Đại Phương Quảng
Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười
một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 23
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Địa điểm: Hương Cảng Phật
Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ ngày mồng Bảy tháng
Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ Trang và Minh
Tiến
Tập
1507
Chư vị đồng học,
xin mời ngồi xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh
thứ mười một, bài kệ thứ hai trong phần Xuất Gia Thọ
Giới:
(Kinh) Nhập tăng già-lam, đương
nguyện chúng sanh, diễn thuyết chủng chủng, vô quai tránh pháp.
(經)入僧伽藍。當願眾生。演說種種。無乖諍法。
(Kinh: Vào tăng-già-lam, nguyện cho chúng sanh, diễn
thuyết các thứ pháp chẳng tranh chấp).
Chúng ta xem chú giải của Thanh
Lương đại sư:
(Sớ) Tăng-già-lam giả, thử vân Chúng
Viên. Chúng hữu Lục Ḥa pháp, tắc Sự Lư nhất vị,
cố vô tránh dă.
(疏)僧伽藍者,此云眾園,眾有六和法,則事理一味,故無諍也。
(Sớ: “Tăng già-lam”, cơi này
dịch là Chúng Viên. Chúng có pháp Lục Ḥa, tức là Sự và
Lư một vị. V́ thế, chẳng tranh căi).
Đoạn khai thị này rất
đơn giản, hết sức trọng yếu. Trước
hết, chúng ta phải liễu giải chánh xác ư nghĩa của
chữ Tăng Già. Chữ Tăng Già (Sam̐ghā)
trong hiện thời, vốn là Tăng-già-lam, gọi tắt
là Tăng Già, c̣n gọi là Tăng. Đại chúng b́nh phàm
trong xă hội, hễ thấy chữ Tăng liền nghĩ là nói đến người xuất
gia, nay đă trở thành thói quen. Cũng có thể nói như
vậy, đấy là [thói quen] trong xă hội Trung Hoa. Trên thực
tế, ư nghĩa trong tiếng Phạn không phải là chuyên nói về
người xuất gia, mà là nói về đoàn thể. Chữ
này nói về đoàn thể. Bất quá, đoàn thể ấy
chẳng giống các đoàn thể thông thường cho lắm. V́ sao? Nhất định là mỗi thành
viên đều phải tuân thủ Lục Ḥa Kính, đoàn thể
ấy mới được gọi là Tăng đoàn.
Do vậy,
Tăng già-lam (Sam̐ghārāma) là nơi chốn cư
trụ của Tăng đoàn. Lam (Ārāma) là nơi chốn.
Nay chúng ta gọi
[Tăng-già-lam] là “đạo
tràng”. Dịch theo ư nghĩa gốc, sẽ là Chúng Viên (眾園, khu
vườn của đại chúng). Quư vị thấy chữ
này chẳng phải là “tinh xá” (精舍), chẳng
phải là tự, viện, am, đường, v́ sao? Thuở
Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế giáo học, chẳng có bất cứ kiến
trúc nào, toàn là ở dưới cội cây,
bên cạnh chỗ có nước. Đức Phật ngồi
xuống nơi ấy, tứ chúng đồng học vây quanh
Thích Ca Mâu Ni Phật. Chúng ta nói “tịch địa nhi tọa”
(trải chiếu trên đất để ngồi), c̣n trải
cái chiếu, chứ thuở ấy chẳng có chiếu. Chư vị phải
biết, đối với người xuất gia hiện
thời, cái được người Hoa gọi là Cụ
(Niṣadana, tấm
ni-sư-đàn, tọa cụ), hiện
thời dùng để làm ǵ? Dùng trong lúc lạy Phật, trải
xuống
dưới cái đệm để quỳ
lên. Xưa kia, bất luận ngồi xuống chỗ nào,
bèn lót [tọa cụ] xuống dưới. [Tọa cụ]
là một tấm vải để lót xuống dưới,
ḥng ngồi xuống đất nghe đức Phật thuyết
pháp, cũng tức là nghe thầy dạy học. Bởi lẽ,
Ngài chẳng có pḥng ốc, cũng chẳng có bàn ghế. Chữ
Tăng Viên (僧園)
đă miêu tả hoàn toàn trạng huống giáo học thuở
ấy của đức Thế Tôn. Bắt
đầu giáo học ở chỗ nào, chỗ
ấy được gọi là Tăng-già-lam.
Điều trọng yếu
là chúng ta c̣n gọi Tăng-già-lam là “Tăng đoàn”, tức là “đoàn thể”. Đối với ư nghĩa của
chữ Tăng, đối với ư nghĩa gốc, nếu
nói theo kiểu hiện thời, sẽ là “đoàn thể”. Trong kinh,
đức Phật đă dạy chúng ta, từ bốn
người trở lên tụ tập cùng một chỗ, tuân
thủ Lục Ḥa Kính, đoàn thể ấy là Tăng
đoàn, chẳng phân biệt tại gia hay xuất gia! Tại
gia, nếu nhà quư vị có bốn người, từ bốn
người trở lên; hiện thời, cũng thường
có thể thấy, hai vợ chồng, có một
con trai, một con gái, thành bốn người. Nếu bốn
người tu Lục Ḥa Kính, gia đ́nh ấy là Tăng
đoàn. Điều quan trọng nhất là pháp Lục Ḥa; bởi
lẽ, “Chúng” có pháp Lục
Ḥa. Trong pháp Lục Ḥa, có Lư và Sự. Điều thứ nhất
là Lư, tức Kiến Ḥa Đồng Giải. Điều này
là Lư. Tăng đoàn thời đức Thế Tôn tại thế,
đức Phật yêu cầu đại chúng mỗi người
đối với phân biệt, chấp trước của
chính ḿnh, vọng tưởng chẳng cần bàn tới, đối
với phân biệt và chấp trước thảy đều
buông xuống, đối với người, đối với
sự, đối với vật, đều chẳng có
phân biệt, đều chẳng có chấp trước. Đấy chính là ḥa thuận.
Nguyên nhân gây nên
bất ḥa là ǵ? Ai nấy có ư kiến
riêng, ai nấy có cách nghĩ và cách nh́n riêng, vậy là đôi bên bất đồng. Đấy
là nhân tố căn bản gây nên bất ḥa. V́ sao bất
ḥa? Ư kiến của tôi và quư vị khác nhau. Cách nh́n và cách
nghĩ của tôi chẳng giống quư vị. Quư vị chẳng
giống tôi, đôi bên chẳng nhường nhau. Ai cũng
chẳng chịu khuất phục. V́ sao tôi phải nghe theo
quư vị? V́ sao quư vị phải nghe theo tôi? Do vậy,
phương pháp của đức Phật đúng là trí huệ
bậc cao để xử trí vấn đề này: Chúng ta
thảy đều buông xuống thành kiến, chẳng có
phân biệt, chẳng có chấp trước, đoàn thể
ấy sẽ ḥa thuận. Người có thể buông xuống
phân biệt, chấp trước, sẽ thật sự
được chư Phật gia tŕ. Chư Phật chẳng
có thời khắc nào không gia tŕ hết thảy chúng sanh! Vấn
đề là quư vị có vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước, [do vậy] tạo
thành sự kháng cự, chẳng thể tiếp nhận! Tuy
Phật gia tŕ, chẳng thể gia tŕ
được, [bởi lẽ], quư vị chẳng có cách
nào tiếp nhận. Nếu buông xuống vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước, chướng
ngại ấy sẽ chẳng c̣n nữa!
Sự gia tŕ của Phật là
ǵ? Chính là trí huệ và đức tướng trong tự
tánh [khởi tác dụng] như kinh Hoa Nghiêm đă dạy: “Hết thảy chúng sanh đều
có trí huệ và đức tướng của Như Lai, chỉ
v́ vọng tưởng và chấp trước nên chẳng
thể chứng đắc”. Do quư vị có vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, quư vị mới
biến thành chúng sanh khổ năo. Trong mắt Phật, quư vị
vốn là Phật, hiện thời quư vị vẫn
là Phật, hoàn toàn chẳng thay đổi. V́ thế, Phật
tôn kính chúng sanh, nhưng chúng sanh chẳng tôn kính Phật. V́
sao Phật tôn kính chúng sanh? Đức Phật thấy rất
rơ ràng, rất minh bạch chân tướng sự thật.
Quư vị là một vị Phật,
về căn bản, chẳng khác hết thảy chư Phật!
Sai biệt ở chỗ nào? Nay quư vị vô cớ dấy
lên vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước chẳng thật.
Trong Khởi Tín Luận, Mă Minh Bồ Tát đă nói rất
hay: “Bổn Giác vốn có”, [nghĩa
là] hiện thời quư vị có trí huệ và đức
tướng (đức năng và tướng hảo) giống
như hết thảy chư Phật Như Lai hay không? Có chứ!
Quư vị chẳng mất đi tí nào, chỉ là do chính quư vị vô cớ dấy lên những
phiền năo gây chướng ngại, khiến cho trí huệ,
đức năng, và tướng hảo trong tự tánh của
quư vị thảy đều bị biến chất, biến
đổi, biến thành nông nỗi như trong hiện thời!
V́ thế, đức Phật thấy chúng sanh đáng gọi là “kẻ
đáng thương xót”, thật
sự đáng thương! Nếu quư vị chẳng có trí huệ
và đức tướng của Như Lai, hiện thời
quư vị trở thành t́nh trạng như thế này, đức
Phật chẳng thể nói quư vị đáng thương. Nói
quư vị đáng thương, lời đức Phật sẽ
chẳng thích hợp, sẽ trở thành lời lẽ châm
chọc! Do quư vị và Ngài hoàn toàn giống hệt như nhau,
nay quư vị mê hoặc, điên đảo. V́ thế, cổ
nhân có tỷ dụ, phàm phu giống như kẻ uống
rượu say mèm. Quư vị vốn giống hệt người
b́nh thường, nhưng sau khi say rượu, do say bét nhè,
bèn nói năng quàng xiên, tất cả oai nghi đều mất
sạch, có ư nghĩa như thế đó!
V́ thế, đức Phật
dạy mọi người hăy buông xuống. Buông xuống những
ǵ? Buông xuống chấp trước; người Hoa nói là “buông xuống thành kiến”. Ai
nấy đều buông xuống thành kiến, thế giới
này sẽ thái b́nh, chẳng có tranh
chấp, tự nhiên là cư xử ḥa thuận, đối
đăi b́nh đẳng. Đấy là chân tướng sự
thật. Dấy lên phân biệt, chấp trước, sẽ
biến chân tướng thành vọng tướng, biến
thành huyễn tướng, là giả tướng, chẳng
phải là chân tướng. Chân và giả là một, không hai.
Quư vị đă giác ngộ, giả
là chân. Hễ mê, chân là giả. Chân và giả chẳng hai! V́
thế, cách dạy này của đức Phật cao minh tột
bậc, khiến cho đại chúng chẳng c̣n bàn căi chi nữa.
Chẳng có chút tâm riêng tư nào, mảy may thiên vị
cũng chẳng có, quyết định là b́nh đẳng.
Nhưng lời này nói dễ
dàng, thực hiện chẳng dễ dàng, ai chịu buông xuống?
Trong Tăng đoàn của đức Thế Tôn vào thuở
ấy, quư vị muốn gia nhập Tăng đoàn của
Ngài, nếu quư vị chẳng buông xuống, sẽ không thể
gia nhập Tăng đoàn ấy! Nhất
định là quư vị phải buông xuống. Chẳng
hoàn toàn buông xuống, không sao cả! Trước hết,
hăy buông xuống Ngă Chấp, buông xuống dần dần từng
bước một. Buông xuống Thân Kiến, nay chúng ta gọi
Biên Kiến là thiên kiến hoặc thành kiến, tức là
trong năm thứ Kiến Hoặc, nay chúng ta gọi Kiến
Thủ Kiến và Giới Thủ Kiến là thành kiến.
Thành kiến có hai loại, một loại là thành kiến
đối với nhân, loại kia là thành kiến đối
với quả. Loại cuối cùng là tà kiến, tức là hết
thảy các kiến giải bất chánh, trái nghịch chân
tướng sự thật đều thuộc về tà kiến,
chẳng phải là chánh tri chánh kiến. Trước hết,
quư vị hăy buông thứ này xuống.
Hễ buông xuống thứ ấy,
trong Tiểu Thừa sẽ là Sơ Quả, mới tiến
nhập Phật môn. Đức Phật thấy rất rơ
ràng, quư vị thật sự muốn học, hay là giả vờ
muốn học. Thật sự muốn học, thật sự
mong buông xuống, Ngài sẽ dạy
quư vị. Trong quá tŕnh dạy dỗ, học tập, gọi
là Sơ Quả Hướng (初果向),
[nghĩa là] quư vị chưa đạt tới Sơ Quả,
nhưng quư vị đă tiến theo phương hướng
của Sơ Quả. Sơ Quả giống như lớp Một;
quư vị đang học lớp dự bị để có
thể vào lớp Một. Trong Đại Thừa, [người
như vậy] được gọi là Bồ Tát thuộc địa
vị Sơ Tín. Địa vị Sơ Tín và Tiểu Thừa
Sơ Quả giống nhau, hễ chưa đạt tới
Sơ Quả bèn chậm răi học, cũng là một
phương hướng, một mục tiêu như vậy.
Nhưng Đại Thừa thông minh hơn Tiểu Thừa,
thật vậy đó! Người Tiểu Thừa chấp
trước khá nặng; Đại Thừa ngộ tánh cao hơn, nghe xong, họ hiểu rơ, dần dần
buông xuống, buông xuống từng bước một, chẳng
phải là ngay lập tức buông xuống!
Quư vị thấy kinh này
đă dạy: Đă buông xuống Kiến Hoặc, chúng ta gọi
[Kiến Hoặc] là thành kiến, buông xuống kiến giải,
chẳng c̣n nữa, đă buông xuống rồi. Đấy
là Sơ Quả, chính thức trở thành một thành viên
trong Tăng đoàn. Sau đấy, mới lại buông xuống
tư tưởng sai lầm. Kiến Hoặc là kiến giải
sai lầm. Tư tưởng sai lầm là tham, sân, si, mạn,
nghi, năm điều ấy! Năm điều ấy
chính là sai lầm về tư tưởng. Người thế
gian hoài nghi, há có hoài nghi nhiều ngần ấy ư?
Căn bản là chẳng có! Lục Tổ nói “vốn chẳng có một vật”,
quư vị nghi nỗi ǵ? Kinh Bát Nhă đă nói: “Hết thảy các pháp vô sở hữu,
rốt ráo không, trọn chẳng thể được”,
quư vị nghi ǵ? Thân, tâm, thế giới, “Tướng có, Tánh không, Sự có, Lư không”, quư vị
c̣n nghi nỗi ǵ?
Cái tâm nghi của bọn chúng
sanh chúng ta chính là căn bản phiền năo; sau tham, sân, si, mạn
là nghi. Các điều này (Tư Hoặc) có tất cả tám
mươi mốt phẩm thuộc tam giới. Tam giới
có chín địa, mỗi địa có chín phẩm. Do tam giới
có chín địa, cho nên có tám mươi mốt phẩm (chín
lần chín là tám mươi mốt, [thành ra] tám mươi mốt
phẩm), chín địa mà! Quư vị buông xuống sáu phẩm
đầu tiên, sẽ chứng Nhị Quả,
tức là tham, sân, si, mạn, nghi nghiêm trọng chẳng có,
nhẹ nhàng th́ c̣n có. Nặng
nề th́ chẳng có, nhẹ nhàng th́ c̣n có. Đó là Nhị
Quả, là lớp Hai. Khi đến lớp Ba, sẽ lại
buông xuống một tí. Lớp Ba sẽ không sanh trong thế
gian này; thánh nhân Tam Quả đến tu
hành ở nơi đâu? Đến Tứ Thiền Thiên. Trong
Tứ Thiền Thiên có Ngũ Bất Hoàn Thiên. Tứ Thiền
Thiên có chín tầng, bốn tầng đầu là phàm phu
thiên, năm tầng trên là thánh nhân. Thánh nhân Tam Quả tu hành
trong ấy. Đến cuối cùng, thật sự đoạn
sạch những tư tưởng sai lầm ấy (tức
là tham, sân, si, mạn, nghi), Ngài hăy c̣n có tập khí. Tập
khí chẳng sao hết! Chứng quả A La Hán, bèn vượt
thoát lục đạo. Đă vượt thoát lục đạo,
chúng ta biết ngoài lục đạo c̣n có bốn pháp giới,
[tức là] Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật. Các Ngài
đạt đến Thanh Văn bèn đến pháp giới
ấy. Đoạn hết tập khí, tức là tập khí của
Kiến Tư phiền năo, chẳng có tập khí về kiến
giải và tư tưởng, bèn tiến cao hơn một tầng,
tương ứng với Duyên Giác và Bồ Tát. Nếu chẳng
phát Bồ Đề tâm, Ngài thuộc tầng cấp Duyên
Giác. Nếu phát Bồ Đề tâm, sẽ là Bồ Tát, dần dần
tiến cao hơn!
Hiện thời, chúng ta có rất
nhiều tập khí phiền năo, chính ḿnh phải cảnh
giác, hy vọng mỗi năm một nhẹ hơn! Bảo
quư vị đoạn, chẳng thể nào! Đă đoạn
được, quư vị sẽ thành Phật, thành Bồ
Tát, là Bồ Tát thật sự, chẳng phải là giả Bồ
Tát! Giả Bồ Tát, hữu danh vô thực, sẽ mắc tội
lỗi. V́ sao? Quư vị chẳng phải là Bồ
Tát, giả mạo Bồ Tát, quư vị nói xem, chính ḿnh có tội
hay không? Trước kia, thầy chúng tôi dạy, chẳng phải
là Bồ Tát mà xưng là Bồ Tát, [đó là] giả mạo, giả mạo làm Bồ Tát! Giống
như người trong thế gian, chẳng phải là vương
tử, giả mạo làm vương tử, tức là hoàng
tử của hoàng đế xưa kia. Kẻ ấy chẳng
phải là hoàng tử, giả mạo, chính là phạm pháp,
danh và thực phải tương xứng. Nhưng
người thế gian gọi [quư vị] là “Bồ
Tát” cũng có cái hay. Hay ở chỗ
nào? Quư vị nghe một tiếng Bồ Tát, ta phải thật
sự làm Bồ Tát, có thể khiến cho quư vị có tâm cảnh
giác. Do quư vị thật sự muốn làm Bồ Tát, thường
khiến cho người ta gọi quư vị, nhắc nhở
quư vị, đến cuối cùng, bất tri bất giác quư
vị thật sự trở thành Bồ Tát, như vậy
th́ được! Bởi lẽ, Phật
pháp thông t́nh đạt lư. Nhưng quư vị hoàn toàn chẳng
muốn làm Bồ Tát, muốn có cái danh Bồ Tát, hoàn toàn chẳng
phải là thật sự tu tập, chẳng thể đoạn
phiền năo, cũng chẳng nghĩ “ta phải
đoạn phiền năo”, cũng chẳng
nghĩ “ta phải sửa đổi tập
khí xấu, những thói hư tật xấu”, như
vậy th́ quư vị hoàn toàn là giả
mạo, sẽ có tội lỗi. Danh và thực
phải tương xứng, phải tương ứng.
Quư vị thấy Ngẫu Ích đại sư sau khi đă thọ
giới, v́ sao Ngài muốn thoái giới? Đấy chính là
nêu gương cho người đời sau, quư vị chẳng
làm được! Quư vị làm không được, vậy
th́ quư vị xưng là “tỳ-kheo” chính là dối
gạt người khác. Đó là ǵ? Chính là vọng ngữ,
lừa người! V́ thế, sau khi đă thọ
giới, Ngài thoái lui giới tỳ-kheo. Giới Sa Di Ngài có thể làm được, cho nên
suốt đời lăo nhân gia xưng là Bồ Tát Giới Sa Di.
Người thật sự phát Bồ Đề tâm, phát Bồ
Đề tâm hành Bồ Tát đạo, người ấy
là Bồ Tát, tại gia cũng là Bồ Tát. Do vậy, Tăng đoàn chẳng phân biệt tại
gia hay xuất gia.
Tại gia cư sĩ kiến
lập đạo tràng, giống như Ấn Quang đại
sư lăo nhân gia đề xướng Niệm Phật
Đường kiểu mẫu nhỏ, số người
chẳng vượt quá hai mươi người, tốt
lắm! Thanh tịnh lắm! Hai mươi người dễ
dàng duy tŕ sinh hoạt. Hơn nữa, niệm Phật đến
công phu nhất định, cái tâm sẽ định. Ví
như nói Niệm Phật Đường của quư vị,
chớ nên để số người thường xuyên
biến động, chuyện này chẳng tốt! Rất
khó thành tựu! Số người trong Niệm Phật
Đường cố định. Quư vị thấy thuở
đức Thế Tôn tại thế, học tṛ theo Ngài là một
ngàn hai trăm năm mươi lăm vị, cố định!
Viễn công đại sư (tổ Lư
Sơn Huệ Viễn) vào thời Đông Tấn, khi
kinh Vô Lượng Thọ đă được phiên dịch;
thuở ấy, Quán Kinh và kinh Di Đà c̣n chưa được
dịch ra, kinh Tịnh Tông được dịch sớm
nhất là kinh Vô Lượng Thọ. Ngài xem kinh, hoan hỷ,
y giáo tu hành. Tại Lư Sơn, Giang Tây, Tổ mời một
trăm hai mươi ba người chí đồng đạo
hợp, phát tâm ở tại đó, chiếu theo kinh Vô Lượng Thọ để tu
hành, đọc tụng, giảng giải, nghiên cứu, niệm
Phật.
Một bộ kinh thôi! Đấy là “thâm nhập
một môn, huân tu lâu dài”. Một
trăm hai mươi ba người ai nấy đều văng
sanh, thật là tuyệt diệu!
Chí nguyện bất đồng,
không thâu nạp! Quư vị đến chỗ chúng tôi thăm
viếng, chúng tôi tiếp đăi quư vị. Quư vị muốn
gia nhập đoàn thể này, [chúng tôi] chẳng tiếp nhận! Quư vị thấy
thuở đó, ông Tạ Linh Vận là một văn học
gia rất nổi tiếng trong lịch
sử, muốn nhập hội. Viễn công đại
sư cự tuyệt. Lư do cự tuyệt là ǵ? Ông Tạ là
văn nhân, chẳng buông xuống tập khí văn nhân, thích
làm thơ, chuộng soạn văn. Chẳng buông xuống tập
khí ấy. Tập khí ǵ cũng đều phải buông xuống!
Quư vị c̣n đèo theo các tập khí, sẽ
ảnh hưởng đến sự tu hành của người
khác, cũng có nghĩa là quư vị chẳng
thể chuyên ṛng, sẽ tạp loạn. Cho nên, [Lư
Sơn liên xă] chẳng cần ông Tạ. Đào Uyên Minh (Đào Tiềm) là một người
rất đức hạnh, Viễn công rất hoan nghênh ông
Đào tham gia, nhưng ông ta chẳng đến tham gia, chẳng
tham dự. “Tiếp nạp”
(接納, tiếp
nhận, dung nạp) là có điều kiện, chẳng phải
là bất cứ ai cũng đều có thể đến.
V́ thế, đạo tràng chuyên tu là ai nấy đều có thành
tựu.
Trong quá khứ, chúng ta thấy
một đạo tràng nhỏ nhất, [chính là đạo
tràng của] Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát. Sau khi văng
sanh thế giới Cực Lạc, Ngài tiết lộ tin tức.
Trong thế giới Cực Lạc, danh hiệu của Ngài
là như vậy. Trước khi văng sanh, đạo tràng của
Ngài chỉ có mười hai người. Mười hai người
cùng nhau tu hành, ai nấy đều thành tựu. Buông xuống
muôn duyên, nhất tâm niệm Phật. Đấy là đạo
tràng Lục Ḥa Kính thật sự. Trên thế giới có một
đạo tràng như thế xuất hiện, [sẽ được] chư Phật hộ niệm,
long thiên thiện thần ủng hộ, công đức chẳng
thể nghĩ bàn! Chứ đi khắp
nơi, cái tâm tán loạn, rất khó định được!
Nếu chư vị học
kinh giáo, học để trong tương lai hoằng pháp lợi
sanh, hôm qua trong khi trả lời câu hỏi, tôi đă
thưa cùng chư vị, chư vị hỏi khi nào tôi sẽ
lập Phật học viện? Tôi đă lập Phật học
viện rất nhiều năm, nhưng quư vị chẳng
nh́n ra! Trong mấy chục năm qua, những kinh luận
được giảng có đến mấy chục loại.
Hiện thời c̣n lưu lại băng thâu âm, băng thâu
h́nh, đĩa CD, những thứ ấy đều là tài liệu
giảng dạy. Quư vị thật sự mong học, hăy chọn
lựa một thứ mà chính ḿnh yêu thích để thâm nhập
một môn, huân tu lâu dài, quư vị sẽ có thành tựu. Có thể
thật sự thành tựu hay không? Đức hạnh hàng
đầu! Nếu chẳng có cơ sở đức hạnh,
sự thành tựu của quư vị chẳng
chân thật. V́ sao? Trong tương lai, một mai khi tiếp xúc xă hội, do tập khí phiền
năo ích kỷ, ham hố tiếng tăm, lợi
dưỡng dấy lên hiện hành, những công đức
đă tu học của quư vị đều bị phá hoại.
Chớ nên không ngăn ngừa chuyện này, đức hạnh
chiếm bậc nhất!
Chuyện này hết sức
khó khăn! Các vị xem Từ Bi Tam Muội Thủy Sám, [sẽ
thấy] Ngộ Đạt quốc sư đă thị hiện
cho chúng ta. Ngài mười đời tŕ giới tinh nghiêm (精嚴, chuyên ṛng, nghiêm ngặt), nghiêm tŕ giới luật suốt
mười đời; chẳng phải là một đời,
mà là mười đời. Công đức mười đời
tu hành, đại phước báo hiện tiền, [trở
thành] quốc sư, tức là thầy của hoàng thượng.
[Làm thầy của hoàng đế], chẳng phải là do một
đời, hai đời, mà là do mười đời tu
thành. Làm quốc sư, nay chúng ta nói là “lănh tụ của giới Phật giáo”. Hoàng
Thượng dâng biếu Sư một ṭa báu bằng trầm
hương, chúng ta gọi là “thái
sư ỷ” (太師椅, ghế
thái sư). Chiếc ghế thái sư ấy chạm
khắc bằng trầm hương, hết sức nổi tiếng,
quư báu. Sau khi Sư tiếp nhận, ư niệm ngạo mạn
hiện tiền, cảm thấy ǵ? Đây là ân ngộ (恩遇, sự
đăi ngộ đầy ân t́nh) của hoàng đế đối
với ta, tự ḿnh cảm thấy hết sức vẻ
vang, hết sức vinh diệu. Kẻ xuất
gia nào trong thiên hạ cũng đều
chẳng bằng ta!
Vừa sanh ư niệm ấy,
thần hộ pháp bỏ đi. Thần hộ pháp hộ tŕ
đạo đức của quư vị. Hiện thời,
quư vị thiếu khuyết đạo đức,
cớ sao quư vị dấy lên ư niệm ngạo mạn? Sau
khi thần hộ pháp bỏ đi, oán thân trái chủ của
Sư bèn t́m tới bên thân. Sư mọc một mụt ghẻ
mặt người, bất cứ thầy thuốc nào cũng
đều chẳng có cách nào trị liệu, gần như
mất mạng. Rốt cuộc, do căn cơ sâu dầy, Phật,
Bồ Tát chiếu cố Sư. V́ thế, tôn giả Ca Nặc
Ca (vị này là A La Hán) giúp đỡ, cứu mạng Sư,
điều giải với oán thân trái chủ của Sư.
Oán thân trái chủ cũng đồng ư tiếp nhận. Tôn
giả siêu độ kẻ đó, Sư khỏi bệnh. Quư
vị bèn hiểu: Đạo
đức chẳng thể thiếu khuyết mảy may!
Hiện thời, chúng ta chẳng học những thứ ấy.
Nếu quư vị học kinh giáo mà chẳng nắm vững kinh giáo, sẽ giống
như xây nhà trên cát, chẳng có nền móng! Chư vị chớ
nên không hiểu điều này!
Có thể học
kinh
giáo, đồng thời vun quén
căn cội. Vun quén căn cội ở chỗ
nào? Như tôi thường nói với chư vị, hăy thực
hiện Đệ Tử Quy, Thập Thiện Nghiệp
Đạo, Sa Di Luật Nghi một trăm phần trăm.
Lại c̣n phải thường đọc Liễu Phàm Tứ
Huấn, An Sĩ Toàn Thư và Cảm Ứng Thiên Vựng
Biên. Những thứ ấy đều do Ấn Quang đại
sư dạy. Ba loại sách ấy
chính là giáo dục nhân quả và đức hạnh đều
cùng được bao gồm trong ấy. V́ thế, luân lư,
đạo đức, nhân quả, [cộng thêm] kinh giáo chính là
[giáo dục] tôn giáo. Học tập đồng thời bốn
thứ giáo dục, phải vun quén vững vàng
căn cội th́ mới có thể thành tựu trong một
đời này. Bất luận là thuận cảnh hay nghịch
cảnh, đều chẳng bị ảnh hưởng. Quư
vị biết dụng tâm, sẽ là phẩm Tịnh Hạnh.
Sau khi đă học phẩm Tịnh Hạnh, bất luận
thuận cảnh hay nghịch cảnh, quư vị đều
có thể chuyển đổi cảnh giới. Kinh Lăng
Nghiêm đă nói rất hay: “Nếu
có thể chuyển cảnh, ắt đồng Như Lai”.
V́ thế, đây là quan niệm cơ bản, quan trọng
hơn bất cứ điều ǵ khác! Sau đấy, quyết
định tuân thủ giới luật tức là giữ quy
củ.
Điều thứ hai trong Lục
Ḥa Kính là Giới Ḥa Đồng Tu. Đấy cũng là [nói
theo] nghĩa rộng, chẳng phải là nghĩa hẹp.
Đối với giới luật do đức Phật
răn dạy, chúng ta phải tuân thủ. Thập Thiện
phải tuân thủ, Ngũ Giới phải tuân thủ, Tam
Quy phải tuân thủ. Nếu quư vị muốn làm Bồ
Tát, phải tuân thủ Bồ Tát Giới. Bồ Tát Giới
có hai loại: Một loại là Bồ Tát giới theo Anh
Lạc Kinh, gồm sáu giới trọng và hai mươi tám
giới khinh. Loại kia là Phạm Vơng Bồ Tát Giới, gồm
mười giới trọng và bốn mươi tám giới
khinh. Thông thường, các tại gia cư sĩ đều
thọ Anh Lạc Giới, do các giới
điều ít. Hàng xuất gia nhất định
thọ Phạm Vơng Bồ Tát Giới. Quư vị phải thật
sự làm; học điều nào, làm điều đó. Nghiêm
túc, quyết định thật sự làm, danh xứng hợp
thực.
Đối với giới luật,
khi tôi mới học, thầy dạy tôi “coi trọng thực chất,
đừng coi trọng h́nh thức”. Chương
Gia đại sư dạy tôi điều này! “Thực chất” là ǵ? Quư vị
học, học rồi th́ phải làm
được. Ví như Thập Thiện Nghiệp Đạo,
đối với “không sát sanh”
ta đă làm được điều này, tức là quư vị
đạt được điều ấy, quư vị
đă đắc giới. “Không
trộm cắp”: Ta học điều này, ta làm
được, quư vị cũng đạt được
điều này, đắc giới! Nếu quư vị thọ
theo h́nh thức, chẳng làm được. Đó là giả,
chẳng thật! V́ thế, lăo nhân gia dạy tôi: “Phật pháp trọng thực chất,
không coi trọng h́nh thức”, điều này hết sức
hợp lư. V́ có rất nhiều người chẳng có duyên
phận này, chẳng tiếp xúc những bậc xuất
gia, chẳng có nơi để thọ giới, nhưng họ
đều làm được, đức Phật thảy
đều thừa nhận. Người thế gian chúng ta
chẳng thừa nhận, Phật thừa nhận!
Người thế gian thừa
nhận điều ǵ? Quư vị thọ giới, có giới
điệp, có chứng thư. Họ thừa nhận những
thứ ấy; bản thân quư vị có làm được hay
không, họ chẳng cần biết! Do
đó, chư Phật, Bồ Tát, thiên, long, quỷ thần
trọng thực chất, không coi trọng h́nh thức. Giới
điệp, điệp quy y, các vị ấy đều
chẳng màng tới những thứ đó, các vị ấy quan tâm quư vị có thật sự
làm được hay không? Ta chẳng có điệp quy y, chẳng
có giới điệp, nhưng ta thật sự đạt
được “giác, chánh, tịnh”,
thật sự là khởi tâm động niệm đều
có thể hướng theo phương hướng và mục
tiêu ấy để nỗ lực học tập. “Tịnh chứ chẳng nhiễm,
chánh chứ không tà, giác chứ không mê”, quư vị đă
làm được Tam Quy, chẳng cần dùng đến
điệp quy y, đă thật sự quy y Tam Bảo. Ngũ
Giới “không sát sanh, không trộm
cắp, xuất gia không dâm dục, tại gia không tà dâm,
không nói dối, không uống rượu”, quư vị
làm được, Ngũ Giới đă toàn vẹn, Phật,
Bồ Tát thừa nhận, long thiên thiện thần thừa
nhận. Các Ngài tôn kính và ủng hộ quư vị.
V́ thế, coi trọng thực chất, không coi trọng h́nh
thức.
Trừ điều này ra,
đối với pháp luật của quốc gia, có phải
tuân thủ hay không? Phải! [Những thứ ấy] đều
thuộc về giới luật. Có phải tuân
thủ những
thứ luân lư đạo đức, phong tục, tập
quán thông thường trong xă hội
hay không? Phải! Chư vị phải biết, người
khác không tuân thủ là chuyện của họ, ta phải
tuân thủ. Phải coi trọng quan hệ Ngũ Luân. [Đó
chính là] quan hệ giữa con người với nhau, bản thân ta nhất định phải làm
được. Nguyên tắc yêu cầu, trong giáo học truyền
thống của Trung Hoa, Nho gia nói “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ,
nhân ái, ḥa b́nh”. Khởi tâm động niệm, ngôn ngữ,
tạo tác, quyết định chẳng trái phạm những
điều ấy, thảy đều
thuộc loại giới luật. Giống như đạo
tràng, tự, viện, am, đường đều có quy củ.
Trong các tự, viện, am, đường,
thông thường là có công ước
thường trụ, mọi người họp lại,
chế định những quy định, khuôn mẫu cho
cuộc sống, quư vị ắt phải tuân thủ, chẳng
thể vi phạm. V́ thế, Tăng đoàn Lục Ḥa Kính ấy
có cần ai cai quản hay không? Chẳng cần! Ai nấy
đều là người tốt, họ sẽ không vi phạm
quy củ, sẽ chẳng phạm pháp. Đối với những
chế định của đức Phật, họ sẽ
chẳng trái phạm. Đối với những quy định
của quốc gia và những tập tục thông thường
trong xă hội, họ thảy đều chẳng trái phạm.
Đây chính là sự tŕ giới trong điều thứ hai,
tức Giới Ḥa Đồng Tu.
Những điều kế
đó biến thành sự tướng, hăy nên [thực hiện]
trong cuộc sống hằng ngày. Thân Ḥa Đồng Trụ.
Hai mươi người ấy, nay chúng ta chọn lựa
giáo huấn của Ấn Quang đại sư. Đông
người sẽ phức tạp; hễ phức tạp, cái
tâm của quư vị bị loạn, tâm chẳng thanh tịnh.
Ví như hai mươi người ấy, trong số
đó có một, hai người văng sanh, hễ văng sanh th́ số
người hạn định sẽ bị trống hai chỗ,
lại có thể bổ sung hai người
khác vào đó, vĩnh viễn duy tŕ [số người hạn
định] là hai mươi người. Chỉ có thể
ít, chẳng cần nhiều; đấy là đạo tràng
thật sự đúng pháp.
Đối với chuyện
học Giáo, ngày hôm qua, tôi đă giới
thiệu với mọi người: Chúng ta nương cậy
A Di Đà Phật làm thầy, chúng ta học kinh Vô Lượng
Thọ, học kinh A Di Đà, chuyên tu, suốt đời chẳng
thay đổi. Hằng ngày, quư vị cùng mọi người
giảng giải, hai mươi đồng học giảng
hằng ngày. Giảng từng lần một, mỗi lần
đều khác nhau. Càng giảng càng thú vị, càng giảng
càng sâu, càng giảng càng rộng, nghĩa
lư trong kinh điển sâu rộng vô tận! Như
vậy th́ quư vị mới có thể thật sự sanh tâm
hoan hỷ. Quư vị thấy kinh Vô Lượng Thọ, trong
quá khứ, tôi đă giảng mười một lần, lần
thứ mười một c̣n chưa giảng xong, tôi vẫn
t́m thời gian để giảng tiếp. Kinh Hoa Nghiêm, chiếu
theo cách giảng hiện thời, quá tốn
thời gian. Giảng cặn kẽ th́ mọi người
sẽ được lợi ích. V́ thế, tôi nói: Hội
đầu bèn giảng cặn kẽ, hội thứ hai
cũng giảng cặn kẽ. Hội thứ hai là Thập
Tín, Thập Tín th́ phải giảng cặn kẽ. Từ hội
thứ ba trở đi, chúng tôi chỉ giảng đại
ư, sẽ chẳng giảng cặn kẽ. Tôi dự đoán
làm theo kiểu ấy, chúng tôi có thể giảng viên măn kinh
Hoa Nghiêm trong năm năm. Tôi cũng dự đoán c̣n phải
mất ba bốn ngàn giờ nữa, gần như là năm năm,
tối đa là bảy năm, sẽ không lâu hơn bảy
năm, có thể giảng viên măn bộ kinh này. Tôi dự
đoán là từ sáu ngàn giờ cho đến bảy ngàn giờ,
điều này rất khó có! Nếu sau này, tôi hăy c̣n thọ mạng,
tôi rất hy vọng sẽ giảng Tịnh Độ
Ngũ Kinh một lần nữa. Nếu c̣n có thời gian, tôi
sẽ giảng kinh Pháp Hoa một lần, giảng kinh
Lăng Nghiêm một lần, như vậy là đủ lắm rồi! Tôi suốt
đời làm chuyện này. Trừ chuyện này ra, chẳng
có chuyện thứ hai!
Nếu trong tương lai hữu
duyên, tôi có thể trở lại Trung Hoa, đó gọi là “lá rụng về cội”. Tôi
mong nhà nước cho tôi một đạo tràng nhỏ, hai
mươi người. Đạo tràng nhỏ ấy chọn
lựa quy củ của Viễn công đại sư, “kết giới” (結界),
[tức là] hoạt động của chúng ta có phạm vi,
chẳng rời khỏi giới tuyến. Huệ Viễn
đại sư lấy Hổ Khê làm giới hạn. Khách
đến viếng, tiễn khách không ra khỏi Hổ Khê.
Nơi ấy có chiếc cầu nhỏ, đưa chân tới
đó bèn dừng. Tổ tông lưu lại quy củ, nếu
chúng ta có thể lư giải, phải bắt chước, phải
thực hiện. Hai mươi người cộng tu
như vậy, tốt lắm, vừa học Giáo, vừa niệm
Phật. Cái tâm sẽ định. Sau khi cái tâm đă định,
thân tâm khỏe mạnh, sẽ bớt ăn uống. Chư
vị thường xuyên nghe kinh, phải nên thấu hiểu
điều này: V́ sao có thể giảm ít? Vọng tưởng
ít! Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước ít
đi, quư vị sẽ tiêu hao [năng lượng] ít. Sau
khi vọng tưởng giảm thiểu, mỗi ngày ăn
một bữa là được rồi! Hai mươi người
cùng nhau tu hành, thân tâm thanh tịnh. Năm thứ nhất, [mỗi
ngày] ăn ba bữa. Năm thứ hai có thể không cần
bữa tối. Năm thứ ba có thể không cần bữa
sáng. Sau ba năm, chắc chắn là có thể ăn mỗi
ngày một bữa giữa trưa. Bản thân tôi đă thực
hiện nhiều năm, [hiểu] rất rơ, nhưng
từ đầu đến cuối, chẳng có cơ hội.
Nếu có cơ hội, chúng ta có một đạo tràng nhỏ
như thế, kết giới an cư, chẳng có một
ai không thành tựu!
Thân Đồng Trụ, Khẩu
Vô Tránh: Miệng niệm Phật, tụng kinh, làm sao c̣n có thể
tranh luận cho được? Chắc chắn là chẳng
có. Ư Ḥa Đồng Duyệt, pháp hỷ sung măn. Lợi Ḥa
Đồng Quân: Lợi Ḥa Đồng Quân là cuộc sống vật chất b́nh đẳng,
chẳng có người nào là ưu việt, ăn uống,
sinh hoạt hoàn toàn b́nh đẳng. Phật, Tổ đă lập
ra những quy củ ấy, chúng ta có thể y giáo phụng
hành; đấy
là Tăng
đoàn “danh phù hợp thực”. Hiện thời,
tuy có tinh xá, hoặc là có tự, viện, am, đường,
vẫn phải chiếu theo quy củ ấy để thực
hiện.
Chẳng có tranh chấp, sẽ
chẳng có xung đột. Trên khắp thế giới trong
hiện thời, có bao nhiêu người suy nghĩ làm như
thế nào ḥng có thể hóa giải xung đột? Hễ xung
đột bèn tranh luận! Chẳng tranh căi, quư vị
nghĩ xem có c̣n xung đột, c̣n có đối lập, c̣n có
mâu thuẫn hay không? Toàn bộ đều chẳng có! Đối
đăi b́nh đẳng, cư xử ḥa thuận, mới có
thể thực hiện một trăm phần trăm, thật
sự thực hiện viên măn. Các đồng học hăy đặc
biệt chú ư chỗ này, Tăng-già-lam là danh xưng của một
đoàn thể Lục Ḥa Kính, chẳng phân biệt tại
gia hay xuất gia, [đoàn thể] từ bốn người
trở lên. Trước kia, sống trong lều tranh nhỏ,
bốn, năm người trụ trong lều tranh nhỏ
tu Lục Ḥa Kính, nó cũng là một đạo tràng danh phù
hợp thực, là Tăng đoàn, nhất định
được chư Phật hộ niệm, long thiên thiện
thần ủng hộ. Những ư nghĩa kế đó trong
bài kệ này vẫn chưa được nói đến,
nay đă hết thời gian rồi. Giờ
sau, chúng tôi sẽ cùng chư vị
học tập hai câu kế.
***
Chư vị đồng học,
xin mời ngồi xuống. Chúng ta xem tiếp nguyện thứ
hai trong phần Xuất Gia Thọ Giới:
(Kinh) Nhập tăng-già-lam, đương nguyện
chúng sanh, diễn thuyết chủng chủng, vô quai tránh pháp.
(經)入僧伽藍。當願眾生。演說種種。無乖諍法。
(Kinh: Vào tăng-già-lam, nguyện cho chúng sanh, diễn
thuyết các thứ pháp chẳng tranh chấp).
Chư vị đă hiểu ư
nghĩa của Tăng-già-lam; bởi lẽ, nó có phạm vi
hết sức rộng răi. Chỉ cần là một đoàn
thể từ bốn người trở lên tu Lục Ḥa
Kính, sẽ đều được gọi là Tăng
Đoàn. Trong Tam Quy Y, [có câu] “quy
y Tăng, chúng trung tôn”. Khi truyền trao Tam Quy, chúng tôi
đă giảng rất rơ ràng. Quy y Tăng chẳng phải là
quy y một người xuất gia nào đó. Nếu nói là “quy
y một người xuất gia nào đó”, như vậy là
sai mất rồi, hoàn toàn sai lầm! [Quy y Tăng] là quy y Tăng
đoàn, vị Tăng ấy đại diện cho Tăng đoàn.
V́ sao Tăng đoàn là Chúng Trung Tôn? “Chúng” (眾) là
đoàn thể, tất cả hết thảy các đoàn thể.
[Các đoàn thể] trong xă hội quá nhiều, gia đ́nh cũng
được coi là một đoàn thể, là một
đoàn thể nhỏ nhất, cơ bản nhất. Công ty,
hăng xưởng, cửa hiệu cũng
là đoàn thể. Trong hết thảy các đoàn thể, Tăng
đoàn là [đoàn thể] đáng được mọi
người tôn kính nhất [nên gọi là Chúng Trung Tôn]. “Tăng đoàn” không nhất
định là người xuất gia, mà là ǵ? Đoàn thể
tu Lục Ḥa Kính. Bất luận là tại gia hay xuất
gia, cũng chẳng cần biết quư vị làm nghề ǵ,
thậm chí tất cả các thành viên trong gia đ́nh quư vị
đều tu Lục Ḥa Kính, vâng theo sự chỉ dạy của
đức Phật, đều tu Lục Ḥa Kính, Tăng
đoàn ấy đối đăi b́nh đẳng, cư xử
ḥa thuận, quư vị nói xem, có đáng cho kẻ khác tôn kính
hay chăng? Đạo lư là như thế đó!
Nếu các thành viên trong đoàn
thể của quư vị bất ḥa, ai sẽ tôn kính quư vị?
Chẳng có ai tôn kính quư vị cả! Nói đi, nói lại,
nói đến cuối cùng, vẫn là ḥa thuận! Hiện thời,
Trung Hoa đề xướng xă hội hài ḥa; Lục Ḥa
Kính chính là xă hội hài ḥa. Mỗi đoàn thể đều
có thể tu Lục Ḥa Kính, đều có thể thực hiện
hài ḥa, thế giới này chính là thế giới Cực Lạc,
thế giới này chính là thế giới Hoa Tạng! Mỗi
người xác thực là chân Bồ Tát, chẳng phải là
giả Bồ Tát. Bồ Tát là người, chẳng phải
là thần tiên, mà là bậc giác ngộ, là người tu Lục
Ḥa Kính, là người đă buông xuống vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước. Người như vậy
được gọi là Bồ Tát. V́ thế, Bồ Tát chẳng
phải là thần tiên.
Xuất gia, đương
nhiên là sẽ tiến nhập Tăng đoàn. Nhập Tăng
đoàn, “nhập Tăng-già-lam” là gia nhập Tăng
đoàn, nay chúng ta thường nói là “nhập tự miếu”. Nói thật ra, sẽ là “nhập tự viện”, chẳng
thể nói là “tự miếu”.
Miếu và tự khác nhau! Miếu: Chỗ thờ cúng quỷ
thần th́ gọi là Miếu (廟). Tự (寺) là nơi chốn
để đệ tử Phật tu học, được
gọi là Tăng-già-lam, là nơi chốn để tu học.
V́ thế, nó hoàn toàn khác với Miếu. Hiện thời, Tự
và Miếu bị nhập chung, khiến cho kẻ khác mê hoặc.
[Danh xưng] Tự và Miếu được coi giống
như nhau; đấy là sai lầm, đă hạ thấp sự
giáo dục của đức Phật thành tôn giáo mê tín. Do vậy,
chúng ta chớ nên không biết [điều
này],
người trong xă hội chẳng hiểu rơ ràng. Nếu các
đồng học vẫn chẳng hiểu rơ, sai mất rồi!
Chúng ta nhất định phải hiểu
rơ ràng!
Vào tự viện,
nguyện này bèn sanh khởi, “đương
nguyện chúng sanh, diễn thuyết chủng chủng, vô quai tránh pháp” (nguyện
cho chúng sanh, diễn thuyết các pháp chẳng hề trái nghịch).
Đối với hai câu cuối trong nguyện này, quư vị
thấy Tăng-già-lam để làm ǵ?
Trường học! Do vậy, sau khi tôi tiếp xúc Phật
pháp, đă liễu giải Phật pháp là giáo dục, tức
là nền giáo dục của đức Phật, là nền
giáo dục của Thích Ca Mâu Ni Phật. Nho gia là nền giáo
dục của Khổng Tử. Trong sự
giáo dục của
Thích Ca Mâu Ni Phật, suốt bốn mươi chín năm,
Ngài hằng ngày giảng kinh, dạy học,
chẳng dựng trường học; nhưng
mỗi ngày lên lớp chính là lên lớp ở đâu? Lên lớp
ở ngoài đồng. Sau này, chúng ta lập trường học;
tự, viện, am, đường chính là trường học.
Trong ấy, phải “diễn
thuyết chủng chủng, vô quai
tránh pháp”,
tức là như chúng ta nói đến toàn thể Phật
pháp trong hiện thời, hiện tại [Phật pháp] đă
được biên tập thành một bộ Đại Tạng
Kinh. Trong Đại Tạng Kinh, chẳng có bộ kinh nào dạy
người ta tranh chấp, chẳng hề có! Thật sự
là “vô quai tránh pháp” (pháp chẳng
chống trái). “Quai” (乖) là trái nghịch.
Những điều đức Phật dạy tuyệt
đối chẳng trái nghịch Tánh Đức. Các vị hăy
ngẫm xem, đấy là nguyên tắc chỉ đạo cao
nhất: “Chẳng trái nghịch
Tánh Đức”.
Tánh Đức được
người Hoa nói là “nhân chi
sơ, tánh bổn thiện” (con người thuở
đầu tánh vốn lành). Bản tánh vốn lành, quyết
định chẳng trái nghịch bản tánh vốn lành;
đấy là “vô quai” (chẳng trái nghịch). Thực hiện trong thực
tế, [sẽ là] đối với người, đối
với sự, đối với vật, quyết định
chẳng tranh giành. Quư vị nh́n vào sáu điều mục tu
tập của Bồ Tát, [sẽ thấy điều đầu
tiên là] bố thí, tức Xả, tranh giành ở chỗ nào? Tŕ
giới, giữ quy củ, nhẫn nhục lại càng chẳng
tranh! Do vậy, suốt một đời, trong hơn ba
trăm hội, đức Thế Tôn đă dạy những
ǵ? Chính là dạy pháp “vô quai
tránh”, quyết định
chẳng trái nghịch Tánh Đức, chẳng trái nghịch
luân lư, chẳng trái nghịch đạo đức, chẳng
trái nghịch nhân quả, chẳng tranh với người,
chẳng tranh với đời, chẳng tranh với hết
thảy vạn vật. Đấy là Phật pháp.
Trong đạo tràng, trong Tăng
đoàn, hằng ngày diễn thuyết, “diễn” (演) là ǵ? Thực hiện, biểu diễn. Lục Ḥa
Kính ai nấy đều làm được, chẳng phải
chỉ là như thế! Thập Thiện Nghiệp Đạo
thảy đều làm được. Sa Di Luật Nghi, trong
quá khứ, tỳ-kheo giới, Bồ Tát giới, chẳng
có một điều nào họ không làm được. V́ thế,
tôi mới nói: Các bậc thánh nhân đă làm được rồi
mới nói. Thầy là người đă làm được;
học tṛ là hiền nhân, sau khi nghe xong, ai nấy cũng đều
làm được, thật sự học Phật. Ai nấy
đều học rất giống đức Phật.
Điều kế đó là “nghệ
đại tiểu sư” (đến chỗ các vị
thầy lớn nhỏ), “đại
sư” là thầy, là Phật, “tiểu
sư” là học tṛ của đức Phật gồm một
ngàn hai trăm năm mươi lăm vị, là tiểu
sư, các Ngài đều làm được. “Đại sư” là bậc đă làm rồi mới
nói, “tiểu sư” là bậc
sau khi đă học, bèn thật sự làm được!
Chúng ta học phẩm Tịnh
Hạnh, nếu gặp người hỏi, “rốt cuộc Phật giáo là nói
về điều ǵ?” Dùng tám chữ này để giải
đáp, sẽ hết sức hoàn thiện, Phật giáo là nói
“diễn thuyết chủng chủng, vô quai tránh pháp”. Không chỉ
là ngôn giáo, mà c̣n có thân giáo. “Diễn”
(演) là
biểu diễn, làm cho kẻ khác thấy, xác thực là
đă nêu gương tốt cho hết thảy chúng sanh. Nói
theo Phật pháp, sẽ là “nhân
thiên sư phạm” (人天師範, bậc
thầy gương mẫu của trời và người).
Đức Phật là “nhân thiên sư
phạm”, đệ tử đức Phật cũng là “nhân thiên sư phạm”. V́ thế,
chúng ta đối với khởi tâm động niệm,
ngôn ngữ, tạo tác, phải suy nghĩ: Ư niệm, cách
nói, và cách làm của ta có thể làm gương cho trời
và người hay chăng? Ư niệm ấy chính là Giác. Cổ
đức thường nói: “Chẳng
sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Ư niệm
vừa dấy lên, bèn suy nghĩ, có thể nêu gương tốt
cho hết thảy chúng sanh hay không?
Trong hết thảy chúng sanh,
kể cả quỷ thần, kể cả chư thiên, ở
chỗ không có ai, ở chỗ không trông thấy, vẫn có
quỷ thần. Nho gia nói “thận
độc” (慎獨, cẩn
thận khi chỉ ở một ḿnh). Dẫu chẳng có ai
thấy, quư vị vẫn rất cẩn thận, vẫn rất
giữ quy củ, chẳng dám buông lung, chẳng dám tùy tiện.
Không phải là chẳng có ai thấy, ta có thể tùy tiện
đôi chút, lơi lỏng đôi chút, chẳng
thể được! Người thời cổ tu hành cẩn
thận như vậy. Quư vị thấy trong Đệ Tử
Quy, cương mục quan trọng nhất chính là “nhập tắc hiếu, xuất
tắc đễ, cẩn nhi tín” (ở trong nhà bèn hiếu thảo, ra ngoài bèn đối xử
ḥa thuận, nhường nhịn, cẩn thận, giữ
chữ tín),
quư vị thấy Cẩn được xếp
sau Hiếu và Đễ, xếp vào địa vị thứ
ba. Quư vị nói [Cẩn]
có quan trọng hay không? Làm người, suốt đời
phải cẩn thận. Cẩn thận là chú tâm, nghiêm túc,
chẳng dám buông lung, chẳng dám tùy tiện, chẳng dám qua
quít. Chẳng cần biết kẻ khác
trông thấy hay không, dẫu không thấy,
vẫn luôn chú
tâm, cẩn thận, nghiêm túc tṛn trách nhiệm!
Đức hạnh, học vấn, và đạo nghiệp
đều do cơ sở này mà thành tựu.
V́ thế, trong hiện thời,
bất luận đạo tràng lớn hay nhỏ, bất luận
số người nhiều hay ít, đạo tràng nhỏ nhất,
đức Phật nói là từ bốn người trở
lên. Chẳng có đến bốn người, ba người
cũng là một Chúng. Người Hoa cứ ba người
bèn kêu là Chúng. V́ thế, cách viết của chữ Chúng (眾) chính là ba
người (do ba chữ Nhân (人) ghép lại).
Mỗi ngày cùng nhau sống, cùng nhau học tập, nghiên cứu,
thảo luận, quyết định chẳng thể tránh
khỏi! Giảng kinh, thuyết giáo, ba người có thể
thay phiên nhau. Nếu ba người, một người là
thầy, hai người kia là học
tṛ. Thầy dạy mỗi ngày, tṛ phải giảng lại.
Tṛ phải nêu ra báo cáo tâm đắc trong học
tập, người bạn học kia nghe, thầy cũng
nghe, sống cùng với nhau. Nói theo phía chính ḿnh, sẽ là
như Luận Ngữ đă nói: “Học
nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ” (Học
rồi thường xuyên tập luyện, cũng chẳng
vui sao). Pháp hỷ sung măn! Đối với đại chúng
cùng nhau học tập, sẽ là “hữu
bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc
hồ” (có bạn từ phương xa đến,
cũng chẳng vui sao). Bất luận đạo tràng ấy
sống ba người hay năm người, cho đến
hai mươi người, đều là từ các
nơi đến, chúng ta tụ hội cùng một chỗ, chí
đồng đạo hợp, lẽ nào chẳng vui sướng?
Trong đạo tràng này có “chức viên” (職員, những
người có chức trách), có “nghĩa
công” (義工, những
người làm thiện nguyện, làm công quả), có đại
chúng thông thường, tụ hội ở nơi đây,
cùng học tập chung với nhau, cũng chẳng vui
sướng ư? V́ sao lại xung đột? [Nguyên nhân là
do] chẳng diễn nói các pháp không chống
trái! Chuyện này giống như khi tôi xuất gia vào năm
thứ hai hay năm thứ ba, tức là khi đă xuất
gia được hai ba năm chi đó. Có một năm,
vào dịp Tết Âm Lịch, tôi đến Cao Hùng tham học,
trụ tại chùa Hưng Long ở Tả Doanh. Đấy
là đạo tràng của tỳ-kheo ni, do pháp sư Thiên Ất
trụ tŕ. Chúng tôi cũng coi như là sư huynh,
sư đệ, ni sư tiếp đăi tôi. Tôi ở
đó ba ngày, giảng cho họ ba hôm. Mỗi ngày giảng
hai giờ, giảng cho họ ba ngày. Ni sư
hỏi tôi một câu, bà nói ḿnh đối xử với
người khác rất nồng hậu, chăm sóc rất
chu đáo. Dường như bà ta có năm đạo tràng,
cũng là Nam Bắc bôn ba! Năm đạo tràng cũng rất
vất vả! Bà ta hỏi tôi: “V́ sao tôi đối xử với
kẻ khác tốt đẹp như thế, mà chẳng giữ
được họ? Người ta ở đó hai, ba tháng
bèn muốn bỏ đi. V́ sao chẳng giữ được
họ? V́ sao vào thời cổ, đại chúng trụ trong
đạo tràng, sư phụ xua đuổi vẫn không
đi?” [Bà ta] hỏi tôi đấy là do nguyên nhân nào? Khi ấy,
tôi thưa với bà: “Người ta đến nơi này là
muốn đến cầu đạo. Đạo tràng thời
cổ thật sự có đạo, có học; do vậy, rất lôi
cuốn kẻ khác. Nói theo kiểu hiện thời, thỏa
măn nhu cầu học hỏi của họ, thỏa măn cuộc
sống tinh thần của họ, lẽ nào
họ có thể dễ dăi ĺa khỏi? Lăo ḥa
thượng dùng đủ mọi thủ đoạn bức
bách họ, họ vẫn chẳng rời ĺa!”
Chúng ta đă đọc thấy
điều này trong Thiền Lâm Bảo Huấn. Lăo ḥa
thượng đối với người ấy mặt
mũi chầm vầm, chẳng khách sáo tí nào, đuổi thẳng
cánh, [người ấy kiên quyết] không đi! Chỉ là
đi ra ngoài chùa, khi thầy lên lớp giảng kinh, người
ấy ở ngoài cửa nghe, do chẳng thể bước
vào giảng đường bèn ở ngoài cửa. Tan học,
bèn trốn tránh. Lăo ḥa thượng biết người ấy
thật sự dụng công, thật sự tu tập. Có một
hôm, lăo ḥa thượng bắt gặp, đang lúc rửa
chân, rửa chân vừa xong, tạt luôn chậu nước
rửa chân lên thân người ấy. Người ấy vẫn
chẳng tức giận, vẫn chẳng chịu bỏ
đi. Vài hôm sau, lăo ḥa thượng truyền pháp, nhường
lại địa vị, truyền pháp cho ai? T́m người
ấy đến, truyền cho người ấy! Đại
chúng mới vỡ lẽ: Lăo ḥa thượng hoàn toàn khảo
thí người ấy, xem người ấy có phải thật
sự là có đức hạnh, thật
sự có thể nhẫn nhục, thật sự đạt
đến “vô quai tránh” hay
không? Người ấy là pháp khí, chẳng
phải là kẻ b́nh phàm. Kẻ b́nh phàm mới nói mấy
câu, [đă tự nhủ] “sớm chuồn
mất mới là thượng sách!” [Chuyện
này] được chép trong Thiền Lâm Bảo Huấn. Nói
cách khác, nếu thầy coi trọng quư vị, sẽ giữ
bản mặt khó ưa đối với quư vị! V́ sao? Rèn
luyện, thành tựu quư vị. Nếu chẳng mong thành tựu
quư vị, thấy quư vị chẳng có thành tựu, cứ
cùng tu với đại chúng là được rồi, lăo
ḥa thượng sẽ đối xử với quư vị rất
khách sáo!
Thuở trước, chúng tôi
cầu học với thầy Lư ở
Đài Trung, thầy đối xử với đồng
học giống như vậy. [Học tṛ nào] được
thầy thật sự nh́n trúng, sẽ có đánh, có chửi,
mặt mũi quạu quọ! Nếu thầy nhận thấy
đứa học tṛ nào trong tương lai chẳng thể
thành tựu, sẽ đối xử với nó rất khách
sáo. Khi ấy, tôi mới học, tiếp xúc Phật pháp rất
nông cạn, chẳng hiểu chuyện này! Thầy dạy
tôi, giải thích: “Kẻ chịu tiếp nhận, có
đánh, chửi cũng không đi, người ấy trong
tương lai sẽ thành tựu, phải nên thành
tựu người ấy! Kẻ nào mới
nói
mấy câu, mặt đă đỏ
phừng phừng, chẳng
thể tiếp nhận. Chớ nên nói nữa,
hăy khách sáo. V́ sao? Chớ nên kết oán cừu với kẻ
đó!” Tôi nghe xong, hoảng nhiên đại ngộ, mới
hiểu rơ! Đối đăi mỗi người thật sự
có chừng mực, có thể thành tựu th́ thành tựu
người ấy. Đối với kẻ chẳng thể
thành tựu, bèn khách sáo, quyết chớ nên kết oán cừu!
Tụ lại vui vẻ th́ chia tay cũng
vui vẻ,
chớ nên làm mất ḷng người ta! Trong khóa học, thầy
có thái độ đối với học sinh như vậy
đều nhằm dạy bảo chúng ta!
Chúng tôi rời khỏi thầy,
dấn ḿnh vào xă hội, lại c̣n theo đuổi công việc
giảng kinh, dạy học, lại chẳng có đạo
tràng cố định, có tánh chất lưu động rất
lớn, tiếp xúc rất nhiều người, đối
với sự giáo dục ấy, rất có thọ dụng!
Tôi giữ vững một nguyên tắc: “Đối
với bất cứ ai, cũng đều khách sáo, khiêm
hư, nhẫn nại, nhường nhịn, quyết định
chẳng kết oán với kẻ khác”. Dẫu
bị khuất nhục, nhất định phải biết
nhẫn nại, phải hiểu nhân quả ba đời. Tôi
đối xử tốt đẹp với họ, họ
c̣n oan uổng tôi, vẫn muốn hủy báng tôi, thậm chí
c̣n nghĩ ra những phương cách hăm hại tôi. Tôi biết
đó là do trong đời quá khứ, nhất định là
tôi xử tệ với người ấy.
Đời này gặp gỡ, phải bị trả
đũa! Phải nên tiếp nhận sự báo thù ấy,
chớ nên oán hận, mà hăy giải quyết, kết thúc món
nợ ấy! Đời sau gặp gỡ, sẽ là bạn
tốt, chẳng có xích mích! Nếu chẳng chịu nổi
ủy khuất, quư vị vẫn có tâm oán hận, c̣n có tâm
báo thù, sẽ bị phiền phức to lớn. Đời
sau ta sẽ báo thù kẻ đó, khi ta mạnh hơn kẻ
đó, sẽ khinh dễ, lấn áp kẻ đó. Khi kẻ
đó mạnh hơn ta, nhất định sẽ coi rẻ,
lấn áp ta. Đời đời kiếp kiếp, oan oan tương
báo, chẳng hết, chẳng xong! Hễ báo đền, tuyệt
đối chẳng phải là vừa khít, mà nhất định
sẽ lố hơn một tí. Mỗi đời một lố
hơn, đến cuối cùng, sẽ hết sức thê thảm!
Chớ nên không biết điều này!
V́ thế, người thật
sự hiểu lư, dẫu bị ủy khuất, dẫu bị
tổn hại to tát cỡ nào, vẫn chẳng có tâm sân khuể.
Trong kinh Phật, khi Thích Ca Mâu Ni Phật c̣n làm Bồ Tát, trước
khi Ngài thành Phật, đă tu Nhẫn Nhục Ba La Mật.
Thuở ấy, Ngài có hiệu là Nhẫn Nhục tiên nhân.
Đó là Bồ Tát, [có hiệu]
là Nhẫn Nhục tiên nhân. Quư vị thấy Ngài gặp phải
vua Ca Lợi, đúng là vô duyên vô cớ, vua Ca Lợi nổi
giận giết Ngài. Lại c̣n chẳng cho Ngài chết tử
tế, mà lăng tŕ xử tử, tức là dùng dao nhỏ xẻo
thịt trên thân, xẻo từng miếng một,
xẻo cho đến chết! Nhẫn Nhục tiên nhân đúng
là bị oan uổng, bị tổn thương to lớn
dường ấy, [nhưng Ngài] chẳng oán hận, chẳng
báo thù, lại c̣n phát nguyện: “Trong
tương lai, khi ta thành Phật, sẽ độ
ngươi đầu tiên!” Ngài bị vua Ca Lợi cắt
xẻo thân thể, do Nhẫn Nhục Ba La Mật viên măn,
cho nên chẳng hận nhà vua, lại c̣n cảm kích, nói: “Chẳng
phải là Nhẫn Nhục Ba La Mật của ta đă thật sự đạt đến
rốt ráo ư?” Nếu gặp phải hoàn cảnh
ấy mà c̣n có một niệm oán hận, [tức là] Nhẫn
Nhục Ba La Mật vẫn chưa đến nơi đến
chốn, vẫn c̣n phải tu. Ngài coi vua Ca Lợi như một
vị thầy đến khảo thí, đến khảo hạch
Ngài, Ngài vượt được thử thách ấy, Lục
Ba La Mật đều cùng viên măn một lượt!
Nhẫn Nhục tiên nhân là tiền
thân của Thích Ca Mâu Ni Phật. Hậu thân của vua Ca Lợi
là tôn giả Kiều Trần Như. Bồ Tát nói được,
làm được, Ngài thành Phật, người thứ nhất
đắc độ chính là Kiều Trần Như. Ngài ở
Lộc Dă Uyển v́ năm người ấy thuyết
pháp. Tăng đoàn vừa mới thành lập, một
người hướng dẫn năm người. Một
thầy năm tṛ, v́ họ giảng kinh, thuyết pháp. Kiều
Trần Như khai ngộ đầu tiên, chứng quả A
La Hán. Đó là nêu gương cho cơi đời, làm khuôn mẫu
cho chúng ta. Chúng ta học Phật, chẳng thể không học
chỗ này! Hứng chịu tí tẹo ủy khuất, trong
tâm khó chịu, đấy là phàm phu, chẳng có tí ti công phu nào!
Công phu là dần dần nâng cao, đặc biệt rèn
luyện trong hoàn cảnh nhân sự, rèn đến mức giống
như Nhẫn Nhục tiên nhân: Xác thực là quư vị chẳng
có tí tẹo lỗi lầm nào, người ta cứ từng
đao xẻo thịt quư vị cho đến chết. Quư vị
chẳng có tâm oán hận, chẳng có tâm báo thù, c̣n có thể
cảm ơn. Vậy là quư vị thành Phật
chẳng xa!
Quư vị nghe điều này,
chắc là cảm thấy thành Phật khó quá, rất chẳng
dễ dàng! Đúng vậy, thoạt nh́n, phàm phu [sẽ cảm
thấy] thật khó, chẳng dễ dàng, v́ nguyên nhân nào? Chấp
trước kiên cố; chẳng thể buông xuống vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước được.
V́ sao Nhẫn Nhục tiên nhân có thể làm tự tại
dường ấy? Vô ngă! Kinh Kim Cang nói “vô ngă tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng,
vô thọ giả tướng”. Cũng có nghĩa là quư vị
tổn thương vị ấy, vị ấy đă buông
xuống thân thể, thân thể này chẳng phải là ta!
Thân thể giống như một bộ quần áo, quần áo hư hoại chẳng sao cả! Lại
thay một bộ khác! Nếu quư vị muốn đoạt lấy thân thể này bèn cho quư vị,
[giống
như cởi bỏ quần áo cũ], lập tức thay
đổi một bộ [mới]. Hễ thay đổi, nhất
định là sẽ thù thắng hơn [thân thể] này. V́
sao? Công đức, trí huệ từng giai
đoạn
đều cao hơn. Do đó, càng thay đổi, càng tốt
đẹp hơn. Bỏ thân La Hán, được thân Bồ
Tát; bỏ thân Bồ Tát, được thân Phật. Càng
thay đổi, càng thù thắng hơn!
Bất luận là đạo
tràng lớn hay nhỏ, số người nhiều hay ít, chẳng
thể không giảng kinh, thuyết pháp. Giảng kinh, thuyết
pháp là lên lớp. Tự, viện, am, đường là trường
học. Lẽ đâu trường học chẳng dạy
học? V́ thế, tôi nói với pháp sư Thiên Ất:
“Năm đạo tràng của bà thiếu dạy học. Ở
đây, quư vị chẳng giảng kinh, chẳng thuyết pháp, mà cũng chẳng nghiêm túc
tu hành. Tu hành cho tới thời đại hiện tại,
xét theo h́nh thức chỉ có hai loại: Một là Niệm
Phật Đường, hai là Thiền Đường. Tuy
ở đây quư vị có Thiền
Đường, có cái tiếng, nhưng chẳng có ai tọa
Thiền, cho nên bà chẳng giữ
được người ta! Để thật sự giữ
được người, phải lên lớp!” Ai sẽ
lên lớp? Nhất định phải là do chính quư vị cầm
đầu. Chính ḿnh tu dưỡng kinh giáo chẳng đủ,
quư vị có thể mời thầy! Quư vị là hiệu
trưởng, hiệu trưởng th́ không nhất định
phải đích thân đứng lớp,
mà mời mọc giáo viên. Đạo tràng này cần ǵ? Ta học
pháp môn nào? Ta cần kinh luận nào? Mời người
đến giảng, mời người đến dạy,
người ta sẽ chẳng bỏ đi! Đạo
lư ở ngay chỗ này!
V́ lẽ này, cớ sao đạo
tràng phải là chí đồng đạo hợp? Đức
Phật mở ra tám vạn bốn ngàn pháp môn, căn tánh của
mỗi người không giống nhau, chí thú không giống
nhau, tŕnh độ không giống nhau. Do vậy, nhất
định là phải khế cơ, đương nhiên là khế
lư, tức là thích hợp với tŕnh độ và sự hứng
thú, yêu thích của mấy người bọn ta; đấy
là “chí đồng đạo hợp”.
Sự h́nh thành của đoàn thể ấy chẳng
đơn giản. Nói xa xôi, sẽ là do đă gieo nhân trong
đời quá khứ. Nếu trong đời quá khứ chẳng
có nhân, đời này dẫu gặp gỡ, cũng chẳng
hợp nhau! Trong đời quá khứ đă gieo nhân, đời
này do có duyên, mới có thể tụ hội cùng một chỗ,
chung sức học tập, lấy đâu ra chuyện ngẫu
nhiên? Nhưng duyên có dài lâu hay tạm bợ khác nhau! Có
trường hợp duyên phận chỉ có vài ngày, đều
là duyên phận. Giống như chúng ta
ra ngoài
du hành, ở trong khách sạn. Nhân viên phục vụ trong
khách sạn gặp chúng ta cũng rất hợp duyên, rất
khách sáo. Chúng ta đón nhận sự tiếp đăi của
họ. Ở hai ba hôm bèn ra đi, [tức là] trong đời
quá khứ, cái duyên ấy là hai, ba ngày. Có đồng tham lăo
hữu trụ một chỗ suốt ba năm, năm
năm, tức là họ có duyên ba năm, năm năm. Trụ
mười năm, hai mươi năm là do họ có duyên mười
năm, hai mươi năm. Chẳng có duyên, sẽ không thể
được! Nếu quư vị hiểu duyên phận thuộc
về nhân quả, [sẽ biết] nhân quả thông khắp
ba đời, quư vị sẽ chẳng chấp trước.
Khi duyên tụ bèn hoan hỷ, khi duyên tán cũng chẳng khổ
năo tí nào! V́ sao? Chuyện b́nh thường.
Nhưng đạo tràng,
đặc biệt là đạo tràng trong hiện tại,
đều chẳng phải là ở lại
lâu dài, mà
đều là ngắn ngủi, tạm bợ. Như chúng tôi
giảng kinh Hoa Nghiêm chẳng giống cách giảng của tổ
sư đại đức, nguyên nhân ở chỗ nào? Mỗi
buổi giảng đều có đồng học mới
đến nghe lần đầu. Mỗi ngày đều có
[những người như vậy], thính chúng có tánh chất
lưu động quá lớn. Từ các nơi đến,
có rất nhiều người đến Hương Cảng
để nghe kinh, nghe pháp, ở lại một tuần. Giấy
thông hành Hương Cảng có kỳ hạn tối đa là hai tuần, họ phải rời khỏi.
V́ thế, chúng tôi chẳng ngại lặp đi lặp lại,
chẳng ngại nói cặn kẽ, hy vọng quư vị
đến nghe một lần, sẽ được thọ
dụng một lần, đến nghe vài ngày cũng liên tục
được như vậy. Đấy là v́ nhu cầu của
đại chúng trong hoàn cảnh hiện thực. Nếu
chẳng giảng theo kiểu ấy, sẽ có lỗi
đối với đại chúng. Họ từ những
nơi rất xa trong ngoài nước đến đây tham
học, nếu chúng ta chẳng nói lời thật với họ,
không báo cáo những thứ thật sự để họ
dùng làm tham khảo, lẽ nào quư vị chẳng có lỗi với
người ta? Do vậy, cách giáo học hoàn toàn chẳng giống
như cách dạy dành cho những học sinh cố
định.
Nếu chúng ta có một đạo
tràng nhỏ, hai mươi người cùng nhau cộng tu,
hy vọng suốt đời đều ở chung với
nhau, giống như Đông Lâm Liên Xă tại Lư Sơn của
Viễn Công thuở trước. Hễ gia nhập liên xă,
trong tương lai, sẽ văng sanh tại đó, sẽ hoàn
toàn khác hẳn! Nhất định là hằng ngày kinh luận
sẽ [giúp cho chúng ta] nâng cao cảnh giới
của chính ḿnh, hằng ngày giúp hóa giải phiền năo tập
khí nơi bản thân. Nay chúng ta hiểu, thuở ấy Viễn
Công bẩm thừa một bộ kinh Vô Lượng Thọ,
đúng là “thâm nhập một
môn, huân tu lâu dài”. V́ thế, người đông ngần ấy,
ai nấy đều thành tựu! Chúng ta hiểu rơ về mặt
lư luận, dẫu là xét theo cách chứng minh của khoa học,
cũng có thể khẳng định sự thành tựu của
họ!
Rốt cuộc có thế giới
Cực Lạc hay không? Tổ sư đă chứng minh tốt
nhất cho chúng ta biết! Người văng sanh trong liên xă chẳng
đồng thời, có người trước
kẻ sau,
như nhóm ông Lưu Di Dân văng sanh sớm. Lúc Viễn Công
đại sư văng sanh, họ đều theo A Di Đà Phật
cùng đến nghênh tiếp. Những người tới
đón ấy c̣n nói giỡn với Viễn Công: “Viễn công! Thầy độ
chúng con, chúng con đến trước, thầy đến
sau”. Chuyện này được ghi chép. Trong một
đời, Viễn công đă từng ba lượt thấy
thế giới Cực Lạc. “Ba
lượt” chính là ba lần trong khi Chỉ Tĩnh vào
lúc niệm Phật, Ngài đă trông
thấy ba lượt, chẳng hề kể với ai! Cuối
cùng, khi văng sanh, đấy là lần thứ tư. Sau khi trông
thấy lần thứ tư, Tổ mới bảo mọi
người: “Thế giới Cực
Lạc hiện tiền, đức Phật đến tiếp
dẫn ta. Những người trong liên xă đă văng sanh
trước ta, ta đều trông thấy, họ theo Phật cùng
đến, nay ta phải đi rồi”. Lúc ấy, Tổ
mới nói trong quá khứ đă từng ba lượt
thấy cảnh giới ấy. Các đồng tu đang hiện
diện bèn hỏi: “Thầy thấy t́nh h́nh trong thế giới
Cực Lạc như thế nào?” Lăo nhân gia nói: “Hoàn toàn tương ứng với
những ǵ kinh đă dạy, cảnh giới ấy là thật”.
Nếu chẳng tương ứng với những điều
kinh đă dạy, sẽ chẳng phải là thật! V́ thế,
sự tu tŕ của Huệ Viễn đại sư và thành
tựu của các vị trong liên xă chính là chứng minh có lợi
nhất cho sự tu học Tịnh Tông. Đấy chính là
Tác Chứng Chuyển trong “tam
chuyển pháp luân”[1]
như nhà Phật đă nói! Đă là như vậy mà chúng ta
chẳng tin tưởng, sẽ chẳng có cách nào cả! Vẫn phải tiếp tục luân hồi,
tùy thuộc khi nào tín tâm của quư vị có thể sanh khởi
th́ [mới ḥng liễu thoát!].
Trong thế giới hiện
thời, tôi thường nhắc nhở và khuyến cáo
đồng học, hăy so sánh từng mười năm một!
Từ kinh nghiệm đích thân của chính ḿnh, tám
mươi năm! Mười năm đầu là mười
tuổi, mười năm thứ hai là hai mươi tuổi,
[rồi lần lượt là] ba mươi tuổi, bốn
mươi tuổi, cứ lấy mười năm làm một
giai đoạn để so sánh, quư vị sẽ thấy rất
rơ ràng. Thế giới mỗi năm loạn lạc
tệ hại hơn! Tôi nói “năm”
[ở đây] với ngụ ư mười năm. Mười
năm thứ hai chẳng bằng mười năm thứ
nhất. Mười năm thứ ba lại không bằng
mười năm thứ hai. Phát triển theo kiểu
đi xuống như thế, nhân loại
có thể sống b́nh an hết thế kỷ hai mươi
mốt hay không? Thế kỷ hai mươi mốt là đến
khi nào? Cho đến năm 2100! Nếu
quư vị hỏi tôi có ḷng tin [con người sẽ sống
sót] hay không? Tôi xin thưa là tôi chẳng có tín
tâm! Sợ là ngày tàn của thế giới như
phương Tây đă nói sẽ thật sự xuất hiện.
Tôi ở châu Âu, ở Mỹ,
đối với chuyện này từ mấy năm trước,
tôi đă bảo các bạn đồng học. “Tận thế” là do người
phương Tây khởi xướng. Tôi bảo họ: Chẳng
phải là địa cầu bị hủy diệt, cũng
chẳng phải là chiến tranh nguyên tử. Cách nh́n của
tôi là ǵ? Chính là do ḷng người trái nghịch, vứt bỏ luân lư, đạo đức,
nhân quả, tôn giáo, càng ngày càng xa! Ba, bốn chục năm
sau, trái nghịch một trăm tám mươi độ, xă
hội sẽ đúng như nhiều người đă nói:
“Sợ rằng loài người
ngay cả súc sanh vẫn chẳng bằng”. Ai nấy ngập
tràn oán hận, oán trời hờn người! Nghe mấy
câu chẳng quen tai, liền động dao, động súng!
Quư vị thấy trong xă hội hiện thời, con cái giết
cha mẹ, cha mẹ giết con cái, anh em tàn sát lẫn nhau,
trong trường th́ tṛ giết thầy, [những chuyện
như vậy] đă chẳng c̣n là những tin tức nóng hổi
nữa! Những trường hợp như vậy quá ư là nhiều!
Hiện thời, trong một tuần, có thể nghe thấy
[những chuyện như thế] vài lượt. Tôi bảo
họ, mười năm sau, mỗi tuần quư vị có thể
nghe thấy mười mấy, hai mươi lần. Hai
mươi năm sau, có thể là mỗi ngày sẽ nghe một,
hai trăm lần, thế giới này sẽ trở thành thế
giới như thế nào? Đó gọi là Tận Thế.
Muốn cứu văn, ắt phải
cậy vào tất cả hết thảy cư dân trên địa
cầu giác ngộ. Giác ngộ bằng cách nào? Nhất
định là phải khôi phục luân lư, đạo đức,
nhân quả, tôn giáo. Có thể khôi phục bốn loại
giáo dục ấy, sẽ có thể hóa giải tận thế,
sẽ có thể tồn tại lâu hơn. Hiện thời,
chúng ta phạm sai lầm là quá mức coi trọng khoa học,
vật chất, hoàn toàn chẳng có cuộc sống tinh thần,
con người và động vật chẳng khác ǵ nhau!
Nhưng động vật ăn no, sẽ chẳng xen vào
chuyện của người khác. Con người chẳng như vậy,
dẫu chính ḿnh đă ăn no đẫy, vẫn muốn tổn
hại kẻ khác! Kẻ ăn chẳng no càng chẳng cần
phải nói nữa, c̣n làm sao được nữa!
Vài ngày nữa, tôi sẽ sang Ấn
Nê (Indonesia) để tham dự
một hội nghị. Hội nghị ấy gồm có
đại biểu từ các tôn giáo thuộc mười sáu
quốc gia tại Á Châu, chủ đề thảo luận
là ḥa b́nh, làm thế nào để giúp đỡ thế giới
hóa giải xung đột, xúc tiến ḥa b́nh. Họ mời
tôi, tôi tuổi tác cao ngần ấy, đấy
là một chuyện lớn, tôi đến dự, sẽ nêu
ra những ǵ chính ḿnh đă thấy, đă nghĩ để
mọi người tham khảo. Từ nay về sau, tôi
không muốn tham gia những loại hội nghị như
vậy nữa! Năm nay, Trung Quốc c̣n muốn cử
hành một luận đàn Phật giáo thế giới, nghe
nói cũng mời mọc khá nhiều đại biểu các
quốc gia trên thế giới tham dự. Tôi chánh thức nhận
được thiếp mời; đây là lần đầu
tiên nước nhà tổ chức, đưa tôn giáo hướng
ra thế giới, tiếp cận đường lối của
thế giới, đấy là một chuyện tốt đẹp.
V́ thế, tôi nhận lời tham dự hội nghị lần
này, hy vọng lần hội nghị này chính là lần cuối
cùng tôi theo đuổi hoạt động quốc tế
trong đời này!
Từ nay về sau, nguyện
vọng của tôi là có duyên phận, sẽ ở trong pḥng
thâu h́nh tại Hương Cảng, thật thà giảng viên
măn kinh Hoa Nghiêm. Muôn duyên khác đều buông xuống! Ở
trong nước, thành lập những trung tâm văn hóa
cũng thế, mà các trường học trong tương
lai cũng thế, sẽ do những người trẻ tuổi
làm. Tôi chỉ đề xướng một phen, chẳng
quản những chuyện ấy! Tôi có thể dùng sức ảnh
hưởng của chính ḿnh để giúp đỡ họ,
hy vọng có thể thực hiện tốt đẹp những
chuyện ấy, tạo lợi ích cho chuyện hóa giải
xung đột, xúc tiến ḥa b́nh. Nhất định là phải
nâng cao giáo dục luân lư, giáo dục đạo đức, giáo
dục nhân quả, giáo dục tôn giáo, th́ mới có thể
thật sự thực hiện! Nếu không, ḥa b́nh là hô khẩu
hiệu, chắc chắn sẽ chẳng thể hóa giải
xung đột! Chúng ta phải hiểu rơ những sự lư
này! A! Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng tôi nói tới
chỗ này!
Tập
1508
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống.
Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười một, xem
bắt đầu từ bài kệ thứ ba trong phần Xuất
Gia Thọ Giới.
(Kinh) Nghệ đại tiểu
sư, đương nguyện chúng sanh, xảo sự
sư trưởng, tập hành thiện pháp.
(經)詣大小師。當願眾生。巧事師長。習行善法。
(Kinh: Đến chỗ các vị
thầy lớn, nhỏ, nguyện cho chúng sanh, khéo phụng
sự sư trưởng, tu tập các thiện pháp).
Bài kệ này hết sức trọng
yếu. Câu đầu tiên trong Tịnh Nghiệp Tam Phước
dạy chúng ta “hiếu dưỡng
phụ mẫu”, kế đó, câu thứ hai là “phụng sự sư trưởng”.
Từ chỗ này, chư vị sẽ có thể thấy rất
rơ ràng, Phật pháp chính là hiếu đạo,
là sư đạo. Nhất định lấy hiếu
đạo làm cơ sở, kiến lập sư đạo
từ trên hiếu đạo. Nếu nói kẻ bất hiếu
với cha mẹ mà có thể tôn kính thầy, trong ấy sẽ
có vấn đề. V́ sao? Đối với người
đáng nên thân thiết mà kẻ ấy lơ là, bất hiếu
với cha mẹ mà có thể hiếu thuận với thầy,
nhất định là có mưu đồ. V́ đấy là một
hiện tượng khác thường! Ở nhà hiếu thảo
với cha mẹ, ở trường phụng sự thầy;
đấy là b́nh thường. Chúng ta phải hiểu đạo
lư này! Hiếu đạo và sư đạo là căn bản.
Không chỉ là cổ nhân hết sức coi trọng, người
thật sự có học thức trong thế gian hiện thời
cũng cảm thấy tầm quan trọng của việc
giáo dục trẻ thơ. Tôi đă nghe các học giả,
chuyên gia đàm luận, [họ nói] đức hạnh và
nhân cách của mỗi người được tạo lập
trước khi tṛn năm tuổi. Ai kiến lập cho kẻ
ấy? Mẹ kiến lập cho kẻ ấy. V́ thế, chức
trách của người mẹ hết sức vĩ đại.
Có người mẹ tốt lành th́ mới có con cái tốt
lành!
Trong những phần trước,
chúng tôi đă nói nhiều lần: Phật, Bồ Tát là do dạy
dỗ mà ra, bậc thánh hiền cũng là do dạy dỗ mà
ra. Người Hoa khéo dạy học nhất, cũng rất
giỏi dạy học, có kinh nghiệm dạy học hết
sức phong phú. Vào thời đại thượng cổ,
tổ tiên người Hoa đă hiểu rơ đạo
lư này! Lại c̣n nghiêm túc thực hiện. Đương
nhiên là chẳng thể thực hiện phổ biến, chúng
ta có thể lư giải chuyện này! Quốc gia này quá
đông dân, lănh thổ cư trú cũng hết sức rộng
lớn, vào thời cổ, giao thông chẳng thuận tiện.
Do vậy, giáo học phổ cập rất khó! Nhưng ảnh
hưởng của giáo dục rất lớn. Một thôn
trang, một tiểu trấn (hương trấn) có thể
có một hai nhà biết cách giáo dục, sẽ ảnh hưởng
cả một vùng. Toàn thể vùng ấy đều sẽ bắt
chước, sẽ đều học tập theo. Đấy
là chuyện tốt đẹp. Từ các sách cổ, chúng ta
thường thấy chuyện này. Cổ nhân thường nói:
Trong một trăm người, có một vị thiện
nhân, sức ảnh hưởng của vị thiện nhân ấy
sẽ có thể cảm hóa chín mươi chín người
kia. Mức độ cảm hóa khác nhau, v́ căn tánh của
mỗi người khác nhau, nghiệp chướng tập
khí khác nhau, lại c̣n do hoàn cảnh sống của mỗi
người cũng có sai biệt. Những điều ấy
đều ảnh hưởng đến nhân cách và đức
hạnh của mỗi người.
Giáo dục bắt đầu
từ khi nào, chúng ta phải biết điều này! Đối
với cổ nhân, người phụ trách công tác giáo dục
là người vợ, tức bà chủ gia đ́nh. Chức
trách của bà ta được đại chúng trong xă hội
khẳng định, là hiền mẫu. Chức trách của
bà ta là bồi dưỡng thế hệ kế tục. Đối
với thế hệ kế tục, trong gia đ́nh của
quư vị có nẩy sanh nhân tài hay không? Quốc gia và xă hội
có xuất hiện nhân tài hay không? Sứ mạng ấy luôn do
bà chủ gia đ́nh [đảm nhiệm]. Sự giáo dục
của người phụ nữ trong gia đ́nh là do ai dạy
cho bà ta? Do thế hệ trước dạy, đời
đời truyền cho nhau. Bà ta thông hiểu, biết sứ
mạng của chính ḿnh vĩ đại khôn sánh. V́ thế,
bà nuôi dạy thế hệ kế tiếp hết sức cẩn
thận. Trẻ thơ sanh ra ba bốn ngày đă có thể thấy, có thể nghe, tuy nó chẳng thể nói
năng, nhưng nhất cử nhất động của
người lớn nó thấy rơ ràng. Nói theo Phật pháp, sẽ
là “đều in vào trong A Lại
Da Thức”. V́ thế, kẻ làm cha mẹ, làm người
lớn, ở trước mặt trẻ thơ, nói
năng, cử chỉ, toàn là những điều chánh
đáng, quyết định chẳng có những điều
phản diện!
Tiêu chuẩn là ǵ? Nay mọi
người cùng nhau học tập Đệ Tử Quy,
đấy là tiêu chuẩn. Đệ Tử Quy chẳng phải
là sách giáo khoa để dạy trẻ nhỏ, chẳng phải
vậy, mà là kẻ làm cha mẹ, làm người lớn sẽ
giáo dục trẻ thơ bằng thân giáo, làm cho trẻ nhỏ
trông thấy, cho trẻ thơ nh́n thấy. Nó nh́n suốt ba
năm, đứa trẻ ba tuổi ấy hiểu chuyện.
Nó biết hành vi nào là đúng, hành vi nào là sai lầm,
nó hiểu biết, có năng lực phân biệt đúng, sai,
thiện, ác, có năng lực ấy.
Đó gọi là “gia giáo”, gia
giáo là giáo dục căn cơ.
Đối với sự
hưng khởi của nền giáo dục Trung Hoa, cũng
chính là “khởi nguồn của sự giáo dục” như
chúng ta nói trong hiện thời, v́ sao có sự giáo dục
trong gia đ́nh? Đấy cũng là do quan niệm luân lư
đă được tổ tiên lưu truyền, “phụ tử hữu thân” (父子有親, cha con
có t́nh thân). Chuyện này chẳng phải do con người
sáng chế, mà là tự nhiên, thiên nhiên. Quư vị thấy cha
mẹ đối với con thơ thân ái dường ấy,
hoàn toàn dốc trọn tấm ḷng chăm sóc trẻ
thơ. Suốt ba năm, thời thời khắc khắc
luôn bận tâm, chỉ sợ chăm sóc chẳng chu toàn! Kẻ
làm con mà chẳng biết ân đức của cha mẹ,
đến khi chính kẻ ấy dưỡng dục con cái,
mới biết tấm ḷng yêu thương, nỗi nhọc
nhằn của người làm cha mẹ. Giáo dục
được hưng khởi từ chỗ này! Mục
đích của giáo dục là hy vọng t́nh thân ái “phụ tử hữu thân”
được ǵn giữ vĩnh viễn, suốt đời
chẳng bị biến chất. Đấy là mục tiêu thứ
nhất trong nền giáo dục của Trung Hoa từ xưa
tới nay. “Cha từ, con hiếu”,
suốt đời chẳng biến đổi!
Mục tiêu thứ hai là phát
huy rộng răi t́nh yêu thương ấy, tức là do t́nh
thân ái giữa cha và con, kẻ ấy sẽ biết yêu
thương anh em, yêu thương gia tộc, yêu
thương làng xóm láng giềng, yêu xă hội, yêu quốc
gia, yêu thương hết thảy chúng sanh, mở rộng!
Chư vị phải hiểu: Nền giáo dục truyền
thống năm ngàn năm của Trung Hoa nói theo kiểu hiện
thời chính là “giáo dục yêu thương, giáo
dục thân ái”. V́ thế, tuy dân tộc này
rất đông đúc, do được
giáo dục từ nhỏ như vậy, đă dưỡng
thành ḥa b́nh, lễ nghĩa, nhân nhượng, chẳng có cạnh
tranh. Đấy cũng là chứng tỏ cho người hiện
thời thấy, chẳng cạnh tranh cũng có thể sống
rất tốt đẹp, đôi bên tôn trọng lẫn
nhau, kính yêu lẫn nhau, hỗ trợ hợp tác, quư vị nói
thế giới này, xă hội này tốt đẹp dường
ấy. Hiện thời, Trung Hoa đề xướng “xă hội hài ḥa, thế giới hài
ḥa”; nền giáo học truyền thống năm ngàn
năm của Trung Hoa chính là để thực hiện chuyện
này.
Xă hội hài ḥa, thế giới
hài ḥa được thực hiện bằng cách nào? Nhất
định là phải dựa vào quan niệm giáo học th́ mới
có thể thật sự thực hiện. Trong phần trước,
chúng ta đă học “hiếu
dưỡng phụ mẫu”; chỗ này dạy chúng ta
khéo phụng sự sư trưởng. Câu đầu tiên là
“nghệ đại tiểu
sư”, “nghệ” (詣) hàm nghĩa “thân cận”. Nói theo Phật
môn, Phật là đại sư, “chúng
sở tông cố” (眾所宗故, do
được mọi người tôn sùng).
Đệ tử Phật có Bồ Tát, có A La Hán, [những vị
ấy] được gọi là “tiểu
sư”. Nếu nói theo hàng Bồ Tát, Bồ Tát là đại
sư, A La Hán là tiểu sư. [Nếu
nói theo các vị A La Hán], A La Hán là đại
sư, ḥa thượng b́nh phàm gọi là tiểu sư.
Chúng ta phải hiểu rơ ràng mối quan hệ trong cách
xưng hô này. Phật, Bồ Tát, La Hán [gọi là “đại
sư”]; nói chung chẳng có vấn
đề, nhưng ḥa thượng [xưng là “đại
sư”] th́ có vấn đề. V́ sao? Người
hiện thời chẳng biết Ḥa Thượng là ǵ, cứ
tưởng hễ xuất gia th́ người ấy sẽ
làm Ḥa Thượng. Do đó, nẩy sanh
hiểu lầm.
Ḥa Thượng (Upādhyāya) là
tiếng Phạn, phiên âm từ tiếng Ấn, có nghĩa
là Thân Giáo Sư. Ngài Thanh
Lương chú giải cũng hay lắm, chú giải khéo lắm.
(Sớ) Thân sở giáo cố.
(疏)親所教故。
(Sớ: V́ được Ngài
đích thân dạy dỗ).
Chúng ta học Phật, tiếp
nhận sự dạy dỗ của thầy. Nói theo phía
chúng ta, vị thầy ấy được gọi là Ḥa
Thượng, tức là Thân Giáo Sư
(親教師). Ngài chẳng
trực tiếp dạy chúng ta, sẽ chẳng có cách
xưng hô ấy, v́ chẳng có mối quan hệ ấy. Giống
như hiện thời học hành trong nhà trường, ai dạy
quư vị? Quư vị nhất định phải hiểu: Chẳng
phải là giáo viên dạy quư vị, mà là hiệu trưởng
dạy quư vị. V́ sao? Chương tŕnh học do hiệu
trưởng ấn định, giáo viên do hiệu trưởng
mời, mời vị ấy đến thay cho hiệu
trưởng chấp hành nghĩa vụ giáo học. Hiệu
trưởng quy hoạch toàn thể việc giáo học. V́
thế, đối với giáo dục, ông ta làm chủ tể,
giữ vai tṛ chủ đạo, c̣n giáo viên là người
chấp hành. Quư vị nhất định phải hiểu điều
này.
Quư vị học thành tựu
trong nhà trường, phải cảm tạ hiệu trưởng;
đương nhiên cũng chẳng thể quên mất vị
thầy đă v́ chúng ta lên lớp. Vị
thầy đứng lớp không gọi là Ḥa Thượng,
mà gọi là A Xà Lê (阿闍梨, Ācārya).
A Xà Lê cũng là tiếng Phạn, có nghĩa là Quỹ Phạm
Sư (軌範師).
Quư vị thấy Ḥa Thượng được gọi là Thân
Giáo Sư. Quỹ Phạm Sư: Quỹ (軌) là quỹ đạo
(軌道, Orbit),
Phạm là mô phạm (模範, khuôn mẫu).
Đức hạnh và học vấn của vị thầy ấy
có thể làm khuôn phép, làm gương mẫu cho chúng ta, chẳng
gọi Ngài là Ḥa Thượng. V́ thế, một đạo
tràng chỉ có một vị Ḥa Thượng. Nói thông thường,
vị trụ tŕ đạo tràng được gọi là Ḥa
Thượng, những vị khác đều
gọi là Xà Lê. Theo thói quen trong hiện thời, những vị
khác đều được gọi là pháp sư, đúng lắm!
Gọi “pháp sư” là
đúng! Trong một ngôi chùa, có rất nhiều pháp sư, nhưng
Ḥa Thượng chỉ có một, chẳng phải ai nấy
đều là Ḥa Thượng. Trong hiện tại, giống
như trường đại học có vị giáo thọ
(教授, giáo
sư) chỉ đạo, vị giáo sư chỉ đạo
th́ có thể gọi là Ḥa Thượng. Quá nửa những vị thầy chỉ đạo
của các nghiên cứu sinh thuộc các lớp trong
chương tŕnh Thạc Sĩ hoặc Tiến Sĩ đều
có thể gọi là Ḥa Thượng.
Từ ư nghĩa của cách
xưng hô theo địa vị này, quư vị bèn hiểu Phật
pháp là giáo dục, chẳng phải là tôn giáo. Trong tôn giáo, chẳng
có kiểu xưng hô như Thân Giáo Sư, Quỹ Phạm Sư,
chẳng có những cách xưng hô ấy. Quư vị
thấy trong các tôn giáo b́nh phàm, sẽ gọi là Mục
Sư (牧師)[2],
hoặc Thần Phụ (神父, linh mục),
chẳng gọi là Thân Giáo Sư, Quỹ Phạm Sư. Chẳng
xưng hô kiểu ấy! Quan hệ của họ là tuân theo
Thần (Chúa) hoặc Thượng Đế, có mối quan
hệ ấy, trong Phật giáo chẳng có! Trong Phật giáo,
chúng ta học Phật sẽ nẩy sanh quan hệ với
Phật. Phật là ai vậy? Phật là đại sư, Thân
Giáo Sư. Đại sư, hoặc gọi là Đại
Đạo Sư, hoặc gọi là Đạo Sư (導師).
Đạo Sư, Đại Sư, Đại Đạo
Sư, đều là tôn xưng đức Phật, Bồ
Tát chẳng dùng cách xưng hô này. Chúng ta tôn xưng Bồ Tát
là Đại Sĩ, chữ Sĩ (士) trong Sĩ Nông Công Thương,
như Quán Âm đại sĩ, Văn Thù đại sĩ. Bồ
Tát c̣n gọi là Khai Sĩ (開士), chữ Khai trong khai ngộ, nhằm nêu rơ Ngài đă khai ngộ. Sĩ là
người đọc sách, là người có đạo
đức, có học vấn. Người có đạo
đức, có học vấn, lại khai ngộ, cho nên gọi
là Khai Sĩ.
Từ những cách xưng hô
này, quư vị liền liễu giải: Tự, viện, am,
đường là nơi chốn để dạy học.
Trong phần trước, có nói đến “Tăng-già-lam”, tiếng
Phạn gọi là Tăng-già-lam, nay chúng ta gọi là Đạo
Tràng, là cơ sở để dạy học. Quư vị thấy
trong bài kệ “nhập tăng-già-lam” ấy, những
câu kế tiếp là “diễn thuyết
chủng chủng, vô quai tránh pháp” chính là giáo học. Đạo
tràng nhà Phật là để dạy học. Thuở Thích Ca
Mâu Ni Phật tại thế, Ngài lên lớp mỗi ngày. Giảng
kinh, thuyết pháp chính là lên lớp. Hiện thời gọi
là “lên lớp”, thuở ấy, gọi là “giảng kinh, thuyết
pháp”. Chúng ta thân cận thầy là v́ muốn học tập
thầy, muốn học làm người tốt, trong kinh Phật
thường gọi [người tốt] là “thiện nhân”. Mở kinh
điển ra, chư vị luôn có thể trông thấy [từ
ngữ] “thiện nam tử, thiện
nữ nhân”. Mục tiêu đầu tiên, mục tiêu gần
nhất trong việc học Phật của chúng ta là mong làm
một thiện nhân. Tiêu chuẩn của thiện nhân là Thập
Thiện Nghiệp Đạo.
Do vậy, học Phật th́
học khởi đầu từ chỗ nào? Chúng ta chọn
Tịnh Nghiệp Tam Phước trong Quán Kinh làm nguyên tắc
chỉ đạo tu học cao nhất, tuân theo ba điều
dạy bảo ấy để nghiêm túc nỗ lực học
tập. Điều thứ nhất gồm bốn câu: “Hiếu dưỡng phụ mẫu,
phụng sự sư trưởng”, chúng ta thực hiện
hai câu này bằng Đệ Tử Quy. Thực hiện Đệ
Tử Quy một trăm phần trăm, hai câu ấy sẽ
được thực hiện. Hai câu kế tiếp là “từ tâm chẳng giết, tu Thập
Thiện Nghiệp”, hai câu này thực hiện bằng
kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo. Qua bốn câu kinh
ấy, đức Phật đă chỉ ra hai bộ kinh
điển, hai bộ kinh điển ấy đều là
giới luật căn bản. Thật sự làm được,
sẽ đạt được tiêu chuẩn “thiện nam tử, thiện nữ
nhân”. Hai thứ ấy chẳng làm được, sẽ
chẳng phải là “thiện
nam tử, thiện nữ nhân” như kinh đă nói. Đấy
chẳng phải là như kinh đă gọi; nói cách khác, kinh
này chẳng dành cho quư vị học tập, [nguyên do là v́]
quư vị chẳng đủ tŕnh độ! V́ thế, đối
với hết thảy các kinh điển Đại Tiểu
Thừa, quư vị đều phải đạt
được tiêu chuẩn này trước hết th́ mới
có thể nhập học.
Không chỉ là Đại Thừa,
Tiểu Thừa cũng nhập môn từ chỗ này. Có
cơ sở như vậy, quư vị mới có thể thọ
Tam Quy, Ngũ Giới. Tam Quy Ngũ Giới lấy “hiếu thân, tôn sư” (hiếu
thảo với cha mẹ, tôn kính thầy) và Thập Thiện
Nghiệp Đạo làm cơ sở. Chẳng có cơ sở
ấy, sẽ chẳng thể thọ Tam Quy Ngũ Giới.
V́ thế, trước khi thọ Tam Quy Ngũ Giới, phải
học [những điều cơ sở này]. Hiện thời,
chẳng chú trọng, người nào đến quy y
cũng chẳng cần ắt phải trọn đủ những
điều kiện ấy, cứ thọ quy y. Quy y kiểu
ấy, Phật môn gọi là Danh Tự Quy Y, hữu danh vô thực!
“Quy” (皈) là trở về, “y” (依) là nương cậy, trong phần
sau, chúng tôi sẽ nói đến. Tức là trong đoạn
này, [quy y] sẽ thuộc về ba nguyện thứ chín, thứ
mười, thứ mười một trong đoạn thứ
hai, tức phần Xuất Gia Thọ Giới: Quy y
Phật, quy y Pháp, quy Tăng. Quư vị mới hiểu quy y
Phật, Phật là giác chứ không mê. Nói cách khác, từ mê
hoặc mà quay lại, nương cậy Tự Tánh Giác;
đấy là “quy y Phật”.
Chúng ta thọ Tam Quy Y, có từ mê hoặc, điên đảo
quay lại hay không? Chẳng quay về, [tức là] quư vị
chẳng quy! Nếu quư vị chẳng nương tựa Tự
Tánh Giác, quư vị chẳng y! Quy và Y
đều chẳng có, chỉ là làm chuyện h́nh thức một
phen! H́nh thức ấy đức Phật chẳng thừa
nhận, thần hộ pháp cũng chẳng thừa nhận.
Thật sự quy y, thật
sự quy y Tam Bảo, trong giới kinh đă nói rất rơ
ràng, sẽ có ba mươi sáu vị thần hộ giới
che chở quư vị. Nghe nói chuyện tốt đẹp này,
[có đến] ba mươi sáu vị thần hộ giới
hộ tŕ ta, ta vội vă quy y. Nếu quư vị là [quy y] h́nh
thức, chẳng phải là thực chất, chẳng có thần
hộ pháp hộ tŕ quư vị đâu nhé! Quư vị phải
có [Tam Quy Y] thật sự! Thật sự có thực chất,
chẳng quy y theo h́nh thức, chẳng sao hết, người
thế gian không thừa nhận quư vị, Phật thừa
nhận quư vị, thần hộ pháp thừa nhận quư vị,
long thiên thiện thần thừa nhận quư vị! Do vậy,
quư vị biết điệp quy y không quan trọng, giới
điệp cũng chẳng quan trọng. “Phật pháp trọng thực chất, chẳng trọng
h́nh thức”, lúc chúng tôi mới học Phật, thầy
đă dạy tôi điều này, Chương Gia đại
sư dạy tôi. Ngài dạy tôi học Giới,
chẳng dạy tôi thọ giới! Đối với Giới,
quư vị học một điều, làm được một
điều, tức là thật sự đạt được
một điều, được gọi là “đắc giới”. Quư vị
làm được hai điều, sẽ đạt
được hai điều. Giới kinh nói cứ đắc
một giới điều, sẽ có năm vị thần hộ
giới bảo vệ quư vị; quư vị đắc hai giới
điều, sẽ có mười vị thần hộ giới
bảo vệ quư vị.
Các đồng học tại
gia thọ Ngũ Giới, Ngũ Giới đều đạt
được. Đạt được ǵ vậy? Làm
được; chẳng phải là làm được ngay một
lúc. Suốt một đời, bất luận trong hoàn cảnh
nào, cũng đều chẳng trái phạm, quư vị đă
thật sự đạt được. Thật sự
đạt được Ngũ Giới,
sẽ có hai mươi lăm vị thần hộ
giới ngày đêm gia hộ quư vị, chẳng ĺa khỏi
quư vị. Nhưng quư vị phải thật sự làm, thật
sự thực hiện được. Do vậy, đối
với ư nghĩa của giới luật, quư vị phải
thật sự hiểu, phải nghiêm túc học tập, chẳng
phải là thọ theo h́nh thức, [thọ theo h́nh thức]
sẽ chẳng có tác dụng! Nhưng thầy Lư vẫn cổ
vũ, khích lệ chúng ta thọ giới, bất luận là tại
gia hay xuất gia. Thầy Lư cổ vũ, khích lệ: Sau khi
quư vị đă thọ Tam Quy, thầy cổ vũ, khích lệ
quư vị thọ giới, nhưng trọn chẳng cưỡng
ép. V́ sao cổ vũ, khích lệ quư vị? Thầy chẳng
tùy tiện cổ vũ, khích lệ kẻ khác. Thầy xem
xét người ấy là hạng người như thế
nào, có những kẻ thầy về căn bản
sẽ hoàn toàn chẳng cổ
vũ, khích lệ. Thầy cổ vũ, khích lệ quư vị
sau khi đă thọ giới, hăy khéo học giới. Đấy
là đúng, tấm ḷng ấy rất từ bi, rất khó có.
Sau khi đă thọ giới, hăy nghiêm túc học giới.
Đặc biệt là đối với giới xuất
gia, đă thọ mà chẳng học, đeo cái tiếng xuất
gia, chẳng có thực chất, sai lầm mất rồi!
Chúng tôi cũng thường
xuyên nhắc đến, trong Phật
giáo Trung Hoa, đă có điển h́nh, gương mẫu rất
tốt đẹp: Ngẫu
Ích
đại sư. Sau khi Ngẫu
Ích
đại sư thọ tam đàn đại giới, Ngài
biết chẳng làm được giới tỳ-kheo, chẳng
thể mang danh xưng là tỳ-kheo. V́ thế, Ngài đối
trước Phật, Bồ Tát thoái giới. Thoái giới rất
dễ dàng, chỉ cần đối trước Phật,
Bồ Tát, thưa với Phật, Bồ Tát: “Con chẳng thể
tŕ giới này, con thoái giới, lui xuống”. Thọ giới,
tam sư thất chứng rất phiền phức; thoái giới
rất dễ dàng. V́ thế, Ngài thoái lui giới tỳ-kheo.
Giới Sa Di Ngài có thể làm được; do vậy, lăo
nhân gia suốt đời xưng là Sa Di, chẳng xưng là
tỳ-kheo, tức Bồ Tát Giới Sa Di, nêu gương rất
tốt cho người đời sau. Học tṛ của
Ngài, thế tục gọi là “đồ
đệ”, “đồ đệ”
(徒弟) trong
thời cổ là học sinh trong hiện thời. Hiện
thời gọi là học sinh, tức là pháp sư Thành Thời.
Ngẫu Ích Đại
Sư Toàn Tập do pháp sư Thành Thời biên tập, khắc
ván lưu thông. Thầy xưng là Sa Di, tṛ chẳng dám
xưng là Sa Di, Ngài xưng là Xuất Gia Ưu-bà-tắc. Tôi
hết sức tôn kính Ngài, Ngài đă nêu gương tốt
nhất cho chúng ta. Chẳng làm được giới Sa Di,
sẽ như thế nào? Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện
Ngài làm được, danh và thực tương xứng. V́
thế, gọi là Xuất Gia Ưu-bà-tắc. Ưu-bà-tắc
là cư sĩ tại gia, nhưng Ngài là người xuất
gia, có thể nói là bậc cư sĩ xuất gia!
Hiện thời, thân phận
của chúng ta là tại gia, nếu thật
sự nỗ lực đạt đến xuất gia
cư sĩ là đă khá rồi! Đối với bậc
cư sĩ xuất gia, nay chúng tôi nêu ra ba điều kiện:
Đệ Tử Quy, Thập Thiện Nghiệp Đạo,
Tam Quy Ngũ Giới thật sự có thể thực hiện,
như vậy th́ quư vị là “thiện
nam tử, thiện nữ nhân” danh phù hợp thực như
kinh điển Đại Tiểu Thừa đă nói. Quư vị
có thể đảm nhận [danh hiệu ấy] mà chẳng
hổ thẹn. Mở kinh điển ra, kinh do đức
Phật nói với chúng ta, chẳng phải là nói với ai
khác, ta là hàng đương cơ, sẽ khác hẳn!
Nay chúng ta thực hiện những
điều này. Đối với “đại sư”, chúng ta tu Tịnh Độ,
trong phần trước, tôi cũng đă giới thiệu
cùng chư vị, đại sư là A Di Đà Phật. V́
sao chẳng phải là Thích Ca Mâu Ni Phật? Thích Ca Mâu Ni Phật
dạy chúng ta quy y A Di Đà Phật[3],
chúng ta nghe lời, Thích Ca Mâu Ni Phật tuyệt đối chẳng
trách móc. Ngài dạy chúng ta quy y A Di Đà Phật, chúng ta bèn quy
y A Di Đà Phật, nhất định là Ngài sẽ hết
sức hoan hỷ. Nếu chúng ta không chịu quy y A Di Đà
Phật, chúng ta thích quy y Thích Ca Mâu Ni Phật, nhất định
là Thích Ca Mâu Ni Phật sẽ bảo: “Đứa học tṛ
này chẳng vâng lời”. Quư vị hăy ngẫm xem có đúng
hay không? Chẳng vâng lời! Dạy quư vị quy y A Di
Đà Phật là do ư nghĩa nào? Dạy quư vị thành Phật
ngay trong một đời! Nếu quư vị chẳng quy y A
Di Đà Phật, chẳng thể thành tựu ngay trong một
đời này, phải tiến dần dần. Chứng A La
Hán, chư vị phải hiểu: Sau khi đă chứng
đắc Sơ Quả, phải qua lại cơi trời và
nhân gian bảy lần rồi mới chứng quả A La
Hán. Thọ mạng trong nhân gian không dài, thọ mạng trên
cơi trời chẳng ngắn. Bảy lần qua lại, quư vị
phải biết là bao nhiêu năm!
Nhưng nếu quư vị quy y A Di Đà Phật, thành tựu
trong một đời, thành tựu quá thù thắng.
Thích Ca Mâu Ni Phật từ bi, Ngài chẳng có tri kiến môn
hộ, giới thiệu, đề cao A Di Đà Phật với
học tṛ của chính ḿnh. Kẻ nào tiếp nhận, kẻ
ấy sẽ thành tựu trong một đời, thù thắng
khôn sánh!
Do vậy, trong hiện thời,
đại sư của chúng ta là A Di Đà Phật, là kinh
Vô Lượng Thọ. Chúng ta nương theo kinh Vô Lượng
Thọ, nương theo kinh A Di Đà để tu hành. Đấy
chính là “thân cận đại
sư”. Kinh điển niệm một lượt chính
là thân cận đại sư, nghe giáo huấn của đại
sư, cung kính, đọc, tụng, thọ, tŕ, tiếp nhận
giáo huấn của đức Phật [một lượt].
Sau khi tiếp nhận, nhất định sẽ y giáo phụng
hành. “Tiểu sư” là vị
thầy nay ta đang thân cận. Thầy Lư giới thiệu
Ấn Quang đại sư cho tôi, Ấn Quang đại
sư ở nơi đâu? Ngài lưu lại Văn Sao, ta mỗi
ngày đọc và học Văn Sao, [đấy chính là] “thân cận tiểu sư”.
Đại sư và tiểu sư đều chẳng ở
trước mặt ta, nhưng đại sư lẫn tiểu
sư chưa hề rời khỏi ta, chẳng phải là ở
ngay nơi đây, mà cũng chẳng ĺa khỏi. Nếu quư
vị học như vậy, chắc chắn sẽ thành tựu
ngay trong một đời này!
Quy y và thọ giới theo h́nh
thức, tôi không phản đối, đáng nên tiếp nhận Tam Quy, tiếp nhận Ngũ
Giới. V́ sao? Sau khi đă tiếp nhận, quư vị hăy nghiêm
túc phụng hành; đấy chính là làm cho đại chúng
trong xă hội thấy được bộ mặt thật
của Phật giáo. Quư vị đang hoằng pháp lợi
sanh, tạo một h́nh tượng tốt đẹp cho Phật
giáo, công đức ấy chẳng thể nghĩ bàn! Nếu
chúng ta thọ Tam Quy, thọ Ngũ Giới, mà làm không
được, chúng ta đă phá hoại h́nh tượng.
Đại chúng trong xă hội nh́n vào người
đó, sẽ
thấy h́nh tượng của người học Phật
[tồi tệ như thế đó]. Do vậy,
họ
sẽ chẳng chửi quư vị, mà chửi toàn thể Phật
giáo! Tội nghiệp ấy rất nặng! Ai đă khiến
cho kẻ ấy tạo tội nghiệp? Do bản thân chúng
ta chẳng làm tốt, khiến cho họ gây tạo tội
nghiệp. Họ bị đọa lạc, chúng ta sẽ bị
liên lụy! V́ ta làm không được, họ mới hủy
báng, mới lăng nhục Tam Bảo, ta biến thành kẻ
đầu sỏ gây tội, chẳng trốn thoát trách nhiệm
được, [sẽ phải hứng chịu] khổ
báo trong tam đồ! Nhất định phải hiểu
điều này! Nhưng trước khi thọ Tam Quy Ngũ
Giới, tốt nhất là học Đệ Tử Quy
trước đă. Có cơ sở ấy, quư vị sẽ
có thể thọ tŕ Tam Quy, Ngũ Giới, sẽ chẳng
khó! Quư vị có thể làm được Thập Thiện
Nghiệp Đạo; đă hiểu rơ, thông hiểu, quư vị
sẽ nghiêm túc nỗ lực thực hiện. Đấy là
đặt vững căn cơ cho Phật pháp. Chẳng có
căn cơ ấy, niệm Phật vẫn chẳng thể
văng sanh! Chư vị nhất định phải biết
điều này.
Chúng ta c̣n biết có những
người về căn bản là chẳng quy y
Tam Bảo. Tôi nhớ trước kia đă có nhắc đến
vài lần. Thuở trước, tôi ở Mỹ, tại Hoa
Thịnh Đốn có một vị là Châu tiên sinh, tên là Châu
Quảng Đại, mở tiệm bánh ḿ tại đó. Suốt
đời ông ta chẳng tin tưởng tôn giáo,
nhưng là người tốt, chẳng có tín ngưỡng
tôn giáo! Khi lâm chung, ông ta bị bệnh ung thư, bác sĩ
đă ngừng trị liệu. Người trong nhà đúng
là “gặp chuyện mới ôm
chân Phật”, t́m đến đạo tràng Phật giáo,
xem có cách nào cứu được hay không? Ở Hoa Thịnh
Đốn, chúng tôi có một Tịnh Tông Học Hội ở
đó. Khi ấy, chẳng gọi là Tịnh Tông Học Hội,
mà gọi là Hội Phật Giáo Hoa Thịnh Đốn, tôi
c̣n mang danh là hội trưởng nơi đó. Các đồng
tu kể với tôi, họ (người nhà của ông Châu)
t́m đến đó.
Các đồng tu rất phát
tâm, đến thăm ông ta, thấy ông ta xác thực là không
xong rồi! Những vị đồng tu ấy
cũng rất khó có, cũng thường nghe kinh, hiểu
biết một ít đạo lư, bèn khuyên ông ta niệm Phật
cầu sanh Tịnh Độ: “Thế gian này quá khổ, chẳng
đáng để lưu luyến!”
Châu tiên sinh là người có thiện căn, nghe xong, cảm
thấy rất hữu lư, liền bảo vợ con: “Các
ngươi thảy đều niệm Phật giúp đỡ
ta văng sanh. Đừng mong ta lành bệnh, mà hăy giúp ta văng
sanh”. Cả nhà và một số đồng học thuộc
hội Phật giáo giúp ông ta trợ niệm. Trợ niệm
ba ngày, ông ra đi. Khi đi, thụy tướng hết sức
tốt lành, các đồng học bên kia gọi điện
thoại kể với tôi. Đó là ǵ? Ngay cả nghi thức
Tam Quy cũng đều chẳng có, ông ta thật sự văng
sanh. Chẳng có h́nh thức, ông ta có thực chất, thật
sự quay đầu, thật sự nương cậy A
Di Đà Phật! A Di Đà Phật là Tự
Tánh Phật. Câu Phật hiệu là Tự Tánh
Pháp. Nhiều bạn bè như vậy trợ niệm cho ông
ta; đấy là thanh tịnh Tăng, Tam
Bảo trọn đủ. Ông ta nương cậy vào
đó, ba ngày ba đêm niệm Phật không gián đoạn, văng
sanh!
Có rất nhiều người
hỏi: “V́ sao ông ta có thể
văng sanh?” Ông ta có thể văng sanh là do thiện
căn từ các đời trước. Khẳng định
là người này đă nhiều đời nhiều kiếp
tu Tịnh Độ, nhưng lâm chung luôn bị chướng
ngại, chẳng thể văng sanh! Đời này, trong khi lâm
chung, gặp pháp môn Tịnh Tông. Nghe xong bèn tin tưởng,
tiếp nhận, chẳng phải là do thiện căn sâu dầy
trong đời quá khứ, sẽ chẳng làm được!
V́ thế, chúng tôi giải thích với các đồng học:
Đó là do thiện căn trong nhiều đời nhiều
kiếp hiện hành khởi tác dụng lúc lâm chung. Đó chính
là nguyện thứ mười tám trong bốn mươi
tám nguyện của kinh Vô Lượng Thọ, khi lâm chung, một
niệm hay mười niệm đều có thể văng sanh.
Do vậy, những điều kinh dạy chẳng giả!
Cơ duyên như vậy rất
khó có, v́ sao? Ông ta ắt phải trọn đủ ba điều
kiện:
1) Điều kiện thứ
nhất, khi lâm chung đầu óc sáng suốt. Điều
kiện này hết sức khó được! Nếu đầu
óc chẳng tỉnh táo, quư vị nói với kẻ ấy, kẻ
ấy chẳng hiểu, chẳng có một
tí biện pháp nào cả! Đầu óc rất tỉnh
táo! Phàm là người lâm chung đầu óc sáng suốt, dẫu
chẳng học Phật, người ấy sẽ chẳng
đọa trong ác đạo. Chư vị nghĩ xem, có kẻ
nào đầu óc sáng suốt mà đi đầu thai trong súc sanh,
ngạ quỷ? Chẳng thể nào! V́ thế, hễ lâm
chung mà mê hoặc, sẽ phiền phức! Do mê hoặc,
điên đảo, mới vào trong ác đạo! Người
đầu óc tỉnh táo, sẽ không [đi vào đó]! Chúng
ta học Phật, hằng ngày dụng công, hằng ngày tu phước
để làm ǵ? Chính là v́ cầu khi lâm chung, tâm không điên
đảo, sáng suốt, tỉnh táo, đương nhiên là
quư vị có thể niệm Phật! Như vậy th́ lẽ
đâu chẳng văng sanh? Do đó, quư vị hăy ngẫm xem, ai
có thể nắm chắc khi lâm chung đầu óc sáng suốt?
Rất ư là khó, phải biết điều này. Có phước
báo, chẳng cần hưởng
trong hiện tại, hăy hưởng khi lâm chung. Lâm chung
đầu óc sáng suốt, đó là đại phước
báo, [tự ḿnh] quyết định đời sau của
quư vị, quan trọng hơn bất cứ điều nào
khác.
2) Điều kiện thứ
hai, gặp thiện hữu chân chánh khuyên quư vị niệm Phật
văng sanh; [đấy là] điều kiện thứ hai! Khi
lâm chung, có một người như thế đến khuyên
quư vị niệm Phật văng sanh. Chuyện này cũng chẳng
dễ dàng, gặp gỡ vừa khéo!
3) Điều kiện thứ
ba, quư vị nghe xong, lập tức tiếp nhận, chẳng
nghi hoặc mảy may.
Quư vị nghĩ xem, ba điều
kiện ấy khó khăn lắm! Ông Châu Quảng Đại
đă trọn đủ ba điều kiện ấy!
Từ Văng Sanh Truyện, chúng
ta thấy trong thời cổ, vào đời Đường,
Trương Thiện Ḥa giết trâu. Khi lâm chung, những kẻ
đầu trâu đến đ̣i mạng, ông ta kêu gào cứu
mạng. Vừa gào “cứu mạng”, khéo sao có một vị
xuất gia đi qua cửa, bước vào gặp ông ta, [hỏi han] chuyện ǵ thế? [Ông ta
thưa], “rất nhiều gă đầu trâu đ̣i mạng
con!” Vị xuất gia ấy thắp một nắm
hương đưa cho ông ta, [dạy] “hăy ngay lập tức
niệm A Di Đà Phật, cầu sanh Tịnh Độ”. Ông
ta niệm mấy chục câu A Di Đà Phật,
nói: “Kẻ đầu trâu chẳng c̣n nữa, A Di Đà Phật
đến rồi!” Ông ta văng sanh. Trường hợp này
chính là ba điều kiện trên đây đều
trọn đủ. V́ thế, chẳng thể cầu may! Nếu
chúng ta cầu may, mong mỏi làm chuyện xấu nhiều
hơn vẫn chẳng sao, khi lâm chung vẫn c̣n kịp! Chỉ
sợ lúc lâm chung, mê hoặc, điên đảo, hiện tại
nói là “chứng lăng trí tuổi già” (Alzheimer’s). Tuổi già bèn mê
hoặc, điên đảo [mà mong] lâm chung niệm Phật văng
sanh, chẳng thể trông cậy được đâu nhé!
V́ thế, [tích lũy] phước, đoạn ác tu thiện,
tích lũy công đức, hy vọng khi lâm chung, tâm chẳng
điên đảo, chánh niệm hiện tiền th́ mới
có thể văng sanh. A! Nay đă hết thời gian rồi.
Chúng ta nghỉ ngơi mấy phút!
***
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống.
Chúng ta xem tiếp hai câu sau trong bài kệ thứ ba.
(Kinh) Xảo sự sư trưởng,
tập hành thiện pháp.
(經)巧事師長。習行善法。
(Kinh: Khéo phụng sự sư
trưởng, tu tập thiện pháp).
Hai câu này đă được
biểu hiện viên măn trong đoạn cuối cùng của
kinh Hoa Nghiêm, tức phần năm mươi ba lần tham
học của Thiện Tài trong phẩm Nhập Pháp Giới.
Hết sức khó có, Thiện Tài là một người học
tập Đại Thừa, thầy dạy vỡ ḷng của
Ngài là Văn Thù Bồ Tát. Dưới ṭa của Văn Thù Bồ
Tát, Ngài đắc Căn Bản Trí, đă trọn đủ
điều kiện tham học. Chẳng đắc Căn
Bản Trí, sẽ chẳng có tư cách tham học. [Thiện
Tài đă] đắc Căn Bản Trí, Văn Thù Bồ Tát bảo
Ngài đi tham học, đồng thời khai thị cho Ngài.
Những lời khai thị tuy rất nhiều, cương
lănh là tám chữ này, đặc biệt dạy Thiện Tài
phải biết “xảo sự
sư trưởng” (khéo phụng sự sư trưởng).
“Xảo sự” (巧事) là ǵ? Tôn
sư trọng đạo! Chỉ thấy ưu điểm,
chẳng thấy khuyết điểm của thầy;
đó gọi là “xảo sự”.
Chư vị phải biết:
Khá nhiều kẻ cầu học cầu đạo trong thế
gian, gặp thiện tri thức thật sự, do không biết
“xảo sự”, cuối cùng
đều thất bại. V́ sao thất bại?
Không chịu học theo thầy! V́ thế, thuở Thích Ca
Mâu Ni Phật tại thế, đă biểu diễn chuyện
này hết sức cặn kẽ, Ngài làm cho chúng ta thấy! Quư
vị thấy có kẻ nào hủy báng Ngài hay không? Có chứ!
Bên ngoài hủy báng không tính, bên ngoài là lục sư ngoại
đạo, có ganh tỵ, chướng ngại, hủy báng Thích
Ca Mâu Ni Phật, quá nhiều! Những kẻ ấy vẫn
không kể tới, người ngoài mà! Bên trong th́
Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) là anh em họ của
Thích Ca Mâu Ni Phật, là người một nhà, lại xuất
gia theo Thích Ca Mâu Ni Phật học pháp. Quư vị thấy
đó, vừa là thân thích, vừa là đệ tử, có thể
nào chẳng tin tưởng [những lời lẽ của]
kẻ hủy báng ấy? Quư vị thấy chuyện này nghiêm
trọng lắm! Bởi lẽ, chắc chắn là có nhiều
người mong học theo Thích Ca Mâu Ni Phật, do nghe lời
lẽ của Đề Bà Đạt Đa, đều ngă
ḷng! Đấy là ǵ? Thiện căn, phước đức,
nhân duyên quá mỏng; chẳng phải là không có. Nếu không
có, họ sẽ chẳng thể dấy lên ư niệm ấy.
Hễ có ư niệm ấy, tức là có thiện căn,
phước đức, nhân duyên; nhưng do nghe người
ta thêu dệt, ly gián, tín tâm bị chôn vùi, chẳng
c̣n học tập nữa. Đấy chính là do thiện
căn, nhân duyên chẳng đủ sâu dầy! Quư vị thấy
kinh Di Đà dạy: “Bất khả
dĩ thiểu thiện căn, phước đức, nhân
duyên, đắc sanh bỉ quốc” (Chẳng
thể do ít thiện căn, phước đức, nhân
duyên mà được sanh về cơi ấy). Cùng một
đạo lư như nhau, chẳng thể do chút ít thiện
căn, phước đức, nhân duyên mà ḥng thân cận
thiện tri thức được!
Thuở đức Phật tại
thế đă có lắm kẻ hủy báng ngần ấy; bên
trong hủy báng, bên ngoài hủy báng. Trong là do Đề Bà Đạt
Đa cầm đầu, lục quần tỳ-kheo[4]
chẳng nghe lời đức Phật giáo huấn, vi phạm
giới luật. Nói cách khác, họ cũng làm rất nhiều
chuyện xấu. Đức Phật thật sự là trí huệ
và đạo đức quá cao, quá lớn! Do vậy, những
người sáng suốt trong xă hội vẫn theo đức
Phật học tập, vẫn tôn đức Phật làm thầy.
Trong những kẻ tại gia và xuất gia ấy, hàng tại
gia có quốc vương, đại thần, hàng tại
gia c̣n có trưởng giả, cư sĩ, rất khó có;
đấy là làm cho chúng ta thấy. V́ sao đức Phật
phải làm như vậy? Chuyện như vậy về sau
ngày càng nhiều, triều đại nào, nơi chốn nào
mà có một vị thiện tri thức không bị kẻ
khác hủy báng?
Khi tôi mới học Phật,
thân cận Chương Gia đại sư, rất nhiều
kẻ nói thẳng vào mặt tôi: “Cớ sao
ngươi lại học theo ổng? Ổng là ḥa thượng
chánh trị mà”[5]. Người
trong giới Phật giáo hủy báng, người ngoài giới
Phật giáo cũng hủy báng. Chúng tôi vừa mới tiếp
xúc Phật pháp, nghe thấy khá nhiều lời phê b́nh chẳng
tốt đẹp, chúng tôi c̣n có thể thân cận hay
chăng? Nhưng thuở ấy trong tâm tôi hiểu rất
rơ, tôi thân cận vị lăo nhân ấy. Vị lăo nhân ấy lớn
hơn tôi ba mươi chín tuổi. Khi tôi thân cận Ngài,
Ngài đă sáu mươi lăm tuổi, tôi hai mươi sáu
tuổi. Vị lăo nhân ấy từ bi, hiền lành, từ tốn,
oai nghi, tôi vừa thấy, chẳng thể nào không [kính
ngưỡng, khâm phục] năm vóc sát đất! Những
kẻ hủy báng Ngài, ai có thể sánh bằng Ngài?
Đương nhiên là tôi chẳng tiện biện
bác, tuổi trẻ, vừa mới học Phật mà! Mặc kệ quư vị ở trước mặt
tôi nói Ngài không ra ǵ, mỗi tuần, tôi vẫn đến
nghe Ngài giáo huấn, chẳng chịu ĺa bỏ. Đối
với bạn bè rất thân thiết, tôi mới nói với
họ: “Những kẻ hủy báng đều chẳng thân
cận đại sư. Chúng tôi thường thân cận, [mới
có thể] liễu giải những kẻ bên ngoài đang bịa
chuyện, đặt điều!”.
Sau này, đọc Hoa Nghiêm mới
thấy, nguyên lai đức Phật đă sớm biết
chuyện này. Thời Mạt Pháp sẽ có những
chuyện như vậy nẩy sanh, Xảo là xảo ở
chỗ này! Văn Thù Bồ Tát dạy Thiện Tài đồng
tử đối với thiện tri thức phải cung
kính. Đúng là “một phần
thành kính, được một phần lợi ích; mười
phần thành kính, được mười phần lợi
ích”. Thiện tri thức phạm lầm lỗi, quyết
định chẳng ghim trong ḷng. Lầm lỗi
ấy chưa chắc đă là thật, v́ sao? Vị ấy
tiếp xúc rất nhiều người, giáo hóa chúng sanh
có đủ mọi phương tiện, chẳng phải là
một phương pháp. Từ năm mươi ba lần
tham học, chúng ta đă thấy:
Khi đáng chửi th́ phải chửi, khi đáng đánh th́
phải đánh. Có phải là tính t́nh thầy nóng nảy hay
chăng? Chẳng phải vậy, hoàn toàn là một bầu
từ bi, chỉ là dùng những kỹ xảo
khác nhau! Người nào đáng nên dùng phương pháp nào
để trị bệnh [bèn vận dụng phương
pháp ấy], thiện xảo phương tiện mà! Vận
dụng trí huệ chân chánh vào cuộc sống chính là
phương tiện thiện xảo, sống động,
chẳng chết cứng. Quư vị chớ nên không hiểu
đạo lư này!
Tôi thân cận tiên sinh
Phương Đông Mỹ, đây là một vị thiện
tri thức tại gia. Tuy cụ học Phật, chẳng có
h́nh thức học Phật. Cụ cũng chưa hề quy
y, mà cũng chưa từng thọ giới, hằng ngày xem kinh
Phật! Trong nhà trường, khi giảng dạy, cụ
đă hoàn toàn trích dẫn Phật pháp. Đến những
năm về già, rơ ràng là trong nhà trường cụ đă
mở những lớp dạy về Phật pháp, mở các
lớp Đại Thừa Phật Học, Phật Học
thời Ngụy - Tấn, Phật Học thời Tùy - Đường,
cụ dùng những chủ đề ấy để giảng
dạy. Sau này, rời trường đại học
Đài Loan, nghỉ hưu, đại học Phụ Nhân mời
cụ, đại học Phụ Nhân là đại học
tư, họ mời cụ dạy Triết Học Kinh Hoa Nghiêm
cho chương tŕnh tiến sĩ, chân thiện tri thức
đấy nhé! Có kẻ hủy báng cụ, những ai vậy?
Đồng hương từ quê nhà Đồng Thành, thật
sự toàn là những người cùng quê với chúng tôi. Quê
tôi ở Lư Giang, là huyện lân cận với Đồng
Thành, khoảng cách rất gần. Nói theo hiện thời, chỉ
vào khoảng ba mươi cây số. V́ thế, rất gần!
Người cùng quê hủy báng cụ, nói cụ sai trái này nọ.
Tôi nghe xong, chẳng bị ảnh hưởng. V́ sao? Chúng
ta ắt cần phải hiểu, trong kinh Bát Đại Nhân
Giác, đức Phật đă dạy chúng ta: “Bất niệm cựu ác, bất
tắng ác nhân” (Chẳng nghĩ đến
điều ác cũ, chẳng
ghét kẻ ác). Quư vị nói cụ xấu xa như thế
nào đó, đấy là chuyện quá khứ, ở quê nhà cụ.
“Sĩ biệt tam nhật, quát
mục tương khán” (Cách biệt
kẻ sĩ ba ngày, dụi mắt mà nh́n). Nay tôi thân cận
cụ, những hành trạng ác hèn như quư vị đă
nói, tôi chẳng thấy tí ti nào! Huống chi, cụ đă
ĺa xa quê hương lâu ngần ấy, dạy học bên ngoại
quốc. Nếu quư vị nghe những lời ấy bị
ảnh hưởng, đánh rất nhiều dấu hỏi
đối với thầy, sự học tập của
chúng ta sẽ bị chiết giảm to lớn. Dẫu quư vị
vẫn theo học với thầy, cái tâm cung kính đă bị
suy thoái, quư vị sẽ chẳng đạt được
điều ǵ!
Pháp thế gian và Phật pháp
có cùng một đạo lư. Quư vị
thật sự học được bao nhiêu thứ từ
chỗ thầy, chẳng phải là do thời gian quư vị
thân cận thầy dài hay ngắn, chẳng phải do điều này, [mà là do] quư vị đối với
thầy tâm cung kính được mấy phần! Mười
phần cung kính, quư vị sẽ được mười
phần, tám phần cung kính, quư vị sẽ được
tám phần, năm phần cung kính, quư vị sẽ
được năm phần, hai phần cung kính, quư vị
sẽ được hai phần. Trong Văn Sao, Ấn
Quang đại sư đă nói lời này rất nhiều!
Chẳng sai tí nào! Cũng may là tôi chẳng bị dao dộng,
suốt đời luôn cung kính thầy. Trước mỗi
buổi giảng kinh, tôi nhất định lạy thầy
trước. Không chỉ là lạy thầy, tôi c̣n lạy hộ
pháp: “Ḥa-nam thầy, Hộ Pháp
Bồ Tát”. Trước khi tôi giảng kinh sẽ lạy,
sau khi giảng xong lại lạy. Niệm niệm chẳng
quên ân đức thầy và ân đức của hộ pháp.
Tôi ở Đài Trung, thân cận
thầy Lư mười năm. Người chửi thầy
Lư rất nhiều, hủy báng, bịa chuyện, sanh sự,
luôn mong sao tôi rời bỏ thầy, chẳng học theo thầy
nữa! Chúng tôi không làm. Một vị thầy giỏi
như vậy, rất nhiệt tâm dạy quư vị, có thể
gặp, chẳng thể cầu, quư vị đến chỗ
nào để t́m? Đă gặp, quyết định chẳng
bỏ lỡ, chúng ta mới có thể đạt thành tựu.
Trong mấy năm qua, đúng là trong ngoài nước hủy
báng bản hội tập của Hạ Liên Cư, tức bản
hội tập kinh Vô Lượng Thọ. Trên tạp chí,
trên nhật báo, gọi thẳng tên tôi ra chửi bới. Tôi
nói rơ với các đồng học: “Bản hội tập
vốn do thầy truyền cho tôi. Nếu tôi bỏ đi,
chọn bản của người khác, chứng tỏ tôi
chẳng tin tưởng thầy. Kẻ
khác sẽ lại gán tội danh cho tôi, pháp sư Tịnh
Không phản thầy nghịch đạo. Đâm ra là có
đủ cả mọi thứ tiếng xấu!” V́ thế,
tôi có thái độ hết sức kiên định. Tôi nói với
mọi người: “Người trên khắp thế
giới đều phản đối, đều không tin
tưởng, tôi chẳng phản đối, vẫn y giáo phụng
hành. V́ sao? Thầy dạy tôi, chẳng dạy quư vị,
mà là dạy tôi”. Tôi có tín tâm kiên định,
quyết chẳng dao động, mà cũng chẳng phản
bác. Chửi chán chê, họ sẽ hết chửi. V́ thế,
hiện thời chẳng có chuyện chi nữa!
Đối với những
chuyện này, trong cách nh́n của tôi, những người ấy
đều là người tốt, đều rất khó có,
họ đă thay tôi tiêu trừ nghiệp
chướng. Họ đến khảo hạch
tôi, xem tôi có định lực hay không? Coi tôi có phải là “xảo sự sư trưởng,
tập hành thiện pháp” (khéo phụng sự sư
trưởng, tu tập thiện pháp) hay không? Thành tựu từ
chỗ này. Đối với thầy, đối với
đồng học, đối với hết thảy đại
chúng, trong một đời này, tôi chẳng có một ác niệm
đối với kẻ khác, cũng chẳng dùng lời ác
hủy báng người ta. Ḷng tôi rất yên, hết sức
b́nh an! Suốt đời chẳng có tâm hại
người, chỉ tận tâm tận lực giúp đỡ
kẻ khác. Có lúc thấy người khác khó
khăn, nhưng sức không đủ, sức trí huệ chẳng
đủ, cổ nhân nói là: “Tâm
có thừa, mà sức chẳng đủ”. Chưa hề
nghĩ v́ chính ḿnh!
Cho tới hiện thời,
người khác đều có đại đạo tràng,
tôi ngay cả một căn nhà để ở cũng chẳng
có. Tôi có thể kiến tạo một đạo tràng,
nhưng tôi cảm thấy không cần thiết! Vẫn là
chẳng có ǵ sẽ tốt hơn, tâm địa
thanh tịnh, chẳng bị vướng mắc, chẳng ưu
lự, ngoài cái thân ra, chẳng có vật ǵ cả! Nhưng sống
trong cơi đời này, bất luận cuộc sống vật
chất hay cuộc sống tinh thần, đều chẳng
khuyết thiếu. Điều này đúng là rất khó có!
Nói theo kẻ b́nh phàm trong thế gian, đời này, tôi hết
sức may mắn, thứ ǵ cũng đều chẳng có,
nhưng chẳng thiếu thốn thứ ǵ! Nhà cửa
để ở cũng được lắm. Chẳng có nhà
cửa, nhưng vẫn có nhà để ở. Chẳng có
xe, nhưng đến bất cứ nơi đâu đều
có xe đưa đón. Tuy chẳng có tiền, ăn, mặc,
ở, đi lại đều chẳng thiếu thốn, rất
khó có! Những điều này do Tam Bảo gia tŕ, do thầy
dạy bảo, làm sao có thể quên ơn thầy cho
được? Chẳng thể quên ơn hộ pháp.
Dẫu cho những vị hộ
pháp sau khi hộ tŕ một giai đoạn, tâm biến đổi,
chẳng hộ tŕ quư vị nữa, lại c̣n hủy báng,
chúng ta hiểu v́ sao họ thay ḷng đổi dạ? Nghe lời
kẻ khác, kẻ khác đặt điều đồn
đại, chính họ chẳng điều tra cặn kẽ,
tin ngay. V́ thế, nẩy sanh những hiện tượng ấy.
Tôi vẫn tôn kính họ, vẫn mỗi ngày niệm Phật,
tụng kinh hồi hướng, chúc phước cho họ
sống lâu tăng thọ, phước huệ tăng
trưởng. Đấy là điều chúng ta phải nên
làm. Nếu họ biết, sẽ hồi tâm chuyển ư: “Pháp
sư Tịnh Không chẳng phải là người xấu”.
Chẳng có ngày nào không hồi hướng cho họ. Hành vi
của họ chúng ta đều lư giải, đặc biệt
là trong thời đại này, tôi cảm thấy hành vi
như vậy là lẽ đương nhiên. Hiện thời
có ai tán thán người khác? Ai có thể nói lời tốt
đẹp về người khác? Toàn là hủy báng, ganh tỵ,
toàn là chướng ngại. Do vậy, chúng ta hiểu rơ ràng,
thấy như vậy vẫn điềm
nhiên, chẳng
trách móc!
Trong số đó, cũng có kẻ
rất thông minh. Người thông minh tuy nhất thời nghe
xong, cảm thấy khó chịu, họ sẽ điều
tra. Điều tra đến cuối cùng, [phát hiện] kẻ
ấy nói lời giả dối, xác thực là vu cáo, là hủy
báng, thế là thái độ của người
đối với ta cũng chuyển thành tốt đẹp;
đó là chuyện tốt! Trải qua điều tra, họ
khẳng định ta là thật,
chẳng giả, họ chẳng xử sự theo cảm
t́nh. Bất luận tại gia hay xuất gia, học Nho hay
học Phật, bị chướng ngại, hủy báng khắp nơi, khắp chốn, chắc chắn
sẽ chẳng thể tránh được. Phải ghi nhớ:
“Nhân phi thánh hiền, thục
năng vô quá” (Người ta chẳng phải
là thánh hiền, ai có thể không phạm lầm lỗi). Câu
nói này có thể áp dụng vào chính ḿnh. V́ thế, nghe người
khác hủy báng, phê b́nh, chớ nên trách móc người khác,
hăy quay lại nghiêm túc phản tỉnh: Ta có [lỗi lầm
ấy] hay không? Hễ có bèn sửa. Hễ không, càng thêm gắng
sức [giữ ḿnh tốt đẹp]. Đối với những
kẻ hủy báng, đơm đặt, sanh sự, hăy sanh
tâm cảm ơn. V́ sao? Họ nhắc nhở ta, những ǵ
họ nói nếu là thật, ta thật sự phạm lỗi
lầm ấy, hăy ngay lập tức sửa chữa. Nếu
họ không nhắc nhở ta, ta sẽ không biết. Nếu
phản tỉnh, mà thấy [chính ḿnh] chẳng
có [những điều sai trái ấy], hăy gắng
sức, quyết định chớ nên phạm những lầm
lỗi ấy. V́ thế, toàn là chuyện tốt, chẳng
phải là chuyện xấu. Khi tôi rời khỏi Đài
Loan, đă viết sáu câu: “Vĩnh
viễn sống trong thế giới cảm ơn”. Ĺa khỏi
Tân Gia Ba, tôi viết một cặp câu đối, [hàm ư] bất
luận trong thuận cảnh hay nghịch cảnh, đều
phải ǵn giữ cái tâm thanh tịnh, chẳng bị nhiễm
ô, quư vị mới có thể phước huệ song tu, cảnh
giới mới không ngừng tăng cao, sẽ chẳng bị
chúng ảnh hưởng. V́ thế, đỉều này rất
quan trọng!
“Tập
hành thiện pháp” càng quan trọng hơn nữa! Những
ǵ thầy đă dạy, quư vị đă hiểu, thật sự
đă hiểu. Sau khi đă hiểu, quư vị phải thực
hiện, phải làm được, phải tin tưởng
giáo huấn trong kinh điển, từng câu, từng chữ
đều là chân thật. Sau khi đă khế nhập, quư vị
mới hiểu trí huệ của Phật, hạnh của Bồ
Tát, [đáng cho] kẻ khác kính phục năm vóc sát đất!
Nói theo cách hiện thời, “Phật,
Bồ Tát hoàn toàn hy sinh, dâng hiến”. Đó là người
thế gian chúng ta nói, chứ bản thân Phật,
Bồ Tát chưa hề khởi tâm động niệm,
chưa từng có phân biệt, chấp trước, đáng
nên dùng thân ǵ để đắc độ, bèn hiện
thân ấy. Kinh Lăng Nghiêm đă dạy: “Tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng” (Thuận
theo cái tâm của chúng sanh, ứng với khả năng lănh
hội của họ), chẳng lưu lại
dấu vết. Người thế gian chấp tướng,
nói các Ngài thật vĩ đại, hy sinh, dâng hiến! Các Ngài
cũng chẳng có ư niệm vĩ đại,
mà cũng chẳng có ư niệm hy sinh, dâng hiến. Những điều các Ngài đă làm,
đă thực hiện hoàn toàn tương ứng với
Tánh Đức, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn!
Từ bộ kinh này, chúng ta thấu hiểu. “Tập” (習) là luyện tập,
không ngừng học tập. “Hành”
(行) là thực
hiện bằng hành vi. Trong hành vi, có tư tưởng;
tư tưởng và ư niệm là hành vi nơi ư nghiệp.
Ngôn ngữ là hành vi nơi khẩu nghiệp. Động tác
là hành vi nơi thân nghiệp. Quư vị phải vận dụng
những ǵ đă học vào hành vi, đấy mới thật
sự là “thiện pháp”. Nếu
chẳng thực hiện qua hành vi, chẳng thể coi là thiện
pháp! Kinh là thiện, ngôn ngữ là thiện, [thế mà] tâm hạnh
của quư vị bất thiện. Do vậy, phải hiểu
điều này.
Then chốt trong sự tu học,
then chốt của sự thành bại
chính là thầy. Ngoài thầy ra là đồng học, phải
có tín tâm đối với đồng học giống hệt
như thầy. Thấy đồng học phạm lỗi
lầm, [nếu xét thấy] có thể khuyên
răn, hăy khuyên lơn. Thầy có lỗi lầm,
đúng là “mạc trắc cao
thâm” (cao sâu chẳng thể lường), chẳng biết
thầy có dụng ư ǵ. Có khi thầy nói cho quư vị biết,
có khi chẳng nói, phải hiểu điều này! Nói chung, hết
thảy các sự thị hiện đều bao hàm nghĩa
thú giáo huấn rất sâu trong ấy, tùy thuộc mỗi
người lănh hội. Lại xem bài kệ tiếp theo là
bài thứ tư.
(Kinh) Cầu thỉnh xuất gia,
đương nguyện chúng sanh, đắc bất thoái
pháp, tâm vô chướng ngại.
(經)求請出家。當願眾生。得不退法。心無障礙。
(Kinh:
Cầu thỉnh xuất gia, nguyện cho chúng sanh, đắc
pháp bất thoái, tâm chẳng có chướng ngại).
“Cầu thỉnh xuất
gia”
chẳng phải là chuyện dễ dàng. Trong ấy, phải
hội đủ ba thứ duyên, nhân duyên tụ hội.
Duyên không đủ, quư vị sẽ chẳng thể thành tựu.
V́ thế, có rất nhiều người t́m tôi, muốn theo
tôi xuất gia, nhưng duyên chẳng đủ!
1) Điều thứ nhất
là quư vị phải có duyên với pháp sư, đấy là
điều thứ nhất. Có nghĩa là quư vị đối
với vị pháp sư ấy phải nhận thức, khẳng
định, pháp sư đối với quư vị cũng
nhận thức, cũng khẳng định. Đó là duyên đầu
tiên.
2) Duyên thứ hai, quư vị
phải quen thuộc với đại chúng trong đạo
tràng ấy. Đại chúng sống trong đạo tràng ấy
khẳng định quư vị, bằng ḷng tiếp nhận,
bằng ḷng dung nạp quư vị. Quư vị
đối với đại chúng của đạo tràng ấy
hoan hỷ, bằng ḷng cùng với mọi người cùng học, cùng tu. Nếu thầy đáp ứng
[cho phép] quư vị xuất gia, những người ở
dưới chẳng thể tiếp nhận quư vị, dẫu
được thế độ (剃度, xuống tóc), quư vị chẳng dễ sống [trong đạo tràng ấy]! Do vậy, thật
sự mong xuất gia tại một đạo tràng, tối
thiểu là phải phục vụ tại
đạo tràng đó ba năm. Hiện thời nói là “làm
công quả”. Mọi người đều có thể cư
xử rất tốt đẹp, ai nấy đều rất
tôn kính quư vị, thật sự là một người tốt.
V́ sao? Quư vị có thể thực hiện Đệ Tử
Quy, thực hiện Thập Thiện Nghiệp. Kẻ tại
gia nếu đă thọ Tam Quy Ngũ Giới, thảy đều
có thể làm được.
3) Điều kiện thứ
ba là có duyên với đạo tràng.
Trọn đủ
ba điều kiện ấy, sẽ có thể thỉnh cầu
xuất gia. Nêu ra nguyện vọng xin xuất gia, sẽ thuận
buồm xuôi gió.
Nếu ba điều kiện
chẳng trọn đủ, quư vị thật sự mong xuất
gia, hăy khéo vun bồi! Đối với thầy, đạo
tràng, và đồng tham đạo hữu, hăy chọn lựa
một khoảng thời gian, có thể thân cận mấy vị
pháp sư nhiều hơn, thân cận mấy đạo
tràng, quan sát trong ấy, pháp sư nào, đạo tràng nào
tương ứng với nguyện vọng của ta.
Như vậy th́ mới trở thành chí đồng đạo
hợp được. Tại Trung Hoa, vào thời cổ,
đạo phong của mỗi tự, viện, am, đường
đều chẳng hoàn toàn giống nhau. Tuy là cùng một
tông, [vẫn là] đại đồng tiểu dị! Tông
phái khác nhau, sai biệt càng to hơn nữa! Do vậy, nhất
định phải thân cận, tiếp xúc cho nhiều, liễu
giải nhiều hơn!
Xuất gia để làm ǵ?
Xuất gia nhằm hoằng pháp lợi sanh, nối tiếp
huệ mạng của đức Phật, v́ điều
này, chẳng v́ điều nào khác! Chính là v́ thật sự mong
giúp cho chánh pháp tồn tại lâu dài [trong thế gian]. Nếu
quư vị có thể có chí nguyện ấy, phát tâm như vậy,
chư Phật hộ niệm, long, thiên, thiện thần ủng
hộ, xuất gia là chánh xác. Nếu chẳng phải là hoằng
nguyện như vậy, tại gia học Phật có thành tựu
giống hệt. Xuất gia quyết
định là phải gánh vác gia nghiệp của Như Lai.
Gia nghiệp của Như Lai chẳng có chi khác, chỉ là hoằng
pháp lợi sanh. Do vậy, quư vị phải nghĩ thuở
Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, suốt bốn
mươi chín năm đều ǵn giữ “giữa trưa
ăn một bữa, đêm nghỉ dưới cội cây”.
Chẳng có nhà, hằng ngày dạy học, chẳng
có ngày nào buông lỏng, lười nhác, bốn mươi
chín năm đều như
một ngày. Ba mươi tuổi thị hiện thành đạo
liền bắt đầu giáo học, bảy mươi
chín tuổi viên tịch, suốt bốn mươi chín
năm! Đấy là gia nghiệp của Như Lai.
Hiện thời, mức
độ thấp nhất của chúng ta là phải kiến
lập chánh pháp, đúng lư, đúng pháp. Lư và pháp đều ở
trong kinh điển; hăy nương
theo giáo huấn trong kinh điển, đúng lư và đúng pháp
tu học. Đó là đúng. Đấy là sự chỉ đạo
của bậc đại sư. Đối với tiểu
sư, quư vị thấy thầy dạy tôi học theo Ấn
Quang đại sư. Chúng ta phải tôn trọng sự chỉ
dạy của Ấn Quang đại sư. Lăo nhân gia nói khẳng
định, trong thời đại này, chẳng cần lập
đạo tràng to, hăy lập đạo tràng nhỏ. Số
lượng đồng tu
cùng nhau tu tập chớ nên quá hai mươi người,
có lư! Ít người, sẽ ít thị phi. Cổ nhân thường
nói: “Tri sự đa thời,
phiền năo đa; thức nhân
đa xứ, thị phi đa” (Biết
nhiều chuyện, nhiều điều phiền năo; biết
nhiều người, lắm nỗi thị phi). Nhiều
người th́ sẽ có nhiều thị phi. Hai mươi
người là vừa khéo, cùng nhau học tập, cùng nhau
nghiên cứu, cùng nhau niệm Phật. Đạo tràng như
vậy chẳng ra khỏi cửa mà hoằng dương khắp
thiên hạ. V́ sao? Đạo phong và học phong của quư vị,
người ta nghe được, không ai chẳng hâm mộ,
chẳng có ai không tán thán.
Ít người, tiền chi
dùng ít, chẳng cần phải bận ḷng v́ cuộc sống
của thường trụ. Nhất định phải nghiêm
túc. Ngày hôm qua, tôi đă nói cùng mọi người, nghiêm túc tu
học, tâm của quư vị định. Tâm định
đến một mức độ nhất định,
quư vị sẽ ít tiêu hao năng lượng hơn.
Năng lượng tiêu hao ít, quư vị sẽ giảm bớt
ăn uống. Do vậy, hai mươi người thật
sự cùng nhau tu hành, mọi người kết giới, chẳng
rời khỏi đạo tràng, tâm hoàn toàn định, phỏng
theo đạo tràng thuở trước của Viễn công
đại sư. Chúng thường trụ là một
trăm hai mươi ba người, ai nấy đều thành
tựu. Lấy Hổ Khê làm giới hạn, hoạt động
của họ chẳng ra ngoài giới tuyến Hổ Khê. Suốt
đời là một đạo tràng, một bộ kinh, nương
cậy một vị thầy là Huệ Viễn đại
sư. Một vị thầy, một bộ kinh, một pháp
môn, ai nấy đều thành tựu. Tịnh Độ Tông
Sơ Tổ! Ngài đă nêu gương tốt đẹp
dường ấy, chúng ta phải nên học theo. Một
trăm hai mươi ba người, lỗi lạc thay! Phải
là bậc đại trí huệ, đại phước báo th́
mới có thể thống lư đại chúng. Tổ Ấn
Quang thấy rất rơ ràng, những vị xuất gia trong số
chúng sanh thời Mạt Pháp, quư vị
có thể cai quản hai mươi người là đă rất
lỗi lạc! Chẳng cần kiến lập một đạo
tràng to dường ấy, rất có lư!
Tôi suốt đời hâm mộ.
Tôi chẳng có đạo
tràng; trong tương lai, có đạo tràng, tôi nhất
định tuân thủ lời tổ Ấn Quang đă dạy.
Đồng tham đạo hữu không hơn hai mươi
người, sẽ thật sự thành tựu. Nhiều
người khó lắm, khó quản trị, chẳng dễ
ǵ quản trị được! [Đối với] tiêu
chuẩn để chọn lựa hai mươi người
ấy, quư vị thấy trong kinh doanh hiện thời, tiêu
chuẩn để chọn lựa nhân viên đều là Đệ
Tử Quy. Nếu chẳng từng học tập Đệ
Tử Quy, họ sẽ chẳng mướn. Đặt ra
tiêu chuẩn đầu tiên để trúng tuyển là Đệ Tử Quy. Chúng ta muốn
thành lập một đạo tràng nhỏ, bất luận đồng
học tại gia hay xuất gia, nhất định
cũng dùng tiêu chuẩn này. Thậm chí có thể dùng điều
thứ nhất trong Tịnh Nghiệp Tam Phước, tức
là Đệ Tử Quy và kinh Thập Thiện Nghiệp
Đạo. Kẻ chẳng thể thực hiện hai thứ
ấy, sẽ không thể tiếp nhận. Có thể thực hiện hai thứ ấy, thật sự
là “chí đồng đạo
hợp”. Một bộ kinh Vô Lượng
Thọ, chuyên tu Tịnh Độ, chuyên niệm Di Đà, chẳng
có ai không thành tựu, chẳng có ai không văng sanh. Tổ Ấn
Quang đă vạch ra cho chúng ta con đường này. Đặc
biệt là trong hoàn cảnh xă hội hiện thời, hoàn cảnh
xă hội là đại hoàn cảnh, là toàn thể thế giới.
Trong nhiều năm trong quá
khứ, chỉ có Âu Châu là tôi chưa đến, những chỗ
khác tôi đều đi qua. Năm trước, tôi viếng
thăm Âu Châu, toàn thể thế giới đều đến
đó. Họ bài xích tôn giáo, bề ngoài rất khách sáo, trong
thực tế, họ thầm nghĩ quư vị đều
là phường mê tín. Tại Liên Hiệp Quốc, Phật giáo
cũng có đại biểu tham dự. Tổng bộ của
tổ chức Giáo Dục Văn Hóa Khoa Học (UNESCO) của
Liên Hiệp Quốc đặt tại Ba Lê.
Đại biểu của Phật giáo là một vị pháp
sư người xứ Tư Lư Lan Kha (Sri Lanka). Ngày đầu
tiên, vị pháp sư ấy đến gặp tôi, mặc quần
áo thông dụng của người tại gia. Tôi trông thấy,
cảm thấy rất lạ. Ông ta bảo ḿnh là
người xuất gia, đầu cạo trọc, đi
giày da, mặc y phục phương Tây. Ông ta mới bảo
tôi, v́ ông ta làm việc cho UNESCO, mặc y phục xuất gia
bất tiện, quư vị mới vỡ lẽ. Tôi đến
tham dự một yến tiệc của đảng Cộng
Ḥa tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn, cũng rất
đông người. Có một người đến
trước mặt tôi chắp tay hành lễ, mặc quần
áo phương Tây lịch lăm, đầu cạo láng o, c̣n tôi
vẫn mặc y phục xuất gia. Ông ta cho biết ḿnh là người
xuất gia, sư phụ là người Nhật Bản, xuất
gia cũng đă lâu, hôm nay đến tham dự bữa tiệc
ấy. Tôi hỏi: “Cớ sao thầy mặc loại quần
áo này?” Ông ta đáp: “[Y phục xuất gia] chẳng thuận
tiện”! Tôi liền hiểu rơ.
Bởi lẽ, ở
bên đó, có rất nhiều [trường hợp giống
như vậy]. Các đồng tu cho biết: “Thưa pháp
sư! Đại khái là trong những hoàn cảnh [tiệc
tùng] giống như vậy, chúng con chỉ thấy có hai
người không thay đổi y phục”. Tôi hỏi: “Hai
người nào vậy?” [Họ đáp]: “Một là Đạt
Lại (Dalai Lama), vị kia chính là thầy. Các vị trong bất cứ trường hợp nào
cũng đều chẳng thay đổi y phục”. Điều
này cho thấy, trong sự cảm nhận của người
đời, tôn giáo chẳng kiến lập một lập
trường thật sự, mọi người đều
có cái nh́n hoài nghi đối với quư vị! Do nguyên nhân nào?
Chẳng tŕ giới. Cổ đại đức thường
nói: “Chẳng có giới luật;
bất luận tại gia hay xuất gia nếu chẳng tŕ giới, sẽ chẳng
có Phật! Chẳng có lễ, không nói đến lễ, chẳng
tuân thủ lễ, sẽ chẳng có Nho”.
Chúng ta thấy người học
Phật trong xă hội hiện thời, người học
Phật thật sự chẳng ít, người học Nho
cũng chẳng ít, [thế nhưng] người học Nho
chẳng tuân thủ lễ, người học Phật chẳng
tŕ giới, làm sao người khác coi trọng quư vị cho
được? Đối với những
chuyện
này, chúng ta phải phản tỉnh thật sâu, chẳng thể
trách móc ai khác! Hăy trách chính ḿnh chẳng làm tốt! Tôi không
nói: “Chẳng làm đủ!” V́ sao? Căn bản là đâu có
làm! Do vậy, hiện thời phải nâng cao [cách
nh́n của xă hội đối với] các tín
đồ tôn giáo. Bất luận là tôn giáo nào,
[để] nâng cao thân phận, địa vị,
nâng cao cách nh́n của người b́nh phàm đối với
các tín đồ tôn giáo, nhất
định là quư vị phải tŕ giới, giữ quy củ,
phô ra một h́nh tượng tốt đẹp cho người
khác [trông thấy], người ta sẽ tự nhiên tôn kính.
Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, v́ sao Ngài
được nhiều người tôn kính ngần ấy?
Các vị tổ sư đại đức xưa kia giáo
hóa chúng sanh, đối với đại chúng trong xă hội,
trên là từ đế vương, đại thần,
dưới cho đến kẻ bán rong, gă chạy việc vặt,
đều tôn kính người xuất gia ngần ấy là
do đạo lư nào? Tŕ giới, có h́nh tượng tốt
đẹp! Hễ nói ra, đều thật sự làm được.
Nay ngẫm lại, đối
với Phật pháp cơ bản, tức là đối với
Thập Thiện Nghiệp, hăy thường xuyên phản tỉnh,
phải tự hỏi chính ḿnh có làm được hay không?
“Không sát sanh” có làm được
hay không? Chẳng giết người, nhưng có giết
súc sanh hay không? Có ư niệm tổn thương người
khác hay không? Tuy chẳng có hành vi, nhưng đôi khi vẫn
có ư niệm tàn nhẫn. Ư niệm là ư nghiệp, tâm
của quư vị không thanh tịnh, quư vị c̣n có ư niệm
giết chóc. V́ thế, quư vị có ư niệm gây tổn
thương, tàn hại người khác, chẳng đoạn
sát tâm! Quư vị có ư niệm chiếm tiện nghi của kẻ
khác, tức là chẳng đoạn cái tâm trộm cắp!
Nay không chỉ là nói “chẳng
đoạn ư nghiệp”, mà thân và khẩu cũng
chẳng đoạn! Hàng xuất gia và
tín đồ tôn giáo như vậy, làm sao có thể khiến
cho đại chúng trong xă hội tôn trọng, kính ngưỡng?
Khó lắm! Nói khó nghe là “chúng ta đang hành tŕ chuyện phá hoại
h́nh tượng của Phật giáo”. Nói thông tục một
tí, sẽ là kẻ đă vứt
bỏ Thích Ca Mâu Ni Phật! Học
tṛ của Thích Ca Mâu Ni Phật trong xă hội đă hành xử theo
kiểu ấy. Sự hành tŕ của chúng ta khiến cho người
khác tạo khẩu nghiệp. Những nghiệp do kẻ
khác đă tạo đều do chúng ta gây nên, ta dẫn phát họ
tạo nghiệp. Quả báo của chúng ta chẳng ở
trong tam đồ, chẳng ở trong địa ngục,
th́ sẽ là ở đâu đây? Nhất định phải
biết điều này!
V́ thế, trước hết
là phải học. Học cho đến khi thật sự
có tâm đắc, rồi mới xuất gia. Sau khi xuất
gia, sẽ vĩnh viễn chẳng thoái chuyển, thật
sự biểu hiện h́nh tượng tốt đẹp của
Phật pháp trong xă hội. “Vị
nhân diễn thuyết” (V́ người
khác diển nói): “Diễn” (演) là biểu diễn.
Ta thật sự làm được, làm cho mọi người
thấy. “Thuyết” (說) là giải
thích, v́ người khác diễn nói. Quư vị thấy kinh
Kim Cang đă nói rất nhiều, “thọ
tŕ đọc tụng, v́ người khác diễn thuyết”.
Đệ tử xuất gia của đức Phật làm
ǵ? Chính là suốt đời thực hiện câu này!
Thọ, tŕ, đọc, tụng, v́ người khác diễn
thuyết! “Diễn” là biểu
diễn, nêu ra h́nh dáng cho mọi người thấy. “Thuyết” là giống như Thích
Ca Mâu Ni Phật, hằng ngày v́ người khác diễn thuyết.
Diễn thuyết chính là giáo học. Diễn là thân giáo, Thuyết
là ngôn giáo, người xuất gia làm chuyện này! Không giảng
kinh, không thuyết pháp th́ ở trong tự viện làm hộ
pháp. Hộ pháp là biểu diễn, họ diễn tại
đó, nêu gương tốt nhất cho mọi người
thấy, [họ sẽ cảm nhận] đấy là sự
tu tŕ trong Phật môn, tâm cung kính, tâm bắt chước làm
theo sẽ tự nhiên sanh khởi. Đấy
mới thật sự là đệ tử của Phật
môn, chánh pháp tồn tại trong cơi đời. À! Hôm nay
đă hết thời gian rồi, chúng tôi nói tới chỗ
này!
Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 23 hết
[1] Theo kinh Chuyển Pháp Luân, mỗi giáo pháp của đức
Phật được dạy theo ba tầng: Thị Chuyển
(nêu bày cho thấy), Giáo Chuyển (giảng giải
phương pháp, đạo lư, lư luận, đường
hướng, thứ tự tu tŕ) và Tác Chứng Chuyển
(đích thân nêu gương để làm chứng).
[2] Mục
(牧) có
nghĩa là chăn dắt gia súc, như
trẻ chăn trâu thường được gọi là Mục
Đồng (牧童).
Do trong giáo thuyết của Thiên Chúa giáo,
tín đồ giống như những con chiên (lamb, cừu non) của Chúa, giáo
sĩ là người chăn dắt bầy chiên của Chúa,
nên gọi là Mục Sư, hoặc gọi nôm na là “người
chủ chiên”. Chữ Mục trong Linh Mục
cũng có cùng ư nghĩa. Linh Mục (靈牧) có thể hiểu nôm na là người chăn dắt
linh hồn của tín đồ. Tuy vậy, người Hoa
thường gọi Linh Mục là Thần Phụ (神父), tức là cách dịch bóng bẩy chữ
Pater trong tiếng La Tinh. Đôi khi họ c̣n dùng chữ Tế
Tư (祭司, ta thường đọc
thành “thầy tư tế”), hoặc Tế Sư (祭師), hay Tư Đạc (司鐸).
[3] Chúng tôi xin mạn phép nói thêm chỗ này: Quy y A Di Đà
Phật ở đây là quay về nương tựa A Di
Đà Phật, chấp nhận hành tŕ pháp môn Tịnh Độ
để tấn tu. Chúng tôi đă thấy có những vị
đồng tu nghe ḥa thượng nói như vậy, đă
chấp chặt văn tự, diễn tả sai lạc ư
nghĩa này, bảo quy y Tam Bảo là phải quy y A Di Đà
Phật, không quy y Thích Ca Mâu Ni Phật, buộc các đệ
tử đă quy y từ trước phải quy y lại với
A Di Đà Phật, gây nên những xáo động không cần
thiết. Bản thân ḥa thượng đă nói rất rơ, rất
minh bạch trong khi giảng về Tam Quy Y, quy y Phật là
quy y Tự Tánh Giác, không phải là quy y một vị Phật
cụ thể nào. Đó cũng là lư do Lục Tổ Huệ
Năng dạy “quy y giác, quy y chánh, quy y tịnh”. Khi ḥa
thượng nói “chúng ta
không chịu quy y A Di Đà Phật, chúng ta thích quy y Thích Ca
Mâu Ni Phật”, Ngài có ư nói người ấy thích tu những
pháp môn thông thường khác, cậy vào tự lực, chẳng
tin vào tha lực, tức là tấn tu từng bậc, lần
lượt chứng Sơ Quả, Nhị Quả v.v… chứ
không hề có ư nói phải quy y Tam Bảo lại, cũng
như chỉ trích những vị truyền thọ Tam Quy hiện
thời là sai, phải quy y với A Di Đà Phật, không
được quy y Thích Ca Mâu Ni Phật. Nếu hiểu
như vậy, đă hoàn toàn trái nghịch tông chỉ “tôn
sư trọng đạo” mất rồi. Họ lại c̣n
hiểu quy y Phật là quy y một vị Phật ở bên
ngoài, chẳng phải là quy y Tự Tánh Giác, chẳng phải
là quy y tự tánh Di Đà, [hay nói cách khác], chẳng phải
là quy y Pháp Thân của mười phương ba đời
hết thảy chư Phật!
[4] Lục
Quần tỳ-kheo là nhóm sáu tỳ-kheo kết bè lũ với
nhau, thường làm những chuyện phá oai nghi nhằm tạo cơ hội cho đức Phật chế
định giới luật. Các kinh luận chép tên họ
của những người này hơi khác nhau (có lẽ do
phiên âm hoặc dịch nghĩa nên thành sai khác). Theo Tỳ Nại
Da Luật quyển mười một, tên của
những người ấy là Xiển Đà (Nanda), Ô Ba Nan
Đà (Upananda), A Thuyết Ca (Asvaka), Bổ Nại Bà Tố
Ca (Punavarsu), Xiển Đà (Chanda) và Ưu Đà Di (Udayin).
[5] Chương Gia đại sư (tên thật là Lobsang
Pelden Tenpe Dronme, thường được người Hoa
phiên âm là La Tang Ban Điện Đan Tất Dung Mai) là quốc
sư của nhà Thanh, được nhà Thanh phong làm thủ
lănh của toàn thể Phật giáo đồ Mông Cổ và
Măn Châu, với tước hiệu Quán Đảnh Phổ Thiện
Quảng Từ Chương Gia Hô Đồ Khắc Đồ.
Khi Dân Quốc thành lập, tổng thống Từ Thế Xương
tặng thêm phong hiệu Chiêu Nhân Xiển Hóa. Năm 1930, Sư
được cử làm ủy viên của Mông Tạng Ủy
Viên Hội trong chánh quyền Quốc Dân Đảng, rồi
được cử làm ủy viên giám sát trung ương của
Quốc Dân Đảng. Năm 1947, Sư làm đại biểu
của Quốc Dân Đại Hội (Quốc Hội) khóa
thứ nhất. Năm 1949, Sư được cử làm
Tổng Thống Phủ Tư Chánh (tức là cố vấn
thứ nhất của Tổng Thống). Sư c̣n kiêm nhiệm
làm Lư Sự Trưởng (chủ tịch điều hành) Phật
giáo Đài Loan cho đến khi mất vào năm 1957.