Đại Phương Quảng
Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười
một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần
25
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Địa điểm: Hương Cảng Phật
Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ ngày mồng Bảy tháng
Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ Trang và Minh
Tiến
Tập 1511
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi
xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười
một, xem từ bài kệ thứ mười của phần
Xuất Gia Thọ Giới:
(Kinh) Tự
quy ư Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh
tạng, trí huệ như hải.
(經)自歸於法。當願眾生。深入經藏。智慧如海。
(Kinh: Tự quy y Pháp, nguyện
cho chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như biển).
Đây là điều thứ
hai trong Tam Quy, “quy y Pháp”. Trong
phần trước đă nói về quy y Phật, điều
thứ hai là quy y Pháp. Pháp là Tự Tánh Pháp Bảo. Trong
Đàn Kinh, Huệ Năng đại sư đă dạy chúng ta, Phật
có nghĩa là Giác, [“tự quy y
Phật” là] tự quy y Giác. Điều thứ hai là quy y
Chánh. Do vậy có thể biết, Pháp là chánh tri chánh kiến.
Tiêu chuẩn của Chánh là ǵ? Tiêu chuẩn là Pháp Tánh. V́ thế,
Pháp ở đây có ư nghĩa Pháp Tánh, có ư nghĩa Pháp Tướng.
Tánh và Tướng là một Thể, đó gọi là “Tánh, Tướng chẳng hai;
Tánh và Tướng như một”. Chỉ cần chẳng
có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, Pháp
ấy chính là chánh pháp. Hễ thêm vào vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước, trong Pháp ấy sẽ có thiện
và ác. Phật pháp nói “thiện,
ác, vô kư”, [do vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước], sẽ xuất
hiện những thứ ấy. Trong Pháp
Tánh, thậm chí trong Pháp Tướng, thiện, ác, vô kư (không thiện, không ác) đều chẳng có. Do vậy, Huệ Năng đại
sư đă nói rất hay: “Vốn
chẳng có một vật”. “Vốn
chẳng có một vật” không có nghĩa là “chẳng có Pháp
Tánh, chẳng có Pháp Tướng”. “Vốn chẳng có một vật” nghĩa là “chẳng có hết thảy vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước”. Khi ấy,
quư vị mới có thể thật sự kiến đạo,
đâu đâu cũng là đạo, làm chuyện ǵ cũng thuận lợi!
Phàm phu chẳng thấy [Tánh]
là do nguyên nhân nào? V́ phàm phu có vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước. Nhị Thừa tuy thấy đôi chút,
nhưng mơ hồ. Tuy Nhị Thừa chẳng chấp
trước, họ hăy c̣n có vọng tưởng và phân biệt.
Bồ Tát thấy rơ ràng hơn Nhị Thừa, nhưng Bồ
Tát chưa phá vô minh, chỉ đoạn phân biệt và chấp
trước, có thể nói là [đă kiến tánh] khá rơ ràng.
Các Ngài được gọi là Tương Tự Vị (相似位, địa
vị tương tự), chẳng phải là Chân Thật Vị (địa vị chân thật). Có thể phá trừ một phẩm vô minh, quư vị sẽ thấy chân thật;
đấy mới là thật sự “tự quy ư Pháp”. Về sau, tổ sư đại
đức đổi chữ Ư (於) thành Y (依); xét theo
ư nghĩa thật sự, Ư hay hơn Y[1].
V́ sao phải đổi thành Y? Thuận tiện cho bọn
sơ học chúng ta, [dùng Y với hàm ư] chúng ta phải biết
quay đầu, phải nương vào Pháp. Ư nghĩa
được bao hàm trong chữ Pháp cũng rất rộng.
Đối với kẻ sơ học, Pháp là ǵ? Pháp là giáo
huấn của thánh nhân. Giáo huấn của thánh nhân nương
vào Pháp Tánh; v́ thế, gọi là Chánh Pháp. Ở đây, chúng
ta phải lắng ḷng lănh hội.
Pháp vốn là chánh; con người
thoạt đầu, tánh vốn lành. Con người thoạt
đầu, tánh vốn giác. Con người thoạt đầu,
tánh vốn chánh. Con người thoạt đầu, tánh vốn
tịnh. Nay v́ sao chẳng lành, chẳng giác, chẳng chánh, do nguyên nhân nào? Vô đoan (“vô đoan” (無端) là chẳng có nguyên nhân ǵ) dấy lên vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước, dấy lên những thứ
như vậy! “Vô đoan”
(vô cớ), chẳng có nguyên nhân, cho thấy điều ǵ?
Nói rơ những thứ ấy là giả, chẳng thật. Hễ
là thật, sẽ có khởi đầu, có kết thúc,
có đầu, có cuối. [Những thứ ấy] chẳng
có, tức là chẳng có đầu và cuối, chẳng có trong
hay ngoài. Kinh điển dạy chúng ta, chân, vọng, giác, mê,
chánh, tà, nhiễm, tịnh có phải là thật hay không? Kinh
Kim Cang đă nói rất hay, “phàm
những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”, “hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”, nhưng nếu quư vị bất giác, chúng sẽ là
thật sự có. Nếu quư vị giác, chúng vốn là không.
V́ thế, giáo học của Phật pháp là thật, chẳng
giả, nói đến chỗ rốt ráo!
Trong giai đoạn hiện
tiền, chúng ta xác thực phải tự ḿnh thừa
nhận, chính ḿnh là mê chứ không giác, tà chứ chẳng chánh,
nhiễm chứ không tịnh. Nói theo Tam Tự Kinh của Nho
gia, chúng ta là ác, bất thiện. Từ xưa tới nay, có
chẳng ít học giả của Trung Hoa và ngoại quốc
cho rằng “con người tánh vốn tham lam”, [họ quan
niệm] “tham, sân, si là bản tánh của loài người”,
[tức là] tánh loài người vốn bất thiện! Họ nói cũng rất
có lư, trên thực tế th́ sao? Trên thực tế là sai lầm!
Vẫn là đức Phật nói đúng. Chúng tôi quyết
định chẳng có ḷng thiên vị đối với Phật
pháp [mà nhận định như vậy]. Quư vị phải
lắng ḷng quan sát, tư duy, mới biết người
nào nói đúng, kẻ nào nói sai! V́ sao đức Phật là
đúng? Ĺa hết thảy vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước, chẳng c̣n bàn căi chi nữa! Ĺa hết
thảy vọng tưởng, phân biệt, chấp trước;
khi ấy, tất cả hết thảy đối lập
đều chẳng có. Đó là thật, chẳng phải là
giả!
“Đối lập” là ǵ?
Chúng tôi vừa mới nói, thiện và ác là đối lập,
giác và mê là đối lập, chánh và tà là đối lập,
nhiễm và tịnh là đối lập. Những thứ ấy
chẳng phải là đối lập ư? Đấy là hai
pháp. Lục Tổ nói: “Hai pháp chẳng
phải là Phật pháp, Phật pháp là pháp bất nhị”.
Quư vị lănh hội từ chỗ này: Những ǵ do người
thế gian đă nói chẳng ĺa khỏi đối lập.
Pháp do đức Như Lai đă nói chẳng có đối lập.
Ở đây, đức Như Lai dạy chúng ta:
Đối với giác và mê, giác và mê là một, chẳng hai. Đối
với Pháp được nói ở đây, Pháp là [xét đến] tà và chánh, tà và chánh chẳng hai, tà và chánh như một,
kẻ b́nh phàm chẳng hiểu đạo lư này. Mê là tà, ngộ
là chánh, “mê và ngộ chẳng
hai”, quư vị có thể hiểu lời này
hay chăng? Mê và ngộ là một, chẳng hai. Nếu quư vị
thật sự thấu hiểu, chúc mừng quư vị, nhà Phật
bảo là “nhập pháp môn Bất
Nhị”. Ai đă nhập pháp môn Bất Nhị? Sơ Trụ
Bồ Tát trong Viên Giáo đă phá vô minh!
Quư vị có hiểu vô minh là
ǵ hay không? “Hai” là vô minh, “chẳng hai” th́ vô minh đă bị
phá. Đă phá vô minh th́ mới thật sự đạt
được đại tự tại, tâm thanh tịnh hiện
tiền. Thiền Tông Nhị Tổ là Huệ Khả đại
sư, trước khi khai ngộ, rất khó có! Ngài
nghe nói có vị cao tăng Ấn Độ tại chùa Thiếu
Lâm là Đạt Ma tổ sư. Tâm Nhị Tổ bất an,
cầu Đạt Ma tổ sư an tâm cho Ngài. Lúc đó nhằm
đúng mùa Đông, Đạt Ma tổ sư đang tĩnh tọa,
Nhị Tổ đứng trong tuyết ở ngoài cửa.
Trời đổ tuyết rất lớn, gần như
tuyết ngập đến đầu gối, Nhị Tổ
vẫn đứng ở đó, bất động. Thấy
Đạt Ma tổ sư chẳng quan tâm tới ḿnh, thế
là Ngài chặt phăng cánh tay của chính ḿnh, dâng cánh tay ấy cúng dường
Đạt Ma tổ sư. Đạt Ma tổ sư mở
mắt nh́n thấy Ngài như vậy, liền hỏi: “Sao
ông phải khổ sở làm vậy? Ông đến đây
để làm ǵ?” “Cầu đại sư an cái tâm cho con,
tâm con bất an”. Đạt Ma tổ sư đáp: “Ông lấy cái tâm ra đây, ta sẽ
an nó cho ông”. Quư vị thấy hiện thời có rất
nhiều bức tượng tạc Đạt Ma tổ
sư duỗi một bàn tay ra, đấy chính là sự biểu
hiện của Ngài khi Huệ Khả cầu pháp.
Huệ Khả đại
sư nghe câu nói ấy, hồi quang phản chiếu rất lâu, kinh chép là “lương cửu” (良久, khá lâu), thưa: “T́m tâm trọn
chẳng thể được”. Ngài thưa hỏi, [Tổ dạy] “lấy cái tâm của ông ra đây, ta sẽ an nó cho
ông”, Ngài quay lại t́m kiếm, chẳng thấy, mới
thưa: “T́m tâm trọn
chẳng thể được”, con t́m chẳng thấy! Đạt Ma tổ sư đáp
bằng một câu: “Dữ nhữ
an tâm cánh”, [nghĩa là] ta đă an cái tâm của ông xong rồi!
Do chính câu nói ấy, Huệ Khả đại sư đại
triệt đại ngộ, Đạt Ma tổ sư bèn
truyền y bát cho Ngài. Ngộ ǵ vậy? Trước khi ngộ
là hai pháp, quư vị sẽ thấy có an và bất an, hai pháp mà!
Do bất an, [cho nên] cầu an tâm. Tổ sư vừa điểm
hóa, [ngài Huệ Khả] vừa quay đầu, [nhận biết]
an và bất an chẳng hai, chúng là một, chẳng phải hai! Đấy
là như chúng tôi thường nói, “hóa giải
đối lập từ chỗ sâu thẳm trong nội tâm”. Hễ hóa giải đối lập, sẽ chẳng
có nghi lự, chẳng có mâu thuẫn; nói theo kiểu hiện
thời, cũng là “chẳng có xung đột”. Đấy là cảnh
giới “phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp
Thân”; đấy là chân pháp! Phật, Tổ
dạy chúng ta “tự quy ư
Pháp”, ư nghĩa thật sự ở ngay chỗ này!
Hễ quay đầu, sẽ “đương nguyện chúng sanh”. V́ vậy, bản thân quư vị chẳng thể khế
nhập, làm sao có thể giúp cho người khác khế nhập? Để khế nhập, cần phải huân tu trong
một thời gian dài. Tu ǵ vậy? Tu buông xuống, tức
là buông xuống vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước. Đấy là tổng cương lănh. Vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước triển khai
ra, sẽ là muôn sự muôn vật, trong là thân, tâm, ngoài
là thế giới. Thân, tâm, thế giới thảy đều
phải buông xuống. Buông xuống là ǵ? Không chấp
trước. Buông xuống chấp trước, chẳng phân
biệt. Buông xuống chấp trước, quư vị sẽ
là A La Hán. Buông xuống phân biệt, quư vị sẽ là Quyền
Giáo Bồ Tát. Buông xuống vọng tưởng, nay chúng ta
gọi buông xuống vọng tưởng là [buông xuống]
đối lập. Trong nội tâm có đối lập, hăy buông
xuống, quư vị sẽ là Pháp Thân Bồ Tát, là Phần Chứng
Phật! Sau khi chính ḿnh đă khế nhập cảnh giới,
cái tâm “đương
nguyện chúng sanh”
sẽ sanh khởi. Cái tâm ấy
sẽ là đồng tâm, đồng nguyện, đồng
đức, đồng hạnh với mười
phương hết thảy chư Phật.
“Thâm
nhập kinh tạng, trí huệ như hải”: Kinh tạng
là cầu bến để đức Phật giúp đỡ
hết thảy chúng sanh phá mê khai ngộ, ĺa khổ
được vui. Nói theo phía Phật, sẽ là “chẳng nói mà nói, nói mà chẳng
nói”, [đó là] ngôn giáo, c̣n thân giáo th́ “làm mà không làm, không làm mà làm”. Quư vị có thể nghe hiểu hay chăng? Đă nghe
hiểu, [sẽ là] thật sự quy y. Nghe chẳng hiểu,
[chỉ là] quy y trên h́nh thức, chẳng nhập cảnh giới.
Kinh tạng do đâu mà có? Nay chúng ta gọi kinh tạng là Đại
Tạng Kinh. Trong kinh điển chứa đựng những
ǵ? Chính là câu kế tiếp: “Trí
huệ như hải”, trong kinh tạng chứa đựng
vô lượng trí huệ. Vô lượng trí huệ ở
nơi đâu? Ở ngay trong kinh điển; v́ thế, kinh
điển được gọi là Pháp Bảo. Đức
Phật chẳng trụ trong thế gian; khi đức Phật
trụ thế, Phật Bảo là bậc nhất. Đức
Phật chẳng trụ thế, trong Tam Bảo, Pháp Bảo
là bậc nhất. Chúng ta tự quy y Phật, dùng ǵ để
chứng minh? Chúng ta tự quy y Tăng, cũng dùng ǵ để
chứng minh? [Đều là] dùng kinh!
Kinh tạng, Phật Phật
đạo đồng. “Thập
phương tam thế Phật, nhất lộ Niết Bàn môn”
(mười phương ba đời Phật, một
đường Niết Bàn môn). Kinh
do đức Phật hiện tại nói và kinh do cổ Phật
đă nói chẳng hai; kinh do vị lai chư Phật nói và
kinh của vị Phật hiện tại chẳng khác, hoàn
toàn tương đồng. Nói “tương
đồng” ở chỗ này, chư vị phải ghi nhớ,
có thể là lời lẽ không giống nhau, nói nhiều hay
nói ít, nói dài hay nói ngắn, tức là xét theo h́nh thức, sẽ
chẳng giống nhau. [Thế nhưng] nội dung nhất
định là tương đồng, quyết định
là một phương hướng, một mục tiêu, hướng
dẫn quư vị về Tự Tánh Bát Nhă, tức Pháp Bảo.
Thể của tự tánh Bát Nhă là Phật Bảo; tác dụng
của Tự Tánh Bát Nhă, ta thường nói là “đức dụng” (德用), chính là Pháp Bảo.
Do vậy, cổ đại
đức, trong kinh Phật, đức Phật cũng dạy
như vậy, những điều cổ đại đức
đă nói đều căn cứ trên lời Phật. Trong mười
pháp giới, chúng sanh pháp giới (mười pháp giới
đều là chúng sanh), “kinh tạng
sở tại chi xứ, chư Phật hộ niệm, long
thiên thiện thần thủ hộ” (chỗ có kinh tạng
sẽ được chư Phật hộ niệm, long
thiên thiện thần ǵn giữ, bảo vệ). Dẫu chúng sanh ở
nơi ấy tạo ác nghiệp, nhưng do có Phật, có thần
hộ pháp, họ cũng sẽ không gặp nạn.
Tai nạn lớn biến thành tai nạn nhỏ, tai nạn nhỏ
hóa thành chẳng có! Dẫu chúng ta không đọc kinh tạng
[vẫn có hiệu quả ấy]. V́ thế, đó là lư do v́
sao đạo tràng phải thờ phụng Đại Tạng
Kinh. Nếu có người đọc Đại Tạng
Kinh, [thường gọi là] “duyệt
tạng” (閱藏), có người học tập, công đức ấy
chẳng thể nghĩ bàn! Dẫu chẳng có ai xem, chẳng
ai đụng đến, [Đại Tạng Kinh] thờ ở đạo tràng, chỉ cần
quư vị có tâm cung kính, điều này rất trọng yếu:
Quư vị có tâm cung kính! Giống như chúng ta lạy
Phật, đă lạy tượng Phật, trông thấy
kinh điển, chúng ta cũng phải lạy kinh điển. Có thể có cái tâm cung kính ấy,
sẽ được cảm ứng!
Trong những năm qua, chúng
tôi có cơ duyên biếu tặng Đại Tạng Kinh, tặng
cho toàn thể thế giới. Có người hỏi tôi:
“Pháp sư ơi! V́ sao thầy phải làm như thế?” V́ thế
gian quá nhiều tai nạn! Nơi nào thờ phụng [Đại
Tạng Kinh], nơi ấy có phước báo, có duyên với
Phật. Đồng thời, chúng ta biết tai nạn quá
nhiều, hễ có tai nạn to lớn, kinh giáo nhà Phật
thường bị hủy diệt; do vậy, sẽ bị
thất truyền. Các vị đại đức từ
xưa đă trọn hết nỗi khổ tâm để [toan tính] bảo tồn [kinh tạng] như thế nào ḥng lưu
truyền cho thế hệ sau. Chúng tôi đă thấy
kinh được khắc trên đá ở Pḥng Sơn, Bắc Kinh. Khi
đó, tôi đến Bắc Kinh, cụ Triệu Phác Sơ kể
cho tôi nghe chuyện này, tôi rất kinh ngạc. Cụ sai
người dùng xe riêng dẫn tôi đi xem. Xem xong, tôi hết sức cảm động. Bộ
kinh đá ấy đời đời truyền thừa, tổng
cộng đă được khắc trong suốt tám
trăm năm, khắc từ đời này sang đời
kia, mấy ngàn người tham dự công tác ấy. [Kinh
được khắc nơi ấy là] Đại Tạng
Kinh hoàn chỉnh, nội dung c̣n nhiều hơn tạng kinh
[được lưu hành] trong hiện thời mấy bộ.
Sau khi tôi thấy công tŕnh to lớn ngần ấy, [thầm nghĩ]
công tŕnh ấy trọn chẳng kém Vạn Lư Trường
Thành. Đó là trường thành trí huệ!
Hội Phật giáo Trung Hoa
đă cho rập bản kinh đá ấy, in theo lối sao chụp
thành một bộ. Điều đáng tiếc là cỡ chữ
quá nhỏ, chẳng có cách nào duyệt đọc được.
V́ thế, lúc đó, tôi đă kiến nghị với cục Tôn Giáo, có thể
in cỡ chữ to hơn hay không, tối thiểu là [in theo
lối] chữ Khải to cỡ một tấc.
Đương nhiên là giá thành sẽ cao, nhưng [bản in ấy]
sẽ biến thành bảo tạng. Tôi rất mong muốn
in ra, có thể in một ngàn bộ. Bản thân tôi không cần,
hoàn toàn tặng cho quốc gia. Dùng danh nghĩa quốc gia,
dùng làm lễ vật để tặng cho mỗi
quốc gia trên khắp thế giới tàng trữ. Hiện
thời, chúng ta niệm niệm khẩn cầu hóa giải
xung đột, xúc tiến thế giới an định, ḥa
b́nh. Đấy là trọn hết một phần nỗ lực
chân thật. Đáng tiếc là chuyện này gặp rất
nhiều chướng ngại, măi cho đến hiện thời,
chẳng có cách nào làm được. Nhưng bản rập
từ kinh khắc đá có sáu bộ, tức là có sáu bản
rập từ kinh khắc đá. Hiện thời, kinh đá
đă được đặt trở về chỗ
cũ, bên ngoài cũng đă phong kín. Cổ nhân dùng
phương pháp này, gọi là “tàng
chư danh sơn” (藏諸名山, cất giữ trong các chỗ núi non nổi tiếng).
Nhưng chúng ta cũng hiểu, nếu gặp lúc có một trận động đất, toàn bộ
công sức mất sạch, đều bị hủy diệt!
Vào thời cổ, chỉ đành dùng phương pháp ấy.
Ngoài phương pháp ấy ra, chẳng có cách thứ hai nào,
hy vọng những thứ ấy sẽ được
lưu truyền hậu thế!
Phương pháp trong hiện
tại là do khoa học kỹ thuật phát triển, thuật
ấn loát phát triển, chúng ta có thể in với số
lượng lớn, biếu tặng cả thế giới.
Cách này chắc chắn sẽ có thể bảo tồn an
toàn được! V́ chúng ta biết, trong thế gian có rất
nhiều tai nạn, nhưng chẳng đến nỗi khắp
thế giới đều bị hủy diệt hết, chẳng
thể nào, sẽ luôn có những nơi tồn tại.
V́ thế, từ thập niên tám mươi, hơn hai
mươi năm qua, chúng tôi rất nghiêm túc nỗ lực
thực hiện. Thoạt đầu, chúng tôi mua Tạng
Kinh, chỗ nào cần, chúng tôi sẽ biếu tặng. Về
sau, chúng tôi đă có sức, hợp tác với xưởng ấn
loát, in chung một ngàn bộ. Họ in sáu trăm bộ
để bán, chúng tôi in bốn trăm bộ để biếu
tặng. Tôi làm hai lần, tổng cộng là tám trăm bộ,
in chung với người ta để giảm thấp giá
thành. Về sau, bản thân chúng tôi đủ sức, chẳng
cần hợp tác với kẻ khác, chúng tôi tự in. Lần
đầu tiên, in một ngàn bộ, vào năm 1999, tặng
cho các nơi trên thế giới. Lần đó cũng rất
khó có, chúng tôi tặng Trung Hoa năm trăm bộ, năm
trăm bộ kia tặng cho hải ngoại.
Mấy năm nay, lại có rất
nhiều đồng học phát tâm, tôi cũng hết sức
hoan hỷ, in bốn ngàn bộ. Bốn ngàn bộ, năm ngoái
một ngàn bộ, năm nay một ngàn bộ, sang năm
c̣n có hai ngàn bộ. Một ngàn bộ năm ngoái cũng gần
như đă tặng hết. Một ngàn bộ năm nay,
chúng tôi phân phối: Đại Hàn một trăm bộ, Nhật
Bản hai trăm bộ, nước Mỹ một trăm
bộ, Âu châu ba trăm bộ. Indonesia hỏi xin hai trăm
sáu mươi bộ, Mă Lai một trăm bộ. Đối
với các nước thuộc vùng biển Nam như Việt
Nam, Thái Lan, chúng tôi cũng tặng một trăm bộ. Đối
với Trung Hoa Đại Lục, ban đầu chúng tôi chuẩn
bị tặng sáu trăm bộ, cho đến nay vẫn
chưa được cấp giấy phép, không thể gởi
về được. Bất quá, sang năm sau, hoặc
năm sau nữa, chúng tôi hăy c̣n [Đại Tạng Kinh], giấy
phép cấp trễ một chút cũng chẳng sao! Người
học Phật chúng ta hiểu rất rơ ràng: Để hóa
giải tai nạn, thật sự phải cậy vào oai thần
của Phật, Bồ Tát, cậy vào long thiên thiện thần
gia hộ. Đối với khu vực Hương Cảng
này, chúng tôi tặng hai mươi sáu bộ. Có khá nhiều
đạo tràng coi đó là của báu trấn tự! Hiện
thời, trong Tam Bảo chẳng có Phật Bảo, Tăng
Bảo cũng chẳng có, Pháp Bảo là chân thật, chẳng
giả!
Đương nhiên, điều
quan trọng nhất là “thâm nhập”
như kinh đă dạy. Hiện thời, Pháp Bảo tồn
tại. Để có được, chẳng khó, chúng tôi
tính toán tổng cộng một lượt. Tổng cộng
đă tặng (tính cả những bộ đă mua tặng,
hay tự ḿnh in để tặng) đến hơn
sáu ngàn bộ. Đấy là việc chúng tôi đă làm trong những
năm qua, những kinh sách khác chẳng cần phải nói tới.
Chỉ riêng Đại Tạng Kinh chúng tôi đă in tặng
sáu ngàn bộ. Nói về phía chính ḿnh, thâm nhập như thế
nào? Có một bí quyết để thâm nhập kinh tạng,
nhất định phải hiểu điều này! Nếu
không, quư vị thấy kinh điển nhiều ngần ấy,
mênh mông như khói lan tỏa trên mặt biển, học từ chỗ nào
đây? V́ thế, vào thời Tùy - Đường, Trung Hoa
đă thành lập tông phái. Tông phái được h́nh thành là do
những người chí đồng đạo hợp, chọn
lấy một phần giáo huấn của đức Thế
Tôn. Ví như nói lấy một phần trong mười phần,
“một phần” tức là một
phần mười, sẽ thuận tiện hơn. Nay chúng
tôi in Đại Tạng Kinh, sách đóng b́a cứng gồm
một trăm hai mươi tập. In lần này, tôi hết
sức hoan hỷ, in đẹp đẽ hơn năm
ngoái nhiều lắm! Các phương diện đóng sách, trang giấy, ấn
loát, trang hoàng, đều có tiến bộ rất lớn,
khiến cho kẻ khác trông thấy đều sanh tâm hoan hỷ.
Lần in vào năm 1999, chúng tôi dùng loại giấy Đạo
Lâm[2],
do trang giấy dầy hơn một tí, mỗi bộ là một
trăm sáu mươi tám tập. Hiện thời, chúng tôi chọn
dùng loại giấy để in Kinh Thánh, trang giấy mỏng
hơn, nhưng cả hai mặt [ánh sáng đều] chẳng
xuyên qua được. V́ thế, quư vị đọc thấy
rất thoải mái. Do
dùng loại giấy mỏng [thường dùng] để in
Kinh Thánh, bản in hiện thời gồm một
trăm hai mươi quyển. “Một
phần mười” là mười hai tập.
Điều này cho thấy,
trong toàn thể Phật pháp, quư vị học theo một
tông phái, hễ đă thông một tông phái, tất cả sẽ
đều thông. V́ sao? Đều cùng hướng đến
pháp môn Bất Nhị. Khi nào quư vị khế nhập Bất
Nhị, toàn thể sẽ đều thông. Đấy là bí
quyết do các vị tổ sư đại đức đời
đời truyền thừa. Như chúng ta thuộc loại căn cơ trung hạ, đối với một tông, kinh điển trong một tông cũng chẳng ít! Lấy
Tịnh Độ Tông để nói, kinh điển của
Tịnh Độ Tông ít nhất, năm kinh, một luận; nhưng
trong kinh điển, đối với các kinh mà đức
Phật nhắc đến Tịnh Độ, có đến
hơn hai trăm bộ kinh. Các trước tác của lịch
đại tổ sư nếu quư vị tập hợp lại,
số lượng cũng khá đáng nể! Khi xưa, tại
Đài Loan, cư sĩ Mao Lăng Vân (vị này cũng là bạn
già của chúng tôi) đă biên tập Tịnh Độ Tùng
Thư gồm hai mươi bốn tập, tức là in thành sách đóng b́a cứng gồm hai mươi bốn
tập, phân lượng khá đáng kể. Đấy là “đạo dễ hành” mà c̣n có
điển tịch nhiều ngần ấy, các tông phái khác
chẳng cần phải nói nữa, nhiều hơn Tịnh
Độ khá nhiều! Trong một đời này, chúng ta có
thể học hết hay không? Rất khó!
Nhưng c̣n có biện pháp, chúng
ta cũng thường nghe trong Phật môn có nói, tức là: “Một kinh đă thông, hết thảy
các kinh đều thông”. Lời ấy hữu lư! Thuở
trẻ, chúng tôi theo thầy Lư học Giáo. Thầy Lư rất
chú trọng nguyên tắc sau đây: Cụ dạy
dỗ học tṛ, quư vị chỉ có thể học một
thứ, không thể học hai thứ. Học hai thứ, thầy
sẽ chẳng dạy quư vị. Nhưng chúng tôi tuổi trẻ
không hiểu chuyện, bộp chộp, hời hợt, [chỉ
học] một thứ sẽ không thể thỏa ḷng ham muốn
hiểu biết. Thầy cũng biết, nhưng khi dạy học,
thầy dạy từng thứ một. Học hoàn tất một
môn, thầy công nhận quư vị đă có thể học hiểu rồi, [mới cho học thứ khác], tiêu chuẩn ấy (tiêu chuẩn để công nhận đă học thông
hiểu) rất thấp, chẳng cao! Quư vị
có thể lên bục giảng, giảng cho đến khi thầy
gật đầu, cảm thấy chấp nhận
được, quư vị sẽ có thể học sang bộ
thứ hai. Tôi ở Đài Trung mười năm; trong mười
năm, học năm bộ kinh. Tôi cũng thường nhắc
đến chuyện này để các đồng học tham
khảo. Tôi học bộ thứ nhất là kinh Tiểu Thừa
(đúng là “trước học
Tiểu Thừa, sau học Đại Thừa”), A Nan Vấn
Sự Phật Cát Hung Kinh. Bộ thứ hai là Phật Thuyết
A Di Đà Kinh. Bộ thứ ba là Phổ Hiền Hạnh
Nguyện Phẩm, tức quyển cuối cùng trong tám
mươi quyển
[của kinh Hoa Nghiêm]. Hiện
thời [phẩm kinh này] có bản lưu hành riêng. Bộ thứ
tư là học kinh Kim Cang. Học bộ cuối cùng to
hơn đôi chút, tức là kinh Đại Phật Đảnh
Thủ Lăng Nghiêm.
Tôi ở Đài Trung mười
năm, học năm bộ kinh, nền tảng Phật
pháp của tôi là năm bộ kinh ấy. Đúng vậy, cổ
đức nói chẳng sai, “một
kinh thông, hết thảy các kinh
đều thông”. Tôi chưa học kinh Pháp Hoa, nhưng giảng
đại ư Pháp Hoa, h́nh như là sáu mươi giờ. Kinh
Hoa Nghiêm, tôi nghe thầy giảng một quyển, tức
quyển thứ nhất. Nghe xong quyển thứ nhất,
tôi đă hiểu, có thể giảng. Tôi giảng c̣n cặn
kẽ hơn thầy, giảng đến mức từng
câu từng chữ trong kinh văn đều tương ứng
với cuộc sống của chúng ta. Giảng cho người
hiện thời, kết hợp với cuộc sống
trong xă hội hiện thời th́ mới là hữu dụng.
Nếu học mà chẳng có tác dụng ǵ, quư vị học
nó để làm chi? Do vậy, “thâm
nhập kinh tạng” hữu lư! Tuân thủ sự chỉ
dạy của Phật, Bồ Tát, thầy, đấy chính
là Giới Học, ta bèn theo một môn, thâm nhập một môn. Một
môn th́ cái tâm của quư vị sẽ định, quư vị
thấy đó: “Do Giới
mà đắc Định”. Hằng
ngày tâm quư vị tưởng một bộ kinh, chẳng tạp,
chuyên chú; lâu ngày, sẽ khai trí huệ, thông suốt rỗng
rang!
Một bộ kinh đă thông,
đúng là bộ nào cũng đều thông. Bất luận
rút ra một bộ kinh nào trong Đại Tạng Kinh, chẳng
cần chuẩn bị, không cần thiết, quư vị
đều có thể giảng chỗ nào cũng hợp đạo!
Không chỉ là đối với kinh điển trong Phật
môn quư vị chẳng bị chướng ngại, mà đối
với những thứ thuộc về những tôn giáo khác, quư vị lấy
ra cũng chẳng có chướng ngại, đều có thể
giảng chỗ nào cũng hợp đạo. Lại
thưa cùng chư vị, c̣n có điều kỳ diệu là
đối với tất cả học thuật trong thế
gian, hễ quư vị tiếp xúc, vừa nghe, vừa thấy,
sẽ đều hiểu rơ. Lại c̣n thông hiểu ở mức
độ sâu, rộng, thường vượt trỗi những
kẻ b́nh phàm. Sau đấy mới hiểu, đúng là Pháp
Bảo! Trí huệ ấy do đâu mà có? Trí huệ Bát Nhă vốn
sẵn có trong tự tánh! Cũng có thể nói Pháp chính là Tam
Học Giới Định Huệ, giác chánh tịnh Tam Bảo.
Chúng ta phải hiểu đạo lư này, phải hiểu
phương pháp, phải nghiêm túc học tập. Kể từ sau khi tôi học
Phật, tuy hết sức ưa thích kinh Hoa Nghiêm, nhưng
kinh Hoa Nghiêm quá dài, tôi chẳng có ư nghĩ học kinh Hoa
Nghiêm để giảng
cặn kẽ một lượt, chẳng có ư niệm ấy. Thuở ấy, tôi phát tâm
chỉ giảng một quyển, quyển nào vậy? Phổ
Hiền Hạnh Nguyện Phẩm Biệt Hành Sớ Sao. Quyển
ấy chính là tinh hoa, là tổng kết của kinh Hoa Nghiêm,
có lời Sớ của Thanh Lương đại sư,
có lời Sao của Tông Mật đại sư, là tài liệu
tham khảo hết sức hay, tôi rất ưa thích. Nhưng
giảng Hoa Nghiêm là do Hàn quán trưởng phó thác; lúc lâm
chung, bà ta khải thỉnh một lần nữa.
Chư vị hiểu nhân duyên này. Những năm qua, chúng
tôi đă giảng hơn ba ngàn giờ; sau này, do kinh dài
như thế, từ trong phần kinh này, tức là từ phẩm
kinh này, trong phần trước chúng ta đă đọc thấy
một trăm bốn mươi mốt nguyện. Một
trăm bốn mươi mốt nguyện ấy nhằm biểu
thị pháp. Một trăm nguyện đầu chính là Thập
Tín. Thập Tín nhân với mười, tức là trong mỗi
Tín đều có đủ mười Tín, [thành ra] một
trăm. Nói cách khác, địa vị Thập Tín được
giảng cặn kẽ. Địa vị Thập Tín là
căn cơ. Từ đấy về sau, Thập Trụ, Thập
Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng
Giác, bốn mươi mốt địa vị, đấy
là toàn bộ Hoa Nghiêm hoàn chỉnh!
Do vậy, chúng tôi cũng
nghĩ, đối với địa vị Thập Tín,
chúng tôi giảng kỹ. Phía sau hăy c̣n một phẩm nữa. Đến
phẩm Thập Trụ, chúng tôi sẽ không giảng từng
câu từng chữ như vậy, mà sẽ giảng đại
ư, giảng tinh hoa. Đối với kinh, nhất định
là chúng tôi sẽ chiếu theo thứ tự trong kinh văn để đọc,
nhưng giảng giải th́ chọn lựa để giảng.
Ví như sau khi chúng ta đă học xong mười bài kệ,
[những bài kệ nào] dễ hiểu, mô tả sơ lược
đôi chút là được rồi! Bài kệ nào có quan hệ
mật thiết với chúng ta trong hiện tiền, sẽ
giảng kỹ bài kệ ấy. Tôi phỏng đoán: Như
vậy th́ [để giảng hoàn tất] cả bộ
kinh, sẽ không vượt quá bảy ngàn giờ, nay đă
là ba ngàn giờ. Hy vọng từ nay trở đi, sẽ
không vượt quá bốn ngàn giờ. Chúng ta dùng bảy
ngàn giờ, “bảy” là con số
viên măn, để hoàn thành bộ Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh. Nh́n như vậy, đại khái là c̣n
phải mất từ bốn năm đến năm
năm; khoảng độ năm năm sẽ có thể giảng
xong bộ kinh này. Nếu thân thể c̣n cho phép, tôi mong sẽ
giảng kinh Pháp Hoa một lượt, giảng kinh Lăng
Nghiêm một lượt, giảng năm kinh một luận
Tịnh Độ một lượt, đại khái là như
thế, tôi có thể ra đi. Lưu lại những thứ
ấy cho hàng hậu học dùng làm tài liệu tham khảo.
Do vậy, nguyện này hết
sức trọng yếu. “Thâm nhập
kinh tạng”. Để thâm nhập kinh tạng, chúng ta
có thể chọn một bộ kinh, thâm nhập một môn.
Chuyện này dễ dàng, thật sự có hiệu quả. Trong
tương lai, nếu có cơ duyên, tôi chẳng c̣n phải
đi khắp nơi.
Hai hội nghị trong năm nay là
chuyện bất đắc dĩ, là những hội nghị
rất quan trọng. Đại biểu tôn giáo từ mười
sáu quốc gia đến họp tại Indonesia, dự
đoán khoảng chừng một trăm năm mươi
vị. C̣n hội nghị kia là Trung Quốc lần đầu
tiên đăng cai luận đàn Phật giáo thế giới.
Trong quá khứ, chẳng có chuyện này. Tôn giáo tại Trung
Hoa cũng muốn hướng đến thế giới.
Đấy là chuyện tốt. V́ thế, tôi nhận lời
tham gia hai cuộc hội nghị ấy. Sau đấy, tôi
chẳng muốn tham gia nữa, chuyên giảng Hoa Nghiêm, kinh
này mới có thể viên măn đúng thời hạn. Có thể có được một đạo tràng nhỏ rất tốt! Chẳng
có đạo tràng nhỏ, ở chỗ này cũng được.
Chúng tôi chẳng bị bất cứ chuyện ǵ quấy
nhiễu, định tâm để học Hoa Nghiêm. Hoa Nghiêm
là Phật học khái luận, bao la vạn tượng, là
Đại Tạng Kinh thu nhỏ. Tiên sinh Phương
Đông Mỹ gọi kinh này là “Phật học khái luận”, rất
hữu lư. Nay đă hết thời gian rồi!
***
Chư vị đồng học,
xin hăy ngồi xuống. Chúng ta lại xem tiếp bài kế
đó là bài kệ thứ mười một:
(Kinh) Tự quy ư Tăng, đương
nguyện chúng sanh, thống lư đại chúng, nhất thiết
vô ngại.
(經)自歸於僧。當願眾生。統理大眾。一切無礙。
(Kinh: Tự quy y Tăng, nguyện
cho chúng sanh, thống lư đại chúng, hết thảy vô ngại).
Bài kệ này được ứng
dụng rộng nhất trong xă hội hiện thời. Nói
thật ra, điều đáng tiếc là chẳng có ai biết!
V́ sao nói là ứng dụng rộng nhất? Trước hết,
phải nhận thức Tăng là ǵ? “Tăng” là đoàn thể, người xuất gia
là một đoàn thể, gọi là Tăng đoàn. Tăng bao
hàm ư nghĩa: Ắt cần phải tuân thủ Lục Ḥa
Kính th́ mới có thể gọi là Tăng. Nếu chẳng
phải là Lục Ḥa Kính, sẽ là một đoàn thể
thông thường. [Đoàn thể] tu Lục Ḥa Kính th́ mới
là Tăng đoàn. Trong phần trước, tôi đă nói cặn
kẽ cùng quư vị về Lục Ḥa Kính, rất quan trọng!
Hiện thời, đoàn thể nẩy sanh những khuyết
điểm, đoàn thể nhỏ nhất là gia đ́nh. Gia
đ́nh là một đoàn thể. Vợ chồng và con cái, tiểu
gia đ́nh trong hiện thời là hai thế hệ. Trong quá
khứ, phần nhiều là “tam
đại đồng đường” (三代同堂, ba
thế hệ sống trong cùng một nhà), tức là cha mẹ,
anh em (anh em và chính ḿnh là một thế hệ), con cái, chúng
ta nói là “đại gia đ́nh”,
tam đại đồng đường.
Trong gia đ́nh tam đại
đồng đường, người đông đảo.
Nếu đông anh chị em, chị em gái đương
nhiên là sẽ xuất giá. Khi anh em đông, anh em lại sanh
ra con cái, [những đứa trẻ ấy] là anh chị em
họ. V́ thế, một nhà có năm sáu mươi người
là chuyện thường thấy. Nhà bảy tám chục
người cũng chẳng ít! Nếu trong gia đ́nh chẳng
có quy củ, gia đ́nh ấy sẽ rối loạn! Gia có gia
quy, gia quy là gia giáo. Do vậy, người trong nhà ấy có
thể đối xử ḥa thuận. Từ xưa tới
nay, Trung Hoa theo chế độ đại gia đ́nh, trong
đại gia đ́nh đoàn kết bằng cách nào? Luân
thường. “Phụ tử hữu
thân, quân thần hữu nghĩa” (Cha con có
t́nh thân, vua tôi có nghĩa). Trong đại gia đ́nh, nhất
định có một người là gia trưởng. Gia
trưởng là “quân” (君, vua, người đứng đầu);
đối với gia trưởng của đại gia
đ́nh, mọi người trong nhà đều là “thần” (臣, bầy tôi, thuộc hạ, cấp dưới). [Giữa
quân và thần có] đạo nghĩa. “Phu phụ hữu biệt, trưởng ấu hữu
tự” (Vợ chồng có trách nhiệm khác nhau, lớn nhỏ
có tôn ty trật tự), chẳng rối loạn tí nào! “Bằng hữu hữu tín” (Bạn bè
với nhau có chữ tín), “bằng
hữu” là đối với người ngoài. Người
ngoài đều là bằng hữu, trong bốn biển đều
là bạn bè. Quư vị nói chuyện này có quan trọng lắm hay
không? V́ thế, chỉ có giáo dục mới có thể giải
quyết vấn đề. Không dạy th́ làm sao được?
“Tự
quy ư Tăng”: Chúng ta nói theo nghĩa rộng, nói rộng
ra, tức là chúng ta phải quay đầu, phải
nương theo một đoàn thể Lục Ḥa Kính. Như
thế sẽ “đương
nguyện chúng sanh, thống lư đại chúng, nhất thiết
vô ngại”. Trong gia đ́nh của quư vị, vị gia
trưởng cầm đầu, dắt d́u cả nhà, chẳng
bị chướng ngại. Hiện thời, tuy theo chế
độ tiểu gia đ́nh, nhưng công ty, hăng xưởng,
cửa tiệm là đại gia đ́nh. Đổng sự
trưởng, tổng kinh lư của công ty, nếu quư vị
phải quản lư nhân viên trong công ty, hăng xưởng, cửa
tiệm, sẽ thực hiện hết thảy vô ngại! “Vô ngại” là nhân viên trong công ty ấy trên dưới
chẳng xung đột, chẳng đối lập, chẳng
lo ngờ, mọi người có thể đối xử
ḥa thuận với nhau, hỗ trợ hợp tác. Đấy
chính là “nhất thiết vô ngại”.
Mỗi nhân viên đều biết tự động, tự
phát, thực hiện tốt đẹp công việc của
chính ḿnh, phối hợp với mọi người, hợp
tác với nhau. Đấy chính là điều mỗi người
làm chủ nhân luôn mơ tưởng, mong cầu. Như thế
nào th́ mới có thể cầu được? Tự quy y
Tăng, vấn đề bèn được giải quyết.
Chỉ cần nương theo Lục Ḥa Kính là được rồi!
Cơ sở của Lục
Ḥa Kính nhất định là dựa trên luân thường,
đạo đức. V́ thế, xưa kia, mỗi người
đă hưởng gia giáo từ bé. Người Hoa nói đến
“gia giáo” (家教) th́ gia giáo là dạy về Ngũ Luân và Ngũ Thường.
Ngũ Luân như vừa mới nói [trong đoạn trên], Ngũ
Thường là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. “Nhân” (仁) là nhân từ;
nhân từ do đâu mà có? Nhân từ do “phụ tử hữu thân” (cha con có t́nh thân ái),
đấy chính là thân ái. Sự thân ái áp dụng vào cha mẹ
là hiếu, áp dụng vào anh em là đễ (悌, thương yêu, nhường nhịn).
Áp dụng vào bạn bè sẽ là nhân từ, nay chúng ta
gọi là “ái tâm” (tâm yêu
thương), ái tâm chân thành! “Nghĩa”
(義) là hiểu
người sống trong thế gian này, cố nhiên không thể
vứt bỏ quyền lợi, nhưng điều quan trọng
hơn là tận hết nghĩa vụ. Quư vị thuộc
vào vị trí nào, “nghĩa vụ” chính là công việc của quư vị. Quư vị phải
nghiêm túc, thực hiện tốt đẹp công việc của
chính ḿnh. [Đó chính là] nghĩa vụ. Một công ty chia thành
rất nhiều bộ môn, phân công hợp tác, quư vị
đảm nhiệm chức vị ǵ, công tác của quư vị
là ǵ, quư vị có làm tốt công việc của chính ḿnh hay
không, tận tâm tận lực làm cho tận thiện, tận
mỹ. Đấy chính là Nghĩa. Nếu quư vị chẳng
tṛn trách nhiệm, không nghiêm túc thực hiện, chẳng thể
phối hợp với kẻ khác, quư vị là kẻ bất
nghĩa. Chẳng thể ḥa thuận với đại
chúng, tức là quư vị bất nhân. Bất nhân, bất
nghĩa, quư vị ở trong xă hội, chủ nhân nào sẽ chịu mướn,
chịu dùng quư vị? Trong gia đ́nh, sẽ
chẳng có cách nào. Trong gia đ́nh, người làm cha mẹ
hoặc bề trên phải dạy [con em]. “Khổng viết thành nhân, Mạnh viết thủ
nghĩa” (Khổng Tử bảo thành tựu điều
nhân, Mạnh Tử dạy giữ ǵn điều nghĩa).
Hai chữ Nhân Nghĩa quan trọng dường ấy,
đó là căn bản của đức hạnh.
“Lễ”
(禮) là lễ
tiết. Đệ Tử Quy là lễ tiết cơ bản
nhất. Vun quén căn cội từ chỗ này! “Trí” (智) là lư trí, xử sự, đăi người tiếp vật
chẳng thể xử sự theo t́nh cảm, phải dùng lư
trí. Điều cuối cùng là phải giữ chữ Tín.
Đấy là đức hạnh cơ bản. Quư vị có Ngũ
Luân, Ngũ Thường, “thường”
là thường đạo (常道, đạo thường hằng) trong cuộc sống
hằng ngày từ sáng đến tối, không thể nào chẳng
có! Quư vị chẳng có [Ngũ Luân, Ngũ Thường], sẽ
chẳng phải là người! Cổ nhân đă vạch rơ
giới hạn sai biệt giữa con người và cầm
thú ở chỗ này! Con người khác với cầm thú [ở
chỗ] cầm thú chẳng hiểu luân lư, chẳng biết
thái độ cơ bản để làm người. Ngũ
Thường chính là thường đạo (đạo thường hằng). Có gia giáo tốt đẹp như vậy, dấn
thân vào làm việc trong xă hội, đức Phật dạy
chúng ta Lục Ḥa Kính, đương nhiên là chẳng có vấn
đề ǵ. Cớ sao chẳng làm được?
Trong Kiến Ḥa Đồng
Giải, nói thật ra, quan trọng nhất vẫn là luân lư,
đạo đức. Trong phần trước, chúng tôi
đă nói, có cạn, có sâu, có rộng, có hẹp; Kiến Ḥa
Đồng Giải tuyệt đối chỉ có đức
Phật mới có thể làm được. Pháp Thân Bồ
Tát là Phật (Phần Chứng Phật), bốn mươi
mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ và Diệu
Giác Phật Quả xác thực là Kiến Ḥa Đồng Giải. V́
sao? Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thảy
đều chẳng có, Lư và Sự hoàn toàn giải quyết.
Đương nhiên là chúng sanh trong mười pháp giới
chẳng thể làm được chuyện này. Đối
với chúng sanh trong mười pháp giới, Kiến Ḥa
Đồng Giải của chúng ta nương vào ǵ?
Nương vào Tam Quy, giác chứ không mê, chánh chứ không tà, tịnh chứ
chẳng nhiễm. “Giác, chánh, tịnh” là Tánh Đức. Tuy chúng ta ở trong cảnh giới
hiện tiền, “giác, chánh, tịnh” và “mê, tà, nhiễm” là
đối lập, là hai, chẳng phải một, đấy
là lẽ đương nhiên. Nếu chúng ta nói đến
pháp môn Bất Nhị, đấy chính là cảnh giới của
Pháp Thân Bồ Tát, đă vượt thoát mười pháp giới.
Hiện thời, chúng ta là
hai, chẳng phải một. Trong “hai”, chúng ta phải chọn
lựa, phải từ mê trở về giác, từ tà trở
về chánh, từ nhiễm trở về tịnh; đấy
là đúng, tiến cao hơn từng bước một. Giống
như trong Hoa Nghiêm, từ địa vị Thập Tín tiến
lên Thập Trụ, từ Thập Trụ lại lên tới
Thập Hạnh, Thập Hạnh lại lên tới Thập
Hồi Hướng, Thập Hồi Hướng lại lên
tới Thập Địa, Thập Địa lại lên tới
Đẳng Giác, Diệu Giác. Giống như đi học,
tiến cao hơn từng giai đoạn một. Từ cạn
tiến tới sâu, tiến tuần tự, đấy là kẻ
căn tánh trung hạ trong Phật giáo, chúng ta phải hiểu
rơ, phải thông hiểu. Quư vị đă hiểu đạo
lư này, trong đoàn thể, quư vị nhất định sẽ có thể đối xử rất tốt đẹp với hết thảy đại
chúng!
Đại sự bậc nhất
trong thế gian này là có thể đối xử ḥa thuận
với hết thảy mọi
người; đấy là đại học vấn.
Quư vị thấy chư Phật, Bồ Tát, Bích Chi, Thanh
Văn đối xử với hết thảy chúng sanh chẳng
bị chướng ngại. V́ sao? Phật và đại Bồ
Tát chẳng cần phải bàn, các Ngài không khởi tâm, chẳng
động niệm. Kém hơn một bậc là Thanh Văn,
Duyên Giác, dẫu các Ngài c̣n có phân biệt, nhưng chẳng
có chấp trước. Chẳng có chấp trước, sẽ
dễ thực hiện,
[tức là] có thể thực hiện Kiến
Ḥa Đồng Giải! Giữa người và người
với nhau, chẳng thể cư xử tốt đẹp
là v́ không chịu nhường nhau, chấp trước
thành kiến của chính ḿnh, chẳng thể nhường
kẻ khác mấy phần, nhất định cứ
khăng khăng theo ư ḿnh! Nói thật ra, kẻ bị hại
là ai? Người khác bị hại tối đa là ba phần,
họ chịu không nổi, bỏ việc ra đi, vẫn t́m được
công việc ở chỗ khác. Chính
ḿnh bị hại bảy phần! Do vậy, người
khác bị hại th́ ít, chính ḿnh bị hại to lớn! Nếu
chư vị lắng ḷng suy nghĩ cặn kẽ những
đạo lư và sự thật này, sẽ thấy chẳng
khó hiểu!
Người sống trên
đời rốt cuộc rỗng tuếch! Bất luận
nghèo, giàu, sang, hèn, sanh ra đều b́nh đẳng, trong tương
lai tử vong cũng là b́nh đẳng. Sang cả như
thiên tử, chẳng thể nào không chết! Trong kinh, đức
Phật đă nói hay quá: “Vạn
ban tương bất khứ, duy hữu nghiệp tùy thân”
(Muôn thứ chẳng mang được, chỉ có nghiệp
theo thân). Hai câu ấy là lời cảnh cáo rất quan trọng,
quư vị chớ nên không cảnh giác. Điều ǵ có thể
mang theo? Nghiệp! Thiện nghiệp th́ đời sau cảm
ba thiện đạo, ác nghiệp th́ đời sau cảm
ba ác đạo. Quư vị mang theo thứ này! Trừ thứ
ấy ra, thứ ǵ trên thế gian này cũng chẳng thể mang theo được! Hiểu rơ chân tướng sự
thật này, v́ sao người sống trên cơi đời chẳng
làm lành? Chân thiện là ǵ? “Từ
bi làm gốc, phương tiện làm cửa”. Đấy
là chân thiện. Phải học Phật, Bồ Tát. Phật,
Bồ Tát đối với kẻ khác, chẳng có chuyện không thuận tiện, chẳng có chuyện không từ
bi. Đấy là giáo huấn chân thật của Phật, Bồ
Tát đối với chúng sanh trong chín pháp giới. Cảnh
giới của quư vị chưa tăng tấn tới một mức
độ nhất định, [Phật, Bồ Tát] sẽ dần
dần từng bước nhắc nhở quư vị, dùng
phương pháp này. Quư vị thấy các Ngài đích thân thị
hiện cho quư vị nh́n vào, quư vị quan sát kỹ lưỡng
sự thị hiện của các Ngài, [sẽ thấy] chẳng
ngoài “thấy thấu suốt,
buông xuống”. Đối với hết thảy người,
sự, vật, đều xem hết sức đạm bạc,
chẳng có chấp trước, chẳng có phân biệt, chẳng
có vọng tưởng. Đấy mới là “quy ư Tự Tánh Tăng” (trở
về an trụ trong Tự Tánh Tăng), bản tánh của
quư vị vốn là như thế.
“Thống
lư đại chúng” có thể nói theo nghĩa mở rộng
là “đối xử với hết thảy đại chúng”.
Hiện thời, do khoa học kỹ thuật phát triển,
giao thông thuận tiện, thông tin phát triển, toàn thể
địa cầu đúng là biến thành người một
nhà, cả địa cầu là một thôn. Hiện thời,
cơ hội để người ta ra nước ngoài du
lịch, ngắm cảnh, khảo sát càng ngày càng nhiều.
Quư vị thường xuyên tiếp xúc với những quốc
gia khác nhau, các sắc dân khác nhau, những nền văn hóa
khác nhau, tín ngưỡng khác nhau. “Thống
lư đại chúng, hết thảy vô ngại” trở
thành rất quan trọng. Chúng ta làm thế nào để
đối xử ḥa thuận, làm thế nào để hóa giải
những nỗi bất đồng, đó gọi là “tồn dị cầu đồng”
(giữ những điều khác biệt mà mong đạt tới
sự ḥa đồng). Đối với những chỗ
khác biệt, phải hóa giải những chỗ sai khác, hoàn
toàn tương đồng, đó mới là “hết thảy vô ngại”. Đối với những
chỗ khác biệt, chúng ta không bàn tới, gạt
sang một bên, chúng ta giữ lấy một bộ phận [tương đồng],
đó là “vô ngại”, nhưng vẫn chưa phải là “hết
thảy”.
“Hết
thảy vô ngại” là thật, chẳng giả. Nếu
quư vị hỏi v́ sao là thật ư? Chính v́ “hết thảy các pháp hữu vi,
như mộng, huyễn, bọt, bóng, như sương,
cũng như chớp, hăy nên quán như vậy”. Tổng
kết toàn thể kinh Bát Nhă, tôi đă thưa bày cùng quư vị bao nhiêu lần!
Đức Thế Tôn giảng Bát Nhă suốt hai mươi
hai năm, Bát Nhă là trung tâm của toàn thể Phật pháp.
Đức Phật thuyết pháp bốn mươi chín
năm, giảng Bát Nhă hai mươi hai năm, gần
như chiếm hết một nửa thời gian. Bát Nhă giảng
ǵ? Kết luận cuối cùng là “hết
thảy các pháp vô sở hữu, rốt ráo không, chẳng thể
được”, đấy chẳng phải là hết
thảy đều vô ngại ư? Đấy là nói đến
tuyệt đối vô ngại, tự tánh vốn là như vậy.
Tất cả hết thảy chướng ngại do
đâu mà có? Đều là sanh từ vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước, chướng ngại Tánh
Đức, chướng ngại vô ngại. Chúng ta đối
với kẻ khác bất b́nh đẳng, chính ḿnh có cái tâm
kiêu căng, ngă mạn, tự cho ḿnh là đúng. Đó là vọng
tâm, chướng ngại sự b́nh đẳng trong tự
tánh, chướng ngại sự ḥa thuận trong tự tánh.
V́ lẽ ấy, Lư và Sự của
Tam Quy Y đều có thể vận dụng trong cuộc sống
hằng ngày, có thể giải quyết rất nhiều vấn
đề cho chúng ta. Đặc biệt là trong xă hội hiện
thời, ai nấy hằng ngày luôn bận tâm về những
xung đột. Hóa giải xung đột bằng cách nào? Mỗi
cá nhân đều cảm thấy “hóa giải xung đột”
là chuyện rất quan trọng, cách hóa giải ra sao? Xung
đột nói chẳng cùng! Nỗi phiền toái trong hiện
thời là cha con có xung đột. Hiện thời, sự
xung đột giữa cha con đă nghiêm trọng đến
mức độ nào? Trẻ nít đă phát sanh xung đột
với cha mẹ. Đáng kinh hăi quá! Tôi thường nói với
người khác, thảy đều là do dạy dỗ mà
ra. Phật, Bồ Tát là do dạy dỗ mà thành; thiện
nhân, quân tử là do dạy dỗ mà ra. Con cháu không ra ǵ
cũng là do dạy dỗ mà ra. Xung đột vẫn là do dạy
dỗ mà ra, tùy thuộc quư vị dạy dỗ như thế nào? Muốn thật sự hóa giải xung đột,
quư vị phải dùng luân lư đạo đức để
dạy bảo, [xung đột] sẽ chẳng có! Họ
đă hiểu rơ, sẽ chẳng có [xung đột] nữa!
Do vậy, phải dạy họ tư duy như thế nào,
dạy họ thật sự hiểu rơ chân tướng sự
thật. Quan hệ giữa con người với nhau, quan hệ
giữa con người và hoàn cảnh tự nhiên, giữa
con người và thiên địa quỷ thần, quư vị
phải hiểu rơ! Sau đấy mới biết cư xử
như thế nào, quư vị mới thật sự hiểu Lục
Ḥa Kính.
Lục Ḥa Kính là Tánh Đức,
là thứ vốn sẵn có trong tự tánh của hết thảy
chúng sanh, nay bị mê. Sau khi đă mê, quên tuốt Tánh Đức,
tạo tác đủ mọi điều bất thiện, hại người,
hại ḿnh. Chớ nên không biết tỷ lệ “hại
người, hại ḿnh”! Hại người th́ người
ta chỉ bị tổn thương ba phần, hại ḿnh
đến bảy phần! Trong mười phần, quư vị
ôm ḷng dùng đủ mọi phương thức làm hại người
ta, kẻ đó bị hại ba phần, chính ḿnh bị hại
bảy phần. Nếu quư vị liễu giải chân tướng
sự thật này, c̣n dám làm chuyện hại người nữa
chăng? Tôi nói bảy phần là sự thật! V́ cái tâm hại
người, hành vi hại người [chính là] ác niệm,
ác ngôn, ác hạnh, ba nghiệp đều ác! Quả báo trong
tương lai của quư vị sẽ là ở trong tam đồ
địa ngục; người khác bị hại chẳng
có nghiệp nặng nề ngần ấy! Người bị
hại nếu là đệ tử đức Phật, là
đệ tử của thánh nhân, sẽ hiểu những
đạo lư này. Quư vị tổn hại họ, họ chẳng
oán hận, chẳng báo thù, họ chẳng có lầm lỗi.
Họ tiếp nhận sự tổn hại ấy, sự
tổn hại vừa khéo tiêu trừ nghiệp chướng
cho họ, giúp họ tăng tấn. Đấy là sự thật.
Có một ví dụ rất hay, trong kinh Kim Cang có nhắc tới:
Vua Ca Lợi cắt chặt thân thể. Câu chuyện này
được chép tường
tận trong kinh Đại Niết Bàn. Vua
Ca Lợi hại Nhẫn Nhục tiên nhân, [vị tiên nhân ấy
là] Bồ Tát. Bồ Tát chẳng có lầm lỗi. Bồ Tát
bị lăng nhục to lớn dường ấy, hứng
chịu khổ nạn,
bị tổn thương lớn ngần ấy, nhưng chẳng oán hận, chẳng
báo thù, trái lại c̣n phát nguyện: “Trong tương lai, ta thành Phật, sẽ độ
ngươi đầu tiên!” Trong kinh, đức Thế
Tôn đă dạy, đấy là tướng trạng Bồ
Tát tu Nhẫn Nhục Ba La Mật viên măn. Nói cách khác, vua Ca Lợi
giúp Nhẫn Nhục tiên nhân đạt đến rốt
ráo viên măn. Chúng ta phải hiểu Lư và Sự này, phải nghiêm
túc học tập.
Bị người khác lăng
nhục, chẳng trả đũa, biết là ǵ? Biết đấy là
nghiệp chướng trong đời quá khứ. Người
ấy có thái độ đối với ta không tốt, thấy
ta đáng ghét, chẳng hoan hỷ, bất luận là ngôn ngữ
hay thái độ đối với ta đều rất thô
lỗ. Người học Phật chúng ta hăy nên phản tỉnh,
hăy nên hồi quang phản chiếu, ta có dùng thái độ ấy
đối với người khác hay không, phải biết
điều này! Biết đối xử với ta bằng
thái độ và ngôn ngữ như vậy, ta cảm thấy
bất hảo, chúng ta chớ nên đối với người
khác bằng thái độ và ngôn ngữ kiểu đó! Họ
là thầy của ta, ta đă học từ họ. Ngoài ra, nếu
quư vị có thể nghĩ, trong suốt cuộc đời
của một người, thường nói là “một hớp uống, một
miếng ăn, không ǵ chẳng định trước”,
“định trước”
chính là nhân duyên trong đời trước. V́ sao kẻ ấy
không chửi người khác mà lại chửi ta? V́ sao chẳng
hủy báng người khác mà hủy báng ta? Có thể là
trong đời quá khứ ta đă từng hủy báng kẻ
ấy, đối xử với kẻ ấy chẳng tốt
đẹp, đời này chúng ta gặp gỡ nhau, kẻ ấy
đáng nên đối xử với ta kiểu đó!
Đă ăn miếng th́ phải bị trả miếng, hoan
hỷ tiếp nhận, một nét bút xóa sạch món nợ ấy,
chẳng c̣n kết oán cừu nữa! Nếu quư vị chẳng
hiểu đạo lư này, chẳng thể tiếp nhận, trong
tâm c̣n ghim oán hận, vẫn muốn t́m cơ hội trả
đũa, phiền phức to đùng! Đó là mê, đời
đời kiếp kiếp oan oan tương báo chẳng hết,
chẳng xong. Đôi bên đều đau khổ, cần ǵ
phải vậy?
Do đó, quư vị có thể
quán như thế, đấy là chánh xác, vấn đề sẽ
hóa giải. Đă hóa giải, sẽ chẳng có chướng
ngại. Không hóa giải, chướng ngại vĩnh viễn
tồn tại, gặp duyên nó sẽ hiện tiền. Chẳng
gặp duyên, nó sẽ ẩn tàng trong ấy. V́ thế, nhất
định phải hóa giải. Hóa giải càng nhiều, tầng
cấp của quư vị sẽ tăng lên càng cao. Tu hành là tu
ở nơi đâu, người thật sự tu hành [sẽ
tu] bằng cách xử sự, đăi người tiếp vật
trong cuộc sống hằng ngày, tu ở ngay trong ấy. V́
thế, tôi cũng thường nhắc nhở các đồng
học: Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm
ở chỗ nào? Sáu căn tiếp xúc cảnh giới, khắp
pháp giới hư không giới là một bộ kinh Hoa Nghiêm
sống động! Chúng ta từ sáng sớm thức dậy
cho đến đêm đi ngủ, sáu căn tiếp xúc cảnh
giới sáu trần, đều đang tu hành trong ấy. Đoạn
hết thảy ác, tu hết thảy thiện, đối với
người, đối với sự, đối với vật,
thật sự tu, thật sự hành. Khởi đầu,
quư vị làm như vậy, y giáo phụng hành, làm một khoảng
thời gian, đă thuần thục, lại tăng tấn
cao hơn từng bước một. Như thế nào? Chẳng
chấp tướng. Đoạn ác mà chẳng chấp
tướng đoạn ác, làm lành chẳng chấp tướng
làm lành. Dần dần từ “hai”
tăng tấn đến “chẳng
hai”, quư vị sẽ vượt thoát mười pháp giới.
Không chỉ là lục đạo, mà là vượt thoát mười
pháp giới.
Chỉ cần quư vị chịu
dụng công, quư vị mới đạt được pháp
hỷ. “Học nhi thời tập
chi, bất diệc duyệt hồ?” (Học rồi thường xuyên tập luyện,
cũng chẳng vui sao?) Trong đời này, quư vị thường sanh tâm
hoan hỷ, thật sự là cuộc sống hạnh phúc mỹ
măn. Khi tiên sinh Phương Đông Mỹ giới thiệu
Phật pháp cho tôi, đă bảo: “Học
Phật là sự hưởng thụ cao nhất trong đời
người”, đấy là pháp hỷ sung măn. Nếu quư
vị chẳng thật sự chịu hành, chẳng thật
sự học, chẳng thật sự tăng tấn, làm
sao có cảnh giới ấy cho được? Chư Phật,
Bồ Tát, tổ sư đại đức đều khế
nhập [cảnh giới ấy]. Những điều
đă nói trong kinh là do đức Phật đă dạy, những
điều được viết trong chú sớ là do đệ
tử đức Phật nói, hoặc những vị cao
tăng đại đức trong quá khứ nói ra. Nếu
chúng ta chẳng học, hằng ngày đọc [kinh hoặc
chú sớ], dường như hiểu được,
cũng [có thể] giảng đến mức hoa trời
rơi tán loạn, [nhưng chẳng hề] khế nhập!
“Chẳng khế nhập” nh́n từ chỗ nào? Quư vị chẳng
có pháp hỷ! Nói cách khác, cuộc sống của quư vị
chẳng hạnh phúc, chẳng sung sướng, chẳng thật
sự đạt được thọ dụng. Người
thật sự thọ dụng th́ mới biết cảm
ơn.
Đời người hạnh
phúc mỹ măn, chẳng phải
dễ, mấy ai có thể đạt
được? [Chỉ là] một số cực ít! Quư vị
là kẻ may mắn trong số người rất ít ấy,
ai đă ban cho quư vị? Giáo huấn của thánh hiền
đă ban cho ta, quư vị mới sanh tâm cảm ơn đối
với chư Phật, Bồ Tát, cổ thánh tiên hiền,
cái tâm báo ơn mới có thể sanh khởi. Từ sự cảm
tạ Phật, Bồ Tát, tổ sư đại đức,
cảm kích thầy. Sau đấy, khi đă thật sự quay lại, sẽ
cảm tạ hết thảy chúng sanh. V́ sao? Chẳng do hết
thảy chúng sanh hằng ngày đều rèn luyện ta, làm
sao quư vị có thể thoát ra cho được? Tiếp xúc
với hết thảy chúng sanh, có mặt thiện lẫn mặt
ác. Đối với mặt thiện, quyết chẳng sanh
tham luyến; đối với mặt ác, quyết chẳng
sanh phiền năo, tức là ngạo mạn, sân khuể, ghen tỵ,
chướng ngại, chẳng sanh những thứ ấy!
Bất luận thuận cảnh hay nghịch cảnh, thiện
duyên hay ác duyên, đều có thể ǵn giữ sự thanh tịnh
và b́nh đẳng của chính ḿnh, lư trí hiện tiền, chẳng
xử sự theo t́nh cảm. Người ấy được
gọi là chân tu, người ấy thật sự
nương theo “giác, chánh, tịnh”.
V́ thế, quư vị thấy
trong Tịnh Nghiệp Tam Phước,“thọ tŕ Tam Quy” chẳng
phải
là điều thứ nhất, nó là điều thứ hai.
Điều thứ nhất là điều kiện để
thọ Tam Quy. Nếu quư vị chẳng hội đủ điều
kiện để thọ Tam Quy, sẽ chẳng đạt
được Tam Quy. Điều thứ nhất là “hiếu dưỡng cha mẹ,
phụng sự sư trưởng”, [xét theo phương
diện] luân lư đạo đức, cha mẹ là luân lư, sư
trưởng là đạo đức. “Từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện Nghiệp”,
dẫn về kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo. Thập
Thiện Nghiệp Đạo là cơ sở của Phật
môn. Nếu quư vị có đủ điều kiện này, có
cơ sở như vậy, quư vị mới có tư cách thọ
Tam Quy, học Ngũ Giới. Tam Quy há dễ dàng như vậy
ư? Lúc nào, chỗ nào, niệm nào, cũng đều dấy
lên [sự tỉnh giác] “giác chứ
không mê, chánh chứ không tà, tịnh chứ chẳng nhiễm”,
đó là Tam Quy. Niệm nào cũng đều nguyện cho hết
thảy chúng sanh, “thiệu long Phật
chủng, phát vô thượng ư; thâm nhập kinh tạng, trí huệ
như hải; thống lư đại chúng, nhất thiết
vô ngại”. “Thống lư” thông
thường là nói về các vị lănh đạo, các tầng
lớp lănh đạo; nay chúng ta mở rộng ư nghĩa ấy,
đối xử với hết thảy đại chúng,
đối đăi b́nh đẳng, đối xử ḥa thuận,
hết thảy vô ngại. Đấy là nguyên tắc chỉ
đạo cao nhất trong học Phật, bất luận
là Đại Thừa hay Tiểu Thừa, Hiển Giáo hay Mật
Giáo, Tông Môn, Giáo Hạ, đều lấy những điều
này làm nguyên tắc chỉ đạo.
Phàm là đệ tử Phật,
nhất định phải niệm công khóa sáng tối. Khóa
tụng sáng tối đơn giản nhất là Tam Quy Y. Năm
xưa, tôi vừa mới thân cận Phật pháp, ở tại
lều tranh của pháp sư Sám Vân, ở đó nửa
năm. Trong lều tranh chỉ có năm người, ba vị
xuất gia, pháp sư Sám Vân, pháp sư Bồ Diệu, và pháp
sư Đạt Tông. Hai vị cư sĩ là lăo cư
sĩ Châu Kính Trụ (thuở ấy lăo cư sĩ đă bảy
mươi tuổi) và tôi. Dường như [khi đó] tôi
ba mươi tuổi, hay ba mươi mốt tuổi, là kẻ
trẻ tuổi nhất, cũng là người làm
công quả trong lều tranh, chăm sóc các vị đại
đức xuất gia và cụ Châu. Công khóa sáng tối trong
lều tranh là Tam Quy Y, chẳng có ǵ khác, niệm Tam Quy. Sáng
sớm cũng là như thế, buổi tối cũng là
như thế, nhưng mọi người có công khóa cố
định riêng, đọc kinh, hoặc lạy Phật.
Pháp sư Sám Vân quy định cho chúng tôi, trong thời gian ấy,
tôi mỗi ngày lạy Phật tám trăm lạy, sáng sớm
thức dậy bèn lạy Phật ba trăm lạy.
Công khóa th́ mỗi người
hành riêng, chỉ có khi lạy Tam Quy là mọi người
cùng hành. [Mọi người cùng nhau] niệm công khóa trong Phật
đường, nhưng mỗi người hành công
khóa riêng, đều không niệm ra tiếng. Mỗi người
đọc kinh khác nhau, đọc ra tiếng sẽ quấy
nhiễu người khác, rất kiền thành, rất cung
kính. Trong Phật đường để một cái bồ
đoàn, một cái bàn nhỏ
rất bé để quư vị đặt
kinh. Đọc kinh đều là quỳ đọc. Thời
gian đọc kinh, ngắn th́ là nửa tiếng, dài th́ là một
tiếng. Sau khi đọc kinh xong, sẽ lạy Phật. Tốc
độ lạy Phật mỗi người hoàn toàn khác
nhau; v́ thế, chẳng đánh kiền chùy (chuông, khánh).
Người già động tác chậm hơn, bọn trẻ
tuổi chúng tôi lạy rất nhanh. Thuở ấy, pháp
sư Đạt Tông lạy nhanh nhất. Mỗi ngày, Sư
lạy một ngàn hai trăm lạy. Khi ấy, mỗi ngày
tôi lễ tám trăm lạy. Sáng sớm lễ ba trăm lạy,
buổi tối lễ ba trăm lạy, giữa trưa lễ
hai trăm lạy, một ngày lễ tám trăm lạy. Công
khóa sáng tối là Tam Quy. Cuộc sống trong lều tranh
đơn giản, rất được thọ dụng.
Pháp sư rất ít khi giảng khai thị, mỗi tuần
có thể là chỉ giảng một hai lần, giảng khai
thị đôi chút, thông thường chẳng giảng! Cuộc
sống ở vùng núi, năm người là một đoàn
thể, cũng là một Tăng đoàn.
Từ đấy về sau,
đă nhiều năm ngần ấy, chúng tôi thấy bất
luận là đoàn thể xuất gia hay đoàn thể tại
gia, cho đến hiện thời nh́n vào những công ty,
hăng xưởng, cửa hiệu trong xă hội, cuối cùng
là gia đ́nh của mọi người, đều thấy
xuất hiện vấn đề, đều hy vọng có
thể hóa giải. Chẳng biết biện pháp ở ngay
trong kinh điển, ở ngay trong giáo huấn của thánh
hiền. Hiện thời, khá nhiều hội nghị quốc
tế đang thảo luận làm thế nào để hóa giải
xung đột, tiêu trừ xung đột, xúc tiến an định, ḥa b́nh. Đấy
vẫn chưa phải là điều đáng để mong
cầu. Nói chung, phải là cầu “thống lư đại chúng, hết thảy vô ngại”.
Đức Phật nói một câu: “Tự quy ư Tăng”, vấn đề
được giải quyết. Quy nơi Tăng, quy nơi
Lục Ḥa Kính, trở về luân lư đạo đức.
Nay chúng ta tu hành, trước
hết phải hiểu rơ ư nghĩa được bao hàm
trong danh từ ấy. “Tu” (修) là tu chánh (修正, sửa đổi cho đúng), “hành” (行) là hành
vi. Hiện thời, hành vi của chúng ta sai quấy, tư
tưởng và kiến giải sai lầm, ngôn ngữ, tạo
tác sai lầm, sửa chữa những sai lầm, sẽ gọi
là “tu hành”. Trong giai đoạn
hiện tiền, nhất định là phải nương
vào kinh luận, phải nương vào giáo huấn của cổ
nhân; do vậy, thâm nhập kinh tạng. Kinh tạng là giáo huấn
của cổ nhân. Giáo dục luân lư đạo đức của
Trung Hoa đă có lịch sử năm ngàn năm. Các bậc
đại hiền, đại triết trải các đời
đă dốc sức nỗ lực thực hiện, viết
sách, lập thuyết, phát huy rạng rỡ luân lư đạo
đức, có lợi cho hàng hậu học. Đối với
kinh điển của tôn giáo, những vị đại
đức trải các đời, bất luận tại
gia hay xuất gia, cũng đều dốc sức cố gắng thực hiện,
biên soạn khá nhiều chú sớ luận thuyết, cũng
nhằm phát huy rạng rỡ những thứ ấy ḥng
giúp đỡ chúng ta, hy vọng chúng ta thật sự giác ngộ,
thật sự hiểu rơ, thật sự có thể y giáo tu hành; sau đấy mới
có thể được hưởng pháp ích (lợi ích nơi pháp) sâu xa!
Chúng tôi báo cáo đơn giản
về Tam Quy Y như vậy, Thanh Lương đại
sư có chú giải, trong buổi học sau, chúng ta sẽ
học tập tiếp. Trong quá khứ, tôi đă giảng
Tam Quy vài lượt, có thâu h́nh lẫn thâu âm, giảng chẳng
giống lần này, có thể dùng để tham khảo lẫn
nhau. Lần này giảng theo ư nghĩa rất rộng, hoàn
toàn áp dụng vào cuộc sống hiện thực. Cám ơn
mọi người.
Tập
1512
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi
xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười
một, đoạn thứ hai trong phần Xuất Gia Thọ
Giới, xem từ bài kệ tụng thứ mười hai.
(Kinh) Thọ học giới
thời, đương nguyện chúng sanh, thiện học
ư giới, bất tác chúng ác.
(經)受學戒時。當願眾生。善學於戒。不作眾惡。
(Kinh:
Khi thọ học giới, nguyện cho chúng sanh, hăy khéo học
giới, chẳng làm các ác).
Trước hết, chúng ta
hăy xem lời chú giải của Thanh Lương đại
sư, đoạn chú giải trong phần sau dành cho các bài kệ
từ bài thứ chín cho đến bài thứ mười
lăm, chúng ta đọc một đoạn.
(Sớ) Dư thất thọ học
giới thời, sơ Tam Tự Quy, Phật tại chi nhật,
tắc ngũ thọ chi nhất.
(疏)餘七受學戒時,初三自歸,佛在之日,則五受之一。
(Sớ: Bảy bài kệ kia là
khi thọ học giới, trước hết là Tam Tự
Quy. Thuở đức Phật tại thế, Tam Tự Quy
là một trong năm loại thọ).
Tam Tự Quy là một loại
trong năm loại thọ. Năm loại thọ là ǵ? Trong
lời Sao có giải thích, Thanh Lương đại sư
đă nêu ra, thứ nhất “thiện
lai”, thứ hai là “thượng
pháp”, thứ ba là “tam quy”,
thứ tư là “bát kính”, thứ
năm là “yết-ma”. “Thiện lai” (善來) là lời tán
thán, “quư vị đă đến, tốt lắm”! Lại c̣n
là lời khích lệ. Nói đến Tam Quy, ở đây, Thanh
Lương đại sư đă chú giải đơn giản:
(Sớ) Phật diệt chi hậu,
thọ ngũ bát giới (thọ ngũ giới, thọ bát
giới), tất y Tam Quy.
(疏)佛滅之後,受五八戒(受五戒、受八戒),必依三歸。
(Sớ: Sau khi đức Phật
diệt độ, hễ thọ ngũ giới hoặc thọ
bát giới, ắt phải dựa vào Tam Quy).
Ngũ Giới và Bát Giới
đều là giới tại gia. Bát Giới chính là Bát Quan Trai
Giới, tức là kẻ tại gia học Phật thọ
giới của người xuất gia một ngày. [Thời
hạn thọ tŕ] Bát Quan Trai Giới là một ngày, tức
là để học theo lối sống của người
xuất gia trong một ngày, bèn thọ Bát Quan Trai Giới.
Trước khi thọ giới, nhất định là phải
thọ Tam Tự Quy, [đó chính là ư nghĩa của câu] “tất y Tam Quy” [trong lời Sớ].
Điều này cho thấy tầm quan trọng của Tam Tự
Quy; Tam Tự Quy là căn bản.
Hết thảy Phật pháp,
bất luận là Tiểu Thừa, Đại Thừa, Hiển
Giáo, Mật Giáo, ở Trung Hoa là Tông Môn, Giáo Hạ, chỉ cần
là Phật pháp, nhất định phải nương vào Tam
Quy. Tam Quy là cương lănh chỉ đạo tu học cao
nhất trong Phật pháp. Bất luận pháp môn nào, tám vạn
bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn, đều chẳng
thể trái nghịch. Hễ trái nghịch, sẽ chẳng
phải là Phật pháp. Do vậy, Tam Tự Quy là tổng phương
hướng, tổng mục tiêu, nhất định phải
hiểu rơ, phải hiểu minh bạch điều này.
(Sớ) Quy yếu tam giả.
(疏)歸要三者。
(Sớ: Quy y th́ phải có ba
điều).
V́ sao phải có ba?
(Sớ) Phiên bỉ ngoại đạo.
(疏)翻彼外道。
(Sớ: Từ bỏ những
thứ ngoại đạo).
“Ngoại
đạo” là nói thuở đức Thế Tôn tại thế,
Ấn Độ có khá nhiều tôn giáo. Những tôn giáo ấy
đều là cầu pháp ngoài tâm. V́ vậy, “ngoại đạo” không phải là coi rẻ
người khác, chẳng phải là khinh dễ, [ư nghĩa]
xác thực là “cầu pháp ngoài
tâm”. Cầu pháp ngoài tâm th́ sai mất rồi! Tri kiến bất
chánh; phản diện của chánh là tà. V́ thế nói là: “Tà sư, tà giáo, cập tà chúng”
(Tà sư, tà giáo và tà chúng), “chúng”
(眾) là tín
đồ!
V́ thế, Phật pháp phải
đối trị trạng huống tôn giáo đương
thời; do vậy, đức Phật nói “quy y Phật”, Phật
là thiện sư (善師), [tức là] một vị thầy thật sự tốt
lành. Kinh giáo là quy y Pháp. Pháp là chánh tri chánh kiến. Quy y Tăng,
Tăng là đại chúng, là tăng đoàn. Tăng đoàn
thanh tịnh, chẳng có ô nhiễm. Đó gọi là “phiên tà Tam Quy”; v́ thế, nó có dụng ư rất sâu. Kế đó là tỷ
dụ.
(Sớ) Do như lương y,
lương dược, cập khán bệnh nhân, phiền
năo bệnh dũ cố.
(疏)猶如良醫,良藥,及看病人,煩惱病愈故。
(Sớ:
Ví như do thầy thuốc giỏi, thuốc hay, và kẻ
chăm sóc người bệnh, mà bệnh phiền năo
được lành).
Đức Phật giống như
một vị lương y, Pháp giống như thuốc
hay, “tín chúng” giống như
những người đến chăm sóc bệnh nhân. Gặp
được thầy thuốc giỏi, thuốc hay
như thế, uống thuốc vào, bệnh liền khỏi.
Đấy là lư do v́ sao quy y cần đến ba ngôi [Tam Bảo],
ở đây, Thanh Lương đại sư đă nêu ra
đơn giản đôi chút. Tiếp đó là…
(Sớ) Vị dữ chúng sanh vi
duyên niệm cố, Tam Bảo chi nghĩa, chí hạ
đương thích.
(疏)為與眾生為緣念故,三寶之義,至下當釋。
(Sớ: V́ để làm duyên
cho chúng sanh suy niệm, đối với ư nghĩa của
Tam Bảo, cho đến phần sau sẽ giải thích).
Trong phần sau, sẽ c̣n giải
thích ư nghĩa của Tam Bảo. Tam Quy nhằm làm duyên cho
chúng sanh để suy niệm. Cái duyên ấy chính là Tăng
Thượng Duyên, khiến cho quư vị thường niệm
Tam Quy. Do vậy, trong Phật môn, bất luận tông phái
nào, pháp môn nào, trong công khóa sáng tối, nhất định là
có Tam Quy Y, đạo lư ở ngay chỗ này. Trong quá khứ,
chúng tôi đă giảng Tam Quy rất cặn kẽ đến
mấy lần, có băng thâu âm và thâu h́nh, c̣n có các đồng
tu dựa theo đó để chép thành văn tự, tức
sách Tam Quy Truyền Thọ, các đồng học mới học
Phật có thể dùng những thứ ấy để tham
khảo.
Tam Quy th́ quan trọng nhất
là quy y Tự Tánh Tam Bảo. Ngoài Tự Tánh Tam Bảo là Trụ
Tŕ Tam Bảo. Hiện thời, tượng Phật là Trụ
Tŕ Phật Bảo, kinh điển là Trụ Tŕ Pháp Bảo,
người xuất gia là Trụ Tŕ Tăng Bảo; đấy
là h́nh tướng. Trong h́nh tướng chứa đựng
ư nghĩa Tự Tánh Tam Bảo, điều này quan trọng.
H́nh tướng có rất cần thiết hay không? H́nh
tướng rất quan trọng! Chẳng có h́nh tướng,
chúng ta sẽ quên bẵng, phàm phu hết sức dễ quên!
V́ vậy, công đức lớn nhất của h́nh tướng
là thời thời khắc khắc nhắc nhở chúng ta,
chúng ta vừa trông thấy tượng Phật, lập tức
biết Tự Tánh Giác, ta phải từ mê hoặc, điên
đảo quay về nương tựa Tự Tánh Giác.
Đấy là đúng.
Do vậy, đối với
mê và ngộ, phải hiểu rơ ràng. Mê là ǵ? Hoa Nghiêm là đại
pháp Nhất Thừa, đă dạy chúng ta quá nhiều! Sáu
căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần, hễ khởi
tâm động niệm, phân biệt, chấp trước bèn
mê. Giác là ǵ? Sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần,
không khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt,
không chấp trước, quư vị bèn giác. Phật và chúng sanh
sai biệt ở ngay chỗ này! Nhưng chúng ta đă mê quá
lâu, đời đời kiếp kiếp từ vô lượng
kiếp đến nay, mê quá sâu, t́nh trạng bệnh tật
quá sâu, tuy nghe giáo huấn của đức Phật, chẳng
thể chuyển ngay được! V́ thế, đức Phật
có phương tiện thiện xảo, dạy chúng ta
trước hết hăy buông xuống chấp trước, rồi
lại buông xuống phân biệt, cuối cùng sẽ lại buông xuống khởi tâm động niệm, từng
tầng một! Đấy là phương tiện.
Nếu trong hết thảy
các pháp, chúng ta nói là hết thảy người, sự, vật,
chẳng c̣n chấp trước, quư vị sẽ không bị
luân hồi trong lục đạo, sẽ vượt thoát lục
đạo. Nếu vẫn giữ chặt chấp trước,
sẽ là chuyện rất phiền toái, quư vị chẳng
thoát khỏi lục đạo luân hồi. Chấp trước
quá lố, ngay cả đối với đạo dễ hành “đới
nghiệp văng sanh Tịnh Độ”, trong khi lâm chung, sẽ có thể nẩy sanh chướng
ngại, quư vị chẳng văng sanh được! Quư vị
mới hiểu chấp trước, trong giáo pháp Đại
Thừa thường gọi chấp trước là Kiến
Tư phiền năo, thứ này chính là căn bản của sự
luân hồi trong lục đạo. Nếu thật sự có
thể buông xuống, có thể đoạn trừ, quư vị
sẽ vượt thoát lục đạo, nhập tứ
thánh pháp giới. A La Hán, Bích Chi Phật, Bồ Tát, quư vị
đến nơi đó, chẳng ở trong lục đạo.
Những thứ sanh tử khổ năo trong lục đạo
như ba khổ, tám khổ, quư vị thảy đều chẳng
có, ĺa khổ được vui. “Ĺa”
là ĺa ba khổ, tám khổ. Đức Phật thật sự
có phương pháp giúp đỡ quư vị, quư vị phải
tiếp nhận, phải chịu làm. Quư vị chẳng tiếp
nhận, chẳng thể y giáo phụng hành, sẽ là vô dụng!
Nếu quư vị tiến
hơn một bước nữa, buông xuống phân biệt, đối
với hết thảy người, sự, vật, pháp thế
gian và xuất thế gian đều chẳng phân biệt. Tứ
thánh pháp giới là bốn tầng cấp, là bốn chiều
không gian bất đồng, quư vị vẫn một mực tiến cao hơn, lên
tới tầng cao nhất, lại buông khởi tâm động
niệm xuống, sẽ thoát ly mười
pháp giới. Thoát ly mười pháp giới mới là thật
sự chứng quả, mới thật sự đạt
đến vĩnh hằng, “vĩnh
hằng” là điều chính ḿnh vốn sẵn có. Thiền
Tông Trung Hoa nói “minh tâm kiến tánh,
kiến tánh thành Phật”, quư vị thành Phật, vị
Phật ấy là chân Phật, chẳng thể là giả Phật. Thảy đều lấy giữ giới
làm cơ sở. Hiện thời, chúng ta chẳng buông xuống
được, đức Phật dạy chúng ta phương
tiện thiện xảo, thực hiện từ chỗ nào?
Thực hiện từ chỗ buông xuống mười ác
nghiệp. Đức Phật dạy chúng ta đừng sát sanh,
chúng ta phải nghiêm túc học tập. Từ nay trở
đi, quyết chẳng c̣n tổn hại thân mạng của
hết thảy chúng sanh. Ngài dạy chúng ta đừng trộm
cắp, từ nay trở đi quyết chẳng có ư niệm
mong chiếm tiện nghi của người khác.
Mười ác có báo ứng, trong
kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo đă dạy cặn
kẽ. Sát sanh không chỉ có quả báo là đoản mạng,
mà c̣n là oan oan tương báo, đời đời kiếp
kiếp chẳng hết, chẳng xong. Trộm cắp, bất
luận dùng thủ đoạn ǵ, chiếm tiện nghi của
kẻ khác, cướp đoạt tài vật của người
ta, quả báo sẽ là bần cùng, chẳng phát tài, bần cùng! Không chỉ là bị quả báo bần cùng, đời
sau c̣n phải trả nợ. Không chỉ là kẻ tại
gia b́nh phàm chẳng thể tránh khỏi chuyện này, hàng xuất
gia cũng chẳng có thể tránh khỏi. Quư vị thấy
trong giới kinh đức Phật đă dạy: “Thí chủ nhất lạp mễ,
đại như Tu Di sơn, kim sanh bất liễu đạo,
phi mao đới giác hoàn” (Một hạt gạo thí chủ,
to như núi Tu Di, đời này chẳng giác ngộ, đeo
lông, đội sừng đền). Quư vị xuất gia, cuộc
sống của quư vị do mười phương cúng
dường, chẳng cần phải bận tâm sản xuất,
mọi người đến cúng dường quư vị. V́
sao cúng dường quư vị? Hy vọng quư vị tu hành chứng
quả. Nếu quư vị tu hành không thể chứng quả,
đời sau vẫn phải luân hồi, sẽ phải trả
nợ. Đời này quư vị đă nhận cúng dường
bao nhiêu, tương lai đều phải đền trả
từng thứ một, chẳng sót một thứ nào! Quư vị
nói xem có phiền phức hay chăng? Chớ nên không biết
điều này!
Nhất định phải
đọc kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo. Trong
quá khứ, chúng tôi đă từng giảng giải cặn kẽ, hiện thời cũng đă in thành
sách, vừa có đĩa CD, vừa có sách. Học Phật
th́ phải vun quén căn cội từ chỗ này! Tuy ở
đây nói đến Ngũ Giới, Bát Giới, cơ sở
của Ngũ Giới và Bát Giới là Thập Thiện Nghiệp
Đạo. Nếu chẳng có Thập Thiện Nghiệp
Đạo, chẳng có tư cách thọ Tam Quy,
đương nhiên là càng chẳng có tư cách thọ
Ngũ Giới và Bát Giới. Do vậy, Thập Thiện
Nghiệp Đạo là căn bản của căn bản
trong Phật pháp. Hiện thời, v́ sao chẳng làm
được Thập Thiện Nghiệp Đạo?
Người học Phật thảy đều coi nhẹ; do
vậy, Tam Quy Ngũ Giới đều biến thành hữu
danh vô thực. Đấy là chuyện rất đáng đau
ḷng! Nhưng bản thân quư vị đă hiểu, chính ḿnh
giác ngộ, người khác không làm, Tăng đoàn cũng
chẳng làm, cá nhân ta phải làm, cứu chính ḿnh. Cứu
người khác chẳng được th́ trước hết
phải cứu chính ḿnh. Quyết định chẳng thể
nói “họ đều không làm, ta làm để làm ǵ?” Điều
này có nghĩa là họ đều đọa địa ngục,
ta chẳng đọa trong địa ngục th́ đi đâu! Chẳng phải là ư nghĩa ấy hay sao? [Nếu
nghĩ như vậy], quư vị đă lầm mất rồi.
Người khác chẳng làm, ta phải nghiêm túc làm, nhất
định phải tăng tấn chính ḿnh, đấy là
đúng.
Chúng ta hăy ngẫm xem, v́ sao chẳng
làm được Thập Thiện Nghiệp? Dưới
đó c̣n có căn cội, đấy là như trong kinh Phật
Tạng, đức Thế Tôn đă dạy: “Đệ tử Phật không học
Tiểu Thừa trước, sau đấy học Đại
Thừa, sẽ chẳng phải là đệ tử Phật”.
Do vậy mới biết: Căn cội của Thập Thiện
Nghiệp Đạo là Tiểu Thừa. Hiện thời
chúng ta chẳng học Tiểu Thừa. Trong các kinh Tiểu
Thừa, trong quá khứ, tôi học Phật, bộ kinh thứ
nhất được thầy dạy là Tiểu Thừa, tức
là kinh A Nan Vấn Sự Phật Cát Hung. Trong kinh Tiểu Thừa,
câu đầu tiên đức Phật dạy chúng ta: “Thân cận minh sư thọ giới”.
“Thọ giới” (受戒) nghĩa là tiếp
nhận sự răn dạy, giáo huấn. Điều kiện
đầu tiên, quư vị học Phật nhất định
phải theo một vị thầy tốt, tức minh sư.
Vị ấy chẳng phải là tiếng tăm nổi
như cồn, mà “minh” là chữ
Minh trong “quang minh” (光明). Chúng ta hiểu:
Vị thầy ấy hữu tu, hữu học, hữu chứng
th́ mới là minh sư.
Hiện thời, chẳng t́m
thấy một vị thầy như vậy! Chẳng t́m thấy
vị thầy hữu tu, hữu học, hữu chứng.
Chứng quả là thánh nhân, trước kia, thật sự có
[minh sư]. Theo giáo pháp Đại Thừa, [người đă] “minh tâm
kiến tánh” trong Thiền Tông
th́ là minh sư; Giáo Hạ là đại khai viên giải, trong
Tịnh Tông là người đă đắc nhất tâm bất
loạn, đấy là minh sư. Hiện thời, chẳng
t́m thấy. Chẳng t́m thấy th́ bất đắc dĩ
cầu một vị kém hơn. Trước kia, thầy tôi
dạy phải t́m vị thầy như thế nào? Hữu
học, hữu tu. Vị thầy ấy thật sự giải
hạnh tương ứng. Tuy chẳng chứng đắc,
chúng ta học theo Ngài, sẽ chẳng bị lạc lối!
Nếu ngay cả một vị thầy như vậy chẳng
có, nếu quư vị thật sự biết phát đại
đạo tâm, hăy học theo cổ đại đức,
như vậy th́ được, cũng có thể thành tựu.
Giống như Mạnh Tử học theo Khổng Tử,
thật sự học thành công. Chỉ sợ quư vị chẳng
chịu học! Ngẫu Ích đại sư học theo Liên
Tŕ đại sư, học thành công, trở thành tổ
sư suốt một đời. Trong pháp thế gian và Phật
pháp, người sử dụng biện pháp này thành tựu
chẳng ít!
Người thành tựu
như vậy, có tinh thần tự kiềm chế chính ḿnh
vượt trỗi những kẻ b́nh phàm. Hằng ngày
đọc sách của cổ nhân, giống như cụ Lư Bỉnh
Nam giới thiệu, dạy tôi học theo pháp sư Ấn
Quang. Đọc Văn Sao của Ấn Quang đại
sư, có thể hiểu ư nghĩa, vâng theo giáo pháp do chính
ḿnh đă lư giải để tu hành, thật sự hành! Học
như vậy, sẽ đạt được mấy phần
giống, từ tương tự đạt đến
chân thật. Đấy là “tư
thục đệ tử” của cổ đức. Giống
như chúng ta học Hoa Nghiêm, trong phần trước,
chúng ta đă đọc thấy [kinh dạy về] đại
sư và tiểu sư. Kinh Hoa Nghiêm là đại sư do
Thích Ca Mâu Ni Phật giảng. Sớ Sao là tiểu sư, bản
chú giải này giúp chúng ta lư giải, giúp chúng ta học tập,
do Thanh Lương đại sư chú giải. Sau mỗi
đoạn c̣n có phần Hợp Luận, do trưởng giả
Lư Thông Huyền chú giải. V́ thế, Thanh Lương đại
sư và Lư trưởng giả là tiểu sư. Chúng ta chẳng
có ngày nào rời khỏi những vị ấy, học tập
theo các Ngài, hy vọng chúng ta có thể chẳng hiểu sai lệch
nghĩa thú trong kinh sách, y giáo tu hành. Thực hiện những
ǵ chính ḿnh đă thấu hiểu trong cuộc sống hằng
ngày, tuân theo những ǵ kinh giáo đă dạy để sửa
đổi những tập khí không tốt đẹp và sửa
đổi những tư tưởng, kiến giải, ngôn
hạnh trái nghịch với những điều kinh giáo
đă dạy. Chúng ta là đệ tử Phật Thích Ca, là
đệ tử của Tỳ Lô Giá Na Phật, là học
tṛ của Thanh Lương đại sư, học tṛ của
Lư trưởng giả, quư vị sẽ có thể thành tựu.
Kinh Hoa Nghiêm đến cuối
cùng, mười đại nguyện vương của Phổ
Hiền Bồ Tát hướng dẫn về Cực Lạc;
do vậy, chỗ quy kết của kinh Hoa Nghiêm là Tây
Phương Cực Lạc thế giới. V́ thế, cổ
đại đức bảo Hoa Nghiêm là đại bổn
của kinh Vô Lượng Thọ. Lời ấy nói chẳng
sai tí nào! Kinh Vô Lượng Thọ là trung bổn của
kinh Hoa Nghiêm, Phật Thuyết A Di Đà Kinh là Tiểu Bổn
Hoa Nghiêm. Sự tu học của
chúng ta bèn rất rơ ràng, rất minh bạch, thực
hiện từ chỗ nào? Thực hiện từ Đệ
Tử Quy của Nho gia, v́ sao? Nay chúng ta dùng thứ này để
thay thế Tiểu Thừa. Đệ Tử Quy dễ học
hơn kinh Tiểu Thừa, v́ nó là sản vật bổn thổ
của Trung Hoa, tự nhiên có phần nào cảm thấy thân
thiết hơn!
Ắt phải thực hiện viên măn từng câu từng chữ
trong ba trăm sáu mươi câu ấy; sau đấy,
học tập Thập Thiện Nghiệp Đạo sẽ
chẳng khó tí nào! Chớ nên không biết điều này! Do
vậy, trong những năm qua, chúng tôi đề xướng
học tập Đệ Tử Quy và học tập Thập
Thiện Nghiệp trên khắp thế giới. Đối với
các đồng học xuất gia, tôi cổ vũ họ học
tập Sa Di Luật Nghi. Người khác có làm hay không chẳng
liên quan ǵ đến ta. Quư vị thật sự mong đạt
thành tựu, nếu chẳng đặt cơ sở ở chỗ
này, sẽ vĩnh viễn chẳng thực hiện
được!
Đối với bài kệ
này, Thanh Lương đại sư cũng có chú giải.
Chúng ta đọc lời chú giải một lượt:
(Sớ) Thọ học giới giả,
tức Thập Giới dă.
(疏)受學戒者,即十戒也。
(Sớ: Thọ học giới
chính là mười giới).
V́ đây là xuất gia, mười
giới của người xuất gia chính là Sa Di Luật
Nghi.
(Sớ) Diệc thông Ngũ Giới.
(疏)亦通五戒。
(Sớ: Cũng thông Ngũ Giới).
Năm điều đầu
trong Sa Di Luật Nghi chính là Ngũ Giới; do vậy, nó
tương thông với Ngũ Giới.
(Sớ) Ưu Bà Tắc Giới
Kinh vân.
(疏)優婆塞戒經云。
(Sớ: Ưu Bà Tắc Giới
Kinh nói).
Ưu-bà-tắc (Upāsaka) là tại gia cư sĩ, đây là giới dành cho hàng
cư sĩ tại gia.
(Sớ) Dục thọ Bồ Tát
Giới, tiên ưng biến thọ Ngũ Giới, Thập
Giới, nhị bách ngũ thập giới. Nhược ni
tắc lục sự, cập ngũ bách giới.
(疏)欲受菩薩戒,先應遍受五戒、十戒、二百五十戒。若尼則六事,及五百戒。
(Sớ: Muốn thọ Bồ
Tát Giới, trước hết hăy nên thọ trọn khắp
Ngũ Giới, Thập Giới, hai trăm năm
mươi giới. Nếu là ni th́ thọ sáu sự[3] và năm
trăm giới).
Đây là nói về người
xuất gia. Quư vị xuất gia, nhất định là trước
hết hăy thọ giới Sa Di. Xuất gia th́
đương nhiên là mong làm tỳ-kheo, Bồ Tát, đă thọ
đại giới viên măn. Đó là từng tầng cấp một.
Vào thời cổ, tam đàn đại giới chẳng phải
là thọ một lượt, v́ sau khi đă thọ, phải
học! Ví như trước hết là thọ giới Sa Di;
sau khi đă thọ giới Sa Di, có phải là thật sự
đều làm được hay không? Thảy đều làm
được, sư phụ mới chấp thuận cho quư
vị thọ giới tỳ-kheo. Có thể thật sự thọ
tŕ giới tỳ-kheo, cũng đều có thể thực
hiện qua mọi hành vi trong cuộc sống, quư vị mới
có tư cách thọ giới Bồ Tát. Do vậy, chia thành ba
thời kỳ, chẳng phải là đồng thời!
Hiện thời, chỉ có thọ
giới, chẳng chú trọng tŕ giới; do vậy, tam đàn
đại giới thọ trong một lần. Quư vị có
thể làm được hay không, vị sư phụ truyền
giới chẳng nghe, chẳng hỏi đến! Đấy
là nguyên nhân khiến cho Phật pháp suy thoái, chúng
ta chớ nên không biết. Thầy cũng dạy chúng tôi, hiện
thời chuyện này đă trở thành phong tục, diễn
biến thành một thứ
tập quán, chỉ đành đến
thọ. Sau khi đă thọ, chính ḿnh nhất định phải
biết, quư vị là danh tự tỳ-kheo, danh tự Bồ
Tát, chẳng thật! Nếu bản thân quư vị thật sự
xưng là tỳ-kheo, xưng là Bồ Tát, sẽ là phạm
giới đại vọng ngữ. Do tội lỗi phạm
giới đại vọng ngữ, sẽ đọa A Tỳ
địa ngục. Quư vị chẳng phải là Bồ Tát,
thế mà bảo người khác “ta là Bồ Tát”. Chẳng
phải là tỳ-kheo, quư vị bảo người khác “ta là
tỳ-kheo”, chẳng thể được! Thật sự
là Bồ Tát th́ chẳng sao, có thể được! Thật
sự là tỳ-kheo th́ mới có thể xưng [là tỳ-kheo]!
V́ lẽ đó, vào cuối
đời Minh, đầu đời Thanh, vị tổ sư
đời thứ chín của Tịnh Độ Tông chúng ta là
Ngẫu Ích đại sư sau khi thọ giới, đă
đối trước Phật, Bồ Tát thoái giới, đă
nêu gương rất tốt đẹp, đă nêu khải
thị rất hay cho chúng ta: Danh và thực chẳng phù hợp
sẽ có tội! Năm xưa khi giảng kinh, tôi đă nói
rất nhiều lần, thông thường là có những người
dường như rất tôn kính tôi, gọi tôi là “Tịnh Không đại
sư”. Ngay khi đó, tôi bảo người ấy: “Chớ
nên! Không thể xưng hô như vậy! V́ sao? Đại sư
là tiếng để gọi đức Phật. Ai có thể
xưng là đại sư? Bậc minh tâm kiến tánh, c̣n
trong Tịnh Độ Tông nhất định là bậc
đă đắc Lư nhất tâm bất loạn, là Pháp Thân Bồ
Tát th́ có thể xưng đại sư”. Quư vị
chẳng phá vô minh, chẳng chứng Pháp Thân, làm sao có thể
gọi là đại sư cho được? Chớ nên tâng
bốc quá lố. Quá lố, người thế gian chúng ta
sẽ nói là “nói móc”, châm chọc người ta! Ví như quư vị chẳng
phải là Tổng Thống, người ta gặp mặt quư
vị bèn cúi chào, gọi quư vị là “Tổng
Thống tiên sinh”, họ nói kháy quư vị, chúng ta chớ nên không biết
điều này! V́ thế, đối với cách xưng hô
trong Phật môn, nói đùa bỡn sẽ khiến cho người
khác hiểu lầm, tội lỗi cũng rất nghiêm trọng.
Hiện thời, thế giới
này đang trong thời kỳ Mạt Pháp, những kẻ tự
xưng là Bồ Tát rất nhiều, kẻ xưng là Phật
cũng rất nhiều, [tự khoe] họ là Phật chi
đó tái lai, là Bồ Tát chi đó tái lai, thường xuyên
nghe thấy! Có người đến bảo tôi, kẻ nào
đấy là Bồ Tát hay Phật tái lai, tôi nghe xong cười
x̣a. Bậc tái lai thật sự, chắc chắn chẳng bộc
lộ thân phận! Hễ thân phận bị bộc lộ,
sẽ ra đi; đó là thật, chẳng giả! Vĩnh Minh
Diên Thọ đại sư là vị tổ sư đời
thứ sáu của Tịnh Độ Tông, là A Di Đà Phật
tái lai. Khi bị người khác biết thân phận, Ngài viên
tịch ngay. Đấy là thật! Người khác đă biết,
quư vị vẫn chẳng ra đi, giả trất! Bố Đại
ḥa thượng chính là Di Lặc Bồ Tát, Ngài tự ḿnh
tuyên bố, bảo mọi người Ngài là Di Lặc Bồ
Tát hóa thân đến cơi này. Nói xong, Ngài ra đi. Đó là thật!
Trong truyện kư đă ghi chép rất nhiều. Tại Trung
Hoa, Phật, Bồ Tát ứng hóa rất nhiều, [nhưng
đều là] thân phận bị bộc lộ bèn ra đi. Thân phận
bị bộc lộ mà vẫn không đi, sẽ biến thành
tà thuyết mê hoặc người khác, khiến cho đại
chúng bị mê hoặc! Trong Phật pháp chẳng chấp nhận
điều này! Đấy là kiến thức thông thường,
người thế gian không hiểu, người học Giáo
chúng ta chớ nên không hiểu!
Họ có thể làm, chúng ta chớ
nên làm, họ th́ sao? Họ vô tri. Tuy vô tri chẳng có tội,
họ phạm lỗi! Lỗi nhẹ hơn tội một
tí! Đă biết như vậy mà vẫn làm, sẽ có tội
nặng nề, quyết định chớ nên! V́ vậy,
thông thường, trong cách xưng hô thông thường, gọi
[người xuất gia] là “pháp
sư” rất khách sáo! Nói thật ra, hai chữ “pháp sư” cũng chẳng dễ
gánh vác! Trong Phật pháp, tiếng Phạn gọi là A Xà Lê. A
Xà Lê dịch nghĩa sang tiếng Hán sẽ là Quỹ Phạm
Sư, nay chúng ta dịch thành “pháp
sư”. Pháp sư th́ hành vi và ngôn luận của quư vị
có thể nêu gương cho đại chúng trong xă hội mới
có thể xưng là “pháp sư”.
Xà Lê, pháp sư, cho đến Ḥa Thượng, chư vị
phải hiểu là những từ ngữ xưng hô thông dụng
trong Phật môn, chẳng phân biệt tại gia hay xuất
gia. Người tại gia tu hành rất khá, sự tu tŕ, ngôn
luận, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo
tác của người ấy đều có thể làm gương
cho người thế gian th́ đều có thể gọi người
ấy là Xà Lê, nay chúng tôi nói là đều có thể gọi là
“pháp sư”. Nếu người
ấy giáo hóa một phương, chủ tŕ đạo
tràng, là tại gia cư sĩ chủ tŕ đạo tràng,
giáo hóa một phương, người ấy chính là Ḥa Thượng.
Ḥa Thượng là Thân Giáo Sư.
Lúc tôi mới đến Đài
Trung, đến chỗ thầy Lư ở để bái phỏng, thấy tiên sinh Khổng Đức Thành
tặng cho cụ một bức đại tự, lộng
trong khung kính, treo ở trong pḥng, đề Tuyết Lư
Đại Ḥa Thượng. Tuyết Lư (雪廬) là biệt
hiệu của thầy Lư. Họ tôn xưng thầy Lư là Đại
Ḥa Thượng. Thầy cũng chẳng phải là người
xuất gia, nhưng thầy thật sự là Đại Ḥa
Thượng. Tại Đài Trung, Ngài dựng liên xă. Đài
Trung Liên Xă do lăo nhân gia sáng lập, lănh đạo đại
chúng giảng kinh, niệm Phật, là đạo tràng chánh
pháp. Gọi Ngài là Ḥa Thượng, danh và thực tương
xứng. Nhưng chính Ngài rất khiêm hư, tự ḿnh chẳng
dám xưng, người khác tôn kính, gọi Ngài như vậy.
Đấy là những người
hiểu biết sâu xa. V́ thế,
hàng tại gia hoằng pháp lợi sanh gọi là “pháp sư” th́ chánh xác, có thể
gọi theo kiểu ấy! Nhưng thông thường, thế
tục quen gọi Ngài là “lăo
cư sĩ”. Như thế th́ càng khiêm hư hơn. Những
điều này đều thuộc loại Phật học thường
thức, người học Phật ắt cần phải
biết!
Suốt đời, Ngẫu
Ích đại sư tự xưng là Bồ Tát Giới Sa Di.
V́ sao Ngài tự xưng theo kiểu ấy? Bồ Tát Giới
th́ Ngài có thể làm được, tỳ-kheo giới Ngài cũng
làm được, v́ sao muốn thoái lui? Làm cho bọn người
đời sau như chúng ta nh́n vào! Người sống
trong thế gian này nhất định phải là danh và thực
tương xứng, chớ nên mạo danh, chớ mong hư
danh, [nếu là giả danh, hoặc hư danh], sai mất rồi! Ư
nghĩa quan trọng nhất là mong những kẻ đời
sau như chúng ta [nhận biết]
khiêm hư là đức hạnh.
Đức hạnh và học vấn trong pháp thế gian và
xuất thế gian đều được thành tựu bởi
khiêm kính (khiêm hư, thành
kính). Người càng tu hành, càng có học
vấn, sẽ càng khiêm hư, đối đăi người
khác bằng ḷng thành kính, quyết định chẳng có ngạo
mạn! Quư vị thấy trong Luận Ngữ, Khổng Tử
đă nói một câu. Ngài nói theo lối tỷ dụ: Giả
thiết là có một người như thế này, “kỳ nhân chi tài” (tài năng của
người ấy), có tài hoa như Châu Công. Châu Công là thánh
nhân, trong tâm mục Khổng Tử, Ngài hâm mộ Châu Công nhất.
Phu tử suốt đời tu hành, lấy Châu Công làm gương,
rất mong học theo Châu Công. Ngài nói người ấy có
tài năng tốt đẹp như Châu Công, có tài hoa như
thế ấy, “sử kiêu thả
lận” (nếu như kiêu căng lại c̣n keo kiệt),
người ấy như thế nào? Ngạo mạn, keo kiệt.
Phu tử nói: “Kỳ dư tắc
bất túc quán dă” (Những điều khác chẳng cần phải xét tới
nữa). Chẳng cần nói tới những thứ khác nữa,
[tài hoa ấy] là giả trất, chẳng thật!
Nếu thật sự có tài và
đức, khẳng định là người ấy khiêm
hư, tuyệt đối sẽ chẳng ngạo mạn,
chắc chắn là sẽ chẳng keo kiệt. Phu tử nh́n
người, đó là lời tuyên bố về kinh nghiệm
vậy. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta xử sự,
đăi người tiếp vật, quư vị có tiêu chuẩn
như vậy, khi tiếp xúc đại chúng, sẽ chẳng
nhận biết người khác sai lầm! Đặc biệt
là trong thời đại hiện thời, bề ngoài và nội
tâm chẳng tương ứng. Bề ngoài trau chuốt, làm ra vẻ, khiến cho quư vị thoạt nh́n, cảm
thấy người ấy rất đáng tôn kính, sau lưng
sẽ chẳng phải là như vậy. T́m một người
“trong và ngoài như một” rất
khó. Đó là ǵ? Thật sự có tu dưỡng, thật sự
có đức hạnh. Người thật sự có tu
dưỡng, có đức hạnh, tôi cũng đă
được thân cận mấy vị! Chẳng có ngày nào không đọc kinh, chẳng có ngày nào không phản tỉnh,
sửa lỗi! Đấy là người thật sự tu
hành, hết sức khiêm hư, chẳng dám tự cho là đúng.
Tiên sinh Phương Đông Mỹ, Chương Gia đại
sư, thầy Lư Bỉnh Nam, c̣n có một người tôi chưa
được gặp mặt là cư sĩ Hạ Liên Cư.
Tôi chưa gặp Ngài, nhưng đă gặp học tṛ của
Ngài là lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ. Những vị ấy
là thiện tri thức thật sự, ở chung với các
vị ấy, quan sát kỹ lưỡng, chúng ta sẽ học
được rất nhiều điều!
Tiếp đó, chú giải
ghi:
(Sớ) Thọ, vị thọ giới.
Học, tức tùy giới. Nguyện trung, tức chỉ
tác nhị tŕ.
(疏)受,謂受戒。學,即隨戒。願中,即止作二持。
(Sớ: Thọ là thọ giới.
Học là tùy thuận giới. Trong lời nguyện đă
nói đến Tác Tŕ và Chỉ Tŕ).
Tức là hai câu sau trong bài kệ
này, “thiện học ư giới,
bất tác chúng ác” (khéo học các giới, chẳng làm các
điều ác). “Thiện học
ư giới” là Tác Tŕ. “Bất
tác chúng ác” là Chỉ Tŕ. Pháp thế gian và xuất thế
gian đều lấy giới luật làm cơ sở, Nho
gia không nói Giới, mà nói là Lễ, Phật pháp nói đến
Giới. Danh từ khác nhau, ư nghĩa hoàn toàn như nhau. Do vậy,
tổ sư đại đức Trung Hoa thường nói:
Trong Phật pháp, Thiền là Phật tâm, Giáo (giáo pháp trong kinh
điển) là Phật ngôn, tức là ngôn ngữ
của Phật, Giới là Phật hạnh, cũng là thân,
khẩu, ư của Phật. Ngôn ngữ, cử chỉ của
Phật đều là biểu hiện giới luật, biểu
diễn, tức là biểu diễn giới luật. Quư vị thấy trọng
yếu như thế đó! Thiền là tâm thanh tịnh,
cũng là như chúng ta thường nói “ĺa vọng tưởng, ĺa phân biệt, ĺa chấp
trước”, đó đều là Thiền. Ĺa vọng
tưởng chính là Thiền cao cấp nhất, chẳng có vọng tưởng. Ĺa phân biệt là Thiền bậc trung. Ĺa chấp
trước là Thiền bậc hạ. Thiền tâm là tâm thanh
tịnh. Kinh Kim Cang đă định nghĩa Thiền rất
hay: “Bất thủ ư tướng,
như như bất động” (Chẳng
chấp lấy tướng, như như bất động).
Lục Tổ dạy rơ ràng hơn, minh bạch hơn: “Ngoài chẳng chấp tướng,
trong chẳng động tâm”,
đấy là Thiền. A! Nay đă hết thời gian rồi,
chúng ta nghỉ ngơi mấy phút!
***
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống.
Chúng ta vẫn tiếp tục xem bài kệ thứ mười
hai.
(Kinh) Thọ học giới thời,
đương nguyện chúng sanh, thiện học ư giới,
bất tác chúng ác.
(經)受學戒時。當願眾生。善學於戒。不作眾惡。
(Kinh:
Khi thọ học giới, nguyện cho chúng sanh, hăy khéo học
giới, chẳng làm các ác).
Bài kệ này hết sức
quan trọng, chính là điều cần thiết cấp bách
mà chúng ta phải học tập trong hiện tiền. Trong
phần trước, tôi đă thưa tŕnh cùng chư vị
đơn giản về chuyện thọ giới và tŕ giới.
Năm xưa, Chương Gia đại sư bảo tôi,
khi đó, tôi chỉ thọ Tam Quy, chứ Ngũ Giới c̣n
chưa thọ. Lăo nhân gia dạy tôi: “Phật pháp trọng thực chất, không coi trọng
h́nh thức”. Đây là điều tôi được nghe
trước hết, Giới là căn bản của Phật
pháp. V́ thuở mới học, chúng tôi chỉ hâm mộ đạo lư trong kinh luận. Phương
tiên sinh dạy tôi, dùng cách nh́n triết học để xem
xét kinh Phật, lăo nhân gia bảo là “triết
học trong kinh Phật”. Tôi nhập môn từ chỗ này,
chịu ảnh hưởng của thầy Phương khoảng
ba năm. Do vậy, tôi chẳng phải là nhập môn từ
tôn giáo, mà là nhập môn từ học thuật. Về sau mới
phát hiện, Phật giáo phong phú hơn triết học quá nhiều. Trong Phật giáo
có triết học, c̣n có những thứ khác, gần như
là không ǵ chẳng bao gồm, giống như một đại
học hoàn chỉnh, triết học là một học hệ
trong ấy! Sau khi đă hiểu, tôi hết sức cảm kích
thầy. Nếu chẳng được thầy tiếp dẫn,
chắc chắn là chúng tôi đă bỏ lỡ một đời
này. V́ sao? V́ nghĩ Phật giáo là mê tín, chẳng tiếp xúc,
phí uổng một đời!
Chương Gia đại
sư bảo tôi, Giới là căn bản để học
Phật. Nếu chẳng có Giới, sẽ là Phật học.
Về sau, thầy Lư cũng nói về điều này: “Chẳng có giới, chẳng tuân
thủ giới, đấy là Phật học, chẳng phải
là học Phật”. V́ thế, học Phật và Phật học
là hai chuyện, mới hiểu rơ ràng! Thầy Phương
dạy tôi học theo kiểu Phật học. Sau khi đă
theo Chương Gia đại sư, mới biết học
Phật. Giới luật, không cần thiết phải thọ
theo h́nh thức; nhưng đối với tam đàn đại
giới, đương nhiên là phải nên thọ. Khi đó,
chúng tôi vừa mới nhập môn, chẳng biết ǵ hết,
[nếu thầy] bảo chúng tôi đi thọ giới, đương
nhiên là chúng tôi sẽ chẳng tiếp nhận. Thầy có
thiện xảo, thường dạy, nhà Phật nói: “Từ bi vi bổn, phương
tiện vi môn” (Từ bi làm gốc, phương tiện làm cửa). Thầy
có phương tiện môn, có thiện xảo. Thầy bảo
tôi: “Anh hiểu một điều, tức là học
được một điều. Thật sự làm
được, anh đă đạt được điều
giới ấy, đă đắc giới! Học hai điều,
anh có thể làm được hai điều!” Học theo
cách như vậy đó!
Ví như không sát sanh, không chỉ
là chẳng thể giết người, mà muỗi,
trùng, kiến đều chớ nên giết! Không chỉ là đừng nên giết,
nếu khiến cho hết thảy chúng sanh v́ ta mà dấy lên
phiền năo, cũng đều thuộc về ư niệm sát
sanh! Chẳng đoạn ư niệm ấy, giới điều
này chẳng thanh tịnh. V́ thế, mỗi giới điều
đều được nói hết sức vi tế! Ví như
nói tới giới trộm cắp, đương nhiên là quư
vị chớ nên lấy trộm đồ
vật của người khác. “Trộm” là không cho mà lấy.
Món đồ ấy có chủ nhân, chủ nhân chẳng đồng
ư, quư vị cứ lấy, hoặc đổi dời vị
trí của nó, chủ nhân chẳng t́m thấy! Những điều
này đều thuộc phạm vi của giới trộm cắp.
Vi tế hơn là quư vị c̣n có ư niệm chiếm tiện nghi,
chiếm tiện nghi của kẻ khác, chiếm tiện
nghi của công chúng trong xă hội, chiếm tiện nghi của
quốc gia. [Chiếm tiện nghi của] quốc gia là chẳng
hạn như [chánh quyền] thâu thuế, ta hy vọng đóng
thuế ít hơn, nay gọi là “kiếm
lỗ hổng pháp luật”, tận hết khả năng để đóng thuế ít hơn. Ư niệm ấy chính là cái tâm
trộm cắp. Bất luận quư vị có hành vi hay không, hễ
có ư niệm ấy th́ là tâm trộm cắp! V́ thế, trong
giáo pháp đă nói hết sức vi tế. Có thể thật
sự học tốt đẹp, sẽ có thể đạt
tới thuần tịnh, thuần thiện. “Thuần tịnh” là tâm
thanh tịnh, chân tâm; “thuần
thiện” là đại từ bi. “Thuần tịnh, thuần thiện” là
đại Bồ Đề tâm, chân tâm. Do vậy, từ tŕ
giới, nghiêm tŕ giới luật, lâu ngày chầy tháng, sẽ
có thể ngộ nhập cảnh giới ấy. Nhân Giới
đắc Định, Định là Thiền Định.
Pháp do Lục Tổ Huệ
Năng đại sư truyền là từ sự ngộ
nhập kinh Kim Cang, Ngài do được Ngũ Tổ giảng
kinh Kim Cang mà khai ngộ. Trong kinh Kim Cang, đức Phật
dạy ngài Tu Bồ Đề tiếp xúc với quảng đại
quần chúng th́ phải dùng tâm thái như thế nào, tức
là “chẳng giữ lấy
tướng, như như bất động”. Tâm thái ấy
chính là Thiền Định rất sâu! Thiền Định
khởi tác dụng, sáu căn tiếp xúc cảnh giới
sáu trần đều là Thiền Định. Đó gọi
là “Na Già thường tại
Định, chẳng khi nào không định”. Chư Phật,
Bồ Tát thị hiện trong mười pháp giới, đáng
nên dùng thân ǵ để đắc độ bèn hiện thân ấy, tùy
cơ thuyết pháp, chẳng ĺa khỏi Định, chưa
hề đánh mất Thiền Định. Đi, đứng,
ngồi, nằm đều là Thiền! Trong Đàn Kinh, Lục
Tổ càng nói dễ hiểu hơn, lăo nhân gia bảo: “Ngoài chẳng chấp tướng,
trong chẳng động tâm”. “Như
như bất động” là “trong
chẳng động tâm”, “chẳng
giữ lấy tướng” là “ngoài chẳng chấp tướng”. Điều này
dễ hiểu! Mắt thấy sắc mà chẳng chấp sắc
tướng. Tai nghe tiếng, chẳng chấp thanh tướng.
Mũi ngửi hương, chẳng chấp hương
tướng. Lưỡi nếm vị, chẳng chấp vị
tướng! Chư vị ngẫm xem, há chẳng phải là
quư vị đă buông xuống chấp trước, buông xuống
phân biệt, buông xuống vọng tưởng ư? Đấy
là cảnh giới ǵ? [Cảnh giới của] Pháp Thân Bồ
Tát, chư Phật Như Lai.
Điều này chỉ rơ chư
Phật Như Lai, Pháp Thân Bồ Tát ứng hóa trong thế
gian, quư vị nh́n từ h́nh tướng, sẽ thấy chẳng
khác ǵ chúng ta! Dáng vẻ sinh hoạt chẳng khác chúng
ta cho mấy, cũng mặc áo, ăn cơm, hằng ngày cũng
đi làm như vậy, sáng dậy, tối ngủ, chẳng
khác chi hết! Bên trong hoàn toàn khác nhau: Phàm phu sáu căn tiếp
xúc cảnh giới sáu trần, chẳng có ǵ không chấp
tướng! Chấp tướng th́ đương nhiên là
quư vị sẽ động tâm, động tâm ǵ vậy? Mừng,
giận, buồn, vui, dấy động thất t́nh, ngũ
dục. Quư vị đă động tâm, tham, sân, si, mạn.
Tâm đă động; hễ động tâm bèn tạo nghiệp.
Chẳng khởi tâm, không động niệm, sẽ không tạo nghiệp. V́ thế, thật
sự là Phật, Bồ Tát ở trong thế gian, xác thực
là các Ngài “làm mà không làm, không làm
mà làm”, [đấy là] thân giáo. Ngôn giáo chính là thuyết
pháp, thuyết mà không thuyết, không thuyết mà thuyết,
tam luân thể không! Các Ngài biểu diễn, diễn tả như
thế nào, chúng ta rất khó hiểu. Mấy năm gần đây,
chúng ta đắc lực nhờ thí nghiệm với nước
của tiến sĩ Giang Bổn Thắng, tôi trông thấy
chuyện này, hoảng nhiên đại ngộ! Đấy là
ǵ? Tác dụng của tự tánh, tuyệt đối chẳng
có khởi tâm động niệm, đương nhiên là
càng chẳng có phân biệt, chấp trước! Chúng sanh có
cảm, sẽ tự nhiên phản ứng, chẳng có mảy
may miễn cưỡng, chẳng có mảy may ư nghĩ nào
trong ấy!
V́ thế, đức Phật
đă v́ chúng ta thị hiện, đối với những
ngôn thuyết của đức Phật, chúng ta rất khó
hiểu, đạo lư ở chỗ này! Nói theo bọn phàm
phu chúng ta, Ngài vô tâm nói ra, chúng ta hữu tâm nghe! Vô tâm nói ra, bất
luận là Ngài tạo tác cũng thế, mà ngôn thuyết
cũng thế, chẳng có tà hay chánh, chẳng có thiện
hay ác, chẳng có đúng hay sai, thậm chí chẳng có chân
hay vọng, Tánh Đức tự nhiên lưu lộ, giáo pháp
Đại Thừa gọi đó là “pháp môn Bất Nhị”. Nay chúng ta học tập,
chúng ta dùng “có hai” để
học “không hai”! Học kiểu
nào cũng chẳng giống! Tôi nói kiểu này, quư vị có lănh hội hay chăng? Chẳng dễ lănh hội! V́
sao chẳng dễ lănh hội? V́ trong đời này, quư vị khởi tâm động
niệm, ngôn ngữ, tạo tác, đều sống trong thế
giới tương đối, cũng tức là quư vị
rớt vào hai, ba. Do vậy, quư vị chẳng hiểu nghĩa
thú trong Nhất Chân pháp giới, chẳng có cách nào liễu
giải! Phật và Pháp Thân Bồ Tát trụ trong Nhất
Chân pháp giới, Nhất Chân pháp giới là cảnh giới
bất nhị. Nay chúng ta khởi tâm động niệm, tức
là “hai”. Chẳng khởi tâm động niệm th́ là một,
gọi là Nhất Chân. Chúng ta rất khó lư giải.
Ắt cần phải thật sự hành, dần dần tiếp cận.
Thật sự làm ǵ? Thật sự buông xuống! Ngày đầu
tiên gặp Chương Gia đại sư, lăo nhân gia dạy
tôi điều này. Đấy là bí quyết. Từ sơ
phát tâm cho đến địa vị Như Lai địa,
tu như thế nào? Thấy thấu suốt, buông xuống!
Buông xuống giúp thấy thấu suốt, thấy thấu
suốt giúp buông xuống. Hai pháp này thành tựu lẫn nhau. Ngày nào
thấy thấu suốt và buông xuống chẳng hai, quư vị
sẽ chứng quả vị rốt ráo, phải thật sự
hành! Khi ấy, tôi hướng về lăo nhân gia thỉnh giáo:
“Thực hiện từ chỗ nào?” Lăo nhân gia bảo tôi: “Bố Thí”. Thực hiện từ
bố thí, bố thí chính là buông xuống. Điều khó nhất
đối với bọn phàm phu chúng ta là buông xuống, nhất
định phải thực hiện từ chỗ này, thứ
ǵ cũng đều có thể xả! Về sau, tôi nhập
Phật môn, phát tâm suốt đời chuyên môn làm chuyện
này, coi chuyện này là một đại sự bậc nhất
tôi phải làm, nghiêm túc thực hiện trong đời này!
Tôi cũng làm chẳng ít năm, dần dần thấu hiểu:
“Buông xuống” chẳng phải là buông xuống những vật
ngoài thân, mà quan trọng hơn là buông xuống vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước. Điều
này mới là quan trọng!
Trong cuộc sống hằng
ngày, ta c̣n có chấp trước hay không? Hễ c̣n có chấp
trước, quư vị vẫn chưa buông xuống. Buông xuống
một phần, c̣n có một phần khác chẳng buông xuống,
vẫn chưa được! Chẳng thoát khỏi lục
đạo luân hồi. Nhất định là đối với
hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, thảy
đều bố thí sạch. Bố thí sạch tham, sân, si, mạn,
bố thí tiếng tăm, lợi dưỡng, bố thí ngũ
dục lục trần, bố thí thân, tâm, thế giới, chẳng c̣n
chấp trước lục đạo luân hồi! Bố
thí hết sạch th́ quư vị mới có thể vượt
thoát. Quư vị thấy cơi trời, nhân gian, hiện thời
nhân gian chẳng dễ coi, cơi trời vẫn c̣n khá, nếu
quư vị chẳng chịu buông xuống, hăy sanh trong thiên đạo.
Trời có hai mươi tám tầng, mỗi tầng sau thù thắng
hơn tầng trước. Chẳng thể triệt để
buông xuống, sẽ chẳng thể thoát khỏi lục
đạo luân hồi. Giới luật chẳng có ǵ khác, nhằm
dạy quư vị buông xuống. Định là dạy quư vị
buông xuống. Quư vị đă đắc Định, Huệ
giúp quư vị thấy thấu suốt. Quư vị đă đắc
Định, sẽ khai trí huệ. Do trí huệ nên mới liễu
giải chân tướng sự thật. Liễu giải chân
tướng sự thật, quư vị mới thật sự
đạt được pháp hỷ, vui sướng, ĺa khổ
được vui. Nếu chẳng buông khổ xuống, khổ
là lục đạo luân hồi, quư vị chẳng buông [khổ] xuống, lấy đâu ra vui? Tứ thánh pháp giới
cũng phải buông xuống, quư vị mới đạt
được sự vui sướng vĩnh hằng, tức
là Nhất Chân pháp giới. Thật sự gia nhập câu lạc
bộ của chư Phật Như Lai, cùng sống với chư Phật Như Lai.
Mỗi người học Phật
chúng ta hâm mộ, mong mỏi chuyện này vô hạn, chúng ta có
thể chứng đắc ngay trong một đời này
hay không? Đức Phật đă trả lời khẳng
định, vấn đề là bản thân quư vị có bằng
ḷng hay chăng? Đă thế, đức Thế Tôn c̣n giới
thiệu cho chúng ta một pháp môn “tŕ danh niệm Phật, cầu sanh Tịnh
Độ”. Cổ đại đức gọi pháp môn này là pháp
môn “vạn người tu, vạn
người đến”. Nếu quư vị thật sự
mong văng sanh, chư vị phải biết, đó là cảnh
giới của Phật. Cơi Phàm Thánh Đồng Cư cũng
là cảnh giới Phật, chẳng khác ǵ hàng Thập Trụ
Bồ Tát trong thế giới Hoa Tạng. Cao hơn địa
vị chúng ta đang nói ở đây! Nay chúng ta mới là [học
tập] địa vị Thập Tín, Thập Tín c̣n chưa
giảng xong! [Cảnh giới
trong thế giới Cực Lạc tối thiểu là] cảnh giới của Thập Trụ Bồ Tát.
Cơi Phàm Thánh Đồng Cư trong thế giới Tây
Phương là cảnh giới Phật[4];
v́ thế, Tịnh Tông được gọi là pháp môn thành
tựu trong một đời, thành Phật trong một
đời!
V́ lẽ này, kinh Vô Lượng
Thọ vừa mở đầu, đức Phật đă
dạy chúng ta “thiện hộ
tam nghiệp” (khéo bảo vệ ba nghiệp), đấy
là dạy chúng ta phải nghiêm túc học tập. Ở đây,
“thiện hộ tam nghiệp”
là “đương nguyện
chúng sanh, thiện học ư giới, bất tác chúng ác”
(nguyện cho chúng sanh khéo học các giới, chẳng làm
các điều ác). Nhưng trong kinh Vô Lượng Thọ,
đức Phật đă xếp khẩu nghiệp hàng đầu,
các kinh luận thông thường đều nói là “thân, khẩu, ư”, c̣n trong kinh Vô
Lượng Thọ là “khẩu,
thân, ư”. Quư vị phải suy nghĩ v́ sao Ngài nói theo kiểu
ấy? Khẩu nghiệp dễ phạm nhất, nhất là
những người từ độ tuổi trung niên trở
lên, đă dưỡng thành thói quen. Tu hành là tu từ chỗ
nào? Tu từ khẩu nghiệp, cũng có nghĩa là chúng ta uốn
nắn ngôn ngữ, sửa đổi thái độ ăn nói
của chúng ta. Chuyện này chẳng dễ dàng! Nhất là người
từ độ tuổi trung niên trở lên, sẽ chẳng
có ai nói cho quư vị biết những lỗi lầm, tập
khí của chính ḿnh! Nói ra th́ sao? Làm mất ḷng quư vị, [v́ thế], chẳng muốn nói với quư vị. Dẫu gặp
một vị thầy, thầy cũng chẳng nói với quư
vị. Thầy dạy tṛ, thường là có thể bảo
ban khi tṛ từ hai mươi tuổi trở xuống, kinh
nghiệm xă hội của quư vị c̣n chưa nhiều lắm,
vẫn là một đứa trẻ, có thể dạy bảo
quư vị được! Từ hai mươi tuổi trở
lên, đă trưởng thành, thầy sẽ tôn trọng, chẳng
nói lỗi của quư vị. Do đó, sau khi trưởng thành,
suốt đời chỉ có hai người nói với quư vị:
Một là cha mẹ, người thứ hai là vị thầy
chân chánh, chẳng phải là thầy dạy b́nh phàm! Đă
thế, quư vị thật sự chịu học, có thể
tôn sư trọng đạo, y giáo phụng hành, thầy sẽ
dạy quư vị.
Nếu quư vị chẳng thật
sự tôn sư trọng đạo, không thể y giáo phụng
hành, thầy sẽ không dạy quư vị. V́ sao? Nếu nói nhiều, tâm quư vị
sẽ sanh phiền năo, sẽ kết oán cừu với thầy.
Thầy rất thông minh, trọn chẳng kết oán cừu
với học tṛ. Tôi thân cận ba vị
thầy, đều là như vậy. Cách các Ngài đối
xử với học tṛ, tôi đều thấy rất rơ ràng. Tṛ nghe lời, y giáo phụng
hành, thầy thật sự dạy, có đánh, có chửi, rất nghiêm ngặt. Đối với kẻ vâng dạ bề
ngoài, đó gọi là “dương
phụng, âm vi” (bề ngoài tuân phục, bên trong chống đối),
sau lưng th́ đối với giáo huấn của thầy
trọn chẳng ưa thích, kính phục,
thậm chí c̣n phê b́nh. Học tṛ kiểu đó, thầy chẳng
dạy, đối xử rất khách sáo với những đứa học tṛ
như vậy. Thầy Lư cũng từng bảo tôi, chớ
nên kết oán cừu với kẻ khác! Chư vị ngẫm xem, đối với học
tṛ mà có thái độ ấy, huống là đối với
người ngoài!
Người sống trong cơi
đời, suốt đời gặp chướng ngại
rất nhiều. Đó gọi là “chuyện
chẳng vừa ư thường là tám, chín phần”. Trong
khá nhiều nỗi chướng ngại, nghiêm trọng nhất
là vấn đề nhân sự, tức là sự cư xử
giữa người và người với nhau. Giữa con người
với nhau đều là duyên phận. Trong đời quá khứ
có thiện duyên, sẽ cư xử rất tốt đẹp.
Nhưng rốt cuộc thiện duyên lâu dài cỡ nào? Nếu
thiện duyên ấy có thời gian rất ngắn, duyên đă
hết, mỏng mảnh, thậm chí từ thiện duyên biến
thành ác duyên, [những trường
hợp như vậy] quá nhiều!
Đấy là do nguyên nhân nào? Từ thiện duyên biến
thành ác duyên, tức là bản thân chúng ta nhất định
có chỗ nào đó chẳng buông xuống, khiến cho đối
phương chẳng vừa ư, phải nghiêm túc phản tỉnh.
Nếu phản tỉnh mà thấy chẳng có, chẳng có chỗ
nào có lỗi đối với người ta, quư vị hăy
biết là do túc nghiệp trong đời quá khứ, chắc
chắn chẳng thể nói là “không
có nguyên nhân”.
Nếu quư vị thật sự
nghĩ thông suốt, nghĩ minh bạch, sẽ hoan hỷ tiếp
nhận. Họ chửi ta cũng được, đánh ta
cũng thế, hủy báng ta cũng thế, lăng nhục
ta cũng thế, hăm hại ta cũng thế, thảy đều
tiếp nhận, chẳng oán hận, chẳng oán trời, chẳng
hờn người, chẳng trả thù. V́ sao? Tiêu nghiệp
chướng! Đời đời kiếp
kiếp từ vô lượng kiếp đến nay, há có lẽ
nào chẳng làm chuyện sai quấy? Làm chuyện sai quấy
quá nhiều! Do vậy, trong cảnh giới một đời
này, phải biết sám hối th́ mới có thể tiêu trừ nghiệp
chướng. Tiêu trừ nghiệp chướng, quư vị mới
thuận buồm xuôi gió trên đường Bồ Đề.
Chúng ta niệm Phật, đến khi lâm chung, chẳng có chướng ngại.
Chuyện này quan trọng hơn bất cứ điều nào
khác! Chướng ngại ǵ trong hiện tiền cũng đều
chẳng quan trọng. Quư vị dùng tất cả công đức
tích lũy để cầu lúc lâm chung chẳng bị chướng
ngại, quyết định văng sanh.
Xử sự, đăi người
tiếp vật, qua kinh giáo, đức Phật đă dạy
chúng ta, năm xưa tôi thường nói, dường như
tôi c̣n viết không ít, “kinh luận
ấn tri kiến, giới luật chánh thân ngữ” (dùng kinh
luận ấn chứng tri kiến, dùng giới luật
để uốn nắn thân và ngữ). Giới luật là
tiêu chuẩn cho ngôn ngữ và tạo tác của chúng ta. Kinh luận
uốn nắn tư tưởng và kiến giải của
chúng ta. Giới luật uốn nắn ngôn ngữ và tạo
tác. Đấy là tác dụng của Tam Tạng trong kinh Phật.
Do đó, kinh luận tuy nhiều, chúng chính là học vấn
hữu dụng, quư vị học tập, nhất định sẽ đạt được
lợi ích, chẳng phải là học rồi vô dụng! Trừ
phi quư vị học mà chẳng mong dùng nó, đó là chuyện
thuộc về bản thân quư vị, quyết chẳng phải
là bổn ư của kinh luận.
Bài kệ tụng nói “thiện học ư giới”
(hăy khéo học giới), chữ then chốt là Thiện. Nếu là học
giới, vẫn chưa khó, “thiện
học” sẽ chẳng dễ dàng! “Thiện
học” là linh động. Đối với giới luật,
quư vị nhất định phải hiểu đức Phật
chế giới điều ấy có dụng ư và duyên khởi
ở chỗ nào! V́ sao Ngài phải chế giới điều
ấy? Giới điều ấy đă căn cứ trên lư
luận như thế nào? Vận dụng giới điều
ấy vào cuộc sống hằng ngày như thế nào? Cuộc
sống, con người, thời gian, nơi chốn, sự việc thường xuyên biến hóa, chẳng giống nhau, thi
hành giới luật cũng phải tùy thuộc vào sự biến
hóa của con người, sự việc, thời gian, nơi
chốn; đó gọi là “thiện
học”. V́ thế, tŕ giới là sống động, chẳng
chết cứng!
Đấy là “khai, giá, tŕ, phạm” được nói trong giới
học, quư vị nhất định phải hiểu. Mỗi
giới điều đều có khai duyên, khi nào cho phép khai
giới. Khai giới chẳng phải là phạm giới, mà
là vận dụng sống động. Đại khái, cái
duyên để khai giới là trong điều kiện nào?
Quan trọng nhất là lợi ích chúng sanh, mà chẳng phải
là lợi ích chính ḿnh. Lợi ích chúng sanh th́ gọi là “khai duyên”. “Giá” (遮): Giá là ngăn cấm, quyết
định chẳng thể phạm. Ví như sát giới, trong
kinh Phật có thí dụ nói về chuyện khai duyên. Trong
kinh, đức Phật đă nhắc
đến chuyện này. Có một vị xuất gia đi
theo một nhóm thương nhân, đáp thuyền ra hải
ngoại. Nói theo cách hiện thời, đó là một đoàn
thể buôn bán. Vị xuất gia ấy đi cùng đoàn thể
đó, ngồi thuyền của bọn họ qua nơi khác.
Nhóm thương nhân ấy
thu được rất nhiều tài sản, của báu.
Trong ấy, có một thương nhân dấy
lên ác niệm (có tất cả năm trăm thương
nhân), muốn hại chết cả bốn trăm chín
mươi chín người kia, nhằm
mục đích ǵ? Một ḿnh nuốt hết những tài vật
ấy, phát lên ác niệm ấy. Vị xuất gia ấy
đă chứng đắc A La Hán, có Tha Tâm Thông, biết kẻ
ấy dấy lên ác niệm, ác niệm
ấy khá phiền phức. Nếu hắn giết đồng
bạn, bốn trăm chín mươi chín người, hắn
sẽ đọa địa ngục. Cướp đoạt
tài sản của nhiều người ngần ấy, đó
là giới trộm cắp. Quư vị thấy, đă phạm
sát giới, lại phạm giới trộm cắp. Hắn muốn cướp đoạt tài vật của nhiều người
ngần ấy, đời sau phải trả nợ, đời
nào mới có thể trả hết!
Nhưng hiện tiền, tà
niệm của hắn rất sâu, rất nặng, chắc
chắn là không thể nói toạc ra được. Nói toạc
ra, trước hết hắn sẽ giết quư vị
để diệt khẩu, cớ sao quư vị biết bí mật
của hắn? Trước hết là phải giết chết
quư vị để diệt khẩu. Ở đây, vị La
Hán làm như thế nào? Nghĩ tới, nghĩ lui, chỉ có
một phương pháp, giết chết hắn! V́ thế,
vị La Hán giết kẻ ấy. Đó là ǵ? Đó là khai
duyên, khai giới. Việc giết chóc này, xét theo Sự, đă
cứu bốn trăm chín mươi chín vị thương
nhân trên thuyền, cứu họ, mà cũng bảo toàn tài sản
của họ. Kẻ động ác niệm ấy, giết
hắn đi, hắn bị kẻ khác giết, hắn sẽ
chẳng tạo tội. Tuy hắn dấy lên ư niệm, vẫn
chưa khởi lên hiện hành, vẫn chưa làm. V́ thế,
giết hắn đi, hắn sẽ chẳng đọa
địa ngục. Hắn dấy lên ác niệm ấy, tội
vẫn c̣n nhẹ, v́ chưa khởi hiện hành. V́ thế,
chuyện sát nhân này hoàn toàn là cứu người, không chỉ
là cứu kẻ sống, mà kẻ chết cũng được
cứu, hắn chẳng đọa địa ngục. Đấy
là “thiện học ư giới” (khéo học
nơi giới). Đức Phật
đă nêu thí dụ cho chúng ta. Chuyện sát sanh này chẳng gọi
là phá giới, mà gọi là khai giới. Nó có nhiều điều
kiện dường ấy, ắt cần phải làm như
vậy, làm như vậy sẽ có lợi cho chúng sanh, quyết
chẳng phải là lợi ích cho riêng ḿnh, mà là lợi ích
đại chúng.
V́ vậy, giới điều
nhà Phật tuy nhiều, điều nào cũng đều có
khai duyên. Khi chẳng có khai duyên, quyết định là cấm ngặt, ngay cả muỗi, trùng, kiến đều chẳng
thể tổn thương. Muỗi đến chích thân quư
vị, quư vị chịu bố thí cúng dường, liền để cho nó ăn no, nó tự nhiên sẽ
bỏ đi. Quư vị chẳng muốn bố thí, cúng
dường, đuổi nó đi là được rồi,
chớ nên giết chết nó. Chuyện này quyết định
chớ nên, chẳng có khai duyên, phải hiểu điều
này! Những động vật nhỏ đều hiểu t́nh
lư, chúng tôi đă thấy quá nhiều trường hợp. Đáng
tiếc rất nhiều người không học Phật, chứ
các đồng học học Phật đều biết. Trồng
cây ăn quả, chim ăn trái cây, trái cây sắp chín, chim
đến ăn sạch, họ chẳng có thu hoạch. V́
thế, dùng phương pháp ǵ? Nghĩ đủ mọi phương
pháp để pḥng chống, bắt giữ, hễ bắt
được bèn giết chết. V́ thế người thông
hiểu, sẽ thương lượng với những
con chim, ước định với chúng nó. Ví như ở
đây ta có một trăm cây ăn trái, “ta nhường
cho ngươi mười cây để ăn, chín mươi
cây kia ngươi chẳng thể động tới”.
Được! Chim sẽ nghe lời, thật vậy. Chúng nó ăn tại mười cây kia, những cây khác không
ăn, người học Phật mới hiểu. Dần
dần, thiện tâm của quư vị cảm ứng chúng nó,
trong tương lai chúng
nó sẽ đến chỗ khác kiếm
ăn, chẳng đến vườn quả của quư vị
nữa!
Trồng rau, rau có rất nhiều
côn trùng cắn phá. Năm xưa, chúng tôi ở trên núi Cổ
Tấn[5],
tại vườn rau của ông Đan-tư-lư Lư Kim Hữu[6],
khi tôi đến thăm, ông đă lập vườn rau ấy
sáu năm. Ông ta kể, năm thứ nhất, rau đă trồng
bị trùng ăn mất chín mươi lăm phần
trăm. Ông ta chẳng dùng thuốc sát trùng, chẳng giết
côn trùng, cũng chẳng thương lượng với chúng,
mặc kệ cho chúng nó ăn. Năm thứ hai gần như
là sáu bảy chục phần trăm [rau bị cắn phá],
chừa lại đôi chút. Tôi đến nơi đó vào năm
thứ sáu, mỗi năm trùng một giảm bớt. Khi tôi đến đó
vào năm thứ sáu, ông ta nói năm ấy gần như là
có thể thu hoạch chín mươi phần trăm, trùng ăn
mười phần trăm! Chẳng thương lượng
với chúng! Nếu thương lượng với chúng,
lượng rau có thể giữ lại sẽ nhiều hơn
nữa! Do vậy có thể biết, những tiểu động
vật thông hiểu t́nh lư. Quư vị chẳng hại chúng,
chúng sẽ chẳng trả thù quư vị. Quư vị càng giết,
trùng càng nhiều. Giết chẳng hết! Oan oan
tương báo. Từ chỗ này, quư vị thấy hết
sức rơ rệt, v́ sao cứ muốn làm ác? Người sống
trên cơi đời, nồng hậu một chút sẽ tốt
hơn, dùng thiện tâm đối xử kẻ khác, dùng thiện
tâm để cư xử với muôn loài!
Đời này nghèo nàn, khốn quẫn; bị nghèo nàn, khốn quẫn là do nghiệp báo của chính ḿnh. Cải thiện bằng cách nào?
Quư vị hăy đọc kỹ Liễu Phàm Tứ Huấn, ở
đây, chúng ta có băng thâu âm và thâu h́nh [bài giảng] Liễu
Phàm Tứ Huấn. Không thích nghe giảng, hễ nghe giảng
bèn buồn ngủ, ở đây, chúng ta c̣n có phim truyền h́nh
Liễu Phàm Tứ Huấn, do Mă Lai quay phim trong quá khứ.
Quư vị xem thứ ấy, cả nhà cùng xem, quư vị học
theo tiên sinh Liễu Phàm sửa đổi vận mạng, có
thể học hiểu cách này, phước về sau sẽ vô cùng, đúng là
“trong cửa nhà Phật, có cầu
ắt ứng”. Cầu của cải, nhất định
được của cải. Cầu thông minh, trí huệ, nhất
định đạt được thông minh, trí huệ.
Cầu khỏe mạnh, sống lâu, nhất định được
khỏe mạnh, sống lâu, chẳng có thứ ǵ không cầu được! Nếu quư vị
hiểu đạo lư, đúng lư, đúng pháp để cầu,
sẽ có thể đạt được! Nay lũ b́nh phàm
chúng ta chẳng cầu được là do nguyên nhân nào?
Không hiểu đạo lư, không hiểu phương pháp, cầu
mù quáng. Lại c̣n trong khi cầu, luôn tạo tội nghiệp!
Không chỉ là quư vị chẳng cầu được, mà
c̣n chiết giảm chút phước ít ỏi trong mạng của
chính ḿnh!
V́ lẽ này, chúng ta phải
toàn tâm toàn lực đề xướng giáo dục nhân quả,
quư vị thật sự thông hiểu, há lẽ nào đời
này chẳng vui sướng! Há lẽ nào chẳng hạnh phúc!
Nay chúng ta mong giúp đỡ mọi người trên toàn thế
giới, chẳng phân biệt quốc gia, chẳng phân biệt
sắc dân, chẳng phân biệt tôn giáo, đều hy vọng
trong đời này, ai nấy đều có thể sống hạnh
phúc mỹ măn. Làm thế nào th́ mới có thể đạt được?
Giáo dục. Người Hoa có kinh nghiệm về chuyện
này nhất. Bốn loại giáo dục, giáo dục gia
đ́nh (nói theo h́nh thức), giáo dục trong nhà trường,
giáo dục xă hội, giáo dục tôn giáo. Dạy những thứ
ǵ? Nội dung giáo dục gồm có bốn thứ, tức luân lư, đạo
đức, nhân quả, tôn giáo. Mỗi loại giáo dục đều
phải lấy những điều này làm chủ đề dạy dỗ, tức là luân lư, đạo đức, nhân quả,
tôn giáo. Tôn giáo nói về giác ngộ. Phạm vi của giáo dục
tôn giáo rất lớn. “Thiện
học ư giới, bất tác chúng ác” (Hăy khéo học
giới, chẳng làm các điều ác), bốn loại giáo
dục ấy đều được bao gồm trong đó.
Luân lư là căn cội, đạo đức là gốc, nhân
quả là cành nhánh, tôn giáo là hoa quả. Chư vị phải
chú tâm thấu hiểu!
Hiện thời, chúng ta đă đánh mất toàn bộ
những thứ giáo dục ấy. Do vậy, xă hội động loạn,
ḷng người bất an. Khởi tâm động niệm,
ngôn ngữ, tạo tác, đúng như kinh Địa Tạng
đă dạy: “Không ǵ chẳng
phải là nghiệp, không ǵ chẳng phải là tội”. Hằng
ngày tạo tội nghiệp, cứ mong cầu phước
báo, làm sao có thể được? Trong đời quá khứ,
tu một chút phước báo, rất dễ mất sạch
phước báo. V́ sao? Tâm hạnh bất thiện, nên [phước
báo] bị chiết giảm! Chuyện này hết sức rơ rệt,
quư vị chỉ cần lắng ḷng quan sát những người
chung quanh, hoặc là thân thích, bằng hữu, quư vị sẽ thấy
rất rơ ràng. Nh́n vào chính ḿnh th́ chẳng thấy rơ lắm,
chứ nh́n vào người khác, sẽ thấy rơ ràng. Sau khi đă
thấy rơ ràng, hăy hồi quang phản chiếu, suy xét chính ḿnh cặn kẽ,
người ấy sẽ giác ngộ.
Sau khi đă giác ngộ, điều
quan trọng nhất là khéo học các giới, giới sẽ
được mở rộng. Đối với sự răn dạy của
Phật, Bồ Tát, đối với sự răn dạy của thánh hiền
thế gian và xuất thế gian, đều có thể dung hội,
xuyên suốt, thực hiện trong cuộc sống, công việc,
trong xử sự, đăi người tiếp vật của chính
ḿnh. Chẳng c̣n tạo ác nữa, đoạn hết thảy
ác, tu hết thảy thiện, vận mạng sẽ chuyển
biến, sẽ thay đổi. Trong đời này, thật vậy, vào dịp Tết, chúng ta chúc phước mọi người,
tôi thấy những tấm thiệp chúc Tết đều
ghi “tuế tuế b́nh an, niên
niên như ư” (năm nào cũng b́nh an, năm nào cũng như
ư), hai câu chúc phước ấy có thật hay không? Nếu quư
vị muốn biến điều ấy thành sự
thật, phải biết cái nhân. Năm nào cũng b́nh an là ǵ?
Chính là hai câu sau đây, “chẳng
làm các điều ác, năm nào cũng b́nh an. Khéo học
nơi giới, mỗi năm như ư”. Nhưng thông
thường, chúng ta chẳng dùng hai câu nói ấy, [mà dùng hai
câu khác], ư nghĩa giống hệt, càng dễ
hiểu hơn, “đừng làm các
điều ác, vâng làm các điều thiện”. “Chẳng làm các điều ác”
chính là “bất tác chúng ác”, quư
vị sẽ năm nào cũng b́nh an. “Vâng làm các điều lành”, quư vị sẽ mỗi
năm đều như ư. Hai ngày sau sẽ là ngày Giao Thừa
của Tết ta; ở đây, tôi dùng hai câu này để chúc
phước các vị đồng học, chân thành chúc phước.
Hy vọng mọi người cùng nhau nỗ lực, đoạn
hết thảy ác, tu hết thảy thiện, khẳng định
là sẽ đạt được b́nh an, như ư. Nay đă
hết thời gian rồi!
Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 25 hết
[1] Ư có nghĩa là ở trong, c̣n Y là nương tựa.
[2] Giấy
Đạo Lâm (Dowling) là loại giấy thoạt đầu
do công ty Dowling của Anh chế tạo (có thuyết nói công
ty Dowling ở Hương Cảng thuở đó chỉ mua
lại giấy này từ các xưởng nhỏ hơn ở
Âu châu và bán ra dưới thương hiệu Dowling). Về
sau, tên gọi này thường để dùng loại giấy
để in các loại sách với mục đích giữ
được lâu dài, nhất là in các tranh ảnh, bản
đồ, đặc biệt là các tranh in theo lối thạch
bản (Lithography). Loại giấy này có độ trắng
từ 70% trở lên, hấp thu mực in rất tốt, tạo
thành nét chữ sắc rơ. Giấy để lâu không bị ố
vàng, gịn găy, vẫn giữ được màu mực in
tươi tắn như mới.
[3] “Sáu sự” ở đây có thể hiểu là sáu pháp nhằm
bảo vệ người nữ, tránh những điều
dị nghị, cũng như ngăn che phạm giới. Thật
ra, có sáu chánh pháp và sáu tùy pháp. Sáu chánh pháp là không được
đi đường một ḿnh, không được qua
sông một ḿnh, không được chạm vào thân người
nam, không được ở chung với người nam,
không được làm mai, không được che giấu tỳ-kheo-ni
phạm tội. Do sáu tùy pháp hơi tế nhị, nên chúng tôi
không dẫn ra ở đây.
[4] “Cảnh giới Phật” được nói ở
đây có thể hiểu là cảnh giới của Phần
Chứng Phật. Bốn mươi mốt địa vị
từ Sơ Trụ Bồ Tát trở lên đều
được gọi là Phần Chứng Phật, tức
Pháp Thân Bồ Tát.
[5] Cổ
Tấn Sơn là cách người Hoa gọi núi Santubong (Gunung
Santubong) thuộc tiểu bang Sarawak của Mă Lai, cách thủ
phủ Kuching ba mươi lăm cây số. Do người
Hoa gọi Kuching là Cổ Tấn, nên cũng gọi ḥn núi
này là Cổ Tấn Sơn.
[6] Lư Kim Hữu
sinh năm 1955 là một thương gia Hoa Kiều rất
thành công tại Mă Lai, sáng lập tập đoàn Lộc Dă
chuyên đầu tư địa ốc. Đan-tư-lư
(Tan Sri) là một tước hiệu vinh dự của Mă
Lai để gọi những người được tặng thưởng Darjah Yang Mulia Pangkuan Negara
(Đệ Nhị Đẳng Hộ Quốc Hữu Công
Huân Chương) và Panglima Setia Mahkota (Hoàng Triều Tinh Trung
Huân Chương). Những huân
chương
này được hoàng gia Mă Lai ban tặng cho những
người có các thành tựu đóng góp lớn
lao cho sự phát triển phồn vinh của đất
nước.