Đại Phương Quảng
Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười
một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần
26
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Địa điểm: Hương Cảng Phật
Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ ngày mồng Bảy tháng
Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ Trang và Minh
Tiến
Tập 1513
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống.
Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười một,
xem từ bài kệ thứ mười ba, phần Xuất
Gia Thọ Giới.
(Kinh)
Thọ Xà Lê giáo, đương nguyện chúng sanh, cụ
túc oai nghi, sở hành chân thật.
(經)受闍梨教。當願眾生。具足威儀。所行真實。
(Kinh: Tiếp nhận giáo huấn của bậc A
Xà Lê, nguyện cho chúng sanh, trọn đủ oai nghi, hành tŕ
chân thật).
Bài
kệ trước là thọ giới, đấy chính là
đối trước h́nh tượng của Phật, Bồ
Tát tỏ bày, phát nguyện làm đệ tử của đức
Phật, theo Phật học tập. Đă phát đại
nguyện, nhất định phải thực hiện, ai
đến dạy quư vị? Phật, Bồ Tát chẳng
đích thân đến dạy quư vị. Người dạy
quư vị là thầy, ở đây gọi là Xà Lê, tức A Xà
Lê. A Xà Lê (Ācārya) là tiếng Phạn của Ấn Độ phiên âm, dịch
sang nghĩa tiếng Hán là Quỹ Phạm Sư (軌範師, vị thầy khuôn mẫu), Thanh
Lương đại sư có chú giải:
(Sớ)
Xà Lê giả, thử vân Chánh Hạnh, quỹ phạm giáo thọ.
Cố vân “cụ túc oai nghi”.
(疏)闍梨者,此云正行,軌範教授,故云具足威儀。
(Sớ: Xà Lê: Cơi này dịch là Chánh Hạnh, tức
là vị thầy dạy bảo khuôn phép. V́ thế nói là
“đầy đủ oai nghi”).
Tuy
văn tự chẳng nhiều, đă giảng rất rơ
ràng. Ở đây, chúng ta phải lưu ư, danh xưng Xà Lê có
nghĩa là Chánh Hạnh. Nếu hạnh của chính vị ấy
bất chánh, sẽ chẳng có cách nào nêu gương, làm khuôn
phép cho người khác được! Trước hết
là phải làm được; sau đấy, mới có thể
dạy kẻ khác!
Giáo
học là một công việc lâu dài. Không chỉ là một
đời, một kiếp, cổ đại đức thường
bảo: “Sống đến
già, học đến già, học chẳng xong!” Trong Phật
pháp, [tu học là quá tŕnh kéo dài] từ Sơ Phát Tâm cho đến
địa vị Như Lai. “Từ
Sơ Phát Tâm cho đến địa vị Như Lai” chắc
chắn là chẳng thể hoàn thành trong một đời!
V́ thế, học tập hết sức lâu dài, đời đời
kiếp kiếp! Chúng ta thường nghe, “tu hành phải trải qua ba đại A-tăng-kỳ
kiếp th́ mới có thể thành Phật”. A-tăng-kỳ
(Asaṃkhyeya) là một con số của Ấn Độ, dịch
sang nghĩa tiếng Hán là Vô Ương Số (無央數). Con số rất lớn, Vô Ương Số
cũng chính là như chúng ta thường nói là “chẳng có cách nào tính toán”. Phải
trải qua thời gian dài ngần ấy! Chẳng phải là
“A-tăng-kỳ năm”, [chẳng
phải là] ba đại A-tăng-kỳ năm đâu nhé! Chẳng
phải vậy, mà là Kiếp!
“Kiếp” (kalpa) là nói về
đơn vị thời gian, có đại kiếp, trung kiếp,
và tiểu kiếp; ở đây nói đến đại kiếp!
Một đại kiếp lâu cỡ nào? Kinh Phật dạy:
[Đó là thời gian để] thế giới này trải
qua một lần “thành, trụ, hoại, không” th́ gọi là
một đại kiếp, tức là thế giới [lần
lượt trải qua các giai đoạn] thành, trụ, hoại,
không. [Thời gian cần thiết để hoàn tất một
trong] bốn chữ “thành, trụ, hoại, không” được
gọi là trung kiếp. Đối với Thành và Trụ, nay
chúng ta đang thuộc trung kiếp thứ hai, tức là Trụ.
Sau [trung kiếp] Trụ, thế giới này sẽ hư hoại.
Hư hoại mất một trung kiếp, sau đấy, sẽ
hoàn toàn rỗng không. “Không” kéo
dài một trung kiếp. Sau đấy, thế giới sẽ
lại dần dần h́nh thành. Vĩnh viễn tuần hoàn
“thành, trụ, hoại, không” chẳng ngừng! Bốn trung
kiếp hợp thành một đại kiếp. Thế giới
“thành, trụ, hoại, không” phải trải qua số
lượng ba đại A-tăng-kỳ như vậy th́
mới có thể tu hành thành Phật viên măn! Thời gian đúng
là quá dài; do đó, tu hành không phải là một đời, một
kiếp, mà là đời đời kiếp kiếp tiếp
tục thực hiện.
Do
vậy có thể biết, dũng mănh, tinh tấn chẳng
phải là một đời, phải có hằng tâm (恆心, tâm thường hằng), phải có nghị lực,
vĩnh hằng không ngừng. Trong kinh Dịch, điều
này được diễn tả bằng câu: “Tự cường bất tức”
(tự dũng mănh không ngừng). Chúng ta thấy cổ thư
Trung Hoa ghi chép, Khổng phu tử vào lúc bảy mươi
tuổi, vẫn mong sống thêm mấy năm, để làm
ǵ? Học Dịch, [tức là học tập] kinh Dịch. Học
Dịch sâu hơn, nhằm mục đích tránh khỏi lỗi
lầm, khiến cho sự hành tŕ, đoạn ác tu thiện
suốt đời có thể thực hiện viên măn! Từ
chuyện này, chúng ta có thể thể nghiệm thánh nhân
đă “tự cường”
không ngừng, trọn chẳng phải nghĩ “đă già rồi,
có thể chẳng cần học nữa”! Càng già, càng dụng
công, càng nỗ lực, hy vọng có thể đoạn hết
lầm lỗi của chính ḿnh, đức hạnh có thể
viên măn. Đấy đều là nêu gương, làm khuôn mẫu
cho chúng ta.
V́
thế, chẳng thể không đọc kinh sách, chẳng thể
không tu sám hối. Đọc kinh sách nhằm mục đích
nào? Nhằm mục đích kiểm điểm chính ḿnh: Chúng
ta đối với người, đối với sự,
đối với vật, đối với vũ trụ,
đối với nhân sinh, chúng ta có cách nghĩ sai lầm
hay không? Có cách nh́n sai lầm hay không? Trong cuộc sống hằng
ngày, ngôn ngữ và hành vi của chúng ta có sai quấy hay không?
Kinh điển là một tấm gương. Hằng ngày,
sáng sớm thức dậy, buổi tối đi ngủ,
chúng ta đều soi gương, gột sạch những
thứ dơ bẩn trên thân. Mọi người đều
rất chú ư chuyện này. Nhưng quư vị làm thế nào
để có thể phát hiện những lầm lỗi
nơi khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo
tác? Cũng phải có một tấm kiếng. Tấm kiếng
ấy chính là giáo huấn của cổ thánh tiên hiền!
Kinh
điển là một tấm kiếng, lịch sử là một
tấm kiếng, chúng ta đọc hằng ngày, học hằng
ngày, phản tỉnh hằng ngày, hằng ngày sửa lỗi,
đổi mới. Tư tưởng, lời nói và việc
làm của chính ḿnh có thể nêu gương cho đại
chúng trong xă hội, đấy mới là xứng danh Xà Lê,
nay chúng ta gọi là Giáo Thọ (教授), hoặc thầy, trong Phật môn gọi là “pháp sư”. Pháp sư nhất
định trọn đủ Chánh Hạnh. Nho gia nói Chánh Hạnh
là “thành ư chánh tâm”, tu thân,
thành ư. Hễ chánh tâm, sẽ nhất định có thể tu
thân. Nhưng đối với vấn đề này, trước
đó c̣n có cơ sở! V́ sao người đọc sách Khổng
Tử trong hiện thời chẳng làm được “thành ư, chánh tâm”? Các đồng
học học Phật chẳng làm được Thập
Thiện Nghiệp Đạo, đấy là do nguyên nhân nào?
Chúng ta phải t́m, t́m cho ra nguyên nhân; tiêu trừ nguyên nhân ấy,
đấy mới là thật sự đạt được
thọ dụng.
Nguyên
nhân là do chúng ta chẳng được hưởng sự
giáo dục cơ sở. Đối với giáo dục, hiện
thời, ngay cả những chuyên gia, học giả ngoại
quốc cũng thảo luận, tôi nghe họ nói, lứa tuổi
để giáo dục quan trọng nhất là trước
khi trẻ tṛn năm tuổi. Đó là giáo dục vun quén
căn cội. Nói kiểu ấy chánh xác! Trước lúc lên
năm tuổi, kể như [dạy dỗ] dễ dàng, họ
đă phát hiện, sau năm tuổi sẽ chẳng dễ
dạy! [Phải dạy trẻ] trước khi nó
được năm tuổi. Đối với chuyện
này, các vị học giả, chuyên gia vẫn chưa nói cụ
thể; tổ tiên chúng ta cao minh đến tột cùng. Họ
không chỉ biết, mà c̣n sớm thực hiện! Họ
đă làm được từ năm ngàn năm trước!
Bắt đầu dạy từ khi nào? Năm tuổi trễ
quá! Từ lúc đứa trẻ được sanh ra,
đă bắt đầu dạy. Ai dạy nó? A Xà Lê dạy nó,
A Xà Lê là ai? Cha mẹ. Trước mặt đứa trẻ,
cha mẹ nói năng, cử chỉ toàn là chánh hạnh. Muôn ngàn
phần đừng thấy đứa trẻ vừa mới
sanh ra mấy ngày, [bèn nghĩ] nó chẳng hiểu ǵ! Đúng
vậy! V́ nó không hiểu, đang học, nó nh́n theo người
lớn. Nó mở mắt ra có thể thấy, lỗ tai bé bỏng
của nó có thể nghe, những thứ ấy sẽ lưu
lại ấn tượng. V́ thế, cha mẹ, người
lớn ở trước mặt nó, một câu nói, một
tiếng cười, nhất cử nhất động
đều phải nên là chánh hạnh.
Tiêu
chuẩn của Chánh là ǵ? Nay chúng ta dùng Đệ Tử Quy
làm tiêu chuẩn. Do vậy, Đệ Tử Quy chẳng phải
là để dạy trẻ nít học, mà là để cho cha
mẹ, người lớn trong nhà dùng những điều
ấy làm tiêu chuẩn để dạy dỗ trẻ
thơ bằng thân giáo. Đứa bé ấy từ lúc mới
sanh ra, những ǵ nó được thấy, nghe, tiếp
xúc, toàn là chánh hạnh, quư vị có biết ấn tượng
ấy sâu đậm cỡ nào? V́ thế, ngạn ngữ
thường nói: “Tam tuế
khán bát thập, thất tuế khán chung thân” (từ ba tuổi
sẽ thấy được tính t́nh của một người
vào lúc tám mươi, nh́n từ tính cách của một
người lúc bảy tuổi sẽ biết tính cách suốt
đời), đấy mới là hợp lư! Từ lúc lọt
ḷng cho đến khi ba tuổi, nó đă học suốt ba
năm. Ba năm ấy là căn cội của nó, những
ǵ nó được thấy, nghe, tiếp xúc đều là
luân lư đạo đức, thuần chánh, chẳng tà vạy!
V́ thế, đến lúc ba tuổi, năm tuổi, trẻ
có năng lực phân biệt chánh, tà, thiện, ác, đúng,
sai; nó có năng lực ấy! Nó biết cách làm này là
đúng, cách kia là sai, nó hiểu biết!
Nhưng
chư vị phải ghi nhớ, cách dạy dỗ truyền
thống của tổ tiên đến thời Dân Quốc đă
bị quốc gia bỏ sót. Thời Dân Quốc, vận mạng
của Trung Hoa bi thảm, toàn thể xă hội động
loạn. Sau khi nhà Măn Thanh diệt vong, quân phiệt cát cứ,
kế đó là chiến tranh Trung Nhật, khiến cho xă hội
loạn tùng phèo, ai nấy bận bịu kiếm sống, tất
bật chạy loạn. Lứa tuổi tôi, khi nhỏ th́ chạy
loạn, chẳng được hưởng loại giáo dục
ấy. Nhưng ở quê nhà, chúng tôi sống tại nông thôn.
Người ở nông thôn thuần phác, vẫn c̣n được
dính líu mấp mé đôi chút. Những kẻ nhỏ hơn
tôi năm, sáu tuổi, ngay cả mấp mé cũng chẳng
được hưởng, hoàn toàn không biết. Khi chúng
tôi đi học vào lúc bé, học Tứ Thư trong từ
đường, học giáo dục nhân quả từ Diêm
Vương Điện trong miếu Thành Hoàng. Thuở ấy,
trong Diêm Vương Điện, tượng Thập Điện
Diêm Vương đều đắp bằng đất,
đắp rất sống động. Sau khi để cho
quư vị xem xong, người lớn sẽ dạy quư vị:
“Trẻ nhỏ chớ nên làm chuyện xấu. Làm chuyện
xấu th́ trong tương lai sẽ bị quả báo
như thế đó”. [Khắc họa] ấn tượng hết
sức sâu đậm. Những điều này đều
được tiếp nhận từ bé, thâm căn cố
đế, đúng là ảnh hưởng suốt đời!
Về sau, khôn lớn, bất luận ở nơi đâu, khởi
tâm động niệm đều nghĩ đến giáo huấn
của cha mẹ, giáo huấn của thầy, sẽ
nghĩ đến những tượng đắp hiển
thị sự báo ứng trong Diêm Vương Điện của
miếu Thành Hoàng, quư vị sẽ chẳng dám dấy lên một
ác niệm, cũng chẳng dám làm chuyện xấu ǵ!
V́
thế, tôi thường nói: Người tốt là do dạy
dỗ mà ra, thánh hiền cũng là do dạy dỗ mà ra, Phật,
Bồ Tát vẫn là do dạy dỗ mà ra, tùy thuộc quư vị
dạy theo kiểu nào! Kẻ ác cũng là do dạy dỗ
mà ra! Hiện thời nói đến “phần tử khủng
bố”, vẫn là do dạy dỗ mà ra! “Kiến quốc, quân dân, giáo học vi tiên” (xây dựng
đất nước, cai quản dân chúng, giáo học làm
đầu). Người Hoa hiểu giáo dục, giỏi về
giáo dục. Quư vị hăy xem hai chữ Giáo Dục, phải
tra trong Thuyết Văn Giải Tự[1]
xem chữ ấy có nghĩa là ǵ, v́ sao phải viết theo
kiểu ấy? Quư vị hăy nghiên cứu kỹ lưỡng
một phen. Giáo (教) có nghĩa là “thượng
hành hạ hiệu” (上行下效, người trên làm, kẻ dưới bắt
chước theo). Thế hệ trước làm như thế
nào, thế hệ sau bắt chước. V́ thế, cha mẹ
của quư vị làm theo kiểu nào, con cái sẽ bắt
chước. Đấy chính là Giáo. Quư vị muốn dạy
con tốt đẹp, bản thân quư vị phải làm cho
chánh đáng, con sẽ học theo lẽ chánh đáng. Bản
thân quư vị làm chuyện bất chánh, con cái sẽ học
theo thói lệch lạc. Nó học những điều chánh
đáng, nhất định sẽ vượt trỗi quư vị,
c̣n làm tốt đẹp hơn quư vị. Nó học những
thứ lệch lạc, nhất định sẽ tồi tệ
hơn quư vị, “thượng
hành hạ hiệu” mà! Trong gia đ́nh là như thế, mà
trong công ty, hăng xưởng, cửa tiệm cũng là như
thế. Trong xă hội là như thế, trong quốc gia
cũng là như thế, trên cả thế giới cũng
chẳng có ngoại lệ! Hiện thời, xă hội trên toàn
thế giới động loạn, quư vị hiểu nguyên
nhân xuất hiện từ đâu, do chẳng dạy dỗ
tốt đẹp!
“Dục” (育) có
nghĩa là ǵ? Dục là “cứu
thất nhi trưởng thiện” (救失而長 善, bổ cứu những sai sót, tăng trưởng
điều thiện). “Thất”
là “quá thất” (過失, sai lầm, khuyết điểm), người nào có
thể chẳng phạm sai lầm? Hễ sai lầm th́ phải
giúp quư vị sửa sai. Sửa đổi th́ gọi là “cứu thất” (救失). Quư vị cũng có thiện niệm và thiện hạnh.
Thiện niệm và thiện hạnh th́ phải hằng ngày
tăng trưởng; ư niệm bất thiện, ngôn hạnh
bất thiện hằng ngày phải sửa đổi;
đó là Dục. Quư vị thấy ư nghĩa chánh yếu của
hai chữ Giáo Dục hay quá! Nếu quư vị hiểu ư
nghĩa của hai chữ ấy, mới hiểu tư
tưởng và ngôn hạnh của chúng ta trong gia đ́nh và
trong xă hội quan trọng dường nào! V́ sao? Nó có thể
ảnh hưởng người khác. Người khác nh́n
vào quư vị, bắt chước làm theo, trách nhiệm của
quư vị đối với xă hội rất nặng! Chẳng
thể nói “ta làm chuyện xấu không có ai biết, chẳng
mắc mớ ai”, [nghĩ như vậy] là sai mất rồi.
Đặc biệt là có sức ảnh hưởng đối
với xă hội, sức ảnh hưởng ǵ vậy?
Trong gia đ́nh, gia trưởng, cha mẹ, ông bà, chú bác, các
vị bề trên của quư vị sẽ ảnh hưởng
quư vị. Trong xă hội, những người thuộc các
giai tầng lănh đạo sẽ ảnh hưởng quư vị.
Ví như trong một huyện thị, nhân dân cũng nh́n vào
huyện thị trưởng, hữu ư hay vô ư đều học
tập theo ông ta. Huyện thị trưởng cư xử
chánh đáng, mọi người sẽ học theo lẽ
chánh. Kẻ làm huyện thị trưởng bất chánh, mọi
người sẽ đều học theo thói xấu. Nếu
lên cao hơn nữa, sẽ là người lănh đạo quốc
gia!
Hiện
thời, phạm vi ảnh hưởng c̣n to hơn nữa.
Tôi thấy có ảnh hưởng lớn nhất đối
với những kẻ trẻ tuổi trong xă hội, không
ǵ hơn các minh tinh điện ảnh và những ngôi sao ca
nhạc. Nhất cử nhất động của họ
đều là khuôn mẫu cho bọn trẻ tuổi. Nếu
họ cư xử chánh đáng, những kẻ trẻ tuổi
sẽ học theo điều hay. Chúng ta chớ nên không biết
điều này! Bất cứ một ai, chỗ cực kỳ
vi tế là khởi tâm động niệm. Đừng nên
nghĩ là một thiện niệm rất nhỏ, hay một
ác niệm rất nhỏ [không quan trọng]! Đối với
xă hội, đối với chúng sanh, [những niệm ấy]
đều sanh ra ảnh hưởng. Hiện thời, khoa
học phát triển, mọi người biết trên thế
giới hiện thời luôn nói đến các luồng sóng,
sóng điện từ (electromagnetic wave), sóng âm thanh, sóng ánh
sáng. Quư vị có biết là tư tưởng cũng tạo
thành sóng hay không? Một ư niệm thiện, sẽ tạo
thành luồng sóng chánh hạnh; một ư niệm ác sẽ là
luồng sóng tà hạnh. Quư vị có thể thấy làn sóng ấy
không chỉ là có thể ảnh hưởng hữu h́nh chúng
sanh, tức là sáu căn của chúng ta có thể tiếp xúc,
quư vị có thể thấy, có thể nghe, quư vị chú tâm
quan sát, [sẽ thấy] người khác đă bị cảm
nhiễm. C̣n có những thứ mà sáu căn của chúng ta chẳng
thể tiếp xúc, trong Phật pháp gọi là “cửu pháp giới chúng sanh”
(chúng sanh trong chín pháp giới). Mười pháp giới, ngoại
trừ chúng ta là nhân pháp giới, chúng ta có thể tiếp
xúc, đối với chín pháp giới kia, sáu căn của
chúng ta chẳng có năng lực tiếp xúc. Tuy chẳng tiếp
xúc, có ảnh hưởng hay không? Có ảnh hưởng giống
y hệt.
Trong
tôn giáo, đă nói đến chuyện này rất nhiều. Ví
như người Hoa thường nghe nói: Chúng ta dấy
lên một thiện niệm, hoặc dấy lên một ác niệm,
quỷ thần biết, Phật, Bồ Tát biết. Đấy
là những vị thuộc những chiều không gian khác với
chúng ta. Trong các tôn giáo khác cũng nói, trong suốt một
đời, thiện niệm, thiện ngôn, thiện hạnh,
hoặc là ác niệm, ác ngôn, ác hạnh của quư vị
đều có quỷ thần ghi chép. Đến cuộc xét
xử cuối cùng[2], những
thứ ấy sẽ là chứng cứ. Thượng Đế
thưởng thiện phạt ác dựa vào đâu? Dựa
vào những hồ sơ tài liệu ấy! Hồ sơ tài
liệu ghi chép từ đâu? Chính từ khởi tâm động
niệm, sóng dao động mà! Những sóng dao động ấy
trọn khắp pháp giới hư không giới, lẽ
đâu chẳng thể gây ảnh hưởng cho được?
Xác thực là ảnh hưởng rất lớn, chớ nên
không biết!
Do
biết những chuyện này, cho nên thánh nhân dạy chúng ta “thận độc” (慎獨, thận trọng ngay khi chỉ có một ḿnh), “độc” (獨) là
một ḿnh. Quư vị ở trong nhà, chẳng có ai trông thấy
quư vị, vẫn phải rất cẩn thận, chớ
nên tùy tiện, chớ nên qua loa. V́ sao? Có rất nhiều
sinh vật ta không trông thấy. Chúng ta không thấy họ, họ
thấy chúng ta, Chiều không gian của họ cao hơn
chúng ta, họ có thể thấy chúng ta, nhưng chúng ta chẳng
thấy họ. Nói theo Phật pháp, sẽ càng rơ rệt
hơn. Phật pháp nói Lục Thông: Thiên Nhăn Thông trông thấy
chẳng bị chướng ngại, Thiên Nhĩ Thông nghe chẳng
chướng ngại. Tha Tâm Thông, trong tâm của hết thảy
chúng sanh nghĩ điều ǵ họ đều biết. Tha
(他) là người khác. Khởi tâm động niệm
trong ḷng người khác họ đều biết, đó gọi
là Tha Tâm Thông. Đức Phật dạy chúng ta, sáu loại
thần thông là những năng lực vốn sẵn có
trong tự tánh của hết thảy chúng sanh, chẳng lạ
lùng tí nào, ai nấy đều có. Nay v́ sao chúng ta chẳng có?
Đức Phật bảo [nguyên nhân là v́] chúng ta đă mê tự
tánh. Mê như thế nào? Vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước ngăn trở đức năng và trí
huệ vốn sẵn có trong tự tánh, khiến cho những
thứ ấy chẳng thể hiện tiền. Kinh Hoa Nghiêm
nói rất thấu triệt: Nếu chúng ta có thể buông xuống,
trừ bỏ vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước th́ trí huệ và đức năng vốn sẵn
có trong tự tánh của chúng ta đều hiện tiền,
chẳng có chút nào lạ lùng!
Do
vậy, chư thiên có báo đắc Ngũ Thông, họ chẳng
có Lậu Tận Thông, những thứ khác đều có. V́
sao họ có? Dục Giới Thiên tuy chẳng đoạn dục,
[dục vọng của] họ nhạt hơn chúng ta. Càng
lên cao hơn, càng mỏng hơn, chướng ngại sẽ
càng ít hơn! Chỉ cần quư vị nhạt bớt một
phần, trí huệ và đức năng của quư vị sẽ
thấu lộ một phần. Nhạt bớt hai phần,
sẽ thấu lộ hai phần; đạt đến một
mức độ nhất định, bản năng (本能, năng lực vốn có) của quư vị sẽ dần
dần khôi phục. Chư thiên Dục Giới xác thực
có Ngũ Thông, nhưng năng lực Ngũ Thông mỗi vị
mỗi khác! Ví như đối với sáu tầng trời
trong Dục Giới, tiến lên cao, mỗi tầng một
cao hơn, càng tiến lên, đối với thất t́nh
ngũ dục sẽ càng nhạt mỏng hơn. Đến
Sắc Giới, hoàn toàn chẳng có [thất t́nh, ngũ dục].
V́ thế, Sắc Giới đă hoàn toàn khống chế thất
t́nh ngũ dục. Trong A Lại Da có chủng tử tập
khí, nhưng chúng chẳng thể dấy lên hiện hành, do
công năng định lực và trí huệ của họ khống
chế, chẳng để cho chúng nó dấy lên tác dụng.
Năng lực của họ càng to hơn nữa, năm món
thần thông ấy càng to hơn nữa. Chúng ta biết Sắc
Giới có mười tám tầng trời, Vô Sắc Giới
có bốn tầng trời. Càng tiến lên cao hơn, đúng
là “thần thông quảng đại”
như chúng ta đă nói, họ biết hết.
Những
vị ấy thần thông quảng đại, nói thật
thà, chẳng sánh bằng người văng sanh thế giới
Cực Lạc. Chư vị đọc kinh Vô Lượng
Thọ sẽ biết ngay. Quư vị thấy kinh Vô Lượng
Thọ đă nói, văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới, chẳng cần nói đến phẩm vị, mà
cũng chẳng bàn đến thời gian ở trong thế
giới Cực Lạc dài hay ngắn, chẳng bàn tới! Nói
cách khác, người ta chỉ cần sanh về thế giới
Cực Lạc, dẫu là người hạ hạ phẩm
văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, [sẽ đều
là] “Thiên Nhăn đỗng thị”
(Thiên Nhăn thấy thấu suốt), tức là đối với
chúng sanh trong hết thảy các cơi Phật khắp pháp giới
hư không giới, người ấy đều có thể
trông thấy. “Thiên Nhĩ triệt
thính” (Thiên Nhĩ nghe thấu suốt): Tất cả hết
thảy các âm thanh trong khắp pháp giới hư không giới,
không có ǵ người ấy chẳng nghe được. “Tha Tâm biến tri” (Tha Tâm Thông
biết trọn khắp), hết thảy chúng sanh khởi
tâm động niệm, người ấy đều biết.
Văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, năng
lực sẵn có trong tự tánh gần như đều
khôi phục, quyết chẳng phải là chư thiên trong hai
mươi tám tầng trời mà ḥng sánh bằng! Thua kém rất
xa! Đấy là do nguyên nhân ǵ? Chúng ta văng sanh là đới
nghiệp văng sanh, bổn nguyện và oai thần của A Di
Đà Phật gia tŕ làm duyên, cái nhân là trí huệ và đức
năng vốn sẵn có trong tự tánh bèn hiện tiền.
V́ thế, pháp môn này thù thắng khôn sánh!
Hăy
nên biết: Cơi trời và nhân gian trong thế gian này chẳng
đáng để lưu luyến. Cơi trời c̣n chẳng có
ǵ để lưu luyến, huống hồ nhân gian! V́ thế,
người học Phật phải thật sự hiểu
rơ chân tướng sự thật này, chúng ta khóa chặt mục
tiêu nơi thế giới Cực Lạc. Trong một đời
này, chẳng văng sanh sẽ không được! Thứ ǵ
trong thế gian này cũng đều chẳng lưu luyến,
“phàm những ǵ có h́nh tướng,
đều là hư vọng”. Bất luận tại gia
hay xuất gia, hễ thật sự là đệ tử
đức Phật th́ phải buông xuống, phải thấy
thấu suốt; nêu gương “buông
xuống, thấy thấu suốt” cho đại chúng.
Như vậy th́ quư vị là A Xà Lê. Chúng ta dùng A Xà Lê theo ư
nghĩa mở rộng, tức là “người nêu gương tốt đẹp cho đại
chúng trong xă hội”. Bất luận là ai, nam, nữ, già,
trẻ, các nghề nghiệp, hễ nêu gương tốt
cho người khác thấy, người ta sẽ tự
nhiên học tập theo quư vị. Quư vị thật sự
là A Xà Lê! Tuy quư vị chẳng có danh hiệu A Xà Lê, nhưng
quư vị là thật, chẳng giả! Chúng ta phải hiểu
điều này, điều này thuộc về cảnh giới
Hoa Nghiêm, cũng chính là như trong Phật môn thường nói
“coi trọng thực chất,
chẳng coi trọng h́nh thức”. Người theo đuổi
công tác dạy học, đấy là có h́nh thức, bất
luận tại gia hay xuất gia, hễ theo đuổi chuyện
dạy học, [nếu có thể] “học vi nhân sư, hành vi thế phạm” (học
thức đáng làm thầy người khác, hành vi đáng
làm khuôn mẫu cho cơi đời), sẽ là bậc A Xà Lê. Nếu
chẳng phải là kẻ theo đuổi công tác dạy học,
nam, nữ, già, trẻ, các nghề nghiệp, quư vị đối
với công việc thuộc về bổn phận của
chính ḿnh đều thực hiện rất đúng pháp, nêu
gương tốt cho đại chúng trong xă hội, quư vị
chính là A Xà Lê. Dẫu chẳng có h́nh thức, nhưng quư vị
là thật, chẳng giả. Quư vị làm rất giống, sẽ
được Tam Bảo gia tŕ, quư vị rất giống
một vị Phật, hoặc Bồ Tát tái lai. Ví như làm
thương nhân, [sẽ là] thương nhân Bồ Tát. Quư vị
là công nhân, sẽ là công nhân Bồ Tát. Bất luận làm nghề
nghiệp ǵ, quư vị đều làm nghề ấy viên măn
nhất, Bồ Tát hóa thân mà! Làm một công nhân dọn vệ
sinh, quư vị thấy người ấy sẽ hết sức
nghiêm túc tṛn trách nhiệm, chỗ người ấy dọn
dẹp sẽ sạch bóng, chẳng nhiễm mảy trần!
Là bậc Bồ Tát trong những công nhân dọn vệ sinh,
đều là A Xà Lê thật sự.
“Thọ Xà Lê giáo” (tiếp nhận
sự dạy dỗ của bậc A Xà Lê): “Giáo” (教) là ảnh
hưởng, [“thọ Xà Lê giáo”
nghĩa là] chúng ta tiếp nhận sự giáo huấn của
A Xà Lê. Hiện thời, nói theo phía các vị đồng học
đă lâu ngày, giáo huấn của đức Phật chính là
kinh điển. Kinh là do đức Phật dạy. Chú giải
th́ nay chúng ta chọn bản Sớ Sao của Thanh
Lương đại sư. Thanh Lương đại
sư là A Xà Lê của chúng ta. Chúng ta chọn bản Hợp
Luận của Lư Trưởng Giả để tham khảo,
Lư Trưởng Giả là A Xà Lê của chúng ta. Chúng tôi chọn
tác phẩm để dùng trong việc giảng dạy là bộ
Sớ Luận Toản Yếu do thiền sư Cổ
Sơn Đạo Bái biên soạn trong niên hiệu Càn Long. Thiền
sư Đạo Bái là A Xà Lê của chúng ta. Chúng ta “thọ Xà Lê giáo”, kinh do đức
Phật dạy, chú giải do Xà Lê dạy. Chúng ta tu Tịnh
Độ, năm kinh một luận của Tịnh Độ
do đức Phật dạy, lịch đại tổ
sư chú giải là Xà Lê. Trong quá khứ, thầy Lư dạy tôi
học theo pháp sư Ấn Quang, học Ấn Quang Pháp
Sư Văn Sao, Ấn Quang Pháp Sư Toàn Tập; đấy
chính là A Xà Lê. Chúng ta đọc tụng, tư duy, lư giải,
y giáo phụng hành, đấy là “thọ
Xà Lê giáo”.
“Đương
nguyện chúng sanh”: Phải biết câu này có ư nghĩa sâu
rộng không ngằn mé. Ở đây là nói đến chúng
sanh trong hết thảy các cơi Phật khắp pháp giới
hư không giới, quư vị nói phạm vi to cỡ nào! Chẳng
phải là trên quả địa cầu này, cũng chẳng
phải là trong hệ Ngân Hà này của chúng ta, mà là chúng sanh thuộc
mười pháp giới trong hết thảy các sát độ
khắp pháp giới hư không giới. Thật sự mở
rộng tâm lượng, tâm lượng to lớn! Niệm
niệm có tâm lượng to ngần ấy, đấy chính
là “đại đạo tâm
chúng sanh” như cổ đại đức đă nói! Đại
đạo tâm chúng sanh học Phật nhanh chóng; có điều
kiện này, sẽ có thể học Hoa Nghiêm. Mở đầu
bộ Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao, Thanh Lương đại
sư đă nói về bậc đương cơ của
kinh này, tức mười loại người hội
đủ điều kiện học Hoa Nghiêm. Trong đó,
có một loại là đại đạo tâm chúng sanh. Tâm
lượng của người ấy quá lớn, khởi
tâm động niệm đều là khắp pháp giới
hư không giới. Người có tâm lượng như vậy
tương ứng với Hoa Nghiêm. Niệm niệm lợi
ích hết thảy chúng sanh; đă lợi ích hết thảy
chúng sanh th́ làm sao quư vị có thể hại chúng sanh cho
được? Đương nhiên là tuyệt đối
sẽ chẳng có ư niệm ấy, niệm nào cũng đều
là thiện. Niệm thiện, ngôn từ sẽ thiện.
Ngôn từ thiện, hạnh sẽ thiện. Đấy là “cụ túc Xà Lê”.
“Cụ túc oai nghi, sở hành chân
thật” (oai nghi đầy đủ, sở hành chân thật):
Người Hoa gọi “oai nghi”
là “quy củ, phong độ,
nhân phẩm”, [những từ ngữ ấy] đều
rất gần với điều này (oai nghi). Oai (威) là
oai đức, Nghi (儀) là nghi biểu (儀表, phong thái biểu lộ đoan chánh); nói nông cạn
hơn, rơ ràng hơn một tí, sẽ là “quy củ”. Trong giới luật, nói thật ra, [những
điều khoản về] giới luật chẳng nhiều
lắm, oai nghi nhiều. Đối với Sa Di, đức
Phật dạy Sa Di, giới luật chỉ có mười
điều, ngoài ra c̣n có hai mươi bốn môn oai nghi, tức
là những quy củ trong cuộc sống hằng ngày. Nay
chúng tôi khích lệ các đồng học, phải học bổ
sung về nền giáo dục đặt vững căn
cơ. Dùng ǵ để đặt vững căn cơ? Dùng
Đệ Tử Quy, Đệ Tử Quy là oai nghi. Giới
là ǵ? Giáo huấn của Khổng phu tử là giới. “Đệ tử nhập tắc
hiếu, xuất tắc đễ, cẩn nhi tín, phiếm
ái chúng, nhi thân nhân, hành hữu dư lực, tắc dĩ học
văn” (là con em th́ trong nhà hiếu thảo, ra ngoài bèn ḥa
thuận, nhường nhịn, cẩn trọng, giữ chữ
Tín, thương yêu mọi người, thân cận bậc
nhân từ. Nếu hăy c̣n có sức, bèn học văn
chương). Đấy là giới. Quư vị thấy
người đời sau dựa trên các giới điều
ấy, định ra khá nhiều quy củ nhằm thực
hiện giới điều ấy trong thường nhật.
Đó là “oai nghi”.
V́
thế, Đệ Tử Quy là giới luật và oai nghi của
Nho gia, là căn bản để làm người, có như
vậy th́ mới giống người! Quư vị thật sự
có thể làm được, như vậy quư vị là
người thật sự, [tức là] thật sự thực
hiện đạo làm người! Quư vị chẳng làm
được, tuy có h́nh dáng con người, nhưng tư
tưởng và hành vi của quư vị chẳng giống
như người! Tư tưởng và hành vi chẳng giống
người, trong tương lai chết rồi sẽ
đi về đâu, chẳng phải là đă rất rơ rệt
ư? Giống thứ ǵ, sẽ đi đến đó. Giống
súc sanh bèn vào súc sanh đạo, giống ngạ quỷ bèn
vào ngạ quỷ đạo, giống địa ngục bèn
vào địa ngục đạo. Giống người,
đời sau nhất định là quư vị vẫn làm
thân người. Thậm chí đức hạnh của quư vị
tăng tấn, đời sau sẽ được sanh lên
trời!
“Sở hành chân thật”, Chân (真) là chân tánh, Thật (實) là Tánh Đức. Tư tưởng và ngôn hạnh
đều tương ứng với trí huệ và đức
năng sẵn có trong tự tánh. Đấy là Chân Thật.
Trong Phật pháp là Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện. Thập
Thiện là cơ sở; chẳng làm được Thập
Thiện th́ Tam Quy, Ngũ Giới sẽ là giả, hữu
danh vô thực! Phải như thế nào để làm
được Thập Thiện? Có cơ sở Đệ
Tử Quy, Thập Thiện sẽ chẳng khó; đấy gọi
là “Phật pháp kiến lập
trên cơ sở thế pháp”. Nếu quư vị chẳng
phải là thiện nhân trong thế gian, sẽ chẳng thể
nhập Phật môn. Nhập Phật môn, quư vị thấy mở
kinh điển ra, nhất định sẽ thấy “thiện nam tử, thiện nữ
nhân”. Thiện nam tử, thiện nữ nhân đầy
đủ thiện pháp thế gian, [tức là] “cụ túc thế thiện” (trọn
đủ những điều lành thế gian), sau đấy lại học
Thập Thiện của Phật giáo, mới thật sự
là “thiện nam tử, thiện
nữ nhân”, quư vị có thể thọ tŕ Tam Quy, Ngũ
Giới. Chúng tôi giảng bài kệ này tới đây!
***
Chư
vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin mời
mọi người ngồi xuống, xin xem tiếp bài kệ
thứ mười bốn.
(Kinh)
Thọ Ḥa Thượng giáo, đương nguyện chúng sanh,
nhập Vô Sanh trí, đáo vô y xứ.
(經)受和尚教。當願眾生。入無生智。到無依處。
(Kinh: Được Ḥa Thượng dạy, nguyện
cho chúng sanh, nhập trí Vô Sanh, đến chỗ vô y).
Trước
hết, chúng ta xem chú giải của Thanh Lương đại
sư:
(Sớ)
Ḥa Thượng, thử vân Thân Giáo, diệc vân Lực Sanh, đạo
lực tự bỉ sanh cố, cố phiên vân. “Nhập Vô
Sanh trí”, y chi đắc giới, cố phiên Vô Y.
(疏)和尚,此云親教,亦云力生,道力自彼生故,故翻云,入無生智,依之得戒,故翻無依。
(Sớ: “Ḥa Thượng”, cơi này dịch là Thân Giáo,
c̣n dịch là Lực Sanh, v́ đạo lực sanh từ
Ngài, nên dịch như vậy. “Nhập Vô Sanh trí”:
Nương vào đó để đắc giới, nên dịch
là Vô Y).
Ḥa Thượng (Upādhyāya) là tiếng Phạn của Ấn Độ, dịch
sang nghĩa tiếng Hán là Thân Giáo Sư, dịch thành Thân
Giáo Sư. Chúng ta thấy hai chữ này, có thể nghĩ
đến ư nghĩa của chúng. Vị đích thân dạy
bảo chúng ta, vị ấy được gọi là Ḥa
Thượng. Giống như thông thường, chúng ta cầu
học, sẽ có thầy, c̣n có trợ giáo. Thầy là Ḥa
Thượng, trợ giáo là Xà Lê. Trong một ngôi trường,
Hiệu Trưởng là Thân Giáo, v́ sao? Chánh sách dạy học
do ông ta chế định, quyết định; chương
tŕnh học do ông ta xếp đặt. Môn học nào sẽ
mời ai đến dạy là do Hiệu Trưởng mời.
Hiệu Trưởng mời vị thầy ấy đến
giúp ông dạy học. Nói cách khác, họ đều là trợ
giáo của Hiệu Trưởng, đến chấp hành kế
hoạch dạy học của ông ta. V́ thế, đều
thuộc loại Trợ Giáo. Do vậy có thể biết, đối
với chuyện học hành trong nhà trường, Hiệu
Trưởng là Ḥa Thượng. Ḥa Thượng không nhất
định đứng lớp, ông ta mời A Xà Lê đứng
lớp. Chư vị phải hiểu điều này! Thực
hiện giáo dục tốt đẹp, quốc gia tưởng
thưởng Hiệu Trưởng, ông ta đă thực hiện
tốt đẹp, chẳng nói là vị giáo viên nào làm tốt
đẹp, vị giáo sư nào làm tốt. Chẳng phải
vậy! Quốc gia tưởng thưởng Hiệu
Trưởng. Nếu chẳng thực hiện giáo dục tốt
đẹp, kẻ bị trừng phạt cũng là Hiệu
Trưởng. Quư vị phải hiểu điều này!
V́
thế, trong nhà trường, chúng ta được hưởng
sự giáo dục tốt đẹp, người đầu
tiên chúng ta cảm ơn chẳng phải là vị thầy dạy
ta, mà là Hiệu Trưởng. Phải cảm kích ông ta, vị
thầy dạy chúng ta do Hiệu Trưởng mời, chúng
ta phải cảm kích người mời. Ḥa Thượng và
Xà Lê sai khác ở chỗ nào, chúng ta hiểu ngay. Xà Lê là vị
thầy khuôn phép, “học vi nhân
sư, hành vi thế phạm”, là các vị giáo sư trong
các trường học. Thân Giáo Sư là Hiệu Trưởng.
Trong viện nghiên cứu, như các lớp Thạc Sĩ, lớp
Tiến Sĩ, cũng có thể gọi vị giáo sư
hướng dẫn là Ḥa Thượng. Tuy ông ta chẳng chủ
tŕ toàn thể chánh sách giáo dục, nhưng phụ trách chuyên
môn nghiên cứu một khoa mục. Thường là khoa mục
ấy do ông ta thiết kế, làm chủ, chỉ đạo.
[V́ lẽ ấy], giáo sư hướng dẫn có thể gọi
là Ḥa Thượng.
Chư
vị phải biết: Ḥa Thượng không nhất định
là người xuất gia. Ḥa Thượng và A Xà Lê trong Phật
môn, nay chúng ta thường gọi là “pháp sư”, cũng không nhất định là
người xuất gia, người tại gia cũng có thể
xưng hô như vậy. Chỉ có “Sa Di, tỳ-kheo”, những cách xưng hô ấy nhất
định là người xuất gia. Chúng ta phải hiểu
những kiến thức thông thường này! Phàm là người
chủ tŕ giáo học th́ mọi người gọi vị
đó là Ḥa Thượng, tại Ấn Độ đều
gọi là Ḥa Thượng. Do vậy, Ḥa Thượng cũng
chẳng phân biệt nam nữ. Ví như Hiệu Trưởng
của một ngôi trường là nữ, bà ta được
gọi là Ḥa Thượng. Trong quá khứ, tôi cầu học
ở Đài Trung, thầy chúng tôi là lăo cư sĩ Lư Bỉnh
Nam, là người tại gia, chúng tôi gọi Ngài là Ḥa
Thượng. V́ toàn bộ kế hoạch dạy học
xác thực là do Ngài thiết kế, chỉ đạo. Ngài
cũng có mấy vị trợ giáo, quá nửa những vị
trợ giáo ấy là học tṛ của Ngài, đă theo Ngài học
Phật nhiều năm. Như thuở trước, Từ
Quang Đồ Thư Quán ở Đài Trung năm nào cũng
đều tổ chức mấy khóa “đại chuyên Phật học giảng ṭa” (khóa
học Phật pháp dành cho sinh viên các trường đại
học và chuyên nghiệp). Thời gian của Phật học
giảng ṭa tuy không dài, đều là nhằm dịp nghỉ
Hè hay nghỉ Đông, sinh viên lợi dụng kỳ nghỉ
để ghi danh tham dự. Ở Đài Loan, các trường
đại học chuyên nghiệp đều có.
Chương tŕnh học gồm sáu môn, nội dung môn học
do thầy thiết kế, sắp xếp. Môn học nào th́ mời
người nào đến dạy, do thầy mời. Thầy
là Ḥa Thượng. Quan hệ giữa học tṛ và người
đảm nhiệm dạy học, tức dạy một
môn học nào đó là A Xà Lê. Chúng ta phải phân định
rất rơ ràng những điều này. V́ thế, Ngài (cụ
Lư Bỉnh Nam) là Thân Giáo Sư.
Một
ư nghĩa khác nữa là Lực Sanh (力生). Ḥa
Thượng là từ ngữ phiên âm từ tiếng Phạn.
V́ thế, có lúc trong kinh điển, chúng ta thấy chữ
[Thượng (尚) trong] Ḥa Thượng (和尚) được viết thành chữ Thượng (上)
trong “thượng hạ” (上下), vẫn được! Nó là từ ngữ phiên âm,
miễn đồng âm là được rồi. Do nó phiên âm
từ tiếng Phạn, cho nên phải hiểu ư nghĩa! Lực
Sanh là ǵ? Chúng ta học Phật, đối với Giới,
Định, Huệ của chúng ta, Giới, Định, Huệ
là đạo. Giới, Định, Huệ có sức. Giới
có sức, tự nhiên là có thể đoạn ác, tu thiện.
Định có sức, quyết định có thể khống
chế vọng tưởng. Nếu trí huệ có sức,
quư vị sẽ có thể phân biệt chân, vọng, tà, chánh,
đúng, sai, quư vị có năng lực ấy. Đạo lực
ấy do từ chỗ Ḥa Thượng mà đạt
được; do Ngài giáo huấn, chúng ta mới có năng
lực, trí huệ, đức năng ấy. Trí huệ và đức
năng sanh từ Ngài. V́ thế, Ḥa Thượng c̣n
được dịch là Lực Sanh. Ngài có năng lực
giúp cho chúng ta sanh khởi đạo lực. Đấy là ư
nghĩa của hai chữ Ḥa Thượng.
“Thọ Ḥa Thượng giáo”:
Tiếp nhận giáo huấn của thầy. Trong phần
trước, chúng ta đă đọc thấy “đại sư, tiểu sư”,
đại sư là Phật, tiểu sư là Ḥa Thượng.
Ḥa Thượng dạy chúng ta, bất luận là tư duy,
ngôn ngữ, hay hành động, quyết định chẳng
rời ĺa kinh giáo; đấy là một vị Ḥa Thượng
thật sự tốt đẹp. V́ sao? Phật là bậc
giác ngộ triệt để rốt ráo, có thể nói là chẳng
có mảy may khiếm khuyết. Đấy là điều
thánh nhân thế gian chẳng làm được. Thánh nhân thế
gian chẳng giác ngộ triệt để, c̣n có lầm lỗi!
Bồ Tát đạt đến [địa vị] Đẳng
Giác Bồ Tát có lầm lỗi hay không? Nói theo phía chúng ta,
[các Ngài] tuyệt đối chẳng thể nào có lầm lỗi,
nhưng nếu so sánh các Ngài với vị Phật đă đạt
đến quả địa rốt ráo, các Ngài vẫn chẳng
bằng! Trong những phần trước, chúng tôi đă
nói nhiều lần. Phật môn chỉ cần phá một phẩm
vô minh, minh tâm kiến tánh, trong Thiền Tông nói là “kiến tánh thành Phật”. Vị
Phật ấy là chân Phật, chẳng phải là giả Phật.
Tiến lên cao hơn, hăy c̣n có bốn mươi hai địa
vị [kể từ Sơ Trụ], bốn mươi hai địa
vị ấy có phải là thật hay không? Thưa cùng
chư vị, xác thực là chẳng có! Nhất Chân pháp giới
là b́nh đẳng. Nếu c̣n có bốn mươi hai giai cấp,
làm sao có thể nói là pháp b́nh đẳng cho được?
Chúng
ta biết, nói theo kinh Hoa Nghiêm, chướng ngại của
chúng ta là ǵ? Ba loại lớn:
1)
Chấp trước là Kiến Tư phiền năo. Có thể
chẳng chấp trước hết thảy các pháp [th́ sẽ
không c̣n Kiến Tư phiền năo].
2)
Phân biệt là Trần Sa phiền năo. Đối với hết
thảy các pháp thế gian và xuất thế gian đều
chẳng phân biệt.
3)
Cuối cùng là vọng tưởng. Vọng tưởng là ǵ?
Khởi tâm động niệm; đấy là tầng sâu nhất.
“Phá một phẩm vô minh” là
ǵ? Sáu căn tiếp xúc cảnh giới bên ngoài, chẳng khởi
tâm, không động niệm.
Thật
sự chẳng khởi tâm, không động niệm, sẽ
là phá sạch vô minh, vượt thoát mười pháp giới,
người ấy đạt đến Nhất Chân pháp giới.
Nhất Chân pháp giới toàn là chẳng khởi tâm, không động
niệm, chẳng phải là b́nh đẳng ư? Sơ Trụ
Bồ Tát vừa mới tiến nhập Nhất Chân pháp giới,
chẳng khởi tâm, không động niệm. Đẳng
Giác Bồ Tát cũng chẳng khởi tâm, không động
niệm, cho đến quả vị rốt ráo vẫn là chẳng
khởi tâm, không động niệm, lấy đâu ra sai biệt?
Chẳng có! Pháp giới b́nh đẳng gọi là Nhất
Chân, v́ sao đức Phật lại nói bốn mươi mốt
giai cấp? Có bốn mươi mốt giai cấp hay không?
Có chứ! [Vậy th́] v́ sao vừa rồi lại nói là chẳng
có? Nói theo Tướng th́ chẳng có, nói theo Lư th́ có! Nơi
Sự chẳng có, nơi Lư bèn có. Đấy là chuyện
như thế nào?
Trong
phần trước, cổ đại đức đă
dùng tỷ dụ để nói. Các Ngài dùng tỷ dụ khéo
lắm. Ví như b́nh rượu, tức là cái b́nh để
đựng rượu, đă đổ hết sạch
rượu rồi, xác thực là chẳng có, bên trong
cũng lau chùi rất sạch sẽ. Thật sự là chẳng
có rượu, là b́nh rỗng tuếch. Khá nhiều cái b́nh rỗng
tuếch để chung với nhau, đều là b́nh rỗng
tuếch, có phải là b́nh đẳng hay không? B́nh đẳng!
Ngửi thử, vẫn c̣n hương vị rượu. Cầm
lấy cái b́nh kia ngửi, [hơi rượu] nhạt
hơn một chút. Cái b́nh này mùi nồng hơn một chút. Lại
ngửi cái b́nh kia, lại thấy nhạt hơn một
chút. Nếu lấy cái b́nh khác, chẳng có mùi. B́nh đều
trống rỗng, chẳng có ǵ hết, b́nh đẳng mà,
nhưng có hương vị. Đấy là ǵ? Tập khí vô
thỉ vô minh. Chưa đoạn tập khí vô thỉ vô minh,
có trở ngại Sự hay không? Chẳng ngăn ngại Sự,
rỗng không, thứ ǵ cũng đều chẳng có. V́ thế,
nh́n từ sự tướng, Sơ Trụ Bồ Tát và quả
địa rốt ráo b́nh đẳng, giống như hai cái
b́nh, trống không, thứ ǵ cũng đều chẳng có,
nhưng một cái khi ngửi chẳng có mùi, một cái khi
ngửi hăy c̣n có mùi!
Bốn
mươi hai giai cấp là nói theo kiểu như thế
đó, quư vị đừng nghĩ chúng là thật. “Vị ấy
là Sơ Trụ Bồ Tát, là Đẳng Giác Bồ Tát, là Thập
Địa Bồ Tát”, [đấy chính là] sự phân biệt
hư vọng của chúng sanh! Chuyện này chẳng thể
nói là Có, mà cũng chẳng thể nói là Không. Nếu quư vị
nói là Có, các Ngài thật sự b́nh đẳng, chẳng t́m
thấy [có tầng cấp khác biệt]. Quư vị nói chẳng
có, tập khí của mỗi cá nhân dầy hay mỏng khác
nhau! Do trong hết thảy mọi nơi, quư vị chẳng
trông thấy tập khí. Tuy có tập khí, nhưng do công phu
định lực quá sâu, [tập khí] chẳng dấy lên hiện
hành, cũng có nghĩa là nó chẳng khởi tác dụng. Chẳng
như phàm phu, do phàm phu tập khí nặng nề nên nó khởi
tác dụng. Nói như vậy, quư vị bảo là Có th́ trong
Tông Môn nói là “chẳng có”, Giáo Hạ nói là “có”. Có và Chẳng
Có không xung đột, đều có thể nói xuôi thuận.
Có và Không chẳng hai, nhập pháp môn Bất Nhị. Pháp môn
Bất Nhị là Nhất Chân pháp giới, Bất Nhị là Nhất
Chân.
Do
vậy, tiếp nhận sự dạy bảo của Ḥa
Thượng, “đương
nguyện chúng sanh, nhập Vô Sanh trí”. “Vô Sanh trí” là trí huệ tự nhiên, là trí huệ vốn
sẵn có trong tự tánh, chẳng đến từ bên
ngoài, chẳng phải là do học được. Chỉ cần
diệt trừ chướng ngại của chính ḿnh, trí huệ
ấy sẽ hiện tiền. Giống như ánh sáng mặt
trời vốn sẵn có. Hôm nay trời mưa, trời âm
u, chẳng thấy mặt trời, đó là ǵ? Mặt trời
bị các tầng mây che khuất. Tầng mây có dầy hay mỏng.
Càng dầy, ánh sáng lộ ra càng ít. Mây càng mỏng, ánh sáng lộ
ra càng nhiều. Điều này rất giống mười
pháp giới, ba ác đạo trong mười pháp giới là
chỗ mây dầy nhất, trí huệ chẳng thấu lộ
được! Trí huệ bèn biến thành phiền năo, biến
thành vọng tưởng. Do vậy, trong kinh Đại Thừa
thường nói: “Phiền năo tức
Bồ Đề”. Đă mê, trí huệ biến thành phiền
năo. Giác ngộ, phiền năo biến thành trí huệ. Xác thực
là nó có thể chuyển biến, là một Thể, là hai mặt
của một Thể. Phàm và thánh chính là giác và mê. Phàm phu giác
ngộ bèn thành thánh, đă mê gọi là phàm phu. Chúng ta cũng
phải hiểu rơ ràng, hiểu minh bạch sự thật
này!
Ḥa
Thượng dạy dỗ, mục tiêu chung cực là khế
nhập Vô Sanh Trí. Vô Sanh Trí cũng chính là A Nậu Đa La
Tam Miệu Tam Bồ Đề như trong giáo pháp Đại
Thừa thường nói, dịch sang nghĩa tiếng Hán là
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác vốn sẵn trọn đủ trong tự
tánh, chẳng do từ bên ngoài mà có! V́ thế, trí huệ chẳng
sanh, chính ḿnh vốn sẵn có mà! Nếu chúng ta buông xuống
chấp trước, trí huệ quang minh trong tự tánh sẽ
lộ ra một phần, trí huệ chân thật, chẳng giả!
Đấy là cảnh giới của ai? A La Hán. A La Hán và Bích
Chi Phật đều là cảnh giới này. Các Ngài đối
với hết thảy người, sự, vật, pháp thế
gian và xuất thế gian chẳng c̣n chấp trước,
tâm được thanh tịnh. Tâm thanh tịnh sanh ra trí huệ.
Trong Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài đạt
được Chánh Giác. Có Chánh Giác, đương nhiên là sẽ
có chánh hạnh. Do vậy, Ngài được xếp vào bậc
thánh nhân, chẳng phải là phàm phu. Lại tiến cao
hơn, phân biệt cũng đoạn trừ, chẳng c̣n
phân biệt hết thảy các pháp. “Phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư
vọng”, chẳng c̣n phân biệt, gần như là trí huệ
trong tự tánh thấu lộ một nửa. Đấy là
hạng người nào? Bồ Tát, Chánh Đẳng Chánh Giác
là Bồ Tát.
Trong
cảnh giới cao nhất, không chỉ là chẳng có phân biệt,
đă buông xuống [phân biệt], mà khởi tâm động
niệm cũng chẳng có, v́ sao? “Phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư
vọng”, có ǵ đáng để khởi tâm động
niệm? Sáu căn giống như một tấm
gương soi cảnh giới bên ngoài rành mạch, rơ ràng;
đấy là Huệ. Chẳng khởi tâm, không động
niệm là Định, tự tánh vốn định! Định
và Huệ cùng vận dụng, vận dụng đồng thời.
Đấy là bậc Pháp Thân Bồ Tát trong Nhất Chân pháp
giới. “Dụng” của
Ngài là ở chỗ nào? Chúng sanh có cảm, Ngài sẽ có ứng.
Tự tánh là Phật Tánh, là Pháp Tánh, tự nhiên cảm ứng
đạo giao cùng hết thảy chúng sanh. Trong phần
trước, chúng tôi đă nói, khởi tâm động niệm
của chúng ta, dẫu là một ư niệm nhỏ bé đến
mấy đi nữa, hoặc một ư niệm nhỏ nhặt
chẳng đáng nói tới, thiện niệm hay ác niệm
đều có cảm. Sóng điện từ và sóng ánh sáng chẳng
thể sánh bằng sóng tư tưởng. Tốc độ
của sóng điện từ hoặc sóng ánh sáng chẳng
mau! Hiện thời, các khoa học gia đă đo lường,
[nhận thấy] tốc độ của sóng điện
từ và sóng ánh sáng không khác nhau cho lắm! Mỗi giây, chúng
đi được ba mươi vạn cây số. Ánh sáng
từ mặt trời chiếu đến địa cầu
phải mất tám giây! Luồng sóng tư tưởng của
chúng ta tuyệt diệu thay! Vừa động niệm, đă
trọn khắp hư không pháp giới. Sóng điện từ
quá ư là chậm so với nó, chẳng có cách nào so sánh
được, chỉ cần một niệm, [sóng tư
tưởng] đă trọn khắp hư không pháp giới. V́
thế, đối với toàn thể hư không pháp giới,
Pháp Tánh và Pháp Tướng đều có thể tiếp nhận
được, đều có cảm ứng.
V́
sao xă hội hiện thời biến thành nông nỗi này? Do
các nghiệp cảm vời! Chư vị đồng học
nhất định phải biết, thế giới Hoa Tạng
của Tỳ Lô Giá Na Phật và thế giới này của chúng
ta chẳng khác nhau. Thế giới Cực Lạc của Tây
Phương A Di Đà Phật và thế giới này cũng
chẳng khác nhau. V́ sao thế giới của người
ta tốt đẹp ngần ấy, thế giới của
chúng ta tệ hại như thế? Chẳng có ǵ khác!
Người ở bên kia, chúng ta nói là “cư dân”, tâm tánh tốt đẹp; cư dân trong
thế gian này tâm bất hảo. Chẳng phải là do hoàn cảnh
bên ngoài! Hoàn cảnh biến đổi thuận theo ḷng
người. Các nhà Phong Thủy nói có lư lắm! Các nhà Phong Thủy
nói: “Phước nhân cư phước
địa, phước địa phước nhân cư”
(người có phước sống tại cuộc đất
có phước, cuộc đất có phước dành cho
người có phước ở). Lời này bao hàm ư
nghĩa rất sâu. Chỉ cần quư vị có phước,
chỗ quư vị cư trụ thảy đều có phước
báo. Nếu quư vị chẳng có phước, [dẫu] cuộc
đất ấy là phước địa, hễ quư vị
sống tại đó, phước địa ấy dần
dần biến thành xấu tệ! Đúng như Phật
pháp đă nói: “Cảnh chuyển
theo tâm”. Cảnh giới bên ngoài thuận theo ư niệm trong
ḷng người mà dấy lên sự biến hóa.
Hiện
thời chúng ta, tôi thường nói là người hiện
thời nói đến chuyện “bảo
vệ môi trường”, trong khi giảng kinh, tôi đă từng
nói rất nhiều lần: Đối với chuyện bảo
vệ môi trường, toàn thể thế giới làm cách
nào đi nữa, đều chẳng thu được hiệu
quả. V́ sao chẳng thu được hiệu quả? Họ
chẳng thực hiện từ căn bản, chỉ là dùng
phương pháp ấy, sẽ chẳng được! Đau
đầu chữa bệnh nơi đầu, đau chân, chữa
bệnh nơi chân, chẳng thể trị lành bệnh.
Như thế nào th́ mới có thể bảo vệ môi trường
tốt đẹp? Chỉ cần ḷng người tốt
đẹp! Chỉ cần ḷng người tốt lành, toàn
thể núi, sông, đại địa, toàn thể thế giới
thảy đều biến thành tốt lành, thật sự là
mưa ḥa, gió thuận. Chỉ có kinh Phật nói rơ ràng, thấu
triệt đạo lư này!
Hết
sức khó có, tiến sĩ Giang Bổn Thắng của Nhật
Bản đă dùng phương pháp khoa học, chứng minh bằng
thí nghiệm với nước. Tôi nghe tin tức này rất
hoan hỷ; khi đó, tôi ở Úc, t́m người liên lạc
với ông ta, mời ông ta sang Úc báo cáo. Ông ta chấp thuận,
báo cáo mấy lượt tại Úc, rất cặn kẽ. Về
sau, tôi sang thăm Đông Kinh (Tokyo), có đến thăm
pḥng thí nghiệm của ông ta. Ông ta có vài nghiên cứu viên. Lần
đầu tiên, tôi đến thăm pḥng thí nghiệm của
ông ta, [họ đă thí nghiệm] cả tám năm. Xác thực
chứng minh nước là khoáng vật, [thế mà có thể]
chuyển biến thuận theo tâm người. Người
ta đối với nước bằng thiện niệm,
nó sẽ hiển lộ kết tinh rất đẹp.
Người ta đối với nước bằng ác niệm,
nó sẽ kết tinh hết sức xấu xí. Núi, sông, đại
địa là khoáng vật. Cây cối, hoa cỏ là thực vật,
thảy đều có cảm ứng. Quư vị đối với
nó bằng thiện niệm, nó sẽ có thiện cảm. Quư
vị có ác niệm đối với nó, nó sẽ có ác cảm.
Chúng ta hiểu rơ đạo lư này, tự ḿnh làm thí nghiệm,
chẳng sai tí nào!
Chúng
tôi ở Úc Châu, đất đai rộng răi. V́ thế, trồng
rau trong sân. Tôi xin các chuyên gia nông nghiệp cung cấp hạt
giống, có rất nhiều loại, mấy chục loại.
Chúng tôi chẳng dùng phân hóa học, chẳng dùng thuốc sát
trùng, rau mọc rất tươi tốt. Chúng tôi cho rau nghe
Phật hiệu, nó có thể nghe. Phật hiệu là tối
thiện; do vậy, nó mọc thật tươi tốt.
Chúng tôi cho tất cả các tiểu động vật
đều nghe Phật hiệu, đều nghe giảng
kinh, đều nghe tán Phật. Do vậy, các tiểu động
vật đều hợp tác. Cây ăn quả, các loài chim nhỏ
có thể đến ăn, chúng tôi chuyên dành [một số
cây] để nuôi các loài chim nhỏ. Chim tới chỗ chúng
tôi kiếm ăn, những cây ăn quả của chúng tôi
không một con nào đụng đến. Chúng tôi có những
thứ chuyên dành cho chúng nó, chúng nó hiểu chuyện, quư vị
phải tṛ chuyện với chúng nó. Không chỉ là quư vị
có thể tṛ chuyện với động vật, mà thực
vật cũng có thể trao đổi. Quư vị yêu
thương chúng, chúng nó sẽ tăng trưởng hết
sức tốt. Khi chúng tăng trưởng trọn vẹn,
sẽ cúng dường quư vị. Khi đó, ở trên núi, vị
thường trụ trên núi là pháp sư Ngộ Khiêm. Có một
hôm, pháp sư Ngộ Khiêm nằm mộng thấy một quả
dưa leo báo mộng. Nó nói nó đă tăng trưởng rất
to, đáng nên hái, “cớ sao bà vẫn chẳng hái tôi?” Ngày
hôm sau, bà ta ra vườn rau t́m, quả nhiên ẩn dưới
đám lá có một quả dưa leo rất to! Mỗi lần
hái dưa leo, bà ta chẳng hái nó, v́ quá nhiều lá, chẳng
thấy! Nó báo mộng, bảo bà ta đến hái, quả nhiên
t́m được, mầu nhiệm chẳng thể tả!
Chúng
tôi gặp những chuyện ấy quá nhiều! V́ thế,
quyết định chẳng sát sanh; đối với những
tiểu động vật, muỗi, kiến, đều có
thể cư xử hết sức tốt đẹp. Chúng
tôi sống ḥa thuận với chúng nó, đối đăi b́nh
đẳng. Chúng ta thấy kiến, nhất định sẽ
chắp tay “Bồ Tát kiến”, thấy muỗi, “Bồ Tát
muỗi”. Cô Dương đă học hiểu. Mùa Hè muỗi
rất nhiều, bà ta thương lượng với muỗi:
“Các ngươi có thể đốt ta v́ các ngươi cần
phải ăn, ta cũng bằng ḷng bố thí cho
ngươi. Các ngươi đốt thân, lưng bàn tay
[th́ được], chứ đừng đốt trên mặt.
Mặt bị đốt tùm lum khó coi lắm! Ngày mai chẳng
tiện gặp người khác!” [Quả nhiên], chẳng có
con muỗi nào đốt trên đầu, trên mặt. Có thể
thương lượng! Nó ăn no sẽ bỏ đi. Quư
vị chịu bố thí cho nó, nó lại chẳng tổn
thương quư vị. Muỗi đốt rất đau, rất
ngứa. Bà ta nói: “Không được rồi! Ta bố thí
các ngươi, các ngươi có thể đừng làm cho
ta bị đau, bị ngứa hay không?” Muỗi đốt
bà ta, quả nhiên không đau, không ngứa! Chúng đều
có linh tánh. Chúng tôi nói thông tục là “tiểu động vật đều thông t́nh đạt
lư”. Chúng ta đưa ra điều kiện, chúng nó đều
rất tuân thủ. Chúng ta đă sơ sót đối với
thực vật và khoáng vật. Tiến sĩ Giang Bổn Thắng
làm thí nghiệm, [chứng tỏ] khoáng vật giống
như động vật. Chúng ta đối đăi chúng nó bằng
thiện tâm, chúng nó đều trở nên hết sức tốt
đẹp. Đối đăi chúng bằng ác niệm, nó sẽ
trở nên rất xấu xí. Trở nên rất tốt đẹp,
đất đai ph́ nhiêu, trồng thứ ǵ cũng đều
dễ dàng. Quư vị nói “nơi này rất đáng ghét”, đất
đai chỗ đó nhất định sẽ biến thành
rất tệ!
V́
thế, nếu ḷng người trong thế gian này thuần
thiện, giống như những người sống trong
thế giới Cực Lạc, núi, sông, đại địa
sẽ chẳng khác ǵ thế giới Cực Lạc,
đúng là đẹp đẽ khôn xiết! Đấy chính
là ǵ? Vô Sanh Trí. Vô Sanh Trí là Tánh Đức. Trong giáo pháp Đại
Thừa, đức Phật đă dạy, các hiện tướng
(現相, tướng biến
hiện) trong toàn thể vũ trụ do đâu mà có? “Duy tâm sở hiện, duy thức
sở biến”. Tâm là Pháp Tánh, Pháp Tánh biến. Pháp Tánh biến
thành hiện tướng, hiện tướng là Pháp Tánh, giống
như “dùng vàng làm đồ vật,
món nào cũng đều là vàng”. Món đồ này làm bằng
vàng, vàng ở chỗ nào? Món đồ là vàng. Quư vị làm cái
nhẫn, nhẫn là vàng. Quư vị làm thành ṿng đeo tay, ṿng
đeo tay là vàng. Pháp Tánh ở chỗ nào? Hết thảy các
hiện tướng là Pháp Tánh, Pháp Tánh tự nhiên (là Tánh
Đức của chúng), nó có thấy, nghe, hay, biết, nó có
sắc, thanh, hương, vị.
V́
thế, tôi tṛ chuyện với tiến sĩ Giang Bổn Thắng,
bảo ông ta. Ông ta vốn bài xích tôn giáo, v́ [là một người]
thuần nghiên cứu khoa học, sợ bị người
khác chê ông ta mê tín. Tôi tiếp xúc ông ta, thoạt đầu vẫn
là dường như ông ta rất lo ngại. Sau này, tôi thuyết
phục được ông ta, khiến ông ta tin tưởng.
Tôi nói những điều ông đă thí nghiệm trong kinh Phật
thảy đều có, nhưng có những điều kinh Phật
đă dạy, ông c̣n hoàn toàn chưa thí nghiệm. Đối
với thấy, nghe, hay, biết, ông đă thí nghiệm.
Khoáng vật có thấy, nghe, hay, biết, đấy là Tánh
Đức! Nó c̣n có sắc, thanh, hương, vị, nay những
thí nghiệm do ông đă làm chỉ có sắc, ông đă trông
thấy, nhưng âm thanh ông chưa nghe, mùi hương ông
chưa ngửi được, vị ông chưa nếm
được. Nó có sắc, thanh, hương, vị, ông chỉ
có sắc, chứ thanh, hương và vị vẫn chưa
làm được. Ông phải tiếp tục nỗ lực,
khẳng định là có. Những điều ấy đều
được chứa đựng, ẩn tàng trong Vô Sanh
Trí.
“Đáo
vô y xứ” (đến chỗ vô y): “Vô y xứ” là Pháp Tánh. Vô Sanh Trí là Tự Tánh Giác. “Vô y xứ” là trở về tự
tánh. Đấy là nói đến điều chân thật rốt
ráo. Nếu quư vị có thể khế nhập đôi chút, hiểu
rơ đạo lư này, [sẽ cảm nhận] toàn thể vũ
trụ là chính ḿnh. Quư vị có thể hiểu rơ, có thể
khẳng định, đó chính là Pháp Thân. Quư vị chẳng
c̣n chấp trước cái thân này là tự thân. Quư vị hiểu
toàn thể vũ trụ là tự thân, là Pháp Thân, khó có lắm!
Quư vị đă chứng đắc Pháp Thân. Người chứng
đắc Pháp Thân bèn thành Phật, là Pháp Thân Như Lai. Kinh
Hoa Nghiêm gọi [người như vậy] là Pháp Thân đại
sĩ. Pháp Thân đại sĩ và Pháp Thân Như Lai là một,
không hai, là một ư nghĩa, chẳng c̣n nghĩ thân này là
chính ḿnh. Cái thân này có ĺa khỏi Pháp Thân hay không? Chẳng có.
Người chứng đắc Pháp Thân hoát nhiên giác ngộ
toàn bộ thân thể là chính ḿnh, chẳng phải là một
tế bào trên cái thân là chính ḿnh! Nay chúng ta là phàm phu, phàm phu
trong lục đạo, giống như một tế bào
trên Pháp Thân, là một tế bào trên cái thân, ngỡ thứ ấy
là chính ḿnh, quên khuấy Pháp Thân thật sự. Ngày nào giác ngộ
toàn thể vũ trụ là chính ḿnh; v́ thế nói: “Mười phương ba đời
Phật, cùng chung một Pháp Thân”. Trong phần trước,
chúng ta đă đọc: “Nhất
tâm, nhất trí huệ, lực, vô úy diệc nhiên” (một
tâm, một trí huệ, lực, vô úy cũng thế). Trong giáo
pháp Đại Thừa, những câu như vậy rất
nhiều!
Do
vậy, Phật giáo cao cấp nói “vô y”, mới nhập môn th́ phải có y. Tam Quy Y,
chúng ta phải y Phật, y Pháp, y Tăng. Phải ghi nhớ
điều này: “Phật là Tự
Tánh Giác, Pháp là Tự Tánh Chánh, Tăng là Tự Tánh Thanh Tịnh”.
Tam Bảo bên ngoài c̣n gọi là Trụ Tŕ Tam Bảo, là h́nh
tướng. H́nh tướng ấy biểu thị ư
nghĩa. Từ h́nh tướng bên ngoài, nếu quư vị
quay về ư nghĩa, sẽ được thọ dụng.
V́ vậy, trông thấy tượng Phật, bèn nghĩ
đến Tự Tánh Giác, nhắc nhở chúng ta. Chẳng
có tượng ấy, bọn phàm phu nghiệp chướng
rất nặng, hết sức dễ quên, thường xuyên
quên bẵng, chẳng dấy khởi được! Tượng
Phật giúp chúng ta dấy khởi. Tượng Phật biểu
thị Tánh Đức, tượng Bồ Tát biểu thị
Tu Đức. Tánh và Tu chẳng hai. Tượng Phật biểu
thị tự tánh vốn đủ, tượng Bồ Tát
[biểu thị] tuy vốn trọn đủ [các đức
năng trong tự tánh], nay đă bị mê mất, [vậy
th́] hiện thời phải làm như thế nào để
t́m lại nó? Đó gọi là Tu Đức. Ví như Địa
Tạng Bồ Tát biểu thị “hiếu thân, tôn sư”, biểu thị hiếu
đạo. Quư vị trông thấy [h́nh tượng của]
Ngài, sẽ hiếu thuận với cha mẹ, biết tôn
kính thầy, phải dùng ḷng thành kính và khiêm ḥa đối đăi
hết thảy chúng sanh. Đấy là pháp môn Địa Tạng,
quư vị học hiểu, để Ngài hằng ngày nhắc
nhở quư vị.
Quán
Thế Âm Bồ Tát biểu thị đại từ đại
bi. Thấy tượng Ngài, tâm từ bi của quư vị liền
dẫn khởi. Tâm từ bi là Tánh Đức, tâm hiếu
thuận cũng là Tánh Đức, dùng những h́nh tượng
ấy để dẫn phát Tánh Đức của chính ḿnh.
Mê tín ở chỗ nào? Văn Thù Bồ Tát biểu thị lư
trí. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường xử
sự theo t́nh cảm. Xử sự theo t́nh cảm, sẽ tạo
tội nghiệp. Trông thấy tượng Văn Thù Bồ
Tát, sẽ nghĩ “ta phải dùng lư trí, chớ nên dùng cảm
t́nh”. Phổ Hiền Bồ Tát biểu thị thực tiễn,
thật sự làm. Tượng Bồ Tát biểu thị ư
nghĩa này, chẳng có một tí mê tín nào! V́ thế, đấy
là một loại nghệ thuật giáo học, nói theo thuật
ngữ trong nền giáo dục hiện thời, [h́nh tượng
Phật, Bồ Tát] là “giáo cụ”
(教具), tức là những
công cụ để dạy học.
Đấy
là dùng phương pháp nghệ thuật khiến cho học
tṛ hoan hỷ, yêu thích; do đó, sẽ thật sự học
được. Đấy là nghệ thuật dạy học
cao cấp. Quư vị thấy mấy ngàn năm trước,
Phật giáo đă hoàn toàn vận dụng [nghệ thuật ấy],
người hiện thời chẳng biết, tưởng
những thứ ấy là mê tín, tưởng là ngẫu
tượng. Nói thật ra, rất nhiều người
không biết nghĩa thú của sự biểu thị pháp
trong Phật pháp. V́ sao không biết? Do chẳng đọc
kinh! Hoàn thiện nhất trong sự biểu thị pháp là
kinh Hoa Nghiêm, trong những phần trước, chúng tôi
đă nói [điều này] rất nhiều. Đức Phật
khiến cho quư vị trong hết thảy lúc, hết thảy
chỗ, mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi
nếm, không ǵ chẳng phải là Phật pháp, đều
khiến cho quư vị khai trí huệ, đều khiến cho
quư vị trở về tự tánh. Nhập Vô Sanh Trí, trở
về tự tánh, từ Pháp Tướng nhận thức
Pháp Tánh, đạt đến chỗ Vô Y.
Giáo
học hoàn thiện như vậy, giáo nghĩa cao sâu dường
ấy, lại chẳng ĺa khỏi cuộc sống thực
tế. Nếu quư vị khéo học, xác thực là sẽ khiến
cho quư vị trong đời này, thật sự hưởng
thụ “sự hưởng thụ
cao nhất trong đời người” như
Phương tiên sinh đă dạy tôi xưa kia. Nay chúng ta nói
là “hạnh phúc nhân sinh mỹ
măn”, càng học càng vui sướng. Đúng là pháp hỷ
sung măn, thường sanh tâm hoan hỷ! Đối với
chân tướng của vũ trụ và nhân sinh, rốt cuộc
quư vị hiểu rơ ràng, hiểu rành rẽ, tâm lượng
sẽ mở rộng. Khắp pháp giới hư không giới
là tâm lượng của chính ḿnh, tự nhiên quư vị có thể
bao dung. Tự nhiên sanh khởi tâm từ bi đối với
hết thảy chúng sanh. Từ bi là tâm yêu thương. Tâm
yêu thương b́nh đẳng, tâm yêu thương thanh tịnh,
tâm yêu thương chân thành, tự nhiên sẽ có thể chiếu
cố người khác, chiếu cố hết thảy chúng
sanh. Không chỉ là động vật, thực vật, mà
ngay cả khoáng vật đều chiếu cố. Dùng thiện
ư chân thành của quư vị để truyền đạt
tin tức ấy, truyền đạt luồng sóng tâm ấy,
khiến cho tất cả hết thảy hiện tướng,
không có thứ ǵ chẳng đẹp đẽ, [thế giới
này] sẽ là Hoa Tạng, là Cực Lạc. [Những thế
giới đẹp đẽ ấy] do con người tạo
ra, chẳng phải là vô duyên vô cớ nẩy sanh biến
hóa ǵ, chẳng hề có! Do con người tạo ra. Nói
chung, thiện tâm, thiện ư là thật. V́ sao? Nó có thể biến!
Pháp Tánh là cái có thể hiện. V́ thế, chúng ta khởi tâm
động niệm bèn có thể biến (năng biến), cảnh
giới bên ngoài là cái được biến (sở biến).
Năng và Sở chẳng hai! Chúng tôi nói bài kệ này đến
đây!
Phần 1514
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin mời ngồi xuống.
Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười một,
đoạn thứ hai là phần Xuất Gia Thọ Giới,
xem từ bài kệ tụng cuối cùng [trong phần này].
(Kinh) Thọ Cụ Túc Giới,
đương nguyện
chúng sanh, cụ chư phương tiện, đắc tối
thắng pháp.
(經)受具足戒。當願眾生。具諸方便。得最勝法。
(Kinh: Thọ giới Cụ Túc, nguyện cho chúng
sanh, đủ các phương tiện, đắc pháp tối
thắng).
Quy
củ xuất gia, chúng ta nói là “nghi
quy” (儀規), phải là đến
khi đă thọ Cụ Túc Giới th́ mới coi như hoàn
thành, viên măn. Chư vị đồng học đều biết,
xuất gia nhất định phải thọ tam đàn
đại giới. Trước hết là thọ giới
Sa Di, rồi thọ giới tỳ-kheo, cuối cùng là thọ
Bồ Tát Giới. Đấy là đă “cụ túc” (具足, đầy đủ), chẳng khiếm khuyết. Ở
Trung Hoa, vào thời cổ, tam đàn đại giới chia
thành thọ ba lượt, chẳng phải là đồng
thời. V́ sao? Sau khi đă thọ, phải học, phải
học tập, điều này quan trọng lắm! Nếu thọ
mà chẳng làm được, ví như thọ giới Sa
Di, đă thọ mà chẳng làm được, không chỉ
là chẳng có tư cách thọ giới tỳ-kheo, mà ngay cả
giới Sa Di cũng biến thành hữu danh vô thực. V́ vậy,
cách làm của các bậc đại đức vào thời cổ
là chánh xác.
Thuở
trước, khi tôi mới học Phật, c̣n chưa xuất
gia, vừa mới tiếp xúc Phật pháp. Thầy tôi là Chương
Gia đại sư dạy tôi “học
Phật th́ nhất định phải tŕ giới”. Giới
là giáo huấn của đức Phật. Đă muốn học
Phật, tức là học tập đức Phật, thờ
Phật làm thầy. Quư vị thấy chúng ta xưng niệm
“nam-mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Phật”. “Bổn Sư” (本師) là vị thầy căn bản nhất. Giống như
một cội cây, gốc là căn bản, tất cả thân
cây, cành, nhánh, lá, hoa, quả, đều sanh từ căn bản.
V́ thế gọi là Bổn Sư. Tôn Ngài làm thầy, đương
nhiên phải tiếp nhận giáo huấn của Ngài. Chẳng
tiếp nhận giáo huấn của Ngài th́ tôn Ngài làm thầy
sẽ là hữu danh vô thực, chẳng phải là đệ
tử thật sự của đức Phật.
Đức
Phật chẳng trụ thế. Đức Phật chẳng
đích thân truyền Tam Quy cho quư vị. Nay chúng ta thọ Tam
Quy, đức Phật có thừa nhận hay không, rất có
vấn đề! Dưới điều kiện nào th́ thọ
Tam Quy sẽ được đức Phật thừa nhận?
Từ Tịnh Nghiệp Tam Phước, chúng ta có được
tin tức, quư vị ắt phải trọn đủ “hiếu dưỡng phụ mẫu,
phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết,
tu Thập Thiện Nghiệp”. Quư vị trọn đủ
điều kiện ấy, “thọ
tŕ Tam Quy, đầy đủ các giới”, đức Phật
sẽ thừa nhận quư vị. Trước khi đức
Phật Thích Ca diệt độ, đối với trạng
huống trong hậu thế, Ngài đă hiểu rơ ràng, minh bạch,
đă sớm đặt định sẵn cho chúng ta. Chúng
ta nương theo giáo huấn của Ngài, làm chẳng sai, sẽ
chẳng khác được đức Phật đích thân
truyền trao. Nếu không tuân thủ giáo huấn, sẽ là
sai lầm, đức Phật chẳng thừa nhận. Chúng
ta chớ nên không biết chuyện này!
Trong
thời kỳ Mạt Pháp, đức Phật chẳng thừa
nhận, chúng ta có phải thọ giới hay không? Thầy Lư
dạy tôi: “Trên h́nh thức, vẫn
nên đi thọ giới một phen!” V́ sao? Tránh cho kẻ
khác tạo khẩu nghiệp, hợp lư lắm! Quư vị chẳng
thọ giới mà học giới, người khác sẽ hủy
báng. Nhất là đối với những phần liên quan
đến giới tỳ-kheo trong giới kinh, đức Phật
bảo đại chúng: “Người
chưa thọ giới tỳ-kheo, không nên xem giới của
tỳ-kheo”, [tức là] chớ nên xem giới tỳ-kheo
và giới tỳ-kheo-ni. Có phải là trong đó có bí mật
hay không? Chẳng phải! V́ sao đức Phật chẳng
cho phép quư vị xem? Sợ quư vị tạo khẩu nghiệp.
Quư vị không xem, đối với người xuất
gia rất tôn trọng, đối với tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
quư vị rất tôn kính. Tôn kính là công đức, là tu phước.
Nếu coi thường, hủy báng, sẽ là tạo tội
nghiệp. Quư vị không xem giới luật, chẳng biết
những vị ấy phạm lầm lỗi ǵ, không biết
mà! Sau khi đă xem giới luật, quư vị chỉ ra: “Các
vị xem đó, người xuất gia phạm giới điều
này, giới điều kia cũng phạm luôn!” Chẳng có
tâm cung kính đối với họ, tâm khinh mạn sanh khởi.
Nhằm ngăn ngừa chuyện này, cho nên đức Phật
mới chế định như thế. Do vậy có thể
biết: Đức Phật từ bi, phương tiện,
trong ấy, chắc chắn là chẳng có bí mật. Phật
pháp chẳng có chuyện nào không thể nói với kẻ khác!
Tuyệt đối chẳng có ẩn mật, nhất định
phải hiểu đạo lư này. Biết dụng ư của
đức Phật ở chỗ nào, đối với Phật,
chúng ta tự nhiên sanh ḷng tôn kính khôn sánh: Ngài yêu thương,
bảo vệ chúng sanh, chẳng bỏ sót một điều
nhỏ nhặt nào!
Cách
làm của cổ nhân là chánh xác. Ba lượt thọ giới
chia thành ba thời kỳ. Tối thiểu là phải cách
nhau một năm. Năm thứ nhất thọ giới Sa
Di. Trong một năm ấy, có thật sự làm được
hay không? Thật sự làm được, năm thứ hai
sẽ thọ giới tỳ-kheo. Cũng dùng một năm thời
gian để xét xem có phải là giới tỳ-kheo đều
thực hiện hay không? Chẳng thực hiện, quư vị
lại hành một năm nữa. Nếu thảy đều
làm được, sau một năm nữa mới có thể
thọ giới Bồ Tát, cách này tốt lắm! Chẳng giống
như hiện thời, hiện thời là trong ṿng một
tháng, ba giới đàn đều thọ toàn bộ! [Người
thọ giới] làm được hay không, vị thầy
truyền giới chẳng hỏi đến! Làm kiểu này
thua kém cổ đại đức, cổ đại đức
cẩn thận hơn người hiện thời. Điều
này cho thấy trạng huống thọ giới trong hiện
thời chẳng giống xưa kia!
Chúng
ta xem lời chú giải của Thanh Lương đại
sư cho phần này.
(Sớ)
Cụ Túc Giới ngôn, nghĩa hàm nhị chủng.
(疏)具足戒言,義含二種。
(Sớ: Nói đến Cụ
Túc Giới, bao hàm hai thứ ư nghĩa).
Ở
đây, có hai ư nghĩa.
(Sớ)
Nhất, tắc đại tỳ-kheo giới. Nhị tắc
Bồ Tát giới, diệc chế ư địa,
phương vi Cụ Túc.
(疏)一則大比丘戒,二則菩薩戒,亦制意地,方為具足。
(Sớ: Một
là đại tỳ-kheo giới, hai là giới Bồ Tát,
cũng phải chế ngự tâm ư th́ mới là Cụ Túc).
Ở
đây, trong “thọ Cụ Túc
Giới” có hai ư nghĩa. Nói thật ra, hiện thời tại
Trung Hoa, hai ư nghĩa ấy thảy đều đầy đủ.
Giới tỳ-kheo là giới Tiểu Thừa. Giới Bồ
Tát là giới Đại Thừa. Sự sai biệt giữa
Đại Thừa và Tiểu Thừa, nói thật ra là ở
tâm lượng. Người Tiểu Thừa tâm lượng
nhỏ, người Đại Thừa tâm lượng to.
Người Tiểu Thừa rất câu nệ, cẩn trọng.
Người Đại Thừa cởi mở, xác thực là
khác hẳn! Nhưng đối với kẻ sơ học,
Tiểu Thừa có ưu điểm, có lợi điểm.
Nói chung bằng một câu, trong truyền thống giáo học
Trung Hoa, cũng hết sức coi trọng “tu thân làm gốc”, Tiểu Thừa chú trọng “tu thân làm gốc”. Sau khi đă
tu thân rồi mới tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ.
Phát huy rộng răi điều ấy sẽ là Đại Thừa.
V́ thế, trong kinh Phật Tạng, đức Phật
đă đôi ba lần răn nhắc chúng ta: “Trước là học Tiểu Thừa,
sau là học Đại Thừa”. Cũng là nói rơ: Trước
hết phải tu thân, sau đấy mới có thể giáo
hóa chúng sanh dưới gầm trời, trị quốc, b́nh
thiên hạ. Dần dần mở rộng ra, đấy là chánh
xác. Giáo huấn của đức Phật và truyền thống
giáo học của Trung Hoa, xét theo phương diện này,
hoàn toàn giống nhau!
Nay
chúng ta nh́n vào Phật giáo trong và ngoài nước, các vị
đồng học tại gia và xuất gia, đối với
kinh giáo vẫn c̣n hứng thú tràn trề, đối với
giới luật đều lắc đầu. Rất nhiều
vị lăo cư sĩ học Phật rất khá, nhưng c̣n
có kiến giải sai lầm. Những vị đại pháp
sư xuất gia tôi đă từng thân cận, ở chung với
họ cũng nhiều năm, họ thường nói: “Những
giới nho nhỏ có thể qua loa đôi chút, chẳng cần
so đo!” Điều này có nghĩa là: “Thọ tŕ những
giới trọng trong giới luật”. Giới tỳ-kheo có
bốn giới trọng, “giết, trộm, dâm, dối” là bốn
giới trọng, phải tŕ; những giới khác qua loa một
chút, chẳng sao hết! Chúng tôi là kẻ mới học, tuổi
trẻ, chỉ biết nghe, chẳng dám biện bác, chẳng
dám lắm lời! Học Phật lâu ngày, đọc kinh luận
cũng khá nhiều, lại nh́n vào sự hành tŕ của các vị
tổ sư đại đức từ xưa, từ đó,
tỉnh ngộ: Nếu giới nho nhỏ có thể bỏ,
Thích Ca Mâu Ni Phật lại cần ǵ phải nói? Cũng không
cần phải chế định! Chẳng thể tŕ giới
nho nhỏ, đại giới sẽ chẳng trông mong [giữ
ǵn] được. Những giới nho nhỏ ấy bảo
vệ đại giới, bảo vệ căn bản giới,
làm sao có thể bỏ cho được? “Bỏ” có nghĩa là tùy tiện đôi chút, qua loa đôi
chút, chẳng cần chú trọng! Chẳng thể được!
Có
thể giữ những giới nho nhỏ, sẽ chẳng
phạm đại giới. Có như vậy th́ quư vị mới
có thể “do Giới đắc
Định, do Định khai Huệ”, mới có thể
đạt tới mục tiêu chế giới và giáo học
của đức Phật, chúng ta mới có thể nhập
cảnh giới Phật. Chẳng thể y giáo phụng hành, học Phật kiểu ấy
chỉ có cái danh suông, chẳng được thọ dụng!
Trong xă hội hiện thời, chúng ta thâm nhập quan sát, [sẽ
thấy] hàng tại gia chẳng làm được Thập
Thiện, nói chi là Tam Quy, Ngũ Giới! Xuất gia, thọ
tam đàn đại giới viên măn, [thế mà] Tam Quy Ngũ
Giới đều chẳng làm được. Không chỉ
là Tam Quy và Ngũ Giới chẳng làm được; Thập
Thiện cũng chẳng làm được. Vấn đề
này hết sức nghiêm trọng! Phật pháp suy vi, suy ở
chỗ nào? Suy ở chỗ đệ tử Phật, tứ
chúng tại gia và xuất gia chẳng tŕ
giới, cho nên suy. Chẳng có Nho! Cớ sao chẳng có Nho? Kẻ
học Nho chẳng tuân thủ lễ. Chẳng có Lễ, sẽ
chẳng có Nho! Chẳng có Giới, sẽ chẳng có Phật!
Hiện thời nói đến Nho, đến Phật, nói dễ
nghe hơn một tí, sẽ là hữu danh vô thực. Đúng
như vậy đó, chẳng giả tí nào!
Sách
vở Nho và Phật lưu truyền trên thế gian, chúng ta
đắc lực là do khoa học kỹ thuật phát triển,
thuật ấn loát phát triển. Hiện thời, lưu
truyền những sách vở ấy phí tổn thấp, rất
thuận tiện, in với số lượng lớn để
lưu thông. Đấy là chuyện tốt đẹp. Bản
thân chúng ta chẳng làm được, hy vọng lưu thông,
có người có thể làm được, cũng là chuyện
tốt, cũng là do ḷng tốt, [chuyên làm] công việc lưu
thông với một số lượng lớn. Nếu mong chính
ḿnh đạt được lợi ích chân thật, phải
ghi nhớ, quyết định là phải y giáo phụng
hành. Rất nhiều vị đồng học nói với tôi:
“Tôi thật sự muốn làm, nhưng làm chẳng
được!” Họ đều nói thật, chẳng phải
là không muốn làm, thật sự mong làm, nhưng làm chẳng
được! Do vậy, chúng ta mới lắng ḷng, nghiêm
túc quan sát, tư duy, “muốn làm nhưng chẳng làm
được”, nguyên nhân ở chỗ nào? Nghiệp chướng
quá nặng! Thông thường, trả lời bằng một
câu: “Nghiệp chướng quá nặng, tập khí quá nặng!”
Thế nhưng chúng ta phải hiểu, cổ nhân nghiệp
chướng có nặng hay không, tập khí có nặng hay
không? Chẳng khác ǵ chúng ta trong hiện thời, cũng nặng
nề! Họ dùng phương pháp ǵ để đối
trị, để giải quyết vấn đề này? Họ
dùng giáo dục. Giáo dục nhất định là từ khi
c̣n thơ bé, dễ dạy! Chẳng sợ nghiệp chướng
và tập khí từ vô thỉ kiếp đến nay, chỉ
cần trong đời này quư vị được hưởng
sự giáo dục tốt đẹp, sẽ có năng lực
khống chế.
Do
vậy, từ đây, tôi mới nghĩ đến cách giáo
học từ xưa. Dân tộc Trung Hoa coi trọng giáo dục
nhất, trên cả thế giới chẳng t́m thấy một
dân tộc coi trọng giáo dục như dân Trung Hoa! Giáo dục
bắt đầu từ chỗ nào? Từ tuổi thơ bé,
chú ư nhất vào ba năm [đầu đời]. Cha mẹ
chiếu cố con thơ, suốt ba năm thời thời
khắc khắc chẳng ĺa bên thân, nêu gương tốt
nhất bên cạnh đứa bé, thân giáo đấy. Họ
thực hiện như thế nào? Như những ǵ đă nói
trong Đệ Tử Quy hiện thời: Biểu hiện của
cha mẹ trước đứa con thơ, ba thứ thân,
ngữ, ư đều là dạy dỗ. V́ thế, sau này nó lớn
lên, sẽ biết báo ân cha mẹ, ân đức ấy quá ư
to tát! Cũng từ trước khi tṛn ba tuổi, tức là
từ lúc sanh ra cho đến khi đầy ba tuổi, cha mẹ
đă đặt vững cơ sở thuần thiện thuần
tịnh cho nó. Tuy có phiền năo, tập khí từ đời
quá khứ, vẫn có thể khống chế. V́ thế, ngạn
ngữ Trung Hoa có câu: “Giáo nhi anh
hài, giáo phụ sơ lai” (dạy con từ thuở c̣n thơ,
dạy vợ từ thuở ban sơ mới về). Hai câu
danh ngôn này chính là kiến lập khuôn phép, gương mẫu,
có mối quan hệ rất lớn đối với thời
tiết, nhân duyên, chớ nên sơ sót!
Do
vậy, trải các đời, bất luận là xuất
gia hay tại gia, đă có nhiều người thành tựu ngần
ấy. Chúng ta xem Cao Tăng Truyện, xem Cư Sĩ Truyện,
xem Thiện Nữ Nhân Truyện, có nhiều người thành
tựu ngần ấy, chẳng phải là chuyện ngẫu
nhiên! Hiện thời, chúng ta nẩy sanh vấn đề ở
chỗ nào? Nẩy sanh vấn đề là do chúng ta đă sơ
sót chuyện giáo dục cơ sở. Chúng ta được
sanh ra, trưởng thành, trước khi tṛn ba tuổi, chẳng
được người già dạy dỗ như vậy,
cha mẹ chẳng dạy; người lớn tuổi trong
nhà chẳng dạy, đă hữu ư hay vô t́nh học theo thói
xấu xa! Những điều được tiếp xúc,
mắt thấy tai nghe, thiện ít, ác nhiều; do vậy, bèn
học theo thói xấu! Nhất là trong xă hội hiện thời,
tối đa là thiện được một phần
mười, ác đến chín phần mười! Sau mười
năm, hai mươi năm nữa, có thể là thiện chỉ
được một phần trăm, ác đến chín mươi
chín phần trăm, đáng kinh hăi quá! Bởi lẽ, đại
chúng trong xă hội không thích nghe, không ưa nghe giáo huấn của
thánh nhân, nghe chẳng lọt tai!
Nếu
giáo huấn của thánh hiền bị tuyệt diệt
trong thế gian này, chẳng có ai cần đến, các vấn
đề trong thế giới này sẽ nghiêm trọng. Trong
các tôn giáo ngoại quốc nói đến chuyện tận
thế, khẳng định là có, quyết định chẳng
phải là “gió thổi qua hang trống”.
V́ thế, trong mấy năm gần đây, chúng tôi dốc
nhiều công sức đề xướng học tập
Đệ Tử Quy. Học tập Đệ Tử Quy nhằm
vun quén vững vàng căn cội. Nhà nào, không cần nhiều,
chúng tôi chỉ hy vọng trên toàn thế giới có
được mười nhà. Nhiều hơn, chẳng hy
vọng, chỉ hy vọng trên cả thế giới có
được mười gia đ́nh giác ngộ. Kẻ làm
mẹ thôi làm việc trong xă hội, toàn tâm toàn lực chăm
nom con thơ của chính ḿnh, thực hiện một trăm
phần trăm Đệ Tử Quy. Bà ta bồi dưỡng
một vị thánh nhân, bồi dưỡng một Châu Văn
Vương, bồi dưỡng một Châu Công, bồi
dưỡng một Khổng Tử, bồi dưỡng một
vị Thích Ca Mâu Ni Phật. Có mười bà mẹ có thể
bồi dưỡng mười vị thánh nhân, thế giới
c̣n có cách cứu. Đấy là niềm mong cầu của chúng
tôi. Hy vọng người làm mẹ thật sự giác ngộ,
chẳng cần tranh danh trục lợi với kẻ khác
trong xă hội, hăy về nhà dưỡng dục thánh nhân!
Chuyện
này hết sức vất vả, hăy toàn tâm toàn lực thực
hiện. Dạy dỗ con thơ trong ba năm, dứt bặt
hết thảy các duyên bất hảo. Trẻ thơ vào lúc
ba, hai, một tuổi, vẫn chưa hiểu biết hoàn
toàn, quư vị có thể khống chế toàn diện. Hai, ba
tuổi, nó dần dần hiểu chuyện, nó muốn coi
TV, quư vị không cho nó coi những tiết mục TV, có thể
t́m những đĩa CD của cổ thánh tiên hiền cho nó
xem. Nội dung là luân lư đạo đức, nhân lành quả
lành, nhân ác báo ác, quư vị dạy nó những thứ ấy,
những thứ ấy chính là căn cơ của thánh học.
Quư vị dạy nó như vậy, bản thân quư vị phải
trở thành thánh hiền. Chính ḿnh chẳng phải là thánh hiền,
sẽ không thể dạy ra thánh hiền được!
Trước hết, chính ḿnh phải phát tâm mong thành thánh, thành
hiền, ta hy vọng làm thánh nhân, ta hy vọng làm hiền
nhân, ta hy vọng làm Phật, ta hy vọng làm Bồ Tát. Làm Phật,
làm Bồ Tát chính là “thọ Cụ
Túc giới”, chẳng cần phải thọ tam đàn
đại giới, [mà phải là đối với] những
ǵ đức Phật đă răn dạy quư vị thảy
đều làm được.
Nương
theo sự chỉ đạo từ Tịnh Nghiệp Tam
Phước, đấy là nguyên tắc chỉ đạo
cao nhất để làm Phật, làm Bồ Tát. Hiếu thảo
cha mẹ, tôn trọng thầy được thực hiện
bằng Đệ Tử Quy. Từ tâm, Thập Thiện được
thực hiện bằng kinh Thập Thiện Nghiệp
Đạo. Đó là kinh. Chúng ta đă học từ đại
sư, lại c̣n phải [dùng giáo huấn của] tiểu sư
để bổ trợ. Ấn Quang đại sư giới
thiệu ba bộ sách, Liễu Phàm Tứ Huấn, Cảm Ứng
Thiên Vựng Biên, và An Sĩ Toàn Thư. Ba bộ sách ấy
do tiểu sư, tức tổ Ấn Quang nói, trong các thứ
thiện thư trong thiên hạ, ba thứ ấy là bậc
nhất. Kẻ làm cha mẹ hằng ngày xem đọc, nghiên
cứu, thảo luận, hai vợ chồng có thể cùng
nhau nghiên cứu, thảo luận. Trong nhà lại có anh em
trai, chị em gái, có cùng một chí, vun bồi thánh hiền
trong thế hệ sau ḥng cứu vớt xă hội, cứu vớt
những chúng sanh khổ nạn trên địa cầu. Phải
có hoài băo như vậy, phải có chí khí như vậy, thực
hiện sự nghiệp vĩ đại không ǵ sánh bằng
ấy! Ba mươi năm sau hoặc bốn mươi
năm sau, thế giới này có thể tiến đến ḥa
b́nh, nhân dân mới thật sự sống cuộc đời
hạnh phúc mỹ măn.
Đối
với Bồ Tát Giới, kinh Phạm Vơng là Đại Thừa
Bồ Tát giới. Tại Trung Hoa, kinh Phạm Vơng được
các vị tổ sư đại đức từ thời
cổ phán định là Nhất Thừa giáo. Nhất Thừa
giáo là đạo thành Phật. Trong hết thảy các kinh,
Nhất Thừa giáo được dịch sang tiếng Hán
chỉ có ba bộ, bộ thứ nhất là Hoa Nghiêm, bộ
thứ hai là Pháp Hoa, bộ thứ ba là Phạm Vơng. Những
thứ khác là giáo pháp Đại Thừa. Giáo pháp Đại
Thừa nhằm học làm Bồ Tát, Nhất Thừa giáo là
thành Phật, giống như lớp Tiến Sĩ. Giáo pháp Đại
Thừa giống như lớp Thạc Sĩ. Giáo pháp Tiểu
Thừa là môn học thông thường; khi tốt nghiệp
sẽ có học vị là Học Sĩ (Cử Nhân).
Đối
với Cụ Túc Giới được nói ở đây, quư
vị thấy Thanh Lương đại sư trong lời
chú giải nói là “đại tỳ-kheo
giới”, chẳng phải là tỳ-kheo b́nh phàm! Là loại
thông thường, sẽ chỉ nói là tỳ-kheo, chẳng
thêm chữ Đại vào đằng trước. Đại
tỳ-kheo là Bồ Tát, thường nói là “nội bí Bồ Đề tâm, ngoại hiện tỳ-kheo
tướng” (trong ẩn kín tâm Bồ Đề, ngoài hiện
tướng tỳ-kheo). Nh́n từ bên ngoài th́ là h́nh tướng
tỳ-kheo xuất gia, bên trong là đại Bồ Đề
tâm, đại Bồ Tát. Câu cuối cùng nói hay quá: “Bồ Tát giới, diệc chế
ư địa” (Bồ Tát giới, cũng là chế ngự
ư niệm), đây là chỗ khác với giới tỳ-kheo của
Tiểu Thừa! Giới tỳ-kheo Tiểu Thừa khi kết
tội th́ định tội theo cách nào? Luận sự, chẳng
luận tâm. Trong Tiểu Thừa, ví như sát sanh, kẻ ấy
dấy ư niệm muốn giết người này, nhưng
trên thực tế, kẻ đó chưa ra tay, người này
cũng chưa bị giết, [như vậy th́] chẳng
phạm giới. Ắt cần phải là quư vị đă giết
chết người ấy th́ mới là phạm giới. Chứ
quư vị có ư niệm ấy, chẳng phạm giới. Nhưng
Đại Thừa Bồ Tát kết tội hoàn toàn tương
phản với kiểu này, luận tâm, chẳng luận sự!
Quư vị có ư niệm giết người, tức là đă
phạm sát giới, chẳng cần biết có thực hiện
nơi Sự hay không? Hễ có ư niệm ấy, chính là đă
phá giới, [do vậy], giới Bồ Tát khó tŕ! Hễ Bồ
Tát chẳng động niệm, chẳng có ư nghĩ ấy,
dẫu xác thực giết người, có tội hay không?
Chẳng có tội! Coi như lỗi lầm, kết lỗi,
chẳng kết tội! V́ quư vị chẳng có khởi tâm động
niệm! Hễ khởi tâm động niệm, tuy chẳng
giết người, vẫn có tội! Cách phán định
của Đại Thừa và Tiểu Thừa khác nhau!
V́
thế, phải hiểu, Bồ Tát giới là khởi tâm
động niệm, “ư địa”
(意地) là khởi tâm
động niệm. Đấy mới là thật sự
đầy đủ, giới luật là viên măn. Trộm cắp,
xác thực là chẳng trộm, mà cũng chẳng ăn cắp;
hễ dấy lên ư niệm muốn chiếm đôi chút tiện
nghi của kẻ khác, đă phạm vào giới trộm cắp;
đối với hàng Bồ Tát, đă phạm giới trộm
cắp! Bồ Tát [chú trọng] ở chỗ khởi tâm
động niệm. Theo Tiểu Thừa, trộm cắp th́
nhất định phải có hành vi lấy tài vật của
người khác làm của ḿnh, đấy mới được
coi là trộm cắp! Dẫu khởi tâm động niệm,
nhưng chẳng có hành vi, sẽ chẳng phạm giới. Đại
Thừa và Tiểu Thừa khác nhau. Giới Tiểu Thừa
tuy nhiều, nghiêm ngặt, dễ tŕ. Giới Đại Thừa
tuy giới điều ít, chẳng dễ tŕ. V́ sao? Kết
tội nơi khởi tâm động niệm! V́ sao Bồ
Tát cao hơn Tiểu Thừa, đạo lư ở chỗ này.
Khi
thọ Cụ Túc Giới, đấy là nói theo xưa kia, nhất
là hàng đương cơ của bộ kinh này đều
là Pháp Thân Bồ Tát, hoàn toàn thị hiện làm gương
cho chúng sanh trong chín pháp giới, biểu diễn cho chúng ta thấy.
“Đương nguyện chúng sanh,
cụ chư phương tiện, đắc tối thắng
pháp” (nguyện cho chúng sanh, đủ các phương tiện,
đắc pháp tối thắng), ư nghĩa được bao
hàm trong hai câu này quá ư sâu xa. “Đắc
tối thắng pháp” là phương pháp thù thắng nhất,
không chỉ là chính ḿnh, mà c̣n chung cho hết thảy chúng
sanh. Câu “đương nguyện
chúng sanh” rơ ràng lắm! Hết thảy chúng sanh đều
trọn đủ các phương tiện, đều đắc
pháp tối thắng. Nhưng “cụ
chư phương tiện, đắc tối thắng pháp”
(đủ các phương tiện, đắc pháp tối
thắng) tức là chính ḿnh thọ Cụ Túc Giới, biểu
diễn cho mọi người thấy.
Hiện
thời, chúng ta thực hiện như thế nào? Học bằng
cách nào? Chúng ta có thể biểu hiện viên măn Đệ Tử
Quy trong cuộc sống hằng ngày, tức là “thọ Cụ Túc Giới”, tăng
tấn từng bước một. Đấy là ǵ? Trọn
đủ giới pháp nhân thiên, tâm lượng chẳng lớn.
Thực hiện viên măn Đệ Tử Quy, mỗi câu trong
ba trăm sáu mươi câu đều làm được, đó
là nhân thừa Phật pháp. Nếu quư vị mở rộng
tâm lượng, niệm nào cũng đều mong lợi ích
chúng sanh, giúp chúng sanh giác ngộ, giúp chúng sanh tích lũy công
đức, giúp chúng sanh thi hành Đệ Tử Quy. Thi hành Đệ
Tử Quy là tích lũy công đức, chính quư vị biểu
diễn cho người khác thấy, ảnh hưởng người
khác, giúp đỡ người khác đầy đủ các
phương tiện. Sau khi đă thi hành Đệ Tử
Quy, toàn thể vận mạng của họ thay đổi,
chuyển bần cùng thành phú quư, chuyển ngu si thành trí huệ,
chuyển ác thành thiện, chuyển phàm thành thánh, là thánh hiền
trong thế gian, đắc pháp tối thắng!
Trong
Phật môn thường nói: “Phật
thị môn trung, hữu cầu tất ứng” (trong cửa
nhà Phật, có cầu ắt ứng), lời này là thật, chẳng
giả! Nếu quư vị mong “có
cầu ắt ứng, tâm tưởng sự thành”, quư vị
phải hiểu đạo lư, lại c̣n phải hiểu phương
pháp, đúng lư đúng pháp tu học, quư vị sẽ chứng
minh hai câu ấy là lời thật, chẳng giả. Thuở
ấy, tôi hai mươi sáu tuổi, lúc mới học Phật,
Chương Gia đại sư dạy tôi, tôi nghe [hai câu ấy]
hết sức hoan hỷ. Cuộc sống lúc ấy rất
khổ sở, rất gian nan. Thầy dạy tôi: “Khi anh có cầu, mà chẳng cầu
được, có cầu mà chẳng ứng, đó là do
nguyên nhân ǵ? Chính ḿnh có nghiệp chướng, nghiệp
chướng chướng ngại sự cảm ứng,
cho nên chẳng cầu được! Khi ấy, làm như
thế nào? T́m ra nghiệp chướng, tiêu trừ nghiệp
chướng, điều chúng ta cầu nguyện sẽ tự
nhiên hiện tiền”. Lăo nhân gia nói rơ ràng, nói minh bạch.
Có cầu chẳng ứng, ngàn muôn phần chớ nên oán trời,
hờn người, chê Phật, Bồ Tát chẳng linh, sai
mất rồi! Quư vị chẳng biết chính ḿnh có nghiệp
chướng, c̣n nói “Phật, Bồ
Tát chẳng linh”, tội chồng thêm tội, nơi chướng
ngại lại tăng thêm một tầng chướng ngại
nữa, làm sao quư vị có thể “có cầu ắt ứng” cho được? Làm sao
quư vị có thể “tâm tưởng
sự thành” cho được?
Nếu
đại sư chẳng giải thích cặn kẽ đạo
lư này cho chúng tôi, chúng tôi chẳng biết, chẳng nghĩ
thông suốt được! Nh́n vào hoàn cảnh chung quanh, hễ
người học Phật chẳng cầu được,
luôn nói: “Phật, Bồ Tát chẳng
linh”. Chúng ta chẳng thể tin tưởng, tức là tin
vào chuyện ấty (Phật, Bồ Tát chẳng linh), chính
ḿnh bị thua thiệt. Chẳng biết lỗi ở chính
ḿnh, lầm lạc trách móc người khác. Ngay cả như
Nho gia nói “hành hữu bất
đắc, phản cầu chư kỷ” (có chuyện ǵ
làm không được, hăy quay lại xét ḿnh) cũng nhằm
ư nghĩa này! Người niệm tụng hai câu này (“hữu cầu tất ứng,
tâm tưởng sự thành”) rất nhiều, kẻ hiểu
ư nghĩa chẳng nhiều, kẻ y giáo phụng hành càng ít!
V́ thế, chúng ta đọc kinh, hiểu rơ, Bồ Tát tự
ḿnh làm được, sau đấy mới yên tâm dạy người
khác, tuyệt đối chẳng có lầm lỗi. Chính ḿnh
đầy đủ các phương tiện, đắc pháp
tối thắng; v́ thế, tín tâm vẹn mười, dùng phương
tiện thiện xảo để thành tựu người
khác.
Sự
nghiệp đáng khen ngợi nhất trong thế gian, sự
nghiệp đáng được người khác tôn kính nhất
là cứu độ chúng sanh. Chư Phật, Bồ Tát,
đại thánh, đại hiền, đều theo đuổi
sự nghiệp này, cứu độ hết thảy chúng
sanh khổ nạn, chính ḿnh đă làm được. Phật
pháp “từ bi làm gốc,
phương tiện làm cửa”, đầy đủ vô
lượng phương tiện, khiến cho hết thảy
chúng sanh: Bản thân họ, gia đ́nh, sự nghiệp, xă hội
đều có thể đạt tới hạnh phúc mỹ
măn; đấy là “đắc pháp
tối thắng”. Nay thời gian đă hết rồi, chúng
ta nghỉ ngơi mấy phút!
***
Chư
vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Hăy
xem tiếp đoạn thứ ba kế đó:
(Sớ)
Minh tựu tọa Thiền Quán thời nguyện.
(疏)明就坐禪觀時願。
(Sớ: Các nguyện nói về khi tọa Thiền
Quán).
Đoạn
thứ ba gồm bảy nguyện, nói về chuyện tọa
Thiền Quán. Trong chú giải, Thanh Lương đại
sư đă nói rơ, trong bảy nguyện ấy, bốn nguyện
đầu…
(Sớ)
Vị tu phương tiện, thứ nhị chánh tu Chỉ
Quán.
(疏)為修方便,次二正修止觀。
(Sớ: Nhằm tu phương tiện, hai nguyện
kế đó là tu tập Chỉ Quán).
Nguyện
cuối cùng là…
(Sớ)
Tu hành sự ngật.
(疏)修行事訖。
(Sớ: Chuyện tu hành đă xong).
Nói
chung, tu học Phật pháp chẳng ĺa khỏi Thiền, các
đồng học chúng ta phải ghi nhớ điều này!
Thiền được nói theo nghĩa rộng, chẳng phải
là nghĩa hẹp! V́ hiện thời, ai nấy nghe chữ
Thiền luôn nghĩ là “tham Thiền
đả tọa”, pháp ấy thuộc về Thiền. Họ
chẳng biết nghĩa rộng của Thiền! Tám vạn
bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn, chẳng có môn nào
không phải là tu Thiền. Sau Thiền, c̣n có thêm chữ Quán,
nhằm nhắc nhở chúng ta, đây nghĩa rộng, chẳng
phải là nghĩa hẹp! Trong Tông Môn gọi là Thiền Định,
trong Giáo Hạ gọi là Chỉ Quán. Quư vị thấy lời
Sớ dùng Thiền, dùng Quán, Tông Môn lẫn Giáo Hạ đều
được bao gồm trọn vẹn.
Tại
Trung Hoa, mười tông phái Đại Tiểu Thừa, ngoài
Thiền Tông ra, chín tông phái kia đều được gọi
chung là Giáo Hạ, [cho nên Phật pháp được nói chung
là] Tông Môn Giáo Hạ. Vào thời cổ, chữ “tôn giáo” (宗教) trong Phật giáo chẳng giống như tôn giáo (Religion)[3]
trong hiện thời! Tôn giáo [trong Phật giáo] là nói đến
Tông Môn và Giáo Hạ, có ư nghĩa này, chẳng dính dáng ǵ đến
chữ tôn giáo (Religion) trong hiện thời! V́ phương
pháp tu học của chúng ta khác nhau, Tông Môn là “ngộ hậu khởi tu”,
[nghĩa là] trước hết cầu khai ngộ, sau đấy
mới tu hành. “Tu hành” là sửa
đổi những hành vi sai lầm. Giáo Hạ có phương
pháp khác hẳn. Họ tu hành chẳng cần cầu khai ngộ
trước; trước tiên, họ học tập giáo lư,
giáo nghĩa, sau đấy sẽ dần dần khai ngộ.
V́ thế, Giáo Hạ là tiệm ngộ, dần dần, thong
thả. Tông Môn nói “đốn
ngộ”. Chúng tôi thường nói Tông Môn là lớp học
dành cho những kẻ thiên tài, chẳng phải là lớp b́nh
phàm, [mà dành cho] bậc thượng thượng căn, kẻ
căn tánh trung hạ sẽ học Giáo, [Giáo Hạ] giống
như trường học thông thường, c̣n Tông Môn là
trường học đặc thù, là lớp học dành cho
những bậc thiên tài! Căn tánh của đại đa
số người b́nh phàm là căn tánh trung hạ; v́ thế,
nhập môn từ Giáo Hạ sẽ dễ dàng hơn, nhập
môn từ Tông Môn rất khó khăn.
Ba
vị thầy của tôi chưa hề gặp nhau, nhưng
dạy tôi, ngôn ngữ gần như đều nhất trí,
quư vị nói xem, tôi có thể chẳng tin tưởng hay
sao? Ba vị thầy đều dạy tôi nhập môn từ
Giáo, quyết định chẳng cần dính dáng đến
Tông! Các Ngài hoàn toàn khẳng định bảo tôi: “Tông dành cho bậc thượng
thượng căn, anh chẳng phải là căn tánh
thượng thương căn. Nếu anh học Thiền,
sẽ chẳng khai ngộ, chẳng phải là căn tánh ấy”.
Ba vị thầy đều nói [quả quyết như vậy],
tôi chẳng thể không tin tưởng. V́ lúc tiếp xúc ban
đầu, nói thật ra, trước khi tôi học Phật,
có xem một quyển sách Phật, tức bản tiên chú[4] Lục
Tổ Đàn Kinh của cư sĩ Đinh Phước Bảo,
tôi xem thấy rất thú vị. Quư vị thấy một
quyển sách dầy như vậy, khi đó, bản tôi đọc
là loại sách khâu gáy bằng chỉ, thuộc loại bản
in xưa. Tôi ở nhà một người bạn, nhằm kỳ
nghỉ bèn ở nhà anh ta ba, bốn ngày. Trong thời gian ba
bốn ngày bèn xem tác phẩm ấy, càng xem càng thấy thú vị.
Đọc xong quyển sách ấy, rất hứng thú. V́ thế,
thầy từng hỏi tôi: “Anh đă xem sách Phật nào rồi?”
Tôi liền kể về quyển sách ấy. Thầy bảo:
“Rớ đến thứ ấy chẳng được đâu!
Tuyệt đối chẳng hợp với căn tánh của
anh!” Thầy Phương, Chương Gia đại sư,
thầy Lư, ba vị đều nói như vậy!
Nhưng
tôi đối với Đàn Kinh trọn chẳng giảm bớt
hứng thú, bất quá tôi đối với Giáo bèn hết sức
chú ư. Nhưng đối với Giáo, thầy Phương dạy
tôi Hoa Nghiêm, phải coi trọng Hoa Nghiêm. Thầy nói Hoa
Nghiêm là khái luận triết học trong kinh Phật. Thầy
coi bộ kinh ấy thuộc vào tầng cấp đó, kinh ấy
là khái luận triết học của kinh Phật,
được biên soạn hết sức hay! Thầy nói các
sách triết học trên thế giới chẳng có thứ nào
có thể sánh bằng kinh Hoa Nghiêm! Kinh có lư luận, có phương
pháp, cuối cùng có năm mươi ba lần tham học, tức
là c̣n kèm thêm biểu diễn. Sách triết học trên toàn thể
thế giới chẳng có quyển nào hoàn bị như vậy!
Đấy là khi tôi vừa mới tiếp xúc, thầy giới
thiệu cho tôi. V́ thế, trong kinh điển nhà Phật,
thầy giới thiệu bộ này. Thầy giới thiệu
những kinh sách khác thuộc về Tướng Tông, tức
Pháp Tướng Duy Thức. Thầy bảo: “Anh có thể học
những thứ ấy, sẽ có lợi cho anh”. Hoa Nghiêm cũng
là một trong sáu bộ kinh của Pháp Tướng Tông. Khóa
tŕnh căn bản của Pháp Tướng Tông gồm có sáu
bộ kinh, mười một bộ luận[5].
Trong sáu kinh, mười một luận, Hoa Nghiêm là một
trong sáu kinh. V́ Hoa Nghiêm bảo toàn thể vũ trụ là “duy tâm sở hiện, duy thức
sở biến”. Do vậy, Pháp Tướng Duy Thức Tông
cũng lấy bộ kinh này làm khoa mục cơ bản của
họ.
Do
đó, tọa Thiền, tu Quán, sau khi đă thọ giới
phải dụng công. Không chỉ là có lư luận, mà c̣n phải
có thực tiễn, biến lư luận thành cuộc sống
th́ mới thật sự được thọ dụng. Nếu
những ǵ đă học chẳng dùng được, chẳng
có mảy may ư nghĩa nào, sẽ biến thành huyền học!
Phật pháp chẳng phải là huyền học. Phật pháp
là một môn học vấn hết sức thực tế, cổ
nhân gọi [Phật pháp] là “thật
học” (實學), tức là một môn học vấn thực tại,
học rồi lập tức sử dụng ngay, học rồi
phải áp dụng! Đă học bèn lập tức có lợi,
thật sự chuyển biến cảnh giới, khiến
cho tất cả phiền năo, ưu lự, khổ nạn của
quư vị đều bị hóa giải. Đấy là một
nhu cầu bức thiết cho xă hội hiện thời, nhưng
chẳng có ai nói rơ ràng, nói minh bạch! Đấy là một
chuyện đáng tiếc nuối khôn sánh!
Có
một số ít người hữu duyên, mọi người
cùng nhau thông qua mạng Internet, hoặc truyền h́nh vệ
tinh, cùng nhau học tập, chẳng có ai không được
thọ dụng. Có đồng học ở hải ngoại
báo tin, tại Âu Mỹ có không ít đồng học hằng
ngày muốn xem, hằng ngày muốn học. Họ nói nếu
một ngày chẳng xem, chẳng học, chẳng biết sống
ngày ấy như thế nào! Tôi tin tưởng lời ấy.
V́ sao? Tôi cũng có cùng cảm giác với mọi người:
Chỉ có học tập Phật pháp, thực hiện Phật
pháp, sẽ có niềm vui trong ấy. Xác thực là như Phu
Tử đă nói: “Học nhi thời
tập chi, bất diệc duyệt hồ?” (học rồi
thường xuyên tập luyện, cũng chẳng vui ư?),
pháp hỷ sung măn, thường sanh tâm hoan hỷ. Đấy
là thật, chẳng giả! Do vậy, sau khi đă thọ
giới, phải thật sự thực hiện!
“Tọa Thiền Quán”: Tọa
là ǵ? Thiền là ǵ? Quán là ǵ? Phải hiểu rơ ba chữ ấy.
Ba chữ ấy chính là trung tâm của Phật pháp. Đối
với Tọa, dùng theo ư nghĩa, chẳng phải là hiểu
theo mặt Sự, chẳng phải là bảo quư vị hằng
ngày tĩnh tọa. Quư vị có cách nh́n như thế (tức
hiểu Tọa là tĩnh tọa) th́ đă hiểu sai ư nghĩa
mất rồi. “Tọa” là ǵ?
Chính là trong bốn thứ oai nghi của con người, tức
là trong bốn tư thái, hành (行) là đi lại, trụ (住) là đứng bất động, tọa (坐) là ngồi xuống, ngọa (臥) là tối nằm ngủ trên giường. Quư vị
thấy trong bốn tư thế đi, đứng, ngồi,
nằm như thế ấy, ngồi là ổn định
nhất. Nhất là ngồi xếp bằng tĩnh tọa, quư
vị thấy dáng vẻ ấy, phía dưới lớn, phía
trên nhỏ, giống như một quả núi, hết sức
ổn định, mang ư nghĩa này, chẳng phải là thật
sự ngồi! “Tọa” là bất
động, thứ ǵ bất động? Tâm bất động,
chẳng phải là thân. Tức là mong cho chúng ta trong cuộc
sống hằng ngày, hết thảy thời, hết thảy
chỗ, sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần bèn
chẳng động tâm. Đó gọi là Tọa.
Thiền
là ǵ? Thiền là chẳng chấp tướng. Chẳng chấp
tướng bèn gọi là Thiền. Kinh Kim Cang dạy: “Chẳng chấp lấy tướng,
như như bất động”, “như như bất động” là Tọa; Tọa
là Định, có ư nghĩa Định. Thiền là chẳng
chấp tướng, chẳng giữ lấy tướng, đừng
nên ghim tất cả cảnh giới bên ngoài vào ḷng, cũng
là như chúng ta nói “buông xuống”.
“Quán” là hiểu rơ chân tướng sự thật. Quán là
thấy thấu suốt. Thiền là buông xuống. Buông xuống
và thấy thấu suốt là một chuyện, chẳng phải
là hai chuyện. Kinh Đại Thừa thường nói: “Tịnh cực quang thông”, [nghĩa
là] tâm thanh tịnh đạt đến một mức độ
nhất định, trí huệ sẽ hiện tiền. Trí
huệ là Quán, hiểu rơ. Do vậy, “hết thảy các pháp vô sở hữu, rốt ráo
không, chẳng thể được”, đấy là Quán.
Quư vị đă hiểu rơ, có c̣n chấp trước hay không?
Có c̣n phân biệt hay không? Có c̣n khởi tâm động niệm
hay không? Đương nhiên là chẳng có, đó gọi là “tọa Thiền Quán thời”,
đấy chính là thật sự dụng công. Phương
pháp th́ tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn,
phương pháp quá nhiều! Pháp môn dẫu nhiều đến
mấy đi nữa, quư vị tu ǵ vậy? Chính là tu “tọa Thiền Quán”, ba chữ
ấy đă gồm trọn toàn bộ sự tu hành trong Phật
môn. Lại nói đơn giản hơn một chút, “tọa Thiền Quán” chẳng
dễ hiểu, thay đổi danh từ, quư vị sẽ dễ
hiểu hơn. Chương Gia đại sư dạy tôi,
“thấy thấu suốt, buông
xuống”. Quán là thấy thấu suốt, tọa Thiền
là buông xuống. Dùng “thấy thấu
suốt, buông xuống”, chúng ta nghe thấy rất thuận
tai, dường như chẳng khó hiểu, [chỉ là danh từ
khác nhau], cùng một ư nghĩa!
Từ
Sơ Phát Tâm cho đến địa vị
Như Lai, tu ǵ vậy? Chính là tu những điều này. Thấy
thấu suốt giúp quư vị buông xuống, buông xuống
giúp quư vị thấy thấu suốt. Hai phương pháp ấy
giúp đỡ lẫn nhau thành tựu, tuy một mà hai, tuy
hai mà một, từ Sơ Phát Tâm cho đến địa vị
Như Lai. Duyên phận của tôi xác thực là rất khó có,
ngày đầu tiên gặp gỡ một vị xuất gia,
Ngài liền đem phương pháp này truyền cho tôi. Thuở
ấy, tôi vẫn không biết thực hiện từ chỗ
nào, thỉnh giáo thầy, thầy dạy tôi: “Bố thí”. Hăy
thực hiện từ bố thí! Thứ ǵ cũng đều
có thể bố thí, đều phải nên bố thí. Bố
Thí là xả, bố thí là thật sự thực hiện buông
xuống, từ trong ra ngoài, trong và ngoài như nhau, quư vị
mới có thể khai trí huệ. V́ sao? Xả trừ phiền
năo! Kẻ b́nh phàm chẳng thể xả là do ǵ? Keo tham, tập
khí quá nặng! Chẳng đạt được bèn mong đạt
được, tâm tham mà! Đă đạt được,
chẳng chịu thí xả, không chịu buông xuống. Đấy
chính là tập khí phiền năo. Tập khí phiền năo nặng
nề, chướng ngại trí huệ và đức tướng
vốn sẵn có trong tự tánh, thảy đều bị
chướng ngại.
V́
thế, đức Phật dạy chúng ta, hết thảy
chúng sanh và chư Phật Như Lai trí huệ b́nh đẳng,
đức năng b́nh đẳng, tướng hảo (người
Hoa nói là “phước báo”) cũng
là b́nh đẳng, chẳng có mảy may sai biệt. V́ sao [những
thứ ấy ở nơi] Phật đều hiện ra.
Trí huệ, đức năng, phước báo của đức
Phật khiến cho kẻ khác hâm mộ, chúng ta cũng có, v́
sao chẳng hiện ra, sống cuộc đời bần cùng,
khổ nạn? V́ sao? Chúng ta đă mê mất tự tánh, bị
phiền năo khống chế. Quư vị chẳng ĺa phiền
năo, làm sao Tánh Đức có thể hiện tiền? V́ thế,
[cần phải] thấy thấu suốt. Thấy thấu
suốt là ǵ? Tự tánh vốn sẵn đủ, là thật,
là vĩnh hằng. Vô lượng vô biên phiền năo là giả,
chẳng thật, sanh từ mê hoặc. Chỉ cần giác
ngộ, phiền năo sẽ chẳng có, quư vị phải thấy
thấu suốt chuyện này! Dùng phương pháp ǵ để
khôi phục Tánh Đức? Dùng tọa Thiền, cũng có
nghĩa là dùng buông xuống, chẳng c̣n chấp trước,
chẳng c̣n phân biệt, chẳng c̣n khởi tâm động
niệm, Tánh Đức sẽ khôi phục viên măn. V́ vậy,
Phật pháp nói “có cầu ắt
ứng, tâm tưởng sự thành”, nó chẳng phải
là từ bên ngoài. [Nếu là] bên ngoài, quư vị có mong, cũng
chẳng thể đạt được, chẳng thể
thành tựu. Toàn là do tự tánh biến hiện, “duy tâm sở hiện, duy thức
sở biến”, làm sao có thể chẳng cầu
được, há có lẽ ấy!
Do
vậy, phải nhận biết rơ ràng ba chữ này, hiểu
ư nghĩa của chúng, quư vị mới biết trong Phật
môn tu ǵ? Chính là tu ba chữ này! Sau khi đă thọ giới,
phải thật sự dụng công. Ba chữ này triển
khai ra, sẽ là Phật pháp. Tại Trung Hoa, nói là mười
tông phái, tức là vô lượng pháp môn. Bốn bài kệ
đầu [trong phần này] nhằm dạy về phương
tiện, chúng ta hăy xem Văn Thù Bồ Tát dạy chúng ta học
tập như thế nào.
(Kinh)
Nhược nhập đường vũ, đương
nguyện chúng sanh, thăng vô thượng đường,
an trụ bất động.
(經)若入堂宇。當願眾生。昇無上堂。安住不動。
(Kinh: Nếu vào điện đường, nguyện
cho chúng sanh, lên nhà vô thượng, an trụ bất động).
“Đường” (堂), nh́n vào tên, bèn nghĩ tới ư nghĩa. “Đường vũ” (堂宇) là ǵ? Thiền đường, niệm Phật
đường, giảng đường, pḥng học, quư
vị muốn đến đó tu hành. Cũng phải hiểu
rơ hai chữ “tu hành”. “Tu” là sửa
đổi, “hành” là hành vi. Hành
vi của chúng ta có sai lầm, hăy sửa đổi hành vi
cho đúng, đó gọi là “tu
hành”. Bất luận là Thiền đường cũng
thế, mà niệm Phật đường cũng thế,
giảng đường cũng thế, đều gọi
là đạo tràng tu hành, là nơi chốn để tu hành.
Phương pháp tu hành dẫu nhiều đến mấy,
quy nạp lại, chẳng ngoài bốn loại lớn. Loại
thứ nhất là tu Thiền; loại thứ hai là Giáo Hạ,
tu Chỉ Quán; loại thứ ba là tŕ chú, là pháp tu trong Mật
Tông; loại thứ tư là tŕ giới, là pháp tu trong Luật
Tông. Chẳng ngoài bốn loại lớn ấy. Niệm Phật
thuộc loại nào? Niệm Phật thuộc loại Chỉ
Quán, tức Giáo Hạ. Chỉ là ngưng lặng, buông xuống
vọng tưởng, tạp niệm. Quán: Chúng ta quán một
câu Phật hiệu. Cách niệm Phật như thế nào? Tâm
phải chuyên chú nơi Phật hiệu. Trong tâm tưởng
Phật, miệng niệm Phật, thân lạy Phật, lễ
Phật. Buông xuống vạn duyên là Chỉ, nhất tâm xưng
niệm là Quán. Trên h́nh thức th́ có bốn loại, nhưng
phương hướng và mục tiêu chẳng khác ǵ nhau,
hoàn toàn là nhất trí, thảy đều là tu cái tâm thanh tịnh.
Tâm
thanh tịnh là chân tâm. Kinh Kim Cang dạy: “Tín tâm thanh tịnh, tắc sanh Thật Tướng” (tín
tâm thanh tịnh bèn sanh Thật Tướng). Thật Tướng
là trí huệ. Tâm thanh tịnh đến một mức
độ nhất định, trí huệ sẽ hiện tiền.
Nương theo phương pháp này để tu hành, đấy
là Giới. V́ thế nói “nương
vào Giới để đắc Định, nương
vào Định để khai Huệ”. Tất cả bất
luận là giảng đường, Thiền đường,
niệm Phật đường, giới đường, hay
giảng đường, đều là Chỉ Quán,
phương hướng và mục tiêu nhất trí. Trong kinh
Kim Cang, đức Phật đă diễn tả điều
này là
“pháp môn b́nh đẳng, chẳng
có cao thấp”. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng
pháp môn, chẳng khác ǵ nhau, đều nhằm thành tựu học
nhân. Bài kệ này có ư nói quư vị tiến nhập nơi tu
hành, đạo tràng của chúng ta tuy rất nhỏ, vẫn
có hai “đường”. Một
là giảng đường, hai là niệm Phật đường.
Tầng chín là niệm Phật đường, tầng
mười một là giảng đường. Tuy rất
nhỏ, đều rất đúng pháp. Giảng đường
hằng ngày giảng kinh, niệm Phật đường hằng
ngày niệm Phật. Nh́n từ h́nh thức, được
lắm chớ! Nhưng điều quan trọng nhất là hiệu
quả, nghe giảng kinh hằng ngày trong giảng đường,
có giác ngộ hay không? Điều này rất quan trọng.
Đấy là thành tích. Thường xuyên nghe, giác ngộ, hiểu
rơ. Sau khi đă giác ngộ, phải sửa đổi. Sửa
đổi hết thảy những lỗi lầm nơi xử
sự, đăi người tiếp vật trong cuộc sống
hằng ngày. Đấy là tu hành, tức là sửa đổi
cho đúng những hành vi sai lầm!
Nếu
hằng ngày nghe kinh, hoàn toàn chẳng đổ công dốc sức
nghiêm túc sửa lỗi, đấy là chẳng tu hành. Tuy chẳng
có hiệu quả, chẳng thể nói là không có điều
tốt đẹp nào! Có một chút điều lợi, điều
lợi ǵ vậy? Nghe kinh nhiều năm ngần ấy, trong
A Lại Da Thức đă gieo chủng tử Phật, tăng
trưởng những chủng tử kinh giáo. Nhưng suốt
đời này chẳng thực hiện, chẳng nghiêm túc hành
tŕ, vẫn y hệt như cũ, chẳng thể thoát khỏi
lục đạo luân hồi. Niệm Phật, chẳng thể
buông thân, tâm, thế giới xuống, sẽ chẳng thể
văng sanh, [chỉ là] kết duyên cùng A Di Đà Phật, đời
sau gặp duyên, sẽ lại tiếp tục hành tŕ! Nay
chúng ta ở trong niệm Phật đường, giảng
đường, nghe kinh, niệm Phật, hăy c̣n có ḷng hứng
thú to lớn như vậy là do nguyên nhân nào? Do đời
đời kiếp kiếp trong quá khứ cũng thích làm. V́
sao chẳng thể văng sanh? Chẳng nghiêm túc thực hiện.
Đời này vẫn giống hệt như quá khứ; vậy
th́ sẽ đợi đến đời sau hay đời
sau nữa! Nếu đời này giác ngộ, ta phải thật
sự hành, đừng nên lầm lỡ nữa! Đời
này ta phải quyết định văng sanh thế giới Cực
Lạc. Quư vị rất dụng tâm nghe, rất nghiêm túc niệm,
rất nghiêm túc buông xuống muôn duyên, vậy th́ chúc mừng
quư vị, khẳng định quư vị thành công trong đời
này. Đúng là “vạn người
tu, vạn người đến”, chẳng có một ai
không thành tựu! Thật đấy, chẳng giả đâu
nhé! V́ thế, “đường
vũ” là chỗ tu hành chân chánh, tức là giảng
đường, Thiền đường, niệm Phật
đường, giới đường.
Hằng
ngày chúng ta đều bước vào đó, có phát nguyện
này hay không? “Đương nguyện
chúng sanh, thăng vô thượng đường, an trụ
bất động” (nguyện cho chúng sanh, lên nhà vô
thượng, an trụ bất động). Hai câu sau này và
những điều đă nói trong phần trước có cảnh
giới hoàn toàn giống nhau, tức là chính ḿnh có nguyện
tâm ấy, chính ḿnh phải nghiêm túc thực hiện th́ mới
có thể sanh ra ảnh hưởng. “Vô thượng đường” là nơi nào vậy?
Chính là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, là quả địa
Như Lai rốt ráo! Nếu tâm nguyện của chúng ta an trụ
nơi ấy, bất động, chẳng thoái chuyển, chẳng
lay động, nhất tâm nhất ư chỉ mong làm Phật,
đó là đúng. Nếu ai phát nguyện ấy, sẽ là Vô Thượng
Bồ Đề tâm. Niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ, v́ sao cầu sanh Tịnh Độ? Hy vọng
đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, thành
tựu Phật quả rốt ráo ngay trong một đời.
Đấy chính là “thăng vô
thượng đường, an trụ bất động”
đang nói ở đây! Đấy mới là đại sự
bậc nhất trong đời người. Những thứ
khác đều là “lông gà, vỏ
tỏi” (chuyện vụn vặt) chẳng đáng nhắc
tới! Các thứ thị hiện nhằm làm cho người
thế gian thấy. Người thế gian chẳng biết
luân lư, chẳng biết đạo đức, chẳng có đạo
nghĩa, mà cũng chẳng hiểu nhân quả; do vậy, vẫn
phải thị hiện đủ thứ cho bọn họ.
Đó là chuyện kèm theo, điều quan trọng nhất là
phải cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Chuyện
này nói dễ dàng, thực hiện khó khăn khôn sánh! Dẫu
khó khăn, chẳng thể không làm! Làm từ nơi đâu?
Phật, Bồ Tát từ bi tột bậc, trong thời kỳ
Mạt Pháp, Thích Ca Mâu Ni Phật và A Di Đà Phật đă v́
chúng ta mở ra pháp môn phương tiện “đới nghiệp văng sanh”, giúp chúng ta thành tựu
trong một đời, từ bi cùng cực! Nếu chẳng
có pháp môn này, trong các buổi giảng trước kia, tôi
thường đề cập, Phật đă nói giỡn với
chúng ta. Cớ sao là nói giỡn? Nhử mồi! Quư vị làm
không được, chẳng phải là [đức Phật]
đă nói uổng công ư? Có pháp môn này th́ mới là từ
bi chân thật. Nói ra đủ mọi pháp môn, khiến cho quư
vị hâm mộ, nhưng thật sự làm không được;
thế nhưng Ngài nói ra pháp môn này, quư vị liền biết
ngoài tám vạn bốn ngàn pháp môn, hăy c̣n có một môn Phật
pháp “thành tựu ngay trong một
đời”. Chúng ta mới hiểu: Niệm Phật cầu
văng sanh là “thăng vô thượng
đường”. Hiện thời, điều quan trọng
nhất là chúng ta đối với pháp môn này phải “an trụ bất động”,
quư vị mới có thành tựu. Niệm Phật mà c̣n ưa
chuộng pháp môn khác, đó là xen tạp! Xen tạp, công phu sẽ
chẳng thuần, chính ḿnh lỡ làng cơ duyên quá tốt đẹp
trong một đời này, quá đáng tiếc!
Có
đồng tu ở phương Bắc kể với tôi, ở
phương Bắc thịnh hành luyện công, hỏi tôi: “Niệm
Phật có thể luyện công hay không? Luyện công có gây trở
ngại cho niệm Phật hay không?” Chính quư vị hăy tự
suy nghĩ, có trở ngại hay không? Nếu có trở ngại
khiến cho quư vị phân tâm, tâm quư vị chẳng thể chuyên
nhất, quư vị phải suy xét, rốt cuộc là học
luyện công hay là học niệm Phật? Luyện công có chút
hữu ích khiến cho thân thể khỏe mạnh, niệm Phật
càng hữu ích cho sức khỏe. V́ sao? Quư vị đến
hỏi tiến sĩ Giang Bổn Thắng của Nhật Bản,
ông ta sẽ nói cho quư vị biết. Trong tâm chỉ có A Di
Đà Phật, những thứ khác đều chẳng có, mỗi
tế bào, mỗi khí quan trên thân thể quư vị đều
là hoàn mỹ nhất, cái thân thể ấy c̣n có thể chẳng
khỏe mạnh ư? Trong giáo pháp Đại Thừa, đức
Phật thường dạy: “Cảnh
chuyển theo tâm”. Tâm của quư vị biến thành A Di
Đà Phật. A Di Đà Phật vô lượng quang thọ,
A Di Đà Phật thân kim cang bất hoại, tâm đă là Phật
tâm, lẽ nào thân chẳng phải là Phật thân? Quư vị
hăy suy nghĩ đạo lư này! C̣n có pháp môn nào có thể sánh
bằng nó? V́ sao quư vị c̣n phải học chi khác? Đối
với pháp môn này, quư vị chẳng có đủ tín tâm, vẫn
c̣n mong t́m thứ khác để giúp đỡ, để phụ
trợ. Sai mất rồi! Không cần thiết! Thứ ǵ cũng
chẳng cần!
Vấn
đề ở chỗ nào? Tín tâm! Tín tâm quyết định
hết thảy. Quư vị có tín tâm đối với pháp nào,
hăy thâm nhập một pháp môn ấy, chắc chắn sẽ
có lợi ích. Lợi ích lớn hay nhỏ khác nhau, chẳng
tương đồng. Lợi ích thù thắng khôn sánh, chẳng
có ǵ sánh bằng, chính là pháp niệm Phật! Lời này chẳng
phải do tôi nói, mà là mười phương ba đời
hết thảy chư Phật đều khuyên dạy trọn
khắp hết thảy chúng sanh trong khắp pháp giới
hư không giới, há c̣n có thể sai lầm được
ư? V́ thế, pháp môn Niệm Phật mới thật sự
là “thăng vô thượng
đường, an trụ bất động”.
Nay
chúng ta thừa nhận sự khiếm khuyết là [chúng ta] hiểu
biết chẳng thấu triệt, nhận thức chẳng
rơ ràng. Do vậy, thành ra như thế nào? Công phu chẳng đắc
lực! Nếu quư vị nhận thức rơ ràng, hiểu biết
thấu triệt, quư vị sẽ tự nhiên an trụ bất
động. Ai có thể làm được? Ai cũng đều
làm được! Pháp môn này “vạn
người tu, vạn người đến” chẳng
giả! Thầy Lư thường nói: “Một vạn người niệm Phật, thật
sự có thể văng sanh là đôi ba người”. Tức
là hai ba phần vạn! Nguyên nhân là ǵ? Chẳng thể trách A
Di Đà Phật, chẳng thể trách Thích Ca Mâu Ni Phật, chẳng
thể trách kinh điển, hăy trách ai? Trách chính ḿnh! Chính
ḿnh đối với pháp môn này vẫn bán tín bán nghi y như
cũ. Tôi nói chắc chắn không sai! Quư vị xác thực là
bán tín bán nghi, chẳng hoàn toàn khẳng định. V́ sao?
Hoàn toàn khẳng định, quư vị sẽ an trụ bất
động.
Hiện
thời, quư vị chẳng an trụ, nay vẫn c̣n dao động,
vẫn mong học thứ này, vẫn muốn học thứ
kia, sự nhận biết chẳng đủ sâu! Làm như
thế nào đây? Biện pháp hữu hiệu duy nhất là
thâm nhập kinh tạng. Thâm nhập kinh tạng chẳng nhằm
mục đích nào khác, không ǵ chẳng nhằm giúp cho chúng sanh
phá mê khai ngộ. Sau khi đă phá mê khai ngộ, tự nhiên sẽ
đoạn nghi sanh tín. Đấy là lợi ích của kinh
giáo. Chúng ta c̣n chưa buông nghi lự xuống, hiệu quả
của kinh giáo chẳng sanh ra sức mạnh. Đó là ǵ?
Nghe chưa đủ, chẳng nghiêm túc nghe. Sau khi đă
nghe, chẳng lư giải thấu triệt, chẳng nghiêm túc
thực hiện. Rất nhiều người nghe kinh, tôi
nghe đồng học nói: “Sư phụ giảng kinh là giảng
cho những người đó nghe, chẳng phải là giảng
cho tôi nghe”. V́ thế, kẻ đó chẳng đạt được
lợi ích. Ngỡ chính ḿnh thập toàn, thập mỹ, chẳng
có khuyết điểm. Trong các buổi giảng, chúng tôi
thường nhắc nhở chúng ta phải biết sửa
đổi những tật xấu ấy như thế nào,
[kẻ đó cũng tự nhủ]: “Đấy chẳng phải
là chuyện của ta, mà là của người khác, sư phụ
giảng cho người khác nghe”. V́ sao người ấy
chẳng giác ngộ? Cái tâm lư sai lầm ấy đă sanh ra chướng
ngại nghiêm trọng.
Tôi
học Phật đă năm mươi lăm năm, tôi
đạt được lợi ích là do có quan niệm hoàn
toàn chẳng giống chư vị đồng học. Tôi
đọc kinh, [cảm nhận] đức Phật đă
v́ tôi mà nói [bộ kinh ấy]. Tôi đọc chú sớ của
cổ nhân, các Ngài đă đặc biệt v́ tôi mà giảng.
Tôi nghe bất cứ ai giảng kinh, [đều cảm thấy]
người ấy giảng cho tôi, dạy dỗ tôi. Tôi chưa
từng có một ư niệm: “Đây là v́ kẻ khác mà giảng”.
Chưa hề nghe nói, chẳng có ư niệm ấy! V́ thế,
tôi có thể sanh khởi cái tâm cảm ơn. Dẫu nghe
người khác giảng một tiếng đồng hồ,
tôi được lợi ích nhờ đó, tôi đều niệm
niệm chẳng quên. Làm sao [dám nghĩ người nào
đó đang giảng kinh] là giảng cho người khác
được? Do vậy có thể biết: Có thể đạt
được lợi ích chân thật hay không, quan niệm
này quá quan trọng! Chư Phật Như Lai thị hiện
trên thế gian, bất luận là quá khứ, hiện tại,
hay tương lai, đều là v́ ta, chẳng v́ người
khác!
Thầy
dạy học, nói thật ra, thầy Phương dạy tôi,
v́ học tṛ chỉ có một ḿnh tôi, đương nhiên là
v́ tôi. Chương Gia đại sư dạy tôi, học
tṛ cũng là một ḿnh tôi. Thầy Lư dạy học chẳng
phải chỉ có ḿnh tôi. Các bạn học cùng pḥng học
hoặc trong giảng đường đều rất
đông. Tôi nghe thầy giáo huấn, tâm niệm: “Thầy đang dạy ḿnh, các
đồng học nghe ké”, tôi có quan niệm như vậy
đó. V́ thế, tôi học được nhiều thứ
hơn người khác, ngay cả các đồng học tại
Đài Trung cũng hỏi tôi: “Ông học như thế nào
mà thầy Lư luôn khen ngợi?” Tôi thưa: “Chẳng có ǵ khác,
tôi từ bên ngoài tới, chẳng sống lâu dài tại
Đài Trung; do vậy, tôi nắm rất chặt thời
gian, tôi học tập rất nghiêm túc. Quư vị là người ở Đài Trung, ở lâu dài tại
Đài Trung. Học một năm chưa hiểu, sẽ c̣n
có hai năm. Học hai năm chưa hiểu, sẽ c̣n có
ba năm, cứ từ từ! Tôi chẳng có thời gian ấy;
v́ thế, tôi phải rất nghiêm túc, rất nỗ lực
học tập. Tâm thái học tập khác nhau, quư vị sẽ
đạt được những thứ khác nhau”. Hiện
thời, “vô thượng
đường, an trụ bất động” là then chốt
để thành công hay thất bại trong cả một
đời, hết sức trọng yếu. Chúng ta tiến
nhập niệm Phật đường, tiến nhập
giảng đường, đều phải có ḷng cảnh
giác này th́ mới nên! Nay đă hết thời gian rồi,
hôm nay tôi giảng tới đây!
Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 26 hết
[1] Thuyết
Văn Giải Tự (說文解字) là một bộ
sách do Hứa Thận biên soạn vào thời Đông Hán,
thường được coi là một bộ từ
điển đầu tiên về chữ Hán. Nội dung rất
phong phú, phân tích kết cấu của từng chữ, ư
nghĩa, cũng như cách cấu tạo chữ Hán. Hứa
Thận đề xướng khái niệm Bộ Thủ,
đề ra 540 bộ thủ, giải thích 9.353 chữ, phụ
lục thêm 1.163 chữ thuộc loại Dị Thể. Ông
cũng đề xướng lối phiên âm phản thiết
(c̣n gọi là phiên thiết, tức là tách một chữ
thành hai chữ để mô phỏng cách đọc. Chẳng
hạn chữ Cổ được phản thiết là “Cư Lỗ thiết, âm Cô,
thượng thanh”). Nguyên tác đă bị thất truyền,
nội dung c̣n lưu lại là do lấy từ trích dẫn
của những tác giả khác. Bản lưu hành hiện thời
do Từ Huyền giảo định, nhuận sắc vào
năm Ung Hy thứ ba (986).
[2] Mạt Nhật
Thẩm Phán (末日審判) là từ ngữ người Hoa dùng để dịch
chữ Last Judgement hoặc Final Judgement, hoặc Yawm al-Qiyāmah trong tiếng Ả Rập.
Đây là một khái niệm đặc thù trong các tôn giáo thuộc
hệ thống Abrahamic (các tôn giáo bắt nguồn từ sự
thờ phụng Thượng Đế (Jehovah) tại vùng
Trung Đông như Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo, các đạo Tin
Lành, Phúc Âm, đạo Hồi) cũng như Bái Hỏa Giáo
(Zoroastrianism). Theo niềm tin của họ, trong ngày đó,
những người chết sẽ sống dậy, chịu
sự xét xử cuối cùng của Thượng Đế,
tùy theo hành vi của người ấy trong khi c̣n sống
mà sẽ được ân thưởng hay bị đày đọa
trong chốn hỏa ngục. Công Giáo và Chính Thống Giáo chia
sẻ quan điểm: Mỗi cá nhân chết đi, sẽ
được thiên sứ phán tội. Kẻ công chính sẽ
được lên thiên đàng, kẻ có tội sẽ bị
đọa vào luyện ngục (Purgatory) chờ đợi
chúa Jesus trở lại thế gian (thường gọi là
Second Coming, ta thường dịch là Cơ Đốc Phục
Lâm, hoặc Gia Tô tái lâm). Khi đó, những kẻ ở trong
luyện ngục sẽ được về Thiên Đàng.
[3] Theo từ
điển bách khoa Britanica, từ ngữ tôn giáo (Religion)
trong ngôn ngữ Âu Tây bắt nguồn từ chữ Religionem trong tiếng La Tinh, mang ư
nghĩa “tôn sùng Chúa, tuân phục Chúa, mối ràng buộc
giữa con người và thần thánh”.
[4] Tiên chú (箋注) là một
cách gọi khác của chú giải. Thông thường tiên chú
sẽ ngắn gọn hơn thể lệ chú giải theo
h́nh thức sớ, sớ sao, hoặc hợp luận. Đa
số những người đời sau, khi chú giải
kinh sách, không dám dùng chữ Sớ, Sao hoặc Luận v́ tự
khiêm chẳng dám coi ḿnh ngang hàng với chư vị tổ
sư nên thường dùng chữ Tiên Chú, Chú Giải, Giải,
Diễn Nghĩa, hoặc Giảng Nghĩa.
[5] Sáu kinh là kinh
Hoa Nghiêm, Giải Thâm Mật, Như Lai Xuất Hiện Công
Đức Trang Nghiêm, Đại Thừa A Tỳ Đạt
Ma, Lăng Già và Hậu Nghiêm Kinh (tức kinh Đại Thừa
Mật Nghiêm). Mười một bộ luận là Du Già
Sư Địa Luận, Hiển Dương Thánh Giáo Luận,
Tập Lượng Luận, Nhiếp Đại Thừa Luận,
Thập Địa Kinh Luận, Phân Biệt Du Già Luận,
Quán Sở Duyên Duyên Luận, Duy Thức Nhị Thập Luận,
Duy Thức Tam Thập Luận, Biện Trung Biên Luận,
Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma Tập Luận.
Trong mười một bộ luận trên đây, Tập
Lượng Luận đă thất truyền, Phân Biệt Du
Già Luận chưa được dịch sang tiếng Hán.
Do vậy, ngoài mười một bộ luận kể
trên, các vị học Duy Thức tại Trung Hoa đặc
biệt nghiên cứu thêm Bách Pháp Minh Môn Luận, Đại
Thừa Ngũ Uẩn Luận, Nhân Minh Nhập Chánh Lư Luận,
và nhất là Thành Duy Thức Luận.