoạn ác, tu thiện, sẽ tích
lũy công đức. Lợi ích chính là quư vị chẳng đọa
tam đồ, chẳng bị đọa trong ác đạo,
đời sau c̣n có thể hưởng phước báo nhân
thiên. Thế giới này hủy diệt th́ sao? Thế giới
hủy diệt, trong thế giới khác có nhân đạo, quư
vị sẽ di dân đến thế giới khác, đời
sau không nhất định ở trong thế giới này.
Trên
quả địa cầu này, nếu như có phước,
ḷng người hướng thiện, hết thảy sẽ
đều có chuyển biến tốt đẹp, quư vị
có phước báo, sẽ sanh vào chỗ này. Trên quả địa
cầu này không thích hợp, hoàn cảnh chẳng thích hợp
cho quư vị cư trụ, tức là chẳng có phước,
do phước báo của quư vị vượt trỗi hoàn
cảnh, quư vị sẽ chẳng thọ sanh ở nơi
đây. Đức Phật nói: Thế giới vô lượng
vô biên, những tinh cầu có người cư trụ chẳng
biết là bao nhiêu! Quư vị tùy ư tự tại văng sanh, sở
hành vô ngại. Nhưng đối với thế giới Sa
Bà, Sa Bà là một đại thế giới, tức là tam
thiên đại thiên thế giới. [Trong một tam thiên
đại thiên thế giới], những tinh cầu có
người sống cũng hết sức nhiều. Hoàn cảnh
trong thế giới này không tốt, đă bị con người
phá hư, quư vị sẽ đến chỗ có hoàn cảnh tốt
đẹp.
Nói
thật ra, đến thọ sanh trong một đường
nào của lục đạo, cũng chẳng phải là do
quỷ thần ấn định, chẳng phải vậy.
Do điều ǵ quyết định? Do nghiệp lực
quyết định, quư vị sẽ sanh về một nơi
nào đó, nhất định là tương ứng với nghiệp
lực của quư vị. Tâm của quư vị thiện, sẽ
chẳng đến chỗ những kẻ ác tụ hội,
sẽ chẳng thể đến đoàn thể ấy, v́
sao? Quư vị chẳng thích họ, họ cũng không ưa
quư vị. Quư vị đến chỗ nào, chỗ ấy nhất
định là tương ứng. Quư vị rất thích
đoàn thể ấy, đoàn thể ấy thấy quư vị
cũng có thể tiếp nhận, rất ưa chuộng, vậy
là sẽ đến đó. Xả thân, thọ thân trong lục
đạo là chuyện như vậy đó! Chẳng phải
là do Thượng Đế làm chủ tể, chẳng phải
là do Diêm Vương làm chủ tể, chẳng phải là do
thần tiên làm chủ tể, mà cũng chẳng phải là do
Phật, Bồ Tát làm chủ tể. V́ thế, Phật pháp
nói hay quá: “Nghiệp lực lôi
dắt”. Cái nghiệp dẫn đến thọ sanh trong
đường nào được gọi là “dẫn nghiệp” (引業), hướng dẫn quư vị thọ sanh. Những
chuyện này và sự thật chân tướng này được
Phật pháp giảng thấu triệt nhất, giảng viên
măn nhất, mới thật sự có thể giúp cho quư vị
giải quyết vấn đề, thật sự giúp quư vị
giác ngộ, giúp quư vị ĺa khổ, được vui.
Huống
hồ Phật pháp lại hoàn toàn chẳng giới hạn
trong giai đoạn này, hy vọng quư vị lấy điều
này làm cơ sở để không ngừng tiến cao hơn.
Tiến lên tới Chánh Giác, quư vị sẽ hoàn toàn hiểu
rơ, sẽ chứng đắc. Đối với trạng
huống của lục đạo mười pháp giới
như đức Phật đă dạy, quư vị đích
thân chứng, thông đạt, hiểu rơ “tánh, tướng,
sự, lư, nhân, quả” trong ấy. Chứng đắc chẳng
rốt ráo th́ là Sơ Quả, Nhị Quả, Tam Quả
trong Tiểu Thừa. Nếu tính cả Tứ Hướng,
sẽ là bảy tầng cấp, [tầng cấp] thứ
tám là A La Hán, hoàn toàn chứng đắc viên măn. Sự chứng
đắc ấy chính là liễu giải mười pháp giới.
Ngoài mười pháp giới, các Ngài sẽ không biết. Những
vị ấy hoàn toàn hiểu rơ [những chuyện] thuộc
trong mười pháp giới. Trong Đại Thừa, cảnh
giới giống như vậy chính là Bồ Tát thuộc
địa vị Thất Tín trong Hoa Nghiêm. Bồ Tát thuộc
địa vị Thất Tín hiểu rơ ràng, hiểu minh bạch
tam giới lục đạo và mười pháp giới. Tầng
cấp đoạn chứng của Ngài và A La Hán bằng
nhau, nhưng trí huệ [của Thất Tín Bồ Tát] cao
hơn A La Hán quá nhiều. Đức hạnh cũng cao
hơn quá nhiều, A La Hán chẳng thể sánh bằng! Ắt
cần phải phá một phẩm vô minh, chứng một phần
Pháp Thân; khi ấy, quư vị sẽ có thể thông đạt
trọn khắp pháp giới hư không giới.
V́
thế, đức Phật dạy quư vị tin, đă tin rồi
phải liễu giải. Quư vị chẳng lư giải, niềm
tin ấy chẳng thể coi là chân tín được. Sau
khi đă liễu giải, vẫn chưa được,
c̣n phải thực hiện được. [Thực hiện]
trong cuộc sống hằng ngày, rèn luyện trong xử sự,
đăi người tiếp vật, trải qua sự việc
để rèn luyện cái tâm. Quư vị thấy những ǵ quư
vị tin và hiểu trong sự thật có phải là đúng
như vậy hay không, hăy chứng minh nó. Tín, giải, hành,
chứng mà! Phật làm ǵ có mê tín? Chuyện ǵ cũng đều
phải do quư vị đích thân chứng đắc; đấy
là chỗ thù thắng khôn sánh trong sự giáo dục của
đức Phật. Những điều đức Phật
đă nói là do Ngài đích thân chứng đắc. Những ǵ
quư vị đă học, nhất định là sẽ có thể
chứng đắc! Chứng và liễu giải trạng huống
của toàn thể vũ trụ, vạn sự vạn vật
trong vũ trụ. Tánh là lư thể, vạn sự vạn vật
do đâu mà có? Căn nguyên chung là “duy
tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Đến
tầng cấp nào th́ mới có thể chứng đắc
hai câu ấy? Phá một phẩm vô minh, chứng một phần
Pháp Thân, sẽ chứng đắc. Vừa mới tiếp
xúc, vừa mới thấy, đích thân chứng, sẽ hiểu
rơ ràng hay không rơ ràng? Chẳng rơ ràng! Mơ hồ, vẫn
chưa rơ ràng cho lắm! V́ sao? Tập khí phiền năo vô thỉ
vô minh quá nặng. V́ thế, quư vị thấy chân tướng
của toàn thể vũ trụ dường như có,
dường như không, mơ hồ, nhưng khẳng
định là đă có tín tâm đối với giáo huấn
của đức Phật, chẳng chống trái, giống
như kinh Kim Cang đă nói, cũng tức là tín tâm đă kiên
định, quyết định chẳng bị dao động.
V́ sao? Quư vị đă mơ hồ thấy cảnh tượng
ấy, nhất định sẽ y giáo tu hành. Ở trong cảnh
giới ấy, năng lực gần như khôi phục.
Năng lực ấy chính là năng lực của lục
căn, tức Thiên Nhăn, Thiên Nhĩ, Tha Tâm, Túc Mạng, Thần
Túc, Lậu Tận, quư vị khôi phục toàn bộ. Lậu
Tận là chẳng có phiền năo, hoàn toàn đoạn chấp
trước. Tập khí chấp trước cũng chẳng
có. Hoàn toàn đoạn phân biệt, tập khí phân biệt
cũng chẳng có. Đoạn vô minh, tập khí vô minh chẳng
đoạn, ở trong cảnh giới như thế
đó. V́ thế, vị ấy đúng là tùy ư tự tại.
Tùy
ư tự tại nghĩa là như thế nào? Từ vô lượng
kiếp xa xưa đến nay, đă từng qua lại, từng
có quan hệ với tất cả hết thảy lục
đạo chúng sanh trong khắp pháp giới hư không giới.
Mối quan hệ ấy bất luận là thiện hay ác,
nói chung là có quan hệ. Có quan hệ, tức là chúng sanh có
duyên đắc độ, người ấy có duyên với
ta. Duyên bất luận là thiện duyên hay ác duyên, người
ấy và ta có duyên. Người ấy có cảm, ta sẽ có
ứng. V́ thế, Bồ Tát, tức là bậc Pháp Thân Bồ
Tát, phá một phẩm vô minh th́ là Pháp Thân Bồ Tát, phần
chứng Như Lai, hễ mười phương chúng sanh
có cảm, quư vị sẽ tự nhiên có ứng. “Đáng nên dùng thân ǵ để
độ, bèn hiện thân ấy”. Khi ấy, thần
thông rộng lớn, khắp pháp giới có cảm, khắp
pháp giới đồng thời có ứng. Điều này chẳng
thể nghĩ bàn, tự tại vô ngại. Nếu chỗ
này có cảm, quư vị bèn ứng, chỗ kia lại có cảm,
quư vị chẳng có cách nào ứng; vậy là quư vị chẳng
tự tại, có chướng ngại!
Do
vậy, phải hiểu: Đừng nói là A La Hán, A Na Hàm tức
Tam Quả trong Tiểu Thừa đă có Thần Túc Thông. Thần
Túc Thông là có năng lực biến hóa. Từ trong Đại
Tạng Kinh, chúng ta xem những câu chuyện trong Cao Tăng
Truyện, Thần Tăng Truyện, những câu chuyện ấy
đều là thật, chẳng giả. Có một vị pháp
sư đến từ Ấn Độ, hoằng pháp ở
Trung Hoa. Khi tuổi đă cao, lăo nhân gia muốn trở về.
Tín đồ rất đông, mọi người đều
hy vọng mở tiệc tiễn hành pháp sư, mời pháp
sư dùng cơm để cúng dường. Rất nhiều
người mời cùng một ngày, pháp sư thảy đều
đáp ứng. Đương nhiên là hễ mời th́ ước
hẹn từ vài bữa trước, [sẽ đăi đằng]
vào hôm trước ngày Ngài khởi hành. Đại khái là pháp
sư đều chấp thuận. Đến lúc đó, theo
kinh điển ghi chép, năm trăm nhà Ngài đều
đến ứng cúng toàn bộ. Đương nhiên là phàm
phu không biết, đều rất hoan hỷ: “Hôm nay pháp
sư đến nhà ta, ta hết sức hoan hỷ, Ngài rất
coi trọng ta”. Ngày hôm sau tiễn đưa, tiễn đến
trường đ́nh mười dặm[5],
ai nấy đều rất hoan hỷ, [khoe khoang] “ngày hôm
qua pháp sư ở nhà của tôi. Tôi cúng dường, Ngài
đến ứng cúng”. Kẻ khác nói: “Chẳng đúng! Tại
nhà của tôi chớ!” Kẻ khác lại nói: “Ở nhà của
tôi chớ!” Nói qua nói lại, mới biết vị pháp
sư ấy có thuật phân thân. Cùng một lúc, Sư có thể
đến ứng cúng tại năm trăm nhà, quư vị
nói đấy có phải là “tùy
ư tự tại, sở hành vô ngại” hay không? Đấy
là tiểu thần thông, chẳng phải là [thần thông] của
A La Hán hoặc thánh nhân Tam Quả.
Trước
kia, tôi học Giáo với thầy Lư ở Đài Trung. Thầy
Lư bảo tôi: “Người Hoa có phước báo. Từ
xưa tới nay, triều đại nào cũng đều
có rất nhiều vị cao tăng đại đức toàn
là bậc chứng quả thừa nguyện tái lai”. Những
vị theo đuổi việc dịch kinh điển, thầy
Lư bảo tôi, đều là từ Tam Quả trở lên, tức
là như tôi vừa mới nói, từ A Na Hàm trở lên. V́ thế,
dịch kinh điển chẳng phạm sai lầm, dịch
hay như thế. Những vị ấy cũng hiểu rất
rơ ràng, rất rành rẽ: Trong tương lai, kinh điển
tiếng Phạn sẽ biến mất. Lưu truyền về
sau, lưu truyền tới đời Mạt Pháp có thể
là kinh điển bằng tiếng Hán. V́ thế, kinh điển
được phiên dịch hay khéo, chẳng sai lệch tí
nào! Văn tự c̣n bóng bẩy, đẹp đẽ
hơn Phạn văn. Những vị ấy biết quá khứ,
biết vị lai. Pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật là
chín ngàn năm, có lẽ nào các vị ấy không biết? Đương
nhiên là biết rơ ràng. Chúng ta đọc những sách ấy,
những sách ấy tuyệt đối chẳng giả, có tên
họ, có địa chỉ, hạnh nghiệp cả đời
được chép trong Cao Tăng Truyện. Trong Cao Tăng
Truyện, trong mỗi đời gần như có đến
mấy trăm vị có thần thông!
Đấy
là ghi chép vào thời cổ, có kẻ lại hoài nghi: “Cổ
nhân nói th́ chưa chắc đă đáng tin! Người hiện
thời có [thần thông đạo hạnh như vậy]
hay không?” Tôi biết có một vị như thế trong hiện
thời. Thời đầu Dân Quốc, trong thời Kháng
Chiến, vị ấy c̣n tại thế. Có lẽ cũng
có những vị đồng tu biết Ngài, Kim Sơn Hoạt
Phật, tức là pháp sư Diệu Thiện chùa Kim Sơn
tại Trấn Giang, tỉnh Giang Tô. Vị Diệu Thiện
này chẳng phải là sư Diệu Thiện ở Phổ
Đà Sơn. Ngài Diệu Thiện của Phổ Đà
Sơn thuộc thế hệ sau; vị này có trước,
tên hiệu giống nhau! Chúng ta biết Ngài là do pháp sư Lạc
Quan và pháp sư Chử Vân giới thiệu. Pháp sư Chử
Vân đi thăm hỏi khắp nơi, hỏi han những
sự tích truyền kỳ về pháp sư Diệu Thiện,
viết ra bộ Kim Sơn Hoạt Phật. Nhưng pháp
sư Lạc Quan đă từng ở chung một chỗ với
Ngài, có hai lần, lần lâu nhất gần như là bốn
tháng. Đương nhiên là [những chuyện do pháp sư
Lạc Quan kể lại] chẳng giả tí nào! Có rất
nhiều điều thần dị khiến cho kẻ khác
chẳng thể lường được!
Dựa
theo h́nh dung của Ngài, pháp sư Diệu Thiện thuộc
loại nhân vật có đôi chút giống như Tế Công
Hoạt Phật được nói trong lịch sử. Quư vị
thấy Ngài suốt ngày từ sáng đến tối lôi
thôi, nhếch nhác, chẳng câu nệ h́nh tích, dở điên,
dở khùng, nhưng Ngài có rất nhiều chỗ khiến cho
kẻ b́nh phàm chẳng có cách nào lư giải được!
Ngài cũng chẳng ở trong chùa miếu, sống trong nhà
cư sĩ. Hàng cư sĩ đều rất thích Ngài, nhân
duyên rất tốt. Trong chùa miếu có chuyện ǵ, Ngài mới
quay về giúp đỡ. Quư vị thấy Ngài điên
điên, khùng khùng, một năm suốt bốn mùa mặc một
bộ quần áo, khoác một cái áo dài, cũng chưa hề
giặt, suốt đời chưa hề giặt giũ! Bộ
quần áo ấy một năm suốt bốn mùa luôn khoác
trên thân. Cổ áo đóng hờm rất dầy, bẩn thỉu,
nhưng quư vị ngửi thấy thơm tho, lại c̣n có
thể trị bệnh! Người nào mắc bệnh lạ,
đến ngửi cái áo ấy một lượt, bệnh
đă khỏi hẳn! Ngài chữa bệnh cho kẻ khác
cũng thế, chà đất trên thân ṿ thành một viên cho
người ta uống. Thật sự khỏi bệnh! Gần
như chẳng khác truyện Tế Công cho mấy! Cúng
dường Ngài, người ta cúng dường tiền,
Ngài nuốt luôn. Quư vị nói xem, tiền bẩn lắm, bao
nhiêu người sờ vào, mọi người đều
biết tiền rất mất vệ sinh, Ngài ăn tuốt.
Đi đường, trông thấy đồng nát, sắt
vụn vứt trên mặt đất, Ngài nhặt lấy
ăn luôn, coi như chẳng có chi cả!
Có
một lần, có tín đồ cúng dường, rất nhiều
tín đồ rất hoan hỷ, bưng một chén cơm
đến cúng dường lăo ḥa thượng. Lăo ḥa
thượng rất hoan hỷ, ăn ngay. Người khác
lại dâng một chén, Ngài ăn hết. Kết quả tính
ra là hai mươi mấy chén, Ngài ăn toàn bộ. Ngày hôm ấy,
pháp sư Lạc Quan có mặt. Pháp sư Lạc Quan bèn hỏi
Ngài: “Chẳng phải là thầy đă ăn quá nhiều
ư? Làm sao thầy có thể chịu được?” Pháp
sư Diệu Thiện đáp: “Không
Hữu bất nhị”, Ngài nói một câu như vậy.
Vài ngày không ăn cũng chẳng sao! Hễ ăn, bèn nuốt
mấy chục chén cũng chẳng sao! Khác người mà! Người
khác trong tâm nghĩ chuyện ǵ, Ngài đều biết. Trong
tâm quư vị dấy vọng tưởng, Ngài đều biết.
Đấy là chuyện vào thời đầu Dân Quốc. Lạc
Quan và Chử Vân đều là bạn tốt của tôi, tôi
tin họ chẳng thể bịa chuyện lừa gạt
chúng ta! Sách Hoạt Phật Truyền Kỳ Lục rất
phổ biến tại Đài Loan. Hiện thời, hai vị
pháp sư viết sách đă chẳng c̣n, đó là [chuyện
thần dị của bậc cao tăng] thời cận
đại. Cận đại c̣n có th́ chúng ta có thể suy
ra: Những điều được ghi chép trong Cao
Tăng Truyện và Thần Tăng Truyện quyết định
đáng tin, chúng ta chẳng có lư do ǵ để hoài nghi!
Phật
pháp dạy chúng ta “thân chứng”
(親證, đích thân chứng
nghiệm); trong khi giảng kinh, chúng tôi thường nói
[để thân chứng], quư vị chỉ cần buông xuống
chấp trước. V́ sao? Lục Thông là bản năng (本能, năng lực sẵn có) của quư vị! Kinh nói rất
hay: “Hết thảy chúng sanh
đều có trí huệ và đức tướng của
Như Lai. Chỉ v́ vọng tưởng, chấp trước
mà chẳng thể chứng đắc”. V́ thế, chỉ
cần quư vị buông chấp trước xuống, năng
lực của quư vị sẽ khôi phục một phần.
Quư vị là A La Hán, quư vị có thể đạt được
Chánh Giác, Túc Mạng Thông của quư vị có thể biết
năm trăm đời quá khứ và năm trăm đời
vị lai. V́ thế, đức Phật dạy chúng ta “thân chứng”. Chứng bằng
cách nào? Buông xuống vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước, sẽ thành Phật. Chẳng buông xuống vọng
tưởng, chẳng buông xuống phân biệt; trước
hết, hăy buông xuống chấp trước. Có thể
buông xuống chấp trước tám phần, chín phần,
sẽ đắc quả Tam Quả A Na Hàm, quư vị sẽ
có năng lực phân thân. Nay chúng ta chẳng có cách nào phân
thân, [nếu] đạt đến tŕnh độ này, quư vị
sẽ có thể phân thân. Nếu nói về Thiên Nhăn và Thiên
Nhĩ th́ Sơ Quả đă có. Hàng Bồ Tát thuộc địa
vị Sơ Tín trong kinh Hoa Nghiêm có hai thứ thần thông là
Thiên Nhăn Thông và Thiên Nhĩ Thông, hai thứ này dễ đạt
nhất. Do vậy, đức Phật dạy chúng ta cầu
chứng. Đạt tới tầng cấp này, năng lực
của quư vị sẽ khôi phục. Đấy là năng lực
sẵn có, chẳng có ǵ lạ lùng. Nay ta gọi [những
năng lực ấy] là “công
năng đặc dị”. V́ sao quư vị không làm? Nay thời
gian đă hết rồi, chúng tôi nói tới chỗ này!
**
Chư
vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Chúng ta
xem đoạn thứ hai, [lời Sớ chú giải]:
(Sớ)
Xuất gia thọ giới thời, hữu thập ngũ nguyện.
(疏)出家受戒時,有十五願。
(Sớ: Khi xuất gia thọ giới, có mười
lăm nguyện).
Phẩm Tịnh Hạnh chủ
yếu vẫn là nói với người
xuất gia. V́ thế, đối với người
xuất gia, [kinh] nói khá nhiều, đối với hàng tại
gia Bồ Tát chỉ nói mười một điều, tức
là mười một nguyện. Trong cuộc sống hằng
ngày, đối với những đại nguyện của
người xuất gia, hàng tại gia cũng đều có
thể học tập. Chúng ta xem bài kệ thứ nhất:
(Kinh)
Xả cư gia thời, đương nguyện chúng sanh,
xuất gia vô ngại, tâm đắc giải thoát.
(經)捨居家時。當願眾生。出家無礙。心得解脫。
(Kinh: Khi ĺa bỏ nhà, nguyện cho chúng sanh, xuất
gia vô ngại, tâm được giải thoát).
“Xả cư gia” cũng chẳng
phải là một chuyện dễ dàng! V́ sao sẽ có chướng
ngại? Xác thực là chướng ngại rất nhiều.
Thứ nhất là nếu quư vị có cha mẹ, cha mẹ
không đồng ư, quư vị sẽ chẳng thể xuất
gia. Nếu quư vị có vợ con, vợ con không đồng
ư, cũng chẳng thể xuất gia. Đây là nêu ra hai thí dụ;
do vậy, chướng duyên xuất gia rất nhiều. Làm
sao quư vị có thể khiến cho mọi người đều
hoan hỷ, tán thành? Đương nhiên là quư vị tu học
tại gia rất khá, người nhà quư vị đều
hiểu rơ: Sau khi [quư vị] xuất gia, đối với
người nhà, cũng như đối với tổ tông,
đều có đại lợi ích. Trong gia đ́nh có một
người tu hành chứng quả, ngạn ngữ nói là “nhất tử thành Phật, cửu
tổ thăng thiên” (một đứa con thành Phật,
tổ tiên chín đời đều sanh lên trời). “Thành Phật” là thành Phật
kiểu nào? Thưa cùng chư vị, chỉ cần chứng
đắc quả Tu Đà Hoàn của Tiểu Thừa, hoặc
Bồ Tát thuộc địa vị Sơ Tín trong Đại
Thừa, một nhà quư vị người sống lẫn
người đă khuất đều tăng phước.
“Người đă khuất” là tổ tiên trong quá khứ,
“người sống” là quyến thuộc người nhà
trong hiện tại, đều được chư Phật
hộ niệm, long thiên thiện thần che chở. Điều
này là khẳng định. Nếu quư vị xuất gia mà chẳng
thật sự tu hành, những chuyện tốt đẹp ấy
đều chẳng có, cũng có thể là người nhà
quyến thuộc của quư vị bị phiền phức
lây! Hai cực đoan ấy, một thiện, một ác, chớ
nên không hiểu!
V́
thế, trước hết là phải hiểu rơ vấn
đề xuất gia! V́ sao quư vị xuất gia? Phát cái tâm
ǵ? Nếu nói, ta cảm thấy xuất gia rất tốt,
bèn mong xuất gia. Chẳng thể được! Xuất
gia sẽ có sự nghiệp xuất gia, sự nghiệp ấy
là ǵ? Khi Huyền Trang đại sư xuất gia, thuở ấy,
trải qua khảo thí, vị quan trắc nghiệm khảo
hạch Ngài đă hỏi Sư: “Ngươi xuất gia có
chí nguyện và hy vọng là ǵ?” Sư nói tám chữ: “Viễn thiệu Như Lai, cận
quang đại pháp” (Xa là nối tiếp Như Lai, gần
là rạng rỡ đại pháp). Viên quan khảo thí lập
tức chấm đậu, lư do này chánh xác! “Thiệu” (紹) là nối tiếp. Nói theo phương diện xa xôi,
ta mong kế thừa sự nghiệp của Thích Ca Mâu Ni Phật.
Sự nghiệp của đức Phật là ǵ? Hoằng
pháp, lợi sanh. Nói theo hiện tiền, ta phải hoằng
dương Phật giáo rạng ngời; đấy chính là “cận quang đại pháp”. Kế
thừa di giáo của Thích Ca Mâu Ni Phật, hoằng dương
Phật pháp rạng ngời trong thời đại này. Nếu
quư vị có tâm nguyện như vậy, đương nhiên
là chẳng có vấn đề ǵ. Đấy là ǵ? Thật
sự phát tâm làm Phật, biến Tứ Hoằng Thệ
Nguyện của đức Phật thành nguyện vọng
của chính ḿnh. Thứ nhất là “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, thứ
hai là “phiền năo vô tận thệ
nguyện đoạn, pháp môn vô lượng thệ nguyện
học, Phật đạo vô thượng thệ nguyện
thành”. Xuất gia phải trọn đủ đại
tâm đại nguyện.
Quư
vị làm từ chỗ nào? Hăy bắt đầu thực hiện
từ đoạn phiền năo. Đoạn phiền năo như
thế nào? Tŕ giới. Quư vị không tŕ giới, làm sao có thể
đoạn phiền năo cho được? Chúng ta phải
thông đạt, hiểu rơ chuyện này. Do vậy, thật
sự mong xuất gia, trước hết là phải học
tập, trước hết là phải làm như thế nào?
Tại gia học Phật. Tại gia học Phật làm
được Ngũ Giới, Thập Thiện, quư vị
sẽ thật sự là “thiện
nam tử, thiện nữ nhân” danh phù hợp thực! Quư
vị phát tâm xuất gia có đại hoằng nguyện
như vậy, sẽ có thể làm được. Do vậy,
trước hết là điều thứ nhất trong Tịnh
Nghiệp Tam Phước, tại gia học Phật: “Hiếu dưỡng phụ mẫu,
phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết,
tu Thập Thiện Nghiệp”. Giữ được “chẳng
sát sanh”, từ trong nội tâm, tôn trọng sanh mạng, yêu mến,
bảo vệ, quư vị mới có thể thực hiện
điều thứ nhất. Quả thật, Phật giáo
Trung Hoa đă làm được viên măn. “Ăn chay”, chẳng
c̣n kết oán cừu với chúng sanh, quư vị mới đạt
được tư cách xuất gia!
Điều
thứ hai là “không trộm cắp”. Tôi thường nói là “quyết
định chẳng có ư niệm chiếm tiện nghi của
kẻ khác, chớ nên lợi dụng kẻ khác, chớ nên
lợi dụng tiện nghi từ xă hội, lợi dụng
tiện nghi của quốc gia càng chẳng thể!” Lợi
dụng tiện nghi của quốc gia là ǵ? Ví như hiện
thời [quốc gia] thâu thuế, [kẻ đóng thuế] luôn
hy vọng có thể nộp thuế ít hơn! Kiếm
được nhiều tiền hơn, đóng thuế ít
hơn; cái tâm ấy là tâm trộm cắp! Trong Anh Lạc Giới
Kinh, đức Phật đă dạy: “Bất lậu quốc thuế, bất phạm quốc
chế” (Không trốn thuế của quốc gia, chẳng
trái phạm luật lệ quốc gia). “Quốc chế” (國制) là pháp luật của quốc gia. Quyết định
chẳng trái phạm pháp luật của quốc gia, quyết
định chẳng trốn thuế. Đối với
người, đối với vật, chỉ hoan hỷ
thí xả, quyết định chẳng có hành vi và ư niệm
xâm phạm tài vật của kẻ khác. Tại gia học Phật
làm được, sẽ là căn bản để xuất
gia.
Đă
phát tâm xuất gia, xuất gia không chỉ là chẳng tà dâm, [mà
c̣n là] đoạn sạch dâm dục. Trong kinh Phật và cổ
đại đức thường nói, từ vô lượng
kiếp đến nay, hết thảy chúng sanh đă tạo
tác các ác nghiệp, kết thành oán hận đối với
hết thảy chúng sanh, nặng nề nhất là hai chuyện.
Thứ nhất là giết. Giết dễ phạm nhất!
Đối với chuyện ẩm thực, ăn thịt
là dễ phạm nhất. Những tiểu động vật,
như muỗi, kiến, gián, ruồi, hễ trông thấy
bèn muốn giết nó, hữu ư hay vô t́nh [mà sát hại] đều
là sanh mạng, đều là nghiệp đă tạo bởi
cái tâm sát. Khó đoạn nhất là dâm dục, đức Phật
đă dạy rất rơ ràng: Dâm dục là căn bản gây luân
hồi sanh tử trong lục đạo. Nhà Phật thường
nói: “Ái chẳng nặng, chẳng
sanh Sa Bà”. Luân hồi trong lục đạo của thế
giới Sa Bà th́ nhân tố đầu tiên là ǵ? Ái dục! Ái
dục là nhân tố thứ nhất của lục đạo
luân hồi. Do vậy, xă hội hiện thời chẳng cần
luân lư, đạo đức, không tin nhân quả, phóng túc dục
vọng, cuồng hoan, đó là chuyện ǵ vậy? Năm
cái rễ của địa ngục! Năm cái rễ chính
là ngũ dục, tức tài, sắc, danh vọng, ăn uống,
ngủ nghê. Đấy là năm cái rễ của địa
ngục. Quư vị thấy năm điều tài, sắc,
danh vọng, ăn uống, ngủ nghê đều đầy
đủ, hễ có một điều trong năm điều,
nó sẽ kéo quư vị vào địa ngục. Hiện thời,
năm sợi dây thừng ấy thảy đều lôi kéo quư
vị, quư vị chạy đằng nào? Nhất định
phải cảnh giác cao độ chuyện này!
Quư
vị có tin “lục đạo luân hồi” hay không? “Tôi không
tin!” [cứ nghĩ] “tôi không tin sẽ chẳng có!”
Được rồi! Đối với Phật cũng
không tin tưởng. Không tin vẫn có! Bất luận quư vị
có tin những điều ấy hay không, chúng là sự thật!
Chúng tôi quen một người bạn. Người bạn
ấy quen biết tôi cũng đă mấy năm, hoàn cảnh
sống cũng rất khá. Những đĩa CD giảng
kinh của tôi, người ấy cũng nghe đôi chút,
nhưng không quy y. Năm ngoái, chúng tôi ở Bắc Kinh c̣n gặp
mặt vài lần. Sau khi tôi rời khỏi Bắc Kinh,
đại khái là chưa được mười hôm, bạn
bè ở Bắc Kinh gọi điện thoại báo cho tôi biết
ông ta đă qua đời. Chúng tôi nghe tin cũng rất áy
náy! Sau đấy, chưa đầy một tháng, tại Thẩm
Quyến, có một vị đạo trưởng cũng
có thông linh, chúng ta thường nói là “công năng đặc dị”. [Vị đạo
trưởng ấy] có đôi chút công năng đặc dị
như vậy đó. Ông ta (người bạn đă khuất)
đến chỗ vị đạo trưởng, thỉnh
đạo trưởng báo tin cho tôi để nhận sai:
“Quen tôi đă nhiều năm như thế, chẳng học
Phật đàng hoàng”! Ông ta nói thuở ấy nửa tin nửa
ngờ; nay biết là thật sự, hối hận chẳng
kịp! V́ qua đời c̣n chưa đến bốn
mươi chín ngày, chúng ta thường thấy là thuộc
giai đoạn Trung Ấm, tập khí c̣n rất nặng.
Ông ta chẳng có tiền dùng, muốn chúng tôi đốt cho
một ít tiền giấy. Lúc sống, thích hút thuốc bằng
tẩu, vẫn mong chúng tôi đốt cho ông ta một ít sợi
thuốc! Sau khi vị đạo trưởng ấy báo
tin, chúng tôi tin đấy là sự thật, nói rất giống.
V́ thế, chúng tôi cũng đốt tiền giấy và
đốt sợi thuốc cho ông ta. Tôi c̣n lập cho ông ta một
bài vị ở đây: “Ông đă hối hận, nay đă biết,
hăy khéo nghe kinh, cùng niệm Phật với chúng tôi trong Niệm
Phật Đường, cầu sanh Tịnh Độ”. Chuyện
này chẳng giả, trong Học Hội có rất nhiều vị
đồng tu đều biết.
Do
vậy, xuất gia th́ phải đoạn tập khí phiền
năo. Thân nghiệp giết, trộm, dâm phải đoạn,
chớ nên tạo [th́ mới] trọn đủ điều
kiện xuất gia. Đối với khẩu nghiệp, chẳng
vọng ngữ. Nói cách khác, dẫu hữu ư hay vô t́nh, đều
chớ nên gạt người! “Không
lưỡng thiệt”: Lưỡng thiệt (兩舌) là thêu dệt thị phi. Bất luận là trước
mặt hay sau lưng, đừng nên nói lỗi lầm của
kẻ khác. Lục Tổ đại sư thường dạy
chúng ta: “Nếu ai thật tu
đạo, chẳng thấy lỗi thế gian”. Chính
Ngài nói với người khác, Ngài nói: “Ta chỉ thấy lỗi của chính ḿnh, chẳng thấy
lỗi của người khác”. Giáo huấn này hết sức
trọng yếu. “Không ỷ ngữ”:
Ỷ ngữ (綺語) là hoa ngôn xảo ngữ, đều nhằm lừa
gạt chúng sanh. Ăn nói rất êm tai, chẳng phải là sự
thật. “Không ác khẩu”: Ác
khẩu (惡口) là ăn nói rất thô lỗ, khiến cho kẻ khác
nghe xong rất khó chịu. Đấy là ác khẩu; đó là
ǵ? Khẩu nghiệp dễ phạm nhất, là giới trọng
yếu trong Thập Thiện. Thập Thiện là điều
kiện phải trọn đủ trước khi thọ
Tam Quy. Chẳng có điều kiện này, sẽ chẳng thể
thọ Tam Quy. Đó gọi là “khẩu
tứ”, tức là bốn thứ lầm lỗi [nơi
khẩu nghiệp]. Ư là khởi tâm động niệm, không
tham, không sân, không si. Đấy là Thập Thiện Nghiệp.
Đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất
thế gian chẳng tham luyến. Đối với chuyện
chẳng vừa ư, bất luận là người, sự,
hay vật, chẳng sân khuể. Hiểu rành mạch, hiểu
rơ ràng lư sự, chẳng c̣n mê hoặc. Đó gọi là “không si”. Trọn đủ
điều kiện như vậy th́ mới có thể tiếp
nhận Tam Quy Ngũ Giới.
Hiện
thời, chúng ta truyền trao Tam Quy Ngũ Giới, có yêu cầu
như vậy hay không? Chẳng có! V́ thế, trong hiện thời,
sau khi thọ Tam Quy Ngũ Giới, hăy khuyên họ học, phải
nghiêm túc học. Học một điều, quư vị sẽ
đạt được một điều. Trước
kia, Chương Gia đại sư đă dạy tôi chuyện
này. Ngài nói: “Thọ giới chẳng
thật, tŕ giới là thật. Có thể thọ giới”.
Khi thọ giới, đừng nghĩ chính ḿnh đă đắc
giới; đó là sai lầm! Sau khi đă thọ giới, hăy
khéo học giới. Học một điều, sẽ đạt
được một điều. Học hai điều,
sẽ đạt được hai điều. Ví như Ngũ
Giới, quư vị có thể làm được một, hai
điều, [sẽ là] Thiểu Phần Ưu Bà Tắc. Có
thể làm được ba, bốn điều, th́ là Đa
Phần Ưu Bà Tắc. Nếu cả năm điều đều
làm được, Thập Thiện Ngũ Giới thảy
đều làm được, sẽ là Cụ Túc Ưu Bà Tắc.
Đấy đều là những thuật ngữ trong Phật
học, cho phép quư vị thọ một điều. Thập
Thiện là Phật pháp, là cơ sở và căn bản
để học Phật. Nếu chẳng có mười
điều ấy, sẽ là giả, chẳng thật, vậy
th́ quư vị học Phật sẽ là như thầy Lư
thường nói: “Quư vị làm
chuyện thuộc về Phật học, chẳng phải
là học Phật”. Học Phật th́ phải thật sự
mong làm Phật, thật sự mong làm học tṛ của Phật,
ta học tập theo thầy, bắt đầu từ chỗ
này.
Chúng
ta quan sát cẩn thận xă hội hiện thời, [sẽ
thấy] hàng tại gia học Phật chẳng làm
được Thập Thiện. Thập Thiện chẳng
làm được, vậy th́ Tam Quy Ngũ Giới chẳng
cần phải nói nữa! Tam Quy Ngũ Giới được
kiến lập trên cơ sở Thập Thiện. Xuất
gia học Phật, hạn độ thấp nhất là Sa
Di Luật Nghi. Sa Di Luật Nghi chẳng làm được,
chẳng phải là người xuất gia. Sau đấy,
quư vị nh́n lại những chướng ngại như
kinh đă dạy, quư vị mới hiểu chẳng làm
được những điều ấy (Thập Thiện,
Sa Di Luật Nghi) th́ sẽ bị chướng ngại! Trong
hàng tục gia, quư vị chẳng đoạn trừ những
tập khí phiền năo ấy. Đó là những điều
kiện ắt phải trọn đủ nếu muốn xuất
gia. Hiện thời, v́ sao những năm qua chúng tôi đề
xướng Đệ Tử Quy? V́ cơ sở của Thập
Thiện Nghiệp Đạo là Đệ Tử Quy. V́ sao
quư vị chẳng làm được Thập Thiện? Do chẳng
học tập Đệ Tử Quy! V́ vậy, phải thực
hiện từ căn bản của căn bản là Đệ
Tử Quy.
Chẳng
phải là bảo quư vị niệm Đệ Tử Quy mỗi
ngày, chẳng phải là bảo quư vị học giảng. Dẫu
niệm thuộc làu đến mấy đi nữa, dù giảng
hay đến mấy đi nữa, quư vị chẳng làm
được, đều vô dụng! Quư vị phải làm
sao để biến nó thành cuộc sống
hằng ngày, biến thành tư tưởng hành vi của
chính quư vị, quư vị sẽ có căn cội. Có căn cội
ấy, [tức là] có căn cội Đệ Tử Quy, Thập
Thiện Nghiệp Đạo sẽ không khó, rất dễ
thực hiện. Từ đây mới hiểu hiện thời
chúng ta chẳng làm được, là do chẳng được
tiếp nhận giáo dục cơ sở. Giáo dục Nho gia
chính là nền giáo dục truyền thống năm ngàn
năm của Trung Hoa, là cơ sở của cơ sở,
là căn bản của căn bản, quư vị nói xem nó quan
trọng cỡ nào! Ngàn muôn phần chớ nên sơ sót! Thuở
trẻ chúng ta đă sơ sót, hiện thời gần
như đều thuộc lứa tuổi trung niên trở
lên, ba mươi, bốn mươi vẫn phải học
bổ sung. Chẳng vun quén căn cội ở chỗ này, sẽ
chẳng thể thành tựu, mà niệm Phật văng sanh cũng
chẳng nắm chắc!
Niệm
Phật thật sự có thể văng sanh, xác thực là do thiện
căn sâu dầy trong đời quá khứ. Đời này
tuy có tập khí, khi lâm chung, sức mạnh của một
niệm Phật hiệu có thể khống chế tập khí phiền năo th́ có thể văng
sanh. Chẳng thể khống chế được, sẽ
không thể văng sanh. V́ thế, một niệm lâm chung hết
sức trọng yếu. Do đó, nói: Công đức trợ
niệm chẳng thể nghĩ bàn! Trợ niệm là khi lâm
chung, giúp đỡ nhắc nhở người ấy, có thể
văng sanh hay không là do một niệm cuối cùng của chính
ḿnh. Một niệm cuối cùng khi tắt hơi là “A Di Đà Phật”, khẳng
định sẽ văng sanh. Trong bốn mươi tám nguyện,
trong nguyện thứ mười tám đă có nói [khi lâm chung,
mười niệm hay một niệm đều có thể
văng sanh], điều quan trọng nhất là một niệm
ấy (một niệm trong khi lâm chung), then chốt là ở
chỗ này. Niệm Phật lúc b́nh thường giống
như luyện binh, một niệm lâm chung là đánh giặc.
Một niệm cuối cùng hết sức chuẩn xác, chúng
ta chớ nên không biết điều này! B́nh thường chúng
ta niệm Phật thành thói quen, chính ḿnh chớ nên không
đoạn ác tu thiện, tích lũy công đức, tu phước
báo. Phước báo chẳng cần hưởng trong hiện
tại, sẽ hưởng khi nào? Khi lâm chung sẽ hưởng
phước, hưởng ǵ? Khi lâm chung, sáng suốt, tỉnh
táo, chẳng điên đảo mà cũng chẳng lầm loạn
chút nào. Một câu Phật hiệu đi theo Phật; đấy
là phước báo thù thắng khôn sánh. Đời này quư vị
đi làm Phật!
V́
thế, chẳng cần hưởng phước báo trong hiện
tiền! Học Phật phải buông xuống. Có hai điểm
chớ nên không biết, chớ nên không làm. Đó là ǵ? Khi
đức Thế Tôn nhập diệt, đă dạy người
đời sau: Thứ nhất là tŕ giới, thứ hai là chịu
khổ. Khi lăo nhân gia sắp ra đi, các đệ tử hướng
về Ngài thỉnh giáo: “Lăo nhân gia tại thế, chúng con
nương vào Ngài làm thầy. Ngài là thầy của chúng
con. Sau khi Ngài diệt độ, chúng con nương cậy
ai để làm thầy?” Đức Phật liền dạy
hai câu: “Lấy giới làm thầy,
lấy khổ làm thầy”. Do vậy, nếu quư vị
muốn thành tựu, nhất là xuất gia, ắt quư vị
phải chuẩn bị tâm lư. Điều thứ nhất là
phải tŕ giới, điều thứ hai là phải chịu
khổ. Nếu quư vị chẳng giữ giới, lại
chẳng chịu khổ, tại gia học Phật sẽ tốt
hơn, [vẫn đạt] thành tựu giống y hệt, cần
ǵ phải xuất gia?
Thân
phận của hàng xuất gia là bậc thầy khuôn mẫu
cho trời người. Không chỉ là thầy của hết
thảy mọi người trong nhân gian (thầy là bậc
nêu gương mẫu), tư tưởng, lời nói và hành
vi của quư vị đáng cho người khác học tập
theo. Quư vị đại diện Thích Ca Mâu Ni Phật, tiếp
nối huệ mạng của Phật, đó là “viễn thiệu Như Lai”.
Hăy ngẫm xem chính ḿnh có thể làm được hay không?
Thật sự có thể làm được, tốt lắm,
rất khó có! Không chỉ là Thích Ca Mâu Ni Phật hoan hỷ,
mà hết thảy chư Phật đều hoan hỷ, long
thiên thiện thần có vị nào chẳng che chở quư vị.
Nhưng làm chẳng được, Phật sẽ chẳng
hộ niệm quư vị, thiện thần cũng không thể
phù hộ quư vị, sẽ có những quỷ thần hoặc
yêu ma quỷ quái t́m đến, giúp quư vị làm ác, tiếp
dẫn quư vị vào ba ác đạo. [Hễ lọt vào] ba ác
đạo, quá nửa sẽ là địa ngục đạo!
Những ác quỷ tà thần ấy hộ tŕ quư vị, khiến
cho quư vị tạo nghiệp, cuối cùng là đưa quư vị
vào địa ngục A Tỳ. Tôi tin tưởng những
ác quỷ tà thần ấy đều là oan nghiệt do chính
ḿnh đă kết thành trong đời quá khứ, toàn là oan
gia trái chủ. Đấy chính là quư vị tuy xuất gia, lại
bị chướng ngại, chẳng có cách nào học tập
tốt đẹp, chẳng có cách nào đoạn ác tu thiện,
đâm ra xa ĺa thiện pháp, không điều ác nào chẳng
làm, sẽ bị phiền phức to lớn.
Cổ
đức thường nói, Xuất có bốn loại, Gia
cũng có bốn loại, đều phải hiểu rơ
ràng! Sau khi quư vị đă hiểu minh bạch, nếu ta
không thể nêu gương tốt cho đại chúng trong xă
hội, hăy học Phật tại gia! Tại gia xuất gia
(thân tại gia mà tâm hạnh giống hệt như người
xuất gia) sẽ là tốt đẹp. Cư sĩ Duy Ma
đă nêu gương cao đẹp cho chúng ta, tại gia xuất
gia đấy! Gia có bốn loại:
1)
Thứ nhất là Điền Trạch Gia. Người hiện
thời, thông thường hễ nói đến “nhà”, [có
nghĩa là] quư vị có tài sản, có đất đai, có
nhà cửa, có sự nghiệp, có vợ con. Đấy là
Gia, tức thế tục gia! Người b́nh phàm hễ nói
“xuất gia”, tức là ĺa
nhà kiểu này. Loại Gia này hoàn toàn không quan trọng.
2)
Trọng yếu hơn, đức Phật nói đến Phiền
Năo Gia. Chúng tôi vừa mới nhắc tới Thập Thiện,
Thập Thiện tương phản với Thập Ác. Thập
Ác là Gia. Quư vị đoạn sạch Thập Ác, từ nay
về sau, khởi tâm động niệm, lời nói và việc
làm đều tương ứng với Thập Thiện, tức
là quư vị đă vượt thoát Thập Ác gia, đă thoát
ra. Điều này tốt đẹp lắm, xuất Phiền
Năo Gia!
3)
Loại thứ ba là Tam Giới Gia. Tam Giới Gia là lục
đạo luân hồi. Tam giới là nói tới Dục Giới,
Sắc Giới, và Vô Sắc Giới; đó là nói tới lục
đạo. Tam giới là lục đạo, lục đạo
là tam giới. Vượt thoát lục đạo luân hồi,
lục đạo luân hồi là Gia. Từ đời đời
kiếp kiếp trong vô lượng kiếp đến nay, chẳng
có cách nào vượt thoát! Nếu quư vị phát đại
tâm như vậy, mong thoát khỏi tam giới lục đạo
gia, phải hiểu tam giới lục đạo được
h́nh thành như thế nào? Nay chúng ta tu pháp môn Tịnh Độ,
hy vọng có thể thật sự thoát ly lục đạo,
văng sanh Tịnh Độ ngay trong một đời này. Hăy
ghi nhớ hai câu nói của cổ nhân: “Ái chẳng nặng, chẳng sanh Sa Bà; niệm chẳng
nhất, chẳng sanh Tịnh Độ”. Quư vị phải
bỏ sạch ái dục, nhất tâm niệm Phật. Niệm
không chuyên nhất, chẳng thể sanh Tịnh Độ. Đấy
là xuất Tam Giới Gia.
4)
Sau đấy, c̣n có một nhà rất khó xuất, tức là
Vô Minh Gia. Thoát khỏi Vô Minh Gia, quư vị sẽ thoát khỏi
mười pháp giới. Quư vị thấy: Đoạn một
phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân, sẽ thoát
khỏi mười pháp giới. V́ thế, Vô Minh Gia là
mười pháp giới, c̣n to hơn lục đạo.
Vượt thoát lục đạo, thường nói là [thuộc
trong] tứ thánh pháp giới, tức Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ
Tát, [và Phật]. Quư vị thuộc vào địa vị này,
chẳng thoát khỏi mười pháp giới. V́ thế, Gia
cuối cùng khá to lớn, tức là mười pháp giới,
phải phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp
Thân, thoát ly mười pháp giới, sanh vào Nhất Chân pháp
giới. Sanh vào Hoa Tạng, sanh vào Cực Lạc, đều
là thoát khỏi mười pháp giới.
Quư
vị thấy Gia có bốn loại ấy, quư vị có hiểu
rơ là xuất cái gia nào hay không? Quan trọng nhất chính là ba
loại sau, trọng yếu lắm! Điền Trạch
Gia trong phần trước không quan trọng!
Xuất
cũng có bốn loại:
1)
Thứ nhất là “thân xuất,
tâm không xuất”. Thân xuất, quư vị thật sự
ĺa khỏi gia đ́nh, quư vị rời ĺa cha mẹ, vợ
con, đến ở trong chùa miếu, hiện tướng xuất
gia. Nhưng trong tâm, niệm niệm là ngũ dục, lục
trần, tiếng tăm, lợi dưỡng chẳng buông
xuống, vẫn muốn làm những thứ ấy. Vậy
th́ tâm quư vị chẳng xuất! Thân xuất, tâm chẳng
xuất, chướng ngại của quư vị sẽ to lớn.
Không chỉ là chẳng giải thoát, quư vị tạo tội
nghiệp cũng nặng nề! Cổ đại đức
bảo chuyện này là “khẩu
tụng, bất năng hành” (miệng tụng, chẳng
thể hành). Niệm kinh, niệm Phật, niệm
được, chẳng làm được! Bề ngoài ra vẻ
là một bậc thiện nhân, chẳng phải là thật sự
thiện. Nói khó nghe hơn một chút, sẽ là “lừa ḿnh, dối người”.
Có thể gạt người, chẳng thể lừa gạt
Phật, Bồ Tát, chẳng gạt nổi quỷ thần,
có nghĩ đến hay chăng? Thân xuất, tâm chẳng xuất,
nếu quư vị thật sự liễu giải, hiểu rơ
ràng, hiểu minh bạch, sẽ chẳng dám xuất gia! Ai bằng
ḷng tạo tội nghiệp nặng nề dường ấy?
2)
Loại thứ hai là “tâm xuất,
thân không xuất”, như cư sĩ Duy Ma. Những vị
đại đức tại gia học Phật, tuy là tại
gia, họ chẳng có mảy may lưu luyến đối
với “gia” (gia đ́nh, gia sản
và gia nghiệp), tâm hạnh chẳng khác Phật, Bồ Tát.
Tại gia cư sĩ tu hành ở nhà, bất luận tu pháp
môn nào, học Giáo, học Thiền, học Mật, niệm
Phật, thảy đều có thành tựu. Có phải là hàng
tại gia thành tựu thua kém người xuất gia đôi
chút hay không? Chẳng có, b́nh đẳng! Từ kinh Vô Lượng
Thọ, chúng ta thấy, vừa mở đầu bèn liệt
kê các vị thượng thủ. “Thượng thủ” biểu thị pháp, bậc
thượng thủ trong hàng tại gia cư sĩ, “Hiền Hộ đẳng thập
lục Chánh Sĩ” (mười sáu vị chánh sĩ
như Hiền Hộ v.v…) toàn là Đẳng Giác Bồ Tát.
Địa vị do các Ngài chứng đắc b́nh đẳng
với các vị Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Thế
Chí. Trong hàng thượng thủ, nghiễm nhiên là nhiều
tới mười sáu vị. Điều này bao hàm ư nghĩa
rất sâu: Người tại gia có thể thành Phật, có
thể thành Bồ Tát; bởi lẽ, tâm họ thật sự
xuất, tuy thân chẳng xuất. Đấy là loại thứ
hai.
3)
Loại thứ ba là “thân và tâm
đều xuất”. Thân lẫn tâm đều xuất sẽ
thật sự giống như Thích Ca Mâu Ni Phật đă thị
hiện, lịch đại tổ sư đại đức
đă thị hiện. Thân và tâm đều xuất, tức
là thân xuất gia, tâm cũng xuất gia. Xác thực là
như Huyền Trang đại sư đă nói: “Viễn thiệu Như Lai, cận
quang đại pháp” (Xa là kế tục Như Lai, gần
là làm cho đại pháp rạng ngời), dùng thân phận của
bậc xuất gia để nối tiếp huệ mạng
của Phật, hoằng pháp lợi sanh.
4)
Loại thứ tư là “thân lẫn
tâm đều chẳng xuất”. Nói tới hạng
người nào vậy? Chẳng phải là nói tới những
kẻ b́nh phàm ở ngoài [đạo Phật], chẳng phải
vậy, [mà là nói về] hàng tại gia cư sĩ. Tại
gia học Phật hữu danh vô thực, thân chẳng xuất
gia, trong tâm suốt ngày từ sáng đến tối vẫn
là thế tục, chẳng có đạo tâm. Đấy là
thân và tâm đều chẳng xuất, là kẻ tại gia học
Phật chẳng có thành tựu, [nguyên nhân là do] thân và tâm
đều chẳng xuất đó mà!
Xuất
có bốn loại, Gia có bốn loại. Quư vị xuất
gia thuộc loại nào? Phải hiểu rơ ràng. Đối với
chướng ngại, quư vị chẳng cần phải hỏi
ai khác. Trong tâm của chính ḿnh hiểu rất rành rẽ! V́
thế, xuất gia th́ quan trọng nhất là chí hướng!
Hiện thời, trong hoàn cảnh
này, dẫu đă phát tâm, phát tâm xuất gia thuần chánh,
đến nơi đâu để học pháp? Nơi nào có
đạo tràng chân chánh? Đạo tràng này là thật hay giả?
V́ sao? Trong xă hội hiện tại, ngụy thiện chẳng
ít, giả thiện, chẳng thật! Bề ngoài thấy rất
tốt đẹp, trên thực tế, chẳng phải là
như vậy. Trong quá khứ, tôi có một người bạn
xuất gia ở Lạc Sam Cơ (Los Angeles), là pháp sư, nhỏ
hơn tôi vài tuổi. Ở Lạc Sam Cơ, ông ta gặp một
vị Nhân Ba Thiết (Rinpoche) người Tây Tạng, hết
sức tôn kính, theo học Phật với vị ấy. Khi Nhân
Ba Thiết quay về Tây Tạng, ông ta đi theo, đại
khái là đi chừng hơn ba tháng. Trở về Mỹ, bảo
tôi [gă đó là] giả! Tôi nói: “Giả như thế nào?” Ông
ta đáp: “Thằng đó chẳng phải là Nhân Ba Thiết!
Nó là người Tây Tạng ở Ni Bạc Nhĩ (Nepal). V́
nghe nói bên ngoài cúng dường người xuất gia rất
nhiều, nó giả mạo làm Nhân Ba Thiết đến Mỹ.
Sau khi thu được một món cúng dường lớn,
nó bèn quay về, mới biết nó chẳng phải là [Nhân
Ba Thiết]. Thằng đó là một tại gia cư
sĩ, thông hiểu Phật pháp, các nghi thức cũng biết
rất nhiều, nên giả mạo Nhân Ba Thiết đến
Mỹ. Hễ đến Mỹ, đều có thể kiếm
được một vài món cúng dường, quay về, có
thể sống thoải mái mấy năm”. Trong xă hội hiện
tại, không chuyện lạ lùng nào chẳng có! Trong Phật
môn đă có, mà các tôn giáo khác cũng chẳng phải là ngoại
lệ, cũng có [những chuyện ấy]. Điều này
nói lên điều ǵ? Tu đạo khó khăn, quư vị
đến đâu để t́m được một vị
thiện tri thức thật sự, t́m một đạo
tràng tốt đẹp? Chẳng dễ dàng!
Cũng
chính v́ mối quan hệ này, cho nên thầy chúng tôi, những
vị ấy là thiện tri thức thật sự, cũng
biết hoàn cảnh trong hiện tiền. Thầy của
tôi, một là Chương Gia đại sư, hai là lăo
cư sĩ Lư Bỉnh Nam, hai vị ấy có hoàn cảnh đặc
thù, chúng tôi không có cách nào theo họ suốt cả đời.
Hơn nữa, Chương Gia đại sư dạy tôi ba
năm, Ngài ra đi. Tôi theo Ngài lúc hai mươi sáu tuổi,
khi ấy, lăo nhân gia đă sáu mươi lăm tuổi. Ngài
mất lúc sáu mươi tám tuổi, tôi theo thầy ba
năm. Thầy Lư có hoàn cảnh đặc thù, tôi cũng chẳng
thể thân cận thầy lâu dài. V́ thế, thầy Lư dạy
tôi học theo Mạnh Tử, học theo Ngẫu Ích đại
sư. Điều này có ư nghĩa ǵ? Mạnh Tử và Ngẫu
Ích đại sư đều là “tư thục đệ tử” của cổ
nhân, tức là người đời nay thờ cổ nhân
làm thầy. Mạnh Tử thờ Khổng phu tử làm thầy.
Khổng Tử đă qua đời, chẳng c̣n tại thế,
[Mạnh Tử] đọc sách Khổng Tử, học theo
Khổng Tử. Chỗ nào không hiểu bèn thỉnh giáo học
tṛ Khổng Tử, thật sự học giống như Khổng
Tử. Quư vị thấy tại Trung Hoa, phu tử
được gọi là Chí Thánh, c̣n Mạnh Tử là Á
Thánh. Đạo của phu tử đă được truyền
cho Mạnh Tử, chẳng phải là truyền cho người
khác. Mạnh Tử thật sự hoàn toàn đạt được,
lưu lại gương tốt cho người đời
sau. Ngẫu Ích đại sư là người sống vào
cuối đời Minh, Ngài nương cậy Liên Tŕ đại
sư làm thầy. Liên Tŕ đại sư đă văng sanh, trước
tác của Liên Tŕ đại sư vẫn c̣n. Ngài
nương theo trước tác của Liên Tŕ đại
sư để học tập, học hết sức giống.
Liên Tŕ đại sư là tổ sư đời thứ
tám của Tịnh Độ Tông, Ngẫu Ích là tổ sư
đời thứ chín, nương theo cổ nhân!
Thầy
giới thiệu một vị cổ nhân cho tôi là Ấn
Quang đại sư. Ấn Quang đại sư đă khuất,
Văn Sao của Ấn Quang đại sư vẫn c̣n, trước
tác của Ngài c̣n tồn tại. Hiện thời, Ấn
Quang Đại Sư Toàn Tập đă ấn hành. Hằng
ngày đều đọc, hằng ngày nghe, lư giải và thực
hành giáo huấn của Ngài, sẽ là đệ tử của
Ấn Quang đại sư. Cách này hay lắm. Trong bất
cứ hoàn cảnh gian nan, khốn khổ, chướng ngại
nào, quư vị đều có thể thân cận thiện tri thức,
sẽ đều có thể thành tựu. Nhất là bộ
Văn Sao của Ấn Quang đại sư phân lượng
không nhiều lắm, nhưng quan trọng nhất. Thuở
ấy, tôi học tập c̣n chưa có Toàn Tập, chỉ có
hai bộ là Ấn Quang Đại Sư Văn Sao Chánh Biên
và Tục Biên, hai bộ sách để tu hành. Như thế
th́ quư vị mới thật sự “xuất gia vô ngại, tâm đắc giải thoát”.
Tôi nói bốn câu truyền pháp chân ngôn của Ấn Quang
đại sư là “đôn luân
tận phận, nhàn tà tồn thành, tín nguyện niệm Phật,
cầu sanh Tịnh Độ” (giữ vẹn luân thường,
trọn hết bổn phận, giảm bớt tà vạy,
giữ ḷng thành, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tịnh
Độ), mười sáu chữ, lăo nhân gia
đă suốt đời thật sự truyền dạy.
A! Hôm nay thời gian đă hết rồi, chúng tôi nói tới
đây.
Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 22 hết
[1] Đây chính là
bài kệ thứ bảy, v́ bài kệ “thượng thăng lâu các, đương nguyện
chúng sanh, thăng chánh pháp lâu, triệt kiến nhất thiết” là bài kệ thứ tám, ở sau bài kệ này (tức
bài “trước anh lạc thời”).
Ngày hôm trước, khi giảng, ḥa thượng đă vô ư
bỏ sót, cho nên hôm nay phải giảng lại.
[2] Quân phiệt
cát cứ (軍閥割據) là một
giai đoạn rối ren trong lịch sử Trung Hoa kéo dài
từ năm 1916 đến năm 1928 khi chính quyền Quốc
Dân Đảng suy yếu, quyền lực chính trị bị
những tay thủ lănh quân sự địa phương
thao túng, lănh thổ Trung Hoa bị chia năm xẻ bảy.
Chủ yếu là các thế lực quân phiệt tại Tứ
Xuyên, Sơn Tây, Thanh Hải, Ninh Hạ, Quảng Đông, Quảng
Tây, Cam Túc, Vân Nam và Tân Cương. Giai đoạn này bắt
đầu sau khi Viên Thế Khải chết, chính quyền
trung ương quá suy yếu. Các thủ lănh quân sự do sẵn
có quân đội trong tay đă đánh lẫn nhau. Trước
đó, theo quy chế nhà Thanh, quân đội được
chia thành Bát Kỳ, và mỗi địa phương đều
có những nghĩa quân tại và dân quân cai quản bởi các
tướng lạnh do triều đ́nh bổ nhiệm, hoặc
địa phương cử lên. Trong số đó, cánh quân
mạnh nhất là quân Bắc Dương của Viên Thế
Khải. Khi cách mạng Tân Hợi (1911) nổ ra, do không
đủ sức mạnh, Tôn Dật Tiên phải thỏa
thuận với Viên Thế Khải để cùng lật
đổ nhà Thanh; đổi lại, Quốc Dân Đảng
phải chấp nhận để Viên Thế Khải trở
thành Tổng Thống. Sau khi Viên Thế Khải chết, do
các thuộc hạ chống đối lẫn nhau, quân đội
Bắc Dương nứt thành ba khối chính: Quân phiệt
An Huy của Đoàn Kỳ Thụy, quân phiệt Trực Lệ
của Phùng Quốc Chương, và bè phái Phụng Hệ của
Trương Tác Lâm. Noi gương đó, các quân phiệt
địa phương đua nhau nổi lên như
Đường Kế Nghiêu, Tưởng Giới Thạch,
Hồ Hán Dân, Uông Tinh Vệ, Ngô Bội Phu, Tôn Truyền
Phương, ngay cả nhóm Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai
cũng là những loại quân phiệt (điều khác biệt
là Mao và Chu đề xướng chủ nghĩa Cộng Sản).
Tuy trên danh nghĩa Quân Phiệt đă bị trấn áp
năm 1928, nạn quân phiệt cát cứ kéo dài dai dẳng
cho đến khi phe Mao Trạch Đông toàn thắng, đuổi
Tưởng Giới Thạch tháo chạy khỏi Hoa Lục.
[3] Trong bói toán, “lưu niên” (流年) là dự
đoán vận hạn của một người trong mỗi
năm.
[4] Lục địa
Atlantis chỉ là truyền thuyết, không có bằng chứng
nào chứng thực sự tồn tại của lục địa
này, ngoại trừ những truyền thuyết từ thời
cổ Hy Lạp do Plato đề xướng, cũng
như những thuyết của phong trào New Age hiện thời.
Chuyện tấm bản đồ cho thấy những lục
địa bị ch́m xuống biển cũng thường
là do những kẻ mạo danh khoa học bịa ra, nhất
là trong phong trào Nhân Điện tại Hoa Kỳ. Khi đọc
những phần này, xin các liên hữu đừng chấp
vào danh tướng rồi dấy lên nghi báng. Điều
quan trọng mà ḥa thượng muốn chia sẻ ở
đây là “cảnh tùy tâm chuyển”, do con người ác nghiệp
quá nặng, dẫn khởi hoàn cảnh sống bị xấu
đi. Để đối phó với tai nạn, họa hại,
kinh sợ, lo lắng suông vô ích, hăy nghiêm túc tu tŕ, chuẩn bị
tâm thái không lưu luyến để khi xảy ra tai nạn,
ta sẽ văng sanh Cực Lạc không bị trở ngại!
[5] Theo quy chế
từ đời Tần- Hán, cứ mười dặm
đường bèn lập một cái đ́nh, gọi là “trường
đ́nh”. Cứ năm dặm lập một cái đ́nh th́ gọi
là “đoản đ́nh”. Thoạt đầu, đ́nh là chỗ
dùng để tạm nghỉ cho cho những phu trạm chuyên
lo chuyển vận công văn hỏa tốc (thường
gọi là dịch trạm), cũng như là chỗ để
họ đổi ngựa, ăn uống. Về sau, nơi ấy
trở thành chỗ để chia tay nhau khi đưa tiễn.
Dần dần, “thập lư chi
đ́nh” hay “thập lư
trường đ́nh” chỉ c̣n là từ ngữ phiếm
chỉ chỗ chia tay sau khi đă tiễn chân một quăng
đường.