Đại Phương Quảng
Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười
một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần
24
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Địa điểm: Hương Cảng Phật
Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ ngày mồng Bảy tháng
Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ Trang và Minh
Tiến
Tập 1509
Chư
vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem phẩm
Tịnh Hạnh thứ mười một, xem từ bài kệ thứ năm[1]
trong phần
kệ tụng Xuất Gia Thọ Giới:
(Kinh) Thoát khứ tục phục, đương nguyện
chúng sanh, cần tu thiện căn, xả chư tội ách.
(經)脫去俗服。當願眾生。勤修善根。捨諸罪軛。
(Kinh: Cởi bỏ áo đời,
nguyện cho chúng sanh, siêng tu căn lành, bỏ các tội
ách).
Đây là xuất gia thế
độ. Bài kệ trước đó là Cầu Thỉnh Xuất
Gia. Tôi cũng đă thưa bày cặn kẽ với quư vị:
Xuất gia là một đại sự; tại gia th́ lập
gia đ́nh là một đại sự, tuyệt đối
chẳng phải là chuyện đùa bỡn của trẻ
con! Nhưng hiện thời, đối với chuyện lập
gia đ́nh, cũng là kết hợp rất cẩu
thả. T́nh h́nh ấy đă tạo thành tỷ lệ ly hôn khá
cao. Trong xă hội xưa kia, rất ít nghe nói đến chuyện
ly hôn. Thuở ấy, hễ nghe nói đến chuyện vợ
chồng nào đó ly dị, đúng là một tin sốt dẻo,
hiếm nghe thấy! Hiện thời quá
nhiều! Chúng ta phải lắng ḷng quan sát cặn kẽ
chuyện này, sau đấy mới thật sự thấu
hiểu nguyên nhân chân chánh gây nên sự an nguy và động
loạn trong xă hội là ở chỗ nào. Quư vị mới
có thể phát hiện t́nh trạng
nguy ngập nghiêm trọng trong xă hội hiện thời, [thấy
rơ] nguồn cội của t́nh trạng nguy ngập ấy,
cũng như nguyên nhân gây ra t́nh trạng nguy ngập ấy
là ở chỗ nào!
Trong quá khứ, xuất gia
cũng hết sức thận trọng. Không chỉ là giữa
thầy và tṛ thật sự có sự chọn lựa rất
nghiêm túc, nghiêm ngặt. Đồ đệ chọn lựa
thầy, thầy chọn lựa đồ đệ, nhất
định chẳng phải là rất tùy tiện, rất dễ
dăi, qua quít! Đă thế, [để hội đủ
tư cách xuất gia], c̣n phải trải qua sự khảo
thí của nước nhà! Ở đây, tôi phải nói rơ thêm
về điểm này. Vào thời cổ, xuất gia chẳng phải là
tùy tiện xuất gia. Đạo tràng do quốc gia quản
lư; v́ rất nhiều đạo tràng là do quốc gia kiến
tạo, chẳng phải do tư nhân xây dựng. Nếu
chư vị nh́n vào rất nhiều đạo tràng có quy mô
rất lớn tại Trung Hoa, sẽ thấy trên hoành phi có
ghi “sắc kiến”. “Sắc kiến”
(敕建) nghĩa là do hoàng đế hạ lệnh xây dựng.
Có những ngôi chùa do quốc khố bỏ tiền xây cất,
có những ngôi chùa do chính quyền địa phương bỏ
tiền xây dựng. Chùa miếu như vậy th́ làm sao quốc
gia chẳng quản lư cho được? Trong số ấy,
cũng có những ngôi chùa do một số ít trưởng
giả, cư sĩ kiến lập.
Đạo tràng [thời cổ]
đều là đạo tràng thập phương, chẳng thuộc về
một cá nhân nào, nhằm cung cấp [nơi chốn] cho
người xuất gia tu hành an tâm học tập nơi
đó. Người xuất gia có nhu cầu sinh hoạt rất
đơn giản; v́ thế, chăm sóc họ cũng chẳng
khó. Họ chẳng có nhu cầu xa xỉ ǵ, đúng là “thô trà, đạm phạn”
(trà dở, cơm nhạt). Chánh phủ và nhân dân cũng vui
ḷng cúng dường họ. Họ có cống hiến ǵ
đối với xă hội và quốc gia? Quư vị đọc
bài Ung Chánh Hoàng Đế Thượng Dụ (huấn dụ
của hoàng đế Ung Chánh) sẽ biết, nhà vua đă
viết rất nhiều bài huấn dụ về tôn giáo và
giáo dục. Trong [bản in] kinh Thập Thiện Nghiệp
Đạo, [chúng tôi] có [sao lục] một bài, nguyên văn [của bài ấy] và những phần trích lục [từ những bài
khác] đều được ấn hành. Chư vị hăy
xem nhé! Vua Ung Chánh nói rất hay. Những vị xuất gia
tu tŕ tốt đẹp, hằng ngày hồi hướng cho
quốc gia và xă hội, người ngoại quốc nói là “kỳ đảo” (祈禱, cầu nguyện), chúc phước. Chuyện này có
hiệu quả hay không? Khẳng định là có hiệu quả.
Người thuở trước tin tưởng, người
hiện thời chẳng tin. [Đối với chuyện] “do những lời cầu nguyện,
chúc phước của quư vị, Thượng Đế sẽ
nghe lời quư vị”, họ nẩy sanh hoài nghi! Trên thực
tế, sự kiền thành cầu nguyện và chúc phước
chẳng liên quan ǵ đến Thượng Đế cả! Hiệu
quả là ở chỗ nào? Từ thí nghiệm với nước
của tiến sĩ Giang Bổn Thắng, ta đă có chứng
minh khoa học! Thiện tâm chúc phước, nhất là có rất
nhiều người đồng thời [làm như vậy],
không nhất định là ở cùng một chỗ, mà là
cùng một lúc cầu nguyện, chúc phước, sẽ sanh
ra phản ứng nhất định. Điều khó có là
các nhà khoa học đă chứng minh [chuyện này]. Chuyện
này thuộc về phương diện tinh thần. Trên thực
tế, hành vi của những vị xuất gia ấy
đă nêu gương tốt cho đại chúng trong xă hội,
gương ǵ vậy? “Ư nhân
vô tranh, ư thế vô cầu” (Chẳng
tranh với người, chẳng cầu nơi đời),
khiến cho những người hằng ngày cạnh tranh
trong xă hội sẽ lắng ḷng phản tỉnh đôi
chút. V́ thế, người xuất gia tu hành đúng pháp sẽ có cống
hiến rất lớn đối với xă hội.
Lúc c̣n trẻ, tôi thích đọc
lịch sử. Sách sử của mỗi triều đại
đều có Ẩn Dật Truyện. Trong phần liệt truyện[2],
có một thiên như vậy. Lúc c̣n trẻ, tôi chẳng liễu
giải. Đối với những thiên sách ấy, tôi
thường suy nghĩ, những người ấy có đạo
đức, có học vấn, có năng lực, chẳng ra
làm việc phụng sự xă hội và quốc gia, lại ẩn
cư; v́ sao c̣n viết truyện (viết tiểu sử) về
họ? Những bài truyện ấy được lưu
truyền thiên cổ, họ có công lao, có cống hiến ǵ
đâu? [Ôm ấp] nỗi nghi hoặc ấy nhiều năm
chẳng thể giải quyết được! Về
sau, do học Phật, thân cận thầy Lư, tôi nêu ra chuyện
này: Thưa thầy, con có niềm nghi vấn ấy.
Thầy giải thích, những người đó có công
đức “tiềm di mặc
hóa” (潛移默化, ngấm ngầm biến đổi, chuyển hóa
đại chúng), có ảnh hưởng. Họ có đức
hạnh, có năng lực, có học vấn, có thể ra làm
quan, nhưng họ không làm! Có ai mà chẳng mong tranh giành tiếng
tăm, lợi dưỡng? Họ (những người ẩn
dật ấy) dạy mọi người “chẳng cần
tranh, cuộc sống của tôi thoải mái lắm, tự
tại lắm!” Quư vị nói xem, đức hạnh,
năng lực, và học vấn của tôi chẳng kém quư vị.
Họ đă ban cho đại chúng trong xă hội quan niệm
“chẳng tranh với người,
chẳng cầu nơi đời”. Ai nấy đều
có quan niệm ấy, xă hội sẽ an định, sẽ
ḥa b́nh. V́ thế, họ dấy lên tác dụng rất lớn
đối với sự an định và ḥa b́nh trong xă hội,
[cho nên] các sử gia đă chép truyện kư của họ. Tôi nghĩ [cách
giải thích] ấy rất hợp lư. Những vị ẩn
dật có ảnh hưởng to lớn ngần ấy đối với xă hội, người xuất gia
tu hành sẽ có ảnh hưởng càng to hơn nữa! V́
sao? Họ giáo hóa chúng sanh bằng thân giáo và ngôn giáo, v́ hết
thảy đại chúng cởi gỡ những nghi nan tạp
chứng.
Những chuyện này đều
do Thích Ca Mâu Ni Phật lưu lại. Thuở đức Thế
Tôn tại thế, chư vị biết lăo nhân gia giảng
kinh hơn ba trăm hội, thuyết pháp bốn
mươi chín năm. Quư vị thấy trong Đại Tạng
Kinh có khá nhiều bộ kinh; đó là ǵ? Giống như Học
Phật Vấn Đáp trong hiện thời. Chúng sanh bất
luận là trong cuộc sống hay trong công việc, hễ xử
sự, đăi người tiếp vật gặp khó
khăn, chẳng biết cư xử như thế nào, bèn
gặp Thích Ca Mâu Ni Phật, hướng về Ngài nêu câu hỏi.
Đức Phật sẽ giải đáp. Ngài giải
đáp hợp lư, có phương pháp, làm theo lời đức
Phật sẽ có hiệu quả. Sau khi đức Phật
diệt độ, [những lời dạy ấy]
được ghi chép thành kinh điển. Do vậy, trong Đại
Tạng Kinh có khá nhiều kinh rất ngắn, số chữ
đại khái từ hai ba trăm chữ cho đến mấy
trăm chữ, chẳng vượt quá một
ngàn chữ. [Những kinh như vậy] rất nhiều,
đều nhằm giải đáp các nghi nan tạp chứng.
V́ lẽ này, Tạng Kinh được gọi là Pháp Bảo.
Xă hội hiện thời càng
phức tạp hơn, vấn đề càng nhiều, có thể t́m câu trả
lời trong Đại Tạng Kinh hay không? Có thể chứ!
Bất luận chuyện lớn hay việc nhỏ! Toàn thể
vấn đề xă hội trong hiện thời, cho đến
những vấn đề chánh trị, các vấn đề
về cuộc sống của nhân dân, hay vấn đề
giáo dục, đều có trọn hết! Xă hội hiện
thời xáo động, rối loạn, ḷng người bất
an, làm thế nào để có thể khiến cho xă hội
khôi phục an định, khôi phục ḥa b́nh, hóa giải hết
thảy các xung đột đối lập? Trong kinh Phật
có rất nhiều đạo lư và phương pháp, cao minh
hơn những cách suy nghĩ và thảo luận của các
bậc học giả và chuyên gia trong hiện thời quá nhiều!
Đối với các ư kiến do những vị học giả,
chuyên gia nổi tiếng trên thế giới đề ra
trong hiện thời, chúng ta nghe kỹ, suy nghĩ cặn kẽ,
[sẽ thấy những cách thức ấy] c̣n để
lại hậu quả
[chẳng tốt]. Có nghĩa là
phương pháp tốt đẹp, nhưng c̣n kèm theo tác dụng
phụ, chẳng phải là tận thiện, tận mỹ. Phương pháp của đức Phật
là tận thiện, tận mỹ, là kho báu trí huệ của
nhân loại.
Trí huệ do đâu mà có? Thích
Ca Mâu Ni Phật đă dạy, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo
chúng ta: “Hết thảy chúng sanh
vốn có trí huệ ấy”. Trong phẩm [Như Lai] Xuất
Hiện đă nói rất hay! “Hết
thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng
của Như Lai”. Do vậy, xét về trí huệ, hết
thảy chúng sanh và chư Phật, Bồ Tát b́nh đẳng,
đức năng cũng b́nh đẳng, phước báo
cũng b́nh đẳng. Cớ sao có mười pháp giới
sai biệt quá lớn như vậy? Đức Phật dạy,
“chỉ v́ vọng tưởng,
chấp trước mà chẳng thể chứng đắc”.
Bọn lục đạo phàm phu chúng ta vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước thảy đều trọn
đủ; v́ thế, quư vị chẳng thể chứng
đắc. Quư vị hoàn toàn chẳng đánh mất, [chỉ
là] chẳng thể chứng đắc. Buông xuống chấp
trước, quư vị sẽ chứng đắc chút phần,
trí huệ đă mở mang nhưng chẳng viên măn! Phân biệt
cũng buông xuống, quư vị sẽ chứng nhiều phần,
[sự chứng đắc ấy được gọi
là] Chánh Đẳng Chánh Giác, vẫn chưa phải là viên
măn! Vọng tưởng cũng ắt phải buông
xuống, quư vị sẽ chứng đắc viên măn. Trí huệ
viên măn, đức năng và tướng hảo trong tự
tánh thảy đều hiện tiền. Đức Phật
dùng lời thật
dạy chúng ta, chẳng lừa dối
chúng ta.
Hiện thời, chúng ta rất
tệ hại. Nghe lời Phật dạy, đọc kinh Phật,
[thế mà] vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước chẳng buông xuống. Đấy là ǵ? Học
tṛ chẳng nghe lời. Học khá lắm, chẳng chịu
làm. Do vậy, quư vị chẳng đạt được
lợi ích và công đức thù thắng trong Phật pháp! Lợi
ích và công đức thù thắng là ǵ? Trí huệ, đức
năng, và tướng hảo. Quư vị chẳng hề tăng trưởng, tiến bộ trong ba phương diện ấy! Vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước của quư vị nhẹ
đi, trí huệ và đức tướng sẽ tăng
trưởng, chúng tiêu trừ tăng trưởng lẫn
nhau. Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước
nặng nề, sẽ chẳng có trí huệ
và đức tướng. Nói thật ra, trí huệ và đức
tướng vẫn tồn tại, nhưng đă bị biến
thành phiền năo, tập khí. Phiền năo, tập khí chính là tương
phản của trí huệ và đức tướng. Ngàn
kinh vạn luận, Phật, Tổ chẳng nói ǵ khác, không
ǵ chẳng nhằm khuyên dạy chúng ta buông xuống mà thôi!
“Chẳng
tranh với người, chẳng cầu nơi đời”
chính là buông xuống. Do điều kiện này, học Phật
sẽ hết sức tốt đẹp. Nếu quư vị
c̣n có tranh, c̣n có cầu, sẽ khó khăn lắm! Tại gia
học Phật th́ c̣n được, chứ xuất gia học
Phật sẽ chẳng được. Do vậy, xuất gia học
Phật nhất định phải buông xuống! Trước
kia, thầy chọn lựa học tṛ, sẽ xét xem học tṛ
có thể buông xuống hay không? Có phải là vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước mỗi năm một nhạt mỏng hơn hay không? [Nếu đúng là như thế], đấy
là một đứa học tṛ tốt, là đối tượng
đáng nên tuyển chọn. Có tâm đại từ bi hay không? Có thể bỏ
ḿnh v́ người [hay không]? [Hễ đều có thể], đấy chính là căn tánh Đại Thừa. Căn
tánh Đại Thừa là bỏ ḿnh v́ người, trọn
chẳng so đo cho chính ḿnh, niệm nào cũng đều nghĩ
đến phước lợi của chúng sanh. Kẻ ấy
sẽ tiếp nhận giáo huấn Đại Thừa chẳng
khó khăn!
Xưa kia, [để thanh lọc
những kẻ muốn xuất gia], quốc gia phải tổ chức
thi cử. Những người ấy đều có học,
những khoa mục sát hạch gần như chẳng khác
những khoa thi Cử Nhân hoặc Tiến Sĩ thông thường
cho mấy. Quư vị đă có cơ sở ấy, thật sự
có học thức. Đó là yêu cầu xưa kia của đế
vương đối với người xuất gia. V́
người xuất gia có thân phận và địa vị là thầy, là “thiên nhân
sư” (thầy của trời lẫn người),
được đế vương tôn trọng. Đế
vương muốn đề xướng hiếu thảo
với cha mẹ, tôn trọng thầy. Do vậy, đặc
biệt coi trọng người xuất gia, nói chung, quư vị phải có chút ǵ đó khiến cho họ
kính phục! V́ thế, khi khảo thí, đối với những
thứ học thuật thông thường, gần như chẳng
khác [những đề
mục khảo hạch trong khoa thi] Tiến Sĩ cho mấy. Lại c̣n khảo hạch
các kinh luận Phật giáo. Đương nhiên quư vị là
một người xuất gia, ắt phải thông hiểu
[kinh luận], cho nên phải khảo hạch. Sau khi đă
đạt tiêu chuẩn, chứng thư do hoàng thượng
cấp phát được gọi là “độ điệp” (度牒, giấy chứng nhận thế độ), nay chúng ta gọi là “chứng
thư” (證書). Quư vị đă thi đậu,
cũng giống như là hoàng thượng tiếp nhận
quư vị: “Ông có thể làm thầy của tôi, có thể
giúp tôi giáo hóa đại chúng b́nh phàm trong xă hội”. Lẽ
nào nhà vua chẳng tôn trọng quư vị, [bởi lẽ] chẳng phải là có thể xuất gia tùy tiện
được! Do vậy, xuất gia th́ phải luôn t́m
một nơi [thích hợp]. Ngày hôm qua tôi đă thưa cùng chư vị: Quư vị
phải có duyên với pháp sư, phải có duyên với
đại chúng trong đạo tràng ấy. V́ thế, tối thiểu là quư vị
phải trụ ở đó ba tháng, nửa năm. Thậm
chí có người phải
trụ hai ba năm, đôi bên cư
xử thân thuộc với nhau. Quư vị xin thế độ,
vị thầy ấy nhất định sẽ trước
hết xét văn bằng, chứng thư, độ điệp
của quư vị. Quư vị chẳng có độ điệp,
thầy sẽ chẳng dám cho quư vị xuống tóc. [Cho quư vị] xuống tóc là phạm pháp! Nghiêm ngặt như thế
đó!
Rất bất hạnh là chế
độ quốc gia khảo thí bị vua Thuận Trị
nhà Thanh phế trừ. Nhà vua là hoàng đế đầu
tiên của nhà Thanh, là cha của Khang Hy, vừa mới “nhập quan” (入關, vào Trung Nguyên)[3].
Nhà vua phế trừ v́ hảo tâm. Sau này, có truyền thuyết
chính vua Thuận Trị cũng xuất gia, do đă thấy
thấu suốt hồng trần. Chẳng phải v́ nguyên
nhân ấy, vua xuất gia chẳng có ai cấp độ
điệp cho, nhà vua liền ngay lập tức phế trừ
[quy chế ấy]! Trong Văn Sao, Ấn Quang đại
sư có vài bài phê b́nh chuyện này. Thuở ấy, đó là
chuyện tốt. V́ sao? Người xuất gia thật sự
đều có tŕnh độ ấy, [không khảo thí mà cho
phép xuất gia th́ vẫn được], nhưng di chứng
về sau rất phiền toái. Đến thời hiện tại,
kẻ không biết chữ, chưa từng được
giáo dục, đều xuất gia, cũng được
thế độ, cũng thọ tam đàn đại giới.
Tố chất của người xuất gia đọa lạc
ngàn trượng!
Từ sách cổ, chúng ta
thường thấy: Bậc quư nhân, quan chức hiển đạt, như những người lănh
đạo tại địa phương, Thái Thú thời cổ
tương đương tỉnh thị trưởng
trong hiện thời, hễ gặp những nỗi khó khăn bèn đến thỉnh giáo lăo ḥa thượng
trong chùa miếu trên núi. Những vị xuất gia giống
như cố vấn của họ, xác thực là thật sự
có năng lực. [Các vị ấy] tâm địa thanh tịnh.
Tâm thanh tịnh sanh ra trí huệ, trí huệ mới có thể
giải quyết vấn đề. Quốc gia đại sự
cũng chẳng phải là ngoại lệ, Hoàng Thượng
gặp chuyện khó khăn, cũng hướng về
người xuất gia thỉnh giáo. Do vậy có thể biết,
xưa kia, đạo đức, học vấn, và trí huệ
của người xuất gia xác thực là khiến cho kẻ
khác tôn kính. Đế vương đă tôn kính,
đương nhiên là văn vơ bá quan chẳng có ai không tôn
kính người xuất gia. Các tầng lớp lănh đạo
quốc gia đều tôn kính người xuất gia, dân
chúng b́nh phàm có lẽ nào chẳng tôn kính? Điều này sanh ra hiệu
quả rất lớn đối với sự trị an
trong xă hội.
V́ lẽ ấy, nó xác thực
là giáo dục xă hội, dạy mọi người an phận,
giữ bổn phận, dạy mọi người liễu
giải nhân quả ba đời. Của cải, thông minh,
trí huệ, khỏe mạnh, sống lâu là mục tiêu hâm mộ
và theo đuổi của hết thảy chúng sanh; quư vị
có thể cầu được hay không? Chẳng cầu được!
Những thứ này đă được định sẵn
trong mạng, vận mạng của mỗi cá nhân khác nhau.
Đời trước đă gieo những cái
nhân khác nhau, nếu như đời này hưởng thụ
quả báo giống hệt như nhau, sẽ là chuyện chẳng
thể nào thực hiện được! Chuyện ấy thật
sự trái nghịch định luật nhân quả, trái nghịch
Tánh Đức, há có lẽ ấy? Khẳng định là sẽ
sanh ra những chuyện rối loạn! Phải làm như
thế nào th́ mới thỏa măn mong cầu và ước
nguyện của đại chúng? Nhà Phật có phương
pháp, dạy quư vị tu nhân. Của cải là quả báo,
nhân [của nó] là ǵ? Thông minh, trí huệ là quả báo, nhân là ǵ?
Khỏe mạnh, sống lâu cũng là quả báo, nhân là ǵ? Dạy
quư vị tu nhân. Đă có nhân rồi th́ sau đấy sẽ có quả!
Hiện thời, các vị
thấy chuyện đề xướng Liễu Phàm Tứ
Huấn trong những năm vừa qua cũng có một ít hiệu
quả, người xem rất nhiều. Hiện thời, Du
Tịnh Ư Công Ngộ Táo Thần Kư cũng bắt đầu
lưu thông. Đấy chính là nhằm dạy quư vị, quư
vị mong cầu ba thứ ấy, hăy xem người ta cầu
như thế nào? “Trong cửa
nhà Phật, có cầu ắt ứng”. Chẳng phải là không cầu
được! Cầu đúng lư, đúng pháp, th́ quư vị
mới có thể cầu được. Nếu sự mong
cầu của quư vị trái nghịch lư luận, mà cũng
trái nghịch phương pháp, làm sao quư vị cầu cho
được? Quư vị sẽ tự chuốc lấy khổ!
Quư vị thật sự hiểu những điều này th́
mới thấu hiểu chỗ tốt đẹp trong giáo dục
tôn giáo. Xưa nay, trong ngoài nước, con người rất
khó thoát khỏi giáo dục tôn giáo. Giáo dục tôn giáo thật
sự có thể đem lại cuộc sống hạnh phúc,
thỏa măn ḷng mong cầu, thỏa măn những mong cầu của quư vị. Nếu chẳng có những điều
tốt đẹp ấy, lẽ đâu chúng ta đi theo con đường
này? Cụ Phương Đông Mỹ đă giới thiệu
với tôi: “Học Phật là sự
hưởng thụ cao nhất trong đời người”. Tôi rất hâm mộ câu nói ấy, sự hưởng thụ
cao nhất trong đời người! Tôi bèn hạ quyết
tâm đi theo con đường ấy!
“Thoát
khứ tục phục” (Cởi bỏ y phục thế tục)
chính là đổi sang áo ca-sa, bèn phát nguyện: “Đương nguyện chúng sanh,
cần tu thiện căn, xả chư tội ách” (Nguyện
cho chúng sanh, siêng tu căn lành, bỏ các tội ách). Đấy
chính là quư vị thật sự phát tâm xuất gia làm đệ
tử Như Lai. Việc đầu tiên cần làm chính là
quư vị phải buông xuống những tội nghiệp. Tội
nghiệp ǵ vậy? Thập Ác, tức giết, trộm, dâm, nói dối, nói
đôi chiều, ác khẩu, nói thêu dệt, tham, sân, si. “Xả chư tội ách” là nói
đến những thứ ấy. “Cần tu thiện căn” (Siêng tu thiện
căn) là tương phản với Thập Ác, tức Thập Thiện. Do vậy,
hai câu này chính là kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo.
Từ kinh Thập Thiện Nghiệp
Đạo, chúng ta thấy đức Phật nói Thập
Thiện Nghiệp Đạo là Thanh Văn Bồ Đề.
Bồ Đề (Bodhi) là tiếng Ấn Độ, có
nghĩa là “giác ngộ”. Sự giác ngộ của A La Hán, sự giác ngộ của
Bích Chi Phật và sự giác ngộ của Bồ Tát được
kinh ấy [lần lượt] gọi là Thanh Văn Bồ Đề, Duyên Giác Bồ
Đề, cho đến Vô Thượng Bồ Đề, tức
là sự giác ngộ của Phật, Bồ Tát. Sau
đó, c̣n có một câu “năi chí
nhân thiên pháp” (cho đến pháp nhân thiên). Quư vị làm
như thế nào để đời sau chẳng mất
thân người, hoặc là đời sau có thể sanh lên
trời, thảy đều dùng những điều này làm
cơ sở. Nếu chúng ta không tu Thập Thiện, khởi
tâm động niệm, ngôn ngữ, và tạo tác sẽ
tương ứng với Thập Ác, quư vị biết là
đời sau sẽ chẳng có phần nơi nhân đạo!
Chẳng có phần trong loài người, sẽ đến
nơi đâu? Ngạ quỷ, địa ngục, súc sanh,
đến những chỗ đó, tức ba ác đạo.
Bản thân chúng ta phát tâm xuất
gia, nguyện vọng là ǵ? Trong phần trước đă
nói, chẳng phải là nói “ta thoát khỏi điền trạch
gia”. Chẳng phải là nói về điều ấy, [mà là]
chúng ta phải thoát khỏi phiền năo gia. Thập Ác là phiền
năo. Phải cởi gỡ thứ ấy, phải thoát khỏi
tam giới gia, phải thoát khỏi vô minh gia, đó là
đúng. Hoằng nguyện như vậy được thực
hiện từ chỗ nào? Thực hiện từ Thập
Thiện Nghiệp Đạo. V́ thế, theo nghi thức, trước
khi thế độ (剃度, xuống tóc), phải cử hành Tam Quy Y. Khi thế
độ, trước khi thọ giới, cũng phải
cử hành Tam Quy Y. Trước khi thọ giới Sa Di,
cũng phải cử hành Tam Quy Y. Trước khi thọ giới
tỳ-kheo, thọ Bồ Tát Giới, thảy đều phải
cử hành Tam Quy Y. Những điều này đều đă
chỉ rơ Tam Quy Y là tổng cương lănh, tức là tổng
cương lănh và tổng nguyên tắc trong học tập.
Tam Quy được gọi là Phiên Tà Tam Quy (翻邪三皈, Tam Quy nhằm chuyển đổi tà vạy). Thập
Ác là tà, Thập Thiện là chánh, chuyển tà về chánh. Nếu
quư vị chẳng thể buông xuống Thập Ác, làm sao có
thể thành tựu cho được? Bất luận quư vị
tu học trong Phật pháp như thế nào đi nữa! Nếu
nói theo cách hiện thời, [sự tu hành ấy] thuộc loại
Phật học, chẳng phải là học Phật.
Đối với Phật học,
trước kia, thầy Lư thường bảo chúng tôi: “Quư
vị đạt được mấy chục học vị
Tiến Sĩ Phật học, trong tương lai, khi chết,
đáng chết như thế nào th́ vẫn chết y hệt như thế ấy, vô dụng! Những thứ ấy
là giả, chẳng thật!” V́ thế, nếu phát tâm học Phật, nhất định phải học
giống như Thích Ca Mâu Ni Phật. Chẳng thể giống
hoàn toàn, cũng phải là chẳng sai kém cho lắm th́ mới
được. Học giống như Ngài, quư vị sẽ
thành Phật. Học chẳng sai khác cho mấy, quư vị sẽ
thành Bồ Tát, hoặc thành A La Hán. Đấy là sai kém chẳng
nhiều cho lắm! Chớ nên không hiểu đạo lư này.
Phải hiểu rơ ràng, hiểu minh bạch sự thật
này, hăy thật sự hành!
Đối với các vấn
đề trong hiện tại, chúng ta phải nghiêm túc phản
tỉnh, tư duy. V́ sao chẳng làm được Thập
Thiện? Đối với chúng ta mà nói, Thập Thiện rất
ơ hờ, Thập Ác quá thân thuộc! Trong đời quá khứ, tuy có thiện căn, nhưng
trong xă hội hiện thời, duyên bên ngoài chẳng tốt
đẹp. Duyên là ǵ? Hết thảy các duyên, những ǵ quư
vị đă thấy, đă nghe, đă đón nhận, đă
tiếp xúc, thảy đều lôi kéo, dẫn dắt chủng
tử của mười ác nghiệp trong A Lại Da Thức,
khiến cho quư vị dấy lên tham, sân, si, mạn, khiến
cho quư vị tạo giết, trộm, dâm, dối. Nay chúng ta
gặp phải
hoàn cảnh như thế đó, gần như chẳng có hoàn cảnh chánh đáng, hoàn cảnh
tốt lành! Nửa thế kỷ trước c̣n có đôi
chút, hiện thời hoàn toàn chẳng có!
Những năm xưa, chúng
tôi ngồi máy bay. Trên máy bay có tạp chí,
tôi ngồi trên những chiếc máy bay mới khá nhiều.
Trong tạp chí c̣n có một, hai bài văn hay, thuộc loại
đàng hoàng có thể xem được. Trong thời gian gần
đây nhất, trong tạp chí chẳng hề có [những
bài như vậy]. Do vậy, khi đi máy bay, chúng tôi cầm
theo kinh điển để xem. Nhật báo, tạp chí, radio,
TV toàn là ô nhiễm, chúng khuyên quư vị làm ǵ? Khuyên quư vị
làm chuyện giết, trộm, dâm, dối. Có một lần tôi thấy một quảng cáo trên báo, đăng trọn
cả trang. Toàn thể trang báo là một quảng cáo. Nội
dung là ǵ? “Tham lam là chánh xác”!
Họ viết một câu như thế đó! Nói cách khác,
tham lam chẳng có tội! Tham lam là chuyện tốt, con
người phải nên có tâm tham. Do tâm tham mới có thể
thúc đẩy kinh tế tăng trưởng. Nếu con
người chẳng có ḷng tham, xác thực là kinh tế chẳng
thể tăng trưởng! V́ tăng trưởng kinh tế
mà cổ vũ, khích lệ ḷng tham của hết thảy mọi
người! Đáng ngán thay! Nói theo Phật pháp, tâm tham
đọa ngạ quỷ. Nói cách khác, cổ vũ, khích lệ
mọi người trong tương lai đều vào quỷ
đạo, chuyện là như vậy đó!
Chúng ta có mong tương lai
thành quỷ hay chăng? Loài người rất khổ,
nhưng thành quỷ c̣n khổ hơn làm người nữa!
Khổ hơn quỷ là địa ngục. [Đọa]
địa ngục là do sân khuể và sát hại. Đấy
là nghiệp nhân của địa ngục. Giết, trộm,
dâm, dối nghiêm trọng, sẽ là nghiệp
nhân của địa ngục. Trong kinh, đức Phật
đă nói rất nhiều, “tài, sắc, danh, thực, thùy, địa ngục ngũ
điều căn” (tài, sắc, danh vọng, ăn uống,
ngủ nghê là năm cái rễ của địa ngục). Nếu
quư vị dấy ḷng tham nghiêm trọng đối với
ngũ dục, dốc trọn sức truy cầu, chẳng nề hà thủ đoạn, chắc chắn là quư vị
sẽ tạo nghiệp đi vào địa ngục! Thân
người khó được, Phật pháp khó nghe, cớ
sao trong một đời ngắn ngủi như thế này,
lại tạo tội nghiệp nặng nề dường
ấy? Đúng là “thiên
đường có nẻo, v́ sao không đi? Địa ngục
chẳng có cửa, sao cứ liều mạng rúc vào?”
Đấy chính là điên đảo! Trong kinh, đức Phật
thường gọi hạng người ấy là “kẻ đáng thương xót”!
Phật, Bồ Tát thấy vậy,
tâm từ bi tràn trề nẩy sanh, luôn mong giúp họ, khuyên
họ quay đầu. Trong quá khứ, nhiều người
tiếp nhận, [cho nên] có nhiều người quay đầu.
Trong thời đại hiện tại, người tiếp
nhận rất ít. Họ tin tưởng khoa học, chẳng
tin nhân quả, chẳng tin có ba đời, [cứ ngỡ] “con người chỉ có một đời này, hễ
chết rồi th́ thứ ǵ cũng chẳng c̣n nữa. Nếu chẳng
ráo riết truy cầu khoái lạc trong một đời
này, chẳng phải là đă uổng phí một đời
ư?” Tà tri tà kiến! Tri kiến sai lầm, cách nghĩ và cách
nh́n sai lầm, lầm lạc một đời, đánh mất
cơ duyên đắc độ trong một đời! Quư
vị nói xem có đáng tiếc hay chăng?
Hai mươi năm trước,
tôi hoằng pháp tại Mỹ, các đồng học đều
hết sức tốt đẹp. Họ đă sưu tập
những tin tức liên
quan đến nhân quả báo ứng và
luân hồi tại Âu Mỹ cho tôi xem. Họ bảo tôi: “Người ngoại quốc hiện thời
cũng tin. Nhưng người tin
tưởng vẫn là thiểu số, chẳng phải là
đa số”. Họ đưa cho tôi một tấm bản
đồ do một nhà tiên tri vẽ ra, họ đưa cho tôi xem! Tận thế! Tận thế sẽ phát sanh vào năm nào? Năm 1999 cho đến năm 2000.
Nghe nói hiện thời tấm bản đồ ấy chẳng
c̣n bán, v́ năm 2000 đă qua rồi, mọi người chẳng
tin có chuyện này! Trong
tay tôi có một tấm cũng tặng
cho người khác, nhưng các đồng học có làm lại
một tấm cho tôi, nay chúng tôi đặt ở tầng
mười. Hễ chư vị lên đó, sẽ trông thấy.
Có thể [tận thế] hay không? Nếu quư vị thật
sự tin tưởng “y báo chuyển
theo chánh báo” như kinh luận đă dạy, quư vị sẽ
tin tưởng!
V́ sao thế giới này biến
thành t́nh trạng như vậy? Do ḷng người! Ḷng
người đều có thể “siêng tu thiện căn, bỏ các tội ách”, thế giới này sẽ dần
dần biến thành thế giới Cực Lạc, biến
thành thế giới Hoa Tạng. Nếu ḷng người chẳng
biết tu thiện căn, chẳng biết tu Thập Thiện,
vẫn không ngừng tiếp tục tạo tác mười
ác nghiệp; đă thế, mười ác nghiệp mỗi
năm một tăng trưởng, tấm bản đồ
ấy sẽ có thể là thật, chẳng giả! Do vậy,
chúng tôi đặt nó ở nơi đây, khiến cho các
đồng học trông thấy, mọi người đều
cảnh giác. Bản đồ ấy chẳng phải do
người Hoa vẽ, mà là do người ngoại quốc
vẽ.
Trong lời nguyện “thoát khứ tục phục”
này, đă dùng chữ Tục (俗) để
tỷ dụ sự ô nhiễm trong thế gian. Bản thân
chúng ta phải giác ngộ, nguyện cho lục đạo
chúng sanh trong hết thảy các cơi Phật khắp pháp giới
hư không giới thảy đều có thể giác ngộ,
tu thiện, đoạn ác, phải buông xuống những
điều ác ấy. Thay đổi, trừ bỏ “tục phục” (俗服, y phục thế tục), tức là buông xuống quần
áo thế tục, khoác áo ca-sa. Ca-sa biểu thị Thập
Thiện, nguyện vọng là như thế đó. Chúng ta hằng
ngày lúc mặc quần áo, cởi quần áo, đều
phải nghĩ đến nguyện này. Cởi ra, nhất
định phải buông tội nghiệt xuống. Mặc
vào, nhất định phải siêng tu thiện pháp. A! Nay
đă hết thời gian rồi!
***
Chư vị đồng học,
xin hăy ngồi xuống. Chúng ta xem bài kệ tiếp theo là
bài kệ thứ sáu.
(Kinh) Thế trừ
tu phát, đương nguyện chúng sanh, vĩnh ly phiền
năo, cứu cánh tịch diệt.
(經)剃除鬚髮。當願眾生。永離煩惱。究竟寂滅。
(Kinh: Cạo bỏ râu tóc, nguyện cho
chúng sanh, măi ĺa phiền năo, rốt ráo tịch diệt).
Người thế tục gọi
râu ria, đầu tóc là “phiền
năo ty” (煩惱絲, tơ phiền năo). Nói kiểu ấy, cũng bao hàm ư nghĩa hết sức sâu xa, nói rơ: Người
sống trên đời, tập khí phiền năo nhiều, dày
rậm như râu tóc. Theo quy chế nhà Phật, h́nh tượng
xuất gia cũng nhằm biểu thị pháp. Phải hiểu
ư nghĩa này. Trước hết là phải cạo bỏ
râu tóc, nhằm biểu thị [ư nghĩa trong] hai câu kế
tiếp: “Vĩnh ly phiền
năo, cứu cánh tịch diệt” (Vĩnh viễn
ĺa phiền năo, rốt ráo tịch diệt), biểu thị
ư nghĩa ấy. Do đó, trong giới kinh, đức Phật
dạy các đệ tử hằng ngày sáng tối phải
sờ đầu. Sờ đầu có ư nghĩa ǵ? [Xét xem]
những thứ phiền năo, ưu lự, vướng mắc
ta có buông xuống hay không? Sự biểu thị pháp về
mặt h́nh tượng nhằm nói lên ư nghĩa này. Trong và
ngoài phải như một, có thật sự buông xuống hay không? Biểu thị
ư nghĩa ấy!
Người xuất gia tại
Trung Hoa trừ chuyện ấy ra, trên đỉnh đầu
c̣n “nhiên hương” (燃香, đốt hương). Vào thời cổ, thông
thường là đốt mười hai lọn
hương. “Mười hai”
là một con số biểu thị sự viên măn. Tôi thọ
giới ở Đài Loan thuộc vùng nhiệt đới,
đối với khí hậu nhiệt đới mà đốt
mười hai lọn hương, sợ có hại cho thân thể. Những
vị lăo ḥa thượng cùng nhau thương lượng:
Hương vẫn phải đốt, nhưng đốt
ba lọn. Do vậy, chúng tôi đốt ba lọn
hương. Nhưng cũng có người đốt sáu lọn,
chín lọn, mười hai lọn, tùy thuộc ư nguyện của mỗi người. Tại
Đài Loan, đốt ba lọn chiếm đại đa số, đốt
chín lọn hoặc mười hai lọn tuy có, nhưng là thiểu số.
Tôi được Chương Gia đại sư giáo huấn,
v́ Tạng truyền Phật giáo (Phật giáo theo truyền
thống Tây Tạng) không “nhiên hương” (đốt hương trên đỉnh đầu
khi thọ giới). “Nhiên
hương” là quy củ đặc
biệt tại Trung Hoa, giống như ăn chay vậy. Phật
giáo trên toàn thế giới chẳng ăn chay, chỉ riêng
Trung Hoa là ăn chay. Trung Hoa ăn chay, đốt
hương, Phật giáo ở ngoại quốc chẳng có! [Những
chuyện ấy] toàn là biểu thị pháp.
Trong kinh Phật, đức Phật
thường bảo: “Nhiên thiêu
tự kỷ, chiếu diệu biệt nhân” (Đốt
cháy chính ḿnh, rọi sáng người khác). Nói theo kiểu hiện
thời, câu này có ư nghĩa “v́
xă hội, v́ đại chúng mà hy sinh, hiến dâng”. Chẳng
phải là quư vị thật sự đốt hương.
Thật sự đốt cháy rụi thân thể, quư vị lấy
ǵ để phục vụ xă hội? Đấy là một
công cụ. Đốt hương mang ư nghĩa này. Công cụ
này không v́ chính ḿnh, mà phải v́ hết thảy chúng sanh, phải
v́ xă hội, thực hiện chuyện “bỏ ḿnh v́ người, hy sinh hiến dâng”, có ư nghĩa như thế đó! Ư nghĩa này hay
lắm, viên măn lắm! Các vị đại
đức Trung Hoa cảm nhận điều này rất
sâu, sợ chính ḿnh sẽ quên bẵng lời giáo huấn trọng
yếu của đức Thế Tôn, bèn thật sự
đốt mấy lọn hương trên đỉnh đầu, khiến
cho quư vị hằng ngày trông thấy, tự nhắc nhở
chính ḿnh: Chúng ta phát nguyện thiêu đốt thân thể nhằm
cúng dường chúng sanh. Quư vị đă phát nguyện ấy
th́ phải thực hiện. Chọn lựa ăn chay chính
là thật sự thực hiện “không sát sanh” rốt ráo
viên măn, chẳng ăn thịt chúng sanh. Nếu đối với
chúng sanh c̣n có tâm oán hận, c̣n có tâm gây tổn hại, quư vị
đă sai mất rồi, quư vị đă uổng công ăn
chay!
Mọi sự mọi vật
chẳng có chuyện ǵ không có ư nghĩa biểu thị pháp
trong ấy. Nếu quư vị hiểu sự biểu thị
pháp được nói trong Phật môn, quư vị mới thật
sự hiểu Đại Phương Quảng Phật Hoa
Nghiêm Kinh là ǵ? Trong các buổi giảng, chúng tôi cũng đă nói [điều này] bao nhiêu lượt! Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh ở nơi đâu? Chẳng phải là
trong kinh bổn, mà là vạn sự vạn vật được
bao hàm trong vũ trụ hiện thực. Đấy là chân
tướng của Đại Phương Quảng Phật
Hoa Nghiêm Kinh. Những hiện tướng (現相, tướng được biến hiện) ấy
thiên biến vạn hóa; v́ sao có thể thiên biến vạn
hóa? Kinh Lăng Nghiêm đă dạy: “Tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng” (Thuận
theo tâm chúng sanh mà ứng với khả năng lănh hội của
họ). Chư Phật, Bồ Tát ứng hóa như thế,
mà tất cả hết thảy phàm phu chúng sanh sống trong
thiên nhiên cũng là như thế! Tâm chúng sanh tốt lành, sẽ mưa ḥa, gió thuận, quốc thái dân an, cảm
ứng đấy mà! Hoàn cảnh chuyển biến theo ḷng
người. Tâm chúng sanh bất thiện, thiên tai, nhân họa
sẽ liên tiếp xảy ra. Đạo lư là như thế
đó. Do vậy, có thể chuyển biến hoàn cảnh kém
hèn hay không? Có thể chuyển! Mỗi người đều
có thể chuyển hoàn cảnh của chính ḿnh. Nhiều người
th́ sẽ có thể chuyển hoàn cảnh thế giới.
Hiện thời, xă hội
nói đến chuyện “bảo
vệ môi trường”. Điều này trọng yếu
lắm! Ba mươi năm trước, tôi đến Hương
Cảng để giảng kinh; thuở ấy, rất hiếm
nghe nói đến hai chữ “hoàn
bảo” (環保, bảo vệ môi trường). Chẳng nghe nói tới!
Bảo vệ môi trường là chừng hai mươi
năm gần đây mới có. Hiện thời, nó ngày càng
được đại chúng trong xă hội coi trọng. V́
sao? Hoàn cảnh ô nhiễm quá nghiêm trọng. Ba mươi năm
trước tuy có ô nhiễm, vẫn chẳng rơ ràng; hiện
thời quá hiển nhiên, ai nấy đều cảm nhận
được. V́ thế, bảo vệ môi trường hết
sức quan trọng. Có phương pháp nào để có thể
thật sự thực hiện tốt đẹp hay không? Rất
khó! Bất luận dùng phương pháp ǵ để bảo
vệ hoàn cảnh, sẽ luôn luôn có thói tệ nẩy sanh! Làm
như thế nào để có thể thực hiện tốt
đẹp chuyện bảo vệ môi trường? Quư vị
thấy trong kinh đức Phật dạy chúng ta, vừa đơn
giản, vừa dễ hiểu, lại triệt để,
thật sự có hiệu quả! Đức Phật dạy
nguyên lư “cảnh chuyển theo
tâm”, hoàn cảnh chuyển theo ḷng người, tâm tịnh,
ắt cơi Phật tịnh!
Núi, sông, đại địa
trong hiện thời là cơi Phật. Thế giới Sa Bà này
là khu vực giáo hóa của Thích Ca Mâu Ni Phật, Ngài giáo hóa
chúng sanh trong lănh thổ ấy. Thích Ca Mâu Ni Phật có chết
hay không? Chẳng hề có! Ngài ở nơi đâu? Không ở
trên quả địa cầu này, Ngài ở tinh cầu khác,
sang nơi khác. Khu vực giáo hóa quá lớn. Khu vực giáo
hóa là tam thiên đại thiên thế giới. Trước
kia, khi chúng tôi mới học Phật, cứ tưởng một
đơn vị thế giới là một Thái Dương Hệ.
Nói chung là khó hiểu rơ ràng đơn vị thế giới
như kinh Phật đă nói [là như thế nào]. Lần
đầu tiên, tôi về Bắc Kinh, đến thăm truyền
nhân của lăo cư sĩ Hạ Liên Cư, học tṛ của
cụ Hạ là lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, chúng tôi gặp
nhau hết sức hoan hỷ! Chúng tôi có nhân duyên về mặt
pháp mạch. Thầy của cụ là ngài Hạ Liên Cư,
thầy của tôi là ngài Lư Bỉnh Nam. Sư phụ của thầy Lư cũng là một vị cư sĩ tại gia, tức cụ Mai Quang Hy. Cụ Mai Quang Hy và cụ Hạ Liên Cư là sư
huynh, sư đệ, là đồng tham đạo hữu
hết sức thân thiết. Cụ Hoàng Niệm Tổ là học
tṛ của cụ Hạ Liên Cư, ngang vai vế với thầy
tôi. Nói theo Phật môn, cụ có vai vế cao hơn tôi một
bậc, tuổi tác th́ đại khái cũng chỉ lớn
hơn tôi mười tuổi. Chúng tôi đều cùng truyền
thừa kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ. Vào thời
gian ấy, ở hải ngoại chỉ có ḿnh tôi giảng
[kinh Vô Lượng Thọ], trong nước Trung Hoa, chỉ
có ḿnh cụ giảng. Kể như hai người chúng tôi
cụng đầu nhau!
Nói đến đại
thiên thế giới, cụ Hoàng bảo tôi: Một
đơn vị thế giới như kinh Phật đă
nói chẳng phải là một Thái Dương Hệ. Tôi hỏi
“vậy là ǵ”? Cụ đáp: “Hệ Ngân Hà”. Tôi suy nghĩ thấy
rất hữu lư. Tôi thưa: “Vậy th́ quá to!” Một đại
thiên thế giới có bao nhiêu hệ Ngân Hà? Mười ức!
Mười ức hệ Ngân Hà đấy nhé, [hợp thành]
khu vực giáo hóa của Thích Ca Mâu Ni Phật. Đức Phật
ở chỗ nào? Đúng như đă nói “thiên xứ kỳ cầu, thiên xứ ứng” (ngàn
chỗ nguyện cầu, ngàn chỗ ứng). Đức Phật
ở chỗ nào? Phật chẳng có thân tướng. Phật
là Pháp Tánh, tức Chân Như bản tánh, chẳng có h́nh tướng. Thưa
cùng chư vị, Phật chẳng phải là vật chất,
mà cũng chẳng phải là tinh thần, nhưng Ngài có thể
cảm ứng đạo giao với hết thảy chúng sanh.
Chúng sanh có cảm, Ngài bèn có ứng. Đáng nên hiện thân
ǵ để đắc
độ, Ngài bèn hiện thân ấy. V́ thế,
đức Phật hiện thân thuyết pháp trong thế
gian này, đă nêu một tấm gương tốt nhất
cho chúng ta. Suốt đời tu hành và giáo học
đều nhằm nêu gương cho chúng ta thấy, mong
chúng ta sẽ học tập theo Ngài!
Hiểu sự biểu thị
pháp, [sẽ nhận biết] khắp pháp giới hư không
giới là một bộ Đại Phương Quảng Phật
Hoa Nghiêm Kinh thật sự, không chỉ là đại thiên thế
giới. Đại thiên thế giới như [đă
được diễn tả] trong phẩm Thế Giới
Thành Tựu và phẩm Hoa Tạng Thế Giới chỉ là
một tí xíu. Trong pháp giới hư không giới, có vô lượng
vô biên khu vực giáo hóa giống như vậy, chẳng có
cách nào tưởng tượng, mà cũng chẳng ai có thể
diễn tả được! Quư vị thấy vũ trụ
to cỡ nào! Đức Phật dạy: Đấy chính là bản
tánh, là chân tâm của chúng ta. Hễ giác ngộ, tất cả
các cảnh giới đều là cơi nước Phật. Do đă mê nên mới
có tam đồ, lục đạo, mười pháp giới.
Phật và chúng sanh chẳng có sai biệt, sai biệt là do giác
hay mê.
Đức Phật lập
bày đủ mọi chuyện v́ nhằm một sự: Giúp
chúng ta phá mê khai ngộ. Ngoài chuyện ấy ra, chẳng có
pháp nào để có thể được! V́ thế, chúng
ta phải hiểu nghĩa thú của sự biểu thị
pháp trong hết thảy các pháp. Nếu quư vị thật sự
hiểu, thật sự giác ngộ, sẽ như Thiền
Tông đă nói: “Đầu đầu
thị đạo, tả hữu phùng nguyên” (Chuyện
ǵ cũng là đạo, ở nơi đâu cũng dễ
dàng thấu hiểu cội nguồn), sẽ nhập cảnh
giới ấy. “Đạo”
(道) chính là Bồ Đề đại đạo, “nguyên” (源) là Chân
Như tự tánh. Lấy bất cứ một pháp nào, có
pháp nào chẳng phải là [tự tánh]? Đúng thế! Pháp
nào cũng đều viên măn, cảnh giới chẳng thể
nghĩ bàn! Trong các buổi giảng, [chúng tôi] thường xuyên nêu
lên điều này. V́ sao phải thường nêu lên? Chúng ta
chẳng khế nhập; do vậy, phải thường nêu
ra, thường xuyên nói đến, hy vọng mọi
người được nghe nhiều lượt. Do nghe nhiều, sẽ dần dần huân tập thành một
loại chủng tử. Chủng tử ấy sẽ sanh ra
sức mạnh; trong cuộc sống hằng ngày, khi sáu
căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần, nó có thể dấy
lên tác dụng. Do dấy lên tác dụng, sẽ chẳng mê!
“Chẳng mê” là ǵ? Quư vị chẳng
c̣n phân biệt, chẳng c̣n chấp trước, chẳng
c̣n khởi tâm động niệm nữa. Đấy là
thành tựu, đấy chính là “cứu
cánh tịch diệt”, là “vĩnh
ly phiền năo” (vĩnh viễn ĺa phiền năo). Râu ria, đầu tóc làm sao có thể
sánh ví số lượng phiền năo cho được? Xét
tới cùng, râu ria, tóc tai rất hữu hạn, phiền
năo có số lượng vô lượng vô biên. Kinh Phật
nói “tám vạn bốn ngàn phiền
năo”. Đức Phật thật sự nói ra tám vạn bốn
ngàn, chẳng phải là nói tùy tiện, chẳng phải nói
theo kiểu h́nh dung, đức Phật xác thực nói tám vạn
bốn ngàn. Thế nhưng, tám vạn bốn ngàn vẫn là
một con số cố định. Trên thực tế, “phiền năo vô tận thệ nguyện
đoạn” như đă nói trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện
mới là lời chân thật! V́ thế, dùng “thế trừ tu phát” (cạo bỏ râu tóc) nhằm
biểu thị quư vị đă hạ quyết tâm, vĩnh
viễn ĺa phiền năo.
Có quyết tâm ĺa phiền năo
như vậy, và cũng có nguyện vọng nhất tâm nhất
ư theo đuổi sự tịch diệt rốt ráo. “Cứu cánh tịch diệt” (tịch
diệt rốt ráo) chính là quả địa Như Lai. “Diệt” (滅) là diệt phiền năo, “tịch”
(寂) là thanh tịnh. Đấy là ǵ? Đấy chính là
h́nh trạng của chân tâm. Dùng hai chữ ấy để h́nh
dung chân tâm, h́nh dung bản tánh. Bản tánh là thanh tịnh tịch
diệt. “Diệt” là trong tâm
tánh chẳng có ǵ cả, đúng như Lục Tổ đă
nói trong Đàn Kinh: “Bổn lai
vô nhất vật” (Vốn chẳng có một vật). Đó là Diệt! Vốn
chẳng có một vật. Cái tướng sau khi đă diệt
được h́nh dung bằng chữ Tịch, tịch tịnh.
“Tịnh” là chữ Tịnh
trong “thanh tịnh”, [nên gọi
là] “tịch tịnh” (寂淨). Chúng ta thường nói cái Tịnh ấy (nói khá
thông tục) là “chẳng khởi
tâm, không động niệm”, vào lúc nào? Ngay trong hiện
tiền. Sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần, mắt
thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi
hương, đối với cảnh giới bên ngoài, xác
thực là chẳng có khởi tâm động niệm. Cảnh
giới ấy chính là tịch diệt rốt ráo!
Chúng ta có [cảnh giới tịch
diệt rốt ráo ấy] hay không? Có chứ! [Tuy] chúng ta có,
hiện thời th́ sao? Chẳng chú ư! Quư vị từ nhà
đến đạo tràng, đă đi qua rất nhiều
thứ. Tôi hỏi quư vị nhé: “Trên đường đi,
quư vị đă thấy ǵ?” “Chẳng thấy, không chú ư! Cứ
một mực đi
thẳng tới đây”. Trên đường
có rất nhiều cảnh giới, chẳng chú ư. Đó là đă
mấp mé tịch diệt rốt ráo rồi đấy! Có
ai đó hỏi quư vị, ngay lập tức quư vị sẽ
khởi tâm động niệm, thanh tịch tịch diệt
lập tức chẳng c̣n nữa! V́ thế, trong cuộc sống
hằng ngày, chẳng phải là bọn phàm phu chúng ta không
có, thường xuyên có, nhưng thời gian [tịch diệt
thanh tịnh] quá ngắn. Hễ khởi tâm động niệm,
tướng tịch diệt ấy chẳng c̣n nữa! Chẳng
khởi tâm, không động niệm, cảnh giới ấy
sẽ hiện tiền.
Do vậy, chư vị phải
biết: Khi quư vị ngủ nghê vào buổi tối, nếu
đă nhập cảnh giới ấy, chẳng khởi tâm, không động
niệm, chắc chắn sẽ không nằm
mộng, sẽ chẳng có mộng cảnh. Nếu c̣n nằm
mộng, tức là khi quư vị đang ngủ, ư thức vẫn
khởi tâm động niệm, ư thức sẽ lôi kéo, dính dáng năm thức trước. Như vậy th́ sẽ
biến thành cảnh trong mộng. Cảnh trong mộng là do
quư vị đang nằm ngủ, mắt, tai, mũi, lưỡi
đều nghỉ ngơi, thân thể nghỉ ngơi,
nhưng vọng tưởng, phân biệt, chấp trước
của quư vị chẳng chịu nghỉ, chúng vẫn tiếp
tục hoạt động. Tôi nghĩ rất nhiều
đồng học có kinh nghiệm về chân tướng sự
thật này! Hễ có hiện tượng ấy, [sẽ là]
chúng sanh trong lục đạo. Lại thưa cùng chư vị,
trong lục đạo, chúng sanh trong Dục Giới có tập
khí phiền năo nặng nề ngần ấy! Sắc Giới
và Vô Sắc Giới đều cao minh hơn chúng ta. Sắc Giới
và Vô Sắc Giới có công phu định lực. Công phu
định lực dấy lên tác dụng, họ đă buông xuống
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Bất
quá sự “buông xuống” ấy chính là tạm thời buông xuống,
chẳng phải là buông xuống vĩnh hằng. Hễ
buông xuống vĩnh hằng, họ sẽ thành Phật,
thành Pháp Thân Bồ Tát, [chúng sanh trong Sắc Giới và Vô Sắc
Giới chỉ] tạm thời buông xuống! Đối với thứ tự
trong tầng cấp tu học của chúng ta, nhất định
là trước hết sẽ tạm thời buông xuống.
Thời gian “tạm thời”
ấy phải càng ngày càng dài, công phu định lực của quư vị
phải càng ngày càng sâu, trí huệ phải không ngừng tăng
trưởng. Chẳng có trí huệ, sẽ không được!
Chẳng có trí huệ, công phu Định lực ấy sẽ
chẳng phải là rốt ráo. V́ thế, trong ấy nhất
định phải có trí huệ, Định Huệ đẳng
học (Định và Huệ học cân bằng). Lúc mới
học, chuyện này nhằm tiếp dẫn sơ cơ. Kẻ
sơ học chẳng thể ĺa khỏi kinh giáo. Sau khi
đă khế nhập cảnh giới, chẳng cần kinh
giáo nữa. Kinh giáo là ǵ? Vạn sự vạn vật trong
khắp pháp giới hư không giới đều là kinh giáo.
Đấy chính là như kinh Lăng Nghiêm đă dạy: “Nếu có thể chuyển vật,
ắt sẽ giống như Như Lai”.
V́ thế, đă đạt
đến địa vị Pháp Thân Bồ Tát, các Ngài dùng
công phu ǵ? Các vị cổ đại đức bảo, sự
tu hành hằng ngày của các vị ấy (các vị Pháp Thân
Bồ Tát) được gọi là “vô công dụng đạo”. Cảnh giới ấy
chẳng có cách nào diễn tả được, [đành gọi]
là “cảnh giới giải
thoát chẳng thể nghĩ bàn”. Bọn chúng ta chẳng
có cách nào tưởng tượng, mà cũng chẳng có cách
nào mô tả được! Các Ngài cảm ứng đạo
giao với hết thảy chúng sanh trong mười pháp giới, không đâu chẳng hiện thân, không lúc nào chẳng
thuyết pháp, ḥa quang đồng trần với hết thảy
chúng sanh. Trên Thật Tế lư địa, các Ngài chẳng khởi
tâm động niệm. Khởi tâm động niệm c̣n chẳng
có, lấy đâu ra phân biệt, chấp trước? Quư vị
nói xem, diễn tả cảnh giới ấy bằng cách nào
đây? Tùy loại hóa thân, [tức là] có tướng, có
động; nhưng trong hết thảy các cảnh giới,
chẳng khởi tâm động niệm, bất động.
Đấy là động và tĩnh chẳng hai! Đối
với bọn phàm phu chúng ta, quư vị nói động bèn có
thể hiểu, nói tĩnh cũng có thể hiểu, [nhưng
nói] “động và tĩnh là một, chẳng hai”, sẽ chẳng
có cách nào lư giải. Tánh và Tướng như một.
Nói thật thà, Phật là như
thế, mà có chúng sanh nào chẳng phải là như thế,
có ǵ khác nhau đâu! Rốt cuộc sai khác ở chỗ nào?
Khác biệt ở chỗ trong cuộc sống thường
nhật trong thế gian, chư Phật, Bồ Tát chưa hề
khởi tâm động niệm, chưa hề phân biệt chấp
trước. Bọn phàm phu chúng ta khác biệt ở chỗ
nào? Khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp
trước, sai biệt ở chỗ này. Trừ điều
ấy ra, chẳng có mảy may sai biệt nào! Chớ nên
không hiểu rơ chân tướng sự thật này! Chúng ta học
ǵ? Chính là hy vọng trong tương lai cũng có thể nhập
cảnh giới của Phật, Bồ Tát như vậy.
Trong cảnh giới như vậy, vĩnh viễn ĺa phiền
năo, hoàn toàn chẳng ĺa khỏi thế gian. Quư vị thấy
người thế gian phiền năo bao nhiêu! Phật, Bồ
Tát chẳng có phiền năo, đă rốt ráo tịch diệt.
Trong tịch diệt rốt ráo mới hiển hiện trí
huệ viên măn và đức tướng viên măn. Ẩn và hiện
chẳng hai.
Đấy chính là pháp môn Bất
Nhị được
nói trong Nhất Thừa giáo. Các Ngài khế
nhập cảnh giới ấy. Bất Nhị là một, một
là thật, nên gọi là Nhất Chân pháp giới. Nhất
Chân pháp giới và mười pháp giới là một, không hai.
Quư vị khởi tâm động niệm, sẽ chẳng thấy
chân tướng, chẳng thấy tướng Nhất Chân.
Chẳng khởi tâm, không động niệm, chân tướng
sẽ hiện tiền. Các vị đại đức
trong Tông Môn thường nói, “tầm
sư phỏng đạo cầu khai ngộ”, đó chính
là “đạp phá thiết hài vô
mịch xứ” (đi nát giày sắt chẳng t́m thấy),
chẳng t́m ra! “Đắc lai toàn
bất phí công phu” (T́m được, hoàn toàn chẳng tốn công), nó vốn
chính là [ở ngay trong hiện tiền]. Khi ngộ bèn hoảng
nhiên đại ngộ [chân tâm] vốn là [ở ngay trong hiện
tiền]. Ở đây diễn tả tướng ấy bằng
câu “vĩnh ly phiền năo, cứu
cánh tịch diệt” (vĩnh viễn ĺa phiền năo, rốt
ráo tịch diệt), [chân tâm, khai ngộ] vốn là [ở ngay trong
hiện tiền]. Chỉ cần quư vị có phiền năo, sẽ
mê mất Nhất Chân. Nhất Chân ở ngay trước mặt
quư vị, Nhất Chân chưa hề ĺa khỏi chúng ta.
Thời gian và không gian do Nhất
Chân biến hiện; do vậy, thời gian và không gian
cũng chẳng thật. Pháp Tướng Duy Thức đă
giải thích chuyện này rất rơ ràng! Trong Bách Pháp Minh Môn,
thời gian và không gian được xếp vào Bất
Tương Ứng Hành Pháp. Bất Tương Ứng là chúng chẳng
tương ứng với Sắc Pháp, chúng chẳng phải
là Sắc Pháp. Chúng cũng chẳng tương ứng với Tâm Pháp,
cũng chẳng tương ứng với Tâm Sở Pháp,
nhưng xác thực là có hiện tượng này. Hiện
tượng cũng chẳng phải là thật. V́ thế,
người hiện thời gọi Bất Tương Ứng
Hành Pháp là “khái niệm trừu
tượng”. Thời gian và không gian thuộc về khái
niệm trừu tượng. Quư vị chẳng thể nói
chúng là có, mà cũng không thể nói chúng chẳng
có. Bởi lẽ, Tướng có, Thể không, Sự có, Lư
không, chúng ta phải hiểu điều này! Trong giáo pháp
Đại Thừa, đức Phật đă thường
nói [như vậy]!
Bọn phàm phu chúng ta đáng
thương, đáng thương ở chỗ nào? Chẳng
thoát ly phiền năo! Nay chúng ta thật sự hiểu rơ, đă
giác ngộ, hy vọng chúng ta có thể vượt thoát lục
đạo luân hồi. Lục đạo luân hồi là giả,
chẳng thật, chúng là do vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước biến hiện. Ǵ là thật? Nhất
Chân pháp giới là thật. Chúng ta từ mê trở về
giác ngộ, chẳng thể không nương theo con
đường ấy của Phật, Bồ Tát để
tiến bước. Con đường ấy tuyệt
đối chánh xác, “mười
phương ba đời Phật, một đường Niết
Bàn môn”. Lại xem bài kệ tiếp theo là bài kệ thứ
bảy.
(Kinh) Trước ca-sa
y, đương nguyện chúng sanh, tâm vô sở nhiễm, cụ
đại tiên đạo.
(經)著袈裟衣。當願眾生。心無所染。具大仙道。
(Kinh: Đắp y ca-sa, nguyện
cho chúng sanh, tâm chẳng nhiễm đắm, trọn đạo
Đại Tiên).
“Đại Tiên đạo” chẳng phải là dạy
quư vị thành tiên! “Đại
tiên” là Phật, [“cụ đại tiên đạo” là] trọn đủ Phật đạo viên măn. “Ca-sa”: Cái áo chúng tôi đang mặc hiện thời
được gọi là Ca-sa (Kāṣāya). Quư vị thấy nó gồm từng miếng một
[may chằm lại]. Mỗi miếng chằm lớn nhỏ khác nhau, chia thành ba bậc. Trong chú giải,
ngài Thanh Lương đă viết:
(Sớ) Ca-sa giả, bất chánh sắc
y dă, diệc vân nhiễm sắc, biểu tâm nhiễm ư
pháp, yếu vô sở nhiễm, phương viết Nhiễm
dă. Nhiên Nhị Thừa chi nhiễm, diệc phi chân nhiễm,
tất tâm nhiễm Đại Thừa, cố vân “cụ
đại tiên đạo”.
(疏)袈裟者,不正色衣也,亦云染色,表心染於法,要無所染,方曰染也;然二乘之染,亦非真染,必心染大乘,故云具大仙道。
(Sớ:
Ca-sa là áo chẳng
có màu thuộc loại chánh sắc, c̣n gọi là “nhiễm sắc”,
biểu thị tâm nhiễm pháp. Phải là chẳng đắm
nhiễm ǵ th́ mới gọi là Nhiễm. Nhưng sự tiêm
nhiễm của Nhị Thừa chẳng phải là Nhiễm
thật sự, tâm ắt phải nhiễm Đại Thừa,
cho nên nói là “trọn đủ đạo của bậc
Đại Tiên”).
Ngài Thanh Lương đă chú
giải nhiều ngần ấy! Trước hết, chúng
ta phải hiểu hai chữ Ca-sa có nghĩa là ǵ. Đây
là tiếng Phạn của Ấn Độ, có nghĩa là Tạp
Nhiễm (雜染). V́ người thế gian chẳng thích màu sắc ấy!
Người đời thích chánh sắc. “Chánh sắc” (正色) là ǵ? Năm màu đỏ, vàng, xanh, trắng, đen,
năm màu ấy. Năm màu đều thuộc loại chánh
sắc. Đức Phật dạy quư vị chớ nên tham
luyến những thứ chánh sắc trong thế gian, mà hăy
ḥa hợp năm màu, nhuộm thành một màu. Màu nhuộm ấy
được gọi Ca-sa. Do vậy, Ca-sa có nghĩa là hỗn
hợp rất nhiều thứ với nhau. Trong quá khứ, người xuất gia đi khất thực, bát
cơm xin được cũng gọi là “ca-sa phạn” (cơm ca-sa). V́ sao? Chẳng phải
do một gia đ́nh tặng cho, mà là xin từ mấy nhà.
Cơm do mỗi nhà cho đều cùng đựng trong một
bát. Do vậy, cái bát ấy cũng gọi là Tạp Nhiễm,
đều mang ư nghĩa này. Nói theo kiểu hiện thời,
điều này biểu thị chuyện ǵ? Biểu thị
văn hóa đa nguyên, xác thực là có ư nghĩa này.
Nhất là y phục, Thanh
Lương đại sư chỉ giảng về “nhiễm sắc”, vẫn
chưa nói về [ư nghĩa của] các mảnh vải [ghép
thành áo ca-sa]. V́ sao có nhiều miếng chằm như thế?
Trước kia, người xuất gia chúng ta cũng không
biết [ư nghĩa thật sự] của những miếng
chằm ấy! Các vị lăo ḥa thượng thuộc thế
hệ trước, đại khái cũng là từ đời
này truyền cho đời kia, truyền dạy chúng tôi: Những
miếng chằm ấy nhằm biểu thị [y ca-sa] giống
như thửa ruộng. Đó là Phước Điền Y.
Mặc y phục ấy, do cư sĩ tại gia bố thí,
cúng dường, gọi là “chủng
phước điền” (種福田, gieo trồng ruộng phước).
Chúng tôi chấp nhận cách giải thích ấy cũng chẳng
ít năm. Măi cho đến năm 1999, tôi tham gia lễ mừng
năm mươi năm ngày lập quốc[4]
của nhà nước
do cục Tôn Giáo Quốc Gia mời.
Khi ấy, viện bảo tàng lịch sử triển lăm một
số văn vật khai quật từ Thanh Châu[5],
triển lăm tại đó, toàn là tượng Phật. Những
tượng Phật ấy được khắc hoặc đắp vào thời đại Nam Bắc Triều, khai quật
từ Thanh Châu. Diệp cục trưởng và Trương
cục trưởng của cục Quốc Gia Văn Vật
cùng đi xem triển lăm với tôi. Tôi đến xem, thấy
trong ấy có ba bức tượng Tỳ Lô Giá Na Phật,
đắp y ca-sa có hai mươi lăm điều, giống
như cái y tôi đang đắp. Xem kỹ cái y Ngài đắp, trong mỗi điều (條, miếng
chằm) đều có h́nh vẽ. Tôi xem kỹ
hơn, [nhận thấy] phía trên vẽ tượng Phật, phía dưới vẽ
Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, cho đến tận cùng là
địa ngục, tôi mới hoảng nhiên đại ngộ!
Mỗi miếng chằm biểu
thị điều ǵ? Biểu thị pháp giới bất
đồng. Mười pháp giới, trong mỗi pháp giới
lại trọn đủ mười pháp giới, thành một
trăm giới. Trí Giả đại sư giảng kinh
Pháp Hoa có nói Bách Giới Thiên Như, [nghĩa là] mỗi giới
trong trăm giới lại có mười pháp giới, [thành
ra] một ngàn pháp giới. Do điều này, quư vị quan
sát cặn kẽ, tư duy, [sẽ nhận ra, những miếng
chằm của y ca-sa biểu thị] pháp giới vô lượng
vô biên[6],
biểu thị ư nghĩa này! Thảy đều đắp
trên thân quư vị, pháp giới b́nh đẳng, thật sự
hoàn toàn tương ứng với văn hóa đa nguyên
như chúng tôi đang thực hiện tại ngoại quốc
trong hiện thời. Coi như là chúng tôi đă hiểu rơ ư
nghĩa của từng miếng chằm. Toàn thể tấm
y là Nhất Chân pháp giới, mỗi miếng chằm chính là
mỗi pháp giới. Mỗi pháp giới chẳng rời khỏi
Nhất Chân, Nhất Chân chẳng ĺa khỏi mười
pháp giới. Ư nghĩa này quá hay!
Do vậy, toàn thể vũ
trụ là một Thể. Kinh Đại Thừa nói “mười phương ba đời
Phật, cùng chung một Pháp Thân”. Nói cách khác, nói “mười phương ba đời
Phật” rất hay! V́ trong ba đời có đời vị
lai, [chư Phật trong] đời vị lai chính là hết
thảy chúng sanh trong hiện tiền. Hết thảy chúng
sanh đều là vị lai Phật! Quá khứ Phật
đă thành tựu, đối với hiện tại Phật
th́ đức Phật đă giới thiệu rất nhiều.
Vị lai Phật là hết thảy chúng sanh trong hiện tại.
Do vậy, chúng ta phải tôn kính hết thảy chúng sanh, chớ
nên giải đăi, khinh mạn, họ chính là vị lai Phật.
Nói thật đấy! Liễu giải chân tướng sự
thật, tự nhiên sẽ tôn trọng lẫn nhau, kính yêu lẫn
nhau, do biết chúng ta là
cùng một Thể. Đă hiểu rơ
mối quan hệ, chớ nên phân biệt, chấp trước
nữa! Tự và Tha chẳng hai, phàm và thánh như một!
Chúng ta thường đọc thấy kinh dạy: “Sanh Phật bất nhị”, “sanh” là chúng sanh, “Phật” là chư Phật! Chúng
sanh và chư Phật là một, không hai. Do vậy, mỗi miếng
chằm biểu thị ư nghĩa này!
Nhiễm sắc, ngoài những
màu ấy ra th́ không phải là chánh sắc, khiến cho chúng
ta dứt bỏ sự tham luyến, tham ái đối với
chánh sắc. Ngoài những điều ấy ra, nhiễm
[sắc] c̣n có một ư nghĩa biểu thị pháp khác, nó biểu
thị điều ǵ? Tâm chúng ta chẳng nhiễm thế
pháp (pháp thế gian), chẳng nhiễm phiền năo, mà nhiễm
ǵ vậy? Nhiễm Phật pháp. V́ thế, nói là “vô sở nhiễm” (chẳng
nhiễm ǵ cả). Trong ấy thêm vào ba chữ, ư nghĩa
cũng rất rơ ràng. “Yếu
ư thế tục vô sở nhiễm, phương viết
nhiễm ư chánh pháp dă” (Phải là “chẳng
nhiễm thế tục” th́ mới gọi là “nhiễm chánh pháp”). V́ thế, ư
nghĩa của ba chữ được thêm vào ấy rất
rơ ràng. Chẳng bị nhiễm thế tục, quư vị nhiễm
chánh pháp. Trong Phật pháp thường nói là “huân tập”.
Nay chúng ta rất phiền
toái, hiện thời bị nhiễm thế pháp. “Thế
pháp” là ǵ vậy? Tôi thường nói là
nhật báo, tạp chí, TV, radio, ca múa, hư kịch. Ngay như
trong hiện thời, hễ ra khỏi cửa, bèn thấy quảng
cáo khắp mọi nơi, nội dung của chúng là ǵ? Xác thực
đều chẳng ĺa khỏi giết, trộm, dâm, dối!
Chúng ta thấy tiệm ăn ở Hương Cảng nhiều
lắm, bao nhiêu là tiệm ăn bán hải sản! Đó là sát!
Cờ bạc là trộm, t́nh dục là dâm. Giết, trộm,
dâm, dối! Hễ quư vị đi ra ngoài, sáu căn toàn tiếp
xúc những cảnh giới ấy, đáng sợ quá! [Kết
quả của] sự ô nhiễm ấy chính là tiến đến
ba ác đạo.
Nay chúng ta ở trong đạo
tràng, hằng ngày học tập kinh giáo, niệm Phật
trong Niệm Phật Đường; đấy là nhiễm
chánh pháp. Nhị Thừa là nhiễm chánh pháp, chẳng phải
là thật sự nhiễm. Đấy là Tiểu Thừa, chẳng
rốt ráo; do vậy, chẳng phải là thật sự nhiễm.
Ắt phải là tâm nhiễm Đại Thừa! Hoa Nghiêm là
pháp Nhất Thừa, c̣n cao hơn Đại Thừa một
bậc, thật sự là đại pháp rốt ráo, [đấy
là] “tâm nhiễm Đại Thừa”.
Đại Thừa của Đại Thừa là Hoa Nghiêm; do
vậy, gọi là “cụ đại
tiên đạo” (trọn đủ đạo của bậc
Đại Tiên). Ở đây, [lời Sớ] đă nêu bày ư
nghĩa của “đại tiên
đạo”.
Đối với cách giảng
kinh Hoa Nghiêm, chúng tôi cũng suy xét rất lâu. Chúng tôi giảng
cặn kẽ cho đến phẩm sau, [đến phẩm
ấy], hội thứ hai[7]
sẽ viên măn. Đến hội thứ ba là Thập Trụ,
hội thứ tư là Thập Hạnh, từ đấy
trở đi, chúng tôi sẽ giảng sơ lược
đại ư, chẳng giảng chi tiết như vậy. Hiện
thời, gần như là mỗi tiếng đồng hồ
giảng một bài kệ. Từ nay trở đi, một
tiếng đồng hồ có thể giảng mười bài kệ, hoặc hai
mươi bài kệ, như vậy th́ tốc độ tiến
triển sẽ nhanh chóng. Tôi hy vọng là trong năm năm nữa, tối
đa là bảy năm, bộ kinh Hoa Nghiêm này sẽ
được giảng viên măn! A! Hôm nay đă hết thời gian rồi!
Tập
1510
Chư vị đồng học,
xin hăy ngồi xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ
mười một, xem từ bài kệ thứ tám trong
đoạn thứ hai, tức đoạn Xuất Gia Thọ
Giới.
(Kinh) Chánh xuất gia thời,
đương nguyện chúng sanh, đồng Phật xuất
gia, cứu hộ nhất thiết.
(經) 正出家時。當願眾生。同佛出家。救護一切。
(Kinh:
Khi đă xuất gia, nguyện cho chúng sanh, xuất gia giống
Phật, cứu hộ hết thảy).
Trong
phần chú giải, Thanh
Lương đại sư giải thích chẳng nhiều
cho mấy, chỉ có hai câu:
(Sớ) Lạc phát phi y chi hậu,
vi chánh xuất gia.
(疏)落髮披衣之後,為正出家。
(Sớ:
Sau khi xuống tóc, đắp y, là “thật sự xuất
gia”).
Ư
nghĩa của việc xuất gia đă được nói
trong phần trước, có bốn loại Xuất. Thân lẫn
tâm đều xuất: Xuất điền
trạch gia, xuất phiền năo gia, xuất tam giới gia,
xuất vô minh gia. Bốn thứ “gia”
ấy đều xuất, bèn gọi là “chánh xuất gia”. Đấy chính là phát tâm giống
như chư Phật Như Lai. V́ thế, Bồ Tát phát nguyện,
“đương nguyện chúng sanh,
đồng Phật xuất gia, cứu hộ nhất thiết”
(nguyện cho chúng sanh, xuất gia giống như Phật,
cứu hộ hết thảy). Nguyện này đă hoàn toàn
tuyên thệ ư nghĩa và mục đích xuất gia.
V́ sao xuất gia? Nhằm cứu
hộ (救護, cứu giúp, bảo vệ) hết thảy. Tại
gia có thể cứu hộ hay không? Tại gia cũng có thể
cứu hộ hết thảy; nhưng nếu muốn thực
hiện sự cứu hộ hết thảy đến mức viên
măn th́ xuất gia là một loại thị hiện rất tốt,
khiến cho chúng sanh đạt được khải thị
rất lớn từ h́nh tướng ấy. Giống
như Thích Ca Mâu Ni Phật xuất gia vào thuở đó,
không chỉ là khi đó, mà chúng ta là những kẻ đời
sau, tính cho đến hiện thời, đức
Phật diệt độ, theo ghi chép của người
Hoa, đă là 3.034 năm ([tính đến] năm 2005 là 3.033 năm,
năm nay phải là đă 3.034 năm). Người thuộc
ba ngàn năm sau, hễ đọc truyện Thích Ca Mâu Ni Phật,
đều hết sức cảm động. Nếu Thích
Ca Mâu Ni Phật không xuất gia, Ngài dùng thân phận quốc
vương tại gia để hộ tŕ Phật pháp, cũng
có thể khiến cho kẻ khác kính nể. Nhưng hàng phàm phu trong thế giới Sa Bà thấy quư vị
là quốc vương, đại thần, hoặc trưởng
giả giàu to, nếu quư vị cứu độ hết thảy
chúng sanh, sẽ có bao nhiêu kẻ thường dân thấp cổ bé miệng chẳng dám tiếp xúc với quư vị. Dẫu
tiếp xúc, cũng phải làm ra dáng vẻ
[khúm núm], vâng giữ quy củ, chẳng dám thân cận, chẳng
dám nói nhiều! Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện xuất
gia, tướng xuất gia là tướng b́nh đẳng.
Ngài tiếp xúc đại chúng, đặc biệt là chúng
sanh khổ nạn thuộc giới b́nh dân, họ trông thấy
người xuất gia sẽ có thể sanh khởi một loại
cảm t́nh thân thiết. Do vậy, hiệu quả cứu
độ chúng sanh sẽ to lớn, hết sức thuận
tiện! Đấy là “nhân đồng
thử tâm, tâm đồng thử lư” (người có cùng
cái tâm này, tâm có cùng lư này). Bồ Tát muốn cứu hộ hết
thảy chúng sanh, ngẫm ra vẫn là dùng h́nh tướng xuất
gia th́ sẽ tốt đẹp. H́nh tướng xuất gia
có thể phổ độ hết thảy, lại c̣n là b́nh
đẳng phổ độ hết thảy, người [xuất gia] ấy có thể làm được!
Chúng ta biết đạo lư này, liễu
giải chân tướng sự thật này. Nếu
chúng ta thật sự muốn học Phật, phát tâm học
Phật, có ư định học Phật, có đại nguyện
học Phật, có đại trí, đại đức,
đại năng học Phật th́ mới phát tâm xuất
gia. Trong lịch sử Trung Hoa, xác thực là như Huyền
Trang đại sư khi được người khác hỏi
v́ sao Ngài xuất gia? [Ngài trả lời ngay] “viễn thiệu Như Lai, cận
quang đại pháp” (xa là tiếp nối Như Lai, gần
là khiến cho đại pháp được rạng rỡ).
Cũng có chỗ chép là “cận
quang di giáo” (近光遺教, gần là làm rạng rỡ di giáo
của đức Phật). “Xa”: Nói đến thời
gian cách biệt giữa Thích Ca Mâu Ni Phật và chúng ta
khá xa. Thời đại của Huyền Trang đại
sư cũng cách Phật hơn một ngàn năm, gần
đến hai ngàn năm. “Thiệu”
(紹) là kế tục, thường nói là “tục Phật huệ mạng” (續佛慧命, nối tiếp huệ mạng của Phật). “Tục Phật huệ mạng”
là “viễn thiệu Như Lai”,
[tức là] kế thừa giáo huấn của đức Phật,
phát huy rạng rỡ giáo huấn của đức Phật.
Đấy là [mục tiêu] “gần”. Giúp hết thảy chúng sanh phá mê khai ngộ, ĺa khổ
được vui; đấy chính là ư nghĩa của câu “đồng Phật xuất gia” (xuất
gia giống như Phật). “Đồng
Phật xuất gia” có ư nghĩa này!
Trước khi xuất gia,
quư vị chẳng nhận biết Phật, làm sao có thể
giống như Phật cho được? V́ thế, phải
nhận biết! Anh của Huyền Trang đại sư
xuất gia trước, đại khái là Ngài được
huân tập, nhận biết Phật pháp đến một
tŕnh độ nhất định, cho nên Ngài mới phát tâm to tát ngần ấy. Cũng rất khó có, Ngài thật sự thành tựu.
Chẳng sợ khổ sở, gian nan, Ngài sang Ấn Độ
cầu học, ở xứ Ấn Độ mười bảy năm. Sau khi trở
về, suốt đời theo đuổi công tác phiên dịch.
Những bộ kinh do Huyền Trang đại sư đă dịch
có phân lượng lớn nhất, hơn một ngàn quyển!
Ngài xuất gia, đă hoàn toàn tương ứng với nguyện
vọng xuất gia, Ngài đă làm được.
Nói thật ra, phải nên biết
nguyện của Huyền Trang đại sư chính là nguyện
vọng chung của tất cả người xuất gia
đời sau. Quư vị xuất gia để làm ǵ? Xuất
gia là v́ chuyện này: Nối tiếp huệ mạng của
Phật, hoằng dương Phật pháp, giúp hết thảy
chúng sanh phá mê khai ngộ, ĺa khổ được vui. V́
chuyện này! Đấy là hoàn toàn chánh xác. Muốn giúp chúng sanh
ĺa khổ được vui, trước hết, chính ḿnh có
ĺa khổ hay không? Chính ḿnh có đạt được vui
sướng hay không? Nếu chính ḿnh vẫn chẳng ĺa khổ
được vui, làm sao có thể dạy kẻ khác ĺa khổ
được vui? Chớ nên không biết sự thật này!
Nguyện đă phát, xác thực là có chánh tri chánh kiến
đối với Phật pháp, nhận biết chánh xác. Sau
khi xuất gia, phải thật sự học tập.
Nhà Phật nói “tu hành”, nay chúng ta nói là “học tập”, có cùng một
ư nghĩa, nhưng danh từ “tu
hành” càng phù hợp khít khao hơn! “Tu” (修) là “tu chánh” (修正, uốn nắn, sửa đổi cho đúng), “hành” (行) là hành
vi. Hành vi của chúng ta bất chánh, sai trái; phải sửa chữa
hành vi sai lầm, đó là “tu
hành”. Hành vi quá nhiều, vô lượng vô biên! Để
dạy chúng ta, đức Phật đă quy nạp vô lượng
vô biên hành vi thành ba loại lớn: Ngôn ngữ là hành vi thuộc
về khẩu nghiệp; sự tạo tác nơi thân thể là hành vi thuộc về thân nghiệp, tức là nhất
cử nhất động của quư vị; ư niệm, khởi
tâm động niệm chính là hành vi nơi ư nghiệp. Ba loại
hành vi lớn của quư vị có sai lầm, có lệch lạc.
V́ sao nói quư vị có sai lầm, lệch lạc? Quư vị có
phiền năo, có ưu lự. Do đâu mà có những phiền
năo, ưu lự ấy? Từ hành vi sai lầm dẫn phát.
Chúng ta nói đến quả báo, hễ có nhân, ắt có quả.
Đă có quả, sẽ nhất định phải có nhân.
Trong kinh Phật thường
nói đến ba khổ hay tám khổ. Do đâu mà phải
luân hồi trong lục đạo tam đồ từ vô thỉ
tới nay? Đấy là khổ, đều do tạo tác hết
thảy các nghiệp bất
thiện mà chiêu cảm. Nay đức Phật
dạy chúng ta hăy sửa đổi các hành vi, [tức là thảy đều sửa đổi] các hành vi sai lầm. Như thế
th́ sẽ chẳng có chuyện ǵ, những quả báo khổ
sẽ chẳng có. Do vậy, đối với khổ báo,
chẳng thể giải quyết nơi quả báo, phải
biết giải quyết từ cái nhân. Ví như chúng sanh gặp
rất nhiều tai nạn, thế gian cũng khá lắm, có
rất nhiều cơ cấu từ thiện chuyên môn cứu
tế những người khổ nạn ấy. Họ chẳng
có cái ăn, bèn tặng lương thực cho họ. Không
có cái mặc, bèn tặng quần áo cho họ. Chẳng có chỗ
ở, bèn dựng một số căn nhà để họ
có thể an cư. Những người ấy dựa vào sự
cứu tế để sống, nói chung là chẳng thể
suốt đời sống bằng sự cứu tế.
Đấy là quả. Chẳng thể giải quyết vấn
đề từ quả, phải biết giải quyết
từ nhân. V́ sao họ nghèo túng? V́ sao tà tri tà kiến? V́ sao
ngu si? V́ sao tạo tác ác nghiệp? Quư vị có thể suy
nghĩ từ những điều trên đây, t́m ra cái nhân.
Do vậy, chư Phật, Bồ Tát giáo hóa chúng sanh, khiến
cho họ giác ngộ. Giác ngộ là ǵ? Khiến cho họ biết
hành vi của chính ḿnh sai lầm, đấy là giác ngộ. Sau
khi đă giác ngộ, họ mới tu hành, sửa đổi
những hành vi sai lầm của chính ḿnh. “Tu” là uốn nắn. Uốn nắn hành vi sai lầm
của chính ḿnh th́ gọi là “tu
hành”.
V́ lẽ ấy, đức Phật
giảng kinh; kinh, luật, luận là ba loại lớn. Giới
luật giúp quư vị uốn nắn ngôn ngữ, tạo tác,
tức hành vi nơi thân và miệng. Giới luật là tiêu
chuẩn. Kinh luận nhằm uốn nắn tư tưởng
và kiến giải sai lầm. Chỉ cần tư tưởng
và kiến giải chánh xác, ngôn ngữ, tạo tác sẽ tự nhiên chẳng có lầm lỗi,
quư vị sẽ chẳng tạo nghiệp. Do không tạo
nghiệp, sẽ chẳng có nghiệp cảm. Nghiệp cảm
là tam đồ lục đạo mười pháp giới. Các
hành vi thảy đều được sửa đổi,
những thứ ấy đều hoàn toàn chẳng có. Đấy
là thật sự ĺa khổ, thật sự được
vui!
V́ thế, mục tiêu chung cực
của “cứu hộ nhất
thiết” là mong giúp cho hết thảy chúng sanh không chỉ
thoát ly lục đạo, mà c̣n thoát ly mười pháp giới.
Trong giáo pháp Đại Thừa, cũng nhất định
phải dạy cho chúng sanh ai nấy đều khai ngộ,
đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh.
Minh tâm kiến tánh sẽ vượt thoát mười pháp giới;
đấy mới gọi là “cứu
hộ nhất thiết”. Hai chữ “nhất thiết” (一切) là từ
ngữ có ư nghĩa kép. Ư nghĩa được bao hàm trong ấy
rất nhiều. Có thể giải thích [“nhất thiết”] là “hết
thảy chúng sanh”, mà cũng có thể hiểu là “hết thảy sự mê hoặc,
điên đảo, hết thảy những tạo tác sai lầm
của một chúng sanh”, [nói kiểu nào] cũng đều hợp lư. Phật,
Bồ Tát xuất hiện trên thế gian là v́ chuyện này!
“V́”
là cách nói về phía bọn phàm phu chúng ta trong hiện tiền, đức
Phật có ư niệm “v́ hết thảy chúng sanh” hay không? Thưa
cùng chư vị, chẳng có! Về mặt Sự, Ngài thực
hiện nghiêm túc hơn bất cứ ai khác, tṛn trách nhiệm
hơn bất cứ kẻ nào khác, nhưng trong tâm xác thực
là chẳng có ư niệm ấy, chẳng khởi tâm, không động
niệm. Chúng ta khó hiểu điều này! Không khởi tâm,
không động niệm, Ngài thực hiện chuyện ấy
bằng cách nào? Khởi tâm động niệm th́ quư vị
mong làm, sẽ làm chẳng viên măn! V́ sao chẳng viên măn? V́ quư
vị có chướng ngại. Chẳng đoạn tập
khí phiền năo, bất luận làm chuyện tốt lành nào,
cũng đều chẳng toàn vẹn mười phần!
Chúng ta chú tâm tư duy quan sát, [sẽ thấy] đúng là như vậy,
chẳng sai tí nào! Chúng ta thuộc địa vị phàm phu
mong học Phật, [thế nhưng] học chẳng giống.
V́ sao chẳng giống? Có nghĩa là Phật th́ vô tâm, chúng
ta là hữu tâm; hoặc nói cách khác, Phật
vô niệm, chúng ta có ư niệm. Phật chẳng khởi tâm,
không động niệm, chúng ta khởi tâm động niệm.
Không chỉ là khởi tâm động niệm, mà c̣n phân biệt,
chấp trước nghiêm trọng, làm sao giống cho
được!
Vào thời cổ, đại
chúng trong đạo tràng, tự viện xác thực là phát
tâm chẳng giống hiện thời! Người thời
cổ phát tâm xuất gia, thật sự chẳng thể nói
hoàn toàn là “đồng Phật
xuất gia” (xuất gia giống như Phật),
nhưng có mấy phần tương tự! Từ đầu
đời Thanh trở về trước, người xuất
gia xác thực có nguyện ấy, có tâm từ bi cứu hộ
hết thảy. Về sau, dần dần biến chất, coi
chuyện xuất gia như một nghề nghiệp, coi
như một cái nghề để kiếm sống, sai mất
rồi! Trong phần trước, tôi đă thưa tŕnh cùng
quư vị. Trước kia, xuất gia phải trải qua khảo
thí, chẳng dễ dàng! Sau khi vua Thuận Trị phế bỏ
[quy chế ấy], chẳng cần khảo thí, người
nào cũng đều có thể xuất gia. V́ thế, tố
chất của người xuất gia đọa lạc
ngàn trượng, chẳng thể sánh bằng những vị
đại đức xưa kia! Đúng ra, trong ấy
đương nhiên cũng có những vị thật sự
xuất gia, xuất gia giống như Phật, chẳng bị
ô nhiễm, may mắn gặp gỡ chân thiện tri thức
truyền thừa, họ đạt thành tựu,
và cũng có thể ảnh hưởng xă hội, thật sự
làm được
chuyện cứu hộ hết thảy.
Cứu hộ hết thảy,
không chỉ là phàm phu tăng, mà là chư Phật, Bồ Tát
tái lai. Chúng ta cũng thường nghe nói: “Phật chẳng độ kẻ vô duyên”. Kẻ
nào vô duyên? Có phải là kẻ suốt đời chẳng
có cơ hội tiếp xúc Phật pháp? Đúng thế!
Đó là vô duyên, suốt đời chẳng hề tiếp
xúc. Nhưng quan trọng hơn, hằng ngày ở trong đạo
tràng, hằng ngày ở trong Phật môn, cũng là mỗi
ngày đều nghe kinh, nghe pháp, nhưng chẳng đoạn
tập khí, chẳng thể y giáo phụng hành, chẳng có
cách nào thực hiện giáo huấn của đức Phật.
Đó cũng là vô duyên! V́ sao cũng là vô duyên? Nghiệp
chướng sâu nặng, chướng ngại duyên phận
của người ấy! Từ xưa tới nay, chuyện
này quá nhiều. Không chỉ là sau khi đức Phật diệt
độ, mà ngay trong khi đức Phật tại thế,
hiện tượng này đă hiển hiện rành rành
trước mắt!
Kinh điển đă ghi chép,
thuở tại thế, đức Phật giảng kinh tại
đại thành Xá Vệ trong một thời gian rất dài.
Rất nhiều kinh điển được giảng tại
Kỳ Thụ Cấp Cô Độc Viên trong thành Xá Vệ. Một phần ba dân cư trong đại
thành Xá Vệ đă từng thân cận Thích Ca Mâu Ni Phật,
tức là đă gặp
mặt Thích Ca Mâu Ni Phật, từng nghe Ngài giảng kinh, hoặc
là trong một đời đă từng gặp Phật một
lần, tham gia pháp hội giảng
kinh một hai lần. Một phần ba nữa biết có
chuyện ấy, biết có Thích Ca Mâu Ni Phật, nhưng chưa
từng gặp mặt, trước nay cũng chưa hề
đến nghe kinh. C̣n có
một phần ba nữa, căn bản
là chẳng biết trong đại thành Xá Vệ có Thích Ca
Mâu Ni Phật, chẳng hề nghe nói, [cho nên] chẳng biết!
Quư vị thấy đó, thuở đức Phật tại
thế, duyên [của chúng sanh trong cùng một thành mà c̣n]
khác nhau. V́ thế, quyết chẳng phải là đă từng
gặp Phật, nghe đức Phật giảng kinh vài lần,
bèn nói là “có duyên phận”. Chẳng
phải vậy! Kẻ hữu duyên là người có thể
tin, có thể hiểu, có thể hành, có thể chứng, đấy
mới gọi là “người
hữu duyên”!
Hiện thời, người
tin Phật rất đông, nhưng người có thể lư
giải giáo lư Phật pháp chẳng nhiều! Người có thể y giáo phụng hành càng ít hơn nữa!
Quư vị cứ loại trừ từng tầng một, cuối
cùng, người có duyên được đức Phật hóa độ chẳng được mấy người! V́ thế, bản thân chúng ta phải nghiêm
túc phản tỉnh, đối với bốn giai đoạn
“tín, giải, hành, chứng”,
chúng ta thuộc giai đoạn nào? Chỉ nói đến
tín, tín có mê tín, chánh tín, và chân tín khác nhau. Đại khái, mê
tín là nửa tin nửa ngờ. Quư vị chẳng thể
nói kẻ ấy không tin, nhưng cũng chẳng
thể nói kẻ ấy thật sự tin tưởng. Thông thường, tiến nhập Phật môn, đa
số là mê tín mà tiến nhập, [nghĩa là] đối với
Phật pháp chẳng biết ǵ hết, nhưng tin tưởng.
Nghe người khác khuyên dạy bèn tin. Được lắm! Tiếp dẫn họ nhập môn, [như vậy] th́ có thể được! Sau khi đă nhập môn, quư vị phải giải, phải
nhận biết. Sau khi đă thật sự nhận biết,
ḷng tin của quư vị được gọi là chánh tín, chẳng
phải là mê tín. Quư vị xác thực đă liễu giải,
tin tưởng. Đấy là chánh tín, chưa chắc đă
là chân tín.
Chân tín là ǵ? Chân tín là thật
sự hành. Đức Phật dạy chúng ta đoạn ác
tu thiện, thật sự đoạn ác, hằng ngày kiểm
điểm sai trái của chính ḿnh! V́ thế, trong công khóa sớm
tối, trước kia, tôi đă nói rất nhiều. Công
khóa sáng có ư nghĩa ǵ? Nhắc nhở chính ḿnh: Ngày hôm nay, ta
phải nương theo giáo huấn của đức Phật,
chớ nên phạm sai quấy. Ư nghĩa của khóa tụng buổi
sáng là như vậy. Dụng ư của khóa tối là nghiêm túc
phản tỉnh, ngày hôm nay ta đă làm chuyện ǵ sai quấy? Phản
tỉnh ba nghiệp thân, khẩu, ư, khởi tâm động
niệm có sai quấy hay không? Nói năng có sai quấy hay không? Thân thể có tạo tác sai quấy hay không?
Khóa tối nhằm phản tỉnh, sửa lỗi; đó gọi là thật sự
tu hành. Hôm nay đă phạm lỗi lầm, hy vọng ngày mai sẽ chẳng tái phạm nữa.
Hằng ngày phản tỉnh, hằng ngày sửa lỗi, người ấy là chân tín. Nếu bản thân chúng
ta chẳng thể phản tỉnh hằng ngày, chẳng thể
luôn luôn sửa lỗi, ḷng tin ấy tối đa thuộc vào giai đoạn
chánh tín. Chánh tín là ǵ? Quư vị chẳng mê tín, xác thực đă
liễu giải, tôn kính Phật, Bồ Tát, tôn trọng kinh
điển, có thể là rất thích học tập, nhưng quư vị chẳng
làm được. Đấy là chánh tín, quư vị chẳng
phải là mê tín. Quư vị chẳng làm được th́ sẽ
chẳng thật, làm được th́ mới là thật.
Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ
Phật, phu nhân Vi Đề Hy, tức vị hoàng hậu ấy gặp cảnh biến hóa trong gia đ́nh và quốc
gia, nay chúng ta nói là “chánh biến”
(政變, đảo chánh). Con trai bất hiếu, hại chết
cha để thừa kế ngôi vua; tuy chẳng sát hại mẹ, nhưng giam kín, hạn chế tự do của bà
ta, gặp nạn lớn như thế đó. Cặp vợ
chồng này là hộ pháp của đức Phật, mà
cũng là đệ tử kiền thành của đức
Phật. Khi gặp nạn, bà ta cầu đức Phật
giúp đỡ. Đức Phật có thần thông, đến
cấm cung thuyết pháp cho bà ta. Duyên khởi của mười sáu phép
Quán và Thập Lục Quán Kinh là như thế đó. Đức
Phật bảo bà ta, thật sự tu hành th́ nhất định
phải hội đủ điều kiện cơ bản.
Điều kiện cơ bản ấy chính là Tịnh Nghiệp
Tam Phước. Chúng ta biết, Tịnh Nghiệp Tam Phước
không chỉ là cơ sở để tu Tịnh Độ,
mà là cơ sở chung của tất cả hết thảy
Phật pháp Đại Tiểu Thừa! Thứ nhất là “hiếu dưỡng phụ mẫu,
phụng sự sư trưởng”, chúng ta có làm
được hay không? Đấy hoàn toàn chẳng phải
là Phật pháp, mà là ǵ? Đấy chính là cơ sở quư vị
ắt phải hội đủ để thật sự học
Phật. Chúng ta có hiếu dưỡng cha mẹ hay không? Có
phụng sự sư trưởng hay không? Nói theo ngôn ngữ
Trung Hoa, phụng sự sư trưởng là “tôn sư trọng đạo”,
c̣n Phật pháp nói là “phụng sự
sư trưởng”. “Từ tâm chẳng giết, tu Thập
Thiện Nghiệp”.
Nay đối với bốn
câu ấy, chúng ta thực hiện điều thứ nhất
[của Tịnh Nghiệp Tam Phước] bằng Đệ
Tử Quy và kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo. Đệ
Tử Quy là pháp thế gian. Làm người theo pháp thế
gian mà c̣n không xong, làm sao có thể học Phật cho
được? Vào trường học Phật, vẫn là có điều kiện. Tuy Phật độ
chúng sanh, kẻ ác cũng được độ. Kẻ
ác quay đầu, sám hối; kẻ ấy đă quay đầu,
sẽ là thiện nhân, chuyển ác thành lành. Vốn bất
hiếu với cha mẹ, đức Phật vừa nói, kẻ
ấy biết hiếu thuận. Vốn chẳng tôn trọng
sư trưởng, tiếp nhận giáo huấn của đức Phật, kẻ ấy biết tôn trọng
sư trưởng, biết tôn sư trọng đạo. Đă
quay đầu, hễ quay đầu sẽ là bờ! Đấy
là thật sự tiếp nhận giáo huấn của Phật,
Bồ Tát. Người ấy không ngừng tiến cao
hơn, cuối cùng đạt tới “chuyển phàm thành thánh”. Tiểu Thừa Tứ Quả
là tiểu thánh, Đại Thừa Bồ Tát được
gọi là đại thánh. Trong Đại Thừa, địa
vị Tam Hiền được gọi là thánh nhân, địa
vị Thập Địa được gọi là đại
thánh. Tam Hiền gọi là Bồ Tát, Thập Địa
được gọi là Ma Ha Tát. Ma Ha Tát được gọi
là Đại Bồ Tát, là đại thánh. Do vậy, phải
hiểu hoằng nguyện và chí hướng xuất gia của
chư Phật, Bồ Tát. Chúng ta phải học tập, phải
trông thấy [hoằng nguyện, chí hướng của các
vị La Hán, Bồ Tát] bèn mong được bằng với
các Ngài, phải nghiêm túc nỗ lực.
Thực hiện từ chỗ
nào? Nhất định là phải thực hiện từ thân
cận thiện tri thức, hăy học! Ai là thiện tri thức?
Kinh điển là thiện tri thức. Tại Trung Hoa, nay
chúng ta nói đến Đại Tạng Kinh, Đại Tạng
Kinh là chân thiện tri thức. Quư vị học tập từ
trong ấy, lấy đâu ra sai lầm? Những điều
được dạy trong kinh điển đều là
Tánh Đức sẵn có trong tự tánh của mỗi
người, vô lượng trí huệ, vô lượng đức
tướng. Kinh điển giảng về mê, ngộ, nhân,
quả rất thấu triệt! Đối với vạn
sự vạn vật trong vũ trụ, đạo lư, chân
tướng sự thật, và diễn biến nhân quả của
chúng, chẳng có điều ǵ không được nói đến,
kể cả những phát hiện bởi khoa học cận
đại, trong kinh giáo Đại Thừa thảy đều nói đến. Tuy ngôn ngữ văn tự
chẳng nhiều, nếu quư vị đọc kỹ lưỡng, quan sát, tư duy, so sánh với những báo cáo của
các khoa học gia hiện thời, [sẽ nhận thấy] nội
dung [của kinh điển nhà Phật] c̣n phong phú, c̣n chánh
xác hơn! Đúng là ngắn gọn, quan trọng, tường
tận, rơ ràng!
Ví như từ xưa tới
nay, bao nhiêu triết gia, khoa học gia, và tôn giáo
gia đă t́m ṭi lẽ huyền bí sâu thẳm trong vũ trụ,
vũ trụ do đâu mà có? Do nguyên nhân ǵ mà có? Sâm la vạn
tượng đến rốt cục là chuyện như thế
nào? Trong giáo pháp Đại Thừa, đúng là đơn giản,
kinh Hoa Nghiêm đă dạy: “Duy
tâm sở hiện, duy thức sở biến”, giải
thích rơ ràng, tâm hiện, thức biến! Đức Phật chẳng nói “do thần (Thượng Đế, Thiên Chúa) tạo
ra”; v́ thế, có những vị học
giả phương Tây như tiến sĩ Thang Ân Tỷ
(Arnold Toynbee) khẳng định Phật giáo là vô thần
luận. Thế nhưng Phật giáo hoàn toàn chẳng bài xích
những vị thần được sùng bái trong những
tôn giáo khác. Phật giáo không bài xích, không phản đối,
nhưng chính Phật giáo chẳng nói đến. “Tạo hóa” chính là tâm tánh. Do vậy,
trong Phật môn thường nói: “Nhược
nhân thức đắc tâm, đại địa vô thốn
thổ” (Nếu người hiểu biết tâm, đại
địa không tấc đất). Câu nói ấy có nghĩa
là nếu quư vị thật sự minh tâm kiến tánh, đối
với vạn sự vạn vật trong vũ trụ, hết
thảy các đạo lư, các sự bí mật sâu thẳm, các diễn biến quư vị đều hiểu hoàn toàn!
Như thế nào th́ mới
có thể minh tâm kiến tánh? Nhà Phật có phương pháp
[xuất phát] từ Giới Định Huệ. Giới có
nghĩa là ǵ? Giúp quư vị sửa đổi, bỏ
đi những tập khí hành vi chẳng tốt lành từ
vô lượng kiếp đến nay, v́ chúng là chướng
ngại, chướng ngại cái tâm thanh tịnh của quư
vị (tâm thanh tịnh là Thiền Định), nó chướng
ngại quư vị. Tâm thanh tịnh là chân tâm. Chân tâm bị chướng
ngại, làm sao quư vị có thể giác ngộ cho được?
Chân tâm khởi tác dụng sẽ là đại triệt đại
ngộ, minh tâm kiến tánh. Ắt phải diệt trừ
những chướng ngại ấy (chúng được gọi
là “nghiệp chướng”),
khiến cho chân tâm của quư vị hiện tiền. Đó
gọi là “do Giới đắc
Định, do Định khai Huệ”. Chân tâm khởi
tác dụng, chính là trí huệ Bát Nhă vốn có trong tự tánh
hiện tiền. Kinh Kim Cang đă nói rất khéo: “Tín tâm thanh tịnh, sẽ sanh Thật
Tướng”. Thật Tướng là Bát Nhă, vốn sẵn
có trong tự tánh. Trí huệ ấy vừa khai, tất cả
hết thảy tánh, tướng, Lư, Sự, nhân, quả trong
vũ trụ thảy đều hiểu rơ, đấy mới
gọi là “phá mê khai ngộ”,
đấy mới là “rốt
ráo ĺa khổ được vui”. Bồ Tát xuất gia tu
hành chứng quả là v́ lẽ này!
Do vậy, Tứ Hoằng Thệ
Nguyện đă nói trọn hết: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, tức
là cứu hộ hết thảy. Nếu quư vị muốn cứu
hộ hết thảy, trước hết, phải cứu
chính ḿnh. Muốn cứu chính ḿnh, điều đầu tiên là đoạn phiền năo, “Phiền năo vô tận thệ nguyện đoạn”.
Sau khi đă đoạn phiền năo, quư vị sẽ thành tựu
trí huệ, thành tựu học vấn, thành tựu năng lực,
mới có thể giúp đỡ. “Pháp
môn vô lượng thệ nguyện học”. Cuối cùng,
c̣n phải đạt đến rốt ráo viên măn, “Phật đạo vô thượng
thệ nguyện thành”. Phật là ǵ? Là đọc sách, là
cầu học. Cầu học th́ nhất định phải
đạt được học vị cao nhất. Phật
đạo là học vị cao nhất, tức Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác. Quư vị cứu hộ hết thảy
sẽ đạt
được đại tự
tại, chẳng có mảy may chướng ngại nào!
Xuất gia, phát đại
nguyện này, đương nhiên là chính ḿnh trọn đủ,
cũng nguyện cho chúng sanh, hy vọng hết thảy chúng
sanh trong khắp pháp giới hư không giới đều
có thể xuất gia giống như Phật. Ư nghĩa này [phải
hiểu theo] nghĩa rộng, xuất gia giống như Phật
chính là “tâm xuất, thân không xuất”, là tại gia Bồ Tát. V́ sao?
Hết thảy chúng sanh chẳng thể rời khỏi xă hội,
Bồ Tát phải tham dự các ngành nghề trong xă hội.
Trong ngành nghề nào cũng đều có Bồ Tát, đều có Phật; v́ thế,
tại gia Bồ Tát đông đảo. Xuất gia Bồ
Tát chuyên môn theo đuổi công tác giáo dục của đức
Phật. Nếu chẳng chuyên môn theo đuổi công tác giáo
dục của đức Phật, sẽ là “tại gia xuất gia”, tức
là “tâm xuất, thân không xuất”, trong bất cứ nghề nghiệp nào cũng đều
cầm đầu, đều dấy lên tác dụng làm khuôn
phép, gương mẫu. Đó là ǵ? Chẳng v́ lợi ích
chính ḿnh, mà nhằm tạo lợi ích cho xă hội, tạo lợi
ích cho chúng sanh. Bất luận làm nghề ǵ, cũng đều
có quan niệm này. Quư vị biết người ấy là Bồ
Tát, chẳng phải là phàm phu. Phàm phu sẽ v́ chính ḿnh, Bồ
Tát v́ xă hội, v́ chúng sanh. A! Nay đă hết thời gian rồi!
***
Chư vị đồng học,
xin hăy ngồi xuống. Xin xem phần kinh văn tiếp
theo, [xin xem] bài kệ thứ chín.
(Kinh) Tự quy ư Phật,
đương nguyện chúng sanh, thiệu long Phật chủng,
phát vô thượng ư.
(經)自歸於佛。當願眾生。紹隆佛種。發無上意。
(Kinh:
Tự quy y Phật, nguyện cho chúng sanh, nối tiếp
hưng thịnh ḍng dơi Phật, phát ư vô thượng).
Tôi nghĩ đối với
các đồng học, ba bài kệ chín, mười, và mười
một hết sức quen thuộc, chính là Tam Quy Y. Bất
quá, tổ sư đă sửa lại mấy chữ trong bài
kệ này. “Tự quy ư Phật”
được sửa thành “[tự] quy y Phật”.
“Tự quy y Phật, tự quy y Pháp, tự quy y Tăng”, Tam Quy Y. Câu ba và câu bốn trong bài kệ quy y Phật hiện
thời rất ít dùng: “Thiệu
long Phật chủng, phát vô thượng ư”. Quá nửa là
sử dụng “thể giải
đại đạo, phát vô thượng tâm”.
Đương nhiên “thể giải
đại đạo” cũng thật sự là “thiệu long Phật chủng”, nhưng tôi vẫn cảm thấy
ư nghĩa “thiệu long Phật
chủng” hay hơn. V́ sao? Tạo sự cảnh giác cao
độ cho người hiện thời. Quư vị thấy
trong Tam Thời Hệ Niệm của thiền sư Trung
Phong, trong Tịnh Tông, Tam Thời Hệ Niệm được dùng để lợi ích kẻ dương lẫn người âm rất
nhiều, trong Tam Thời Hệ Niệm của thiền
sư Trung Phong sử dụng “thiệu
long Phật chủng, phát vô thượng tâm”. Có thể
thấy là tổ sư nhất định cũng thấu
hiểu sâu xa câu này đă tạo sự cảnh giác rất
lớn cho chúng ta. “Thiệu”
(紹) là kế thừa, tiếp nối; “long” (隆) là phát huy rạng rỡ.
Trước hết, chúng ta phải
nhận biết. Quư vị thấy quy y Phật, chẳng phải
là “đệ tử chúng con tên
là… quy y Phật” mà là “tự
quy y Phật”, ư nghĩa này rất sâu. “Tự” (自) là bản thân chúng ta, Phật là ǵ? Phật là bản
tánh của chính chúng ta, chẳng phải là Phật ở bên
ngoài. Thích Ca Mâu Ni Phật dạy chúng ta quy y A Di Đà Phật,
đă dạy rơ: “Tự tánh Di
Đà, duy tâm Tịnh Độ”, đấy là ǵ? Quư vị
phải hiểu đạo lư! Di Đà là tự tánh Di Đà,
Thích Ca đương nhiên chẳng phải là ngoại lệ.
Tự tánh Thích Ca, tự tánh Tỳ Lô Giá Na, chẳng có một
pháp nào ĺa khỏi tự tánh. V́ sao? Tâm hiện, thức biến.
“Quy” (皈) là ǵ? “Quy” là quay đầu. Quay
đầu là bờ, chúng ta đă mê mất tự tánh. Phật
là Tự Tánh Giác. Chữ Phật trong tiếng Ấn Độ
dịch sang nghĩa tiếng Hán là Giác, giác chứ không mê. Nay
chúng ta đă mê, chính ḿnh đă mê, hăy
nhanh chóng quay đầu hướng về Tự Tánh Giác.
Đấy là thật sự quy y, chẳng mê tín nữa!
Ngoài tâm chẳng có pháp, ngoài
pháp chẳng có tâm. Nếu quư vị quy y vị Phật ở
ngoài tâm, sẽ biến thành ngoại đạo. Hai chữ “ngoại đạo” trong nhà
Phật chẳng phải là chửi bới người
khác, mà có nghĩa là “cầu pháp
ở ngoài tâm”; đó là ngoại đạo. Ngoài tâm chẳng
có pháp, ngoài tâm chẳng có Phật, ngoài tâm cũng chẳng
có Tăng. “Tâm hiện, thức
biến”, quư vị phải hiểu đạo lư này. Sau
đấy, quư vị mới thật sự hiểu rơ câu
nói này. V́ Tam Quy là nguyên tắc chỉ đạo cao nhất
trong Phật giáo. Hết thảy các pháp do mười phương
ba đời hết thảy chư Phật, Bồ Tát đă
nói, đều chẳng ĺa khỏi ba nguyên tắc,
cương lănh này. Quư vị thấy, vừa xuất gia bèn
lập tức thọ Tam Quy, thầy truyền trao quư vị
nguyên tắc và cương lănh học tập. Đấy là
mục tiêu và phương hướng tu học suốt một
đời quư vị! Tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng
pháp môn, đều chẳng ĺa khỏi nguyên tắc này. V́ thế,
[Phật, Pháp, Tăng] được gọi là Tam Bảo.
Chúng ta đọc Đàn Kinh,
thấy một ngàn bốn trăm năm trước, nói
theo hiện thời th́ là cách chúng ta một ngàn bốn
trăm năm trước, Thiền Tông Lục Tổ Huệ
Năng đại sư truyền trao Tam Quy cho mọi
người, Ngài chẳng dùng “quy
y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng”, chẳng dùng cách này. Ngài sử dụng cách nào? Ngài
dùng “quy y giác, quy y chánh, quy y
tịnh”. Tôi đọc
Đàn Kinh xong, nh́n vào lời phát thệ trong Tam Quy hiện
thời, bèn liên tưởng v́ sao Lục Tổ Huệ
Năng đại sư phải dùng “giác, chánh, tịnh”, v́ sao chẳng dùng lời phát thệ
theo truyền thống là [quy y] Phật, Pháp, Tăng? Nhất
định là có đạo lư trong ấy!
Vào thời đại của
Huệ Năng đại sư, Phật pháp đă truyền
sang Trung Hoa gần như là bảy trăm năm. Phật
giáo chánh thức truyền sang Trung Hoa vào năm Vĩnh B́nh
thứ mười đời Đông Hán, tức năm sáu
mươi bảy Công Nguyên. Hán Minh Đế sai đặc
sứ sang Ấn Độ thỉnh hai vị pháp sư Ma
Đằng và Trúc Pháp Lan đem kinh Phật và tượng
Phật sang Trung Hoa. Trước đó, trong dân gian đă có
[Phật giáo], đă có từ rất sớm, nhưng chẳng
do quốc gia đề xướng. V́ thế, ảnh
hưởng chẳng lớn. Quốc gia đề xướng,
quốc gia khải thỉnh, ảnh hưởng bèn to lớn!
Thời gian bảy trăm năm cũng khá dài, khẳng
định là người thọ tŕ Tam Quy đă nẩy
sanh hiểu lầm. Hiện thời lại cách thuở
đó hơn một ngàn năm, sự hiểu lầm càng
ngày càng nghiêm trọng hơn, biến thành mê tín. Nghe nói “quy y Phật”, bèn nghĩ đến tượng Phật. Ngạn
ngữ có câu: “Nê Bồ Tát quá
hà, tự thân nan bảo” (Bồ Tát nặn bằng đất
vượt sông, khó giữ nổi ḿnh). Tượng ấy
có thể phù hộ quư vị hay chăng? Nhưng hiện thời, sự nẩy
sanh hiểu lầm như vậy rất phổ biến. V́
thế, lăo nhân gia thay đổi danh từ, chẳng dùng
cách nói “Phật, Pháp, Tăng”,
mà đổi thành “giác, chánh, tịnh”,
mọi người sẽ thấy rơ ràng hơn, minh bạch
hơn, chẳng nẩy sanh hiểu lầm. Quy y giác, sau
đấy bèn giải thích, “Phật
là giác”, giác chứ không mê, đấy là Phật. Do
đó, “tự quy y Phật”
là từ mê trở về Tự Tánh Giác. Cách nói
như vậy rất minh bạch!
Nay chúng ta là tự tánh mê. Từ
tự tánh mê trở về Tự Tánh Giác, đấy mới
là thật sự quy y Phật. Ư nghĩa này hay lắm! Nhưng
chúng ta chẳng giác được! Có ai chẳng mong giác, chẳng
mong khai ngộ, chẳng mong đại triệt đại
ngộ? Đại triệt đại ngộ là đại
giác, nhưng chẳng giác được. Đối với
nguyên nhân bất giác, phải biết Tự Tánh Giác vốn
sẵn có. Trong Khởi Tín Luận, Mă Minh Bồ Tát đă nói
rất hay: “Bổn Giác vốn
có, bất giác vốn không!” Bất
giác là mê, vốn chẳng có mê, giác là vốn sẵn có. Nay v́ sao quư vị bất giác, biến thành mê? Trong
kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đă nói rất hay: “Do một niệm bất giác, bèn
có vô minh”. Có vô minh, sẽ mê càng ngày càng nghiêm trọng.
Sau khi đă mê, chẳng quay về được! “Vô minh bất giác sanh tam tế, cảnh
giới làm duyên tăng trưởng lục thô”. “Tam tế,
lục thô” là
nói đến cội nguồn của các hiện tượng,
tức sâm la vạn tượng trong vũ trụ, vạn
sự vạn vật do đâu mà có, đă nói rơ ràng!
Vô minh là ǵ? Bất giác là ǵ?
Trong các buổi giảng, chúng tôi cũng thường nói: Khởi
tâm động niệm là vô minh, khởi tâm động niệm
là bất giác. Giác tâm là bất động, thanh tịnh, tịch
diệt, đó là giác tâm, chân tâm. Chân tâm bất động,
vọng tâm là động, khởi tâm động niệm là
động. Tuy hiện thời chúng ta khởi tâm động
niệm, mỗi người chúng ta đều có chân tâm, chân tâm
vẫn là “như như bất động” y như
cũ, vọng tâm đang động. Tuy vọng tâm là động,
hoàn toàn chẳng trở ngại chân tâm. Chân tâm của quư vị
vẫn bất động. Vấn đề trong hiện
thời là ở chỗ nào? Quư vị chẳng dùng chân tâm, mà
dùng vọng tâm. Chân tâm chẳng làm chủ, vọng tâm nắm
quyền. Cổ nhân đă có tỷ dụ rất hay, chân tâm
là chủ nhân, vọng tâm là kẻ hầu trong nhà. Hiện
thời th́ sao? Chủ nhân chẳng ngó ngàng mọi
việc, kẻ hầu làm chủ, phiền phức xuất
hiện! Khi nào chủ nhân quan tâm mọi việc, người
hầu nghe theo lệnh sai khiến, đó là “b́nh thường”. Kẻ hầu nghe theo lệnh
sai khiến, chính là chư Phật Như Lai tùy loại hóa
thân trong mười pháp giới. Kinh Lăng Nghiêm đă nói: “Thuận theo tâm chúng sanh, ứng
với khả năng lănh hội của họ”, nghe theo lệnh đấy! Vị chủ nhân nắm quyền là chân tâm. Do vậy có thể
biết, trong Nhất Chân pháp giới, chủ nhân nắm quyền,
c̣n trong mười pháp giới đều là do kẻ
hầu nắm quyền. Mười pháp giới càng lên cao
hơn, quyền hành của kẻ hầu càng nhỏ
đi, nhưng họ vẫn là người nắm quyền. Càng
đi xuống, quyền hành của kẻ hầu càng lớn.
Tỷ dụ này dễ hiểu!
Do vậy, đức Phật
thường nhắc đến vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước, những thứ ấy là vọng
tâm. Vọng tâm chia làm ba cấp. Vọng tâm là vô minh, là khởi
tâm động niệm. Lục căn của chúng ta tiếp
xúc cảnh giới bên ngoài, thật sự không khởi tâm,
không động niệm, chân tâm bèn nắm quyền. Chân tâm
nắm quyền, sẽ là Như Như Phật, bổn lai Phật (vị Phật vốn sẵn có)! Do đó, phải hiểu khởi tâm động niệm,
phân biệt, chấp trước là giả, vốn chẳng
có. Trong chân tâm, chẳng có những thứ ấy. Những
thứ ấy hoàn toàn hư vọng. Phật, Bồ Tát giác
ngộ, Phật, Bồ Tát đă t́m thấy chân tâm, trở về
tự giác, trở về Bổn Giác. Quư vị mong học Phật,
mong giống như Phật, quư vị hăy đi
theo phương hướng này, hướng theo mục
tiêu này! Thế nhưng từ vô lượng kiếp đến
nay, phàm phu lầm tưởng vọng tâm là chân tâm, nhận
lầm mất rồi! Trong kinh Phật có tỷ dụ “nhận tặc vi tử” (ngỡ giặc là con). Quư
vị chẳng biết nó là hư vọng, ngỡ nó là chân thật,
sai mất rồi! Nó chẳng phải là chân thật, mà là
hư vọng, điều này tạo thành tri kiến sai lầm.
Dùng cái tâm này, chắc chắn là quư vị chẳng thể giải
quyết vấn đề.
Hiện thời, đối
với vấn đề động loạn trên toàn thể thế giới, nếu chẳng trở về tự
tánh, hiện tượng rối loạn ấy, tướng
suy vi ấy tất nhiên sẽ mỗi năm một nghiêm trọng
hơn. Cứ tiếp tục, sẽ thật sự là “tận thế” như các tôn
giáo phương Tây đă nói. Có thể tận thế hay
không? Quan sát cẩn thận, lắng ḷng tư duy, [sẽ thấy
là] có thể, rất có thể. Nói đến chỗ này, ai
nấy mới có tâm cảnh giác đôi chút. Chừng nào tận
thế phát sanh? Chẳng ai biết. Nói theo tôn giáo, rốt cuộc
tận thế phát sanh vào ngày nào, chỉ có Chúa biết! Họ
nói trừ Chân Thần ra, thiên sứ cũng đều chẳng
biết. Nhưng nếu như thế giới biến hóa,
sẽ chẳng phải là đột nhiên, chẳng phải
là th́nh ĺnh biến đổi trong một ngày, mà sẽ là biến
hóa dần dần. Biến đổi dần dần, nhất định
là có điềm báo trước! Chẳng sai! Chỉ cần
nh́n từ những điềm báo ấy, quư vị sẽ
biết: Hiện thời, tận thế cách chúng ta ngày càng
gần!
Tôi cũng thường khuyên
dạy các đồng học. Quư vị hăy lắng ḷng quan
sát, cứ so sánh từng mười năm một, sẽ dễ
dàng nh́n ra. Đối với mười năm, nh́n vào
mười năm trong quá khứ, sẽ là hai mươi
năm. Lại [nh́n vào] mười năm trong quá khứ
trước đó nữa, sẽ là ba mươi năm trước
đó. Lại nh́n vào mười năm trước đó, sẽ
là bốn mươi năm trước. Quư vị cứ so
sánh từng giai đoạn một như vậy, trước
hết là nh́n vào trạng huống xă hội và cuộc sống
của nhân dân, lại quan sát hết thảy các tạo tác
nơi ba nghiệp của hết thảy chúng sanh, quư vị
sẽ có thể rút ra một kết luận. Mười
năm là một giai đoạn, mỗi giai đoạn sau
chẳng bằng giai đoạn trước! Hiện
tượng này rất đáng sợ! Nếu chẳng thể
thay đổi, vẫn tiếp tục phát triển theo
hướng này, mười năm sau, hai mươi năm
sau, ba mươi năm sau, chúng tôi cũng chẳng dám
nghĩ tận thế có hiện tiền hay không?
Nhân loại tạo tác bất
thiện, ảnh hưởng đến sự biến hóa
trong tự nhiên. Trong tôn giáo thường nói, mỗi tôn giáo
đều nói như vậy, đă nói xong, c̣n khuyên mọi
người, ḷng người phải hướng thiện,
phải sám hối, phải sửa lỗi, phải
dùng ḷng nhân từ để đăi người tiếp vật.
“Cho (bố thí) th́ sẽ có
phước hơn là nhận lănh”. Cơ Đốc giáo
nói như vậy. Nếu [ai nấy] đều có thể tiếp
nhận giáo dục tôn giáo, đều có thể tiếp nhận
giáo dục nhân quả, chúng ta hồi tâm hướng thiện,
đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành,
chắc chắn sẽ hóa giải tai nạn tận thế.
Dẫu chẳng thể hóa giải hoàn toàn, nói chung là hóa giải
từ một nửa
trở lên! Thời gian [xảy ra] tận thế đương nhiên sẽ bị kéo chậm
lại, điều này là khẳng định! Do vậy,
giáo dục quan trọng hơn bất cứ điều
nào!
Khoa học kỹ thuật chẳng
thể giải quyết vấn đề này. Quư vị thấy
khoa học có thể giải quyết vấn đề
động đất trong hiện thời hay không? Có thể
giải quyết chuyện sóng thần hay không? Chẳng thể
giải quyết! Lớp vỏ
địa cầu biến hóa, có thể giải quyết
hay không? Hiện thời ai nấy đều biết,
băng ở Nam Cực và Bắc Cực bị tan chảy,
băng hà ở
cao nguyên đă bị tan chảy. Các
nhà khoa học cho biết, nếu băng ở Nam Cực và
Bắc Cực hoàn toàn tan chảy, hiện thời tốc
độ tan băng rất nhanh, mực nước biển
tại vùng duyên hải sẽ dâng lên từ năm
mươi mét cho đến bảy mươi mét. Nói cách
khác, các đô thị vùng duyên hải trên khắp thế giới
đều bị nước biển nhấn ch́m! Điều
này có nghĩa là chẳng có tai nạn chi khác, nước biển
dâng cao, tràn ngập! Khối băng ở Nam Cực và Bắc
Cực bị tan chảy, nước biển dâng cao, lục địa trên
địa cầu bị thu nhỏ. Chiếu theo cách nói thông thường, tối thiểu là rút nhỏ một phần tư lục
địa, cũng là hai mươi lăm phần trăm!
Nói theo hiện thời, những chỗ thấp hơn
năm mươi mét cho đến bảy mươi mét [so với mực nước biển]
thảy đều bị nhấn
ch́m, chẳng có cách nào giải quyết. Các khoa học gia biết
chuyện này, làm thế nào để có thể ngăn ngừa sự tan chảy của khối
băng tại Bắc Cực và Nam Cực? Không khí ô nhiễm,
nước ô nhiễm, hiện thời là một vấn
đề hết sức nghiêm trọng và bức thiết,
làm cách nào để giải quyết vấn đề này?
Do vậy, trong kinh giáo, đức Phật thường nhắc
nhở chúng ta phải giác ngộ. Giác ngộ là chớ nên tạo
tác ác nghiệp nữa. Ư niệm bất thiện, tức là
ư nghiệp của quư vị bị ô nhiễm. Ngôn ngữ bất
thiện, tức là khẩu nghiệp bị ô nhiễm. Thân
thể tạo tác bất thiện, chính là thân nghiệp bị
ô nhiễm. Tam nghiệp đều bất thiện, càng mê càng sâu
hơn.
V́ thế, chúng ta phải nhận
thức rơ ràng câu “tự quy
ư Phật” (自歸於佛) [trong bài kệ này], chớ
nên hiểu lầm ư nghĩa, đừng mê tín! “Đương nguyện chúng sanh,
thiệu long Phật chủng”: Trong phần trước
đă nói về xuất gia, xuất gia giống như Phật.
“Thiệu” (紹) là kế thừa, tiếp nối huệ mạng của
Phật. “Phật chủng” (佛種) là huệ mạng của chính ḿnh. “Phật chủng” có hai ư nghĩa. Ư nghĩa thứ
nhất là tự tánh của chính ḿnh. Trong kinh, đức Phật
đă dạy chúng ta: Trong A Lại Da Thức của hết
thảy chúng sanh, có trọn đủ viên măn chủng tử
của mười pháp giới. Trong mười pháp giới
có Phật chủng. Phật chủng vĩnh hằng bất
diệt. Phật chủng là ǵ? Phật Tánh! Hết thảy
chúng sanh đều có Phật Tánh. Phật Tánh là trí huệ
Bát Nhă trong tự tánh;
đấy là Phật Tánh. Hết
thảy chúng sanh thảy đều có! Hiện tại mê, mê
chứ không giác. Trong kinh, đức Phật đă nói về
điều này rất hay, v́ sao mê?
“Chỉ v́ vọng tưởng, chấp trước mà chẳng
thể chứng đắc”, lời ấy đă giải
thích rất minh bạch! Nếu chúng ta trừ bỏ vọng
tưởng, chấp trước, Phật Tánh sẽ hiện
tiền, Phật chủng sẽ hiện tiền. Phải
hiểu đạo lư này, phải nghiêm túc thực hiện!
Thực hiện từ
nơi đâu? Trước hết, thực hiện từ chỗ
nông cạn, chẳng chấp trước hết thảy
các pháp thế gian và xuất thế gian. Chẳng chấp
trước, quư vị có thể tùy duyên, sẽ tự tại!
Ngay cả thân thể này cũng chẳng chấp trước,
đối với Ngă cũng chẳng chấp trước,
vô ngă! Hễ chấp trước, trật mất rồi!
Thân tướng này là do Tứ Đại và Ngũ Uẩn
ḥa hợp mà hiện thành một h́nh tướng như thế
đó. Trong Tứ Đại và Ngũ Uẩn, quư vị chẳng
thể t́m được Ngă! Quư vị t́m kiếm Ngă trong Tứ
Đại và Ngũ Uẩn, trọn chẳng thể
được, chứng tỏ chẳng có Ngă! V́ sao quư vị
chấp trước những thứ ấy là Ngă? V́ chấp
trước là Ngă, cho nên nẩy sanh ích kỷ, tham, sân, si, mạn,
vô lượng phiền năo, vô lượng tội nghiệp
trong ấy, sai mất rồi!
Thật sự học Phật,
làm đệ tử đức Phật, quư vị phải
giống như Phật, giống như Bồ Tát, bỏ sạch
những thứ ấy! Sau khi đă bỏ sạch những
thứ ấy, sẽ là A La Hán, tức Chánh Giác, là tiểu
ngộ. Tuy chưa triệt ngộ, là tiểu ngộ,
nhưng v́ không c̣n chấp trước những thứ ấy, lục đạo sẽ chẳng có. Quư vị vào
trong lục đạo, nhằm hành Bồ Tát đạo, hồi
Tiểu hướng Đại, hành Bồ Tát đạo
để giúp chúng sanh giác ngộ. Chính ḿnh giác ngộ, nêu
gương giác ngộ cho chúng sanh thấy. Tuy h́nh tướng
giống như chúng sanh, nội tâm hoàn toàn khác hẳn. H́nh
tướng th́ ḥa quang đồng trần, đáng nên dùng
thân ǵ để đắc độ, bèn hiện thân ấy.
Hiện thân chẳng phải là hữu ư; hễ hữu ư hiện
thân nào, [tức là] vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước của quư vị chẳng đoạn, [mà là] vô
ư. Vô ư th́ làm sao có thể hiện thân? Đúng là khó
hiểu! May mắn là thí nghiệm của tiến sĩ
Giang ở Nhật Bản đă tạo một chứng minh
khoa học cho chúng ta. Chúng tôi thấy thí nghiệm ấy,
bèn hoảng nhiên đại ngộ. Nước chẳng có
tâm, v́ sao nó có thể tùy thuộc ư nghĩ của con người
[mà chuyển biến]? Do đâu mà có nước? Duy tâm sở
hiện, duy thức sở biến. Bản thể của
nước là ǵ? Là Pháp Tánh. Pháp Tánh là Phật Tánh, Pháp Tánh là
chân Phật, Pháp Tánh là Phật chủng, Pháp Tánh là chân tâm của
chính ḿnh. Xác thực thuận theo sự cảm của chúng
sanh, chúng sanh khởi tâm động niệm, nước sẽ
cảm ứng. Thiện niệm bèn có thiện ứng, ác niệm
sẽ có ác ứng. Núi, sông, đại địa, toàn thể
vũ trụ thuận theo tâm chúng sanh, ứng với khả
năng tiếp nhận của họ, tùy tâm ứng lượng!
Từ chứng minh khoa học
ấy, chúng tôi đă đoạn sạch nghi hoặc từ
bao nhiêu năm qua. Trong giáo pháp Đại Thừa, cảnh
giới ấy được gọi là “bất tư nghị giải thoát cảnh giới” (cảnh
giới giải thoát chẳng thể nghĩ bàn). Chúng ta
cũng hiểu rơ “bất
tư nghị” là ǵ? “Tư”
(思) là tư duy, “nghị”
(議) là nghị luận. Nghiên cứu, hay thảo
luận đều chẳng thể, tự nhiên! Quư vị chỉ cần thêm tư duy vào, thêm nghiên cứu,
thảo luận
vào, sẽ chẳng thấy chân tướng;
đấy là ǵ? Sẽ thành pháp thế gian! Thêm vào tư duy,
nghị luận sẽ là pháp thế gian, là mê, người
thế gian nói là Thế Trí Biện Thông, kinh Phật nói là Thế
Trí Biện Thông. Thế Trí Biện Thông là một trong tám nạn.
Ĺa khỏi hết thảy tư duy, nghị luận, sẽ
là “bất tư nghị”,
chân tướng hiện tiền. Chân tướng mới có
thể hiện tiền. V́ thế, từ sự kết tinh
của nước, có thể thấy chân tướng,
nhưng chân tướng [như chúng ta trông thấy chỉ
là] cục bộ! Từ cục bộ, quư vị có thể
suy ra toàn thể. Chúng ta có ư niệm bất đồng
đối với nước, nó sẽ sanh ra phản ứng
khác nhau. Đối với núi, sông, đại địa,
đối với hết thảy chúng sanh, chắc chắn
là không khác. Chúng ta có thiện niệm, toàn thể núi, sông,
đại địa, hết thảy chúng sanh chắc chắn
sẽ có phản ứng tốt đẹp. Chúng ta có ác niệm,
chắc chắn là [chúng
sẽ phản ứng] xấu hèn! Từ một
pháp, quư vị có thể hiểu hết thảy các pháp. Người
thế gian thường nói “nghe
một biết mười”; ở đây, không chỉ biết
mười, [mà là] nghe một biết hết thảy!
Chứng đắc bằng
cách nào? Chẳng có ǵ khác, buông xuống! Buông xuống chấp
trước, buông xuống phân biệt. Buông xuống chấp
trước, quư vị là Chánh Giác, là A La Hán. Buông xuống
phân biệt, quư vị là Bồ Tát, là Chánh Đẳng Chánh
Giác. Buông xuống khởi tâm động niệm, quư vị
là Phật, là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Khi
tôi mới học Phật, thầy dạy tôi phương
pháp là “buông xuống, thấy thấu
suốt”. “Thấy thấu suốt” là ǵ? “Thấy thấu suốt” là hiểu rơ. Chẳng cần
thông qua tư duy, chẳng cần trải qua tưởng
tượng, mà tự nhiên hiểu rơ! V́ sao quư vị chẳng
hiểu rơ chân tướng sự thật? Chân tướng
sự thật chính là “Thật
Tướng của các pháp” như trong kinh Phật đă
dạy. V́ sao quư vị chẳng hiểu rơ? Quư vị có nghiệp
chướng, có chướng ngại. Đối với ba
loại lớn ấy, Kiến Tư phiền năo là chấp
trước, Trần Sa phiền năo là phân biệt, Vô Minh phiền
năo là khởi tâm động niệm, chướng ngại chân
tâm của quư vị, chướng ngại sự nhận biết
chân tướng sự thật!
Trong đời này, chúng ta may
mắn được làm thân người, được
nghe Phật pháp, được gặp gỡ chánh giáo! Có
nhiều đồng tham đạo hữu ngần ấy
cùng nhau học tập, khích lệ lẫn nhau, phải thật
sự hành, phải thật sự phát tâm thiệu long Phật
chủng. Đầu tiên là phải thiệu long Phật chủng
của chính ḿnh. Chính ḿnh phải là thật tu, thật chứng;
sau đấy mới hoằng dương rạng rỡ, thiệu
long Phật chủng của Thích Ca Mâu Ni Phật, [khiến
cho] chánh pháp tồn tại lâu dài [trong thế gian]. Giới
thiệu tâm đắc học tập của chính ḿnh đối
với giáo huấn của đức Thế Tôn và giáo huấn
của chư Bồ Tát, giới thiệu sự thọ dụng từ việc học
tập của chính ḿnh, giới thiệu với hết thảy
chúng sanh trong thế gian, chia sẻ với mọi người. Đó gọi là hoằng pháp lợi
sanh.
“Phát
vô thượng ư”: “Phát” (發) là phát tâm, “ư” chính là
tâm. Do vậy, tổ sư sửa thành “phát vô thượng tâm”, ư nghĩa hoàn toàn như
nhau! Vô thượng tâm là pháp chứng đắc rốt ráo
viên măn nơi quả địa Như Lai, tức là Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác. Nhất định phải lấy
điều này làm mục tiêu chung cực. Do vậy, câu này rất
trọng yếu, trọng yếu ở chỗ nào? Chẳng
thể đắc chút ít, đă cho là đủ! Quư vị đạt
được Chánh Giác, bèn cảm thấy rất thỏa
măn. Vượt thoát lục đạo, nh́n lại lục
đạo, quư vị thấy rành mạch, rơ ràng Tánh, Tướng,
Lư, Sự nhân quả của lục đạo. Đấy
là A La Hán. Như kinh đă nói, quư vị có năng lực biết
năm trăm đời quá khứ, năm trăm đời
vị lai. Thật sự có thể nói là thần thông quảng
đại! Quư vị du hành đến nơi đâu, chẳng
cần phương tiện giao thông. Nghĩ đến
nơi đâu, sẽ liền đến nơi đó!
Chuyện này dường
như là thần thoại! Chẳng phải là thần thoại,
v́ sao? A La Hán đă đột phá thời gian và không gian.
Cũng có nghĩa là, Ngài chẳng có thời gian, mà cũng chẳng
có không gian. Chẳng có thời gian, sẽ chẳng có trước
sau. V́ thế, năm trăm đời quá khứ và năm
trăm đời vị lai ở ngay trước mắt.
Chẳng có không gian, sẽ chẳng có khoảng cách. V́ thế,
Ngài có thể tùy theo cái tâm của chúng sanh mà ứng hiện
phù hợp. A La Hán c̣n có cảnh giới này, huống hồ Bồ
Tát? Huống hồ đức Phật? Đă đột phá
thời gian và không gian, cảnh giới sống sẽ hoàn
toàn chẳng giống chúng ta. Không gian sống của chúng ta
quá nhỏ, chúng ta chẳng thể sánh bằng Ngài. Nếu lại
so sánh các Ngài (các vị A La Hán) với Bồ Tát th́ [A La Hán]
cũng chẳng thể sánh bằng. Do vậy, chớ nên ngừng
nơi tiểu quả, chớ nên ngừng tại đó, nhất
định là phải c̣n tiến cao hơn!
Nếu tiến cao hơn nữa,
phải phát tâm, phát cái tâm giống như Phật, nguyện
giống như Phật, sẽ tiến cao hơn. Tiến
cao hơn thành Bồ Tát. Lại tiếp tục bỏ sạch
phân biệt, chẳng phân biệt hết thảy các pháp thế
gian và xuất thế gian. Cái tâm chẳng phân biệt chính là
b́nh đẳng. Không chấp trước, A La Hán chẳng chấp
trước, tâm Ngài thanh tịnh. Ngài chỉ đạt
được thanh tịnh, vẫn chưa đạt
được b́nh đẳng. Bồ Tát đă đắc
b́nh đẳng, chính là Chánh Đẳng Chánh Giác. Đạt đến cảnh
giới Bồ Tát, cũng phải sợ, sợ chính ḿnh sẽ
rất thỏa măn. Hễ thỏa măn, sẽ chẳng thể
tăng tấn được! Quyết định chớ
nên nẩy sanh ư niệm ấy, phải vĩnh viễn
tăng tấn! Chúng ta biết Đại Thừa Bồ Tát
có bốn mươi mốt địa vị. Bốn mươi
mốt địa vị tính từ Thập Trụ, địa
vị Thập Tín chẳng tính, [bởi lẽ], địa
vị Thập Tín chẳng ĺa khỏi mười pháp giới.
Sơ Trụ đă vượt thoát mười pháp giới.
V́ thế, phát vô thượng tâm rất quan trọng! Nếu
chẳng phát vô thượng tâm, vị ấy sẽ chẳng
thể tăng tấn. Nhất định phải phát, phải
chứng đắc quả vị rốt ráo viên măn. Cũng
có nghĩa là nơi tự tánh chớ nên có mảy may ô nhiễm,
phải trừ sạch tất cả chướng ngại,
tất cả ô nhiễm th́ mới là viên măn. Viên măn, đạt
đến Phật quả rốt ráo, tức là Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác. Do vậy, khi quư vị phát tâm, nhất
định sẽ cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác. Phải phát cái tâm ấy, tâm ấy được gọi
là đại Bồ Đề tâm. Nếu chỉ là Bồ
Tát, quư vị phát Bồ Đề tâm, sẽ là Chánh Đẳng
Chánh Giác. Thế nhưng A La Hán chẳng phát Bồ Đề
tâm, đạt đến Chánh Giác, chẳng phát Bồ Đề
tâm! Bồ Đề tâm là Đại Giác, Phật là Vô
Thượng Giác. Hàm nghĩa trong mỗi câu đều rất
sâu!
Quư vị phát cái tâm ấy,
đạt đến mức phá một phẩm vô minh, chứng
một phần Pháp Thân. Khi ấy, không chỉ là chẳng có
phân biệt, chấp trước, mà khởi tâm động
niệm cũng chẳng có. Trong Nhất Chân pháp giới là
pháp giới b́nh đẳng, vô thượng tâm c̣n có tác dụng
hay chăng? Có tác dụng! Tác dụng ấy chẳng thể
nghĩ bàn, quư vị chẳng có cách nào suy tưởng, mà
cũng chẳng thể thảo luận. Do vậy, trong giáo
pháp Đại Thừa, sự tu hành của bậc Bồ
Tát trong Nhất Chân pháp giới được gọi là “vô công dụng đạo”, nó khởi
tác dụng ấy. Cũng có nghĩa là, ba đại
A-tăng-kỳ kiếp nhằm đoạn sạch tập
khí căn bản vô minh, một mực tăng tấn là do sức
mạnh nào thao túng? Chính là ư niệm này! Cái ư niệm ấy ở nơi đây
chẳng có, phát khởi nơi nhân địa,
th́ sẽ là như chúng ta là những kẻ mới học
Phật trong hiện thời, khởi tâm động niệm,
nguyện tâm kiên định. Trong tương lai, sau khi
đă phá một phẩm vô minh, đoạn hết tập
khí vô minh, ư niệm đó sẽ tự nhiên sanh ra sức mạnh. Lư và Sự
đều rất khó hiểu, phải rất chú tâm lănh hội,
sẽ mường tượng hiểu được.
Đối với cảnh giới thật sự, chẳng
có cách nào, cảnh giới ấy chẳng thể nghĩ bàn!
Chẳng thể nghĩ bàn mà đức Phật cũng nói ra một chút cửa nẻo và
đường lối ở đây nhằm hướng dẫn
chúng ta. Từ sự hướng dẫn ấy, chúng ta có
được đôi chút manh mối. Tin sâu chẳng ngờ
manh mối ấy, nơi Bồ Đề đạo sẽ
khởi tác dụng. A! Nay đă hết thời gian rồi!
Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 24 hết
[1] Nguyên văn là “bài kệ thứ sáu”, chúng tôi sửa
thành bài kệ thứ năm cho hợp với chánh kinh.
[2] Đây
là cách phân loại trong lối chép sử truyền thống
của Trung Hoa. Đối với mỗi triều đại,
sử được chia thành hai phần: Bổn Kỷ (本紀) là phần
chép về tiểu sử của các vị hoàng đế
thuộc triều đại ấy, Liệt Truyện (列傳) là phần
chép về tiểu sử của các đại thần hoặc
những nhân vật hữu danh thuộc triều đại
ấy. Nội dung của Liệt Truyện rất phong phú,
chia thành các tiểu loại như Thích Khách Truyện, Du Hiệp
Truyện, Nho Tông Truyện (các bậc nho gia đạo đức,
gương mẫu), Khốc Lại Truyện
(truyện về những viên quan hà khắc, độc ác),
Nho Lâm Truyện (các nho sĩ nổi danh, có thành
tựu vẻ vang), Đạo Học
Truyện, Lương Lại Truyện (những vị quan
trung lương cần mẫn), Hănh Thần Truyện (những
quan lại được vua sủng ái, cậy thế lộng
hành), Ngoại Thích Truyện (truyện về những
người thông gia với hoàng tộc), Yêm Hoạn Truyện
(chép về những thái giám nổi danh) v.v…
[3] Do từ
ngoài biên cương phía Bắc Trung Hoa để vào
Trung Nguyên, phải qua các cửa ải như
Sơn Hải Quan, Nhạn Môn Quan, cho nên khi
các sắc dân du mục ở phương
Bắc như
Mông Cổ, Tiên Ty, Hung Nô, Kim, Măn Châu v.v… tiến
vào Trung Hoa xâm chiếm lănh thổ, lập ra các vương triều, đều gọi
là “nhập quan” (vào trong quan ải).
[4] Nguyên
văn là “kiến
quốc” (建國), chính là
ngày quốc khánh, nhằm kỷ niệm ngày thành lập
Trung Hoa Nhân Dân Cộng Ḥa Quốc (Trung Cộng), tức ngày
mồng Một tháng Mười năm 1949.
[5] Thanh
Châu (青州) là một
huyện của Sơn Đông. Thanh Châu là một địa
phương đă có rất lâu đời, được
xếp vào chín châu thời cổ, là nơi cư trú của
các tộc người thuộc Đông
Di vào thời nhà Hạ. Sau khi nhà Châu dẹp Trụ, đất
này được phong cho Khương Thượng
(Khương Tử Nha), thuộc vào lănh thổ nước
Tề. Kinh đô Lâm Truy của nước Tề cũng trực
thuộc vùng này. Nơi này đă được chọn làm
kinh đô khi Mộ Dung Đức chiếm cứ Sơn Đông, lập ra nhà Bắc Yên. Trải
các triều đại, nơi này luôn là một thị
trấn quan trọng nhất của vùng Sơn Đông, cho
nên có rất nhiều di vật văn hóa có giá trị. Đặc
biệt tại đây có Đà Sơn Thạch Quật; trong hang đá ấy có đến sáu trăm ba mươi tám tượng
Phật bằng đá, chủ yếu
là được tạo khắc vào đời Bắc
Châu của Nam Bắc Triều, phần c̣n lại chủ yếu
là được tạo tác vào đời Đường.
[6] Đại
y có hai mươi lăm điều, tức là tương ứng
với hai mươi lăm hữu trong tam giới.
[7] Theo cách
phán giáo của tông Hiền Thủ, kinh Hoa Nghiêm được
chia thành chín hội giảng ở bảy nơi khác nhau, nên
thường gọi là “thất
xứ cửu hội”:
1. Hội
thứ nhất giảng tại Bồ Đề Đạo
Tràng, bao gồm sáu phẩm đầu của kinh Hoa Nghiêm là
Thế Chủ Diệu Nghiêm, Như Lai Hiện Tướng,
Phổ Hiền Tam Muội, Thế Giới Thành Tựu, Hoa
Tạng Thế Giới và Tỳ Lô Giá Na.
2. Hội
thứ hai, giảng tại điện Phổ Quang Minh, bao
gồm sáu phẩm, tức Như Lai Danh Hiệu, Tứ
Thánh Đế, Quang Minh Giác, Bồ Tát Vấn Minh, Tịnh Hạnh
và Hiền Thủ.
3. Hội
thứ ba, giảng tại Đao Lợi thiên cung, gồm
sáu phẩm, tức Thăng Tu Di Sơn Đảnh,
Tu Di Sơn Đảnh Kệ Tán, Thập Trụ, Phạm Hạnh,
Sơ Phát Tâm Công Đức, và Minh Pháp.
4. Hội
thứ tư, giảng tại Dạ Ma thiên cung, gồm bốn
phẩm là Thăng Dạ Ma Thiên Cung, Dạ Ma Cung Kệ Tán,
Thập Hạnh, và Vô Tận Tạng.
5 Hội
thứ năm, giảng tại Đâu Suất thiên cung, gồm
ba phẩm, tức Thăng Đâu Suất Thiên
Cung, Đâu Suất Kệ Tán, và Thập
Hồi Hướng.
6. Hội
thứ sáu, giảng tại Tha Hóa thiên cung, gồm một phẩm,
tức phẩm Thập Địa.
7. Hội
thứ bảy giảng tại điện Phổ Quang Minh,
gồm mười một phẩm, tức Thập Định,
Thập Thông, Thập Nhẫn, A Tăng Kỳ, Thọ
Lượng, Chư Bồ Tát Trụ Xứ, Phật Bất
Tư Nghị, Như Lai Thập Thân Tướng Hải,
Như Lai Tùy Hảo Quang Minh Công Đức, Phổ Hiền
Hạnh và Như Lai Xuất Hiện.
8. Hội
thứ tám, cũng giảng tại điện Phổ Quang
Minh, gồm một phẩm, tức phẩm Ly Thế Gian.
9. Hội
thứ chín, giảng tại Trùng Các giảng đường
(tức Thệ Đa Lâm, tức vườn Kỳ Đà,
hay tinh xá Kỳ Hoàn), gồm một phẩm, tức phẩm
Nhập Pháp Giới.