Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 27
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Địa điểm: Hương Cảng Phật
Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ ngày mồng Bảy tháng
Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ Trang và Minh
Tiến
Tập 1515
Chư
vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin xem phẩm
Tịnh Hạnh thứ mười một, phần Tựu Tọa
Thiền Quán, xem từ bài kệ tụng thứ hai.
(Kinh)
Nhược phu sàng ṭa, đương nguyện chúng sanh,
khai phu thiện pháp, kiến chân thật tướng.
(經)若敷牀座。當願眾生。開敷善法。見真實相。
(Kinh:
Nếu trải sàng ṭa, nguyện cho chúng sanh, trải bày thiện pháp, thấy
tướng chân thật).
Bốn nguyện trước
nói về phương tiện tu hành; thật ra là nói về
quy củ, tức là quy củ tiến nhập đạo
tràng. Thấy nguyện này, chúng ta ắt cần phải hiểu, vào thời cổ, v́ thuở ấy
đức Thế Tôn giảng kinh này tại Ấn Độ.
“Sàng ṭa”: Có giường hay
không? Có ṭa hay không? Sàng ṭa (牀座) là ǵ? Thuở
đức Phật tại thế, các vị phải hiểu,
Ngài sống cuộc đời “giữa
trưa ăn một bữa, đêm nghỉ dưới cội
cây”. Dưới cội cây, t́m một ít cỏ để
trải, đấy chính là “sàng
ṭa” của Ngài! Thông thường, cái “đệm” cỏ
ở phía dưới hơi mềm, phía trên lại trải một
thứ giống như tấm mền, thuật ngữ trong
Phật môn là Ni-sư-đàn (Nisīdana), nay chúng ta gọi
là Cụ (具, tức tọa cụ). Quư
vị thấy hiện thời ở Trung Hoa, tấm Cụ
vô dụng! [Thuở trước], nó dùng để trải
sàng ṭa. Hiện thời, Cụ được dùng để
làm ǵ? Dùng phủ lên cái đệm quỳ để
lạy Phật. Chư vị thấy các vị xuất gia người
Hoa, trong các đại pháp hội, khi Ḥa Thượng lạy
Phật ở chính giữa, có mở tọa cụ ra để
phủ lên trên cái đệm quỳ. Chư vị phải
hiểu nó vốn chẳng dùng để trải lên cái đệm
quỳ, mà là để trải trên cỏ ḥng tĩnh tọa
hoặc ngủ nghê.
Vào thời Xuân Thu[1]
tại Trung Hoa, Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện trên thế
gian, gần như chẳng khác thời Khổng Tử cho mấy.
Đức Phật xuất thế sớm hơn Khổng Tử
đôi chút. Khi đó, tại Trung Hoa cũng chẳng có
giường, mà cũng chẳng có ghế tựa, ghế dài
như trong hiện thời, đều chẳng có. V́ thế,
có khách đến th́ phải trải đệm ngồi. Đó
là [biểu lộ] sự tôn trọng đối với khách.
Nếu là quư khách, hoặc người tuổi tác đă cao,
nhằm đặc biệt tôn trọng, sẽ bày “trùng tịch” (重席), bày hai tầng, tức là xếp hai cái đệm ngồi
[chồng lên nhau]. Hiện thời, chư vị đến
Nhật Bản có thể thấy phong tục ấy; trong chùa
miếu của Nhật hăy c̣n giữ. V́ thế, chúng tôi qua lại với người xuất gia Nhật Bản,
đến thăm viếng, họ chẳng có sofa, chẳng
có ghế dựa, đều là ngồi trên chiếu trải
dưới đất, ngồi trên tấm Tatami[2].
Họ bày đệm ngồi cho quư vị, [nếu như] đặc
biệt cung kính, bèn chồng hai cái đệm lên, quư vị
có thể thấy [như thế đó]. Hiện thời chẳng
giống [xưa kia], nay đă có giường, bàn, ghế rất
thoải mái. Ở đây, [“sàng
ṭa”] không phải là giường đệm. Quư vị
đến giảng đường, đến giảng
đường v́ muốn nghe kinh, muốn dụng công. V́
thế, ở trong các điện đường hiện
thời, trong phần trước, tôi đă thưa tŕnh cùng
chư vị, giảng đường dành để nghe kinh,
[để ngồi trong đó] cũng cần phải trải sàng ṭa. “Cụ” (tọa
cụ) là do chính ḿnh đem theo!
Trước kia, tại Trung
Hoa, Niệm Phật Đường, Thiền đường, giới
đường, cũng đều thuộc dạng kiến
trúc trải tatami. V́ thế, Nhật Bản đă học từ
Trung Hoa, [từ Trung Hoa] truyền qua đó. Hết sức khó
có, họ c̣n giữ măi cho đến hiện thời. Đấy
là chỗ chúng tôi cảm thấy đáng tôn kính nơi người
Nhật, văn hóa truyền thống mấy ngàn năm vẫn
được bảo tồn y như cũ. Đấy là chính
ḿnh tự bày biện chỗ ngồi xong xuôi. Hiện thời,
quư vị thấy Niệm Phật Đường ở lầu
chín, dùng đệm quỳ, sắp đặt ngay ngắn.
Quư vị đến đó, t́m chỗ ngồi, chẳng cần
phải trải ṭa. Xưa kia th́ phải trải ṭa, Niệm
Phật Đường xưa kia cũng là như thế đó.
Thiền đường, giảng đường đều
trống rỗng, trong ấy chẳng có ǵ hết, chính quư vị
phải mang đệm theo để lót.
Người xuất gia bước
vào điện đường, cũng chẳng phải là quư
vị đă xuống tóc, đă thọ
giới liền có thể tiến nhập giảng
đường, hoặc Niệm Phật Đường.
Trong phần trước, [kinh Hoa Nghiêm đă gọi chung các
loại “đường”] là
“đường vũ” (堂宇, điện đường). Quy củ của người
xuất gia là sau khi đă xuống tóc, sẽ học giới
năm năm. Kẻ mới xuất gia chưa tṛn năm năm,
chẳng thể nhập đường. V́ sao? Nói theo kiểu
hiện thời, quư vị phải làm công quả trong chốn
thường trụ. Trước kia, làm công quả chẳng
phải là tại gia cư sĩ. Tại gia cư sĩ [làm
công quả] cũng có, họ t́nh nguyện đến, [nhưng
là] thiểu số. Ai sẽ đảm nhiệm những công
việc tạp vụ của thường trụ? Kẻ mới
xuất gia; đấy là chánh xác. Mới xuất gia, quư vị
phục vụ thường trụ năm năm để
tu phước! Ai cũng chẳng thể không có phước,
phước phải nhờ
vào chính ḿnh tu! Năm năm
học Thập Thiện Nghiệp Đạo, học Tam Quy,
Ngũ Giới, Sa Di Luật Nghi, học những thứ ấy,
phải hoàn toàn thực hiện. V́ thường trụ phục
vụ, thường trụ sẽ giao việc cho quư vị.
Trước kia, một tự viện tùng lâm lớn, đông
người, có hai, ba ngàn người, nhỏ th́ cũng là hai, ba trăm
người! Một đạo tràng to ngần ấy, đương
nhiên là chuyện tạp vụ trong sinh hoạt rất nhiều.
Khi mới xuất gia, [những vị chấp sự] sẽ
phân chia công việc cho quư vị.
Như chúng ta đă thấy
trong Đàn Kinh, Huệ Năng đại sư đến Hoàng
Mai tham học. Quư vị thấy Ngũ Tổ giao công việc
cho Ngài: Giă gạo, bửa củi trong pḥng xay xát. Khi đó,
trong tự viện cũng có hơn một ngàn người
sống, hằng ngày ăn uống th́ gạo cần phải
xay. Sau khi đă xay, lại phải giă, giă cho sạch cám. Nhiên
liệu là củi đốt, đại khái là Ngài không cần
phải đi đẵn củi, đă có người chuyên
môn đẵn củi. Sau khi củi được chuyển
về, phải chẻ
củi. V́ thế, công việc của Ngài
là bửa củi, giă gạo. Chẳng phải là vừa xuất
gia bèn có thể nghe kinh, có thể niệm Phật trong Niệm
Phật Đường, hoặc tham Thiền trong Thiền
đường, chẳng phải vậy! Những công việc
của thường trụ do ai làm? Ai sẽ hầu hạ
quư vị? Kẻ mới xuất gia phải hầu hạ người
xuất gia đă lâu. Sau năm năm, họ mới có tư
cách nhập đường. Đấy chính là đă thọ
Cụ Túc Giới. Trong phần trước đă có nói,
đều là đă thọ Cụ Túc Giới th́ mới nhập
đường.
“Nhập
đường” th́ trong các điện đường,
có hai môn, một là Giải Môn, hai là Hạnh Môn. Hạnh Môn
tuy nhiều, nhưng nói chung, chẳng ngoài tham Thiền và niệm
Phật. Đấy chính là điện đường thuộc
loại Hạnh Môn. Trong
Giải Môn là giảng đường,
giảng đường để nghe kinh, học Giáo.
Chư vị phải biết tự, viện, am, đường
là trường học, học tṛ phải đi học, thầy phải dạy. V́ thế, Niệm Phật
Đường và Thiền đường đều có vị
Đường Chủ lănh chúng, [tức là người] hướng dẫn
mọi người tu hành. Trong giảng đường có A
Xà Lê giảng kinh, dạy học. Hằng ngày đều phải
lên lớp, giải hạnh tương ứng! Trong đại
tự viện, không chỉ có một giảng đường,
mà là rất nhiều. Ví như trong chùa có hơn một ngàn người,
mỗi cá nhân mong mỏi học những thứ khác nhau; do
vậy, có rất nhiều giảng đường. Đảm
nhiệm việc giáo học là vị Thủ Tọa Ḥa
Thượng. Thủ Tọa Ḥa Thượng không chỉ có
một vị. Tùy thuộc nhu cầu của đạo tràng,
họ có thể thỉnh vài vị Thủ Tọa Ḥa Thượng.
Thủ Tọa Ḥa Thượng là A Xà Lê, đảm nhiệm
giáo học. Nếu có kẻ thích tham Thiền, trong đạo
tràng ấy có Thiền đường, cũng có Niệm Phật
Đường, họ có thể mời mấy vị Đường
Chủ. Đó là [trách nhiệm] của vị Phương Trượng
Ḥa Thượng. Phương Trượng Ḥa Thượng
là Thân Giáo Sư. Trong phần trước, tôi đă thưa
cùng quư vị, bản thân Ngài không cần phải lên lớp,
Ngài mời thầy. Tiếng Phạn gọi những vị
thầy ấy là Xà Lê (Ācārya), người Hoa thường gọi họ là “pháp sư”.
Trải ṭa: Khi trải ṭa bèn
phát nguyện,“đương
nguyện chúng sanh”. Nguyện trong Hoa Nghiêm to lớn, đúng
là “tâm bao thái hư, lượng
châu sa giới”. “Khai phu thiện
pháp, kiến chân thật tướng” (Trải bày
thiện pháp, thấy tướng chân thật): Trải ṭa,
mở tấm Ni-sư-đàn ra, “trải ra” biểu thị
chúng ta phải phô bày “thiện
pháp”. Thiện pháp là ǵ? Thiện pháp cũng có cấp bậc.
Nói theo Phật pháp, sẽ là ngũ thừa, thiện pháp trong ngũ thừa khác nhau. Thiện pháp của nhân thừa là Ngũ Giới,
Thập Thiện. Thiện pháp của thiên thừa là thượng
phẩm Thập Thiện, Tứ Vô Lượng Tâm. Tứ
Vô Lượng Tâm là từ, bi, hỷ, xả. Thiện pháp của
Thanh Văn là Tứ Đế. Thiện pháp của Duyên Giác
là Thập Nhị Nhân Duyên. Thiện pháp của Bồ Tát là Lục
Độ vạn hạnh, khác nhau. Nhưng đoạn sau
trong phần này nói “kiến chân
thật tướng”, thấy tướng chân thật
chính là cảnh giới nơi quả địa Như Lai, đă
chứng đắc Thật Tướng của các pháp. Chúng
ta có thể nói [“chân thật
tướng”] là “thiện pháp tuyệt đối”. Thật
Tướng của các pháp [chính là] chân tướng của hết
thảy các pháp, [là] tướng chân thật.
Tướng có, Tánh không, Sự có, Lư không. Pháp được
gọi là “diệu pháp”, diệu
ở chỗ nào? Không và
Hữu bất nhị, Tánh và Tướng
như một; đấy là diệu! Đấy mới gọi
là “kiến chân thật tướng”.
Trạng huống sau khi đă
thấy tướng chân thật là ǵ? Thưa cùng chư vị,
quyết định là chẳng có vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước. Hễ có vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước, sẽ chẳng thấy tướng
chân thật. Người thấy tướng chân thật,
chắc chắn sẽ giữ
tấm ḷng chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng,
chánh giác, từ bi; đó là chân tâm. Hết thảy chư Phật
và hết thảy chúng sanh đều b́nh đẳng trọn
đủ; Phật có, hết thảy chúng sanh cũng có. Nhưng
Phật có, Phật hiện tiền, Ngài thật sự khởi
tác dụng. Chúng sanh tuy có, do đă mê, tuy có mà chẳng biết,
sau khi đă mê, họ bèn dụng tâm sai lầm. Quư vị thấy
Phật giác ngộ, Pháp Thân Bồ Tát giác ngộ, các Ngài dùng
cái tâm chân thành; bọn phàm phu chúng ta mê hoặc, điên đảo,
dùng cái tâm hư vọng. Pháp Thân Bồ Tát dùng cái tâm thanh tịnh,
bọn phàm phu chúng ta dùng cái tâm ô nhiễm. Ô nhiễm là ǵ?
Tham, sân, si là ô nhiễm, ích kỷ là ô nhiễm, tiếng
tăm, lợi dưỡng là ô nhiễm, dùng cái tâm ô nhiễm!
Người giác ngộ dùng cái tâm b́nh đẳng, kẻ mê
dùng cái tâm cao thấp: “Ta
luôn cao hơn kẻ khác, kẻ khác chẳng
bằng ta!” Kiêu căng, ngạo mạn, đó là phàm phu. Bậc giác
ngộ dùng cái tâm chánh giác, kẻ mê dùng cái tâm mê hoặc. Bậc
giác ngộ đại từ đại bi, kẻ mê th́ ích kỷ,
chẳng giống nhau! Dụng tâm khác nhau, quả báo chẳng
giống nhau!
Do vậy, dụng tâm chánh đáng;
quư vị thấy trong phẩm kinh này, khi Văn Thù Bồ
Tát trả lời [Trí Thủ Bồ
Tát], câu đầu tiên bèn nói: “Nhược chư Bồ Tát thiện
dụng kỳ tâm” (Nếu các vị Bồ Tát khéo dùng cái tâm). “Khéo dùng cái tâm” là chân thành, thanh
tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi; đấy là tổng
cương lănh. Ứng dụng nơi sự tướng,
trong cuộc sống hằng ngày, sẽ là một trăm bốn
mươi mốt nguyện. Quư vị thấy người
ta dùng cái tâm ǵ mà thấy tướng chân thật? Đă thấy
tướng chân thật, quư vị c̣n có tà tri tà kiến hay
không? Quư vị c̣n có sai quấy hay không? Chẳng có! Đối
với hết thảy các pháp thế gian và xuất thế
gian, quyết định chẳng có chấp trước, chẳng
có phân biệt, chẳng khởi tâm động niệm; chúng
ta hăy nên học tập điều này. V́ sao? Trở về
tự tánh.
V́ sao các Ngài có thể, mà ta chẳng
thể? Đối với chỗ này, phải sanh tâm hổ
thẹn. Phải biết ta vốn cũng là Pháp Thân Bồ
Tát, vốn cũng là Phật, cớ sao đọa lạc đến
nỗi này? Đức Thế Tôn đă nói rất rơ ràng, rất
minh bạch. V́ sao đọa đến mức độ này?
Do v́ vọng tưởng, chấp trước, cho nên chẳng thể chứng đắc! Chúng
ta học điều này như thế nào? Nay chỗ chúng ta
ngồi không cần phải bày đệm, nhưng tối
ngủ vẫn phải trải giường, vẫn phải
kê gối, đấy là tương tự [như “trải
sàng ṭa”], chúng ta cũng có thể phát nguyện này hay không? V́
thế, nhất cử nhất động của các Ngài, quư
vị thấy các Ngài tiến vào giảng đường bèn
phát nguyện, “thăng vô
thượng đường, an trụ bất động;
khai phu thiện pháp, kiến chân thật tướng” (lên
nhà vô thượng, an trụ bất động, trải bày
thiện pháp, thấy tướng chân thật). Niệm nào
cũng tương ứng Bồ Đề đạo, niệm
nào cũng chẳng ĺa Bồ Đề đạo. Bồ
Đề đạo là “thành Phật
chi đạo”. Hoa Nghiêm là Nhất Thừa giáo, Nhất
Thừa giáo là “thành Phật chi đạo”. Bài kệ thứ ba:
(Kinh) Chánh thân đoan
tọa, đương nguyện chúng sanh, tọa Bồ
Đề ṭa, tâm vô sở trước.
(經)正身端坐。當願眾生。坐菩提座。心無所著。
(Kinh: Khi ngồi ngay ngắn, nguyện cho chúng
sanh, ngồi ṭa Bồ Đề, tâm chẳng chấp
trước).
Sau khi đă xếp đặt
chỗ ngồi xong xuôi, hăy khéo ngồi xuống. Trong Thiền
đường cũng là ngồi xuống như
vậy, “chánh thân đoan tọa”,
mà trong Niệm Phật Đường cũng là ngồi xuống như vậy. Giảng đường lại càng chẳng
cần phải nói, ngồi sao cho đoan chánh. Trước
hết bèn ngồi xuống. Khi ấy, trong tâm quư vị hăy
quán tưởng “tọa Bồ
Đề ṭa” (ngồi ṭa Bồ Đề). Chúng ta ngồi
ở chỗ này, phải tưởng Thích Ca Mâu Ni Phật
ngồi dưới cội Bồ Đề, cũng dùng cỏ
tươi để lót chỗ ngồi. Bọn phàm phu chúng
ta thấy Thích Ca Mâu Ni Phật dưới cội Bồ
Đề trải chỗ ngồi bằng cỏ, nhưng
chư thiên Tịnh Cư, đúng là chẳng giống chúng
ta, chư thiên Tịnh Cư đều thấy Thích Ca Mâu Ni
Phật ngồi trên ṭa báu kim cang. Bọn phàm phu chúng ta thấy
Thích Ca Mâu Ni Phật trải một tầng cỏ, ngồi
trên cái đệm cỏ ấy, cảnh giới khác nhau! Chư
thiên Tịnh Cư là Tam Quả A Na Hàm, c̣n chưa chứng
quả A La Hán. Các Ngài là thánh nhân, được gọi là Bất
Hoàn, [có nghĩa là] “chẳng đến thế gian nữa”.
V́ sao lần này lại đến? Do thấy Thích Ca Mâu Ni Phật
thị hiện thành Phật, chẳng có ai khải thỉnh.
Vấn đề này nghiêm trọng! Nếu không có ai khải
thỉnh, Thích Ca Mâu Ni Phật sẽ nhập Niết Bàn! Họ
trông thấy, thật sự phát tâm đại từ bi, thay
cho người đời khải thỉnh. Công đức ấy vô
lượng vô biên! Nếu chẳng do họ khải thỉnh,
Thích Ca Mâu Ni Phật sẽ chẳng trụ thế.
Quư vị biết: Do
được khải thỉnh như vậy, đức Thế
Tôn trụ thế tám mươi năm, v́ mọi người
giảng kinh hơn ba trăm hội, thuyết pháp bốn
mươi chín năm. Cái duyên ấy do chư thiên Tịnh Cư
đă kết cho chúng ta. Đức Thế Tôn giáo huấn chúng
ta chẳng phải là do công đức khải thỉnh của
chư thiên Tịnh Cư ư? Chúng ta cũng phải học,
phải biết học chỗ này. Gặp bậc thiện tri thức thật
sự, ở nơi đây chẳng có ai nhận biết, nếu
quư vị nhận biết, thật sự liễu giải vị
ấy, sẽ nhất định khải thỉnh vị ấy
đến nơi đây giảng kinh, thuyết pháp. Người
cả vùng này do nghe kinh, đắc độ, đều là
do công đức khải thỉnh của quư vị. Các
đồng học học Phật chúng ta nhất định
phải hiểu điều này! Nếu vị đại
đức ấy, chúng tôi nói “đại
đức”, không nói “pháp
sư”, v́ bao gồm tại gia cư sĩ. Tại gia
cư sĩ thật sự hữu tu, hữu học, sự
tu hành của vị ấy có thể làm gương cho chúng
ta, học vấn của vị ấy đáng làm thầy chúng
ta, th́ sao? Chúng ta phải “thỉnh
Phật trụ thế”, giữ vị ấy ở nơi
đây, thỉnh vị ấy dạy dỗ chúng ta lâu dài ở
nơi đây! Trong mười nguyện, Phổ Hiền Bồ
Tát đă dạy chúng ta “thỉnh
chuyển pháp luân, thỉnh Phật trụ thế” là do ư
nghĩa này. V́ thế, người tại gia mà có đức
hạnh như thế th́ phải thỉnh!
Đầu thời Dân Quốc,
lăo cư sĩ Mai Quang Hy, lăo cư sĩ Hạ Liên Cư, lăo
cư sĩ Dương Nhân Sơn, cư sĩ Âu Dương
Cánh Vô, chẳng ít vị đại đức. Trong sự
cảm nhận của chúng tôi, những vị ấy đều
là Phật, Bồ Tát hiện thân cư sĩ. Đáng nên dùng
thân cư sĩ để độ, bèn hiện thân cư
sĩ để thuyết pháp. Có cần thỉnh các vị ấy
giảng kinh hay không? Cần chứ! Có cần thỉnh các vị
ấy thường trụ ở nơi đây để giáo
hóa chúng ta hay không? Cần! Do vậy, nhân duyên chín muồi, chớ
nên bỏ qua chuyện này, công đức to lớn. Nay chư
vị đều hiểu, chúng ta lạy Lương Hoàng
Sám, đả Phật thất, đả Thiền thất,
làm một khóa Thủy Lục, công đức rất lớn.
[Thế nhưng] tất cả hết thảy các pháp sự
đều chẳng có công đức to bằng thỉnh pháp
sư giảng kinh! Phải hiểu đạo lư này. Nếu
quư vị hỏi v́ sao ư? Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại
thế, quư vị tra duyệt khắp Đại Tạng
Kinh, [sẽ thấy] Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng đả
Thiền thất, chẳng đả Phật thất, mà cũng
chẳng làm pháp hội Thủy Lục. Lăo nhân gia suốt
đời giảng kinh, giáo học, đấy chẳng phải
là đă bảo ban rất cặn kẽ ư? Những hoạt
động Phật sự ấy đều do các vị tổ
sư đại đức đời sau đề xướng.
Quư vị thấy bất cứ loại hoạt động
nào cũng đều căn cứ trên sự giáo hóa của
kinh giáo nhà Phật, chẳng ĺa khỏi.
Tông Môn, Giáo Hạ, tất cả
các phương pháp tu hành đều căn cứ trên kinh luận.
Các thứ pháp hội siêu độ đều là hội tập những giáo huấn
trong các kinh luận. Tu pháp hội ấy, thường nói là
“minh dương lưỡng lợi”
(冥陽兩利, chốn âm
ty và chốn dương gian đều được lợi
ích). Không chỉ là chúng sanh trong cơi u minh được lợi
ích, mà các đồng tu hiện diện ai nấy đều
được lợi ích. Trước kia là như vậy,
nay th́ có vấn đề. Vấn đề ở chỗ nào?
Hiện thời chỉ chú trọng h́nh thức, quên bẵng
thực chất. Thực chất là ǵ? Ngay như khi chúng ta
làm Tam Thời Hệ Niệm, đều có quỷ thần
dựa vào thân thầy đồng để chuyển lời, mong
tôi nói với các đồng học: “Hễ làm
Tam Thời Hệ Niệm th́ phải nên “tùy văn nhập quán”, chúng sanh trong cơi u minh mới được lợi ích”. Nếu
chẳng biết tùy văn tác quán, lợi ích rất mỏng,
chẳng đạt được lợi ích ǵ. Đấy
là do người hiện thời làm pháp hội chẳng bằng
cổ nhân. V́ sao? Cổ nhân xác thực tùy văn nhập
quán, niệm đến chỗ nào, cảnh giới ấy thật
sự hiện tiền; do vậy, có lợi ích. Bởi lẽ
đó, nếu chúng ta làm pháp hội, ắt cần phải
giảng tường tận nghi quy ấy một lượt.
V́ sao? Khi làm pháp hội, niệm đến đâu, quư vị
có thể quán tưởng, đó là “tùy văn nhập quán”. Do đó, trong những năm
qua, chúng tôi đề xướng Tam Thời Hệ Niệm,
đă giảng về Tam Thời Hệ Niệm.
Đồng học tu Tịnh
Độ, các vị hằng ngày thọ tŕ kinh Vô Lượng
Thọ, kinh Vô Lượng Thọ đă được giảng.
Nhất định là trước hết nghe giảng, đă
hiểu ư nghĩa, khi niệm sẽ khởi tác dụng. Chẳng
hiểu ư nghĩa, khi quư vị niệm, công phu tốt nhất
sẽ như thế nào? Khi niệm kinh, chẳng dấy vọng
tưởng; đấy là Định, chẳng
có cách nào tùy văn tác quán. Nếu quư vị nghiên cứu
kinh này đă thông
hiểu, khi quư vị đọc tụng kinh này, sẽ có Định,
có Huệ. Huệ là Quán, tức Quán Huệ. Có Định và
Huệ, sẽ có Giới trong ấy. Do vậy, quư vị niệm
một tiếng đồng hồ, trong một tiếng
đồng hồ ấy, đă tu đồng thời Tam Học
Giới, Định, Huệ, đồng thời hoàn thành. Đương
nhiên là có công đức, bản thân quư vị được
lợi ích, mà quỷ thần cũng được lợi
ích. V́ thế, chúng ta tụng kinh, niệm Phật, hễ chẳng
thể tương ứng với Tam Học Giới, Định,
Huệ, công đức sẽ ít ỏi. Suy nghĩ sẽ biết,
chẳng cần nghĩ tới ai khác, cứ nghĩ về chính
ḿnh: Niệm Phật, tọa Thiền, học tập kinh giáo
mà vọng tưởng chẳng
đoạn! Ra khỏi giảng đường,
ra khỏi Phật đường, phiền năo hiện tiền,
tâm không thanh tịnh, chẳng thể ǵn giữ!
Chúng ta niệm một bộ
kinh Vô Lượng Thọ, đại khái phải mất một
tiếng đồng hồ. Trong một tiếng đồng
hồ, tu cái tâm thanh tịnh, vọng tưởng tạp niệm
đều buông xuống. Có thể giữ được cái tâm thanh tịnh bao lâu? Có thể giữ
mười tiếng đồng hồ hay không? Mười
tiếng đồng hồ chẳng được, có thể
giữ năm tiếng đồng hồ hay không? Năm tiếng
đồng hồ vẫn chẳng được; có thể
giữ hai tiếng đồng hồ hay không? Quư vị cứ
tiến dần dần. Đang trong lúc tụng kinh, tâm
chẳng thanh tịnh, vẫn dấy lên vọng tưởng,
quư vị làm sao giữ cái tâm
thanh tịnh cho được? Từ
chỗ này, sẽ biết bản thân chúng ta đạt
được bao nhiêu lợi ích. Sau đấy, quư vị mới
nghĩ quỷ thần có thể đạt được
bao nhiêu lợi ích. Kinh Địa Tạng đă dạy rất
hay: Trong Phật sự siêu độ, chính ḿnh được
lợi ích sáu phần bảy, quỷ thần được
siêu độ chỉ được hưởng
một phần bảy. V́ sao làm một thời Phật sự
phải thỉnh bảy vị pháp sư? Bảy vị pháp
sư, ví như niệm một bộ kinh Vô Lượng Thọ,
quỷ thần được siêu độ chỉ hưởng
một bộ, tức một phần bảy. Do bảy người,
họ mới được hưởng trọn phần.
Người niệm kinh được sáu phần, họ
được một phần. Do vậy, tùy văn nhập
quán trọng yếu, bất luận tu học pháp môn nào, đây
là đại tiền đề. Hiện thời, xác thực
là người nói [chuyện này] chẳng nhiều, kẻ biết
tới càng ít. V́ thế, tuy hằng ngày thực hiện công
phu mà chẳng đắc lực!
Chúng ta cũng đă làm khá chu
toàn chuyện này, nhưng đạo tràng vẫn cứ sơ
sót y như cũ! Trong quá khứ, tôi đă từng nói, chẳng
thể nói hoài. Nói hoài, người ta sẽ bảo tôi cứ
lải nhải. Ví như làm Tam Thời Hệ Niệm Phật
sự, trước khi làm một tuần, nhất định
phải đem nghi quy Tam Thời Hệ Niệm nghe một
lượt! Hiện thời có đĩa CD, hăy nghe kỹ càng
một lượt. Sau khi đă nghe xong, quư vị mới bắt
đầu làm. Tâm cảnh của quư vị sẽ khác hẳn,
niệm đến chỗ nào, biết ư nghĩa là ǵ. V́ thế,
hiện thời xác thực là mỗi ngày phải nghe kinh, mỗi
ngày phải niệm Phật. Kẻ sơ học công phu chưa
đắc lực, phải đổ công sức nghe kinh nhiều
hơn, ngơ hầu hiểu rành rẽ, hiểu rơ ràng. Kẻ
công phu đă đắc lực bèn dụng công dốc sức
niệm Phật nhiều hơn. Có c̣n phải nghe kinh hay không?
Phải nghe! V́ sao? Làm Ảnh Hưởng Chúng. Người
ta thấy quư vị tu rất khá, [sẽ nói]: “Quư vị thấy
người đó [tu hành tinh tấn như vậy mà c̣n] hằng ngày nghe kinh, ta tu hành chẳng nên thân, làm sao có thể chẳng
nghe kinh cho được?” Ảnh hưởng người
khác. Quư vị thật sự tu rất khá, tâm vô nhị dụng,
tuy ngồi nơi đó nghe kinh, trong tâm quư vị vẫn niệm
Phật, Phật hiệu của quư vị chẳng gián đoạn,
ngồi ở đó làm Ảnh Hưởng Chúng, đấy là Bồ
Tát. Bồ Tát phát tâm, chỗ nào cũng đều giúp đỡ
người khác. Chỗ nào cũng đều dẫn dắt
kẻ khác!
V́ thế, “chánh thân đoan tọa”, quư vị ngồi vào chỗ
của ḿnh, bất luận hiện thời là Thiền
đường, Niệm Phật Đường, hay giảng
đường, đều có chỗ ngồi. Ngồi vào
chỗ bèn “đương nguyện
chúng sanh, tọa Bồ Đề ṭa” (nguyện cho chúng
sanh, ngồi ṭa Bồ Đề).
“Bồ Đề ṭa” là ṭa của Thích Ca Mâu Ni Phật. Bồ
Đề (Bodhi) là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng
Hán là “giác ngộ”. Tâm chỉ
cần giác chứ không mê, chánh chứ không tà, tịnh chứ
chẳng nhiễm, chỗ quư vị ngồi sẽ được
gọi là “Bồ Đề ṭa”,
không nhất định phải t́m đến cội cây Bồ
Đề. Bất cứ chỗ ngồi nào, nơi Bồ
Tát ngồi sẽ là Bồ Đề ṭa. V́ sao? Ngài có Bồ
Đề tâm. Bồ Đề tâm là ǵ? “Tâm vô sở trước” (Tâm chẳng
chấp trước), tịnh chứ chẳng nhiễm, chánh
chứ không tà, giác chứ không mê, tâm địa thanh tịnh,
b́nh đẳng, giác. Tựa đề kinh Vô Lượng Thọ
đă nêu ra cương lănh tu học. Đấy là tổng
phương hướng, tổng mục tiêu, là nguyên tắc
chỉ đạo chung! Tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn,
bất luận Đại Thừa hay Tiểu Thừa, Tông
Môn hay Giáo Hạ, Hiển Giáo hay Mật Giáo, đều chẳng
thể ĺa khỏi cương lănh này. Hễ ĺa khỏi cương
lănh này, sẽ chẳng phải là Phật pháp. Tương ứng
với cương lănh ấy, ṭa ấy chính là Bồ Đề
ṭa, chỗ quư vị ở sẽ là “vô thượng đường”. Vô thượng
đường ở chỗ nào? Chỗ Bồ Tát ở chính
là vô thượng đường, chỗ Bồ Tát ngồi
chính là Bồ Đề ṭa. Chúng ta nhất định phải
hiểu đạo lư này!
Trong giáo pháp Đại Thừa
tu ǵ vậy? Tu “tâm vô sở
trước” (tâm chẳng chấp trước). Nếu
quư vị hỏi v́ sao ư? Trong phẩm [Như Lai] Xuất
Hiện của kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đă dạy
rơ ràng dường ấy: “Hết thảy chúng sanh
đều có trí huệ và đức tướng của Như
Lai, chỉ v́ vọng tưởng, chấp trước mà chẳng
thể chứng đắc”, câu nói ấy đă quá rơ ràng!
Nếu nay tâm chúng ta chẳng chấp trước, chẳng
phải là trí huệ và đức tướng giống như
hết thảy chư Phật đều hiện tiền ư?
Phật, Bồ Tát từ bi, từ bi đến tột bậc,
chẳng hề giấu giếm mảy may! Nếu quư vị
thật sự hiểu, đó gọi là “ngay lập tức bèn đảm đương”,
quư vị hoàn toàn tiếp nhận, sẽ lập tức thành
Phật. “Phóng hạ đồ
đao, lập địa thành Phật” (Buông dao mổ
xuống, ngay lập tức thành Phật). Dao mổ là tỷ
dụ, tỷ dụ điều ǵ vậy? Tỷ dụ vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước. Quư vị chỉ
cần buông xuống những thứ ấy, sẽ ngồi
ṭa Bồ Đề. V́ sao chẳng buông xuống được?
Nếu quư vị chẳng buông xuống được, Bồ
Đề tâm sẽ vĩnh viễn chẳng thể hiện
tiền, quư vị học Phật nỗi ǵ!
Hai nguyện sau nói đến
pháp tu tập của Bồ Tát. Nguyện thứ tư nói về
Định, nguyện thứ năm nói về Quán. Quán là Huệ,
chẳng có ǵ khác! Bốn điều trước thuộc
về Giới, là quy củ, là tiền phương tiện.
Quư vị nh́n vào sự tu học của họ, có phải là
Tam Học Giới, Định, Huệ hay không? Nay chúng ta tu
hành, chẳng lănh ngộ nguyên tắc này! Chẳng tương
ứng với nguyên tắc này, sẽ là như cổ nhân đă
nói, lời lẽ rất khó nghe! “Tu
mù luyện đui!” Tuy rất dụng công, công phu chẳng
đắc lực. Công phu chẳng đắc lực th́ phải
biết là do quư vị chẳng đoạn tập khí phiền
năo, thành thử công phu chẳng đắc lực. Nếu công
phu đắc lực, tập khí phiền năo sẽ ngày một
ít đi, trí huệ ngày một tăng trưởng. Đó gọi
là “phiền năo khinh, trí huệ
trưởng” (phiền năo nhẹ nhàng, trí huệ tăng
trưởng). Đấy là trạng huống công phu đắc
lực. Phiền năo vẫn y như cũ, thậm chí phiền
năo c̣n tăng trưởng, trí huệ sẽ chẳng có. Thật
đấy, chẳng giả tí nào!
Nếu quư vị hơi lưu
ư, nơi nơi chốn chốn quư vị đều có thể
trông thấy! Trong đạo tràng có người làm công quả,
khi họ chẳng làm công quả, phiền năo nhẹ nhàng, có
chút trí huệ. Vừa làm công quả, phiền năo hiện tiền,
chẳng có trí huệ! Khi người ta chẳng có chuyện
ǵ, tâm khá thanh tịnh, dễ dàng thanh tịnh. Do vậy, tu
hành trong thời cổ, năm năm đầu học Giới!
Sau đấy, tiến nhập các điện đường,
họ sẽ buông xuống, làm đại chúng thanh tu! Kẻ
học Giáo th́ hằng ngày nghe kinh, nghiên cứu Giáo, chuyên chú
nơi giáo lư, họ sẽ buông xuống trong giảng
đường. Kẻ niệm Phật tu nhất tâm bất
loạn. Kẻ tham Thiền bèn học “tâm chẳng trụ vào đâu”, công phu sẽ dần
dần đi vào nề nếp. Hiện thời, chẳng dễ
t́m được một hoàn cảnh như vậy, chẳng
t́m thấy! V́ thế, Ấn Quang đại sư dạy
chúng ta nếu làm Niệm Phật Đường, đừng
vượt quá hai mươi người, có lư lắm! Quư vị
thật sự tu! Nếu đông người, sẽ trở
thành náo nhiệt, chẳng thể thanh tịnh. Không vượt
quá hai mươi người, chính là sự chỉ đạo
cao minh nhất! A! Bây giờ đă hết thời gian rồi,
chúng tôi giảng tới chỗ này!
***
Chư vị đồng học,
xin hăy ngồi xuống. Xem bài kệ kế tiếp là bài thứ
tư:
(Kinh) Kết già phu tọa,
đương nguyện chúng sanh, thiện căn kiên cố,
đắc bất động địa.
(經) 結跏趺坐。當願眾生。善根堅固。得不動地。
(Kinh: Khi ngồi xếp bằng,
nguyện cho chúng sanh, thiện căn kiên cố, đạt
bất động địa).
“Già
phu” (跏趺) chính là
“ngồi xếp bằng” như thế tục thường
nói: Trước hết, ngồi xuống, sau đấy xếp chồng hai chân. Quư vị thấy tư thế ngồi này được
nói rất cặn kẽ. Bài kệ trước là ngồi
xuống, sau khi đă ngồi, lại khoanh chân xếp bằng. Nói
thật ra, ngồi xếp bằng ổn thỏa nhất.
Có thể ngồi trong một thời gian lâu, chẳng mệt. Diện
tích phía dưới lớn, sẽ ngồi rất ổn, rất
thoải mái. Tư thế ngồi này phải luyện tập
từ lúc trẻ, chứ tuổi đă cao, xương đă
cứng, huyết mạch chẳng lưu thông thông suốt,
chẳng có trở ngại ǵ
như khi c̣n trẻ. V́ thế, quư vị
ngồi lâu sẽ bị tê. Nguyên nhân gây tê là do huyết mạch
và huyết khí không thông, bị chèn ép! Tuổi càng trẻ, đùi
c̣n mềm, ngồi thành thói quen, quư vị sẽ cảm
thấy rất thoải mái! So với hiện thời chúng
ta ngồi ghế tựa, buông hai chân xuống, gọi là “ngồi
thơng chân” th́ thoải mái hơn nhiều. Do vậy, nhất
định phải dưỡng thành thói quen. Người
tuổi đă cao, chẳng có cách nào xếp bằng, cũng
chớ nên miễn cưỡng. Xếp bằng th́ có đơn
bàn và song bàn[3]; đương
nhiên là song bàn tốt nhất. Chẳng thể ngồi song bàn
th́ đơn bàn.
Tu hành, có thể nói là pháp thế
gian hay xuất thế gian pháp đều cần tuổi trẻ,
khi tu học phải c̣n trẻ. Huệ Năng đại
sư khai ngộ, Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn Ḥa Thượng
truyền y bát cho Ngài, Ngài thành vị tổ đời thứ
sáu của Tông Môn. Khi ấy, Ngài chỉ hai mươi bốn
tuổi, tuổi rất trẻ! Bất luận làm ǵ, chỉ
có tuổi trẻ th́ mới có thể lực, mới có tinh
thần. Then chốt để thành hay bại là như trong
phần mở đầu của phẩm kinh này, Văn Thù Bồ
Tát đă dạy, “thiện dụng
kỳ tâm” (khéo dùng cái tâm), quư vị sẽ thành công. Chẳng
khéo dụng tâm, quư vị sẽ thất bại. Đúng vậy,
câu nói ấy chính là chỗ then chốt. Đương nhiên
là thành hay bại c̣n phải có trợ duyên, [duyên] cũng hết
sức quan trọng là thầy. Thuở trẻ, gặp một
vị thiện tri thức thật sự, quư vị sẽ
có thể thành tựu trong đời này. Chẳng gặp chân
thiện tri thức, sẽ rất khó khăn. Kinh tạng
trong Phật pháp nhiều ngần ấy, cổ nhân nói là “hạo như yên hải” (mênh
mông như khói lan tỏa trên mặt biển), nhập môn từ
chỗ nào? Do đó, phải có thiện tri thức chỉ
đạo, điều này là then chốt. Trừ điều
này ra, đương nhiên là trợ duyên từ các đồng
tham đạo hữu và đạo tràng cũng hết sức
trọng yếu, nhưng trong xă hội hiện tiền, điều
này càng ngày càng khó!
Đồng thời, phải
biết thắng duyên (勝緣, duyên thù
thắng) chẳng c̣n măi. Từ xưa tới nay là như
thế! Quư vị phải nhận biết cơ duyên, phải
nắm chắc cơ duyên, thời tiết nhân duyên chẳng
lâu dài! V́ thế, quư vị phải nhận biết, phải
có thể nắm chắc. Một ngày có nhân duyên của một
ngày, một năm có nhân duyên của một năm, từ xưa
đến nay, Trung Hoa hay ngoại quốc đều chẳng
khác nhau! Thông thường là cái duyên tốt đẹp khoảng
chừng ba năm, sau ba năm, có thể sẽ nẩy
sanh biến hóa. Chớ nên không biết điều này! Khổng
phu tử đă nói: “Nhân tồn
chánh cử, nhân vong chánh tức” (Người
c̣n th́ nền chánh trị chánh đáng được áp dụng,
người mất th́ sự cai trị tốt đẹp
chấm dứt). “Nhân” ở
đây chính là thiện tri thức. Thiện tri thức c̣n th́
thiện duyên mới có thể duy tŕ. Thiện tri thức mất,
duyên sẽ chẳng thể duy tŕ. V́ thế, chẳng thể
không nắm chắc. Hăy nắm thật chặt, nghiêm túc nỗ
lực học. Đă t́m được phương pháp và
đường lối, dẫu ĺa khỏi thiện tri thức,
chính ḿnh cũng biết hăy nên đi như thế nào.
Duyên phận giữa tôi và thầy
Phương là thầy hướng dẫn tôi nhập môn,
thời gian chẳng dài. Đă nhận biết Phật pháp,
khi ấy gặp gỡ Chương Gia đại sư, tôi
theo lăo nhân gia ba năm, Ngài viên tịch, đă đi rồi.
Trong ba năm ấy, chúng tôi gặp mặt mỗi tuần
một lần. Đại khái, tôi tính thử, một năm
được gặp Ngài từ bốn mươi lần
cho đến năm mươi lần. Tiếp nhận giáo
huấn của Ngài, mỗi lần gặp mặt khoảng
chừng hai giờ, học tṛ chỉ có ḿnh tôi. Sau khi thầy
đă khuất núi một năm, lăo cư sĩ Châu Kính Trụ
giới thiệu cho tôi quen biết thầy Lư, cũng là vừa
gặp mặt bèn rất hợp duyên. Thầy giảng kinh
rất hay, càng nghe càng hoan hỷ. Đồng học cũng
đều rất khá, rất đông, tôi thấy vậy hết
sức hâm mộ. Họ đă theo thầy hơn mười
năm, tôi là kẻ đến sau!
Khi đó, tôi đă nghĩ làm
thế nào để có
thể đuổi kịp họ, dấy lên
ư niệm như thế đó. Gặp pháp sư Tâm Ngộ ở
chùa Lâm Tế mời tôi xuất gia. Tôi nghĩ là cơ hội
đă đến rồi. Dùng thân phận cư sĩ ở
lại Đài Trung, thầy giao cho tôi công việc làm nhân viên
quản lư Từ Quang Đồ Thư Quán. Đồ Thư
Quán có tất cả ba người, trông nom sách vở và trông
coi pḥng đọc sách là hai người, người c̣n lại
sẽ trông nom những việc linh tinh khác. Mỗi ngày làm việc tám giờ,
buổi tối nghe thầy giảng kinh. Mỗi tuần ba
lượt [nghe giảng], hai lần nghe kinh, một lần
nghe giảng cổ văn. Khi đó, thầy giảng bộ
Cổ Văn Quán Chỉ. Mỗi tuần có ba buổi học,
tức là thứ Tư, thứ Sáu và Chủ Nhật, mỗi
tuần học ba buổi. Thời gian c̣n lại dành cho quư
vị tự học. V́ thế, có rất nhiều người
nói: “Anh ở Đài Trung, cái được chẳng bù nổi
cái mất!” Tôi hỏi: “Sao vậy?” “Anh thấy mỗi tuần
chỉ học ba giờ, anh đến học trong Phật
Học Viện sẽ tốt hơn!” Tôi thưa cùng họ:
“Xét theo năng lực của tôi, ba buổi học hết
sức thích hợp. V́ sao? Tôi có thể tiêu hóa. Nếu mỗi
ngày đều có lớp, tôi sẽ chẳng tiêu hóa
được”. Kẻ b́nh phàm chẳng biết điều này!
Thầy dạy mọi
người “thâm nhập một
môn, huân tu dài lâu”. Ba buổi học, hai buổi do thầy
dạy, buổi c̣n lại là do các vị đồng học
luyện giảng, chúng tôi đều phải đến dự
thính, đều phải đến nghe. Nghe xong, có thể
phê b́nh, giúp họ cải tiến. Học được những phương pháp giảng kinh ấy. Nói thật ra, mỗi
tuần thầy giảng kinh một lần, hai buổi học
chỉ là một giờ, giờ kia dành để dịch
sang tiếng Đài, tức là tiếng Mân Nam[4].
Do đó, hai tiếng đồng hồ, trên thực tế là
một tiếng đồng hồ nghe kinh. Cổ văn giảng
hai tiếng đồng hồ, không có phiên dịch. Đấy
chính là ba giờ nghe giảng mỗi tuần[5].
Do vậy, tôi nghe kinh, c̣n có trọn đủ thời gian
để chuẩn bị. Thầy giảng bộ kinh nào, tham
khảo tư liệu nào, tôi đều t́m kiếm. Pháp
sư Trí Khai ở Hương Cảng đă giúp đỡ
tôi rất nhiều, tài liệu tham khảo của tôi không
thiếu khuyết, c̣n nhiều hơn thầy nữa! Tôi
xem trước, xem những bản chú giải của các vị
cổ đại đức, sau đấy nghe thầy giảng,
nghe xem thầy giảng như thế nào! Ngạn ngữ có
câu: “Hành gia thính môn đạo,
ngoại hành đích nhân thị khán nhiệt náo” (Bậc
thật sự thông hiểu sẽ nghe ra đường lối,
kẻ lơ mơ ngoài ŕa xem náo nhiệt). Kể như tôi
hiểu một chút bí quyết! Cũng có nghĩa là do tôi đă
xem trước nhiều tài liệu như thế, nếu tôi
lên giảng đài để giảng kinh khi ấy, tôi sẽ
giảng theo cách nào. Nghe xem cách giảng của thầy, [nhận
biết] tôi thua kém chỗ nào, tôi học điều này!
V́ thế, thầy giảng một
giờ, tôi tối thiểu phải dùng ba mươi giờ
để làm công tác chuẩn bị cho việc nghe kinh. Sau khi tôi nghe thầy giảng kinh, ngày hôm sau phức
giảng (複講), tức là nhắc lại những ǵ thầy đă
giảng một lượt, tôi có thể giảng đến
chín mươi lăm phần trăm! Có năng lực ấy,
gần như là giảng giống hệt như thầy. Tôi
không cần soạn bài giảng, không cần viết bút kư. Thuở trẻ, trí nhớ rất tốt, sức lư giải
cũng tốt lắm. Tôi giảng c̣n hoạt bát, sinh động
hơn thầy; do đó, tôi hết sức được
thọ dụng bởi chương tŕnh học ấy. Khi ấy,
tôi có một người bạn thân là pháp sư Huệ Nhẫn.
Sư lớn hơn tôi năm tuổi, cũng rất thông
minh. Tôi rủ Sư cùng đến Đài Trung theo thầy Lư
học Giáo. Dường như Sư ở nơi đó bốn
tháng liền bỏ đi, chẳng chịu nổi! Sư nói:
“Ở đây chẳng học được ǵ! Mỗi tuần
lên lớp quá ít!” Sư trở lại Đài Bắc làm kinh
sám. Chưa đầy một năm, Sư đă tạo lập
đạo tràng, rất khó có, theo đuổi chuyện kinh
sám để kiếm tiền. Về sau, Sư sang Hương
Cảng, h́nh như đă qua đời mấy năm
trước! Rốt cuộc trắng tay!
Đấy là ǵ? Thật sự
có thiện tri thức, có đồng tham đạo hữu
tốt đẹp, lại có đạo tràng để có thể thành tựu, [thế mà] chẳng chịu nắm
lấy cơ hội, hết sức đáng tiếc! Thầy
rất vui ḷng dạy kẻ khác, quư vị chẳng chịu
học, chẳng có cách nào cả! V́ thế, sau khi đă nhận
biết cơ hội, quư vị phải định cái tâm, “thiện căn kiên cố, đắc
bất động địa”. Ai nấy đều có thiện
căn. Kẻ học Phật nào mà chẳng có thiện căn?
Chẳng có thiện căn, quư vị sẽ chẳng ngồi
ở nơi đây hai tiếng đồng hồ nổi! Có
thể ngồi hai tiếng đồng hồ, chứng tỏ
quư vị có thiện căn sâu dầy! Nhưng như thế nào? Chẳng
kiên cố! Hễ kiên cố, quư vị sẽ bất động.
Học tập chưa thành tựu, quyết định chẳng
ĺa khỏi!
Tôi mong học bí quyết thầy
sử dụng để biểu diễn trên giảng đài.
Nói thật ra, tối đa là một tháng quư vị đă học
hiểu bí quyết ấy. Tôi ở Đài Trung đại khái
chẳng cần đến một tháng, hai tuần thôi! V́
thầy Lư có trước tác Nội Điển Giảng Ṭa
Chi Nghiên Cứu và Thực Dụng Giảng Diễn Thuật,
kể như là hai bộ pháp bảo, trong ṿng hai tuần, tôi
đă học hiểu. Nhưng như thế nào? Học hiểu
th́ học hiểu vậy đó, lên giảng đài chẳng
biết vận dụng như thế nào! Học
tài liệu giảng dạy ấy giống như học Tôn
Tử Binh Pháp[6], hai tháng là đă
có thể thuộc nhuyễn nhừ sách Tôn Tử Binh Pháp, nhưng
trên chiến trường, sẽ không thể giao chiến nổi!
Chỗ mầu nhiệm trong việc vận dụng là do nhất
tâm. Vận dụng là sống động; v́ thế, phải
trường kỳ theo thầy quan sát, học tập, xem
thầy vận dụng trên bục giảng như thế nào.
Thầy chẳng có cách nào dạy quư vị điều này
được, nó là sống động, phải cẩn thận
quan sát trong một thời gian dài mới biết trên bục
giảng, thầy tùy ḷng vận dụng, đâu đâu cũng
hợp lẽ, thuận lợi. Đấy chẳng phải là công phu trong một sớm
một chiều [mà ḥng đạt được]!
Ở Đài Trung, tôi và các bạn
học đều theo học với thầy Lư, nhưng không
giống nhau. Họ học theo ngôn giáo của thầy, những
điều thầy đă giảng họ đều ghi thành
bút kư. Sau đấy, dựa theo đó để giảng. Tôi
chẳng làm vậy, tôi không biên chép, chẳng cần phải
ghi lại. V́ sao? Tài liệu chú sớ của cổ đức
dùng để tham khảo quá nhiều, điều khẩn
yếu là phương pháp, kỹ xảo; những thứ này
sống động. Tôi ở nơi đó mười năm
để học những điều này, hiểu rơ cách nghĩ
và phương pháp của thầy. Thầy giảng giải,
thích liệt kê những điểm đại cương,
viết thành đại cương, tôi hoàn toàn có thể đọc
hiểu.
Ở Đài Trung, tôi cũng đă
có thí nghiệm một lần. Thầy giảng kinh Kim Cang,
khi đó, tôi ở Đài Bắc. Tôi xin lăo ḥa thượng
trong đạo tràng cho nghỉ phép để lại đến Đài Trung học Giáo, do luôn cảm thấy
chính ḿnh học chưa đủ. Coi như được
lăo ḥa thượng chấp thuận, tôi đến Đài
Trung, thầy Lư đă giảng kinh Kim Cang hơn một tháng.
Chư vị phải biết, một tháng có bốn giờ,
tôi chẳng được nghe bốn giờ đầu,
chẳng được nghe đă bốn lần rồi! Tôi
liền xin một vị đồng học là cư sĩ
Châu Gia Lân, là một bạn học thân thiết, giảng bù
lại cho tôi: “Những ǵ thầy đă giảng trong lần trước,
xin ông nhắc lại cho tôi nghe một lượt”. Ông ta cũng
rất từ bi đáp ứng. Khi giảng, rất trúc trắc,
loạc choạc, do chiếu theo bút kư để giảng.
Sau đấy, tôi nói: “Như vậy là được rồi,
thầy có soạn sườn bài giảng, tôi có thể chiếu
theo sườn bài để giảng một lượt. Các
vị nghe thử xem tôi có giảng trật chỗ nào hay không?”
Họ cũng đồng ư. Bảy người bạn học
của tôi họp thành một lớp nhỏ, bảy người
chúng tôi họp nhau lại để phức giảng một
lần, mười năm như một ngày. Đồng
tham đạo hữu chẳng dễ dàng, có [những vị
thiện hữu như] Từ Tỉnh Dân, Châu Gia Lân.
Tôi giảng xong, bước
xuống, mấy người họ hỏi: “Ông làm sao mà giảng
giống hệt như thầy vậy?” Lần đầu
tiên làm thí nghiệm. Tôi bảo họ: “Tôi theo thầy thời
gian tuy chẳng dài, hai năm thôi! Nhưng tôi hiểu tư
tưởng và phương pháp của thầy. Do đó, tôi
nắm được đề cương của thầy,
cơ bản là chẳng sai khác cho mấy!” V́ thế, tôi chẳng
nghe [thầy giảng] bốn lần trước, [thế
mà] tôi giảng cho họ nghe, họ ấn chứng cho tôi! Điều
này có nghĩa là: Tuy có thiện căn, phải kiên cố, phải
chẳng dao động th́ mới có thể thành tựu.
Thường xuyên thay đổi thầy, thường xuyên
đổi khoa mục, thường xuyên đổi đạo
tràng, rất khó thành tựu! V́ sao? Tâm quư vị chẳng
định! Nếu chúng ta muốn thành tựu, từ bài kệ
“nhược kết già phu”
này, quư vị có thể thấu hiểu, phải định!
Có thiện căn kiên cố rất sâu, có năng lực thâm
nhập một môn, huân tu lâu dài, quyết định theo một
vị thầy tới cùng th́ mới có thể thành tựu.
Do vậy, đối với
cách dạy trong Phật Học Viện, sau khi đến Đài
Trung, tôi mới hoảng nhiên đại ngộ. Về sau,
có rất nhiều Phật Học Viện mời tôi đến
dạy, tôi không đến. V́ sao? Gây lầm lạc cho con em
người ta, học sinh chẳng được thọ
dụng! Khóa tŕnh trong Phật Học Viện giống như
nhà trường [thế gian], phỏng theo [cách huấn luyện
trong] nhà trường, tuy đều là giảng kinh Phật,
nhưng khác hẳn! Ví như trong tiết học thứ nhất,
thầy Giáp giảng kinh Di Đà. Tiết học thứ hai
lại đổi thầy, giảng phẩm Phổ Môn. Kinh
Di Đà trong tiết trước c̣n chưa lưu lại ấn
tượng; tiết sau lại đổi thành phẩm Phổ
Môn. Buổi học sau biến thành phẩm Phổ Môn, tâm học
sinh bị loạn. Như vậy th́ ba năm tốt nghiệp,
tốt nghiệp từ Phật Học Viện, thứ ǵ cũng
chẳng hiểu. Thật sự dụng công, [chỉ là] đạt
được một chút thường thức Phật pháp
hời hợt bên ngoài! Làm sao có thể thọ dụng cho
được?
Sau khi chúng tôi đến Đài
Trung, mới biết phương pháp do thầy Lư sử dụng
chính là biện pháp dạy học trong trường tư thục thời cổ.
Tuy trong lớp có hơn hai mươi học tṛ, mỗi tṛ chỉ có
thể học một bộ kinh, có thể chọn kinh khác
nhau. V́ thế, mỗi đồng học chúng tôi chọn
kinh, mỗi người học khác nhau, nhưng thầy dạy
người khác, quư vị có thể nghe ké, thảy đều
cùng nghe với nhau, nhưng mỗi người thâm nhập
một môn, huân tu lâu dài, chú trọng điều này! Thầy
Lư bảo tôi: - Anh thấy hơn hai mươi vị đồng
học, người phát tâm học bộ kinh này sẽ phải
[lên bục] giảng. Ngày Chủ Nhật, người ấy
phải phức giảng, phải giảng cho đại
chúng nghe. Thính chúng đại khái gần như khoảng một
trăm người, [do
vậy người phức giảng] rất dụng công, chỉ sợ giảng không
được! Các đồng học khác nghe ké, mọi người
giúp người ấy ghi bút kư, v́ mỗi người rất
khó thể mong ghi lại [lời thầy giảng] hoàn chỉnh được! Chúng tôi cũng chưa học
kỹ xảo tốc kư, nghe được bao nhiêu viết
bấy nhiêu. Sau khi đă ghi chép, đều giao cho người
ấy. Người ấy quay về tham khảo, soạn bài
giảng. Các đồng học giúp đỡ người ấy!
Tôi đến cuối cùng, tên
được xếp cuối cùng. V́ thế, chưa đến
phiên tôi, tôi đă rời khỏi Đài Trung, xuất gia. Nhưng
trí nhớ và sự lư giải của tôi đều mạnh
hơn họ. Nghe một lần, tôi đă có thể phức
giảng. Tôi ở Đài Trung một năm ba tháng, tức
là mười lăm tháng, nghe thầy Lư dạy học, giảng
mười ba bộ kinh. Đại khái, tốc độ
tiến triển của thầy gần như là mỗi bộ
kinh giảng một tháng. Một tháng là năm lần giảng,
tôi học hiểu từ đó. Tôi vừa xuất gia bèn dạy
tại Phật Học Viện. Học được
mười ba bộ kinh tại Đài Trung bèn đi biểu
diễn. Thành tích biểu diễn vẫn c̣n khá, c̣n
được đại chúng hoan nghênh, nhưng trong tâm chính
ḿnh hiểu rơ ràng: Chẳng có bề sâu, chỉ có hời hợt
bề ngoài. Do vậy, nhất định phải quay về.
Thế nào đi nữa cũng phải quay về, về lại
Đài Trung theo thầy một thời gian dài th́ mới có
thể thâm nhập. Thời gian ngắn ngủi chắc chắn
sẽ không được! V́ thế, tôi trở về, thầy
hoan hỷ. Đấy chính là kinh nghiệm tu học của
bản thân tôi.
Hai chữ “bất động” chính là then chốt. Quư vị
thấy trong sáu phương Phật từ kinh Di Đà, vị
thứ nhất là A Súc Bệ Phật, dịch sang nghĩa
tiếng Hán, sẽ là Bất Động. Để thành tựu
pháp thế gian lẫn Phật pháp, đấy là then chốt.
Chỉ cần quư vị có thể bất động, tâm quư
vị định lại ở nơi ấy, lẽ nào
chẳng thành công? Chúng ta
lại nghĩ tới những vị tổ
sư đại đức từ thời cổ, các Ngài dùng
ǵ để thành tựu? Chính là “đắc
bất động địa” (đạt địa vị bất
động)! Vị tổ sư thứ nhất
của Tịnh Độ Tông là Huệ Viễn đại
sư, là người sống vào thời Đông Tấn, khi
đó cũng là thời loạn. Tại Lư Sơn ở
Giang Tây, Ngài lập Niệm Phật Đường, tức
Đông Lâm Niệm Phật Đường, nay gọi là chùa
Đông Lâm, là nơi tu học của Viễn công đại
sư. Tập hợp những vị đồng tu chí đồng
đạo hợp, có tại gia, có xuất gia, một
trăm hai mươi ba vị, ai nấy đều thành tựu!
Một trăm hai mươi ba vị ấy đều là
nam giới, chẳng có nữ giới, lấy Hổ Khê làm
giới hạn, tâm đều định trong ấy. Kết
giới, trọn chẳng ra ngoài giới tuyến. V́ thế,
tâm họ định, do tâm chuyên, cho nên mới thành tựu.
Nếu du hóa khắp nơi, tham phỏng khắp nơi, sẽ
rất khó, chẳng thể thành tựu!
Mấy năm trước, tôi
sang thăm Nhật Bản. Núi Tỷ Duệ (Hiei-zan) của
Nhật Bản là thánh địa Phật giáo, người
địa phương gọi nơi ấy là “mẹ của Phật giáo Nhật
Bản”. Nhật Bản có mười ba tông phái, mười
ba vị tổ sư đều từ núi ấy mà ra. Tôi hỏi
vị thầy Đương Gia trên núi: “Trong quá khứ, những
vị tổ sư đại đức tu hành ở trên núi
bao lâu? Ở trên núi bao lâu?” Sư cho biết, tối
thiểu là từ mười sáu năm trở lên! Tôi nghe
xong, hiểu rơ. Tôi lập Tịnh Tông Học Viện tại
Úc, yêu cầu các đồng học: “Quư vị đến học
viện học tập, tối thiểu là chín năm chẳng
xuống núi, quư vị sẽ có thành tựu”. Khi đó, tôi
nghĩ: “Thời gian chín năm có phải là dài quá hay chăng?”
Trong chín năm ấy, hai năm đầu để học
những môn chuẩn bị, tức là học tập Đệ
Tử Quy, kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo và Sa Di
Luật Nghi. Trong những trước tác của cổ nhân
th́ có thiên sách Đồng Mông Dưỡng Chánh (bồi dưỡng những điều
chánh đáng cho trẻ thơ) là thiên thứ nhất trong bộ Ngũ Chủng Di
Quy và Liễu Phàm Tứ Huấn, chọn đọc những
thứ trọng yếu trong ấy, dùng hai năm để
đặt vững cơ sở. Năm thứ ba, thứ tư
và thứ năm, trong ba năm ấy, học tập năm
kinh một luận của Tịnh Tông, quư vị đối
với kinh sách của Tịnh Tông đều thân thuộc.
Bốn năm cuối cùng, chuyên đổ công dốc sức
nơi một môn. Quư vị chọn một môn trong năm
kinh một luận, dùng thời gian bốn năm để
học tập, như vậy th́ sẽ có thể thành tựu.
Nếu khắp nơi có người thỉnh, hễ được
thỉnh liền đến đó, sẽ chẳng thể thành
tựu! Quư vị chỉ kết pháp duyên với các nơi,
khiến cho sự tu hành và giáo học của chính ḿnh bị
lỡ làng, sai mất rồi!
Họ thấy tôi, tôi suốt
đời chẳng có đạo tràng. V́ thế, chỗ nào
mời tôi giảng kinh, tôi sẽ đến, đấy
là chuyện bất đắc dĩ. Họ chẳng thấy
tôi theo Chương Gia đại sư ba năm, tôi theo thầy
Lư năm năm, năm năm cuối tuân thủ nguyên tắc,
hoàn toàn chẳng ở Đài Trung. Năm năm đầu
là ở Đài Trung. Chẳng có thời gian dài ngần ấy,
sẽ chẳng được! Làm sao quư vị có thể thành
tựu cho được? Người hiện thời ngày
càng chẳng có kiên nhẫn, tỷ lệ thành tựu ngày càng
hiếm hoi! V́ thế, tôi nói: “Cố nhiên là thiện căn sâu
dầy, nhưng chẳng kiên cố!” Xuất gia là như thế,
mà tại gia cũng chẳng phải là ngoại lệ. Tại
gia có thể thành tựu hay không? Có thể chứ! Người
thành tựu rất đông! V́ sao họ thành tựu? Một
vị thầy, một pháp môn, một đạo tràng, tuyệt
đối chẳng phải là đi lung tung. Đối với
bất cứ đạo tràng nào và bất cứ pháp sư nào
cũng đều tôn kính, nhưng chính ḿnh học theo một
vị thầy, một đạo tràng. V́ sao? Cái tâm sẽ định!
Có thắc mắc, có nghi hoặc,
hăy hướng về thầy thỉnh giáo, chớ nên nghe lời
kẻ khác. Dẫu là pháp sư, mỗi vị pháp sư học
pháp môn khác nhau, tri kiến chẳng giống nhau. Quư vị
theo học với một người, sẽ là một con
đường. Theo học với hai người, sẽ
là hai con đường. Theo học với ba người,
trở thành ngă ba. Theo học với bốn người, trở
thành ngă tư. Quư vị đi theo hướng nào? Chớ nên
không hiểu đạo lư này! V́ sao trong Phật môn lại
có tham học? Tham học là ǵ? Là chuyện sau khi đă tốt
nghiệp. Kinh Hoa Nghiêm là khuôn mẫu: Thiện Tài đồng
tử theo một vị thầy, tức Văn Thù Bồ Tát. Trong hội của
Văn Thù Bồ Tát, Ngài thành tựu Căn Bản Trí.
Căn Bản Trí là ǵ? Đắc bất động địa,
thành tựu Căn Bản Trí. Nói theo kiểu hiện thời,
Thiện Tài đă
minh tâm kiến tánh, đại triệt
đại ngộ. Làm thế nào để có thể bất
động? Đoạn vọng tưởng, đoạn
phân biệt, đoạn chấp trước. Đối trước cảnh
giới sáu trần, sáu căn như như bất động,
như kinh Kim Cang đă nói: “Ngoài
chẳng giữ lấy tướng, trong chẳng động
tâm”. Quư vị sẽ thành tựu nơi vị thầy ấy,
tốt nghiệp. Sau khi đă tốt nghiệp, thầy sẽ
bảo quư vị tham học. V́ sao? Tham học nhằm viên
măn Hậu Đắc Trí, cũng là vận dụng Căn Bản
Trí vào công việc, xử sự, đăi người, tiếp vật trong cuộc sống hằng ngày.
Kinh Bát Nhă dạy: “Bát Nhă vô tri, không ǵ chẳng biết”.
Buông xuống vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước, sẽ là “vô tri”.
“Phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân” là
“vô tri”. Khởi tác dụng
là ǵ? Chúng sanh ở nơi đâu có cảm, quư vị sẽ
ứng, cảm ứng đạo giao cùng hết thảy
chúng sanh trong mười pháp giới. Đáng nên dùng thân ǵ
để đắc
độ, bèn hiện thân ấy, phải nên
nói pháp ǵ, quư vị liền nói pháp ấy. Không ǵ chẳng biết,
không ǵ chẳng thể, tham học đấy! Do vậy, trong
phần sau [kinh Hoa Nghiêm] có năm mươi ba lần tham học.
Chẳng đắc Căn Bản Trí, cũng có nghĩa là
chẳng minh tâm kiến tánh, hoặc chúng ta nói cách khác, quư vị
c̣n chưa buông xuống vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước, sẽ chẳng có tư cách tham học!
Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đă
buông xuống, thầy nhất định sẽ bảo quư
vị đi tham học, tuyệt đối chẳng giữ
quư vị. Nếu thầy giữ quư vị lại, sẽ có
lỗi với quư vị! Nhất định khuyên quư vị
đi tham học, nhằm thành tựu viên măn Hậu Đắc
Trí. Chúng ta đă thấy thể lệ này trong
kinh Hoa Nghiêm.
Hiện thời nhằm thời
kỳ Mạt Pháp, tiêu chuẩn hạ thấp. Trước
kia phải là vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước thảy đều buông xuống, quư vị mới
có tư cách đi tham học. Hiện thời, nới lỏng
đến mức độ nào? Chẳng nói tới phân biệt
và vọng tưởng, chỉ bàn đến chấp
trước. Có thể nhạt bớt chấp trước
đôi chút, trí huệ của quư vị cũng có thể nâng
cao. Quư vị sẽ có năng lực phân biệt chân, vọng,
có năng lực phân biệt tà, chánh, đúng, sai, thiện, ác.
Có năng lực ấy, thầy cũng cho phép quư vị đi tham học. V́ sao?
Quư vị sẽ chẳng bị hại. Quư vị thấy người
khác tu tŕ, nghe người khác giảng kinh, trong tâm quư vị
có sự phán đoán, biết kẻ ấy nói đúng hay trật,
kẻ ấy làm đúng hay sai, hữu ích cho chính ḿnh. Chúng ta
học tập theo chỗ đúng của người ấy.
Đối với chỗ chẳng đúng, sẽ tự hỏi: “Ta có phạm
sai trái giống kẻ ấy hay không? Hễ ta cũng phạm
sai trái, hăy nhanh chóng sửa đổi”. Đấy là như
Khổng Tử đă nói: “Tam
nhân hành, tất hữu ngă sư” (Ba người cùng đi,
ắt có một người là thầy ta). Đạo lư ở
chỗ này, chính ḿnh có thể thật sự được
thọ dụng. Chẳng phải là tham học như Thiện
Tài trong kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài tham học nhằm hoằng
pháp lợi sanh, khác hẳn. Chúng ta tham học như vậy
vẫn nhằm thành tựu chính ḿnh!
Nhưng trong thế gian hiện
thời, bất luận là tại gia hay xuất gia, đối
với sự tu tŕ và ngôn luận của kẻ ấy, có nên
phê b́nh hay không? Chớ nên! Phải biết điều này. Phê
b́nh mà kẻ đó có thể tiếp nhận, có thể sửa đổi th́ được, nhưng [người
như vậy] quá ít. Người thế gian có tập khí kiêu
căng, ngạo mạn,
đấy là phiền
năo bẩm sanh, phải thừa
nhận điều này. Nói theo Phật pháp, quư vị thấy
sau tham, sân, si là mạn. Trong giáo học của Nho gia, quư vị
mở Lễ Kư ra, thiên thứ nhất nói: “Ngạo bất khả trưởng” (Chớ nên
tăng trưởng ḷng kiêu ngạo). Phu Tử thừa nhận, con người có ngạo mạn
hay không? Có! Hy vọng quư vị đừng nên tăng
trưởng ḷng ngạo mạn nữa. [Đó là nói theo] pháp
thế gian; trong Phật pháp, nhất định là phải
đoạn trừ ngạo mạn. V́ sao? Quư vị chẳng
mong thoát khỏi tam giới ư? Quư vị chẳng mong văng
sanh Tây Phương ư? Hễ có tâm ngạo mạn, sẽ
chẳng thể văng sanh.
Do vậy, tôi khích lệ
đồng học, viết bốn chữ, Thành (誠) là chân thành, thành thật. Kính (敬): Đối với người, đối với sự,
đối với vật, phải cung kính, chân thành cung kính.
Khiêm (謙): Khiêm hư.
Ḥa (和): Cư xử ḥa
thuận với hết thảy chúng sanh. “Thành kính khiêm ḥa”: Khiêm nhằm đối trị ngạo
mạn, phải khiêm hư, chớ nên ngạo mạn. Phải
tôn trọng người khác, chính ḿnh phải luôn nhún nhường,
hạ ḿnh, như vậy th́ mới nên, quư vị mới có
thể đạt được lợi ích! Nhưng điều
này chẳng dễ học được, cũng là phải
[học tập, vun bồi] từ nhỏ. Khéo dạy từ
bé, cha mẹ dạy, thầy dạy, biết khiêm hư, biết
lễ độ, nhường nhịn, chịu nhường
người khác, biết buông xuống. Tôi theo Chương
Gia đại sư ba năm, Ngài dạy tôi “thấy thấu suốt, buông xuống”, tôi được
thọ dụng suốt một đời. Người như
vậy đúng là chẳng nhiều!
Quư vị phải nghe biết
[những lời lẽ] khách sáo, người ta nói “xin quư vị chỉ giáo, phê b́nh
chỉ dạy”, lời
lẽ khách sáo đấy! Quư vị thật sự phê b́nh, chỉ dạy
họ, ngay lập tức họ đổi sắc mặt,
ta biết là rất khó tiếp nhận. V́ thế, chẳng
phê b́nh, chẳng chỉ trích. Nhưng chính ḿnh nhất định
phải hồi quang phản chiếu, người khác là một
tấm gương để soi chính ḿnh. Chính ḿnh chẳng
dễ dàng phát hiện lầm lỗi của bản thân. Thấy
người khác có lầm lỗi, hăy nên lập tức hồi
quang phản chiếu, suy ngẫm chính ḿnh có [những điều
lầm lỗi ấy] hay không? Đó gọi là “hữu tắc cải chi, vô tắc
gia miễn” (hễ có th́ sửa đổi, không có th́ càng
thêm gắng sức). Điều này khiến cho chính ḿnh rất có thọ dụng. Đối với những kẻ làm chuyện sai trái, chúng ta phải có tấm ḷng cảm
kích; v́ sao? Họ đă nhắc nhở chúng ta. Nếu ta không thấy, không
nghe t́nh huống của họ, chính ḿnh sẽ chẳng biết phản
tỉnh, có lỗi mà chẳng biết sửa lỗi. May mắn
là ta nghe, ta thấy [những sai quấy
ấy], tự ḿnh phản tỉnh, sửa
lỗi đổi mới. V́ thế, có ḷng tôn kính, có ḷng cảm
ơn người khác. Đấy là tốt đẹp. Hôm
nay đă hết thời gian rồi, chúng tôi nói tới chỗ
này.
Tập 1516
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi
xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười
một, phần Tọa Thiền Quán, xem từ bài kệ tụng
thứ năm, tức đoạn thứ ba [trong phần ấy].
(Kinh) Tu hành ư Định, đương nguyện chúng sanh, dĩ Định phục
tâm, cứu cánh vô dư.
(經)修行於定。當願眾生。以定伏心。究竟無餘。
(Kinh: Tu hành nơi Định,
nguyện cho chúng sanh, dùng Định chế tâm, rốt ráo
chẳng sót).
Bốn bài kệ trước
nói về “tiền phương
tiện” trong sự tu học, cũng là những nghi thức,
quy củ phải nên có trước khi tu học. Thứ nhất
là tiến nhập điện đường; học kinh giáo là [tiến nhập] giảng đường.
Tu hành nói chung chẳng ngoài Thiền đường, Niệm
Phật Đường; tu pháp môn sám hối bèn có giới
đường hoặc sám hối đường. Những
tôn giáo khác cũng đều có. Trước hết, quư vị
tiến nhập điện đường, do trong phần
trước, tôi đă thưa tŕnh cặn kẽ cùng quư vị,
đức Phật tại thế (chúng ta gọi “điện đường”
là “đạo tràng” cho dễ,
để nói cho tiện), v́ đức Phật thường
ở dưới cội cây, ở trong núi rừng, đều
là ngồi dưới đất, ngay cả chiếu cũng
chẳng có! Đương nhiên là học tṛ nhất định
sẽ chuẩn bị một ṭa ngồi cho thầy. Ṭa ngồi
ấy là t́m một ít cỏ tranh gần đó, dùng cỏ trải
thành cái đệm, để đức Phật ngồi trên
cái đệm ấy, do cỏ xếp thành.
Người xuất gia mang
theo tấm Ni-sư-đàn, giống như tọa cụ. Nói
thật ra là “ngọa cụ” (臥具, những tấm vải để trải nằm và đắp), nhưng cũng
có thể trải lên cỏ. Trải lên cỏ để xếp
đặt chỗ ngồi. Sau khi xếp chỗ ngồi
xong xuôi, ngồi ngay ngắn trên ấy. Đă ngồi xong,
khoanh chân xếp bằng, gọi là “kết già phu tọa”. Trong kinh giáo, đức Phật
dạy: “Già phu tọa” tức
là ngồi khoanh tṛn hai chân; tư thế ngồi ấy ổn
định nhất, có thể khiến cái tâm của chính
ḿnh chẳng tán loạn. Ma vương trông thấy
h́nh dạng ấy, tâm rất kinh hăi. Nói cách khác, ma chẳng
đến quấy nhiễu. Thứ tư là biện định
sự khác biệt với các tôn giáo khác, tư thế ngồi
trong Phật môn chẳng giống các tôn giáo khác. Thứ năm
là tâm dễ định, do cách ngồi như vậy, sẽ
dễ định. Kẻ trẻ tuổi có thể làm thử
xem. Đại khái là người từ bốn mươi
tuổi trở lên, nếu chẳng ngồi đă thành thói
quen, sẽ khá khó khăn.
Đấy là các tiền phương
tiện; mỗi cử động đều phát nguyện, đều
quán tưởng, đều hồi hướng cho hết
thảy chúng sanh trong khắp pháp giới hư không giới.
Đấy chính là như trong phần trước Văn Thù
Bồ Tát đă dạy: “Nhược
chư Bồ Tát thiện dụng kỳ tâm, tắc hoạch
nhất thiết thắng diệu công đức” (Nếu Bồ
Tát khéo dùng cái tâm, sẽ đạt được hết
thảy công đức thù thắng, mầu nhiệm). Trong
phần trước, tôi đă thưa tŕnh cùng quư vị: Trong phẩm
kinh này, bất quá là nêu lên mấy thí dụ, tổng cộng
nói ra một trăm bốn mươi mốt nguyện, tức
là nêu ra một trăm bốn mươi mốt thí dụ.
Chúng ta là kẻ học tập phải hiểu, cổ nhân nói
“nghe một biết mười”.
Trong cuộc sống hằng ngày, khởi tâm động niệm,
nhất cử nhất động đều là thực hiện
Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm. Hoa Nghiêm
chẳng ĺa khỏi cuộc sống của chúng ta, thậm
chí nói là chẳng ĺa khỏi khởi tâm động niệm.
Học tập như vậy th́ mới có thể khế nhập
cảnh giới Hoa Nghiêm. Nếu quư vị hỏi bản thân
ḿnh có khế nhập hay không ư? Hăy tự hỏi chính
ḿnh! Quư vị có hiểu rơ phẩm kinh Tịnh Hạnh này
hay chăng? Có thực hiện hay không? Nếu quư vị thật
sự triệt để hiểu rơ, giải ngộ, có thể thực hiện nơi khởi tâm
động niệm, quư vị thật sự chứng ngộ,
đă khế nhập.
Chỗ khác biệt giữa chư
Phật Như Lai, Pháp Thân Bồ Tát và chúng ta là quư vị thấy
các Ngài khởi tâm động niệm, nhất cử nhất
động đều chẳng giống chúng ta. Chúng ta khởi
tâm động niệm là vọng tưởng, nhất cử
nhất động là tạo nghiệp, quư vị nói điều
này có đáng sợ lắm
không? Thế giới hiện thời hỗn
loạn dường ấy, người trong cả cơi
đời, bất luận là tinh thần hay vật chất,
chẳng thể nói là không có áp lực, mà c̣n có cảm giác
nguy cơ nghiêm trọng. Những khổ nạn do đâu mà
có? Do con người tạo ra, đều là do tâm hạnh bất
thiện của chính ḿnh cảm vời. Trong thế gian này,
xác thực là có chẳng ít những bậc có chí, những vị
có ḷng nhân, chuyên gia, học giả đang truy t́m phương
pháp ǵ ḥng có thể khiến cho xă hội khôi phục an định,
ḥa b́nh, có thể xử lư thỏa đáng khá nhiều vấn
đề. Tôi nghe không ít, mà cũng thấy rất nhiều,
có cảm xúc rất sâu “chẳng dễ ǵ thực hiện!”
Cũng có nghĩa là chẳng làm được! Lư tưởng
th́ hay lắm, phương pháp khá lắm, nhưng chẳng
thực hiện được! Lại nghiên cứu một
phen, v́ sao chẳng làm được? Chuyện này, nói theo
ngạn ngữ Trung Hoa sẽ là “giải
linh hoàn nhu hệ linh nhân” (để cởi chuông vẫn
phải cần đến kẻ buộc chuông). Nói rơ
hơn là mọi người chẳng t́m được căn
nguyên ở chỗ nào, đức Phật đă t́m
được. Căn nguyên là do mê mất tự tánh.
Cổ thánh tiên hiền Trung
Hoa và ngoại quốc đă hiểu rơ; v́ sao họ hiểu
rơ? Tâm họ thanh tịnh, tâm họ định. Tâm thanh tịnh
sanh ra trí huệ. Chư vị đồng học đều
hiểu, tu học trong Phật pháp là do Giới đắc Định,
do Định khai trí huệ. Trí huệ hiện tiền, quư
vị có thể chiếu kiến những vấn đề
phức tạp ấy rành rẽ, rơ ràng. Để xử lư th́
phải thực hiện từ căn bản; căn bản
là ǵ? Giáo dục yêu thương, giáo dục luân lư đạo
đức. Người có thể yêu thương chính ḿnh,
sẽ có thể yêu thương người khác, sẽ chẳng
hại kẻ khác. Chẳng hại người khác, lẽ
nào sẽ phát động chiến tranh? Lẽ nào sẽ gây
ra những sự kiện khủng bố? Chẳng thể
nào! Điều quan trọng nhất là chúng ta đă đánh mất cái
tâm yêu thương. Chỉ cần có ḷng yêu thương, chế
độ ǵ, phương thức ǵ cũng đều tốt
đẹp! Hiện thời là làm như thế nào để
t́m lại cái tâm yêu thương? Chư vị phải hiểu
tâm yêu thương là Tánh Đức; minh tâm kiến tánh sẽ t́m được cái tâm yêu thương.
Trong Phật môn không gọi là
tâm yêu thương, mà gọi là tâm từ bi. V́ thế, chúng
ta đều biết “phát tâm từ bi”, nhưng chẳng phát
nổi! Quư vị phải hiểu v́ sao không phát nổi? Chướng
ngại ở chỗ nào? Do bị mê mất tự tánh. Mê mất
tự tánh, tâm từ bi bị biến chất, biến thành
ǵ? Ích kỷ, vọng tưởng, chấp trước, khởi
tâm động niệm tổn người lợi ḿnh. Phải
biết, tương phản với những ư niệm sai lầm
ấy là đại từ đại bi.
Sau khi chúng ta đă mê, tâm đại từ bi biến thành ô
nhiễm nghiêm trọng, tà ác nghiêm trọng. Ô nhiễm
và tà ác khởi tác dụng, bèn tạo ác nghiệp. Ác nghiệp
khiến cho Nhất Chân pháp giới cũng bị bóp méo, biến
thành tam đồ lục đạo. Chỉ có Phật, Bồ
Tát nói thấu triệt, nói rơ ràng sự thật này! Chúng ta học
Phật đă nhiều năm ngần ấy, vừa học
tập, vừa cẩn thận quan sát để cầu chứng.
Đối với những điều đức Phật
đă dạy, những ǵ chúng ta trông thấy, đích thân tiếp
xúc, có tương ứng hay không? Nếu tương ứng,
chúng ta sẽ tự nhiên tin nhận, phụng hành Phật
pháp.
Hai bài kệ sau đó nói về
tu hành. Hạnh Môn trong tu hành vô lượng vô biên, giáo pháp Đại
Thừa thường nói là “tám vạn bốn ngàn pháp môn”. Quư vị thấy tám vạn bốn ngàn pháp môn, trong bốn
mươi mốt nguyện này, hai điều đă bao gồm
trọn hết. Vô lượng pháp môn quy nạp lại, chẳng
ngoài một là Giải Môn, hai là Hạnh Môn. Quư vị thấy
đối với hai điều ấy, ở đây là “tu hành ư Định”, đó
là Hạnh Môn, xếp Hạnh Môn ra trước. “Nhược
tu ư Quán” (Nếu như tu Quán) chính là Giải Môn. Giải Môn
được xếp đằng sau. Điều này có nghĩa
là ǵ? Nhằm bảo chúng ta, Phật pháp trọng Hạnh. Đương
nhiên là Phật pháp cũng trọng Giải. Giải và Hạnh
đều xem trọng, nhưng Hạnh đứng trước. Như
vậy th́ quư vị bèn liễu giải: Giáo học th́ thầy
dạy cũng xếp Hạnh hàng đầu; tṛ học, cũng xếp Hạnh hàng
đầu. Phải hiểu ư nghĩa này. Ngay như Tông Môn,
ngộ rồi mới tu, cũng xếp Hạnh Môn hàng
đầu. Nếu không, sẽ như thế nào? Nếu không,
họ sẽ chẳng thể khai ngộ. Tuy Giáo Hạ nghiên
cứu kinh giáo, vẫn xếp Hạnh Môn làm đầu. V́
sao? Năm năm học giới.
Đối với người
xuất gia, sau khi quư vị đă xuất gia, chẳng phải
là ngay lập tức quư vị có thể tiến nhập đạo
tràng. Năm năm xuất gia đầu tiên là học giới
trong đạo tràng, học “nghi
quy” (儀規) tức là
học quy củ. Năm năm phục vụ đại
chúng trong đạo tràng nhằm tu phước, phước
huệ song tu! Quư vị thấy phước và huệ, cũng
xếp phước đằng trước. Chẳng có phước,
sẽ không được. Trước là tu phước,
sau là tu huệ. Tu phước đến một mức độ
nhất định, ngạn ngữ Trung Hoa cũng nói rất
hay: “Phước chí tâm linh”,
[hàm nghĩa] khi phước báo của quư vị hiện tiền,
người ta bỗng dưng cũng thông minh, cũng có trí huệ.
Phước và huệ có mối quan hệ liên đới, Định
và Quán cũng giống như thế!
Chúng ta quan sát từ truyền
thống giáo học của Trung Hoa, quư vị thấy giáo dục
tại Trung Hoa là sau khi trẻ nhỏ được sanh ra
hai, ba ngày, đă bắt đầu dạy. Dạy ǵ vậy?
“Tu hành ư Định”, học
quy củ! V́ thế, trước mặt trẻ thơ, người
lớn nói năng, cử chỉ, nhất định phải tránh những lầm lỗi,
chẳng có lầm lỗi! Tuy trẻ thơ vừa mới lọt ḷng, mở mắt, nó thấy, quư vị nói chuyện, nó sẽ
nghe. Do thấy, nghe, nói theo thuật ngữ trong Phật môn,
sẽ ghi lại ấn tượng trong A Lại Da Thức,
nó đang học đấy! Hằng ngày thấy, hằng
ngày nghe, toàn là những trạng huống tốt đẹp.
Đấy là ǵ? Chính là Đệ Tử Quy. Đệ Tử
Quy do cha mẹ làm cho con thơ thấy. Đấy là sự
giáo dục trước khi [trẻ nít] tṛn ba tuổi, nó sẽ
học hiểu những quy củ
ấy. Đấy chính là giới luật, nhân Giới đắc
Định, đều là khởi đầu từ giới luật.
Đệ Tử Quy là giới căn bản, do cha mẹ dạy.
V́ thế, trách nhiệm của người mẹ quá to, v́ mẹ
và con thơ gần gũi nhất, chẳng khắc nào ĺa
khỏi! Đă tṛn ba tuổi rồi mới khỏi bồng
ẵm, trẻ tự ḿnh đi được. Chưa
đầy ba tuổi, nó vẫn do mẹ bồng ẵm, mỗi
lời nói, tiếng cười, nhất cử nhất
động của mẹ, nó đều ghi nhớ. V́ thế,
mẹ chính là Đệ Tử Quy sống động, trẻ
thơ hoàn toàn học theo, vun quén căn cội thánh hiền!
Chư vị hăy ngẫm xem,
kẻ nào được giáo dục như vậy mà c̣n có
thể làm chuyện xấu ư? Ba, bốn tuổi, nó có thể
phân biệt tà, chánh, đúng, sai, thiện, ác, biết điều
ǵ là tốt, điều nào là xấu, nó biết! Đứa
căn tánh lanh lợi, năm, sáu tuổi đi học. Trước
kia là vào trường tư thục, thầy giáo tư thục
cũng thực hiện viên măn Đệ Tử Quy. Khi ấy,
thời gian thân cận thầy lâu dài, lời lẽ, cử
chỉ của thầy đă tạo thêm ấn tượng
sâu đậm cho trẻ. Trẻ trông thấy, cha mẹ làm
như thế ấy, thầy cũng làm như thế ấy,
[trẻ sẽ có] tín tâm kiên định.
Lúc ấy, trí nhớ tốt đẹp,
trí nhớ mạnh mẽ, thầy dạy cho trẻ học
thuộc ḷng giáo huấn của cổ thánh tiên hiền. Học
thuộc nhuyễn nhừ những giáo huấn ấy. Đứa
trẻ ấy sống đến tám, chín mươi tuổi
cũng chẳng thể quên mất. Tôi đă từng thấy
[điều ấy nơi] thầy Lư, khi tôi theo học với
thầy, cụ đă bảy mươi tuổi, tôi theo thầy
mười năm. Tám, chín mươi tuổi mà khi viết
văn, trích dẫn kinh điển, cụ chẳng cần
tra cứu tài liệu
tham khảo, đều nhớ rơ rành rành. Chúng
tôi hỏi thầy: “Thưa thầy! Thầy có trí nhớ thật
tốt”. Cụ dạy: “Các anh có biết hay không? Do khi bé bị
phạt quỳ trên miếng
gạch mà được đấy chứ!”
Thuở đó, thầy nghiêm ngặt lắm, đă bị quỳ
c̣n phải quỳ trên miếng
gạch. Đó là ǵ? Cho nhớ kỹ! “Chỗ
này ta phải quỳ trên miếng gạch”. V́ thế,
đặc biệt dễ ghi nhớ. “Chỗ này ta bị đánh
vào ḷng bàn tay”. Đánh ǵ vậy? Đánh vào trí nhớ! Phương
pháp giáo dục của Trung Hoa khác hẳn! Hiện thời bảo
“chẳng được trừng phạt trên thân thể”, chẳng biết là do phương thức ấy tṛ
mới có thể ghi nhớ, thọ dụng suốt đời
chẳng hết! Tuy bị thầy đánh, bị thầy
phạt quỳ, quỳ trên miếng gạch, đến
già vẫn cảm tạ thầy! Cảm ơn! Chẳng làm
như vậy, quư vị sẽ học chẳng được!
Khi ấy, cảm thấy khổ sở quá; về
sau, sẽ là suốt đời cảm tạ thầy!
Gia trưởng cũng hiểu
lư lẽ, hiểu chuyện. Lúc bé, tôi đi học cũng bị thầy đánh
vào ḷng bàn tay, cũng bị phạt quỳ, nhưng chưa
phải quỳ trên gạch. Nghĩ tới chuyện quỳ trên gạch khổ sở lắm! Sau khi bị thầy xử phạt,
về nhà, cha mẹ biết chuyện, hôm sau nhất định
sẽ theo tôi đến trường, c̣n mang theo lễ vật
để cảm tạ thầy. Chư vị hăy ngẫm
xem, cha mẹ hợp tác với thầy, làm sao dám chẳng
nghe lời thầy cho được? Giáo dục
hiện thời hoàn toàn tương phản, nếu con cái ở
trong trường bị thầy xử phạt, phán xử,
quá lắm rồi! Ngày hôm sau, cha mẹ nhất định sẽ
kiện cáo: “Giáo viên ấy chẳng xứng làm thầy,
ngược đăi trẻ nít”. V́ thế, những vị thầy
tốt đều ĺa khỏi, chẳng muốn dạy dỗ; cũng có
nghĩa là chẳng thể dạy! Gia trưởng chẳng
mong cho con cái của chính ḿnh nghiêm túc học tập những
thứ ấy, nuông chiều quá lố! Làm sao có thể dạy
bảo những đứa trẻ ấy cho được?
V́ thế, xưa kia xă hội
an định. Nói theo đại thể, xă hội trong năm
ngàn năm đă qua của Trung Hoa coi như an định.
So sánh với Âu châu, và những quốc gia khác trên thế giới,
họ động loạn, chúng ta an định. Tuy chúng ta vẫn
có thay đổi triều đại, nhưng thời gian
chẳng dài. Nhất là khi một chánh quyền mới
được thành lập, nói theo sách cổ, sẽ chẳng
quá năm năm bèn chế lễ, tạo nhạc, xă hội
sẽ khôi phục b́nh thường. Do vậy, nói thông
thường, thời gian động loạn thường
thấy nhất là từ ba năm đến năm năm,
sẽ khôi phục trật tự b́nh thường. Có những
lúc động loạn mười mấy năm, tuy có, nhưng
chẳng nhiều cho mấy, chẳng thường thấy
trong lịch sử, đều khôi phục rất nhanh chóng.
Rốt cuộc, thời gian b́nh trị lâu dài, thời gian loạn lạc
ngắn ngủi. Đấy là so sánh giữa hai đằng,
nói theo lối khái quát, [sẽ thấy] xă hội Trung Hoa an định,
ḥa b́nh.
Đấy là ǵ? Giáo dục,
dạy từ bé! Không biết chữ chẳng sao cả, người
ta có năng lực phân biệt đúng, sai, thiện, ác. Xưa
kia, giáo dục chẳng phát triển, cơ hội học hành
hoàn toàn chẳng nhiều, nhưng đối với giáo dục
cơ sở, người Hoa quyết định chẳng
coi nhẹ, dạy dỗ từ bé! Hơn nữa, hễ là người
lớn, gần như đều là có nghĩa vụ dạy
bảo trẻ nhỏ, điều này rất khó có! Chúng tôi
sanh trưởng ở nông thôn, trẻ con nông thôn chơi đùa
ngoài đồng, có khi phạm lầm lỗi, khi chơi đùa
đă quên khuấy. Nhưng người lớn, bất luận
có phải là người quen hay không, [dẫu là] kẻ qua
đường, thấy bọn trẻ chúng tôi chơi đùa
chẳng tuân thủ quy củ, sẽ kêu chúng tôi lại giáo
huấn. Nhưng khi bé, chúng tôi cũng ngoan ngoăn vâng theo.
Người nhà biết chuyện sẽ cảm tạ, cám ơn
sự chỉ dạy của người ta. Phong khí xă hội
[là như thế đó]! Mọi người đều biết
nhi đồng là thế hệ kế tục, đều có
trách nhiệm dạy bảo, chẳng cần biết có phải
là trẻ nhỏ trong nhà quư vị hay không, có quen biết hay
không, chẳng quan trọng! Thấy nó tốt đẹp,
khen mấy câu, cổ vũ nó; hễ nó làm chuyện lầm
lỗi, sẽ uốn nắn. Hiện thời, chẳng có phong khí ấy!
Những thứ ấy đều
thuộc về Hạnh Môn, cốt lơi của Hạnh Môn là Định, nhà Phật
nói là Thiền Định. Thiền Định có rất
nhiều đẳng cấp. Nói theo kinh Hoa Nghiêm, địa
vị Bồ Tát có đến năm mươi mốt địa
vị, tức là đẳng cấp của Thiền Định
có đến năm mươi mốt cấp bậc. Vô
lượng pháp môn là những phương pháp để tu
Thiền Định, đường lối khác nhau. Nhà Phật
xác thực là “từ bi làm gốc,
phương tiện làm cửa”. Từ bi là chân tâm, chân
tâm là Thiền Định. Quư vị chẳng có Định,
há có tâm từ bi? Định có nghĩa là ǵ? Định là
ǵ? Kinh Kim Cang đă nói rất hay: “Chẳng chấp lấy tướng, như như bất
động”, đương nhiên đây là tầng lớp
Thiền Định cao nhất, chẳng phải là [Thiền
Định của] kẻ b́nh phàm. Người b́nh phàm sẽ
là trước hết học Giới, trước hết học quy củ,
học tuân thủ quy củ, học lễ phép, đối
với người, đối với sự, đều
nghiêm túc chịu trách nhiệm, tận tâm tận lực thực
hiện tốt đẹp!
Cũng nên cho trẻ nhỏ
tu Định, nhưng nó hoàn toàn chẳng biết Định
là ǵ? Chuyên tâm chính là Định. Chơi đùa bèn chuyên tâm
chơi đùa, chẳng cần phải suy nghĩ lung tung! Đi
học, đứa căn tánh lanh lợi đại khái là bốn
tuổi bèn đi học; đấy là đứa thông minh,
trí nhớ rất tốt. Đứa căn tánh trung hạ,
gần như là sáu, bảy tuổi mới đi học. Bốn, năm
tuổi đều là căn tánh rất nhanh nhạy, nó có thể lư giải,
có trí nhớ, thầy dạy nó thâm nhập một môn. Thâm
nhập một môn là tu Định. Ví như dạy nó Tam Tự
Kinh, chuyên tâm học Tam Tự Kinh, quyết định chẳng
thể đồng thời học những thứ khác, mà là
chuyên chú nơi một môn. Đấy là học tập, học
tập là tu Định.
Đọc thuộc ḷng kinh
văn là tu Quán, nhất tâm học tập là Định, quư
vị thấy “Định Huệ
đẳng học” (học Định và Huệ cân bằng)
bắt đầu từ lớp vỡ ḷng trong trường
tư thục! Thầy xem xét tŕnh độ của học
tṛ, quan sát như thế nào? Dạy nó đọc mười
lần, trong ṿng mười lần mà có thể thuộc;
đấy là thượng căn, [có thể thuộc ḷng]
trong ṿng mười lượt. Lúc mới học, đại
khái là thầy mỗi ngày dạy nó từ một trăm chữ
cho đến hai trăm chữ. Bắt đầu dạy
là dạy theo kiểu đó. Về sau, sẽ dần dần
tăng thêm. Nhưng quư vị phải ghi nhớ, chẳng vượt
quá mười lần là nó có thể thuộc rồi. Theo như
lịch sử Trung Hoa ghi chép, những đứa trẻ có thiên phú, thật sự đáng gọi là “thiên tài nhi đồng”, một
ngày có thể thuộc sáu, bảy trăm chữ, nghĩa là
chẳng quá mười lần, đứa trẻ ấy
đă có thể thuộc ḷng. Mười lần mà chẳng
thuộc được, thầy sẽ giảm bớt số
chữ. Ví như thầy làm thí nghiệm, thí nghiệm thông
thường là ba, bốn trăm chữ, chưa đến mười
lần đă thuộc, lại tăng thêm; mười lần
chẳng thuộc bèn giảm bớt. Kẻ căn tánh chậm
lụt nhất, đại khái là học một trăm chữ,
dạy quư vị chừng đó, quư vị có thể thuộc
được. Sau khi đă thuộc, thầy
bảo quư vị lớn tiếng đọc cho thuộc,
xem sách cũng được, phải đọc một
trăm lượt, đọc lớn tiếng rơ ràng.
Một đằng là tâm quư vị chuyên chú. Chư vị phải
hiểu, chuyên chú là Định. Niệm rành mạch, từng
chữ rơ ràng, chẳng niệm sai, chẳng niệm sót chữ,
đấy là Huệ.
Chẳng cần cầu mong giải thích; do vậy, thầy chỉ dạy
quư vị đọc, chẳng giảng giải! Tuy thầy
chẳng giảng giải lời văn trong bài học, thầy
kể chuyện xưa, trẻ nhỏ thích nghe kể chuyện.
Những câu chuyện của thầy nói lên điều ǵ? Đại
khái là luôn liên quan đến kinh văn; nói chung, chẳng ĺa
khỏi luân lư đạo đức. Trẻ nhỏ nghe xong, đúng
là sẽ suốt đời chẳng quên mất. Bắt chước cổ nhân, làm thế nào để vận dụng hiếu,
đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ, nhân, ái, ḥa
b́nh vào cuộc sống của chính ḿnh, thực hiện
trong đối người, đối sự, đối
vật, đều có thể làm được. Những thứ
ấy chính là Tánh Đức. Do đó, giáo dục của
Trung Hoa chẳng có ǵ khác, [chỉ là] t́m lại tự tánh của
quư vị, chẳng thể ĺa khỏi quá xa!
Tánh Đức là tiêu chuẩn
tuyệt đối. Câu đầu tiên của Tam Tự Kinh
đă nói rơ: “Nhân chi sơ, tánh bổn
thiện” (Con người thoạt đầu tánh vốn lành).
Đức Phật dạy người ta cũng
giống như vậy. Điều thứ nhất là dạy
quư vị “hết thảy chúng
sanh đều có Phật Tánh”, chỉ rơ quư vị có Phật
Tánh. Trong một đời này, chúng ta hằng ngày từ sáng
đến tối, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ,
tạo tác phải tương ứng với Phật Tánh.
Đó là tốt. Phật Tánh là ǵ? Giới luật là Phật
Tánh, kinh giáo là Phật Tánh. Kinh giáo là ngôn ngữ của Phật
lưu lộ từ Phật Tánh. Giới luật là động
tác trong xử sự, đăi người, tiếp vật, hoàn toàn do tự tánh tự nhiên lưu
lộ. Nay chúng ta học giới luật, dường như
là chỗ nào cũng bị bó buộc. Chẳng phải vậy!
Giới luật là b́nh thường, hiện thời chúng ta
đă biến những điều bất b́nh thường
thành thói quen. Nếu khôi phục những thứ b́nh thường,
sẽ cảm thấy chẳng quen thuộc! Đó là b́nh thường, chư Phật, Bồ Tát là
như vậy. Chớ nên không hiểu điều này!
V́ lẽ này, giáo dục của
thánh hiền chẳng có ǵ khác, [chỉ là] dạy chúng ta khôi
phục sự b́nh thường. Đệ Tử Quy là b́nh
thường, lễ của Nho gia là b́nh thường! Chỉ
có kẻ buông lung, kẻ bất b́nh thường mới nói
những điều này là chẳng b́nh thường! Thật
ra, chính họ bất b́nh thường! Sau khi đă minh tâm
kiến tánh, sẽ tự nhiên chẳng có mảy may bó buộc
nào, quyết định tương ứng với Thập
Thiện Nghiệp Đạo. Thập Thiện Nghiệp
Đạo là căn bản của Phật pháp, là nguyên lư và
nguyên tắc của tất cả hết thảy giới
luật. Luật và pháp tắc dẫu nhiều đến mấy, chẳng ĺa khỏi
nguyên tắc này. Sau khi quư vị đă biết, quư vị mới
có thể sanh tâm hoan hỷ, thật sự mong học, trở
về tự tánh, trở về tự nhiên. Đấy mới
là thuần tịnh thuần thiện.
Nay chúng ta học Phật xuất
hiện vấn đề, vấn đề là do chúng ta chẳng
học những quy củ ấy từ bé, đă tiêm nhiễm
những tập tánh bất thiện. Câu kế tiếp trong Tam
Tự Kinh là “tánh tương cận,
tập tương viễn” (tánh th́ gần giống như
nhau, do huân tập mà khác xa nhau). “Tánh
tương cận” hiểu như thế nào? Chẳng
khác với Phật, Bồ Tát cho mấy! Phật, Bồ Tát
là tự tánh hoàn toàn lưu lộ. Nếu chúng ta biết trở
về tự tánh, sẽ chẳng khác Phật, Bồ Tát, [cho nên là] “tương cận”. Nếu không biết trở về tự tánh, sẽ
tùy thuận tập khí phiền năo, ngày càng xa cách Tánh Đức.
Chúng ta có thể nói, dùng mười pháp giới để nói,
tứ thánh pháp giới là gần với tánh, chúng sanh trong lục
đạo do huân tập mà xa cách. Nh́n từ chỗ này, quư vị
sẽ hiểu rất rơ ràng, “tập
tương viễn” (do huân tập mà xa cách). “Tương viễn” sẽ
phiền phức! Chư vị biết chúng sanh trong lục
đạo sanh tử luân hồi từ vô lượng kiếp
đến nay chẳng thoát ra được, chẳng có lúc
nào mong thoát ra được! Đó là chuyện khổ sở,
khổ chẳng thể nói nổi. Mê quá sâu, mê quá nghiêm trọng.
V́ thế, thánh nhân đă từ chỗ này mà hưng khởi
sự giáo dục chúng sanh. V́ sao phải có giáo dục? “Cẩu bất giáo, tánh năi thiên”
(nếu chẳng dạy, tánh sẽ bị thay đổi),
“thiên” (遷) là thay đổi, biến thiên. V́ thế, nhất
định phải dạy!
Mục đích của việc
dạy dỗ là ǵ? Trở về tự tánh! Do vậy, trong
nền giáo dục truyền thống của Trung Hoa, trong nền
giáo dục của Phật, Bồ Tát, những quan niệm
cốt lơi chẳng hề biến đổi: Giúp cho hết
thảy chúng sanh từ tập tánh trở về bản tánh.
Nếu nói theo Nho gia, sẽ là từ bất thiện trở
về bổn thiện, bản tánh vốn lành! “Nhân chi sơ, tánh bổn thiện”
(Con người thoạt đầu tánh vốn lành). Từ
hết thảy bất thiện trở về bổn thiện; đấy
là giáo dục. Nói theo Phật pháp, sẽ là từ tập tánh
trở về bản tánh. Tông chỉ giáo dục hiện thời
không nhắc tới điều này, hiện thời hoàn toàn
nói theo tập tánh, chẳng biết có bản tánh, chẳng
biết có bổn thiện. Cái thiện trong hiện thời
là ǵ? Ích kỷ là thiện, tổn người lợi ḿnh là
thiện. Đấy là điên đảo! Kinh Phật thường
nói “điên đảo lầm
loạn, là kẻ đáng thương xót”.
Kể ra đời này chúng
tôi hết sức may mắn, có thể thân cận những
vị thầy tốt, có thể gặp gỡ chánh pháp, chính
ḿnh cũng khéo học, cả đời xác thực là như
tiên sinh Phương Đông Mỹ đă nói, sống “hưởng thụ cao nhất
trong đời người”. Sự hưởng thụ
cao nhất trong đời người chẳng phải là địa
vị cao, cũng chẳng phải là có của cải, chẳng
liên quan những thứ ấy! Đó là sự vinh hoa, phú quư
trong cơi đời, là mạng! Giáo dục thánh hiền nhằm cải tạo
vận mạng, chẳng nhằm dạy quư vị cầu
vinh hoa, phú quư. V́ sao? Quư vị có cái tâm cầu vinh hoa, phú quư;
tâm ấy là tâm phiền năo, là tâm tham! Cầu chẳng được,
bèn sân hận, nói chung sẽ đọa lạc trong tham, sân,
si. Hễ đọa lạc trong tham, sân, si, dẫu được
vinh hoa, phú quư, quư vị chẳng ĺa khỏi phiền năo, cái
tâm chẳng thanh tịnh. Nói cách khác, quư vị chẳng vui
sướng. Trở về tự tánh, trở về bổn
thiện, dẫu sống cuộc đời rất bần
cùng, vui sướng lắm! Quư vị thấy Nhan Hồi chính
là một tấm gương tốt nhất. Xác thực là đă
“học nhi thời tập chi, bất
diệc duyệt hồ? Hữu bằng tự viễn phương
lai, bất diệc lạc hồ?” (học
rồi thường xuyên tập luyện, cũng chẳng
vui ư? Có bạn từ
phương xa đến, cũng chẳng vui sao?) Sống cuộc đời ǵ vậy? Cuộc sống
vui sướng chẳng liên quan đến cuộc sống
vật chất; đấy mới là thật sự t́m
được cuộc sống chân thật.
C̣n như địa vị,
quyền thế, hăy tùy duyên. Hễ có duyên phận th́ cũng
phải làm. Nếu quư vị
chẳng làm, sẽ có lỗi đối
với người khác. Trong lịch sử Trung Hoa, Gia Cát
Lượng là một thí dụ rất tốt. Gia Cát Lượng
học tốt đẹp, trở về tự tánh, nhạt
mỏng danh lợi. Lúc trẻ bèn tự ḿnh cày cấy, ở
trong lều tranh, gắng gượng sống qua ngày. Lưu Bị ba lượt đến viếng lều
tranh, mời Gia Cát Lượng ĺa núi. Duyên đă chín muồi,
chẳng thể không đi. Đi để làm ǵ? V́ quốc
gia phục vụ, v́ nhân dân phục vụ. Vứt bỏ sự
hoàn cảnh sống thoải mái và an lạc của chính ḿnh
để bận ḷng [v́ đại chúng]. Đấy là nói “hễ có duyên th́ quư vị phải
làm; chẳng có duyên đừng nên cầu”. Phật, Bồ
Tát dạy chúng ta, mà thánh nhân thế gian cũng dạy chúng
ta “tùy duyên, đừng phan
duyên”, quư vị sẽ tự tại. Kẻ mê mất tự
tánh hằng ngày phan duyên, hằng ngày có cầu, tham lam chẳng
chán, lẽ nào kẻ ấy chẳng khổ cho được?
Quư vị đừng thấy kẻ ấy có tiền, có địa
vị rất cao [mà ao ước], cuộc sống của
kẻ ấy chẳng vui sướng đâu nhé! Nay đă hết
thời gian rồi, chúng ta nghỉ ngơi mấy phút!
***
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin
xem bài kệ tiếp theo, tức là bài kệ thứ sáu:
(Kinh) Nhược tu ư Quán,
đương nguyện chúng sanh, kiến như thật
lư, vĩnh vô quai tránh.
(經)若修於觀。當願眾生。見如實理。永無乖諍。
(Kinh: Nếu tu tập Quán, nguyện
cho chúng sanh, thấy lư như thật, vĩnh viễn không
chống trái, tranh chấp).
Thiền Định c̣n gọi
là Chỉ Quán. Định là Chỉ, Quán là Huệ, mà
cũng là Chiếu, tức quán chiếu. Chỉ và Quán
thường được coi là Thể và Dụng lẫn
cho nhau. Chỉ là Thể, Quán là Dụng; Quán là Thể, Chỉ
là Dụng; hai thứ này giúp nhau thành tựu. Tôi cũng
đă thưa bày cùng các đồng học: Lúc tôi mới học
Phật, ngày đầu tiên gặp Chương Gia đại
sư, Ngài đă truyền trao pháp môn này cho tôi, nhưng Ngài
chẳng dùng danh từ Phật giáo. Khi đó, tôi vừa mới
học Phật, [nếu Ngài] dùng danh từ Phật giáo, tôi
sẽ chẳng hiểu được, Ngài giảng giải
cũng rất mất công, phải tốn rất nhiều lời
lẽ để giải thích những danh tướng ấy.
Đấy là chỗ cao minh của thầy, Ngài có thiện
phương tiện! Ngài cũng chẳng nói “Định,
Quán”, cũng chẳng nói “Định, Huệ”, mà cũng chẳng
nói “Chỉ Quán”. Ngài nói ǵ? “Thấy
thấu suốt, buông xuống”. Kẻ mới học vừa
nghe liền hiểu ngay. “Thấy
thấu suốt” là Quán môn, là trí huệ. “Buông xuống” là Định môn, Chỉ môn. Về
sau, học Phật dần dần khế nhập cảnh
giới, mới hiểu lăo nhân gia đă dùng phương
pháp quyền biến truyền trao phương pháp ấy cho tôi, “thấy thấu suốt, buông xuống”!
V́ sao tâm con người chẳng
định? Quư vị chẳng buông xuống! Thật sự
buông xuống, sẽ có Định. Quư vị thấy bài kệ
thứ năm trong phần trước: “Đương nguyện chúng sanh, dĩ Định
phục tâm, cứu cánh vô dư” (Nguyện
cho chúng sanh, dùng Định chế tâm, rốt ráo chẳng sót),
câu này nói hay quá! A La Hán dùng Định để chế phục
cái tâm, nhưng như thế nào? Hữu dư! Nghĩa là Ngài
đă buông xuống đôi chút, hăy c̣n có cái chưa buông xuống,
đó là “hữu dư”. Nay chúng
ta học tập, nương theo Thập Thiện Nghiệp
Đạo, buông xuống giết, trộm, dâm, nhưng nói dối,
nói đôi chiều, nói thêu dệt, ác khẩu chẳng buông
xuống; đó là “hữu
dư”. “Dĩ Định phục
tâm” (Dùng Định để chế ngự cái tâm), cái “tâm” ấy chính là vọng tâm.
Theo cách nói của kinh Hoa Nghiêm, nói chung, [vọng tâm] sẽ là cái tâm chấp trước, tâm phân biệt,
tâm vọng tưởng, kinh Hoa Nghiêm dạy như thế đó.
Buông xuống chấp trước, đối với hết
thảy các pháp thế gian và xuất thế gian đều
chẳng chấp trước, [sẽ là] A La Hán. A La Hán chẳng
buông vọng tưởng và phân biệt xuống, nên là “hữu dư”, chẳng phải
là “vô dư”. Bồ Tát cao hơn
A La Hán, không chỉ là buông xuống chấp trước, mà
phân biệt cũng buông xuống, do vọng tưởng chẳng buông xuống,
vẫn là “hữu dư”. Pháp
Thân Bồ Tát vọng tưởng cũng buông xuống, tức
là khởi tâm động niệm cũng buông xuống.
Đấy gọi là “phá một
phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân”, vượt
thoát mười pháp giới. C̣n có dư hay không? C̣n! Tập khí vô thỉ
vô minh chẳng buông xuống.
Đến quả vị nào
mới là vô dư? Phải đạt tới Phật quả rốt
ráo trong Viên Giáo, mới
thật sự là vô dư. Tập khí
vô thỉ vô minh thảy đều đoạn trừ, đó
là công phu định lực như thế nào? Trong giáo pháp Đại
Thừa, đức Phật dạy: Bát Địa
Bồ Tát Thiền Định rất sâu, trông thấy các chủng
tử tập khí trong A Lại Da Thức. Bát Địa Bồ
Tát trông thấy, Thiền Định sâu ngần ấy; v́
thế, Bát Địa được gọi là Bất Động
Địa. Nay người thế gian gọi chủng tử
tập khí trong A Lại Da Thức là “ấn tượng”, ấn tượng ở nơi
đâu? Chẳng thể nói là không có! Những chuyện chúng
ta đă làm từ năm ngoái, năm kia, hễ nghĩ tới,
dường như là ở ngay trước mặt, ấn tượng rất
sâu đậm. Quư vị gặp kẻ khác, làm chuyện ǵ,
hoặc đi du lịch bên ngoài, đi chơi xa, hễ nói
tới chuyện ấy, ấn tượng ngay lập tức
nổi lên. Có thể thấy những thứ ấy rốt
cuộc ở chỗ nào? Đức Phật dạy, những
ấn tượng ấy đều lưu trữ trong A Lại
Da Thức. V́ thế, A Lại Da Thức được gọi
là Tạng Thức, Tạng (藏) là cái kho.
Khởi tâm động niệm,
ngôn ngữ, tạo tác, có lúc ấn tượng rất nhạt mỏng. Hễ nhạt
mỏng, quư vị sẽ quên bẵng.
Tuy quên bẵng, trong A Lại Da Thức đă có hồ sơ.
Quư vị quên khuấy, nó chẳng quên khuấy. Đến
lúc nào nhắc tới, quư vị nhớ lại những
thứ ấy, đời đời kiếp kiếp từ
vô lượng kiếp đến nay. V́ thế, đức
Phật dạy mỗi chúng sanh, “mỗi
chúng sanh” không chỉ là [nói riêng] loài người, mà c̣n bao
gồm súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục, hồ sơ
tàng trữ trong A Lại Da Thức nhiều lắm. Đức
Phật bảo: Nếu chúng có h́nh thể, nếu chúng là vật
chất, vật chất dẫu nhỏ đến mấy đi
nữa, giống như vi trần, trọn hết hư
không đều chẳng thể chứa đựng
được. Quư vị biết là chúng nhiều cỡ nào,
phức tạp cỡ nào! V́ chúng chẳng phải là vật
chất, chúng chẳng có h́nh tướng. Ai biết? Phật
biết, Bồ Tát biết. Bồ Tát tuy biết, tức là Pháp
Thân Bồ Tát tuy biết, cũng giống như chúng ta chẳng
thấy. Đạt đến Bát Địa mới thấy.
Từ Bát Địa trở lên, Cửu Địa, Thập
Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác, mấy địa
vị ấy mới trông thấy!
Do vậy, chúng ta phải có công
phu định lực. Công phu định lực không ngừng
tăng cường sâu đậm hơn, sâu đậm hơn
bằng cách nào? Buông xuống! Điều chúng ta phải làm
trong hiện thời là quyết định phải buông xuống
tiếng tăm, lợi dưỡng, phải buông xuống ḷng
ích kỷ, phải buông xuống sự hưởng thụ
ngũ dục, lục trần. Tập khí ấy rất sâu,
từ vô thỉ kiếp tới nay, đối với sự tham
nhiễm hưởng thụ ngũ dục, lục trần,
nay chúng ta phải làm sao để nhạt
mỏng chúng. Trước hết là nhạt mỏng, sau
đấy, sẽ dần dần dưỡng thành thói quen tự
nhiên, chẳng có hứng thú đối với nó th́ mới
có thể thật sự buông xuống. Quư vị buông xuống
càng nhiều, cho thấy công phu định lực của quư
vị càng sâu. Phải buông xuống tham, sân, si, mạn, tôi
thường nói mười sáu chữ ấy. Mười sáu
chữ ấy là nhập môn. Nhập môn ǵ vậy? Nhập tâm
thanh tịnh, nhập tâm b́nh đẳng. “Thanh tịnh, b́nh đẳng” là Thiền Định;
Định khởi tác dụng là trí huệ. Tiểu định,
tiểu trí huệ; đại định, đại trí huệ.
Đại định rốt ráo vô dư chính là định
thuộc về quả địa Như Lai, trí huệ ấy
cũng là rốt ráo vô dư, vô lượng vô biên.
Tu hành trong nhà Phật, vô
lượng pháp môn nhằm tu ǵ vậy? Chính là tu chuyện
này. Do Định bèn khai Huệ, Huệ là thấy thấu
suốt; “nhược tu ư
Quán” (nếu như tu Quán) được nói trong bài kệ
này chính là “thấy thấu suốt”.
Quư vị đă thấy thấu suốt những ǵ? Chân
tướng của vũ trụ và nhân sinh. “Kiến như thật lư” (thấy lư như thật): Thật (實) là chân tướng, chân thật! V́ sao lũ b́nh phàm
chúng ta chẳng thấy? Trong kinh, đức Thế Tôn
đă dạy: “Chỉ v́ vọng
tưởng, chấp trước mà chẳng thể chứng
đắc”. Vọng tưởng là Vô Minh phiền
năo, chấp trước là Kiến Tư phiền năo, trong ấy
c̣n có Trần Sa phiền năo, tức là phân biệt. Quư vị
có những thứ ấy, Thật Tướng sẽ ở
chỗ nào? Ở ngay trước mặt, [thế mà] quư vị
chẳng trông thấy! Thật Tướng là ǵ? Thật Tướng
là tâm tánh. Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đă dạy,
rốt cuộc vũ trụ là chuyện như thế nào?
Vạn vật, chúng sanh và chính ḿnh, những hiện tượng
ấy rốt cuộc là chuyện như thế nào? Do đâu
mà có? V́ sao có những hiện tượng ấy? Đức
Phật đă nói rất rơ ràng chân tướng, tức là chân
tướng của sự thật: “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”.
Tâm là bản tánh. Tâm có thể hiện, đấy là bản
năng (本性, năng lực sẵn có của tự tánh). Tự tánh
có thể hiện.
Nhưng các hiện tượng
trong vũ trụ biến hóa muôn ngàn. Đức Phật dạy,
hễ đức Phật nói, sẽ đều nêu thí dụ
để nói: [Đức Phật
nói về] y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười
pháp giới là nêu lên những thí
dụ tiêu biểu, nói đại lược. Nói chi tiết, sẽ là vô lượng vô biên pháp giới,
chẳng phải là mười pháp giới. Do vậy, trong Hoa
Nghiêm, “mười” biểu
thị ư nghĩa viên măn, chẳng phải là một con số.
Dùng “mười” để
biểu thị sự viên măn. Rốt cuộc có bao nhiêu? Đức
Phật bảo “chẳng thể
nghĩ bàn”, quư vị chẳng có cách nào suy tưởng,
mà cũng chẳng có cách nào nói được, quá ư là
nhiều! Quy nạp thành mười loại lớn. Những
biến hóa ấy do đâu mà có? Do vọng tâm mà ra! Thức
là vọng tâm, tức là chân tâm của quư vị sau khi đă
mê bèn nẩy sanh biến hóa. Trước khi đă mê, chẳng
có biến hóa, chính là Nhất Chân. Sau khi đă mê mới nẩy
sanh biến hóa!
Mười pháp giới và Nhất
Chân pháp giới ở nơi đâu? Ngay trong hiện tiền,
Nhất Chân cũng là ngay trong hiện tiền, mà mười
pháp giới cũng ở ngay trong hiện tiền. Điều
này rất khó hiểu. Nhất Chân là ǵ? [Nhất Chân là cảnh
giới do] người giác ngộ trông thấy, mười
pháp giới là do người mê trông thấy. [Nguyên nhân gây nên
sai khác] là do giác hay mê. Giống như chúng ta đeo kiếng râm nh́n sắc tướng bên ngoài. Ta đeo kiếng đen, sẽ thấy bên ngoài xám xịt. Kẻ đeo
mắt kiếng màu lục, sẽ thấy bên ngoài đều
là màu lục. C̣n có kẻ đeo mắt kiếng màu đỏ, sẽ thấy bên ngoài toàn là màu đỏ.
Kẻ không đeo mắt kiếng sẽ thấy chân tướng, kẻ
đeo mắt kiếng chẳng thấy chân tướng. Chân
tướng và vọng tướng là một tướng,
đều ở bên ngoài. Quư vị hăy lănh hội từ tỷ
dụ này: Chân và vọng chẳng hai, Tánh và Tướng như một,
ở ngay trước mặt. Kẻ mê đáng gọi là “ở ngay trước mặt mà
bỏ lỡ”.
Ngộ là ǵ? Ngộ là trong tâm
con người chẳng dấy lên một niệm. Đấy
là ngộ. Hễ dấy niệm bèn mê. Ngày hôm qua, c̣n có một
đồng học hỏi tôi, hỏi một câu. “Mấy cái
Không sẽ biến thành một duyên khởi?” Hỏi tôi một
câu như thế đó,
[người ấy] đến hỏi tôi: Mấy cái Không? Phật pháp nói rất nhiều thứ
Không, nói đến hai mươi pháp Không[7].
Chúng ta thường nói là Tam Không, tức Nhân Không, Pháp Không, Câu
Không. Ông ta hỏi “do mấy thứ Không sẽ biến thành
một duyên khởi?” Tôi bảo ông ta:
- Nếu nói đến Chân Không,
trong Chân Không chẳng có duyên khởi. Đă rỗng không, c̣n
có duyên khởi chi nữa? Có duyên khởi, sẽ chẳng phải
là Không! Duyên khởi do đâu mà có? Ông khởi
tâm động niệm, nêu thắc mắc đến hỏi tôi, đó chính là duyên khởi, toàn là một niệm của chính đương sự. Một niệm giác, tâm thanh tịnh, chẳng có vấn
đề ǵ! Quư vị hoàn toàn trông thấy hết thảy
chân tướng trong vũ trụ. Vừa mới có một
niệm sanh khởi, sẽ mê. Hễ mê th́ gọi là “duyên khởi”.
Khi sáu căn của quư vị
tiếp xúc cảnh giới sáu trần, quư vị động
niệm. Khi quư vị chẳng động niệm; những
ǵ mà sáu căn của quư vị tiếp xúc chẳng khác chư
Phật Như Lai. Pháp Thân Bồ Tát là như thế đó,
tôi thường nói “sáu căn
tiếp xúc cảnh giới sáu trần chẳng động
tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, chẳng
chấp trước”, Ngài thấy hết thảy đều là Thật
Tướng. Ngài đă thấy “như
thật lư”, đó gọi là “kiến
tánh”, tức là minh tâm kiến tánh. Vừa động một niệm,
chẳng thấy tánh nữa, mà thấy tướng. Thuận
theo vọng tưởng, phân biệt, chấp trước
của quư vị, tướng bên ngoài bèn dấy lên biến
hóa, Nhất Chân pháp giới liền biến thành y báo và chánh
báo trang nghiêm trong mười pháp giới. Đức Phật
giảng thật rơ ràng, thật đơn giản, thật minh bạch. Chúng ta gặp khó khăn là khó khăn ở chỗ
nào? Chính là chẳng buông xuống vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước; khổ sở ở
chỗ này! Đối với chuyện này, đức Phật
chẳng làm ǵ được! Đức Phật chẳng
có cách nào trừ bỏ vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước cho chúng ta được; Ngài chẳng có năng lực ấy! Nếu Ngài có năng lực ấy, chúng ta chẳng cần
phải tu hành. Ngài đại từ, đại bi, đương
nhiên là sẽ trừ sạch vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước, phiền năo cho chúng ta, chẳng phải
là đă thành tựu ư? Bản thân quư vị đă mê, vẫn
phải là do chính ḿnh ngộ. Chuyện này ai cũng chẳng
thể giúp đỡ được!
Phật, Bồ Tát giúp đỡ
chúng ta là giúp ở chỗ nào? Nói rơ chân tướng sự
thật, nêu ra những khuyết điểm của quư vị,
dạy quư vị tu học như thế nào, trừ khử
những khuyết điểm ấy như thế nào? Do tập
khí ô nhiễm quá sâu, quá nghiêm trọng, tuyệt đối
chẳng phải là sau khi quư vị đă nghe, sẽ ngay lập
tức làm được, chẳng có hạng người ấy
đâu nhé! Chúng ta thấy trong lịch sử, Huệ Năng
đại sư được gọi là “vừa nói liền khai ngộ”, chứng quả, chúng
ta trông thấy một màn [biểu diễn] như thế đó. Nhưng quư vị phải hiểu,
quư vị chẳng thấy kinh nghiệm tu hành của Huệ
Năng đại sư trong đời đời kiếp
kiếp thuở quá khứ! [Do vậy], trong đời này,
Ngài mới đơm bông, kết quả chín muồi! Mỗi
cá nhân chúng ta và Ngài hoàn toàn chẳng khác ǵ nhau! Cớ sao chúng
ta chẳng giống như Ngài “vừa được giảng
liền đại ngộ”? Đời đời kiếp
kiếp trong quá khứ, thời gian tu tập của chúng ta
chẳng dài như Ngài; v́ thế, Ngài đă chín muồi,
chúng ta chẳng chín muồi! Giống như một cái cây kết
trái, mỗi trái chín muồi trước hay sau khác nhau. Quư vị
thấy người hái quả sẽ hái quả chín trước.
Hôm nay đến dưới gốc cây xem mấy quả đă
chín, quả c̣n chưa chín hăy cứ để đó. Ngày mai,
ngày mốt lại đến xem, lại có mấy quả đă
chín. Có ư nghĩa này!
Kẻ chưa chín muồi cũng
rất mong thành tựu, có cách nào hay chăng? Có chứ! Đức
Phật đúng là từ bi đến tột bậc, dùng phương
pháp ǵ? Đới nghiệp văng sanh, cách này quá mầu nhiệm!
Sanh về Tây Phương Tịnh Độ, chúng ta là phàm
phu, chẳng đoạn một phẩm phiền năo, đới
nghiệp văng sanh. Đến Tây Phương Cực Lạc
thế giới, sẽ là thân phận ǵ? Thành tựu ǵ? Trong
Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư đă nói quá
hay! [Ngài nói] nếu bảo quư vị là thánh nhân th́ phiền
năo tập khí chẳng đoạn phẩm nào [nên chẳng thể gọi là thánh
nhân được]! Bảo
quư vị là phàm phu th́ quư vị là bậc A Duy Việt Trí, chứng
trọn vẹn ba món Bất Thoái. Ngẫu Ích đại
sư bảo: “Nói là ǵ cũng
đều chẳng được! Đấy là do
được bổn nguyện và oai thần của A Di
Đà gia tŕ, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế
giới, sẽ chứng trọn vẹn ba món Bất Thoái dẫu
là kẻ hạ hạ phẩm văng sanh trong
cơi Phàm Thánh Đồng Cư”. Người trong thế giới Tây Phương thọ
mạng dài, đức Phật vô lượng thọ, hễ
sanh vào thế giới Cực Lạc, ai nấy đều
là vô lượng thọ. V́ thế, chắc chắn sẽ chứng
đắc quả vị viên măn rốt ráo trong một đời.
Đấy gọi là “pháp môn thành tựu ngay trong một đời”!
Kinh Hoa Nghiêm đến cuối
cùng, mười đại nguyện vương của Phổ
Hiền Bồ Tát dẫn về Cực Lạc. Do vậy, cổ
đại đức nói kinh Hoa Nghiêm là Đại Bổn của
kinh Vô Lượng Thọ, kinh Vô Lượng Thọ là Trung
Bổn của kinh Hoa Nghiêm, kinh A Di Đà là Tiểu Bổn
của kinh Hoa Nghiêm. Cổ đại đức đă coi
ba bộ kinh ấy thành một bộ, có lư! Thành tựu cuối
cùng là quy vào Tịnh Độ. Văn Thù và Phổ Hiền đều
phát nguyện văng sanh Tịnh Độ. Lại c̣n hướng
dẫn bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân
đại sĩ trong thế giới Hoa Tạng, tức Thập
Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập
Địa, Đẳng Giác, thảy đều văng sanh thế
giới Cực Lạc. Quư vị thấy khí tượng đó tráng lệ
ngần ấy! Tỳ Lô Giá Na Phật hoan hỷ, Tỳ Lô
Giá Na Phật chẳng phản đối: “Đồ đệ,
học tṛ của ta đông ngần ấy, cớ sao các ngươi
dẫn họ đi hết, chẳng để lại một
ai?” Bọn phàm phu như chúng ta sẽ chẳng chịu nổi!
V́ sao? Có ganh tỵ, có chướng ngại. Phật chẳng
có.
V́ sao dẫn dắt họ
sang thế giới Cực Lạc? Đến thế giới
Cực Lạc thành tựu mau chóng. Ở trong thế giới
Hoa Tạng, thành tựu chậm chạp; chẳng phải là
không có thành tựu, có thành tựu chứ! Ví như những
vị Pháp Thân Bồ Tát, phá một phẩm vô minh, chứng một
phần Pháp Thân, tu hành trong Hoa Tạng phải mất ba đại
A-tăng-kỳ kiếp th́ mới đoạn hết tập
khí vô minh. Nếu đến Tây Phương Cực Lạc thế
giới, các Ngài sang đó, sanh trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm,
sang bên đó sẽ nhanh chóng! Vài ngày đă thành tựu, chẳng
thể sánh bằng! V́ sao có những vị Bồ Tát chẳng
đến đó? Các vị Bồ Tát ấy chẳng biết
pháp môn này. Văn Thù, Phổ Hiền không chỉ nói cho họ
biết, mà c̣n dẫn họ theo. Nếu chúng ta biết chân
tướng sự thật này, quư vị mới biết
pháp môn này thù thắng. Do vậy, chúng ta buông xuống muôn duyên, khăng
khăng một mực tu pháp môn này, tôi và chư vị cùng học
kinh Hoa Nghiêm, quư vị có hiểu hay không? Chính là học Đại
Bổn của kinh Vô Lượng Thọ, chúng ta vẫn là Tịnh
Độ Tông, chẳng phải là Hoa Nghiêm Tông.
Nếu đă hiểu rơ, đă
minh bạch Lư, há c̣n có ǵ đáng để tranh giành? Thế
gian này đúng như Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói, năm lần
năm trăm năm sau khi lăo nhân gia diệt độ, tức
là sau hai ngàn năm trăm năm, nhằm thời đại
của chúng ta, chính là thời đại ǵ vậy? Đấu
tránh kiên cố (鬥諍堅固, đấu đá, căi cọ kiên cố). Quư vị thấy
toàn thể thế giới trong hiện thời là cạnh tranh,
đấu tranh, chiến tranh, thảy đều đang
tranh giành. Tranh ǵ vậy? Giáo pháp Đại Thừa đă nói
hay quá: “Muôn thứ không đem
được, chỉ có nghiệp theo thân”! Quư vị
tranh giành suốt cả đời kiểu nào đi nữa,
tạo nghiệp, nhưng thứ ǵ cũng đều chẳng
mang theo được, quư vị chẳng thể đạt được thứ ǵ! Quư vị chẳng
liễu giải chân tướng sự thật; hễ liễu
giải chân tướng sự thật, sẽ buông xuống
muôn duyên, chẳng tranh nữa! “Quai” (乖) là trái nghịch chân tướng sự thật, trái
nghịch Tánh Đức. Nói nông cạn hơn đôi chút,
trong địa vị hiện thời của chúng ta, sẽ
là trái nghịch luân lư đạo đức, trái nghịch nhân
quả báo ứng. Đấy là
Quai, toàn bộ đều sai quấy!
Tôi có cơ duyên này, nói thật
ra, đều là do Phật, Bồ Tát an bài. Khi tôi mới học
Phật, Chương Gia đại sư bảo tôi: “Cả đời anh đều do Phật, Bồ Tát
thay anh an bài”. Tôi nghe nói rất
hoan hỷ, điều ǵ tôi cũng chẳng phải bận
ḷng, Phật, Bồ Tát đă thay tôi xếp đặt ổn
thỏa rồi! V́ vậy, thuận cảnh cũng thế,
mà nghịch cảnh cũng thế, luôn có ḷng cảm ơn.
Thuận cảnh khích lệ tôi học tập; nghịch cảnh
sẽ tiêu nghiệp chướng cho tôi. Trước nay chẳng
oán trời, chẳng hờn người, luôn cảm ơn.
Có cơ duyên là do người khác đến t́m tôi, chẳng
phải là v́ tôi t́m đến họ, tham dự một số hội
nghị ḥa b́nh quốc tế. Tôi tiếp xúc, xem nhiều,
nghe nhiều, mới liễu giải nguyên lai xă hội hiện
tại có nhiều vấn đề phức tạp ngần
ấy, quá ư là nhiều! Bao nhiêu vị chuyên gia, học
giả mở cuộc họp hằng ngày, nhưng chẳng
giải quyết được. Tôi hiểu v́ sao chẳng
thể giải quyết được? Chẳng buông xuống
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Lại nói nông cạn
hơn một tí, sẽ là chẳng buông xuống ích kỷ,
tiếng tăm, lợi dưỡng, chẳng buông xuống
hưởng thụ ngũ dục, lục
trần, chẳng buông xuống tham, sân, si, mạn!
Có những người
đă buông xuống, buông xuống đôi chút, nhưng buông xuống
chẳng triệt để, hăy c̣n thừa sót. Nhưng những
vị đă buông xuống ấy, kiến giải cao minh hơn
b́nh phàm, nêu ra những phương pháp cũng rất tốt,
nhưng như thế nào? Chẳng làm được. Có ai
nghe theo những phương pháp do quư vị đă nói? Nếu
như là những người thật sự giác ngộ, [sẽ
suy nghĩ] làm thế nào để trừ khử chiến
tranh. Nhất định là yêu cầu các quốc gia trên toàn
thế giới hăy buông xuống các trang bị quân sự. Mỗi
quốc gia đều chẳng cần quân đội nữa, [do vậy], sẽ chẳng thể có chiến tranh,
mọi người đối xử ḥa thuận với
nhau. Ư kiến ấy khá lắm, hay lắm, nhưng quốc gia nào sẽ chịu nghe lời quư vị? Hy
vọng kỹ thuật nguyên tử sẽ dùng vào mục
đích ḥa b́nh, chẳng dùng vào chiến tranh. Ai chịu nghe
lời quư vị? Đó là lư tưởng, chẳng làm
được! V́ thế, căn bản là ở chỗ nào? Căn bản là do chẳng thấy “như thật lư”! Như thật
lư chính là chân tướng của nhân sinh và vũ trụ, chẳng thấy
điều này! Hễ thấy điều này, vấn đề
sẽ được giải quyết. Đó gọi là “lư đắc tâm an”. Sau
khi đă thấy lư như thật, tâm quư vị mới an, mới
chẳng dao động, cái tâm sẽ thanh tịnh, sẽ b́nh
đẳng. Chẳng thấy Lư, tư tưởng, kiến
giải, quan niệm của quư vị toàn là do tập khí phiền
năo làm chủ. Nói cách khác, vĩnh viễn là chống trái,
tranh căi, chẳng phải là “vĩnh viễn không chống trái,
không tranh căi”. Vĩnh viễn chống trái, tranh căi chẳng thể
nào gián đoạn.
Thánh hiền lập định
giáo dục, các chuyên gia học giả chẳng hiểu rơ,
ngỡ giáo dục của thánh hiền cũng là một thứ
lư tưởng, chẳng thể thực hiện. Nhưng quư
vị phải hiểu, giáo dục thánh hiền đă có quá
khứ năm ngàn năm, đă thực hiện rồi. V́
thế, một vùng Trung Hoa an định lâu dài suốt năm
ngàn năm. Tuy có những lúc động loạn, thay đổi
triều đại, thời gian động loạn chẳng
dài, thời gian an định vẫn khá dài. Chẳng t́m thấy
những điều này trong những quốc gia và những
khu vực khác. Hiện thời, xác thực là muốn hóa giải
xung đột trên thế gian, khôi phục an định, ḥa b́nh, tôi đề xuất
nền giáo dục truyền thống, giáo dục luân lư, giáo
dục đạo đức, giáo dục nhân quả, và giáo dục
tôn giáo. Mục tiêu chung cực của bốn loại giáo dục
ấy là giúp cho con người từ tập tánh trở về
bản tánh. Mục tiêu chung cực là “kiến như thật lư, vĩnh vô quai tránh” (thấy lư như thật, vĩnh viễn không chống
trái, tranh căi). Quư vị thấy đấy chính là điều
mà nhiều bậc có chí, nhiều vị có ḷng nhân trên thế
giới hằng ngày mong mỏi, hằng ngày cầu mong.
Ở đây, đức Thế
Tôn dạy chúng ta hai câu: “Tu hành
ư Định, nhược tu ư Quán”. Định và
Quán sẽ giải quyết. Định có thể hàng phục
vọng tâm, Quán có thể chuyển biến vọng tâm thành
chân tâm, giác ngộ. Đă giác ngộ, vọng vốn là chân.
Hễ mê, chân biến thành vọng. Giống như tiến
sĩ Giang Bổn Thắng đă làm thí nghiệm với
nước, quư vị giác ngộ, tâm yêu thương bèn hiện
tiền. Đối với hết thảy vạn pháp, hết
thảy người, sự, vật trong toàn thể vũ
trụ, thuần là một ḷng yêu thương, thuần một
niềm cảm tạ, tướng của nước sẽ
biến thành đẹp đẽ, thù thắng ngần ấy.
Giác th́ hoàn toàn tương ứng với tự tánh. Khi mê, ích
kỷ, tham, sân, si, mạn, nước kết tinh rất khó
coi. Kết tinh đẹp đẽ là nước, mà kết
tinh xấu xí vẫn là nước. Đẹp và xấu chẳng
hai. Nước là khoáng vật. Từ điểm này, quư vị
có thể hiểu toàn thể vũ trụ, khắp pháp giới, hư không
giới, do một niệm thiện tâm của chúng ta, toàn thể
vũ trụ ḥa hài. Do một ác niệm của chúng ta, hết
thảy chúng sanh đều dấy lên sự chống trái,
tranh căi!
V́ sao chẳng khiến cho thiện
niệm được tiếp nối trong mỗi niệm?
Trong kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo, đức
Thế Tôn đă nói rất hay, Ngài dạy thiện ư, thiện
tâm, thiện hạnh của chúng ta phải liên tục trong
mỗi niệm, vĩnh viễn chẳng gián đoạn. Ngài
lại c̣n bảo chúng ta, chớ nên có mảy may bất thiện
xen tạp. Lời giáo huấn ấy nhằm dạy chúng ta
thấy lư như thật, trở về Tánh Đức. Tánh
Đức thuần tịnh thuần thiện, vĩnh viễn
chẳng ĺa luân lư, đạo đức, nhân quả,
vĩnh viễn chẳng rời, vĩnh viễn chẳng có
ư niệm cạnh tranh. Cạnh tranh c̣n chẳng có, đương
nhiên là sẽ chẳng có đấu tranh, càng chẳng thể
có chiến tranh. Như vậy th́ mới có thể thật
sự thực hiện thế giới hài ḥa, vũ trụ
hài ḥa. Nếu chúng ta chẳng học tập sự giáo dục
này, chẳng thể thực hiện sự giáo dục này, mà
hy vọng hóa giải xung đột, tiêu trừ mâu thuẫn,
sẽ vĩnh viễn chẳng thể làm được!
V́ thế, trong hiện thời,
trên thế giới có phần tử khủng bố, tạo
tác những hoạt động khủng bố, đấy
là trạng thái bệnh hoạn. Người đời phiền
năo nghiêm trọng dường ấy, tham, sân, si, mạn, trái
nghịch luân lư, đạo đức. Trái nghịch luân lư,
đạo đức chính là bất b́nh thường! Phương
pháp trị liệu của chúng tôi (những thứ ấy
đều là trạng thái bệnh hoạn) nhằm trị
cả gốc lẫn ngọn. Trị đằng ngọn bèn
dùng ḷng khoan dung, tha thứ, [khiến cho] lương tâm của
người ta phát hiện; chớ nên dùng ḷng báo thù, chớ
nên dùng các phương thức bất b́nh đẳng để
đối đăi, chớ nên kỳ thị. Đối đăi
b́nh đẳng, cư xử ḥa thuận, đấy là trị
đằng ngọn, chẳng phải là trị đằng
gốc. Trị đằng gốc là ǵ? Trị tận gốc
bằng giáo dục Đại Thừa. Phải giúp cho họ
minh tâm kiến tánh, thấy lư như thật, ư niệm tranh
chấp sẽ vĩnh viễn đoạn trừ, ngay cả
cội gốc cũng bị dẹp trừ. V́ thế, ở phương Tây cũng có người
thật sự thông hiểu, đă đề ra “để giải quyết vấn
đề trong thế kỷ hai mươi mốt, chỉ có Đại Thừa Phật
pháp và học thuyết Khổng Mạnh”. Đại Thừa
Phật pháp trị liệu từ căn bản, [kèm thêm] học
thuyết Khổng Mạnh nhằm trị đằng gốc
lẫn đằng ngọn, có lư lắm! Phương pháp trị
đằng ngọn rất hữu dụng, hữu hiệu.
Phương pháp trị tận gốc cũng được,
nhưng vẫn c̣n thừa sót, chẳng thể rốt ráo; Đại
Thừa Phật pháp mới thật sự là rốt ráo chẳng
thừa sót!
Chúng ta có thể nhận biết
như thế, mới biết con đường này là đúng,
chẳng dễ dàng! Như cư sĩ Bành Tế Thanh đă
nói: “Một ngày hiếm có khó gặp
từ vô lượng kiếp đến nay”, chúng ta có thể
nói: Nhân duyên hiếm có khó gặp, tuyệt đối chẳng
phải là trong mỗi đời khi được làm thân người
quư vị đều có thể gặp gỡ! Chẳng dễ
dàng! Nay chúng ta được làm thân người, nghe Phật
pháp, lại có cơ duyên nghe Tịnh Tông, học Hoa Nghiêm, may mắn khôn sánh, hy hữu khôn sánh! Làm thế nào để thực hiện,
để thật sự được thọ dụng? Nhất
định là chớ quên tŕ giới! Niệm Phật th́ niệm
Phật là tu Định, tu Huệ, Định và Huệ
đều thuộc trong niệm Phật. Hiện thời, người
niệm Phật trong Niệm Phật Đường đông
đảo, nhưng công phu chẳng thể đắc lực,
là do nguyên nhân nào? Thiếu mất một thứ; [tức là]
đối với Giới, Định, Huệ, do chẳng
có Giới, hiệu quả của Định và Huệ bị
chiết khấu rất lớn, hiệu quả chẳng rơ
rệt. Học Giới từ chỗ nào? Nhất định
là từ Đệ Tử Quy, từ Thập Thiện Nghiệp
Đạo, sau đấy mới từ Tam Quy, Ngũ Giới.
Các đồng học tại gia học những thứ ấy
là được rồi!
Để giáo dục nhân quả,
dùng phim truyền h́nh sẽ thuận tiện nhất. Đại
khái là phim Liễu Phàm Tứ Huấn khoảng một, hai tháng
nữa sẽ ra ḷ, chư vị đồng học có thể
xem. Thời gian tối đa là hai tháng nữa. Chúng ta có thể
chế thành đĩa CD với số lượng lớn,
tổng cộng là hai mươi ba tập, giáo dục nhân
quả đấy! Hy vọng mỗi vị đồng học
sẽ đem [tài liệu] giáo dục nhân quả này về
nhà, thay thế cho những tiết mục giải trí của
TV. Tôi mong quư vị sẽ xem mỗi ngày, xem xong một
lượt bèn xem lại từ đầu. Trong quá
khứ, tôi đă khuyên các đồng học, khi đó là đọc
sách, đọc ba trăm lần, quư vị mới thật
sự liễu giải, thông đạt, quư vị sẽ y
giáo phụng hành. Hiện thời, hai mươi ba tập
phim truyền h́nh này, hy vọng mỗi đồng học có
thể chiếu tối thiểu suốt một năm trong
nhà. Tôi không nói số lần, hăy xem hằng ngày, xem bộ
phim này suốt một năm. Sang năm, chúng ta c̣n có Thái
Thượng Cảm Ứng Thiên, năm sau nữa sẽ có
An Sĩ Toàn Thư, c̣n có Du Tịnh Ư Công Ngộ Táo Thần
Kư, đều hết sức hay, có ích cho thân tâm chúng ta. Hôm
nay đă hết thời gian rồi!
Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 27 hết
[1] Xuân Thu
là một giai đoạn rối ren trong lịch sử Trung
Hoa kéo dài từ năm 770 trước Công Nguyên cho đến
năm 476 trước Công Nguyên trong thời trị v́ của
nhà Đông Châu. Trong thời đại này, thiên tử nhà
Châu thế lực suy yếu, hầu như chỉ là hư
danh, chư hầu tranh hùng. Nổi bật nhất là năm
vị vua chư hầu thay nhau đứng làm minh chủ, thống lănh chư hầu, chinh phạt những nước chư hầu trái lệnh. Sử
gọi họ là Xuân Thu Ngũ Bá, tức Tề
Hoàn Công, Tống Tương Công, Tấn Văn Công, Tần
Mục Công và Sở Trang Vương. Tên gọi Xuân Thu dựa
theo bộ lịch sử nước Lỗ do Khổng Tử
san định.
Các sử gia coi thời kỳ này bắt đầu kể
từ khi Châu U Vương (Cơ Cung Niết) say mê mỹ
nhân Bao Tự, toan giết trưởng tử là thái tử
Cơ Nghi Cữu. Ông ngoại của Nghi Cữu là Thân Hầu
bèn dẫn quân Khuyển Nhung xâm
lăng, đốt phá Cảo Kinh, giết chết U
Vương, đưa Nghi Cữu lên ngôi, tức Châu B́nh
Vương. Do kinh thành bị tàn phá nặng
nề, Châu B́nh Vương phải dời đô từ Cảo
Kinh sang Thành Câu (Lạc Ấp, tức Lạc
Dương ngày nay), Sử gọi là nhà Đông Châu. Nhà Châu mất
dần thế lực, có khi chư hầu không thèm tiến cống.
Giai đoạn rối ren này kết thúc khi ba họ quư tộc
Hàn, Triệu, Ngụy diệt vua Tấn, chia nước Tấn
thành ba nước Hàn, Triệu, Ngụy, mở ra thời
đại Chiến Quốc, tức thời
đại bảy nước chư hầu lớn (Hàn, Triệu,
Ngụy, Tề, Yên, Sở, Tần) đánh nhau tàn nhẫn, kịch liệt hơn nữa. Trong thời Xuân
Thu, có đến ba mươi sáu vua chư hầu bị quần
thần giết, hay bị địch quốc sát hại,
năm mươi hai nước chư hầu bị diệt
vong, hơn bốn trăm tám mươi cuộc chiến lớn
nhỏ. Danh xưng của bộ sử Xuân Thu lại bắt
nguồn từ cổ tục. Do Trung
Hoa là nước nông nghiệp, những đại sự của
triều đ́nh thường được cử hành vào
mùa Xuân hay mùa Thu để tránh thời vụ. V́ thế, những
sự kiện lịch sử được ghi chép lại
đều gọi là Xuân Thu Truyện.
[2] Tatami là
cách phát âm của người Nhật đối với chữ
畳 (Điệp, nghĩa là cái đệm chồng lên).
Đây là một thứ thảm trải, bện bằng sợi
rơm, hoặc sợi cói, tuy hiện thời dùng thêm các vật
liệu khác. Một tấm tatami có h́nh chữ nhật, chiều
dài thường gấp đôi chiều rộng. Mép tatami
thường được viền vải. Thông thường,
trong nhà xây theo lối truyền thống, họ dùng các tấm
tatami ghép lại để lót nền nhà. Hiện thời,
do tiện bảo quản, chỉ có một hai pḥng trong nhà
là thiết kế theo lối trải nền bằng Tatami.
[3] Song bàn (雙盤) là chân nọ
đặt lên chân kia, cổ chân chéo nhau, ngửa hai ḷng bàn
chân lên. Ta thường gọi là ngồi kiết già.
Đơn bàn (單盤) là
đặt chân này chồng lên chân kia, không bắt chéo cổ chân, thường gọi là ngồi
bán già.
[4] Tiếng
Mân Nam (Bân-lâm-gú) là một thứ tiếng địa
phương được nói ở phía Nam tỉnh Phước
Kiến, nhất là vùng duyên hải Phước Kiến, một
phần tỉnh Chiết Giang và phía Đông tỉnh Quảng
Đông. Thứ tiếng này chính là cơ sở để
h́nh thành tiếng Đài ngữ (thường gọi là Hà Lạc
ngữ hoặc Phước Lăo ngữ. Tiếng Đài Loan (Tâi-oân-oē) chủ yếu
là giọng Mân Nam ở vùng Tuyền Châu, Chương Châu,
pha trộn với giọng Hạ Môn, cũng như một
số từ vay mượn từ tiếng Nhật và các từ ngữ của các sắc dân thiểu số
tại Đài Loan.
[5] Nói “mỗi
tuần nghe giảng ba giờ” là v́ mỗi tuần có hai buổi
nghe giảng kinh, một buổi nghe giảng cổ văn.
Giảng kinh th́ như trên đă nói, chỉ có một tiếng
đồng hồ giảng kinh thật sự cho cả hai
buổi, v́ mỗi buổi đă phải tốn nửa thời
gian để dịch từ
tiếng Phổ Thông (tiếng Quan Thoại,
tiếng Bắc Kinh) sang tiếng Đài Loan. Ngay cả
khi các đồng học luyện giảng kinh, vẫn dùng
cách phiên dịch này. Chỉ có cổ văn là hoàn toàn do cụ
Lư giảng suốt hai tiếng, cho nên tổng cộng, cả
tuần chỉ thật sự giảng ba giờ.
[6] Tôn Tử Binh Pháp c̣n gọi là Vũ Kinh, Binh Kinh, Tôn Vũ Binh Pháp, Ngô Tôn Tử Binh
Pháp, đôi khi chỉ gọi gọn là Tôn Tử, được
coi là một bộ binh thư cổ nhất do Tôn Vũ
người nước Ngô soạn vào thời Xuân Thu. Toàn
thể bộ sách gồm có mười ba chương,
được đánh giá rất cao v́ những nguyên tắc,
chiến lược, cũng như sự vận dụng
linh hoạt trong sách ấy. Có lẽ ngoài kinh Dịch, đây
là một bộ cổ thư Trung Hoa được dịch
ra nhiều thứ tiếng nhất và được giới
quân sự phương Tây quan tâm nghiên cứu nhiều nhất.
Tuy vậy, giới học giả Trung Hoa và Nhật Bản
vẫn có khá nhiều tranh luận quanh việc ai là tác giả
thật sự của bộ sách này. Đa số chủ trương
là Tôn Vũ, có những người khác như Tiền Mục,
Tề Đằng Khiêm, Vũ Nội Nghĩa Hùng, Kim Đức
Kiến, Phùng Hữu Lan, Vương Gia Tường đoan
quyết tác giả phải là Tôn Tẫn. Có những người
khác cho tác giả là một ẩn sĩ thời Chiến Quốc.
Thậm chí có người như Mâu Đ́nh quan niệm tác
giả bộ binh thư này phải là Ngũ Tử Tư. Măi
cho đến năm 1972, khi phát hiện được cả
Tôn Tử Binh Pháp và Tôn Tẫn Binh Thư trong một ngôi mộ
cổ từ thời Đông Hán tại Sơn Đông, vấn
đề tranh biện này mới chấm dứt, Tôn Tử
Binh Pháp được công nhận là của Tôn Vũ.
Tôn Vũ (545-470 trước Công Ngiuyên), tên tự là
Trường Khanh, là người nước Tề. Do loạn
lạc, gia đ́nh phải dời sang Cô Tô nước Ngô.
Do quen biết thân t́nh với Ngũ Tử Tư, ông được
Ngũ Tử Tư tiến cử lên Ngô vương Hạp
Lư. Ông dâng lên mười ba chương binh pháp, Hạp
Lư rất tán thưởng, phong cho làm thượng
tướng quân rồi quân sư. Năm lần ông chỉ
huy đều đại thắng, tên tuổi vang lừng.
Sau đó, khi con Hạp Lư là Phù Sai lên nối ngôi cha, ngang
ngược, đắm say tửu sắc, ông cáo quan trở
về nước Tề, chuyên nghiên cứu binh pháp. Trước
khi thoái ẩn, ông đă khuyên Ngũ Tử Tư cũng nên
thoái ẩn, nhưng Ngũ Tử Tư không nghe đến
nỗi về sau bị Phù Sai sát hại. Tương truyền
Tôn Tẫn là cháu nội của Tôn Vũ, không rơ tên thật.
V́ bị bạn học là Bàng Quyên ganh tài, vu oan giá họa, bị
vua chặt hai chân nên mới gọi là Tôn Tẫn (Tẫn (膑) là h́nh phạt chặt đứt hai chân).
[7] Những
khái niệm này phát xuất từ kinh Đại Bát Nhă, bao gồm:
1. Nội
Không: Sáu căn không có tự tánh.
2. Ngoại
Không: Sáu trần không có tự tánh.
3. Nội
Ngoại Không: Căn, trần, thức đều không có tự
tánh.
4. Không
Không: Hết thảy các pháp đều Không, cái Không ấy
cũng chẳng có tự tánh.
5. Đại
Không: Các pháp Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên đều
không có tự tánh.
6. Tiểu
Không: Các tướng Tứ Quả của Tiểu Thừa
đều chẳng có.
7. Thắng
Nghĩa Không: Lư đệ nhất nghĩa cũng là giả
danh để diễn tả chân tánh, vốn không tịch.
8. Hữu
Vi Không: Phiền năo hoặc nghiệp trong tam giới đều
là không, vốn chẳng có tướng hữu vi.
9. Vô Vi
Không: Ba tướng sanh, trụ, diệt đều là không,
vô vi vắng lặng.
10. Tất
Cánh Không: Tướng của hết thảy các pháp hữu
vi và vô vi đều là không.
11. Vô Tế
Không: Hết thảy các pháp diệt th́ chẳng có kết
thúc, sanh th́ chẳng có khởi đầu, không thể nào
đạt được.
12. Tán
Không: Hết thảy các pháp nhân duyên giả hợp mà thành,
đều không có tướng ḥa hợp, trọn chẳng
thể được.
13. Vô Biến
Dị Không: Hết thảy các pháp vô thường, vô diệt,
chẳng biến đổi, chẳng khác biệt, trọn
chẳng thể được.
14. Bổn
Tánh Không: Hết thảy các pháp bổn tánh thanh tịnh, ĺa
tánh, ĺa tướng.
15. Tự
Tướng Không: Pháp Ngũ Uẩn hư huyễn, chẳng
thật.
16. Cộng
Tướng Không: Tướng đối lập của các
pháp chẳng thường, chẳng diệt, trọn chẳng
thể được.
17. Nhất
Thiết Pháp Không: Hết thảy các pháp bản tánh vốn
là không, trọn chẳng thể được.
18. Bất
Khả Đắc Không: Hết thảy các pháp quá khứ, hiện
tại, vị lai đều chẳng có sở hữu, trọn
chẳng có tướng để có thể cầu.
19. Vô
Tánh Không: Hết thảy các pháp thảy đều hư giả,
chẳng có thật tánh.
20. Tự
Tánh Không: Hết thảy các pháp, chẳng thường, chẳng
diệt, tánh vốn tự không.