Đại Phương Quảng
Phật
Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười
một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần
28
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Địa điểm: Hương Cảng Phật
Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ ngày mồng Bảy tháng
Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ Trang và Minh
Tiến
Tập 1517
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin hăy ngồi
xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười
một, đoạn thứ ba, xem từ bài kệ tụng
cuối cùng. Đoạn thứ ba là Tựu Tọa Thiền
Quán (就坐禪觀).
Bài kệ cuối cùng là…
(Kinh)
Xả già phu tọa, đương nguyện chúng sanh, quán
chư hành pháp, tất quy tán diệt.
(經)捨跏趺坐。當願眾生。觀諸行法。悉歸散滅。
(Kinh:
Thôi ngồi xếp bằng, nguyện cho chúng sanh, quán các
hành pháp, đều là tan diệt).
Trong bảy bài kệ tụng
này, chúng ta thấy bốn bài kệ đầu nói về
phương tiện tu hành, đều thuộc về giới
luật. Hai bài thứ năm và thứ sáu là chánh tu, bài thứ
năm nói về Hạnh Môn, tức Thiền Định;
bài thứ sáu nói về Giải Môn, là trí huệ. Từ chỗ
này, chư vị có thể thấu hiểu: Bảy bài tụng
này đă nêu ra toàn bộ sự tu học trong Phật pháp, tức là
Tam Học Giới Định Huệ. Phương tiện
là Giới, “tu hành ư Định”
(tu hành Định) là Thiền Định, “nhược tu ư Quán” (nếu tu Quán) là trí huệ,
Tam Học Giới Định Huệ! Đấy
là tổng nguyên tắc, tổng cương lănh. Không chỉ
Thích Ca Mâu Ni Phật là như thế, mà quá khứ, vị
lai hết thảy chư Phật tu hành, chứng quả,
giáo hóa chúng sanh, đều chẳng ĺa khỏi nguyên tắc
này!
Nếu quư vị hỏi v́
sao ư? Phật pháp bảo đấy là Tánh Đức, “pháp nhĩ như thị”, “pháp nhĩ” (法爾) là tự
nhiên như vậy, nó là như vậy đó, nó vốn
là như thế đó! Chẳng có bất cứ lư do nào để
có thể nói được. Nếu quư vị suy nghĩ [kiếm]
một lư do cho nó, sẽ rơi vào vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước. Chỉ cần rơi vào vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, chân tướng
sẽ ẩn lấp. Nói cách khác, quư vị chẳng thấy chân tướng
sự thật. Điều này cũng có chỉ rơ “v́ sao Thích
Ca Mâu Ni Phật phải xuất hiện trên thế gian?” Có
lư do hay không? Thưa cùng chư vị, chẳng có lư do! Pháp
Tánh vốn là như vậy! Đấy mới là nói viên măn,
nói rốt ráo. Nếu quư vị nêu lư do, đưa ra lư do, sẽ
có nhiều lư do lắm, đâm ra sẽ khiến cho vấn
đề phức tạp. Vốn hết sức đơn
giản, v́ sao lại khiến cho nó phức tạp dường
ấy? Kẻ thông minh quá nhiều, mỗi người
đều muốn nghĩ ra một phương thức để
giải thích!
Hôm nay, học đến bài kệ
cuối cùng này, nếu chúng ta có thể thật sự thấu
hiểu, sẽ hoảng nhiên đại ngộ! “Xả tọa” chính là buổi
học đă xong, duỗi chân ra, rời khỏi giảng
đường, [v́] buổi học đă kết thúc. “Đương nguyện chúng sanh,
quán chư hành pháp, tất quy tán diệt” (Nguyện
cho chúng sanh, quán các hành pháp, đều trở về chỗ
tan diệt). Đấy chẳng phải là như kinh Bát Nhă
đă nói ư? “Hết thảy
các pháp vô sở hữu, rốt ráo không, chẳng thể
được”. Do vậy, quư vị suy tưởng
như thế nào, nghiên cứu như thế nào, cũng
đều là vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước, chẳng phải là sự thật! Kinh Kim Cang đă nói rất
hay: “Phàm những ǵ có h́nh
tướng, đều là hư vọng”. Triệt để buông xuống, Tam Học Giới
Định Huệ trọn đủ viên măn. Nếu quư vị
hỏi v́ sao ư? Tam Học Giới Định Huệ vốn
sẵn có trong tự tánh, chỉ cần buông xuống muôn
duyên, Tánh Đức tự nhiên hiện tiền. Do vậy,
chẳng cần tu Tánh Đức, chư vị nhất
định phải hiểu điều này! Đức Phật
dạy chúng ta tu, đấy là chuyện bất đắc
dĩ, [bởi lẽ] chúng ta chẳng kiến tánh. Chẳng
kiến tánh, quư vị phải
nên tu thiện, đoạn ác tu thiện,
tích lũy công đức, hy vọng cuộc sống trong lục
đạo sẽ tốt đẹp hơn đôi chút. Chuyện
là như thế đó!
Giới Định Huệ đă thành tựu, nhất
là Huệ, đă đạt tới một mức độ
nhất định, sẽ minh tâm kiến tánh, kiến tánh
thành Phật. Khi ấy, trí huệ Bát Nhă, vạn đức
vạn năng, vô tận tướng hảo vốn sẵn
có trong Tánh Đức thảy đều hiện tiền. Từ
kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy đức Thế Tôn đă giảng
rơ về y báo và chánh báo trang nghiêm trong thế giới Hoa Tạng.
Trong kinh Văng Sanh, kinh Văng Sanh tức là kinh luận của Tịnh
Độ Tông, gồm năm kinh một luận, quư vị
thấy đă miêu tả y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới. Đó là tự
tánh vốn tự nhiên hiển hiện viên măn như thế
đó, chẳng do con người tạo tác. Hễ khởi
tâm động niệm th́
sai mất rồi! Do khởi
tâm động niệm, Tánh Đức bị vặn vẹo,
nẩy sanh biến hóa. Tánh Đức thuần tịnh thuần
thiện, chẳng có vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước!
Các thí nghiệm của những
khoa học gia, như tiến sĩ Giang Bổn Thắng của
Nhật Bản [chẳng hạn], có rốt ráo hay không? Chẳng
rốt ráo! V́ sao chẳng rốt ráo? Những thí nghiệm của
họ chẳng vượt thoát mười pháp giới. Trong
Nhất Chân pháp giới, hiện tướng (現相, các tướng
được biến hiện) thù thắng khôn sánh, họ
(các nhà khoa học) vĩnh viễn chẳng thấy. V́ sao chẳng
thấy? Những người làm thí nghiệm đều có
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Đối
với Pháp Tánh và Pháp Tướng, quư vị chẳng thấy
Pháp Tánh, những ǵ quư vị trông thấy chính là Pháp Tướng.
Thể của Pháp Tướng là Pháp Tánh. Quư vị thấy:
Do một ư niệm thiện của chúng ta, kết tinh của nước hết sức tốt đẹp, dễ
nh́n. Do ư niệm ác, nó hiện tướng cũng rất xấu xí. Nó thuận theo vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước của quư vị mà biến; đấy
là “duy thức sở biến”.
Trong khi chúng ta chẳng có [ư niệm] thiện hay ác, nó sẽ
hiện tướng ǵ? Dường như là nó cũng hiện
tướng, nhưng chẳng có ǵ là đặc biệt tốt
hay đặc biệt xấu. Đấy là cảnh giới
ǵ vậy? Vô minh! Không thoát khỏi mười pháp giới, sẽ chẳng
phải là trí huệ chân thật! Trí huệ chân thật ĺa vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước. Chẳng ĺa
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, trong
Pháp Tướng chẳng hiện ra cảnh giới [chân thật]
ấy! Nếu người thí nghiệm thật sự có thể
ĺa vọng tưởng, phân biệt, chấp trước,
phá một phẩm vô minh, thấy một phần Pháp Thân, sẽ
có thể thấy h́nh tướng của
thế giới Cực Lạc, thế
giới Hoa Tạng ở ngay trong một giọt nước
ấy! Chư vị đồng tu hăy nghĩ xem, có phải
là đạo lư như vậy hay chăng? Đó gọi là Thật
Tướng của các pháp, là chân tướng sự thật.
Biết chân tướng sự thật, quư vị sẽ chẳng
khởi tâm động niệm. Phân biệt, chấp trước
càng chẳng cần phải nói nữa. Khởi tâm động
niệm đă chẳng có, lấy đâu ra phân biệt, chấp
trước? Đấy là cảnh giới Hoa Nghiêm. Vận
dụng vào mười pháp giới có chướng ngại
hay không? Chẳng có chướng ngại! Lư Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại.
Chư Phật Như Lai, Pháp
Thân Bồ Tát và chúng ta ở cùng một chỗ, chúng ta ba
người cũng thế, mà bốn người cũng thế,
mỗi người một cảnh giới! Quư vị nói
xem, có hai người nào mà cảnh giới giống nhau hay
không? Chẳng có! Chắc chắn là t́m không ra! Đến khi
nào cảnh giới của hai người sẽ giống
nhau? Khi đă đạt đến “dĩ Định phục tâm, cứu cánh vô dư”
(dùng Định chế ngự cái tâm, rốt ráo chẳng thừa
sót), chỉ có nơi quả địa rốt ráo [cảnh
giới mới] là giống nhau. Đẳng Giác Bồ Tát th́ khá gần
giống, nhưng vẫn là bất đồng, v́ sao? Chẳng phá một
phẩm vô minh cuối cùng. Phẩm vô minh ấy chính là tập
khí vô thỉ vô minh. Trong phần trước, tôi đă nói rất
nhiều, chẳng đoạn tập khí! Lục đạo
phàm phu chẳng có cách nào lư giải cảnh giới ấy;
v́ thế, đức Phật bảo là “chẳng thể nghĩ bàn”. Đức Phật nói
câu này rất từ bi, quư vị có mong biết cảnh giới
của Phật hay không? Nếu quư vị muốn biết cảnh
giới của Phật, đức Phật dạy quư vị
làm như thế nào th́ mới có thể thấy? Quư vị đừng
dùng tư tưởng, đừng dùng ngôn ngữ, quư vị
sẽ biết. Hễ quư vị c̣n dùng tư tưởng, c̣n
dùng ngôn ngữ, sẽ chẳng làm được, chắc chắn là quư vị chẳng đạt được! Đức
Phật nói câu này minh bạch, nhưng người nghe th́
sao? Người nghe hiểu lầm ư nghĩa: “Chẳng thể
nghĩ bàn là không có cách nào suy nghĩ, chẳng có cách nào nói
được”. Chúng ta hiểu lầm ư nghĩa theo kiểu
đó, hiểu trật ư nghĩa mất rồi! Đức
Phật bảo “như thật”,
chính là [nói đến] Thật Tướng của các pháp. Làm sao mới thấy được? “Chẳng thể
nghĩ” là chẳng thể khởi tâm động niệm;
“chẳng thể bàn” là chớ
nên phân biệt, chấp trước, chân tướng đă sáng tỏ! Nguyên
lai là ở chỗ này. Đó gọi là “điều ǵ cũng là đạo,
đâu đâu cũng hiểu thấu nguồn cội”.
Tùy tiện lấy một pháp, không pháp nào chẳng phải là chân tướng!
Đấy là
nói về “quán chư hành pháp”,
“hành pháp” là mười pháp
giới. “Tất giai tán diệt”
(thảy đều tan diệt), đó là cảnh
giới ǵ? Lại quay về Nhất Chân pháp giới. Nếu
quư vị đối với hết thảy các hành pháp trong
mười pháp giới mà có phân biệt, có chấp trước, chẳng chịu buông
xuống, y báo và chánh báo trang nghiêm của mười pháp giới
sẽ chẳng tan, chẳng diệt! Tuy chẳng tan diệt,
sẽ là như thế nào? Vô thường! Quư vị thấy
hữu t́nh chúng sanh, nay chúng ta nói là “động
vật” có sanh, lăo, bệnh, tử; vô t́nh chúng sanh, nay nói là thực
vật và khoáng vật, thực vật có sanh, trụ, dị,
diệt, khoáng vật có thành, trụ, hoại, không. Đó là
ǵ? Chính là vô thường. Trong ấy có ư nghĩa rất
sâu, phải chú tâm lănh hội. Lănh hội một phần, sẽ
có một phần thọ dụng, thọ dụng chân thật.
Lănh hội hai phần, sẽ được hai phần thọ
dụng. Sự thọ dụng ấy là thật, chẳng
giả!
Trong Phật pháp nói là “pháp hỷ sung măn”, Khổng
phu tử nói “học nhi thời
tập chi, bất diệc duyệt hồ?” (học rồi thường xuyên tu tập, cũng
chẳng vui sao?) Xưa kia, người đọc sách tại Trung
Hoa thường nói “Khổng
Nhan chi lạc”, [nghĩa là] trong cuộc sống, Khổng
Tử và Nhan Hồi có niềm vui sướng, mọi
người rất tán thán, rất hâm mộ. Thế
nhưng quư vị chẳng phải là Nhan Hồi, chẳng
phải là Khổng Tử, sẽ chẳng thể thấu
hiểu cảnh giới ấy! Học theo Nhan Hồi, học
theo Khổng Tử, tại Trung Hoa, vào thời cổ, Mạnh
Tử học giống nhất. V́ thế, Nho gia cũng dùng
câu “Khổng Mạnh chi đạo”
để thay thế cho câu ấy (câu “Khổng Nhan chi lạc”), có nghĩa là Mạnh Tử
đă nhập cảnh giới của Khổng, Nhan. Trong Phật
môn, có những vị tổ sư đại đức
đă thật sự đạt được Giới
Định Huệ, cũng có thể đạt tới [cảnh
giới] “phá một phẩm vô
minh, chứng một phần Pháp Thân”, Thiền Tông nói là “minh tâm kiến tánh”, Giáo Hạ
nói là “đại khai viên giải”,
Tịnh Độ nói là “Lư nhất
tâm bất loạn”. Tuy danh từ khác nhau, nhưng cảnh
giới như nhau, đều là ĺa vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước. Vọng tưởng là khởi
tâm động niệm; lục căn đối trước
cảnh giới sáu trần chẳng khởi tâm, không động
niệm, chẳng phân biệt, không chấp trước. Thật
sự nhập cảnh giới này, họ đạt
được niềm vui của chư Phật Như Lai.
Niềm vui ấy vượt xa niềm vui của Khổng
Tử và Nhan Hồi quá nhiều!
Chúng ta có thể nói “Khổng Nhan chi lạc” là thiên
đạo, [là niềm vui của] thánh nhân thế gian. Niềm
vui của chư Phật Như Lai đă đạt tới
rốt ráo. Nếu quư vị hỏi v́ sao chúng tôi nói khẳng
định như vậy ư? Chẳng có ǵ khác! Quư vị
suy tưởng từ lư luận, [sẽ thấy] tất
nhiên là như thế. Đoạn sạch tập khí vô thỉ
vô minh, triệt để hiểu rơ chân tướng của
nhân sinh và vạn vật trong vũ trụ, chúng sanh có cảm,
sẽ tự nhiên có ứng. Giống như một chén
nước, tôi dấy lên một ư niệm, người
khác dấy lên một ư niệm, một chén nước
đặt ở đây, nước phản ứng đối
với [ư niệm của] tôi và phản ứng đối với
[ư niệm của] quư vị, phản ứng đối với
[ư niệm của] người khác sẽ chẳng giống
nhau! Cùng một nơi chốn, cùng một thời gian, do
tâm ba người cảm khác nhau, cảnh giới phản ứng
của nước sẽ chẳng giống nhau. Đấy
là chuyện như thế nào?
Tôi kể thêm một chuyện
cho quư vị nghe nhé! Dường như là vào năm 1982, lăo
pháp sư Thánh Nhất[1]
khi đó c̣n trẻ. Sư đại khái mới ngoài bốn
mươi. Chuyện xảy ra từ hơn ba mươi
năm trước. Sư kể với tôi, khi đó, Trung
Quốc c̣n chưa hoàn toàn mở cửa, Sư và mấy vị
đồng tham đạo hữu đến Triều Âm
Động ở Phổ Đà sơn để bái yết Quán
Âm Bồ Tát. Nghe nói sự cảm ứng ở chỗ ấy
rất rơ rệt, tới đó lễ bái, có thể thấy
Quán Âm Bồ Tát hiện thân. Ba vị xuất gia, c̣n có một
quan chức địa phương ở nơi đó
đi theo họ, lạy ở cửa động nửa tiếng.
Quán Âm Bồ Tát xuất hiện, ba người đều
rất hoan hỷ, cùng thời gian, cùng địa điểm.
Sau khi đă lạy nửa giờ, viên chức ấy thúc giục
họ: “Thời gian quá lâu rồi, hăy nên rời đi!” Sau
khi rời đi, họ hỏi nhau: “Thầy thấy Quán Âm Bồ
Tát có h́nh dạng như thế nào?” Pháp sư Thánh Nhất
thấy Quán Âm Bồ Tát đội măo Tỳ Lô, thân kim sắc.
Măo Tỳ Lô là cái măo giống như măo Địa Tạng Bồ
Tát đội, kim sắc. Một vị pháp sư khác thấy
Ngài là Bạch Y Quán Âm, tức là giống như tượng
tạc hoặc tượng vẽ Bạch Y Quán Âm mà chúng ta
thường thấy. Mọi người rất quen thuộc
h́nh tượng này. C̣n có một vị pháp sư nữa thấy
Ngài có h́nh tướng tỳ-kheo, là người xuất
gia, có h́nh tướng tỳ-kheo xuất gia!
Ba người cùng lúc, cùng một
chỗ, đều trông thấy [Bồ Tát], nhưng [h́nh
tướng] chẳng giống nhau! Do nguyên nhân nào? Đều
là “có cảm bèn có ứng”,
chúng sanh có cảm, Bồ Tát có ứng. Tâm thái cảm của
quư vị khác nhau, sẽ ứng hiện tướng khác
nhau! Trạng huống hoàn toàn giống như kết tinh
trong thí nghiệm với nước như tôi đă nói! Cùng
thời, cùng chỗ, một vạn người khởi tâm
động niệm đối với chén nước, sẽ
có một vạn thứ kết tinh khác nhau, quyết chẳng
thể có hai kết tinh giống nhau! Tiến sĩ Giang Bổn
Thắng kể với tôi điều này. Ông ta làm thí nghiệm
mười năm, thí nghiệm mấy chục vạn lần,
ông ta bảo “chưa từng phát hiện hai kết tinh hoàn
toàn giống nhau”. Cùng một người, nhưng thời
gian khác nhau, kết tinh cũng chẳng giống nhau. V́ sao?
Cùng một người, nhưng ư niệm do khởi tâm
động niệm khác nhau! Dẫu là thiện niệm, mức
độ thiện khác nhau. V́ thế, đối với những
kết tinh đẹp đẽ, quư vị quan sát cặn kẽ,
[sẽ thấy là] đại đồng tiểu dị,
không hoàn toàn giống nhau! Đấy là vọng tâm trong mỗi
niệm khác nhau, [có thể là] tương tự, chứ
không giống hệt
như nhau. Đến khi nào th́ mới giống
nhau? Như Lai quả địa, đoạn sạch tập
khí vô thỉ vô minh, khi ấy, sẽ giống nhau, sự hiển
hiện (v́ thế gọi là Nhất Chân) chẳng có biến
hóa! Bất luận vào lúc nào, bất luận ở chỗ
nào, đều thấy hoàn toàn như nhau, nên gọi là Nhất
Chân.
Đấy là trạng huống
đại khái trong Nhất Chân pháp giới và mười
pháp giới, tôi cũng tận hết năng lực của
chính ḿnh để diễn tả nó. Do vậy, chúng ta có thể
biết, từ xưa đến nay, có bao nhiêu người
đă lạy Quán Âm Bồ Tát ở cửa động Triều Âm? Quá ư là nhiều. Những tướng do Quán Âm
Bồ Tát thị hiện tuyệt đối sẽ chẳng
thể là hai người thấy giống nhau được!
Cùng là một người, như pháp sư Thánh Nhất [chẳng
hạn], một ngày sau hoặc hai ngày sau, lại đến
động Triều Âm lạy nửa tiếng, sẽ thấy
Quán Thế Âm Bồ Tát hiện tướng giống như
vậy hay chăng? Khác nhau! Nơi chốn như nhau,
nhưng thời gian khác nhau! Cho thấy điều ǵ? Cho thấy
mười pháp giới (mười pháp giới đều
gọi là “thế pháp”) vô
thường. Nếu quư vị hỏi v́ sao vô thường
ư? Ư niệm của quư vị vô thường! Ư niệm vi
tế, bọn phàm phu chúng ta chẳng cảm nhận
được, dẫu là ư niệm của chính ḿnh! [Phàm
phu] chẳng cảm nhận được ư niệm của
chính ḿnh, làm sao quư vị có thể cảm nhận ư niệm
của người khác cho được? Niệm trước,
niệm sau, mỗi niệm chẳng tương đồng,
mỗi niệm khác nhau. Bất luận là thiện niệm
hay ác niệm đều khác nhau, vô kư (chẳng thiện, chẳng ác) cũng chẳng giống nhau!
Nếu quư vị hiểu rơ
chân tướng sự thật này, mới biết trong
đời người, cái đáng quư nhất, thù thắng
nhất, quan trọng nhất chính là ǵ? Là cầu Định
Huệ! Đấy là tự tánh, Nho gia gọi là “bổn thiện”, c̣n trong Thiền
Tông th́ gọi là “phụ mẫu
vị sanh tiền bổn lai diện mục” (diện mạo
vốn sẵn có trước khi được cha mẹ
sanh ra). Quư vị có thể t́m được cái này, sẽ
chẳng sống uổng phí đời này. Đời đời
kiếp kiếp đều mê mất chính ḿnh, nay t́m lại
được chính ḿnh, [mới biết] chúng sanh và chư Phật
Như Lai chẳng khác nhau, là một, không hai, nhập pháp
môn Bất Nhị. Ta và chư Phật chẳng hai, ta và chúng
sanh chẳng hai, ta và vũ trụ chẳng hai, nhập pháp
môn Bất Nhị! Đấy gọi là minh tâm kiến tánh, là
thế giới Hoa Tạng, hay thế giới Cực Lạc.
Do vậy, bài kệ cuối
cùng này [nói về chuyện] đă rời khỏi chỗ ngồi.
Bài kệ này mang ư nghĩa triệt để buông xuống.
Thân, tâm, thế giới trọn chẳng thể được,
[nếu] quư vị chẳng buông xuống được,
sai mất rồi! “Buông xuống”
chẳng phải là “không cần”.
Trong các buổi giảng, chúng tôi thường nói về
buông xuống: Đối với hết thảy người,
hết thảy sự, hết thảy vật, hăy buông xuống
chấp trước, đừng chấp trước. Hăy buông
xuống phân biệt. Hăy buông xuống khởi tâm động
niệm. Trong kinh, đức Phật đă nói hết sức
rơ rệt: Buông xuống chấp trước, quư vị là A
La Hán, chẳng có lục đạo. Tuy người ấy c̣n
ở trong lục đạo, nhưng chẳng có khổ, lạc,
ưu, hỷ, xả của lục đạo, chẳng có tiếng
tăm, lợi dưỡng, cát, hung, họa, phước,
tham, sân, si, mạn, đă buông xuống! Lục đạo
là ǵ? Nguyên lai, lục đạo là Thanh Văn pháp giới! Quư
vị thấy cảnh giới chuyển theo tâm, chuyển
theo ư niệm. Quư vị trụ trong Thanh Văn pháp giới,
ở cùng một chỗ với đại chúng, họ trụ
trong nhân pháp giới, c̣n quư vị trụ trong Thanh Văn
pháp giới. Thanh Văn pháp giới và nhân pháp giới chẳng
hai. Nếu quư vị tiến thêm bước nữa, phân biệt
cũng buông xuống, sẽ trụ trong Bồ Tát pháp giới.
Bồ Tát pháp giới và nhân đạo pháp giới cũng chẳng
hai. Thiên Thai đại sư nói “bách
giới thiên như” là do đạo lư này!
Nếu ngay cả khởi tâm
động niệm quư vị cũng đoạn trừ, quư
vị sẽ trụ trong Nhất Chân pháp giới, trụ
trong thế giới Hoa Tạng. Người niệm Phật
trụ trong thế giới Cực Lạc. Hoa Tạng, Cực
Lạc và thế giới này của chúng ta chẳng
hai! Chẳng hai mà hai, hai mà chẳng hai. V́ sao có hai? Dụng
tâm khác nhau. Trong phẩm kinh này, vừa mở đầu, Văn
Thù Bồ Tát đă dạy chúng ta: “Thiện dụng kỳ tâm, tắc hoạch nhất
thiết thắng diệu công đức” (Khéo dùng cái tâm,
sẽ đạt được hết thảy công đức
thù thắng, nhiệm mầu). Trong bảy bài kệ tụng này,
sáu bài trước nói về Thắng, bài kệ cuối cùng
nói về Diệu. Diệu (妙) là không chấp tướng, Diệu là buông xuống. Chẳng
phải là buông xuống nơi Sự! Về Sự th́ chẳng
sai khác với chúng sanh, c̣n làm càng viên măn, càng kiệt xuất,
càng thù thắng hơn chúng sanh, nhưng chẳng chấp
tướng. Chúng sanh dẫu làm thù thắng đến mấy
đi nữa, chẳng diệu. V́ sao? Chấp tướng!
Đối với “ngă tướng,
nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng”
như kinh Kim Cang đă nói, họ chẳng xả trừ, chẳng
biết những thứ ấy là hư vọng.
Tư tưởng của Lăo
Tử trong Đạo gia hết sức gần với Phật.
Vừa mở đầu [bộ Đạo Đức
Kinh], Lăo Tử đă bảo: “Đạo
khả đạo, phi thường đạo; danh khả
danh, phi thường danh”, nêu bày ư nghĩa này. [Hai câu ấy
có nghĩa là] đạo mà có thể tư duy, có thể
tưởng tượng, có thể bàn luận, sẽ chẳng
phải là đạo! Đạo là ǵ? Đạo là tự tánh,
đạo là tâm thanh tịnh, trong chân tâm vốn chẳng có
một vật! Vốn chẳng có khởi tâm, chẳng có
động niệm, làm sao quư vị có thể suy tưởng
nó cho được? Hễ suy tưởng, sẽ rớt
vào phân biệt. Hễ quư vị nói, sẽ rớt vào chấp
trước. V́ thế, đó chẳng phải là thường
đạo. “Thường” (常) là vĩnh hằng bất biến, đấy là
Thường. Mỗi cá nhân có cách nh́n khác nhau, mỗi cá nhân
có cách nói khác nhau. V́ thế, trong thế gian này, có khá nhiều
học giả, chuyên gia phát biểu khá nhiều ngôn luận,
ai nấy có cách nh́n riêng, ai nấy có cách nghĩ riêng, đều
có cả một đống đạo lư [để biện
hộ cho quan điểm của riêng ḿnh]. Lăo Tử đă
phê b́nh, thẩm định là “phi
thường đạo” (chẳng phải là cái đạo
vĩnh hằng bất biến), lời phê b́nh, nhận định
chung của Ngài là “chẳng phải là đạo thường
hằng”. Mọi người đều có thể chẳng
khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt,
không chấp trước, “thường
đạo” sẽ hiện tiền.
Chuyện này khó khăn, khó ở
chỗ nào? Quư vị có muốn tưởng cũng chẳng
thể tưởng nổi! Tưởng chính là Tư (思), bất khả tư nghị! Chẳng thể
tưởng, chẳng thể nói. Diệu: Đúng là diệu
ở chỗ này! Chẳng thể nghĩ ngợi, chẳng
thể nói! Thích Ca Mâu Ni Phật v́ chúng ta thuyết pháp bốn
mươi chín năm, điều này cũng là diệu. V́
sao diệu? Nói bốn mươi chín năm, Ngài thật sự
chẳng khởi tâm động niệm, diệu ở chỗ
này! Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng khởi tâm động niệm,
c̣n phân biệt, chấp trước th́ sao? Thuận theo sự
phân biệt của chúng sanh mà phân biệt, thuận theo sự
chấp trước của chúng sanh mà chấp trước.
Đấy chính là “Lư và Sự chẳng
hai, Tự và Tha chẳng hai”. Nh́n từ
Tướng th́ là hai, nh́n từ Tánh th́ chẳng hai. Nh́n từ
Sự th́ là hai, nh́n từ Lư th́ chẳng hai. Quán Huệ mới
có thể giải quyết những vấn đề phức
tạp chẳng có cùng tận trong xă hội hiện thời!
Xă hội này nơi nơi chốn
chốn đầy ắp đối lập, nghi ngờ, lo
âu, mâu thuẫn, xung đột, đă đạt tới mức
độ nghiêm trọng đáng sợ, chẳng có ai không bận
tâm! Thậm chí c̣n có những chuyên gia, học giả nêu nghi
vấn: “Nhân loại trên địa cầu có thể sống
b́nh an đến hết thế kỷ này, tức thế kỷ hai mươi
mốt hay không?” Cũng có nghĩa là [cho
đến] năm 2100, có thể vượt qua một
trăm năm ấy hay không? Sợ là bị hủy diệt!
Lời lẽ này chẳng phải do những kẻ b́nh phàm
nói ra. Chúng tôi nghe xong, có rất nhiều cảm xúc. Có thể cứu
văn thế giới này hay chăng? Nếu chư vị khế
nhập Đại Thừa, thâm nhập Hoa Nghiêm, tôi tin là
quư vị sẽ hết sức lạc quan! Có cứu
được hay chăng? Được chứ! Lư luận
và phương pháp trong giáo pháp Đại Thừa viên măn
khôn sánh, có năng lực ứng biến, có năng lực giúp
đỡ các chúng sanh khổ nạn “quay đầu
là bờ”. Nhưng
một thứ tốt đẹp dường ấy thế
mà chẳng có ai nhận biết, xác thực là hữu hiệu
mà chẳng có ai dùng đến, chẳng có ai muốn dùng nó,
vậy là chẳng có cách nào cả! Nhưng kẻ nào giác ngộ,
hiểu rơ, kẻ ấy sẽ được cứu, nói
theo tôn giáo, sẽ là “được
cứu vớt”, c̣n nhà Phật nói là “đắc độ”.
Thế giới này có thành, trụ,
hoại, không, người đắc độ có thể
di dân sang một thế giới khác. Thế giới vô
lượng vô biên, quư vị đến thế giới nào?
Nhà Phật thường nói đến “duyên phận”. Duyên phận giống nhau, sẽ cảm
ứng đạo giao. Người có ḷng yêu thương,
có ḷng từ bi, sẽ luôn tụ hội cùng những người
có ḷng yêu thương, có tâm từ bi, họ sẽ tụ hội
với nhau. Đó gọi là “vật
dĩ loại tụ, nhân dĩ quần phân” (vật tụ
tập theo từng loài, con người chia thành từng
nhóm). Những kẻ chí đồng đạo hợp tự
nhiên sẽ tụ tập với nhau, cảm ứng mà! Nay
chúng ta đă hiểu, những ǵ Thích Ca Mâu Ni Phật đă giới
thiệu cho chúng ta quyết định là thiện. Phật,
Bồ Tát, nói theo cách hiện thời, là những bậc
đă trở về tự tánh. Tự tánh là thuần tịnh,
thuần thiện, những đường lối và
phương hướng do các Ngài giới thiệu cho chúng
ta chắc chắn là chánh xác. Chúng ta phải có tín tâm, nghiêm
túc nỗ lực tu học theo giáo huấn của các Ngài, nhất
định sẽ có thể đạt tới mục tiêu. Quư
vị mong làm Phật, sẽ nhập cảnh giới của
Phật, ở cùng một chỗ với chư Phật. Quư
vị mong làm Bồ Tát, sẽ nhập cảnh giới của
Bồ Tát, ở chung với các vị Bồ Tát. Xác thực
là như Phật pháp đă nói, “tâm
tưởng sự thành”.
Đối với vũ trụ
và nhân sinh, chúng ta có cách nh́n, cách nghĩ khác nhau, thưa cùng
chư vị, trong tương lai có thể ở chung với
nhau hay chăng? Chẳng thể nào! Vợ chồng dẫu đằm thắm đến mấy, trong đời quá khứ có duyên
phận, duyên phận có thời tiết, nhân duyên. Các vị
ở chung với nhau, hoặc là mười năm, hai
mươi năm, ba mươi năm, bốn mươi
năm, chung quy phải chia tay. Sau khi chia tay, đời sau
có thể tụ hội với nhau lần nữa hay
chăng? Chưa chắc! V́ sao? Hai người có cách
nghĩ, cách nh́n chẳng hoàn toàn tương đồng, làm
sao có thể sanh vào cùng một pháp giới cho được?
Nhất là trong xă hội hiện đại, sẽ càng khó hơn; xă
hội xưa kia c̣n dễ hơn đôi chút, chúng ta c̣n có thể
tin tưởng. V́ sao? Từ bé đều đă được
tiếp nhận giáo dục luân lư, đạo đức. Chồng biết
suốt đời chung thủy với vợ, vợ biết
suốt đời chung thủy với chồng. [Như vậy
th́] đời sau c̣n có thể có duyên phận, chúng ta tin
tưởng điều này! Nay th́ chẳng có! Thời cổ,
sự kiện ly hôn quá ít, rất hiếm nghe nói, được
[sách vở] ghi lại rất ít. Nay th́ ly hôn là chuyện
như cơm bữa, quá đỗi b́nh thường!
Đấy là kết cấu
gia đ́nh có vấn đề. Gia đ́nh là tổ chức
cơ sở của xă hội, giống như tế bào
trong thân thể con người, nó là tổ chức cơ bản.
Tổ chức cơ bản bị phá hoại, nếu tế
bào trên thân thể một người hư hoại quá nhiều,
lẽ nào người ấy chẳng sanh bệnh? Do vậy
có thể biết, muốn thật sự nói đến chuyện
xă hội hài ḥa, thế giới hài ḥa, ngoại trừ dùng Nho và Phật (tức là nền giáo dục truyền
thống về luân lư đạo đức, c̣n phải kể
thêm giáo dục nhân quả), sẽ rất khó thực hiện!
Ai nấy đều hiểu Đại Thừa, biết “vạn pháp đều là Không, vô
sở hữu, chẳng thể được”, người
sống trên cơi đời hăy nên làm chuyện “bỏ ḿnh v́
người”, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo
tác chẳng trái nghịch Tánh Đức. Đấy là chánh
xác, đấy mới là thật sự có ư nghĩa, có giá trị,
không ngừng nâng cao linh tánh của chính ḿnh. Quyết định
chẳng thể làm chuyện tổn người lợi
ḿnh. Ư niệm tổn người lợi ḿnh sẽ khiến
cho chính ḿnh bị đọa lạc. Kết quả của
đọa lạc là ở trong ba ác đạo. Đây là sự
thật! Nếu quư vị thừa nhận như thế, nếu
quư vị đă chứng biết như thế, tín tâm của quư vị
sẽ kiên định. Nay đă hết thời gian rồi.
Chúng tôi giảng đoạn này tới đây!
***
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống.
Chúng ta xem tiếp đoạn thứ tư.
(Sớ) Tương hành phi quải
thời lục nguyện.
(疏)將行披挂時六願。
(Sớ: Sáu nguyện trong lúc chỉnh
đốn y phục khi sắp đi ra ngoài).
Chúng ta nh́n vào tiêu đề này,
cũng cảm thấy chẳng quen thuộc cho lắm. Nếu
thay đổi cách nói, mọi người sẽ hiểu rất
rơ ràng, người Hoa nói là “xuyên
trước y thường” (穿著衣裳, mặc áo xống) [“phi
quải thời”] là lúc mặc quần áo. V́ sao ở đây
nói là “phi quải” (披挂, choàng, quấn)?
Chư vị phải biết: Kinh điển từ tiếng
Phạn của Ấn Độ dịch ra. Cho đến
hiện thời, quư vị sang Ấn Độ, sẽ có thể
thấy quần áo của người Ấn chẳng giống
như chúng ta. Họ quấn một tấm vải trên thân
[làm áo]. Phía dưới gọi là Thường (裳), tức “y thường”
(衣裳, xiêm y, váy
xống). Nay chúng ta gọi Thường là cái váy, tức là
loại váy quấn quanh (xà-rông). Xà-rông th́ phải
dùng đai lưng buộc vào thân, nên gọi là Quải (挂). Y th́ khoác trên thân; v́ thế gọi là “phi
quải” (披挂, choàng, quấn). Hoàn toàn chẳng giống Trung Hoa. Y
phục của Trung Hoa phức tạp hơn họ. [Áo] phải
may cắt sao cho có cổ áo, vạt áo, tay áo. V́ thế, phải
“xuyên trước” (穿著, mặc), c̣n họ (người Ấn Độ) gọi
là “phi quải”.
Tấm áo ca-sa của người
xuất gia trong hiện thời, tấm áo này được
gọi là Ca-sa (Kāṣāya). Quư vị thấy tấm y này là một miếng vải,
nhưng thu nhỏ lại, đại khái chỉ to bằng
một phần ba tấm y của Ấn Độ. Y của
Ấn Độ rất lớn bao bọc toàn thân, quấn
quanh khắp thân. Khi làm việc, họ để lộ tay
phải ra, “thiên đản hữu
kiên” (偏袒右肩, để hở vai phải) ḥng làm lụng cho tiện.
Nay chúng ta cũng [đắp y] để lộ vai phải.
V́ thế, vai bên này th́ vắt [hai mép y] chồng lên, để
lộ tay phải ra;
nhưng trong hiện thời, [để giữ
cho hai mép tấm y chẳng tuột khỏi vai], chúng ta dùng
cái ṿng móc. Cái ṿng móc rất lâu về sau mới có. Tại
Trung Hoa, vào thời Đường, vẫn chưa dùng ṿng
móc [để mặc y]; khi đó, chỉ dùng dây buộc. Dùng dây để buộc
[hai mép y] cho khỏi tuột. Hiện thời, ở Nhật
Bản có thể thấy, ở Đại Hàn cũng có thể
thấy [cách đắp y bằng cách buộc dây]. Chỉ có
Trung Hoa dùng ṿng móc[2],
đương nhiên là đỡ mất công hơn dùng dây buộc.
Thế nhưng, hiện thời y ca-sa của Nhật Bản
càng ngày càng đơn giản hơn. Y ca-sa hiện thời
là một bức vải rất bé, rất ư là bé, vẫn
có h́nh dáng giống như vậy, nhưng rút nhỏ[3].
Thông thường, họ mặc đồ Tây, bỏ trong túi
áo của Âu phục. Nếu có pháp hội, bèn lấy ra (giống
như xâu chuỗi của chúng ta vậy) đeo lên cổ. Đó
là một thứ mang tính chất tượng trưng, càng
ngày càng đơn giản. Những sự biến hóa này,
chúng ta đều phải biết. Đoạn này có tất cả sáu bài kệ nói về
chuyện mặc áo. Xin xem bài thứ nhất.
(Kinh) Hạ túc trụ thời,
đương nguyện chúng sanh, tâm đắc giải
thoát, an trụ bất động.
(經)下足住時。當願眾生。心得解脫。安住不動。
(Kinh: Lúc đặt chân đứng,
nguyện cho chúng sanh, tâm được giải
thoát, an trụ bất động).
Phải xem
[bài kệ này] tiếp nối ư nghĩa của kinh
văn trong đoạn trước. Quư vị thấy phần
trước là “xả già phu tọa”
(thôi ngồi xếp bằng). “Già
phu” (跏趺) là ngồi
xếp bằng, “xả già phu tọa”
là duỗi chân ra. Duỗi chân ra, bàn chân c̣n chưa chấm
đất, c̣n chưa đứng lên, vẫn ngồi tại
đó, chỉ duỗi chân ra. Bài kệ này tương ứng
với khi đă đứng lên, “hạ
túc trụ thời” (khi đặt chân xuống, đứng
lên). “Trụ” (住) là đứng, [“hạ
túc trụ thời” là] khi đă đứng lên. Khi làm xong
một buổi công khóa, trong phần trước, tôi đă
thưa cùng chư vị, trong công khóa có Giải Môn và Hạnh
Môn. Xếp Hạnh Môn ra trước v́ coi trọng Hạnh
Môn.
Đạo tràng thờ phụng
h́nh tượng Phật, Bồ Tát, phải hiểu ư
nghĩa này. V́ sao nhất định phải thờ một
vị Phật, hai vị Bồ Tát? Thông thường đều
thờ phụng theo cách
ấy, có ư nghĩa ǵ vậy? Biểu thị
pháp. Phật biểu thị Lư, hoặc Tánh, Bồ Tát biểu
thị Sự hay Hạnh. Lư là chẳng khởi tâm, không động
niệm, chẳng phân biệt, không chấp trước; do
vậy, Phật chẳng thuyết pháp. Bồ Tát biểu thị
từ Thể khởi Dụng. Dụng
có sự biểu thị, có thuyết pháp, đấy là Dụng!
Phật ứng hóa trong mười pháp giới, tức là [thị hiện] thân Bồ Tát; đấy là “có thuyết”. Trong Dụng, lại chia thành hai môn,
một là Hạnh Môn, hai
là Giải Hạnh; v́ thế, dùng
hai vị Bồ Tát để đại diện. Trong Tịnh Độ Tông, Quán Âm Bồ Tát biểu
thị Hạnh Môn, ở đây nói là Thiền Định, tức Hạnh Môn. Đại Thế Chí Bồ Tát biểu thị
Giải Môn, giải hạnh tương ứng. Quư vị thấy
Quán Âm Bồ Tát, nh́n từ phía chúng ta, đối diện với
chúng ta, Ngài ở bên tay phải chúng ta, Đại Thế
Chí Bồ Tát ở bên tay trái. Trung Hoa coi bên phải quan trọng
hơn. Quư vị thấy viết câu đối, phía
bên này là vế trên, phía bên kia là vế dưới. Nếu nói
theo phương vị của A Di Đà Phật, bên tay trái
của A Di Đà Phật là thượng, bên tay phải là hạ.
Quán Âm Bồ Tát ở phía tay phải [của chúng ta, nghĩa
là ở bên trái của A Di Đà Phật], tức là Hạnh
Môn được xếp hàng đầu, Giải Môn được
xếp vào thứ hai, chớ nên lầm lộn. Nếu vị
trí của Quán Âm và Thế Chí đảo lộn, ư nghĩa
biểu thị pháp đă bị điên đảo, ư nghĩa
biểu thị pháp bị sai lầm. Điều này chỉ
rơ Tịnh Tông trọng Hạnh, quyết định là Giải Hạnh tương
ứng. Hoa Nghiêm Tam Thánh biểu
thị pháp khác hẳn. Chính giữa là Tỳ Lô Giá Na Như
Lai, thượng thủ là Văn Thù Bồ Tát, hạ thủ
là Phổ Hiền Bồ Tát. Phổ Hiền Bồ Tát là xét
theo [địa vị của chúng ta], giống như cách xếp
đặt trong Tịnh Độ Tông, Ngài có cùng vị trí với
Đại Thế Chí Bồ Tát, Văn Thù Bồ Tát có cùng vị
trí với Quán Thế Âm Bồ Tát. Tay trái của Tỳ Lô
Giá Na Phật là Văn Thù, bên tay phải là Phổ Hiền;
đấy là Giáo Hạ. Giáo Hạ xếp Giải
Môn làm thượng thủ, Hạnh Môn đặt ở hạ
thủ. Quư vị thấy kinh này vừa khởi đầu
đă nói về Giải. Quư vị thấy đối với
Thập Tín Bồ Tát, cho đến phẩm này mới nói
đến Hạnh Môn. Phẩm Quang Minh Giác trong phần
trước nói về Giải. Nh́n từ sự biểu thị
pháp, quư vị sẽ hiểu: Đặt điều ǵ làm bậc nhất.
Giáo Hạ xếp Giải làm bậc nhất, v́ đă giải
rồi mới bắt đầu tu. Tông Môn là đặt Hạnh
vào bậc nhất, sau khi đă ngộ, sẽ dấy lên giải.
Đấy là do chúng sanh căn tánh khác nhau, phương pháp giáo
học sẽ chẳng nhất trí. Tịnh Độ Tông
cũng xếp Hạnh hàng đầu, Hạnh Giải tương
ứng.
Trong Niệm Phật
Đường vốn chẳng giảng kinh, thật sự
là một câu Phật hiệu, thâm nhập một môn, huân tu
lâu dài, sẽ quyết định văng sanh. V́ sao nay trong Niệm
Phật Đường chúng tôi phải đề xướng
nghe kinh? Đạo lư ở chỗ nào? Căn tánh của người
hiện thời chẳng bằng cổ nhân! Cổ nhân trung
hậu, thật thà, khăng khăng một câu Phật hiệu,
chẳng có vọng niệm, chẳng suy nghĩ tà vạy, thành
tựu dễ dàng! Người hiện thời không
được, căn tánh chẳng bằng cổ nhân, vọng
tưởng nhiều, tạp niệm nhiều, tà tri tà kiến
nhiều, huống hồ c̣n có những dụ dỗ, mê hoặc
trong xă hội. Tâm họ tán loạn; do vậy, phải đề
xướng kinh giáo. Kinh giáo giúp quư vị hiểu rơ Lư.
Đặc biệt là Hoa Nghiêm, Hoa Nghiêm giảng cặn kẽ.
Quư vị thật sự hiểu rơ ràng, thật sự
thông hiểu th́ mới có thể buông xuống, mới chẳng
bị xă hội dụ dỗ, mê hoặc. Quư vị liễu
giải càng sâu đậm th́ mới có năng lực phân biệt
chân, vọng, tà, chánh, thiện, ác, đúng, sai. Quư vị
mới có thể phân biệt! Nếu không, nghe kẻ khác nói,
[sẽ nghĩ] “có lư lắm!”, chạy theo tri
kiến của kẻ khác, điều này đáng sợ quá!
[Nghe kẻ khác nói, cảm thấy] có lư lắm, nhưng có thấu triệt hay không? Có
viên dung hay không? Điều này rất quan trọng! Chẳng
thấu triệt, chẳng viên dung, nếu làm theo th́ thoạt
đầu dường như hữu hiệu, sau một
khoảng thời gian, sẽ bị biến chất, chẳng
có cách nào duy tŕ ổn định trong một thời gian dài.
Chuyện này trọng yếu lắm!
Từ xưa tới nay, có khá
nhiều học giả, chuyên gia ngoại quốc rất bội
phục xă hội Trung Hoa. Họ nói Trung Hoa trong quá khứ
đă thực hiện đế chế rất thành công. Từ
năm hai trăm lẻ mấy Công Nguyên, Hán Cao Tổ[4]
thống nhất Trung Hoa măi cho đến hiện thời,
hơn hai ngàn năm. Chế độ của quốc gia bị
biến đổi chưa đầy một trăm năm; trong quá
khứ, toàn là đế chế. Có thể duy tŕ lâu
dài ngần ấy, người ngoại quốc cũng thấy
rất rơ ràng: Nói chung, xă hội Trung Hoa là một xă hội
ḥa b́nh, an định. Hai ngàn năm qua đă dựa vào ǵ vậy?
Người ngoại quốc chẳng hiểu, tưởng
là nhờ vào phương cách và sách lược cai trị của
đế vương. Cách nh́n ấy lệch lạc, liễu giải Trung Hoa phiến diện, chẳng đủ thấu
triệt! Cũng khó trách được! V́ sao? Nói theo cách phổ
biến hiện thời, “trong năo của họ chẳng có tế
bào này”, làm sao họ có thể nghĩ ra được!
Trung Hoa ổn định, củng
cố dài lâu, an định, ḥa b́nh, dựa vào đâu? Dựa
vào giáo dục luân lư đạo đức. Luân lư đạo
đức rất gần gũi, tương ứng với
tự tánh. Hễ trái nghịch tự tánh, chắc chắn
sẽ sanh ra rối loạn, có phiền phức. Tương
ứng với tự tánh, sẽ chẳng có [những chuyện
ấy]. Người ngoại quốc cũng hiểu cốt
lơi trong giáo huấn của cổ thánh tiên hiền và các tôn
giáo là yêu thương. Họ cũng phát hiện, thấu hiểu
điều này! Vun bồi cái tâm yêu thương như thế
nào? Họ chẳng biết, chẳng nói “tâm yêu thương
là thiên tánh, tâm yêu thương là bản tánh, chẳng phải
là tập tánh”. Người ngoại quốc rất ít nói tới
điều này, [tức là nói tới] bản tánh. Mă Minh Bồ Tát bảo “Bổn Giác vốn có”, tâm yêu thương chính là “Bổn Giác vốn có”. Nói “tánh loài người bất thiện”,
cái bất thiện chính là tập tánh, chẳng phải là bản
tánh. Tôi cảm thấy cổ đại đế
vương thống trị Trung Hoa chẳng phải bằng
quyền thuật (權術, thuật cai trị, thuật cầm quyền), mà bằng
tâm yêu thương, bằng đạo đức, bằng luân
lư. Những thứ ấy đều là Tánh Đức, tương
ứng với Tánh Đức th́ mới có thể b́nh trị
lâu dài. Trái nghịch Tánh Đức, dẫu có thể thu
được hiệu quả nhất thời, lâu sau sẽ
nẩy sanh vấn đề!
Đây là khi buông chân xuống
để đứng lên, “hạ
túc trụ thời”, “trụ”
là đứng lên. “Đương
nguyện chúng sanh, tâm đắc giải thoát, an trụ bất
động” (Nguyện cho chúng sanh, tâm được giải thoát,
an trụ bất động). Phát nguyện như vậy.
Từ nguyện này, có thể thấu hiểu, khởi tâm
động niệm bèn [nghĩ đến] hết thảy
chúng sanh trong khắp pháp giới, hư không giới. Tâm lượng
ấy to cỡ nào! V́ thế, cổ nhân nói, không chỉ nói “chẳng
đọc Hoa Nghiêm, sẽ chẳng biết sự phú quư
trong nhà Phật”, mà c̣n bảo “chẳng đọc Hoa Nghiêm, sẽ không biết tâm
lượng to lớn của Phật, Bồ Tát”. Dùng phương pháp ǵ để mở rộng tâm
lượng của chúng ta? Bộ sách giáo khoa này đúng là sách giáo khoa tốt nhất
từ khi có lịch sử đến nay. Thầy tôi nói,
kinh Hoa Nghiêm là khái luận triết học của kinh Phật,
là sách giáo khoa hay nhất trên thế giới, các thứ
học thuật của phương Đông lẫn phương
Tây đều chẳng thể sánh bằng! Kinh có lư luận
viên măn, có phương pháp chặt chẽ, c̣n kèm thêm biểu
diễn, t́m đâu ra loại sách giáo khoa [giống như vậy]?
Tôi theo lăo nhân gia học Triết Học, Ngài giới thiệu
kinh Hoa Nghiêm. Khi ấy, tôi c̣n chưa đọc sách này; từ
lời giáo huấn của thầy, mới biết có một bộ sách tốt đẹp
dường ấy! Khởi tâm động niệm chẳng
phải là nói đến chính ḿnh, chẳng phải là nói
đến một đoàn thể. Một gia đ́nh, một đoàn thể, một
xă hội, một quốc gia, thậm chí nay chúng ta nói là toàn
thể thế giới. Đó là “thế giới quan”. Kinh
này nói theo “vũ trụ quan”, niệm nào cũng “đương nguyện chúng
sanh” (nguyện cho chúng
sanh), “chúng sanh” ở đây chính là chúng sanh trong hết thảy
các cơi nước khắp pháp giới,
hư không giới, chẳng sót một ai!
“Tâm
đắc giải thoát, an trụ bất động” (Tâm
được giải thoát, an trụ bất động),
hai câu này xuất phát từ chỗ nào? Liên quan tới buổi
học trước! “Tâm đắc
giải thoát” là Giải Môn, “an
trụ bất động” là Hạnh Môn. Đối với
hai bài kệ thứ năm và thứ sáu trong phần trước,
“nhược tu ư Quán” (nếu
như tu Quán), quư vị thấy “đương
nguyện chúng sanh, kiến như thật lư, vĩnh vô quai tránh”
(nguyện cho chúng sanh, thấy lư như thật, vĩnh viễn
chẳng chống trái, tranh căi), đấy chính là “tâm đắc giải thoát”. “Tu
hành ư Định, đương nguyện chúng sanh, dĩ
Định phục tâm, cứu cánh vô dư” (Tu hành nơi
Định, nguyện cho chúng sanh, dùng Định chế ngự
cái tâm, rốt ráo chẳng sót). Đấy là “an trụ bất động”. Phải áp dụng những ǵ đă học được trong các buổi
học vào cuộc sống thực tế. Ở đây, chúng
ta ắt phải ghi nhớ, Bồ Tát chính ḿnh làm được,
mới “nguyện cho chúng sanh”.
Nếu chính ḿnh chẳng làm được, nay chúng ta nói, lấy
ǵ để giúp đỡ chúng sanh? Nói theo Phật pháp, chính
ḿnh chẳng làm được, lấy đâu ra công đức
để hồi hướng cho người khác? Nay ta nói “hồi hướng” là “chia sẻ với mọi người”,
đấy là công đức. Nhắc nhở đại
chúng: “Tôi đă khế nhập, chân thật, chẳng hư dối. Nếu quư vị có thể làm như vậy, quư vị
cũng có thể khế nhập”. Chính ḿnh nêu gương tốt
cho người khác thấy. Chư Phật, Bồ Tát hiện
thân thuyết pháp trong mười pháp giới, biểu diễn
cho chúng ta: “Trong vũ trụ, chỉ có chuyện này là thật,
những thứ khác đều chẳng thật!” Quư vị
thấy ư nghĩa này hay lắm, viên măn lắm! Sau khi đứng
lên, đương nhiên là sẽ rời khỏi giảng
đường, tức là rời khỏi đạo tràng.
Rời khỏi đạo tràng th́ phải cất bước.
(Kinh) Nhược cử ư túc.
(經)若舉於足。
(Kinh: Nếu như cất
bước).
Đấy là bắt
đầu bước đi.
(Kinh) Đương nguyện
chúng sanh, xuất sanh tử hải, cụ chúng thiện
pháp.
(經)當願眾生。出生死海。具眾善法。
(Kinh: Nguyện cho chúng sanh,
thoát biển sanh tử, đủ các pháp lành).
Đây là trong cuộc sống
hằng ngày, tức là ngay trong hiện tiền. Nay chúng ta
cùng nhau học tập phẩm Tịnh Hạnh, chúng ta có muốn
áp dụng một trăm bốn mươi mốt nguyện
này vào hiện tiền hay không? Nay chúng ta chẳng cần phải
trải ṭa để ngồi, hiện thời đă có ghế
dựa. Trước khi chúng ta ngồi xuống, nhất
định sẽ coi trước ghế có sạch hay không? Nếu không
sạch, sẽ lau chùi nó để chính ḿnh ngồi lên đó.
Coi thử ghế có sạch hay không cũng giống như “trải ṭa để ngồi”.
Nhưng hiện thời, khi ngồi, chúng ta chẳng xếp
bằng, phải hiểu ư nghĩa này! Khi chúng ta đứng
lên, đă đứng lên th́ chính là “hạ túc trụ thời” (khi buông chân xuống,
đứng dậy). “Trụ”
(住) là đứng
lên. Buổi học đă xong, chúng ta ra khỏi giảng
đường, “nhược
cử túc thời, đương nguyện chúng sanh, xuất
sanh tử hải” (nếu khi giở chân, nguyện cho chúng
sanh, thoát biển sanh tử). “Xuất
sanh tử hải” là thoát khỏi lục đạo luân
hồi, thoát khỏi mười pháp giới.
Trong lục đạo luân hồi,
hai loại sanh tử đều có, [tức là] hai thứ sanh
tử Biến Dịch Sanh Tử và Phần Đoạn Sanh
Tử đều có. Tứ thánh pháp giới, tức Thanh
Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật (“Phật” ở đây là Phật trong mười pháp giới), chẳng
có Phần Đoạn Sanh Tử, nhưng có Biến Dịch
Sanh Tử. Phần Đoạn Sanh Tử là nói về lục
đạo. Nói tổng quát, ví như người đến
đầu thai trong thế gian, sanh ra, đầu thai, từ
lúc sanh ra măi cho đến khi thọ mạng trong đời
này đă hết, chết đi, đó là một giai đoạn.
Một đời
ấy được gọi là một giai đoạn. Sau khi đă chết, kẻ ấy lại đầu
thai, thuận theo nghiệp lực dẫn dắt mà sẽ
đến đầu thai trong đường nào đó. Trong kinh, đức Phật đă
nói rơ chuyện này: “Cường
giả tiên khiên” [nghĩa là] nghiệp lực nào mạnh
mẽ, sẽ dẫn [thần
thức của người ấy] đi đầu thai trước. Nếu đời
này thiện niệm của quư vị rất mạnh, thiện
niệm vượt trỗi ác niệm, nhất định
là quư vị sẽ đầu thai vào ba thiện đạo
trước. Nhất định là như vậy. Nếu
đời này làm người, ác niệm nhiều, thiện
niệm ít, do ác niệm quá mạnh, đời sau quư vị
sẽ đến đầu thai trong ba ác đạo. Cái nào mạnh sẽ
lôi đi trước, dắt quư vị đi đầu
thai. Từng giai đoạn như vậy được gọi
là Phần Đoạn Sanh Tử (分段生死). Đấy
là nói theo nghĩa rộng.
Nếu nói theo nghĩa chân thật
của đức Phật, thân thể này của chúng ta xác
thực là Phần Đoạn Sanh Tử. Bản thân chúng ta
có thể nhận biết hay không? Chẳng thể cảm
nhận! Mỗi niệm đều
là một đoạn, niệm niệm quá vi tế,
chúng ta chẳng dễ hiểu! Chúng tôi nêu một thí dụ.
Mỗi ngày coi như một giai đoạn. Ngày hôm qua là một
ngày đă qua đi, có
phải là đă “chết” mất rồi hay sao? C̣n
có thể quay lại hay không? Chẳng thể quay lại; đó
là nói theo từng ngày một. Lại nói cặn kẽ hơn một
tí, mỗi ngày có hai mươi bốn giờ, một giờ
đă trôi qua, giờ ấy có thể quay lại hay chăng?
Mỗi giờ có sáu mươi phút, một phút đă qua, tức là “đă chết”, chẳng thể
quay lại được, từng đoạn một. Chia
tới chỗ cực hạn, sẽ là sanh diệt trong từng
sát-na. Liễu giải chân tướng sự thật này, v́
thế, nói “niệm niệm chẳng
trụ”. Đó là chân tướng, là Thật Tướng
của các pháp. Không chỉ là loài người, mà tất cả
hết thảy các pháp đều chẳng thường trụ,
đều sanh diệt trong từng sát-na. Chúng ta thấy
dường như con người có thể sống vài chục
năm, trong thế gian có rất nhiều thứ có thể
tồn tại mấy trăm năm, mấy ngàn năm, [nhưng
thật ra], thảy đều là sanh diệt trong từng sát-na.
Duyên thù thắng hơn một tí, sẽ là tướng tương
tục (tướng tiếp nối), tuyệt đối chẳng
phải là một tướng, mà là tướng liên tục.
Ta ngày hôm qua chẳng phải là ta ngày hôm nay, ta ngày hôm nay chẳng
phải là ta trong ngày mai. Nhưng người quán chiếu
tinh vi, kín nhiệm như thế, nói thật ra, chẳng nhiều! Phải là người rất cẩn thận th́ mới
được, kẻ ơ hờ qua loa sẽ chẳng thể cảm nhận được!
Đức Phật dạy chúng
ta những phương pháp hết sức đáng quư, khiến
cho chúng ta quan sát cẩn thận, tuy chẳng thể triệt
để liễu giải chân tướng của vũ trụ,
nhưng có thể dần dần tiếp cận. Khởi
đầu, tuy có thể hiểu một, hai phần; một, hai phần
ấy đă khởi tác dụng rất lớn, có thể uốn
nắn khá nhiều sai lầm cho chúng ta. Niệm nào cũng đều thoát khỏi
biển sanh tử, đấy là Chánh Giác tuyệt diệu. Sanh tử
luân hồi trong lục đạo
th́ hết thảy đều vô
thường, có c̣n mong sanh tử nữa hay chăng? Từ
vô lượng kiếp đến nay, trong kinh, đức Phật
đă nói quá nhiều lần: “Sanh
tử b́ lao” (生死疲勞, sanh tử
mệt mỏi, nhọc nhằn), quá nhiều lần! Người
giác ngộ hy vọng đời này sẽ là lần cuối
cùng, đời sau chẳng c̣n luân hồi nữa! Bậc thật
sự cao minh, thật sự giác ngộ, [sẽ cảm nhận]: “Ngày hôm nay đă qua, hăy nên đoạn sạch chuyện
luân hồi trong lục đạo. Từ nay trở đi,
ta sẽ không làm nữa”, [tức là] chẳng làm những chuyện thuộc về
luân hồi, chẳng tạo nghiệp luân hồi. Như thế
nào th́ mới có thể chẳng tạo nghiệp luân hồi?
Nếu xả trừ cái tâm luân hồi, sẽ không tạo
nghiệp luân hồi! Tâm luân hồi là tâm ǵ vậy? Cái tâm chấp trước. Chấp trước kiên
cố hết thảy vạn sự, vạn
vật trong thế gian và xuất thế gian, đấy là
tâm luân hồi. Trừ bỏ cái tâm luân hồi, sẽ chẳng
tạo nghiệp luân hồi. Quư vị chẳng tạo nghiệp
luân hồi, đời sau chắc chắn chẳng bị luân
hồi!
Nếu chúng ta hỏi, nay chúng
ta phải như thế nào th́ mới chẳng tạo nghiệp
luân hồi? Phật, Tổ đều dạy chúng ta: “Nhất tâm chuyên niệm A Di
Đà Phật”. Quư vị thấy A Di Đà Phật có tương
ứng với lục đạo hay không? Trong ba thiện đạo
chẳng có A Di Đà Phật; trong ba ác đạo cũng chẳng
có A Di Đà Phật. Lại thưa cùng chư vị, trong tứ
thánh pháp giới cũng chẳng có A Di Đà Phật, A Di
Đà Phật ở nơi đâu? Trong Nhất Chân pháp giới,
Cực Lạc là Nhất Chân pháp giới. Chẳng phải
là đă rơ rành rành rồi hay sao? Nhất tâm chuyên niệm A Di
Đà Phật, buông xuống hết thảy phân biệt, vọng
tưởng, chấp trước. Vị đường
chủ trong Niệm Phật Đường thường nói:
“Buông xuống thân, tâm, thế
giới, một bề chuyên niệm”. Đấy là “xuất
sanh tử hải”
(thoát khỏi biển sanh tử), đấy
là “cụ chúng thiện pháp” (trọn đủ các thứ thiện
pháp). Do vậy, một câu Phật hiệu được
gọi là “vạn đức hồng
danh” v́ nó trọn đủ hết thảy thiện pháp.
Trong các buổi giảng, chúng
tôi cũng nhắc đến đạo lư này vài lượt.
Vào thời đại Tùy - Đường, những vị
cao tăng đại đức, kể cả những vị
từ Nhật Bản, Đại Hàn đến tham học
tại Trung Hoa. Các Ngài cũng từng dấy vọng tưởng,
suy nghĩ điều ǵ? Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh
thuyết pháp bốn mươi chín năm, giảng nhiều
ngần ấy, bộ kinh nào có thể đại biểu
cho hết thảy các pháp, đại biểu cho hết thảy
các kinh do đức Phật đă nói trong bốn
mươi chín năm, dùng bộ kinh ấy làm đại biểu. Kết quả là các vị tổ sư đại
đức ấy gần như đều cùng thừa nhận,
Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Do vậy,
mọi người gọi kinh Hoa Nghiêm là “kinh trung chi vương” (vua trong các kinh), là “căn bản pháp luân”. Nói theo
kiểu hiện thời, “pháp
luân” là sách giáo khoa, [“căn bản
pháp luân” có thể hiểu] là sách giáo khoa cơ bản. Mở
kinh Hoa Nghiêm ra, vô lượng pháp môn. Tám vạn bốn ngàn
pháp môn, vô lượng pháp môn, pháp môn nhiều ngần ấy
đều được cô đọng thành một bộ Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Gần như mọi
người đều khẳng định điều này!
Đấy là từ trong hết
thảy các pháp môn, đă t́m được một đại
biểu, c̣n có kinh điển nào đơn giản hơn nữa
để có thể làm đại biểu cho kinh Hoa Nghiêm, [nội
dung lại] bao gồm kinh Hoa Nghiêm hay không? Cứ truy tầm
từng bộ một. Truy cứu kiểu đó, do phần
cuối của kinh Hoa Nghiêm là năm mươi ba lần
tham học của Thiện Tài, mười đại nguyện
vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về Cực
Lạc. Thế giới Cực Lạc được dạy
trong kinh Vô Lượng Thọ. V́ thế, kinh Vô Lượng
Thọ là Trung Bổn Hoa Nghiêm, Hoa Nghiêm là Đại Bổn
của kinh Vô Lượng Thọ. Kinh Vô Lượng Thọ
là Trung Bổn của kinh Hoa Nghiêm. Kinh A Di Đà là Tiểu Bổn,
kinh A Di Đà là Tiểu Bổn của kinh Hoa Nghiêm và là Tiểu
Bổn của kinh Vô Lượng Thọ, càng đơn giản
hơn. Phần quan trọng nhất trong kinh Vô Lượng
Thọ là đoạn kinh văn nào? Các vị tổ sư
đại đức đă quy nạp, thay cho chúng ta t́m ra bốn mươi tám nguyện. Phần quan trọng nhất
trong kinh Vô Lượng Thọ là bốn mươi tám nguyện.
Trong bốn mươi tám nguyện, quan trọng nhất là
nguyện nào? Tổ sư đại đức đă đề
ra nguyện thứ mười tám. Nguyện thứ mười
tám nói ǵ vậy? “Lâm mạng
chung thời, thập niệm tất sanh” (Khi lâm chung, do
mười niệm ắt được văng sanh).
Sau đấy, quư vị mới
hiểu, một câu “Nam-mô A Di
Đà Phật” triển khai ra sẽ là bốn
mươi tám nguyện, bốn mươi tám nguyện triển
khai thành kinh Vô Lượng Thọ. Kinh Vô Lượng Thọ
triển khai thành kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm lại triển
khai thành hết thảy các kinh giáo do Thích Ca Mâu Ni Phật
đă nói trong bốn mươi chín năm. T́m đến cuối
cùng, A Di Đà Phật vốn là cốt lơi của toàn thể
Phật pháp. Như vậy th́ quư vị niệm một câu A
Di Đà Phật chẳng phải là đă trọn đủ
các thiện pháp ư? Chẳng sai tí nào! Nhưng nay chúng ta niệm
Phật, chẳng biết niệm! Cớ sao chẳng biết
niệm? Niệm một câu A Di Đà Phật mà vẫn xen tạp
vọng tưởng, [tức là] chẳng biết niệm!
Cổ đại đức dạy chẳng sai, nhất
tâm xưng niệm. Kinh Vô Lượng Thọ nói là “nhất hướng chuyên niệm”
(một bề chuyên niệm). “Hướng”
(向) là phương
hướng, chớ nên xen tạp! Cổ đại đức dạy chúng
ta, bí quyết của pháp môn Niệm Phật gồm có ba điều:
Điều thứ nhất là chẳng hoài nghi, điều
thứ hai là chẳng xen tạp, điều thứ ba là chẳng
gián đoạn. Quư vị có thể làm được ba câu
ấy, xác thực là đă đầy đủ vô lượng
vô biên thiện pháp!
Ba câu ấy đều chẳng dễ dàng! Quư vị có nghi hoặc đối
với pháp môn Niệm Phật hay không? Hễ có nghi, tín tâm
chẳng thật! Làm sao biết quư vị có nghi? Quư vị
chẳng buông xuống duyên thế gian, đó là nghi hoặc.
Nếu thật sự tin tưởng, chẳng hoài nghi, bảo
quư vị buông xuống thân, tâm, thế giới, [quư vị] sẽ thật sự buông xuống. Đấy là chẳng
có nghi hoặc, nhất tâm chuyên niệm. Trong thời cận
đại, cách thời hiện đại chẳng xa, chưa
đến nửa thế kỷ, lăo pháp sư Đàm Hư
có kể [một trường hợp]. Thầy của Ngài
là lăo ḥa thượng Đế Nhàn. Lăo ḥa thượng
Đế Nhàn có một đồ đệ làm “oa lậu tượng”, hễ
nhắc đến [lăo pháp sư Đàm Hư] th́ Hương Cảng rất thân thuộc. Tôi nghe câu
chuyện này từ băng thâu âm, ở Hương Cảng
có đồng học (khi đó tôi ở Mỹ), họ gởi
hai băng thâu âm cho tôi, [thâu lời] khai thị của pháp
sư Đàm Hư trong Phật Thất ở Hương Cảng.
Lời khai thị gồm hai cuộn băng, một cuộn
trong ấy có câu chuyện này!
“Oa
lậu tượng” (鍋漏匠): Oa lậu tượng là ǵ? Hiện thời chẳng
ai hiểu, tức là thợ vá nồi, vá bát. Những thứ
giống như đồ sứ bị vỡ, c̣n có thể
chắp vá lại để dùng, tái sử dụng! Hiện
thời chẳng có chuyện này! Hiện thời, khoa học
kỹ thuật phát triển, không chỉ là sản phẩm
nhiều hơn trước, mà c̣n tiến bộ hơn trước
rất nhiều. Số lượng cũng được
gia tăng rất lớn, hễ bị hỏng đều
vứt đi, chẳng cần nữa. Xưa kia chẳng phải
vậy, vật tư hết sức thiếu thốn, nồi
hoặc bát bị vỡ bèn chắp vá lại. Thuở
bé, tôi đă thấy nghề này, công việc rất nhọc
nhằn. Ông ta làm nghề ấy quá vất vả. Do vậy,
sau đó, t́m đến pháp sư Đế Nhàn. Ông ta và pháp
sư Đế Nhàn trưởng thành từ bé trong cùng một
thôn làng, đáng gọi là “bạn chơi với nhau thuở
bé”. Cuộc sống quá vất vả, thấy Sư xuất
gia được lắm, chẳng phải lo ăn, chẳng
lo mặc; v́ vậy, tính theo Sư xuất gia.
Pháp sư Đế Nhàn nói: “Không được!
Ông xuất gia th́ tuổi đă cao quá rồi,
đă ngoài bốn mươi tuổi, chẳng biết chữ”.
Sư bảo: “Nay ông học kinh giáo, do không biết chữ,
ở trong chùa chiền học năm đường công khóa[5],
cũng chẳng biết xướng niệm, quá ngốc
nghếch, làm sao ông có thể xuất gia cho được?”
Kết quả là tâm người ấy rất kiên định,
cứ lằng nhằng không đi, Sư chẳng thể nào
không đáp ứng. Cuối cùng, pháp sư Đế Nhàn bị
ông ta ép không làm sao được, đành phải bàn điều
kiện với ông ta. Sư bảo: “Thôi được rồi!
Ông muốn xuất gia th́ hết thảy đều phải
nghe theo tôi”. Ông ta đáp: “Không thành vấn đề! Chuyện
ǵ tôi cũng đều nghe theo thầy”. Sư mới cho ông
ta xuống tóc. Sau khi xuống tóc, chẳng thể sống
trong chùa miếu, v́ đại chúng trong chùa miếu sẽ
khinh dễ ông ta. Nếu năm đường công khóa chẳng
biết làm, làm sao có thể ở trong chùa miếu cho
được?
V́ thế, [Sư đưa ông
ta] đến vùng quê ở Ôn Châu. Khi đó, có rất nhiều
ngôi chùa nhỏ chẳng có ai ở. Sư t́m một ngôi chùa
nhỏ cho ông ta ở. T́m quanh đó mấy vị hộ pháp,
chăm lo cuộc sống cho ông ta. Ông ta sống rất đơn
giản. Rất khó có, c̣n có một bà lăo phát tâm nấu cơm
cho ông ta. Pháp sư Đế Nhàn dạy ông ta một câu “nam-mô A Di Đà Phật”, bảo: “Ông niệm câu này, hễ niệm
mệt bèn nghỉ ngơi. Nghỉ khỏe rồi lại
niệm tiếp. Chuyện ǵ cũng đều chẳng
nghĩ tới, chuyên niệm một câu này”. Ông ta thật
sự nghe lời, ở trong ngôi chùa nhỏ ấy, suốt
ba năm không ra khỏi cửa, niệm một câu A Di
Đà Phật, niệm hơn ba năm, thật sự thành
tựu. Ngày hôm ấy, bảo bà lăo nấu cơm: “Ngày mai tôi
phải vào thành, ngày mai bà không cần nấu cơm cho tôi”.
Ông ta vào thành thăm bạn bè, c̣n có các thân thích bằng hữu,
đi thăm họ, trên thực tế là giă biệt, ông ta
cũng chẳng nói, đi thăm bạn bè thôi! Sau khi quay về,
bảo bà lăo: “Ngày mai bà chẳng cần nấu cơm cho tôi”.
Bà lăo nghĩ: “Hôm qua ông ta ra ngoài thăm bạn bè, chắc là
ngày mai có bạn bè mời ông ta dùng cơm!”
V́ thế, cho đến giữa
trưa hôm sau, bà vẫn đến chùa coi thử pháp sư có
cơm ăn hay không? Kết quả là đến chùa t́m, gọi
ông ta chẳng thấy ai trả lời, cuối cùng thấy
ông ta đứng trong pḥng, đứng sững tại đó,
gọi th́ không trả lời. Đến trước mặt
coi kỹ, thấy đă chết, bà ta sợ ngây người,
chưa từng thấy có người đứng chết.
Ông ta đứng mất! Lúc ấy mới vội vă báo cho mấy
vị hộ pháp biết. Những người hộ pháp
đến xem, cũng [cảm
thấy] rất hiếm có, rất kinh ngạc,
vội vàng sai người sang chùa Quán Tông báo tin cho lăo pháp
sư Đế Nhàn. Khi đó, cụ Đế Nhàn c̣n là Tri
Khách Sư của chùa Quán Tông, vẫn chưa phải là Trụ
Tŕ, chỉ là Tri Khách Sư tại chùa Quán Tông. Nghe tin ấy,
Sư vội vă về quê. Đi và về mất ba ngày, quư vị thấy
người đồ đệ ấy sau khi đă chết,
đứng suốt ba ngày. Sau khi trông thấy, pháp sư
Đế Nhàn rất hoan hỷ: “Ông chẳng phí công xuất
gia! Thành tựu của ông, các vị phương trượng
trụ tŕ tùng lâm khắp Trung Hoa chẳng ai có thể sánh bằng!”
Thật vậy, chẳng giả tí nào! Quư vị thấy niệm
một câu Phật hiệu suốt ba năm, biết trước
lúc mất, đứng sững văng sanh, chẳng ngă bệnh.
Ra đi tự tại dường ấy, tiêu sái dường ấy. Pháp sư
Đế Nhàn lo liệu hậu sự cho ông ta.
Một câu A Di Đà Phật,
“cụ chúng thiện pháp” (đủ
các pháp lành), giống như ông ta th́ mới được.
Ông ta thật sự làm được, chẳng hoài nghi, không
xen tạp, không gián đoạn. Do vậy, phương thức
ấy của cụ Đế Nhàn hay quá! Quư vị niệm
mệt liền nghỉ, nghỉ đă khỏe lại tiếp
tục niệm, chẳng
phân chia ngày đêm. Bất cứ khi nào mệt bèn nghỉ ngơi
khi ấy. Đă nghỉ ngơi xong lại tiếp tục
niệm. Thời gian ba năm! Về sau, tôi đọc
Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, Văng Sanh Truyện, thấy
trong ấy rất nhiều trường hợp [niệm Phật]
từ ba năm đến năm năm bèn thành tựu. Đă từng
có đồng tu hỏi tôi, có phải là thọ mạng của
họ đă tới? Tôi nghĩ chẳng phải, há có chuyện
phù hợp vừa khéo như thế? [Nếu bảo là do] thọ
mạng đă tới, mấy người th́ được,
chẳng thể có nhiều người ngần ấy! Chẳng
phải là thọ mạng đă đến, mà là do công phu của họ thành
tựu. Công phu đă thành tựu, chẳng cần thân thể
này nữa, có thể ra đi trước thời hạn. Sanh tử
tự tại mà! Họ chẳng lưu luyến thế gian
này, hy vọng sớm có ngày văng sanh. Thật đấy! Chẳng
giả tí nào! Do vậy, “xuất
sanh tử hải, cụ chúng thiện pháp” (thoát biển
sanh tử, đủ các pháp lành) chính là một câu hồng
danh sáu chữ. Nay đă hết thời gian rồi!
Tập
1518
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin
xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười một, phần
kệ tụng thuộc đoạn lớn thứ tư,
Tương Hành Phi Quải (將行披挂, chỉnh
đốn y phục lúc sắp ra đi), xem từ nguyện
thứ ba.
(Kinh) Trước hạ quần
thời, đương nguyện chúng sanh, phục chư
thiện căn, cụ túc tàm quư.
(經)著下裙時。當願眾生。服諸善根。具足慚愧。
(Kinh: Khi vấn cái xiêm, nguyện
cho chúng sanh, mặc các thiện căn, trọn đủ hổ
thẹn).
Đoạn này có tất cả
sáu nguyện. Nói chung, sáu nguyện ấy là khi đă “hạ ṭa” (下座, rời
chỗ ngồi) bèn “chỉnh y”
(整衣), tức
là sửa sang y phục cho ngay ngắn. Ắt cần phải
biết điều này, đấy là tập tục thời
cổ Ấn Độ, mà cũng là lễ phép, coi như là
“oai nghi” như người
Trung Hoa đă nói. “Hạ ṭa”
là nói theo Trung Hoa, v́ Thiền Đường và Niệm Phật
Đường tại Trung Hoa đều có chỗ ngồi.
Trong giảng đường, đương nhiên cũng
có bàn học, có ghế ngồi. Hơn nữa, trang phục
của Trung Hoa chẳng giống Ấn Độ, dễ dàng
hơn. Y phục của Ấn Độ, khi ngồi xuống
và đứng lên, đều phải chỉnh trang y phục,
v́ họ quấn trên thân. “Hạ
quần” (下裙) là bức vải quấn ở phía dưới.
Chúng ta biết thời cổ gọi nó là “y thường” (衣裳,xiêm y, váy xống). “Thường” (裳) là cái váy. “Khố” (褲, quần dài): Người Hoa bắt đầu chế
ra “khố tử” (quần dài)[6]
khá muộn. Theo lịch sử Trung Hoa ghi chép, thời đại
Xuân Thu vẫn toàn là vận “y
thường”.
“Trước
hạ quần thời”: Cái váy quấn ở dưới
do phải buộc đai, nên gọi là Quải. “Phi quải” (披挂, khoác, quấn), “quải”
là cái váy ở dưới. Trong Sớ Sao, Thanh Lương
đại sư không chú giải nhiều, nhưng đă nêu
rộng ư nghĩa.
(Sớ) Hạ y cái xú, cố nguyện
đắc tàm quư.
(疏)下衣蓋醜,故願得慚愧。
(Sớ: Hạ y che thứ xấu
xa, nên nguyện “đạt được hổ thẹn”).
Quư vị thấy Ngài đă mở
rộng ư nghĩa từ chỗ này! Người và động
vật khác nhau. Con người luôn có tâm xấu hổ, thẹn
thùng. Từ xấu hổ, tự nhiên sẽ có cái tâm “tàm quư”. Tàm (慚) là tự phản tỉnh. Nói thông thường, lương tâm cảm thấy
có lỗi th́ là Tàm. Quư (愧) là dư luận bên ngoài, cũng là như nay chúng ta nói “đại
chúng b́nh phàm phê b́nh quư vị”. Quư vị làm việc thiện,
đại chúng tán thán, tán dương quư vị. Đấy
là chuyện tốt. Quư vị làm chuyện sai quấy, tạo
tội nghiệp, đại chúng trong xă hội chỉ trích,
phê b́nh quư vị. Đó là Quư (thẹn). Đấy gọi
là thẹn với xă hội, thẹn với tổ tiên, thẹn
với những người cùng hàng, bao gồm những ư
nghĩa này. Nếu con người chẳng biết thẹn,
sẽ c̣n xấu hơn súc sanh!
Hiện thời, xác thực
là luân lư đạo đức trong toàn thể xă hội đă
gần như tiêu mất! Có mấy ai trong hiện thời
biết hổ thẹn? Trong Đại Thừa Phật pháp,
Tàm Quư thuộc loại Thiện Tâm Sở theo cách phân loại
trong Bách Pháp Minh Môn Luận. Vô Tàm, Vô Quư thuộc về ba loại
phiền năo lớn. Ngoài căn bản phiền năo, có Tùy Phiền
Năo. Tùy phiền năo[7]
gồm Đại Tùy, Trung Tùy, và Tiểu Tùy, hai món ấy
thuộc loại Trung Tùy, tức là Vô Tàm, Vô Quư. Vô Tàm th́ làm bất
cứ chuyện xấu nào, chẳng có lương tâm. Kẻ
ấy chẳng biết lương tâm là ǵ, mà cũng chẳng
sợ kẻ khác phê b́nh. Có nghĩa là kẻ ấy chẳng
cần biết đến dư luận, “các ngươi nói
ǵ đi nữa, ta cứ làm chuyện của ta!” Người
mà đă đến mức ấy, chư Phật, Bồ Tát,
thánh hiền đều chẳng có cách nào cứu quư vị!
Ai có thể cứu? Ai có thể quay đầu? Kẻ c̣n có
tâm hổ thẹn. Dẫu làm chuyện xấu, có khi nghĩ
lại, vẫn bị lương tâm cắn rứt. Đấy
là tâm sở Tàm. Vẫn sợ dư luận bên ngoài phê b́nh, đó
là tâm sở Quư. Do vậy khi mặc hạ y, váy hay quần
đều thuộc loại hạ y, sẽ liên tưởng
đến chuyện “che chắn
xấu xa”, tức là đă biết thẹn!
Cổ nhân thường nói: “Tri sỉ cận hồ dũng”
(Kẻ biết thẹn gần như là kẻ dũng
mănh). Người biết thẹn mới có thể mạnh
mẽ dấy lên ư chí, mới có thể đội trời
đạp đất. Chúng ta suy ngẫm đôi chút, nỗi
sỉ nhục lớn nhất trong đời người là
ǵ? Chính là không hiểu rơ chân tướng Sự Lư, làm càn, làm
quấy, tạo tác tội nghiệp, chiêu cảm khổ báo
trong tam đồ. Đấy là nỗi sỉ nhục cực
đại! Có lỗi với cha mẹ, có lỗi với tổ
tiên, cô phụ cái thân người trong đời này! Trong giáo
pháp Đại Thừa, đức Phật thường nói
“thân người khó được”.
Nếu đă nghe Phật pháp, vậy là có lỗi với Phật,
Bồ Tát, có lỗi với kinh giáo, tuy đă nghe mà chẳng
nghiêm túc hành! Nay chúng ta hăy ngẫm xem, hăy suy ngẫm chính
ḿnh, lại nh́n vào hoàn cảnh chung quanh, có thể nói là “toàn thể đều bị mê mất
phương hướng”. Nếu chúng ta chẳng huân tu
kinh giáo một thời gian dài, đă sớm mê mất, chắc
chắn sẽ chẳng khác người đời! Tiếng
tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần bày
ra trước mắt, lẽ đâu chẳng động tâm
cho được? Làm
sao có thể chẳng tham cầu? Sau
khi cái tâm keo kiệt, tham lam đă dấy lên, chắc chắn
sẽ làm chuyện tổn người, lợi ḿnh. Câu thành
ngữ “tổn người, lợi
ḿnh”, nói thật ra, đă sai mất rồi, sai ở chỗ
nào? Tổn người, chắc chắn sẽ bất lợi
cho chính ḿnh! Phải nói rơ ràng, nói minh bạch chân tướng
sự thật khiến cho người ta giác ngộ.
Trong giáo huấn nhân quả thường
nói, ngay cả ông Khải Tây (Edgar Cayce) của Mỹ cũng
nói khẳng định: “Những
thứ phải cảm nhận trong một đời của
bất cứ ai trên thế giới, chẳng
có chuyện nào không liên quan đến hạnh nghiệp
trong đời trước”. Đấy là nói đến nhân quả. Đă liên quan
đến hạnh nghiệp trong đời trước, hết
thảy những tạo tác trong kiếp này của chúng ta đương
nhiên cũng liên quan đến đời sau. Phật pháp nói
rất hay: “Dục tri tiền
thế nhân”, [nghĩa là] nếu chúng ta muốn biết
trong đời quá khứ đă tạo cái nhân ǵ, “kim sanh thọ giả thị”,
[nghĩa là] những ǵ quư vị đă hứng chịu trong
đời này, bất luận là hoàn cảnh nhân sự hay
hoàn cảnh vật chất, những ǵ quư vị phải hứng
chịu [trong đời này]
là do đời trước quư vị
đă gây tạo. “Dục tri lai
thế quả, kim sanh tác giả thị”, [nghĩa là] nếu
quư vị muốn biết quả báo trong đời sau của
ḿnh sẽ như thế nào ư? Những ǵ quư vị đă
nghĩ, đă làm trong đời này chính là cái nhân cho đời
sau, quư vị sẽ hiểu ngay! Do vậy, tổn người
làm sao [có thể] lợi ḿnh cho được? Há có lẽ ấy!
Thưa thật cùng quư vị, tổn người chắc
chắn sẽ hại ḿnh, chẳng đạt được
mảy may lợi ích nào!
Như trong xă hội hiện
thời, những chuyện gạt gẫm kẻ khác xuất
hiện không cùng tận! Thứ ǵ cũng đều có đồ giả! Tôi
nghe đồng học kể, trứng gà cũng có trứng
giả, chẳng phải là chuyện đùa đâu nhé! Thức
ăn hiện thời đúng là chẳng đáng tin, sử
dụng những chất hóa học, ăn vào sẽ khiến
cho người ta bị bệnh, quư vị đă hại người
rồi! Những thứ do quư vị bán ra, quư vị lấy
tiền của người ta, mà đồ của quư vị
giả trất, lừa gạt kẻ khác, khiến cho họ
ngă bệnh, thậm chí mất mạng! Hạng người như vậy, đối với chuyện
như vậy mà có thể nhẫn tâm làm ư? Nói thật
ra, người hiện thời chỉ mong kiếm lời,
chẳng suy xét hậu quả, chẳng tin nhân quả báo ứng,
chẳng tin con người có đời sau! Đấy là
do điều ǵ tạo thành? Do thành tựu khoa học tạo
thành. Con người tin tưởng khoa học, tin vào đời
hiện tại, chẳng tin có đời sau. V́ thế, họ
dám làm [những chuyện thương thiên bại lư, tàn nhẫn],
nói thật ra là do không biết chân tướng của nhân
sinh và vũ trụ!
Trong quá khứ, người Hoa
tin vào giáo huấn của thánh hiền, tin tưởng luân
lư đạo đức, tin tưởng “thiện nhân thiện quả, ác nhân ác báo”, lịch
sử hơn hai ngàn năm đă ghi chép. Lắng ḷng quan sát,
tư duy thời đại hiện tại, quư vị sẽ
thấy rất nhiều chuyện nhân quả báo ứng từ
các tin tức, nhưng mọi người thấy xong bèn như
thế nào? Chẳng hề động ḷng! “Chuyện ấy
rất kỳ lạ, chẳng thể nghĩ bàn”, thế là xong! Trọn chẳng
suy nghĩ, xem xét đôi chút: “Nếu chúng ta gặp
phải chuyện ấy, có nên làm hay chăng?” Chẳng
có ai suy nghĩ vấn đề ấy, chỉ nghĩ:
“Khoa học chẳng có cách nào giải thích chuyện lạ
lùng ấy!” Chúng tôi mong mỏi những chuyện ấy
được đăng tải nhiều hơn, nhưng
các phương tiện thông tin cũng có rất nhiều hạn
chế, chẳng muốn đăng tải. V́ sao? [Sợ bị
chụp mũ] là tuyên truyền mê tín. Trên thực tế, chính
họ mới là mê tín! Quư vị thấy những người
làm việc thiện, thiện tâm làm việc thiện, quư vị
quan sát cặn kẽ, [sẽ thấy] họ vẫn thật sự có quả báo tốt lành.
Kẻ không điều ác nào chẳng làm, quư vị hăy quan sát,
dẫu hắn vẫn có thể hưởng thụ một
chút phước báo trong đời này, hăy quan sát con cháu của
hắn. Hăy chú tâm quan sát sẽ thấy những
chuyện ở ngay trước mắt; hăy đừng làm chuyện xấu!
Đối với chuyện
phải coi trọng giáo dục nhân quả, Ấn Quang đại
sư đă suốt đời cực lực tuyên
dương, c̣n [coi là chuyện] quan trọng hơn tuyên dương
Phật pháp. Ngài đặt chuyện tuyên dương nhân quả
lên hàng đầu, coi chuyện tuyên dương Tịnh
Độ là thứ nh́. Thuở trước, tức ba mươi năm trước, thấy lăo pháp
sư làm kiểu ấy, tôi cảm thấy lạ lùng. Một vị tổ sư của Tịnh Độ
Tông v́ sao lại làm kiểu ấy? Suy nghĩ rất lâu mới
thông suốt, mới hiểu dụng tâm của Ngài. Đó là
bi tâm, rất tuyệt diệu! Để cứu văn thế
giới trong hiện thời, dùng bất cứ học thuật
nào, dùng Nho hay dùng Phật đều chẳng kịp! Sự
giáo dục ấy chính là “thập
niên thụ mộc, bách niên thụ nhân” (mười
năm trồng cây, trăm năm trồng người)[8],
làm chẳng kịp! Chỉ riêng nhân quả, quư vị thật
sự hiểu rơ nhân quả, mới biết nhân quả
đúng là đáng sợ. Thiện ác báo ứng như bóng
theo h́nh!
Bản thân chúng ta mạng chẳng
tốt, chẳng sao cả! Có thể sửa! “Trong cửa nhà Phật, có cầu
ắt ứng”. Quư vị mong của cải, có thể đạt
được. Mong công danh có thể đạt được.
Liễu Phàm Tứ Huấn và Du Tịnh Ư Ngộ Táo Thần
Kư là những tấm gương tốt đẹp. Trong mạng
của tiên sinh Liễu Phàm chẳng có của cải ǵ, mà cũng
chẳng có công danh. Nay chúng ta gọi công danh là học vị
(degree). Học vị của ông ta chỉ đạt tới
Tú Tài, trong mạng chẳng có Cử Nhân, Tiến Sĩ lại
càng chẳng cần phải nói đến. Tiến Sĩ thời
cổ giống như học vị tiến sĩ (PhD) trong
hiện thời. Cử Nhân giống như thạc sĩ
(master), Tú Tài tương đương với học sĩ
(bachelor). Trong ba học vị ấy, ông ta chỉ có học
vị thứ nhất, chẳng coi là công danh được.
Cử Nhân mới tính là có công danh, ông ta chẳng có học vị
cao! Kết quả, ông ta thi Cử Nhân bèn đỗ, thi Tiến
Sĩ cũng đậu, trong mạng chẳng có [thế mà
vẫn đậu]! Thọ mạng chỉ có năm
mươi ba tuổi, ông ta sống đến bảy
mươi bốn tuổi, sống lâu hơn hai mươi
năm. Đấy là ǵ? Cải tạo vận mạng!
Dùng phương pháp ǵ? Quư vị
thấy thiền sư Vân Cốc dạy ông ta, cũng
như thiền sư Trung Phong dạy đại chúng, trong
Liễu Phàm Tứ Huấn đều có ghi chép. Trước
khi học Phật, tôi đọc quyển sách ấy, đại
khái là trong ṿng hai tháng, tôi đọc sách ấy ba
mươi lần, hết sức cảm động. Ngẫm
lại, những tật xấu của chính ḿnh chẳng
khác tiên sinh Liễu Phàm cho mấy, phước báo c̣n chẳng
bằng ông ta. Mạng ông ta c̣n có Tú Tài, mạng tôi ngay cả
Tú Tài cũng chẳng có. Ông ta tuy nghèo hèn, cuộc sống vẫn
c̣n có thể duy tŕ được. Chuyện này tôi cũng
chẳng bằng ông ta. Thọ mạng của ông ta c̣n
được năm mươi ba tuổi, tôi chỉ có bốn
mươi lăm tuổi, thua kém rất xa. V́ thế, tôi đọc
xong, nghiêm túc phản tỉnh, sửa lỗi đổi mới.
Sau khi được nghe Phật pháp, tôi cũng chẳng
mong cầu chi hết!
“Trong
cửa nhà Phật, có cầu ắt ứng” là do
Chương Gia đại sư dạy tôi. Ngài dạy tôi
để cầu th́ có đạo lư để cầu, có
phương pháp để cầu. Đúng lư, đúng pháp, chẳng
có ǵ không cầu được! Quư vị thấy người
ta cầu làm Phật mà c̣n có thể cầu được.
Đó là chuyện khó khăn nhất, làm Phật mà c̣n có thể
cầu được mà! Công danh, phú quư trong thế gian này,
nói theo Phật pháp, thầy Lư thường nói, đó là chuyện
“lông gà, vỏ tỏi”, quá đơn
giản! Chẳng có một ai không cầu được!
Chúng tôi nói là “cải tạo vận
mạng”. Đấy là những lợi ích rất nhỏ
nhặt. Được của cải, được thông
minh, trí huệ, được khỏe mạnh, sống lâu;
đó là những lợi ích rất vặt vănh! Làm thánh, làm hiền,
làm Phật, làm Bồ Tát, đó là đại lợi ích; đáng
tiếc là người thế gian chẳng có tầm nh́n ấy,
chẳng có loại viễn kiến (tầm nh́n xa) ấy, chỉ thấy trước mắt!
Cầu những điều
lợi nhỏ nhặt trước mắt như thế nào?
Đức Phật dạy, chúng ta đă gieo cái nhân trong
đời quá khứ, chính là cơ sở để cầu,
bố thí! Do Tài Bố Thí được của cải. Do Pháp
Bố Thí, được thông minh, trí huệ. Do Vô Úy Bố
Thí được khỏe mạnh, sống lâu. Nếu quư vị
mong đạt được, trước hết phải
thí. Quư vị thấy một thuật ngữ thông thường
của Trung Hoa là “xả, đắc”. Nói thật ra, đây là một thuật ngữ trong Phật
môn, hiện thời lưu thông phổ biến khắp xă hội.
Hễ quư vị có thể xả, sẽ đạt được.
Quư vị chẳng thể xả, sẽ chẳng thể đạt
được. Quư vị hoan hỷ xả, sẽ đạt
được cũng rất dễ dàng. Khi quư vị xả
mà [cảm thấy] rất khó chịu, đă xả rồi
lại hối tiếc, có thể đạt được
hay không? Có thể đạt được! Nhưng để
đạt được, rất tốn công sức, chẳng
đạt được lẹ làng như vậy! V́ thế,
quư vị dùng cái tâm như thế nào, dùng phương thức
như thế nào để xả, trong tương lai, khi quư
vị đạt được, cũng sẽ giống như vậy. Có kẻ kiếm tiền
rất vất vả, đó là trước kia, khi thí xả
đă rất khó chịu, xả rồi lại hối tiếc!
Thấy người khác xả, chính ḿnh sợ mất thể diện cho nên
không thể chẳng xả,
do tâm t́nh ấy, trong tương lai, chính ḿnh sẽ kiếm
tiền rất vất vả. Nếu xả rất nhanh chóng,
xả rất hoan hỷ; về sau, kiếm tiền sẽ
rất dễ dàng. Chuyện là như vậy đó, nghiệp
nhân quả báo chẳng sai sót mảy may!
Thầy dạy cho tôi đạo
lư và phương pháp này, tôi bèn nghiêm túc học tập. Nhưng
khi học tập, tôi chẳng cầu quả báo, của cải,
thông minh, trí huệ, khỏe mạnh, sống lâu, tôi đều
chẳng cầu. Chúng tôi chỉ có một ư niệm, đấy
là chuyện phải nên làm. Chuyện tốt th́ phải nên làm,
phải nên giúp đỡ kẻ khác, phải nên giúp đỡ
xă hội, tận tâm tận lực. Đời sau, chúng ta
biết có Tịnh Độ, quyết định cầu
sanh Tịnh Độ, chẳng có mảy may lưu luyến
duyên trong cơi đời. Chúng ta đă hiểu, trong tương
lai, khi văng sanh sẽ tự tại. Nếu c̣n lưu luyến duyên trong cơi đời, ra đi
sẽ rất vất vả! Ra đi rất vất vả,
chuyện văng sanh sẽ chẳng đáng trông cậy! Nói cách
khác, quư vị chẳng nắm chắc văng sanh!
Do vậy, phàm là khởi tâm
động niệm, ngôn ngữ, tạo tác, đúng là trước
hết phải tự vấn lương tâm, có nên làm hay không.
Những điều chẳng nên làm, quyết định chớ
nên làm. Gây tổn thương, bất lợi cho người
khác, quyết định chớ nên làm. Không chỉ là đối
với người, mà đối với tiểu động
vật cũng chẳng nên! Muỗi đốt quư vị một
phát, không ǵ chẳng phải
là v́ nó đói, muốn kiếm chút ǵ
để ăn. Nó có phạm tội đáng chết hay không?
Chẳng đáng tội chết! Chớ nên đập một
phát cho nó chết tươi, chớ nên! Chớ nên dùng thuốc
sát trùng để giết chúng, nó cũng là một mạng,
nhất định phải tôn trọng sanh mạng của
nó, yêu tiếc sanh mạng! Nay chúng ta chẳng mong kẻ khác
tổn thương ta, ta cũng chẳng có quyền lợi
tổn hại hết thảy chúng sanh. Nếu quư vị hành
Bồ Tát đạo, hăy hoan hỷ, muỗi đến
đốt quư vị, “ta cúng dường ngươi”. Đấy
là tu bố thí. Trong hạnh nguyện Phổ Hiền có “quảng tu cúng dường”,
v́ sao quư vị chẳng bố thí cho nó? Chẳng bằng ḷng
bố thí, đuổi đi là được rồi. Chớ
nên giết nó!
Quư vị phải có ḷng cảnh
giác như thế đó, ngay cả những loài tiểu
động vật, dường như chúng đến gây tổn
hại cho quư vị, đều dùng tâm từ bi đối
xử với chúng, lẽ nào quư vị có thể hại người? Làm sao quư vị có thể có ư niệm
và hành vi bất lợi đối với người khác?
Chẳng thể nào! Chúng ta học những điều này,
thảy đều thi hành trong cuộc sống, thảy
đều thay đổi quan niệm và hành vi sống. Trong
cuộc sống hằng ngày, những điều giống
như sáu nguyện này đều thuộc về [những
nguyện đă phát] khi mặc y phục. Mặc y phục cũng
là biểu thị pháp. Từ sự biểu thị pháp, bèn
phát ra đại nguyện tương ứng, nguyện cho
hết thảy chúng sanh trong khắp pháp giới, hư không
giới “phục chư thiện
căn” (mặc các căn lành). Dùng “thiện căn” làm y phục của chúng ta, dùng như
lễ phục. Đấy là Phật pháp và thánh giáo
trọng thực chất, chẳng coi trọng h́nh thức.
Dưới đây là nguyện thứ tư.
(Kinh) Chỉnh y thúc đới,
đương nguyện chúng sanh, kiểm thúc thiện
căn, bất linh tán thất.
(經)整衣束帶。當願眾生。檢束善根。不令散失。
(Kinh: Chỉnh áo, buộc
đai, nguyện cho chúng sanh, kềm giữ thiện
căn, chẳng để thất lạc).
Quần áo hiện thời đă
tiến bộ, chẳng cần dây buộc. Dùng ǵ? Khuy nút! Y
phục thời cổ có dây buộc. Giống như y phục
hiện thời của chúng ta, dùng các loại khóa móc. Trước
kia, dùng dây buộc, xác thực là “chỉnh
y thúc đới” (chỉnh y, buộc đai), phải thắt
đai cho chặt. Hiện thời, dùng khóa móc thuận tiện
hơn dây buộc. Trước kia áo hải thanh (đại
bào) chẳng có khuy nút, đều là buộc dây, bên trong là dây
buộc, bên ngoài cũng là dây buộc. Hải thanh là lễ
phục đời Hán, là áo dài rộng, tay áo
to, dùng vào đời Hán, người xuất
gia hiện thời vẫn mặc loại y phục này.
Trường quải (áo dài), tiểu quải[9]
là y phục đời Minh, nhưng đều có cải tiến.
Quần áo đời Minh cũng có dây buộc, nhưng hiện
thời đều dùng nút áo thay thế, nhất định
phải cài nút cho kỹ. Ở lưng th́ có đai lưng,
quần th́ không chỉ lưng quần có dây rút, mà cửa quần
cũng có dây thắt. Vớ cũng có dây buộc, giày cũng
có dây buộc. “Chỉnh y thúc
đới” là nếu quư vị ăn vận chỉnh tề,
buộc dây cẩn thận, người sẽ cảm thấy
đặc biệt có tinh thần. Khi ấy, quư vị thấy,
đó là Bồ Tát, tự nhiên sanh khởi hoằng nguyện
tương ứng với Ngài.
“Đương
nguyện chúng sanh, kiểm thúc thiện căn” (Nguyện
cho chúng sanh, kềm giữ thiện căn). Thiện căn
là ǵ? Phải biết điều này! Trong kinh luận, đức
Phật đă dạy, thiện căn của thế gian có
ba, tức là tam thiện căn. Tất cả hết thảy
các thiện pháp trong thế gian đều sanh từ ba thiện
căn. Ba thiện căn ấy chính là vô tham, vô sân, vô si. Tất
cả hết thảy các thiện căn theo pháp thế
gian, thông thấu lục đạo, do ba thiện căn
[sanh khởi]. Quư vị phải kiểm tra xem [chính ḿnh] có [những thiện căn ấy] hay không? Phải
buộc giữ những thiện căn ấy cẩn thận,
chớ để chúng “tán thất”
(thất lạc). Nay chúng ta hăy ngẫm xem, [chính ḿnh] có ba thiện
căn ấy hay không? Chẳng có! Cái thay thế cho chúng là
Tam Độc. Đối lập với ba thiện căn là
Tam Độc, tức tham, sân, si. Tham, sân, si sanh ra tất cả
hết thảy những thứ bất thiện trong thế
gian. Chúng ta nói “bất thiện”
là nói theo kiểu văn vẻ, chứ nếu nói khó nghe hơn
một tí, sẽ là “ác độc”! Tất cả hết thảy những thứ ác độc
trong thế gian đều sanh từ tham, sân, si. Quư vị nói
xem, chúng có đáng sợ lắm không?
Đức Phật nói nghiệp
nhân quả báo của mười pháp giới, nói theo nghiệp
nhân, bất luận trong đường nào cũng đều
là vô lượng nhân duyên, rất phức tạp. Tuy rất
phức tạp, có điều nào quan trọng nhất hay không?
Trong khá nhiều nhân duyên phức tạp ấy, cái nhân nào là
nhân quan trọng nhất? Đức Phật bảo, tham là
cái nhân của ngạ quỷ đạo, tham tâm đọa ngạ
quỷ, tâm sân khuể đọa địa ngục, ngu si
đọa súc sanh. Quả báo ba ác đạo do đâu mà ra?
Do Tam Độc phiền năo cảm ứng.
Người ta chẳng tin những
thứ ấy, phải đợi khoa học chứng minh,
hy vọng các khoa học gia nỗ lực. Nếu có thể
phát triển tiến bộ, đột phá các chiều không
gian, quư vị mới có thể thấy. Mười pháp giới,
nói theo thuật ngữ của các nhà khoa học, sẽ là “các chiều không gian khác nhau”,
giống như chúng ta xem TV, các băng tần khác nhau. Nay chúng
ta chẳng có năng lực từ trong một màn h́nh mà xem
tất cả các băng tần, chẳng có năng lực ấy!
Người đă đột phá các chiều không gian, xác thực
là không chỉ thấy tất cả các chiều không gian khác
nhau, mà c̣n như thế nào? Chúng chẳng hỗn loạn, mỗi
pháp giới đều thấy rất rơ ràng, rất minh bạch!
Trong Phật pháp nói là “pháp giới”,
các nhà khoa học gọi là “những
chiều không gian khác nhau”. Y báo và chánh báo trang nghiêm trong
mười pháp giới, ai có thể thấy được?
Từ A La Hán trở lên đều có thể thấy. Chư
thiên có thần thông, chúng ta theo thói quen thường nói là “thần thông”, họ có thể
thấy từ Dục Giới trở xuống, phía trên
Dục Giới họ chẳng trông thấy. Từ Dục
Giới trở xuống là nhân đạo, súc sanh, ngạ quỷ, địa
ngục, họ đều có thể trông thấy. Sau khi đă
thấy, mới hiểu rơ là thật, chẳng giả. Hiện
thời, không ít các thành phần trí thức bậc cao ở
phương Tây cũng hiểu rơ chuyện lục đạo
luân hồi. Những bài văn hoặc sách vở thảo luận
về vấn đề này cũng khá nhiều! Gộp chung
với sách vở phương Đông để xem, quư vị
sẽ biết chuyện này chẳng phải là giả!
Nghiệp nhân của loài người
là Ngũ Giới, Ngũ Thường, Nho gia bảo là “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”. Suốt đời
khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác, chẳng
ĺa tiêu chuẩn này, quư vị mới có thể được
làm thân người. Từ chỗ này, chúng ta cũng có thể
thấu hiểu [v́ sao] cổ nhân nói “nhân chi sơ, tánh bổn thiện” (thoạt đầu,
tánh của con người vốn lành). Nếu họ bất
thiện, sẽ chẳng được làm thân người.
Quư vị đă sanh vào nhân gian, được làm thân người,
đời trước quư vị đă đều tu Ngũ
Giới, đều biết “nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín” th́ quư vị mới có thể có
thân người. Phật pháp gọi điều này là “dẫn nghiệp” (引業), [tức là cái nghiệp] dẫn dắt quư vị
đầu thai vào loài người, được làm thân người.
C̣n như sau khi đă làm người, mỗi cá nhân phú quư,
nghèo hèn khác nhau, có kẻ giàu có, có kẻ nghèo túng. Đấy
là do nguyên nhân nào? Măn nghiệp (滿業) khác nhau. Măn nghiệp là ǵ? Trong đời quá khứ,
nói theo Phật pháp là “bố thí”,
ba loại bố thí, tức Tài Bố Thí, Pháp Bố Thí, Vô
Úy Bố Thí khác nhau, mỗi người khác nhau!
Nếu đối với ba
loại ấy, quư vị đều rất hoan hỷ bố
thí, trong đời này, vận mạng của quư vị thật tốt! Giàu to, lại có thông minh, trí huệ, lại được
khỏe mạnh, sống lâu, do quư vị đă tu trong đời
quá khứ. C̣n như làm quan to, làm quốc vương, nay nói
là người lănh đạo quốc gia, cho đến người
lănh đạo quốc tế, là người lănh đạo
các tỉnh, huyện, thành phố, họ đă tu ǵ vậy?
Nói theo giáo pháp Đại Thừa, quá nửa là họ đă
tu tŕ trong tôn giáo, hành những điều lành như tôn giáo đă
nói, có lư lắm! Đời trước đă tu trong Phật
môn, đời này làm quan to, quên bẵng chuyện trong đời
trước. Trong lịch sử Trung Hoa đă ghi chép rất
nhiều [chuyện như vậy]. Những vị quư nhân
quan to hiển đạt ấy đời trước
đều là người xuất gia, rất đáng tiếc,
họ chẳng cầu văng sanh thế giới Cực Lạc,
hễ chuyển thế, đời sau biến thành quư nhân.
Người xuất gia hành Pháp Bố Thí khá nhiều; v́ thế,
làm quư nhân, quá nửa rất có tài năng, có học vấn.
Cuộc sống vật chất tạm ổn, hoàn toàn chẳng
phải là hết sức dư dật. Tại gia cư sĩ
tu hành trong Phật môn cũng giống như vậy! Người
thuở trước tin tưởng những lời này; hiện
thời, nếu quư vị nói cho kẻ b́nh phàm nghe, nhất
định là họ sẽ lắc đầu: “Ngươi
mê tín quá đi”! Họ chẳng tin! Nếu quư vị lắng
ḷng chú tâm quan sát, tư duy, sẽ thấy đúng là có lư! V́
thế, chúng ta ǵn giữ ba thiện căn quan trọng hơn
bất cứ điều nào khác! Nguyện này dạy chúng
ta “kiểm thúc”, nguyện
trước dạy chúng ta “phục
chư thiện căn” (mặc các căn lành), đều
chẳng ĺa khỏi ba thiện căn!
Trong pháp xuất thế, thiện
căn của Bồ Tát chỉ có một điều: Tinh Tấn.
Dũng mănh tinh tấn. “Tinh”
(精) là không xen tạp,
“Tấn” (進) là chẳng thoái chuyển, chúng ta đều phải
hiểu. Kinh này là pháp Bồ Tát, chẳng phải là pháp của
bọn phàm phu chúng ta. V́ thế, thiện căn được
nói ở đây đương nhiên là Tinh Tấn. Một
trăm bốn mươi mốt nguyện này là pháp tu của
Pháp Thân Bồ Tát. Pháp Thân Bồ Tát khởi tâm động
niệm chẳng ĺa một trăm bốn mươi mốt
nguyện này. Chúng ta hạ thấp chuẩn mực, hạ thấp [cho phù hợp] với
giai đoạn hiện thời của chúng ta, [cho nên] nói là ba thiện căn: Đối với hết thảy các pháp
thế gian và xuất thế gian đều chẳng tham, chẳng
sân, chẳng si; đó gọi là “thật
sự tu hành”. Đối với tiếng tăm, lợi
dưỡng, ngũ dục, lục trần, những ǵ chẳng
nên có th́ không cầu, không giữ lấy. Những ǵ đáng
nên có th́ được, như là những thứ do công việc
mang lại, sẽ là những thứ đáng đạt
được. C̣n những thứ tiền tài bất chánh
chính là những thứ chớ nên có. Nhưng quư vị phải
hiểu, thứ chẳng nên có mà quư vị đạt
được, vẫn là do trong mạng quư vị có. Nếu
trong mạng quư vị không có, tiền tài bất nghĩa quư
vị cũng chẳng thể
có được. Nhưng
nếu quư vị giành được tiền tài bất nghĩa,
sự giàu sang trong mạng quư vị sẽ bị suy giảm,
hao tổn, bị chiết khấu!
Ví như trong đời này,
tài sản trong mạng quư vị nhiều đến một
ức, nói nhiều một chút; nhưng tâm hạnh của quư vị
bất thiện, chỗ nào cũng mong chiếm tiện nghi
của kẻ khác, tổn hại kẻ khác để chính
ḿnh đạt được lợi ích, của cải!
Trong mạng quư vị [vốn có] một ức, kết quả
là của cải do quư vị đạt được
trong một đời tính ra đại khái chẳng
được nhiều như vậy, đă bị chiết
khấu. Thậm chí chiết khấu khá nhiều, biến
thành [chỉ c̣n] hai, ba phần. Một ức trở thành hai ngàn vạn,
ba ngàn vạn. V́ sao? Bị chiết giảm do dụng tâm bất
thiện, nhất là tổn hại kẻ khác. Cộng, trừ,
nhân, chia, trong đó, bị chia ra, chẳng phải là trừ
bớt! Điều bất thiện nhỏ th́ trừ đi,
điều đại bất thiện th́ chia ra. Ngược
lại, do tiểu thiện được cộng thêm. Do đại
thiện bèn nhân lên. Nếu quư vị hành đại thiện,
có thể bỏ ḿnh v́ người, một ức trong mạng
của quư vị có thể biến thành hai ức, có thể
biến thành ba ức, nhân lên đó mà! Do quư vị đă dấy
khởi điều đại thiện.
V́ vậy, trong thuận cảnh
chẳng có tâm tham, đối với tài vật chẳng động
tâm. C̣n như làm chuyện tốt th́ tùy duyên, tùy phận. Có
duyên th́ làm nhiều, chẳng có duyên bèn làm ít. Nếu gặp
lúc chẳng có, bèn không làm, công đức của quư vị đều
viên măn. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đă nói rất
hay: “Phát ư viên thành, viên măn công
đức”, tức là phát tâm, quư vị có ư niệm ấy.
Tuy có ư niệm ấy, nhưng chẳng có sức, công đức
của quư vị đă là viên măn do quư vị có tâm. Đấy
là trong giáo pháp Đại Thừa. Đối với Đại
Thừa, quư vị thấy trong giới kinh kết tội, “luận tâm, chẳng luận sự”.
Quư vị có cái tâm ấy hay không? Sự là duyên phận. Duyên
phận th́ một là duyên phận của chính ḿnh, hai là duyên
phận của chúng sanh. Chúng sanh chẳng có phước
báo, phước báo của quư vị bèn tặng cho họ, họ
chẳng thể hưởng thụ. Ắt cần phải là ta cũng có năng lực,
mà chúng sanh cũng có phước. Đấy là lư do v́ sao Phật,
Bồ Tát làm hết thảy công đức mà chẳng kể
công? Quư vị phải hiểu đạo lư là ở chỗ
này! Tuy ta tu được phần phước báo này, họ
cũng có phước. Chứ nếu họ chẳng có phước,
ta có phước th́ chưa được. Họ chẳng
thể nhận được! Đă là cả hai bên, c̣n có
ǵ để kể công nữa?
V́ thế, nói chung là phải
hiểu rành rẽ, hiểu minh bạch đạo lư này, niệm
niệm chẳng quên vô tham, vô sân, vô si. Trở ngược
lại, Tam Độc tham, sân, si đều chẳng thể
được; trong cuộc sống, rất dễ dấy lên ư niệm
ấy. Ư niệm dấy lên liền biết: Tham tâm là
quỷ đạo. Hễ có một niệm sân khuể, sẽ
biết là địa ngục đạo. Vậy th́ cớ
ǵ phải nổi nóng? Cần ǵ phải dấy tâm sân khuể?
Chẳng phải là kẻ khác đọa địa ngục,
mà là chính ḿnh đọa địa ngục. Ngu si là chẳng
hiểu chuyện, [sẽ đọa trong] súc sanh đạo,
chớ nên làm! Chỉnh đốn, buộc chặt xiêm y, quư
vị thấy [Bồ Tát] bèn phát nguyện tương ứng,
chúng ta phải nên học tập. Nay đă hết thời
gian rồi, chúng ta nghỉ ngơi mấy phút.
**
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống. Xin
xem tiếp bài kệ thứ năm kế đó.
(Kinh) Nhược trước
thượng y, đương nguyện chúng sanh, hoạch
thắng thiện căn, chí pháp bỉ ngạn.
(經)若著上衣。當願眾生。獲勝善根。至法彼岸。
(Kinh: Nếu mặc y trên, nguyện
cho chúng sanh, đạt thắng thiện căn, đến
bờ pháp kia).
Đối với “thượng y”, Thanh Lương
đại sư hoàn toàn dùng ư nghĩa trong ngôn ngữ của
chúng ta để giải thích.
(Sớ) Tức sam áo chi bối.
(疏)即衫襖之輩。
(Sớ: Tức là những thứ
như áo dài, áo khoác).
Những thứ này đều
là phục trang Trung Hoa, là thượng y. Nguyện tương
ứng với điều này là “đương
nguyện chúng sanh, hoạch thắng thiện căn”
(nguyện cho chúng sanh, đạt được thiện
căn thù thắng). Hăy chú trọng chữ Thắng (勝). “Thắng thiện
căn” đương nhiên chẳng phải là thiện
căn thế gian, xác thực là Tinh Tấn. Hai chữ Tinh Tấn
cũng chính là như trong quá khứ tổ sư đại
đức đă thường dạy chúng ta: “Thâm nhập
một môn là Tinh, huân tu lâu dài là Tấn”. Dùng tám chữ ấy
để giải thích Tinh Tấn, không ǵ thích đáng hơn!
“Chí
pháp bỉ ngạn”: “Bỉ
ngạn” (Bờ kia) là Nhất Chân pháp giới, bờ này là mười
pháp giới. Đây là bờ kia thật sự. “Tương tự” th́ chẳng
phải là thật, là gần giống. [Nếu nói theo khía cạnh
“tương tự”], bờ này là luân hồi lục đạo, bờ
kia là tứ thánh pháp giới; tức Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ
Tát, [Phật]. Đó chẳng phải là rốt ráo, nhất
định phải vượt thoát mười pháp giới
th́ mới là rốt ráo. Vượt thoát mười pháp giới,
theo giáo pháp Đại Thừa, nhất định
phải đoạn Kiến Tư, Trần Sa, Vô Minh, phải
đoạn sạch ba loại phiền năo ấy, quư vị
mới có thể “minh tâm kiến
tánh, kiến tánh thành Phật”. Đó là nói theo Thiền
Tông, Giáo Hạ nói là “đại
khai viên giải”. Đại khai viên giải trong Giáo Hạ
và minh tâm kiến tánh trong Tông Môn có cảnh giới giống
như nhau, thuật ngữ khác nhau, đấy mới thật
sự là “chí pháp bỉ ngạn”
(đến bờ pháp kia).
“Pháp”, chúng ta có thể gọi nó là Pháp Vương. Thích Ca
Mâu Ni là Phật, là Bồ Tát, là đạt đến bờ
kia của Phật, kiến tánh thành Phật. Trong thời kỳ
Mạt Pháp, thật sự là không ai có thể làm được.
Trong thời kỳ Mạt Pháp, đừng nói là minh tâm kiến
tánh, dẫu là chứng Sơ Quả hay Nhị Quả đều
chẳng có! Nay chúng ta nh́n vào xă hội hiện tiền, quư vị
sẽ biết v́ sao chẳng có! Chẳng cần nói ra câu trả
lời, hiện tượng trong toàn thể xă hội chính
là câu trả lời rơ ràng, xác đáng. Quư vị
có thể ở trong cảnh giới ấy mà không bị ô
nhiễm, không bị quấy nhiễu, không bị ảnh
hưởng hay chăng? Quư vị sẽ bị hoàn cảnh
ảnh hưởng, sẽ bị hoàn cảnh quấy nhiễu,
sẽ bị hoàn cảnh ô nhiễm, làm sao quư vị có thể
chứng quả cho được? Sơ Quả phải đoạn
tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc trong tam giới. Ở
trong hoàn cảnh ấy, quư vị chẳng có cách nào, chẳng
làm được. V́ thế, hiện thời dẫu tu hành
tốt đẹp cách mấy, sẽ đi về đâu?
Đời sau thuộc trong hai đường trời người,
Hạ Phẩm là được làm thân người, Thượng
Phẩm sanh vào Dục Giới Thiên. Có thể sanh lên Sắc
Giới Thiên hết sức hiếm có. Đấy là trạng
huống hiện thực, chúng ta chớ nên không hiểu rơ!
Sau khi đă hiểu rơ, sau
đấy mới biết c̣n có phương pháp có thể “chí pháp bỉ ngạn” (đến bờ
pháp kia). Phương pháp ấy chính là đới
nghiệp văng sanh trong Tịnh Độ Tông. Trừ pháp môn ấy
ra, sẽ chẳng có pháp môn thứ hai nào nữa! Hoa Nghiêm đến
cuối cùng, chư vị đều biết, mười
đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ
Tát dẫn về Cực Lạc. Đấy là “hoạch thắng thiện
căn, chí pháp bỉ ngạn” (đạt được
thiện căn thù thắng, đến bờ pháp kia). Có phải là “thắng thiện căn” hay không? Là thắng thiện
căn, kinh Vô Lượng Thọ dạy chúng ta: “Phát Bồ Đề tâm, nhất
hướng chuyên niệm”. Đó là đúng. Quư vị thấy
“nhất hướng chuyên niệm”,
“nhất hướng” là nhất
tâm. “Nhất hướng” là
một môn, thâm nhập một môn. “Chuyên niệm” là chẳng hoài nghi, chẳng xen tạp,
chẳng gián đoạn. Quư vị nói có phải là “thắng thiện căn” hay
không? Văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới là
“chí pháp bỉ ngạn”. Pháp vương ở bờ bên kia là A Di Đà Phật.
Trong kinh Vô Lượng Thọ, đức Thế Tôn đă
tán thán Phật Di Đà, ca ngợi Ngài là “Phật trung chi vương, quang trung cực tôn”
(vua trong các vị Phật, là quang minh tôn quư nhất). Đấy
là tán thán đến tột cùng. Đức Thế Tôn tán thán
chính là thay mặt mười phương ba đời hết
thảy chư Phật Như Lai tán thán, chúng ta phải biết
[điều này], chớ nên sơ sót!
Thời kỳ Mạt Pháp, nếu
muốn thật sự đạt đến tám chữ ấy,
tức là “hoạch thắng thiện
căn, chí pháp bỉ ngạn”,
[chỉ có] pháp môn này, “phát Bồ Đề tâm, nhất
hướng chuyên niệm”. Tiếp theo tám chữ ấy,
bốn câu gồm mười sáu chữ ấy đă độ
trọn hết. Thời Mạt Pháp hăy c̣n chín ngàn năm nữa,
[pháp môn Tịnh Độ] độ trọn hết chúng
sanh trong chín ngàn năm thời Mạt Pháp. Pháp môn này thích hợp
khắp ba căn, gồm thâu trọn vẹn lợi căn
và độn căn. Phải nói rơ ràng, nói minh bạch. Không
chỉ là nói rơ ràng, nói minh bạch, lại c̣n phải nêu gương
tốt cho mọi người thấy. Đấy là thật,
chẳng giả! Đặc biệt là trong thời đại
này, người văng sanh phải thật sự dụng công,
tấm gương tốt nhất là biết trước lúc
mất, chẳng bị bệnh khổ! Giống như người
đồ đệ làm thợ vá nồi của pháp sư Đế
Nhàn, cảm động kẻ khác như thế đó. Trong
nửa thế kỷ này, trong ṿng năm mươi năm, tôi
đă thấy, nghe những người biết trước lúc mất,
đứng văng sanh, ngồi văng sanh, chính tôi biết mười
mấy người. Đấy là họ đă làm chứng
cho chúng ta.
Tôi nhớ dường như
phải là khi tôi mới xuất gia, đại khái là vào năm
xuất gia thứ ba, tôi đến Phật Quang Sơn. Phật
Quang Sơn lúc khai sơn chỉ có một Phật Học Viện.
Trên núi toàn là cây cối, núi hoang mà! Họ lập Đông Phương
Phật Giáo Học Viện, có hơn một trăm học
sinh. Thời gian tôi ở trên núi không lâu, chỉ có mười
tháng, tôi liền rời đi. Tôi có ấn tượng hết
sức sâu đậm, có một buổi tối, trăng hết
sức sáng, phía trước nơi ấy có một cái ao nhỏ.
Về sau dùng làm ao phóng sanh, khi tôi ở đó th́ c̣n chưa
có [ao phóng sanh]. Chúng tôi ngồi bên bờ ao, buổi tối ăn cơm
xong, có mấy vị đồng học ngồi đó thảo
luận các vấn đề. Có một công nhân tiến
đến, người công nhân ấy làm thuê dài hạn tại
Phật Quang Sơn, họ có rất nhiều công tŕnh.
Người công nhân ấy ở trên núi suốt năm. Thấy
những vị xuất gia chúng tôi [ngồi đó], ông ta đi
đến, kể chuyện cho chúng tôi nghe, những chuyện
ở quê nhà. Quê ông có một bà cụ, niệm Phật ba
năm, đứng văng sanh, khiến cho mọi người
rất cảm động. Chuyện xảy ra rất gần
thời điểm đó, mới hai năm trước, tại
làng Tướng Quân ở Đài Nam. Về sau, tôi đến
Cao Hùng giảng kinh, nói tới chuyện này, có người bảo
tôi họ cũng biết, biết chuyện ấy là thật,
chẳng giả. Người công nhân ấy là người làng
Tướng Quân, chuyện ấy xảy ra trong thôn của
họ.
Bà cụ là người hết
sức thiện lương, hết sức trung hậu. Ông
ta kể, ba năm trước, cụ cưới dâu. Con dâu
học Phật, bà cụ thờ thần, đâm ra thần, Phật ǵ cũng đều lạy tuốt. Con dâu bèn
khuyên cụ chuyên niệm A Di Đà Phật, đừng đi
lễ bái khắp nơi. Quan hệ mẹ chồng con dâu vẫn
khá lắm, bà cụ nghe lời con dâu, lập Phật
đường trong nhà, hằng ngày niệm A Di Đà Phật.
Ba năm sau, có một hôm (con trai và con dâu cụ đều
rất hiếu thuận), cụ bảo con trai và con dâu hăy ăn
cơm trước, khi đó là buổi tối: “Các con cứ
ăn cơm trước, mẹ đi tắm, chẳng cần đợi mẹ!” Cụ đi tắm.
Con trai và con dâu vẫn chờ cụ, rốt cuộc chờ
rất lâu mà sao cụ vẫn không ra! Đến xem, pḥng tắm
không có ai, cụ thật sự tắm rửa xong, đă
thay quần áo rồi. Kết quả là t́m thấy bà cụ
đứng trước bàn thờ Phật, mặc áo hải
thanh, trên tay cầm tràng hạt. Gọi th́ cụ chẳng ừ
hử chi hết, nh́n kỹ, cụ đă mất rồi,
đứng mất! Người công nhân ấy bảo chúng
tôi: “Niệm Phật văng sanh là thật, chẳng giả tí nào!”
Bọn họ là
hàng xóm láng giềng, đích
thân đến xem. [Niệm Phật]
ba năm, biết trước lúc mất!
Cụ không nói với người nhà, sợ họ nhiễu
loạn, “các con cứ ăn cơm, không cần lo cho ta”. Sau
khi tắm gội, thật sự ra đi, chẳng giả
tí nào! Đấy là cụ niệm Phật trong ṿng ba năm,
cụ thật sự nghe lời nàng dâu khuyên. “Hoạch thắng thiện
căn, chí pháp bỉ ngạn” (đạt thiện căn thù thắng, đến
bờ pháp kia). C̣n như những
người ngồi mất, biết trước lúc mất,
đều rất nhiều!
Thầy Lư văng sanh, tuy chẳng
bảo mọi người rơ ràng ngày nào, chẳng nghe nói, nhưng
từ hai năm trước, cụ đă hé lộ tin tức
cho mọi người. Khi đó, tôi giảng kinh ở Đài
Bắc, trong khi giảng kinh [tại Đài Trung], lăo nhân gia đă
tuyên bố, khuyên mọi người hăy khéo dụng công, nghiêm
túc học tập. Cụ bảo: “Ta chỉ giảng kinh hai năm
nữa”, cụ nói như thế. Vài hôm sau,
có mấy đồng học từ Đài Trung lên Đài Bắc
t́m tôi, kể lại lời thầy, hỏi tôi: “Thầy nói
vậy nghĩa là sao?” Tôi nghe xong, bảo họ: “Hai năm
sau thầy sẽ ra đi, Ngài đă tuyên bố cho mọi người
biết”. Quả nhiên, hai năm sau, cụ văng sanh. Chẳng
thể nói cụ không biết, cụ biết rơ, xác thực
là cụ đă buông xuống muôn duyên!
Đài Trung tuy có nhiều sự
nghiệp như vậy, cụ đă nói với tôi vài lần.
Cụ bảo: “Anh ở Đài Trung đă nhiều năm như
thế, kẻ khác không biết, chứ anh hiểu rất
rơ ràng!” Cụ nói: “Sau khi tôi
đi rồi, sẽ chia năm xẻ bảy!” Tôi nghe
xong, gật đầu, cũng chẳng nói ǵ, tôi hiểu rất
rơ. Thầy c̣n đó, họ duy tŕ một h́nh tượng đoàn
kết, nhưng ai nấy đều có thành kiến, mà cũng chẳng ai phục ai! Đương nhiên là các sự
nghiệp mỗi thứ đều độc lập, chẳng
thể liên kết thành một thể, giống như cha đă
khuất, con cái liền ra riêng. Chẳng phải là cùng một
nhà, ở riêng, cũng là một hiện tượng b́nh
thường!
Chúng tôi là người ngoài,
tuy ở Đài Trung theo thầy tu học, ở Đài Trung
chúng tôi chẳng có căn cội! Nói cách khác, chuyện ǵ cũng
chẳng đến phần chúng tôi! Cũng may thầy cho tôi
một bộ kinh Vô Lượng Thọ, tôi được
một phần di sản như vậy, tức là Phật Thuyết
Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh
B́nh Đẳng Giác Kinh. Quyển này chính là bộ kinh do lăo
nhân gia giảng vào thuở trước tại Đài Trung. Cụ
đích thân chú giải, chú giải rất đơn giản,
mi chú[10]
viết bằng bút lông, chia rơ từng đoạn. Tôi đọc
xong, hết sức hoan hỷ. Sau khi được cụ
cho chẳng bao lâu, tôi cũng rất mong giảng bộ kinh
ấy, v́ tôi đọc hiểu lời chú giải của cụ,
tôi có thể lănh hội. Tôi liền thưa với lăo nhân
gia: “Con giảng kinh này ở Đài Bắc có được
hay không?” Cụ bảo chẳng được! Tôi hỏi:
“V́ sao ạ?” Cụ dạy: “Anh quá trẻ! Vừa mới ra
ràng. Kinh này bị tranh căi rất nhiều. Chỉ sợ nếu
kẻ khác bắt bẻ, anh sẽ chống đỡ không
nổi!” V́ thế, bất đắc dĩ, tôi sửa thành
giảng kinh Lăng Nghiêm. Kinh Lăng Nghiêm chẳng có tranh căi.
Tôi học kinh ấy ở Đài Trung ba năm, từng phức
giảng một lần, thầy đồng ư.
V́ thế, bản hội tập
kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ của cư
sĩ Hạ Liên Cư, sau khi thầy Lư đă văng sanh, tôi mới nghĩ: “Chưa ai từng thấy bản này của lăo nhân gia,
người biết đến chẳng nhiều!” Tôi cho in
lại, in một vạn bản theo lối sao chụp, hồi
hướng công đức ấy lên thầy. Sau khi bản
này được lưu thông, khi ấy, tôi ở Mỹ, các
đồng tu bên ấy trông thấy đều hết sức
hoan hỷ, thỉnh tôi giảng. V́ thế, tôi giảng kinh
Đại Thừa Vô Lượng Thọ lần thứ nhất
là ở Mỹ và giảng tại Ôn Ca Hoa (Vancouver) của
Gia Nă Đại. Khi ấy, có giữ lại băng thâu âm,
vẫn chưa có băng thâu h́nh, chỉ có băng thâu âm. Sau
khi băng thâu âm được truyền về Đài Loan,
đồng tu ở Đài Loan nghe xong cũng rất
hoan hỷ, hy vọng tôi giảng nhiều hơn. V́ thế,
trong những năm qua, kinh Vô Lượng Thọ đă
được giảng tất cả mười lần.
Lần này ở Tân Gia Ba là lần thứ mười một,
chưa giảng xong, đại khái mới giảng gần
được một nửa!
Nhắc tới chỗ này, hôm
nay chúng tôi nói đến hai câu kinh văn này, mới nghĩ
trong thời kỳ Mạt Pháp, nương theo pháp môn này mới
là thiện căn thật sự thù thắng. Đối với
kinh này, đối với bản hội tập, chúng tôi chẳng
hoài nghi. Khi học, chẳng xen tạp, chẳng gián đoạn,
y giáo phụng hành, cầu nguyện văng sanh, ắt là có
thể như nguyện. Đấy là “chí pháp bỉ ngạn”. Huống hồ kinh Hoa
Nghiêm đến cuối cùng, tôi đối với pháp môn Tịnh
Độ, hoàn toàn tiếp nhận chẳng hoài nghi, vẫn
chẳng phải là ở trong hội của thầy Lư. Thầy
Lư đă nhiều lần khuyên tôi, tôi chỉ có thể nói là “chẳng
phản đối Tịnh Tông”, nhưng chẳng có ư nghĩ
tu tập pháp môn này! Tôi thích kinh giáo. Do vậy, thầy Lư dạy
tôi học giảng kinh, đó là điều tôi suốt
đời cảm tạ thầy. Tôi tuân thủ giáo huấn
của thầy, đi theo con đường này, suốt
đời chẳng thay đổi phương hướng,
suốt đời tuân theo quy củ của thầy, tức
là đối với những quy củ trong việc giảng
kinh, thu được quá nhiều lợi ích! Khi nào tôi thật
sự quy y Tịnh Độ? Chính là trong khi giảng kinh Hoa
Nghiêm.
Thuở trước, tôi giảng
Hoa Nghiêm ở Đài Bắc. Khi đó, chẳng có thâu h́nh,
chẳng có những thiết bị ấy, c̣n quá sớm, c̣n
chưa phải là Hoa Tạng Đồ Thư Quán, mà là Chí Liên
tinh xá. Tôi nhớ dường như là vào năm Dân Quốc
60 (1971), tôi bắt đầu giảng Hoa Nghiêm, mỗi tuần
giảng ba lần. Tốc độ tiến triển cũng
rất nhanh, nhanh hơn hiện thời khá nhiều! Tôi nhớ
giảng cũng khá lâu, v́ có lúc ra ngoại quốc, kinh phải
ngưng lại, trở về lại tiếp tục giảng.
Trước sau, giảng tất cả mười bảy
năm, giảng được một nửa, Bát Thập
Hoa Nghiêm giảng một nửa, Tứ Thập Hoa Nghiêm cũng
giảng một nửa. V́ chúng tôi mỗi tuần giảng
ba lượt, hai buổi giảng Bát Thập Hoa Nghiêm, một
buổi giảng Tứ Thập Hoa Nghiêm, giảng theo kiểu
ấy!
Có một hôm, tôi bỗng dưng
có nghi vấn: “Bậc thượng thủ Bồ Tát của
đức Tỳ Lô Giá Na Phật trong hội Hoa Nghiêm là Văn
Thù và Phổ Hiền, hai vị ấy học pháp môn ǵ?” Phần
sau kinh Hoa Nghiêm c̣n chưa giảng đến, tôi liền đọc.
Đọc đến phần sau, quả nhiên thấy Văn
Thù và Phổ Hiền đều phát nguyện cầu sanh Tịnh
Độ. Điều này khiến tôi rất kinh ngạc. Không
chỉ là hai vị ấy cầu sanh Tịnh Độ, c̣n
hướng dẫn bốn mươi mốt địa vị
Pháp Thân đại sĩ trong hội Hoa Tạng đều cầu
sanh Tịnh Độ, chuyện này quá thù thắng! Sau đấy,
xem lại phần năm mươi ba lần tham học của
Thiện Tài đồng tử, Thiện Tài tu pháp môn ǵ? Đương
nhiên, Thiện Tài là đệ tử nhập thất, là truyền
nhân của Văn Thù Bồ Tát. Thầy cầu sanh Tịnh
Độ, Ngài là học tṛ hàng đầu, nói chung, sẽ
không hành theo pháp môn thứ hai!
Tuy đă giảng Tứ Thập
Hoa Nghiêm được một nửa, nhưng sơ ư, ơ
hờ, chẳng chú tâm quan sát! Xem lại cẩn thận, Thiện Tài đồng tử
gặp vị thiện tri thức thứ nhất do Văn
Thù Bồ Tát giới thiệu, tức là tỳ-kheo Đức
Vân. [Thiện Tài] đến tham phỏng vị đầu
tiên do Văn Thù Bồ Tát giới thiệu. Tỳ-kheo Đức
Vân tu pháp môn ǵ? Niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
Ngài tu pháp môn, người hiện thời chẳng dễ ǵ
tu tập được. Đó là Ban Châu tam-muội, c̣n gọi
là Phật Lập tam-muội. Nói Phật Lập dễ hiểu
hơn! Kỳ hạn tu hành là lấy chín mươi ngày làm
một kỳ. Trong chín mươi ngày, người tu hành, tức
người niệm Phật, chẳng thể ngồi xuống,
chẳng thể nằm, có thể đứng, có thể đi.
Đấy là Ban Châu tam-muội. Điều này rất khó,
trong chín mươi ngày không ngủ nghỉ, không ngủ, không
nghỉ, dũng mănh tinh tấn, thật sự là “hoạch thắng thiện
căn” (đạt
được thiện căn thù thắng). Từ kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy tỳ-kheo Đức
Vân tu pháp môn này, chuyên niệm Di Đà, cầu sanh Tịnh
Độ. Đấy là vị thầy thứ nhất mà Thiện
Tài gặp gỡ. Ấn Độ và Trung Hoa đều có lối
nói này: “Tiên nhập vi chủ”
(Điều ǵ được tiếp xúc đầu tiên sẽ
đóng vai tṛ chủ yếu). Vị thầy đầu tiên
dạy quư vị, [những giáo huấn của vị ấy]
sẽ là “tiên nhập vi chủ”.
Lại xem vị cuối
cùng, tức là vị thứ năm mươi ba, Phổ Hiền
Bồ Tát dùng mười đại nguyện vương hướng
dẫn về Cực Lạc, tôi mới hoảng nhiên đại ngộ.
Thiện Tài tu ǵ? Niệm A Di Đà Phật. Trong khi tham phỏng,
phải là quảng học đa văn (học rộng nghe
nhiều). Bất cứ tông phái nào, bất cứ pháp môn
nào, chẳng có ǵ Ngài không biết. Tuy thảy đều xem
xét, học hỏi, Ngài có tu hay không? Chẳng có! Cớ sao biết
là chẳng tu? Cuối cùng là “luyến
đức lễ từ”, tức là cảm tạ, lễ
bái, từ tạ ra đi. “Từ”
(辭) có nghĩa là chẳng
tu pháp môn ấy. Ngài biết, hiểu rơ pháp môn ấy. Quư vị
muốn tu, Ngài có thể dạy quư vị, nhưng bản
thân Ngài chẳng tu! Cứ niệm một câu Phật hiệu
đến cùng. Tôi mới hiểu ra. Đă hiểu rơ chuyện
này, mới khăng khăng một mực nơi pháp môn Tịnh
Độ, chẳng bàn căi chi nữa, mới biết pháp môn
này thù thắng khôn sánh. Lại suy tưởng căn tánh của
chính ḿnh, muốn tu những pháp khác đúng là khó khăn! Giáo
Hạ th́ phải đại khai viên giải, Tông Môn là minh
tâm kiến tánh, quá khó! Trong quá khứ, thầy đă giảng
giải, nhắc nhở tôi, thuở ấy, vẫn chưa
thể hoàn toàn tiếp nhận, nay do suy nghĩ, đă hoàn
toàn hiểu rơ, khăng khăng một mực quay lại niệm
Phật cầu sanh Tịnh Độ.
V́ thế, tôi mới thấu
hiểu pháp này được gọi là pháp khó tin, thật
sự khó tin! Nếu tôi
không có các kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Lăng
Nghiêm làm cơ sở, rất khó tiếp nhận pháp môn này.
Có thể nói là khi tôi c̣n trẻ, nếu tôi chẳng hiểu
rơ, chẳng hiểu minh bạch đạo lư này, mà khiến
cho tôi dấy lên tín tâm đối với pháp này, sẽ chẳng
thể được! Tôi bằng ḷng nhận biết, liễu
giải, nhưng tín tâm chẳng dễ ǵ sanh khởi! Lúc đi
học, tôi học Cơ Đốc giáo hai năm, chẳng
hề rửa tội. Tôi đến giáo đường đạo
Hồi gần một năm hơn, rất tôn kính đạo
ấy. Do chưa được tiếp xúc Phật môn; v́
thế, tiếp xúc một thời gian rất dài, chính ḿnh
giảng kinh Hoa Nghiêm đến một nửa mới hoảng
nhiên đại ngộ, chẳng dễ dàng! Lại xem bài kệ
cuối cùng:
(Kinh) Trước tăng-già-lê,
đương nguyện chúng sanh, nhập đệ nhất
vị, đắc bất động pháp.
(經)著僧伽黎。當願眾生。入第一位。得不動法。
(Kinh: Đắp tăng-già-lê,
nguyện cho chúng sanh, nhập địa
vị thứ nhất, đắc pháp bất động).
Chúng ta xem lời chú giải của Thanh Lương đại sư.
(Sớ) Tiền dĩ biện ca-sa.
(疏)前已辨袈裟。
(Sớ: Trong phần trước
đă biện định về y ca-sa).
“Tăng-già-lê”
(Saṃghāti) là một
loại y ca-sa, trong phần trước, đă có giới
thiệu.
(Sớ) Cố thử trực vân
Tăng-già-lê. Tăng-già-lê giả, nghĩa vân ḥa hợp, tân
giả nhị trùng, cố giả tứ trùng, yếu dĩ
trùng thành, cố vân ḥa hợp, tức thị tam y trung đệ
nhất y cố.
(疏)故此直云僧伽黎,僧伽黎者,義云和合,新者二重,故者四重,要以重成,故云和合,即是三衣中第一衣故。
(Sớ: V́ vậy, ở
đây nói thẳng về y Tăng-già-lê. Tăng-già-lê có
nghĩa là “ḥa hợp”. Cái mới th́ may hai lớp, cái cũ th́ may bốn lớp.
Do phải may nhiều lớp nên nói là Ḥa Hợp. Tức là
loại y bậc nhất trong ba y vậy).
Ba y[11]
của người xuất gia, y thứ nhất là Tăng-già-lê.
Chúng ta thường gọi Tăng-già-lê là đại y, tức
y hai mươi lăm điều. Hiện thời, người
Hoa thường có thói quen gọi là “nhị thập ngũ điều y”. Hiện thời,
chúng ta dùng loại y này, chính là y hai mươi lăm điều,
gọi là Tăng-già-lê. Quư vị thấy theo chiều dọc,
tấm y gồm hai mươi lăm điều, theo chiều
ngang th́ bốn mảnh dài, một mảnh ngắn. Quư vị
thấy nó có h́nh thức ấy, nên thường gọi
thông tục là Phước Điền Y, dùng các loại vải
vụn may thành.
Chư vị phải hiểu,
thời cổ xin một bát cơm dễ dàng, làm một chiếc
y hết sức khó khăn. Y của người xuất
gia do đâu mà có? Từ những thứ quần áo do người
ta vứt đi, chẳng thể mặc nữa bèn vứt bỏ.
Người xuất gia nhặt lấy những thứ “rác
rưởi” ấy, thâu nhặt lại. Sau khi nhặt về,
giặt sạch sẽ, những chỗ nào c̣n có thể dùng
được, sẽ cắt thành từng miếng nhỏ,
khâu chằm lại, làm thành y. Người ta chẳng thể
bố thí cho quư vị một tấm vải toàn vẹn to
như vậy! Do quư vị lượm lặt, nhất
định là chất liệu không giống nhau, màu sắc
cũng khác nhau. Sau khi khâu chằm xong, bèn đem
nhuộm. Nhuộm thành màu cà-phê như vậy. Đấy chẳng
phải là chánh sắc. Trong phần trước, đă có nói,
ca-sa là nhiễm sắc, chẳng phải là chánh sắc. V́ lẽ
này, bát cơm xin được cũng gọi là ca-sa. Y
ca-sa do rất nhiều thứ lẫn lộn hợp lại.
Y phục gồm năm thứ màu đỏ, vàng, xanh, trắng,
đen ḥa lẫn một chỗ; v́ thế nó có ư nghĩa Ḥa
Hợp. Một bát cơm chẳng phải là do một nhà
cho, xin từ vài nhà, người này cho một chút, người
kia cho một tí, mùi vị ǵ cũng đều có, chua, ngọt,
đắng, cay, mặn đều có. V́ thế gọi là “ca-sa vị”. Ca-sa có nghĩa là
Tạp Nhiễm.
Trong ba y, đại y là lễ
phục, y hai mươi lăm điều là lễ phục.
Thông thường, đắp y bảy điều, gọi
là “thất y”, áo quần mặc
để làm việc có năm điều, gọi là “ngũ y”. Ngũ y mặc khi làm
việc, thất y là y phục thông dụng, hai mươi
lăm điều là đại lễ phục. Trong các loại
hoạt động khánh điển trọng đại mới
dùng loại này, tức là dùng y hai mươi lăm điều.
Những Phật sự trong giảng đường sẽ
là long trọng nhất; công việc cả đời của
đức Thế Tôn là giảng kinh, thuyết pháp. Do vậy,
trong trường hợp này, nhất định là chúng ta
phải dùng đại y, tức y hai mươi lăm
điều. Khi mới học Phật, đối với từng
miếng chằm trong loại y phục này, tôi không hiểu,
thỉnh giáo lăo ḥa thượng. Lăo ḥa thượng bảo
từng miếng chằm giống như các thửa ruộng
để gieo trồng, nên gọi là Phước Điền
Y. Nếu chúng sanh muốn gieo phước, hăy đến tu
cúng dường trong Phật môn để gieo phước.
[V́ thế gọi là] Phước Điền Y. Theo tập
tục đều gọi như thế, cũng chẳng có
ai có thể hiểu rơ!
Năm 1999, Trung Quốc kỷ niệm năm mươi
năm lập quốc. Cuộc lễ ấy có quy mô rất
lớn, cục tôn giáo mời tôi về nước dự lễ.
Do vậy, lần ấy tôi sang Bắc Kinh, cục tôn giáo quốc gia tiếp đăi. Nhằm
đúng lúc viện Bảo Tàng
Lịch Sử
triển lăm những thứ
văn vật được khai quật từ Thanh Châu ở
Sơn Đông, [những món văn vật ấy] thuộc về thời đại Nam Bắc
Triều, đại khái là cách hiện thời một ngàn bảy
trăm năm. Những món văn vật thuộc thời kỳ
đầu của Phật giáo [Trung Hoa] được triển
lăm tại đó. Diệp cục trưởng mời tôi,
đồng thời mời Trương cục trưởng
của cục Văn Vật, hai cục trưởng cùng đi
xem với tôi. Tôi thấy trong ấy có ba bức tượng
Tỳ Lô Giá Na Phật. Chúng tôi giảng kinh Hoa Nghiêm, [vị
chủ giảng trong] Hoa Nghiêm là Tỳ Lô Giá Na Phật. Những
tượng ấy khắc tạc hết sức trang
nghiêm. Tôi nh́n kỹ, thấy trong chiếc y hai mươi lăm
điều của các Ngài, mỗi miếng chằm đều
có đồ họa. Xem kỹ, tầng trên là Phật pháp giới,
Bồ Tát pháp giới, đến chỗ dưới cùng là địa
ngục pháp giới, tôi mới hoảng nhiên đại ngộ!
Từng miếng chằm biểu thị điều ǵ? Vô
lượng pháp giới, vô lượng pháp giới ở trên
cùng một cái y, là một Thể. Tôi ngộ ra đạo
lư như thế đó, khắp pháp giới, hư
không giới là một Pháp Thân.
Trong giáo pháp Đại Thừa
thường nói: “Mười phương
ba đời Phật, cùng chung một Pháp Thân”, đến
lúc này tôi mới hiểu rơ! Do vậy, mỗi miếng chằm
rộng như nhau, biểu thị sự b́nh đẳng. Nói
theo mười pháp giới, một pháp giới hiển, chín
pháp giới kia ẩn. Chỉ có ẩn hay hiển bất
đồng, chẳng có sanh diệt; pháp giới xác thực
là bất sanh, bất diệt. Đại y biểu thị
pháp! Tăng-già-lê như thế, chúng ta bèn hiểu y bảy điều
và y năm điều, không ǵ chẳng phải là như thế.
Trong cái y hai mươi lăm điều, quư vị thấy
rất rơ, ư nghĩa biểu thị pháp trong ấy hết sức
rơ rệt. Y năm điều là cứ [mỗi điều gồm] một miếng dài [nối với] một
miếng ngắn, [do vậy], số lượng các miếng
chằm ít, ư nghĩa biểu thị pháp chẳng rơ rệt
như y hai mươi lăm điều. Tôi hiểu đạo
lư này! Tôi nói lần ấy sang Bắc Kinh chẳng uổng công.
Nếu chẳng đến thăm viện Bảo Tàng Lịch
Sử lần đó, vẫn một mực chẳng
hiểu tấm y này có ư nghĩa ǵ! Có thể thấy là Phật
môn ngay cả đối với chuyện ăn mặc, thảy
đều là giáo học, khiến cho quư vị thấy,
nghe, tiếp xúc, không ǵ chẳng phải là Phật pháp, chẳng
có pháp nào không phải là Phật pháp. V́ thế, người
khai ngộ nói: “Sau khi đă ngộ,
pháp nào cũng vốn là đạo, chuyện ǵ cũng
xứng tâm vừa ư”. Những ǵ quư vị đă thấy,
nghe, tiếp xúc, không ǵ chẳng phải là đạo. Chúng
tôi trông thấy h́nh ảnh ấy mới hiểu rơ!
Do vậy, phát nguyện
tương ứng với điều ấy, “đương nguyện chúng
sanh, nhập đệ nhất vị, đắc bất
động pháp” (nguyện cho chúng sanh, nhập địa
vị bậc nhất, đắc pháp bất động). “Đệ nhất vị” chính
là quả địa Như Lai rốt ráo. Đấy là
đệ nhất vị, Đẳng Giác Bồ Tát là địa
vị thứ hai, Pháp Vân Địa Bồ Tát (Thập Địa Bồ Tát) là địa vị thứ ba. Đệ nhất vị
là quả địa rốt ráo! “Đắc
bất động pháp”: Bất động pháp mới
là pháp viên măn rốt ráo. Chúng ta đọc đến phần
sáu phương Phật trong kinh Di Đà, tức là bản dịch
của Cưu Ma La Thập đại sư, lăo nhân gia dịch
ư. Bản kinh Di Đà của Huyền Trang đại sư
là trực dịch, trong ấy là mười phương. La
Thập đại sư tỉnh lược, chỉ nói sáu
phương. Vị Phật đầu tiên ở phương
Đông là A Súc Bệ Phật, dịch sang nghĩa tiếng
Hán là Bất Động, bất động là căn bản.
Bất động là ǵ? Pháp Tánh. Pháp Tánh c̣n gọi là Chân
Như, cũng gọi là bản tánh, hoặc gọi là tự
tánh. Đức Phật nói rất nhiều danh tướng.
V́ sao nói nhiều như vậy? Khiến cho quư vị chẳng
chấp trước, “danh khả
danh, phi thường danh” (cái danh có thể gọi tên th́ chẳng
phải là cái danh thường hằng). Chớ nên chấp
trước danh tự tướng, biết nó biểu thị
điều ǵ là được rồi! Đấy là phương
tiện thuyết pháp và giáo học của đức Phật,
chúng ta phải hiểu!
Chỉ có tự tánh là bất
động. Ngoài tự tánh ra, thưa cùng chư vị, chẳng
có một pháp nào là bất động. Ngay cả hư không
cũng có sanh diệt, chẳng có pháp nào là bất động.
Các nhà khoa học hiện thời nói, hiện tượng vật
chất do đâu mà có? Từ trong Vô sanh ra Hữu! Vô là pháp bất
động, nó có thể hiện tướng. V́ thế,
kinh Hoa Nghiêm nói vạn hữu trong vũ trụ là chuyện
như thế nào? “Duy tâm sở
hiện”, cái tâm ấy là chân tâm, chẳng phải là vọng
tâm, nó là Pháp Tánh. Pháp Tánh biến hiện, nó có thể hiện.
Hiện những thứ ấy, chúng có thể nẩy sanh biến
hóa. Biến hóa là tác dụng của thức, là vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước. Thuận
theo vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của
hết thảy chúng sanh mà sanh ra biến hóa. Y báo và chánh báo trang
nghiêm trong mười pháp giới, “duy thức sở biến”. Đấy là sự giải
thích của giáo pháp Đại Thừa đối với khởi
nguyên của vũ trụ, khởi nguyên của vạn vật,
khởi nguyên của sanh mạng. Căn cội của sanh
mạng, căn cội sanh
mạng của vạn vật trong vũ trụ
chính là Pháp Tánh. Pháp Tánh chẳng phải là pháp duyên khởi.
Pháp Tánh chẳng có sanh diệt, chẳng có khởi đầu
và kết thúc, chẳng có sự bắt đầu.
V́ thế, trong kinh, đức
Phật đă nói Pháp Tánh là chuyện như thế nào? “Pháp nhĩ
như thị” (法爾如是, pháp vốn
là như thế). Nói theo kiểu hiện thời, sẽ tự
nhiên là như vậy. Thật ra, “tự
nhiên là như vậy” th́
vẫn chẳng hay khéo bằng câu “pháp nhĩ như thị”, [nghĩa là] vốn sẵn
là như vậy. Nếu đối với điều này, quư
vị thấy đáng nghi, dấy lên nghi vấn, đó gọi
là vô minh. Hết thảy chúng sanh mê mất tự tánh, mê như
thế nào? Dấy lên một niệm nghi t́nh trong ấy. Hễ
có một niệm nghi bèn mê hoặc. Một niệm giác, chúng
sanh bèn thành Phật. Mê chẳng phải là thật, vọng
tâm đấy! Có thể phá mê hay không? Chẳng thể! Nếu
quư vị phá mê, sẽ càng thêm mê hoặc. Đạt đến
cảnh giới ấy, người tu hành thường nói:
“Thử xứ dụng bất
đắc lực” (Chỗ này chẳng thể dùng sức
được). Hoàn toàn phải quy về tự nhiên, quư vị
mới đại triệt đại ngộ. Muốn dùng
một chút tâm, dấy lên một niệm, sai mất rồi,
vĩnh viễn chẳng thấy!
V́ thế, quư vị chỉ cần
buông xuống khởi tâm động niệm, sẽ vốn
là [chân tâm]. Chẳng có pháp nào không phải! Người nào có
thể buông xuống khởi tâm động niệm? Trước
hết là có khởi tâm động niệm, sau đấy mới
có phân biệt, mới có chấp trước. Đấy là
nói theo quá tŕnh phát triển của mê. Nay chúng ta muốn quay
đầu; hễ quay đầu, nhất định là trước
hết đoạn chấp trước, sau đấy đoạn
phân biệt, cuối cùng là đoạn khởi tâm động
niệm. Quay đầu lại th́ mới có thể trở
về nguồn. Nay chúng ta c̣n có chấp trước nghiêm trọng
đối với hết thảy các pháp, hỏng bét! Phật
pháp nói là “ngộ môn đổ
tắc” (悟門堵塞, đóng lấp cửa ngộ), chẳng t́m thấy
bờ mé đâu cả! Nay đă hết thời gian rồi,
chúng tôi nói tới đây.
Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 28 hết
[1] Pháp sư Thánh Nhất (1922-2010), tự là Huyền
Cơ, họ ngoài đời là Trần, người xứ
Ḥa Lư, Tân Hội (tỉnh Quảng Đông). Năm mười
sáu tuổi, do thấy Sư thông duệ, phước tướng
trang nghiêm, một người chưởng quỹ trong tiệm
bán gạo của thân phụ Sư đă tặng Sư bộ
Phật Giáo Tùng Thư do cư sĩ Vương Nhất
Đ́nh biên soạn. Đọc xong, Sư sáng tối niệm
Phật, chỉ ăn rau bên cạnh thịt. Hễ trông thấy
kẻ ăn mày đến tiệm xin, Sư đều dạy
họ niệm A Di Đà Phật, c̣n xúc gạo cho họ. Về
sau, bị cha quở trách, Sư liền hốt gạo rơi
văi dưới đất, rửa sạch, phơi khô để
thí cho người đến xin. Ngay cả khi phải gảy
bàn tính để tính toán sổ sách, Sư cũng niệm Phật
không ngớt. Khi Sư tṛn mười chín tuổi, gặp cảnh
tao loạn thời Trung Nhật Chiến Tranh, tiệm gạo
phải đóng cửa, được phụ mẫu cho phép,
Sư bèn xuất gia. Nhưng khi ấy đang thời loạn,
không đạo tràng thâu nạp, phải t́m kiếm khắp
nơi. Cuối cùng đành phải nương náu một đạo
sĩ. Đạo sĩ chỉ chấp thuận cho niệm
chú Đại Bi để kiếm tiền độ nhật.
Có lần, đạo sĩ sai đi cắt cỏ, Sư chú
tâm niệm chú, chợt nghe trong đồng cỏ tiếng
niệm chú vang vang. T́m khắp nơi không thấy ai, chợt
ngộ âm thanh niệm chú do chính tâm ḿnh hiển hiện. Vừa
ngộ, âm thanh ấy bỗng dứt bặt. Về sau, Sư
được một vị ni giới thiệu đến
y chỉ Chí Liên Tịnh Uyển nghe giảng kinh. Về sau,
do nghe ngài Hư Vân truyền giới tại chùa Nam Hoa ở
Thiều Quan. T́m đến nơi, ngài Hư Vân đă sang Trùng
Khánh. Sư bèn xin nhập chúng giă gạo và lo trai soạn,
đến năm sau mới được thọ Cụ
Túc Giới. Khi ấy, Sư đă hai mươi hai tuổi.
Sư y chỉ ḥa thượng Phục Nhân, măi cho đến
khi ba mươi sáu tuổi, gặp ngài Hư Vân ở núi
Vân Cư, được phó pháp, trở thành pháp tự
đời thứ chín của tông Quy Ngưỡng.
[2] Thật
ra, tùy theo tông phái mà y ca-sa sử dụng
ṿng móc hay không. Tông Chogye (Tào Khê) ở Đại Hàn đắp
y cũng dùng ṿng móc. Ca-sa của Việt Nam phần lớn
sử dụng ṿng móc. Ngay tại Nhật, tông Tào Động
(Soto) thường dùng y không có móc, dây buộc rất phức
tạp, khi mặc đ̣i hỏi phải xếp y khéo léo, nhưng tông Lâm Tế (Rinzai) đắp y gần
giống như Trung Hoa, có ṿng móc. Có những chi phái tuy vẫn
có ṿng, nhưng không dùng móc, mà dùng cách
buộc dây rất phức tạp. Có những tông phái như
Tịnh Độ Chân Tông hoặc Chân Ngôn Tông, y thường
may bằng vải gấm hay lụa rực
rỡ, nhưng kích thước chỉ
nhỏ bằng một phần ba y của Trung Hoa, chỉ
có dây đeo chéo lên vai, tấm y che một phần
lưng và bụng, hoàn toàn không che vai. Họ mặc hậu (áo hải thanh) cũng có màu sắc
rực rỡ, không tiệp màu với tấm y.
[3] Đúng
ra, chỉ có Thiền Tông Nhật Bản
dùng loại y này. Họ gọi nó là Rakusu (絡子, lạc tử). Rakusu
có h́nh dáng một tấm ca-sa thu nhỏ, may giống như
một cái túi, có quai để đeo quanh cổ. Một bức
Rakusu thường có mười sáu miếng vải khâu lại
thành một tấm, có
viền mép. Mặt sau để trơn, thường ghi
pháp danh của người thọ giới và tông phái,
đôi khi thêu những biểu tượng của tông phái.
Thông thường, Rakusu có màu đen
dành cho tăng sĩ, và màu nâu dành cho những vị
giảng sư (có thể không phải là người xuất
gia). Tuy vậy, nhiều khi Rakusu
thường làm bằng vải lụa hay gấm rực rỡ, thêu thùa rất phức tạp. Quai đeo
bên phải của Rakusu có ṿng móc. Theo truyền thuyết,
Rakusu được truyền sang từ Trung Hoa khi Phật
giáo bị vua Trung Hoa bức hại, tăng sĩ phải
chế ra loại y như vậy để đeo giấu
vào bên trong áo. Các tăng sĩ Nhật Bản đă đem
loại này về Nhật Bản. Rakusu chủ yếu dùng
khi tăng sĩ đi hóa duyên, hoặc giảng kinh. Họ
vẫn mặc áo tràng, đeo Rakusu ra ngoài, nhưng khi cử
hành những điển lễ quan trọng, hoặc tại
tự viện, thường là đắp ca-sa thật sự.
Ḥa thượng nói đến những vị mặc Âu phục
chỉ đeo Rakusu khi làm lễ chính là những
người đă thọ giới tỳ-kheo, nhưng vẫn sống
đời tại gia, nhất là những vị thuộc
các tông Nhật Liên, Chân Ngôn Tông, Tịnh Độ Chân Tông…
Trong truyền thống Nhật Bản, dường như
ranh giới giữa tăng sĩ và người tại gia
bị xóa nḥa. Đa số tăng sĩ
có vợ, con, có tài sản riêng, tuy vẫn mặc y phục
tu hành, cạo đầu. Riêng Tịnh Độ Chân Tông c̣n có loại Rakusu không có ṿng móc, gọi
là Tế Oai Nghi (Igiboso). Có những tông phái như Nhật
Liên Tông chẳng hạn,
tăng sĩ không cạo đầu, ăn mặc chải
chuốt như người tại gia, chỉ khi làm lễ
mới đắp y. C̣n khi thuyết pháp họ
chỉ đeo Rakusu. Trong rất nhiều tự viện
Chân Ngôn Tông và Nhật Liên Tông, nhiều khi
các vị trưởng lăo lại có h́nh thức
tại gia, mặc âu phục, khoác y hậu
ra ngoài,
ngồi trên pháp ṭa chủ pháp, trong khi những vị có h́nh
tướng xuất gia lại ngồi thấp hơn, hoặc
làm thị giả cho những vị “trưởng lăo tại
gia”. Ngoài ra, c̣n có một loại gọi “ca-sa” nữa dưới
h́nh thức một dải vải dẹp mảnh, hai đầu
có kết tua để cột lại,
đeo lên cổ, thả trước ngực, dành cho những
người thọ Tam Quy, Ngũ Giới, chia thành:
1. Chiết
Ngũ Điều (Origojyo) dài đến gần thắt
lưng. Chiết Ngũ Điều để trơn hoặc
thêu danh hiệu một vị Phật hoặc đề mục
kinh Pháp Hoa như trong tông Thiên Thai. Đạo tràng Pháp Hoa và
một số đạo tràng Tịnh Độ tại Việt
Nam dùng loại này. Tại Nhật Bản, tăng sĩ thường đeo Chiết Ngũ Điều khi
không đắp y.
2. Luân ca-sa
(Wagesa) may thành một dải tṛn.
3. Bán
ca-sa (Hangesa) giống như chiết ngũ điều,
nhưng chỉ có chiều dài bằng một nửa.
[4] Hán Cao Tổ
tên thật là Lưu Bang (256 trước
Công Nguyên -195 trước Công Nguyên), xuất thân là một
nông dân, quê ở huyện Phong, tỉnh Giang Tô. Cổ sử Trung Hoa tô vẽ ông là người
mũi cao, râu rồng, diện mạo khôi ngô,
trên
đùi có 72 nốt ruồi. Tính t́nh
Lưu Bang phóng khoáng, thích rượu và gái, nhưng biết
nhẫn nhục và khoan dung khi cần thiết.
Ông từng phải đi phu xây
dựng cung điện ở Hàm Dương, và khi trông thấy xa
giá, nghi trượng của Tần Thủy Hoàng, đă cảm khái:
“Đại trượng phu phải sống như thế”.
Sau đó, ông được cử
làm đ́nh trưởng ở Tứ Thượng,
kết thân
với những người như Hạ Hầu Anh, Tiêu
Hà, Tào Tham. Về sau, ông được cất nhắc làm huyện lệnh đất
Bái, nên thường được gọi là Bái Công. Truyền
thuyết nói trong chuyến suất lănh dân phu đi xây dựng
lăng mộ cho Tần Thủy Hoàng ở Ly Sơn, ông
đă chém chết một con măng xà. Sau đó, có một bà già
khóc lóc bên vệ đường.
Có người hỏi, bà lăo đáp:
“Con trai tôi là con của Bạch Đế, đă bị con của
Xích Đế chém chết” rồi biến mất. Do truyền thuyết này (có
thể là do các mưu sĩ của Lưu Bang loan tin đồn),
nhiều người tin Lưu Bang có chân mạng đế
vương. Ông khởi nghĩa, tham dự quân khởi
nghĩa chống Tần của Hạng Lương (ḍng dơi
danh tướng Hạng Yên của nước Sở), lập
nhiều chiến
công. Sở Hoài Vương đă
ước hẹn, ai vào Quan Trung trước sẽ
được phong vương. Lưu Bang vào Hàm Dương
trước, nhưng Hạng Vũ (cháu
Hạng Lương) sau khi diệt
nhà Tần đă nuốt lời giao ước,
sát hại Sở Hoài Vương, chia Quan Trung làm bốn phần,
phong cho Lưu Bang làm Hán Vương cai trị vùng Hán Trung
(bao gồm Tứ Xuyên, Trùng Khánh, Thiểm Tây hiện thời) với mục đích giam lỏng tại đó. Hạng Vũ lại phong Chương Hàng,
Đổng Ế, và Tư Mă Hân làm Tam Tần Vương
để ngăn chặn Lưu Bang tiến về Đông.
Nhờ Trương Lương t́m
được đường khác, Lưu Bang đă dẫn
quân đánh về phía Đông, tấn công quân Sở. Sau một thời gian dài đánh nhau dằng dai với quân
Sở, cuối cùng, Lưu Bang chiến thắng, lên
ngôi Hoàng Đế vào năm 202 trước Công Nguyên và lập
ra nhà Hán (Sử thường gọi là Tiền Hán
hoặc Tây Hán). Ở đây, Ḥa Thượng đă nhớ
nhầm là năm 200 Tây Lịch. Từ khi nhà
Hán thành lập vào năm 200 trước Công Nguyên cho đến
khi nhà Thanh bị lật đổ bởi cách mạng Tân Hợi
(năm 1911), vương triều Trung Hoa kéo dài gần 2.100
năm.
[5] Ngũ
đường công khóa có nhiều cách
hiểu. Theo cách hiểu phổ biến nhất, ngũ
đường công khóa là năm khóa tụng niệm
chính trong tùng lâm bao gồm công phu sáng, công phu tối, sám hối,
cùng với các bài tụng khi thọ trai
hai thời. Có thuyết th́ cho rằng ngũ đường
công khóa là khóa sáng, khóa tối, khóa tụng niệm hai thời
thọ trai và cúng ngọ. Có thuyết giải thích khác
như sau: Buổi sáng gồm
hai đường (chú Lăng Nghiêm là một đường,
đường kia là Đại Bi và Thập Chú), buổi tối
ba đường (kinh Di Đà là một đường,
Đại Sám Hối Văn là một đường nữa,
và Mông Sơn Thí Thực là đường thứ ba).
[6] Trong tiếng
Hán, Khố (褲) là cái
quần có hai ống, thường hiểu là quần dài (trouser), trong khi
Quần (裙) lại
là cái váy, bao gồm tất cả các loại skirt, jupe
như trong hiện thời, kể cả các loại sarong.
Thuở trước, phụ nữ không mặc quần dài.
Hồng Quần chính là loại váy của phụ nữ có
nhiều nếp xếp. Khố là danh từ chung chỉ loại
quần có hai ống. Do đó, khi nói rơ quần dài (bất
luận bằng chất liệu ǵ) sẽ gọi là Trường
Khố, quần đùi, quần short là Đoản Khố,
quần jean là Ngưu Tử Khố, quần short may ống
phùng dành cho các nữ sinh mặc khi tập thể dục gọi
là Đăng Lung Khố (quần đèn lồng), loại
quần bó (leggings) sẽ gọi là Khẩn Thân Khố, hoặc
Nội Tháp Khố, quần lót gọi là Tiết Khố hoặc Nội Khố v.v… C̣n cái khố như
người Thượng mặc sẽ gọi là Triền
Yêu Đới (纏腰帶). Chữ này đôi khi
cũng dùng để chỉ các loại đai nhằm bảo
vệ lưng. Riêng loại khố như các vơ sĩ sumo của
Nhật mặc th́ gọi là Quân (褌, fundoshi).
[7] Tùy phiền
năo (Upakleśa) có nghĩa là các món phiền năo phụ thuộc, ở
ngoài căn bản phiền năo. Chúng gồm có hai
mươi món, chia thành ba loại:
1. Tiểu
Tùy: Phẫn (giận dữ), Hận (căm hờn), Năo (sầu
khổ, bực bội), Phú (che giấu), Cuống (dối
trá), Siểm (nịnh bợ), Kiêu (kiêu căng), Hại (mang
ư tưởng làm hại người khác), Tật (ghen ghét),
Xan (keo kiệt).
2. Trung
Tùy: Vô Tàm, Vô Quư.
3. Đại
Tùy: Bất Tín, Giải Đăi, Hôn Trầm, Trạo Cử,
Phóng Dật, Thất Niệm, Tán Loạn, Oai Tri (hiểu biết
lệch lạc).
[8] Đây
là một thành ngữ phổ
biến tại Trung Hoa, phát xuất từ chương Quyền
Tu của sách Quản Tử. Nguyên văn: “Nhất niên chi kế, mạc như thụ cốc.
Thập niên chi kế, mạc như thụ mộc. Chung
thân chi kế, mạc như thụ nhân. Nhất
thụ nhất hoạch giả, cốc dă. Nhất thụ
thập hoạch giả, mộc dă. Nhất thụ, bách hoạch
giả, nhân dă” (Kế một
năm, không ǵ bằng trồng ngũ cốc. Kế mười
năm, không ǵ bằng trồng
người. Kế suốt đời, không ǵ bằng trồng
người. Trồng một, thu hoạch một là ngũ
cốc. Trồng một thu mười là trồng cây. Trồng
một thu trăm là trồng người). Quản Tử
là tác phẩm ghi lại những nhận định của
Quản Trọng (tên tự là Di Ngô), thừa tướng của
Tề Hoàn Công.
[9] Trường
quải (長褂, c̣n
gọi là “trường sam”, 長衫) thường
là loại áo dài có cổ cao như áo dài của Việt Nam.
Cổ áo thường được viền bằng vải
khác màu quanh cổ, xẻ vạt, không chít eo, tay áo hẹp.
Đó là y phục của người thế tục.
Trường quải của người xuất gia th́ áo
cài chéo như kiểu áo hải thanh, có vạt con để
che hai bên eo, tay hẹp. Đầu thời
Dân Quốc, người ta đă biến chế áo Kỳ
Bào của nữ giới (y phục của
người Măn Châu) thành loại áo chít eo, tay ngắn hoặc
sát nách, bó sát bên hông và đùi, xẻ vạt lên nửa
đùi, cũng gọi là “trường
sam”, thường được biết với tên gọi
“xường sám” (theo cách
phát âm chữ “trường sám” trong tiếng Quảng
Đông, đôi khi c̣n gọi là “áo dài Thượng
Hải”).
Tiểu quải (小褂) là loại
áo ngắn, có cổ cao, cài một bên, tay hẹp, ta thường
gọi là áo xẩm. Nam giới th́ cài chính giữa, cũng
có cổ cao, hai hàng khuy. Tiểu quải của người
xuất gia th́ cổ áo may dằn nhiều lớp, xẻ ở
giữa, ta thường gọi là áo La Hán. Có lẽ áo vạt
ḥ, áo vạt khách là một sáng chế
riêng của người Việt dành cho người xuất
gia. Thời Măn Thanh, họ chế ra một loại áo có cổ
cao, nhưng sát nách, không tay, thường viền bằng vải
lụa hay gấm, hoa văn rực rỡ, gọi là “mă quải”. Mă quải thường
mặc ra ngoài trường quải. Trường quải
thời Thanh thường bằng vải trơn hay các thứ
vải quư có màu sáng, hoa văn ch́m, không rực rỡ như
mă quải.
[10] Mi chú (眉註): Chú thích
ngắn
gọn ngay trên đầu một đoạn văn.
[11] Theo chế
định của Phật giáo nguyên thủy, người
xuất gia có ba y (Ticīvara):
1. An
Đà Hội (Antarvāsa):
Tức là tấm y che phần dưới thân thể.
2. Uất
Đa La Tăng (Uttarāsaṅga):
Thượng y, để che thân. Là thứ ư để mặc
thường ngày.
3.
Tăng Già Lê (Saṃghāti): Tăng già lê là đại y, mặc
khi đi khất thực, tụng kinh, giảng kinh, thuyết
pháp.
Theo truyền thống
Trung Hoa, ba y được hiểu hơi khác. An Đà Hội
tức là Tác Vụ Y là loại y mặc khi làm lụng,
thường hiểu là y năm điều. Uất Đa
La Tăng là nhập chúng y, tức là loại y tối thiểu
có bảy điều, mặc trong khi tham gia các sinh hoạt
của đại chúng. Mỗi điều gồm hai miếng
dài, một miếng ngắn, may ghép thành một điều.
Như vậy là tấm y này có tất cả hai mươi
mốt miếng chằm. Khi nói năm điều, bảy
điều, hoặc hai mươi lăm điều, tức
là nói theo chiều dọc của tấm y. Chẳng hạn
y năm điều th́ mỗi điều là một miếng
dài, một miếng ngắn ghép thành một điều, nên
tấm y có tất cả mười miếng chằm. Y
tăng-già lê thật ra có nhiều loại:
1. Hạ phẩm gồm
các loại y chín điều, mười một điều,
mười ba điều. Mỗi điều gồm một
miếng ngắn, hai miếng dài.
2. Trung phẩm gồm
các loại mười lăm điều, mười bảy
điều, mười chín điều. Mỗi điều
gồm ba miếng dài, một miếng ngắn.
3. Thượng phẩm
gồm hai mươi mốt điều, hai mươi ba
điều và hai mươi lăm điều. Mỗi
điều gồm bốn miếng dài, một miếng ngắn.
Hiện thời, hễ
nói đến tăng-già-lê th́ hầu như chỉ sử dụng
loại hai mươi lăm điều.