Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười
một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần
29
大方廣佛華嚴經
(十一)淨行品
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Địa điểm: Hương Cảng Phật
Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Khởi giảng từ ngày mồng Bảy tháng
Mười Một năm 2005
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong, Huệ Trang và Minh
Tiến
Tập
1519
Chư vị pháp sư,
chư vị đồng học, xin hăy ngồi xuống.
Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười một,
đoạn kệ tụng thứ năm.
(Sớ) Tảo thấu quán tẩy
thời hữu thất nguyện.
(疏)澡漱盥洗時有七願。
(Sớ: Khi tắm gội, súc
miệng, rửa ráy, có bảy nguyện).
Trước hết, chúng ta
xem nguyện thứ nhất:
(Kinh) Thủ chấp dương
chi, đương nguyện chúng sanh, giai đắc diệu
pháp, cứu cánh thanh tịnh.
(經)手執楊枝。當願眾生。皆得妙法。究竟清淨。
(Kinh:
Tay cầm nhành dương, nguyện cho chúng sanh, đều
đắc diệu pháp, rốt ráo thanh tịnh).
Đoạn này
cũng là nói tới [những
chuyện nhỏ nhặt] trong cuộc
sống hằng ngày, tắm rửa, súc miệng, rửa mặt,
quư vị thấy từng ly từng
tí trong cuộc sống đều dẫn
phát vô tận bi nguyện. Đấy chính là như trong phần
trước Văn Thù Bồ Tát đă dạy chúng ta: “Nhược chư Bồ Tát thiện
dụng kỳ tâm, tắc hoạch nhất thiết thắng
diệu công đức” (Nếu các Bồ Tát khéo dùng cái
tâm, sẽ đạt được hết thảy công
đức thù thắng, nhiệm mầu). Những chuyện
lụn vụn khi thức dậy vào sáng sớm, hằng
ngày chúng ta đều phải làm, nhưng chẳng phát nguyện.
Đấy là chỗ khác biệt giữa phàm phu và Bồ
Tát. V́ thế, tôi thường nói: “Bồ Tát khởi tâm động niệm đều
nghĩ đến chúng sanh”. Một
trăm bốn mươi mốt nguyện này nhằm nêu những
thí dụ cho chúng ta. Triển khai ra, sẽ là từng ly từng tí trong cuộc sống hằng ngày, trong vô lượng
vô tận những sự tướng vặt vănh, chẳng
có chuyện nào không thể dẫn phát hoằng nguyện của
Bồ Tát.
Từ những chỗ
này, quư vị mới lănh hội “thiện
dụng kỳ tâm” (khéo dùng cái tâm) như Văn Thù Bồ
Tát đă dạy. “Khéo dùng cái
tâm” là ǵ? Có ai chẳng có cái tâm hay không? Ai nấy đều
có! Bồ Tát có chân tâm, chẳng có vọng tâm. Phàm phu có vọng
tâm, mà cũng có chân tâm. Chỉ v́ mê hoặc tự tánh, vọng
tâm nắm quyền cai quản, chân tâm chẳng làm chủ. Nếu
chân tâm làm chủ, niệm nào cũng đều có thể
sanh khởi hoằng nguyện. Đó là chân tâm. Vọng tâm
làm chủ, niệm nào cũng đều sẽ chẳng dừng
ở vô minh bèn dừng nơi vọng tưởng. Thuật ngữ trong
kinh Phật gọi vọng tưởng là Điệu Cử
(掉舉, c̣n đọc là
“trạo cử”, lao
chao, xáo động), tức
là tâm của quư vị chẳng an định, bất ổn,
nay chúng ta nói là “suy nghĩ loạn xạ”. Đó là vọng
tâm. Nếu ngưng dứt vọng tâm, chân tâm sẽ khởi
tác dụng, sẽ chẳng khác Bồ Tát, niệm nào
cũng đều là thương xót hết thảy chúng
sanh khổ nạn.
Không chỉ là thế
giới Sa Bà này, khá nhiều cơi Phật trong mười
phương đều có mười giới, lục đạo.
Có thể nói là hiện tượng này khá phổ biến.
Các chúng sanh khổ nạn và chúng ta vốn là một Thể,
chúng ta đă quên bẵng “vốn
là một Thể!” Do vậy, trong giáo pháp Đại Thừa
thường nói “đồng thể
đại bi”, có cùng một Thể, “vô duyên đại từ”, “vô duyên” là ḷng yêu thương chẳng có điều
kiện. Đại từ, đại bi, niệm nào
cũng đều là đại từ đại bi. To
đến mức độ nào? Niệm nào cũng là trọn
khắp pháp giới hư không giới, niệm nào cũng
trọn khắp tiền hậu tế (tiền tế và hậu
tế)[1].
“Tiền hậu tế” (前後際) là
nói đến thời gian, thuật ngữ hiện thời
là “thời không” (時空, thời
gian và không gian). Niệm nào cũng trọn khắp hết
thảy thời gian và không gian. Thêm chữ “hết thảy” vào “thời
không” chính là nói đến “bất
đồng duy thứ không gian” (不同維次空間, các chiều
không gian khác nhau) như các nhà khoa học hiện thời
đă nói. Ở trong ấy, chúng sanh sẽ cảm
nhận thời gian và không gian khác nhau, Phật pháp gọi
nó là “pháp giới”, mười
pháp giới. Mười pháp giới mở rộng sẽ
thành vô lượng pháp giới, chân tâm dùng chuyện này làm cảnh
giới. Nếu quư vị hỏi v́ sao ư? Cảnh giới
này chính là “duy tâm sở hiện,
duy thức sở biến”, chớ nên không biết chân
tướng sự thật này!
“Thủ chấp dương chi” (Tay cầm
nhành dương), điều này nói về chuyện súc miệng.
Hiện thời, chẳng dùng nhành dương! Hiện nay, bàn chải
đánh răng thay thế nhành dương, càng tiến
bộ hơn nhành dương. Sáng sớm, quư vị
súc miệng, hiện thời đều dùng bàn chải
đánh răng, dùng kem đánh răng. Thời cổ th́ dùng
nhành dương. Chúng ta hăy đọc lời văn trong Sớ
Sao.
(Sớ) Dương chi
ngũ lợi, thị viết diệu pháp, khử uế vi
tịnh.
(疏)楊枝五利,是曰妙法,去穢為淨。
(Sớ: Nhành
dương có năm điều lợi, do vậy gọi
là “diệu pháp”, trừ bỏ nhơ bẩn khiến cho
thành thanh tịnh).
Có thể làm sạch
răng của chúng ta.
(Sớ) Tây Vực giai triêu
trung tước dương chi.
(疏)西域皆朝中嚼楊枝。
(Sớ: Tây Vực vào
buổi sáng và giữa trưa đều nhai nhành
dương).
“Triêu” (朝) là sáng sớm. “Trung” (中) là giữa
trưa. Thật sự hiểu đạo dưỡng sanh!
Tôi chẳng biết trong nhà trường có dạy loại kiến thức thông thường này hay không? Những
người thuộc lứa tuổi như tôi, hơn nửa
đời người sống trong hoàn cảnh chiến
tranh, loạn lạc, người già và giáo viên trong nhà
trường đều sơ sót [chuyện này]. Tuy thường
nói, nhưng nói chẳng rơ ràng, không thấu triệt, cho nên
chúng tôi đă sơ sót chuyện bảo vệ răng lợi!
Đến lúc bảy
mươi tuổi, tôi mới hiểu rơ. Khi đó, ở
Tân Gia Ba, có một vị đồng tu dẫn tôi đi nha
sĩ để tẩy răng. Trong khi tẩy răng, vị
nha sĩ có nói với tôi. Ông ta nói tôi đă bảy
mươi tuổi, hàm
răng vẫn chưa hư là v́
ăn chay! Ông ta nói: “Nếu không, những người thuộc
lứa tuổi giống như thầy, răng bị hư rất nhiều”. Ông ta bảo:
“Thầy c̣n có thể giữ nguyên hàm răng, c̣n có thể sử
dụng”. Ông ta khuyên tôi: “Để bảo dưỡng răng, mỗi lần
ăn thứ ǵ xong, nhất định
phải súc miệng. Có rất nhiều
thương hiệu kem đánh răng, tốt nhất là
nên t́m đến một nha sĩ, sau khi để người
ấy kiểm tra hàm răng của ḿnh, [sẽ quyết
định] thích hợp với loại kem đánh răng
nào!” Thuở ấy, ông ta giới thiệu, sáng sớm và buổi
tối súc miệng th́ phải dùng kem đánh răng. Những
lúc khác, sau khi ăn ǵ đó, súc miệng, dùng bàn chải
đánh răng là được rồi, không cần dùng kem
đánh răng. Kem đánh răng chỉ dùng hai lần. Sáng
tối c̣n [dùng hai loại kem] khác nhau. Ông ta giới thiệu
cho tôi hai loại đều là của Pháp. Buổi sáng và buổi
tối dùng hai loại kem đánh răng khác nhau. Chúng tôi mới
hiểu trong ấy có đạo lư như thế đó;
trước kia, chưa từng chú ư, chẳng hiểu ǵ hết!
Năm ngoái,
tôi lại đi tẩy răng lần nữa. Ông ta bảo tôi, hiện
thời khoa học kỹ thuật Trung Hoa có tiến bộ, vừa mới cho ra đời một loại kem đánh răng có thể thay thế
cho kem ngoại quốc. Kem ngoại quốc chẳng tốt
bằng kem Trung Hoa! Lại c̣n sáng tối cũng đều
dùng được như nhau, chẳng cần phải tách
ra thành hai loại. Do vậy, đối với những thứ
ấy, đều có sự chú trọng. Đối với
bàn chải đánh răng, do hàm răng của mỗi cá
nhân có h́nh dạng khác biệt, bàn chải đánh răng
cũng có rất nhiều loại. Quư vị thích hợp sử dụng loại nào, tốt nhất là để cho nha sĩ
giới thiệu. Những thứ này tiến bộ hơn
chuyện nhai nhành dương trước kia rất nhiều!
Nguyên tắc là nhất định phải giữ ǵn hàm
răng cho sạch, đặc biệt là nướu
răng và chân răng, chẳng thể có thứ ǵ bám vào, phải
sạch sẽ. Đấy mới là thật sự hữu
ích cho sức khỏe. Hàm răng khỏe mạnh cho thấy
ruột và bao tử của quư vị tốt, năng lực
tiêu hóa mạnh mẽ, thân thể khỏe mạnh!
Nhành dương
được kinh này gọi là “diệu
pháp”, v́ sao là diệu pháp? Nó có năm chuyện tốt, tức
là có năm điều lợi. Trong lời Sao đă có chép.
Thứ nhất là “minh mục”
(明目, sáng mắt),
điều này dễ hiểu, có thể bảo vệ mắt
của quư vị. Thứ hai là “trừ
đàm” (除痰, trừ
đờm răi), thứ ba là “trừ
khẩu khí” (除口氣, trừ
hôi miệng). Thứ tư là do hàm răng khỏe mạnh,
sẽ có thể “biện biệt
vị” (辨別味, phân biệt
vị), chua, ngọt, đắng, cay! Thứ năm là “tiêu thực” (消食), có
nghĩa là giúp cho tiêu hóa. Hiện thời, bàn chải
đánh răng và kem đánh răng tiến bộ hơn
nhành dương, “khử uế
vi tịnh” (trừ nhơ khiến trở thành thanh tịnh).
Do vậy, phải chú ư chuyện ăn uống hằng ngày.
Tôi chẳng ăn vặt, đấy là một thói quen
rất tốt. Về sau mới biết, khi ăn những
đồ ăn vặt, phải thường xuyên súc miệng, phải chà răng. Ngoài sáng tối ra, khi đánh răng, không nên dùng kem
đánh răng. Nói chung là chà răng cho sạch sẽ.
Tuổi đă cao,
hàm răng lung lay, hở kẽ, phải chà sạch chân răng.
Hiện thời, để tẩy sạch chân răng có một
loại bàn chải nhỏ, lông bàn chải có loại mềm
và cứng, thông thường là có bốn loại khác nhau, mức
độ mềm hay cứng khác nhau để tự ḿnh lựa
chọn. Hiện thời, tôi đánh răng đều dùng
ba loại bàn chải đánh răng, có cái dùng để chà
chân răng. Nhất định phải chà rửa sạch
sẽ, “khử uế vi tịnh”.
Từ chỗ này, ta thấy người Ấn Độ
thuở trước có thói quen rất tốt.
(Sớ) Tịnh uế bất
tương tạp, thử vi thường quy.
(疏)淨穢不相雜,此為常規。
(Sớ: Tịnh và uế chẳng
lẫn lộn. Đấy là quy củ thông thường).
Ở Ấn Độ,
gần như ai nấy đều tuân thủ thói quen ấy.
Đấy là một tập quán rất tốt đẹp. Sau khi chúng ta
đă biết, cũng phải dưỡng thành.
Từ chỗ này,
dẫn phát lời nguyện của Bồ Tát. Quư vị thấy “đương nguyện chúng
sanh” (nguyện cho chúng sanh). Nay chúng ta sáng dậy súc miệng,
hễ cầm bàn chải đánh răng, phải nghĩ “đương
nguyện chúng sanh”. Phạm vi của chúng sanh hết sức
rộng lớn: Hết thảy chúng sanh trong khắp pháp giới
hư không giới, “giai đắc
diệu pháp, cứu cánh thanh tịnh” (đều đắc
diệu pháp, rốt ráo thanh tịnh). Nhành dương là công
cụ để giữ cho hàm răng sạch sẽ, có thể
tẩy sạch chất nhơ bẩn trên răng, khiến
cho thân thể chúng ta khỏe mạnh. Từ điều lợi ích “minh mục” (sáng mắt),
chúng ta có thể lănh hội: Một thiện niệm, một
thiện hạnh của chúng ta tự nhiên là sẽ có thể
lợi ích người khác. Quư vị thấy súc miệng có
ích cho tṛng mắt. Mắt và răng là những khí quan khác nhau. Do vậy có thể
biết, nếu khoang miệng và hàm răng chẳng vệ sinh, chẳng sạch, sẽ ảnh
hưởng đến thị lực. Đây là nêu ra một
ví dụ. Đúng thế! Nay chúng ta hiểu điều
thường thức này! Chắc chắn là sẽ ảnh
hưởng tới ruột và dạ dày, ảnh hưởng
các khí quan tiêu hóa. Thân thể là một tiểu vũ trụ,
pháp giới là đại vũ trụ. Từ chỗ này,
chúng ta có thể hiểu đạo lư làm người!
Phật, Bồ Tát
thường dạy chúng ta, tự lợi, lợi tha. Phật
pháp thường nói đến hai điều lợi, tự
lợi vốn là lợi tha. Tự lợi chẳng phải
là ích kỷ, ích kỷ là như cổ nhân nói “tổn người, lợi ḿnh”,
sai mất rồi! Tổn người lợi ḿnh: Hại
người khác cũng là hại chính ḿnh. V́ sao? Tự và
Tha là một Thể, phải biết điều này! Trên cái
thân của chúng ta, bên ngoài là ngũ quan, tức mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân; bên trong là ngũ tạng, lục phủ,
là một thân thể, ở trong pháp giới. Giống
như trên địa cầu, các quốc gia khác nhau, các dân tộc
khác nhau, văn hóa khác nhau, giống như các khí quan khác nhau
trên thân chúng ta. Mỗi khí quan có công năng riêng của nó.
Công năng của mắt là thấy, công năng của tai
là nghe, mũi có thể ngửi, lưỡi có thể nếm.
Mỗi người ai nấy thực hiện viên măn chuyện
thuộc về bổn phận của chính ḿnh, tự nhiên
sẽ phối hợp cùng những khí quan khác. Trong ấy,
hoàn toàn chẳng có người nào chỉ huy, mà cũng chẳng
có ai khống chế, tự nhiên phối hợp, phối hợp
xảo diệu ngần ấy, khiến cho thân tâm của quư vị khỏe mạnh,
vui sướng, “giai đắc
diệu pháp” (đều đạt được diệu
pháp). Diệu pháp ấy là ǵ? Xa ĺa hết thảy ô nhiễm,
“cứu cánh thanh tịnh” (rốt
ráo thanh tịnh)!
V́ xă hội hiện
thời tôn sùng khoa học kỹ thuật, sơ sót luân lư
đạo đức, khoa học kỹ thuật đổi mới, khác biệt hằng tháng,
hằng ngày, những sự ô nhiễm do nó
đem lại rất đáng khiến cho mọi người
kinh sợ! Hiện thời, gần như mọi người
trên toàn thể thế giới đều cảm nhận
được chuyện này, đều có sự cảm nhận
rơ rệt ở mức độ khá cao. Nếu chẳng thể
khống chế, chẳng thể hóa giải những thứ
ô nhiễm ấy, các nhà khoa học đă đưa ra lời
cảnh cáo, năm mươi năm nữa, địa cầu
chẳng thích hợp cho nhân loại sanh tồn! Làm thế
nào để ĺa nhiễm, khôi phục thanh tịnh? Pháp [khiến
cho mục tiêu ấy đạt được] sẽ là “diệu”,
đấy gọi là “diệu pháp”. Diệu pháp là [phương pháp để]
hóa giải những ô nhiễm như thế nào! Giới
khoa học, cho đến khá nhiều chuyên gia, học giả
trong thế gian đang nghiên cứu [ḥng t́m ra diệu pháp ấy];
điều đó hiện thời được gọi là
“ư thức bảo vệ môi
trường”. Có thể thật sự hóa giải những
thứ ô nhiễm ấy, khôi phục sự cân bằng sinh
thái trên địa cầu hay không? Chúng ta cảm thấy khó
quá! Nh́n từ giáo pháp Đại Thừa, hiện thời,
xác thực là chúng ta chẳng hiểu chân tướng sự
thật của vạn hữu trong vũ trụ. Ô nhiễm
phát sanh như thế nào? Chẳng t́m ra cội nguồn ô
nhiễm! Chẳng hóa giải từ căn bản, rất
khó thâu được hiệu quả!
Cội nguồn là
ǵ vậy? Căn cội chính là ư niệm, đúng như kinh
Phật đă dạy: “Hết
thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”. V́ những hữu
t́nh chúng sanh sống trên địa cầu, chúng ta gọi hữu t́nh chúng
sanh là động vật, động vật là hữu t́nh
chúng sanh, đặc biệt là chúng sanh thuộc loài người
trong giới động vật càng tồi tệ hơn những
loài động vật khác! V́ sao nói vậy? Vọng tưởng
quá nhiều, ích kỷ, tiếng tăm, lợi dưỡng,
ngũ dục, lục trần, tham, sân, si, mạn, những
thứ ấy ai nấy đều có. Trong quá khứ, [những cấu chướng ấy]
chẳng nghiêm trọng như hiện thời! Đó là
nguyên nhân ǵ? Do [trong quá khứ, mỗi thế hệ đều]
được người già dạy dỗ. Đấy là
giáo dục, có những thứ giáo dục luân lư, đạo
đức, nhân quả, và tôn giáo hạn chế họ. Dẫu
có [những thứ phiền năo như đă kể trên], vẫn
chẳng đến nỗi vượt ra ngoài khuôn khổ,
[tức là] họ có giới hạn, vẫn chưa đến
nỗi vượt mức! Nói cách khác, dẫu ô nhiễm,
hoàn toàn chẳng phải là rất nghiêm trọng. Sau khi
đă có những phát minh khoa học kỹ thuật, con
người chẳng tin luân lư, đạo đức nữa,
cũng chẳng tin vào sự báo ứng nhân quả. Do vậy,
tham, sân, si, mạn tăng trưởng với tốc độ
quá nhanh. Những ư niệm ấy tạo thành sự ô nhiễm
cho đại hoàn cảnh. Nói lời này, sẽ có kẻ chẳng
hiểu!
Rất khó có, tiến
sĩ Giang Bổn Thắng của Nhật Bản đă
nghiên cứu nước hơn mười năm, [ông ta]
nghiên cứu nước, nước là khoáng vật. Phát hiện
nước có “thấy, nghe,
hay, biết”, có nghĩa là nó có thể thấy, có thể
nghe, hiểu ư nghĩ của con người. Chúng ta viết
chữ Ái dán trên b́nh nước; ví như đối với
cái b́nh nước này, quư vị dán chữ Ái lên đó. Dán một,
hai tiếng đồng hồ, giữ cho nước ở
năm độ âm, nó sẽ xuất hiện kết
tinh. Nh́n dưới kính hiển vi, h́nh thể kết tinh sẽ
hết sức đẹp đẽ. Nếu quư vị viết:
“Tao chán ghét mày, tao không thích mày” dán lên đó. Hai tiếng
đồng hồ sau, quư vị sẽ thấy nước
kết tinh hết sức xấu xí, rất khó coi. Điều
này chỉ rơ chuyện ǵ? Ư niệm bất thiện của
chúng ta chính là ô nhiễm. Nước đă bị ô nhiễm;
núi, sông, đại địa chẳng có thứ ǵ không bị ô nhiễm, ḷng người trên toàn thể
thế giới đều bất thiện. V́ thế, đấy
mới là nguyên nhân thật sự khiến cho pháp giới
(nay chúng ta nói là “địa cầu”)
bị ô nhiễm. Khoa học kỹ thuật nêu ra những
nguyên nhân [gây ô nhiễm] như khí độc, những thứ chẳng tốt
lành, hoàn cảnh bị ô nhiễm, vẫn là những
nguyên nhân phụ thuộc. Ḷng người bị ô nhiễm
mới là vấn đề nghiêm trọng!
Do vậy, chẳng
cải thiện từ ư niệm, dùng phương pháp ǵ
để cải thiện ḥng giúp cho địa cầu khôi
phục cân bằng sinh thái, thanh tịnh, đều chẳng
trọn vẹn, chẳng phải là rốt ráo! Nếu muốn
đạt được sự thanh tịnh rốt ráo, vẫn
là từ ư niệm. Chuyện [cải thiện từ] ư niệm
thực hiện bằng cách nào? Chính là phải giáo dục.
Giáo dục mới là diệu pháp, [tức là phải trông cậy
vào] hết thảy các nền giáo dục thánh triết của
phương Đông lẫn phương Tây. Người thế
gian hiện thời có cái nh́n đối với tôn giáo chẳng
giống cách nh́n của tôi. Người thế gian nh́n vào
tôn giáo, coi tôn giáo là một thứ tín ngưỡng, là một
loại mê tín, chẳng phù hợp khoa học. Cách nh́n của
tôi và cách nh́n của họ khác nhau. Theo cách nh́n
của tôi, tôn giáo là giáo dục. Nếu vận dụng
phương pháp quy nạp để phân loại của
người hiện thời, tôn giáo phải nên là
giáo dục xă hội!
Chư vị hăy ngẫm
xem, sáu đại tôn giáo nổi tiếng trên thế giới
có người tín ngưỡng đông nhất. Những vị
sáng lập, có vị nào chẳng nhiệt tâm giáo hóa chúng
sanh? Thích Ca Mâu Ni Phật là tấm gương tốt nhất!
Ngài ba mươi tuổi đại triệt
đại ngộ, Thích Ca Mâu Ni Phật khai ngộ lúc ba
mươi tuổi. Tại Trung Hoa, c̣n có một vị
[khai ngộ] sớm hơn Thích Ca Mâu Ni Phật, tức là Lục
Tổ Huệ Năng đại sư của Thiền Tông,
hai mươi bốn tuổi bèn đại triệt đại
ngộ. Tổ khai ngộ sớm hơn Thích Ca Mâu Ni Phật,
nhưng hoằng pháp trễ hơn Thích Ca Mâu Ni Phật. Mỗi
vị có phước báo, nhân duyên khác nhau. Sau khi đă khai ngộ,
[Lục Tổ] trốn vào nhóm thợ săn để lánh nạn
mười lăm năm. Do vậy, mười lăm
năm sau khi khai ngộ, gần như đă bốn
mươi tuổi, Ngài mới ra hoằng pháp. Sau khi khai ngộ,
Thích Ca Mâu Ni Phật lập tức hoằng pháp. V́ thế,
Ngài ba mươi tuổi đă bắt đầu giảng
kinh, giáo học, bảy mươi chín tuổi viên tịch.
Do vậy, giảng kinh hơn ba trăm hội, thuyết
pháp bốn mươi chín năm. Giảng kinh là lên lớp
cho mọi người, giúp đỡ đại chúng phá mê
khai ngộ.
Đức Phật
nói rất hay, hết thảy chúng sanh khổ, khổ do
đâu mà có? Do mê mà có, chẳng biết chân tướng của
vạn pháp trong vũ trụ. V́ thế, quư vị đối
với vũ trụ và nhân sinh bèn nghĩ lầm, nh́n trật,
nói sai, làm quấy! Giống như trong thí nghiệm với nước
của tiến sĩ Giang Bổn Thắng, toàn là do ư niệm sai lầm, nước sẽ phản ứng
bất b́nh thường! Làm thế nào để được
vui? Hăy chuyển đổi ư niệm sai lầm. Cái
được gọi là “luân
lư, đạo đức” chính là Tánh Đức của tự
tánh, là thường đạo, vốn là như vậy.
Người Hoa nói “luân thường
đại đạo”, đó là thiên nhiên, nay chúng ta
thường gọi là “thiên
nhiên”, nói theo Phật pháp sẽ là Pháp Tánh, hoặc Tánh
Đức. Đấy là đạo! Tùy thuận Tánh Đức
th́ là đức. Tùy thuận Tánh Đức, sẽ là b́nh
thường. Trái nghịch Tánh Đức là bất thường.
Tùy thuận Tánh Đức, cảnh giới ấy gọi
là Nhất Chân pháp giới. Sau khi đă trái nghịch Tánh
Đức, mới biến Nhất Chân pháp giới thành
mười pháp giới. Do vậy, mười pháp giới
đều là bất b́nh thường. Nhưng mười
pháp giới càng lên cao, càng tiếp cận Tánh Đức; càng đi
xuống, sẽ càng cách xa Tánh Đức. Có khoảng cách xa
nhất, cách xa nhất, chính là A Tỳ địa ngục,
đối nghịch [Tánh Đức] một trăm tám
mươi độ. Do vậy, đấy mới là diệu
pháp.
Gia Tô (Jesus) cũng
giảng kinh, hoằng pháp, dạy học. Ông ta bị kẻ khác hại
chết, cho nên nói thông thường, thời gian ông ta dạy học
khá ngắn, chỉ có ba năm. Mục Hăn Mặc Đức
(Mohamed, Muhammad) dạy học hơn hai mươi năm. Những vị
sáng lập tôn giáo ấy, ai nấy đều có thể nói
ra thiện đạo, đều theo đuổi công tác
giáo dục. V́ sao những lời
do các vị ấy nói ra có thể cảm động người khác như vậy? Có nhiều
người học theo họ như vậy? Măi cho
đến hiện thời, vô số người hướng
theo họ là do nguyên nhân ǵ? Trong các buổi giảng, tôi
cũng thường nói, bản thân họ đă làm
được. Làm ǵ vậy? Tùy thuận Tánh Đức.
Đối với Ngũ Luân, Ngũ Thường, Bát Đức
như người Hoa đă nói, họ đều làm
được! Đă làm được rồi mới nói,
đấy là thánh nhân. V́ thế, có thể khiến cho kẻ
khác cảm động, có nhiều người ngần ấy
học tập họ. Nếu đă nói rồi bèn có thể
làm được; đấy là hiền nhân, là Bồ Tát.
Quư vị nói xong, chẳng làm được, tức là gạt
người; đó là phàm phu. Do vậy, người ta nghe quư vị
nói, nh́n vào sự hành tŕ của quư vị, sẽ hoài nghi:
“Ngươi nói hay như thế, bảo ta làm, v́ sao
ngươi không làm?” Người ta chẳng
thể tin tưởng quư vị. Phàm và thánh sai khác ở chỗ
này!
Hiện thời,
tôn giáo cũng nhờ các phương thức khoa học kỹ
thuật mà tuyên truyền đắc lực, thuận tiện
hơn quá khứ quá nhiều! Nhưng nhân tài trong tôn giáo thua
xa quá khứ, nguyên nhân ở chỗ nào? Mê mất tự
tánh, tham cầu tiếng tăm, lợi dưỡng, chẳng
thể thật sự buông xuống vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước. Vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước là cái nhân của sự luân hồi trong
lục đạo. Nói cách khác, cái tâm ấy gọi là tâm luân
hồi. Hễ quư vị c̣n có vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước, th́ là tâm luân hồi. [Nghiệp] tạo
bởi cái tâm luân hồi th́ gọi là “nghiệp luân hồi”.
Nếu [tâm của] quư vị đă là tâm luân
hồi, dẫu hằng ngày lạy Phật, hằng ngày tụng
kinh, hằng ngày niệm Phật, thưa cùng quư vị, quư vị
vẫn đang tạo nghiệp luân hồi! Kinh Lăng
Nghiêm đă nói về cái tâm như sau: “Nhân địa bất chân, quả chiêu vu khúc” (Do
cái nhân chẳng thật, sẽ chuốc lấy cái quả
cong vạy). Nếu quư vị là Phật tâm, bất luận
làm chuyện ǵ, cũng đều là Phật pháp, đều
là diệu pháp. V́ thế, câu nói của Văn Thù Bồ Tát
trọng yếu lắm: “Khéo
dùng cái tâm”, quư vị phải dùng chân tâm.
Chân tâm là ǵ? Chân
thành tâm, thanh tịnh tâm, b́nh đẳng tâm, chánh giác tâm, từ
bi tâm, đấy là chân tâm. Những thứ ấy gọi gộp
chung lại là “đại
Bồ Đề tâm”. Bồ
Đề (Bodhi) là tiếng Phạn, có nghĩa là Giác, thật
sự giác ngộ, triệt để giác ngộ. Hễ quư
vị dấy lên ư niệm, quyết định tương ứng với
tâm này (Bồ Đề tâm), [tức là tương ứng với]
chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi, bất
luận tạo nghiệp ǵ cũng đều là tịnh
nghiệp, bất luận tu pháp nào, cũng đều là diệu
pháp, rốt ráo thanh tịnh! Chớ nên không hiểu đạo
lư này! Rốt ráo thanh tịnh đương nhiên là b́nh
đẳng. Tôi viết mười chữ, hễ đạt
được một, những điều kia thảy
đều trọn đủ. Tâm thanh tịnh chắc chắn
sẽ chân thành; không chân thành, sẽ chẳng thanh tịnh.
Tâm thanh tịnh quyết định là b́nh đẳng, bất
b́nh đẳng sẽ không thanh tịnh. Tâm thanh tịnh quyết
định là Chánh Giác. V́ sao? Kẻ mê sẽ chẳng thanh tịnh!
Tâm thanh tịnh nhất định từ bi. Có ư niệm
ích kỷ, lấy đâu ra thanh tịnh? V́ thế, đạt
được một thứ, sẽ thảy đều
đạt được.
Trong giáo pháp Đại
Thừa, Thiền Tông, Tánh Tông thiên trọng Giác, tức Chánh
Giác. V́ thế, nói là “nhập
môn có thể khác nhau”, nhưng hễ đạt
được một th́ toàn bộ đều đạt
được. Do vậy, đức Phật mới nói: “Pháp môn b́nh đẳng, chẳng
có cao thấp”. Giáo Hạ thực hiện từ chánh tri
chánh kiến, thực hiện từ b́nh đẳng. B́nh
đẳng là Chánh, tức chánh tri chánh kiến; Tịnh
Độ Tông và Mật Tông thực hiện từ thanh tịnh.
Do vậy, Phật pháp đến cuối cùng là ba môn, tức
là ba môn Giác, Chánh, Tịnh. Các đồng học học Phật
đều biết, quư vị vừa vào cửa Phật, bèn
truyền trao Tam Quy Y cho quư vị. Tam Quy Y chính là đem ba
môn (Giác, Chánh, Tịnh) trao cho quư vị. Đấy là cửa
nẻo để nhập Phật, mà cũng là đạo
thành Phật. Do [mỗi môn trong] ba môn đều có thể
nhập môn, do ba môn đều có thể thành Phật. Hễ
nhập một môn, thảy đều nhập. Giống
như một căn nhà có ba cửa, bất luận quư vị
theo cửa nào để tiến vào, những ǵ quư vị
đạt được hoàn toàn tương đồng!
Niệm Phật,
phải biết mục đích niệm Phật ở chỗ
nào? Cách niệm là như thế nào? Quư vị hiểu kinh Di
Đà đă dạy: “Nhất
tâm bất loạn, tâm chẳng điên đảo”. Đấy
là mục đích niệm Phật của chúng ta. Người
niệm Phật cầu nhất tâm bất loạn. Nhất
tâm bất loạn là thanh tịnh rốt ráo. Tâm chẳng
điên đảo, trí huệ liền sanh. Chẳng
mê, sẽ chẳng có lầm lỗi. Phương pháp
được vận dụng đúng là “diệu pháp”, phương pháp ǵ vậy? Niệm
Phật. Cớ sao niệm Phật là diệu pháp? Quư vị
hăy suy ngẫm thí nghiệm với nước của ông
Giang Bổn Thắng sẽ biết: “Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”.
Hằng ngày quư vị tưởng Phật, tuyệt diệu
lắm! Sự thù thắng ấy chẳng có cách nào so sánh
được! Niệm nào tâm cũng là Phật, niệm
nào hạnh cũng là Phật, niệm nào nói năng cũng
đều là Phật. Đó gọi là “một niệm tương ứng một niệm Phật,
niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”.
Khắp pháp giới hư không giới, không ǵ chẳng phải
là cảnh giới Phật! Cảnh giới Phật hiện
tiền thù thắng khôn sánh! Niệm Bồ Tát, pháp giới
Bồ Tát sẽ hiện tiền!
Hiện thời,
đại chúng trong xă hội niệm ǵ? Họ chẳng niệm
Phật, mà cũng chẳng niệm Bồ Tát, niệm ǵ vậy?
Niệm tiền, tham tài, niệm những thứ ấy! Hết
thảy đều nh́n thành tiền, sau tiền sẽ là ǵ?
Là địa ngục, là
ngạ quỷ, niệm tới những
chỗ đó. Niệm nào cũng đều là Phật, sau
đấy là thế giới Cực Lạc, là thế
giới Hoa Tạng, là Nhất Chân pháp giới, quư vị thấy
thù thắng lắm! Đấy mới là rốt ráo thanh tịnh.
Do vậy, pháp Niệm Phật mầu nhiệm tột bậc!
Trong kinh Vô Lượng Thọ, Thích Ca Mâu Ni Phật đă giới
thiệu, lăo nhân gia giới thiệu, hết thảy chư
Phật đều khẳng định, tán thán A Di Đà Phật
là “quang trung cực tôn, Phật
trung chi vương” (quang minh tột bậc tôn quư, vua
trong các vị Phật). V́ sao tán thán như vậy?
Phương pháp của Ngài quá khéo, một câu Phật hiệu,
tột cùng mầu nhiệm!
Ở chỗ này, “đương nguyện chúng
sanh, giai đắc diệu pháp” (nguyện cho chúng sanh,
đều đắc diệu pháp), có phải là một câu
Phật hiệu hay không? Đúng thế, chẳng sai tí nào! Cớ
sao biết? Cuối kinh Hoa Nghiêm đă nói về năm
mươi ba lần tham học của Thiện Tài đồng
tử. Trong lần tham học cuối cùng, Thiện Tài tham
phỏng Phổ Hiền Bồ Tát. Mười đại nguyện
vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về Cực
Lạc. Lại quan sát cặn kẽ, trong năm mươi
ba lần tham học của Thiện Tài đồng tử,
vị [thiện tri thức
được] tham phỏng thứ
nhất là tỳ-kheo Đức Vân, dạy Thiện Tài pháp môn ǵ? Pháp môn Niệm Phật. Người Hoa
thường nói “tiên nhập vi
chủ” (những ǵ được tiếp xúc đầu
tiên sẽ là chủ yếu), vị thầy thứ nhất
quan trọng nhất. Ngài dạy quư vị pháp môn này, pháp ấy
sẽ là pháp môn tu tập chủ yếu suốt đời
quư vị. Pháp cuối cùng là dẫn về Cực Lạc.
Quư vị thấy: Một đầu, một cuối, khẳng
định diệu pháp chính là Tŕ Danh Niệm Phật, rốt
ráo thanh tịnh.
Pháp môn vô lượng
vô biên. Trong vô lượng vô biên [pháp môn], t́m ra một
diệu pháp thật sự, diệu pháp bậc nhất,
thanh tịnh rốt ráo, chẳng dễ dàng! Đúng là do thiện
căn, phước đức, nhân duyên đă tu tập,
tích lũy từ vô lượng kiếp đến nay,
đời này chúng ta mới có thể gặp gỡ! Cổ
đại đức đă bảo Đại Phương
Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh được gọi là Đại
Bổn của kinh Vô Lượng Thọ, kinh Vô Lượng
Thọ là Trung Bổn của kinh Hoa Nghiêm, kinh Di Đà là Tiểu
Bổn của kinh Hoa Nghiêm. Cổ đại đức
đă coi ba bộ kinh ấy là một Thể, đồng bộ (cùng một bộ), một đằng nói tỉ mỉ, một đằng
nói giản lược. Kinh Di Đà đơn giản,
nhưng nội dung của kinh Di Đà và nội dung của
kinh Hoa Nghiêm chẳng hai, chẳng khác. Nói cặn kẽ là
kinh Hoa Nghiêm, nói đại lược là kinh Di Đà.
Chúng ta may mắn,
nghiễm nhiên gặp gỡ trong đời này. Được
gặp gỡ chẳng dễ dàng đâu nhé! “Thân người khó được, Phật pháp khó
nghe”. Đă gặp, nhất định phải nắm lấy,
quyết định thành tựu trong đời này, chẳng
c̣n phải luân hồi nữa. C̣n luân hồi th́ sai mất rồi.
Tôi hy vọng các đồng học chúng ta hăy khích lệ lẫn
nhau. Quư vị thấy đó: Cầm trên tay một cái bàn chải
đánh răng, trong ấy c̣n có đại học vấn
như thế đấy! Nay đă hết thời gian rồi,
chúng ta nghỉ ngơi mấy phút!
**
Chư vị pháp
sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi
xuống. Xem tiếp bài kệ thứ hai trong đoạn thứ
năm:
(Kinh) Tước
dương chi thời, đương nguyện chúng sanh, kỳ
tâm điều tịnh, phệ chư phiền năo.
(經)嚼楊枝時。當願眾生。其心調淨。噬諸煩惱。
(Kinh: Khi nhằn nhành
dương, nguyện cho chúng sanh, tâm họ điều tịnh,
cắn các phiền năo).
Đây là khi
đánh răng, trong phần trước là cầm bàn chải
đánh răng trên tay. Hiện thời, chẳng dùng nhành
dương. Đây là trong khi đang súc miệng, “đương nguyện chúng
sanh, kỳ tâm điều tịnh”, [có nghĩa là]
đang trong lúc làm sạch răng, hy vọng
hết thảy chúng sanh có thể điều ḥa cái tâm thanh
tịnh. Chữ Phệ (噬,cắn) có ư
nghĩa “khí thô, thủ tinh”
(棄粗取精), tức là những cái thô tháo chúng ta bỏ đi, giữ
lấy những ǵ tinh tế. Ở đây là “vứt bỏ ô nhiễm, giữ
lấy thanh tịnh”. Nói thông thường, sẽ là “giữ
lấy sự thanh khiết”. Răng phải sạch, chẳng
thể có thứ ǵ dính bám vào chân răng. Quan trọng nhất
là nướu răng và chân răng, chỗ răng và nướu
tiếp xúc là quan trọng nhất. Khi đánh răng,
cũng đặc biệt chú trọng những chỗ này.
V́ thế, bàn chải đánh răng không phù hợp, quá cứng,
lông bàn chải quá cứng sẽ chẳng phù hợp cho lắm.
Hăy nên mềm một tí. Tuổi càng lớn, càng phải dùng
thứ mềm hơn. Phải
thường xuyên chà sạch như thế, đặc biệt
là sau khi ăn thứ ǵ đó, đều phải đánh răng, súc miệng, phải dưỡng thành
một thói quen tốt đẹp như vậy!
Ở đây, sánh
ví những thứ dơ bẩn như phiền năo. Trong tâm
có phiền năo, giống như răng chứa đựng những thứ không sạch. Chúng ta biết nướu
răng và chân răng dễ ẩn chứa vi khuẩn nhất. Vi khuẩn
rất nhỏ, đặc biệt là những loại vi khuẩn có hại cho thân thể, nhất định
phải tẩy sạch, dùng nước xối đi. Trong
khi ấy, ở đây, Bồ Tát dạy chúng ta, cầm bàn
chải đánh răng bèn dẫn phát đại nguyện
như thế nào? Trong khi đánh răng, lại sanh khởi
đại nguyện như thế nào? “Đương nguyện chúng sanh, kỳ tâm điều
tịnh” (Nguyện cho chúng sanh tâm điều ḥa, thanh tịnh).
Cái tâm ấy chẳng phải là chân tâm, chân tâm sẽ chẳng
cần điều ḥa cho thanh tịnh, vọng tâm [mới cần]!
Kinh Hoa Nghiêm nói rất dễ hiểu, vọng tâm là cái tâm
ǵ? Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước.
Chúng ta phải biết, trong kinh Đại Thừa, vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước đều
được gọi là phiền năo! Vọng tưởng
là Vô Minh phiền năo. Nói theo giáo pháp Đại Thừa, phân
biệt là Trần Sa phiền năo, chấp trước là Kiến
Tư phiền năo. Các đồng học học Phật
cũng chẳng xa lạ những danh tướng này, đều
rất quen thuộc!
Đoạn phiền
năo, chứng Bồ Đề, Bồ Đề là giác tánh,
là Bổn Giác. Trong Khởi Tín Luận có nói: “Bổn Giác vốn có, bất giác vốn không”. Kiến
Tư, Trần Sa, Vô Minh vốn chẳng có, vốn là Không.
Nói cách khác, vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước vốn chẳng có, cớ sao trong tâm quư vị
có những thứ ấy? Lục Tổ Huệ Năng
đại sư đă nói rất rơ ràng: Chân tâm “vốn chẳng có một vật”.
Vốn chẳng có một vật là chân tâm. Hễ có một
vật, sẽ là vọng tâm, chẳng phải là chân tâm. Chân
tâm là “vốn chẳng có một
vật, chỗ nào nhuốm bụi trần”. Nếu có một vật, sẽ nhuốm bụi trần! Chúng ta phải
nghĩ thông suốt, phải tham thấu triệt chân tướng
sự thật này; sau đấy, quư vị biết buông xuống
như thế nào!
Giáo pháp Đại
Thừa đă nói rất hay, đối với thế xuất
thế pháp (pháp thế gian và xuất thế gian) chẳng
c̣n chấp trước nữa, đă buông xuống chấp
trước, trong Phật pháp, sẽ là chứng quả A La
Hán, vượt thoát lục đạo. Quư vị mới hiểu,
hễ có chấp trước th́ có lục đạo luân hồi.
Chẳng chấp trước, sẽ chẳng có lục
đạo luân hồi. Chấp trước là Kiến
Tư phiền năo. Chẳng có chấp trước, nhưng
c̣n có phân biệt, phân biệt là Trần Sa phiền năo. C̣n
có phân biệt, phân biệt nhẹ hơn chấp trước;
do [c̣n có] phân biệt, vẫn chẳng thể kiến
tánh. Vượt thoát lục đạo luân hồi, trên lục
đạo luân hồi c̣n có bốn pháp giới, tức Thanh
Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật. Người không chấp
trước sẽ đạt đến tứ thánh pháp giới
ấy! V́ sao c̣n có bốn pháp giới? Do mức độ
phân biệt cạn hay sâu khác nhau. Tâm phân biệt nặng nề,
sẽ là A La Hán, hoặc Bích Chi Phật. Tâm phân biệt rất
nhẹ, th́ là Bồ Tát, Phật. Nó (cái tâm phân biệt) có bốn
đẳng cấp. Cùng một đạo lư, chấp
trước có nhẹ hay nặng khác nhau. Chấp trước
nặng nhất là địa ngục. Chấp trước
nhẹ nhất là thiên đạo. Càng lên cao hơn, chấp
trước càng nhẹ; càng đi xuống, chấp trước
càng nặng. Chấp trước chẳng phải là chuyện
tốt đẹp. Người nào chẳng chấp trước?
Chẳng chấp trước bèn chứng A La Hán, thoát khỏi
lục đạo luân hồi. Chớ nên không hiểu chuyện
này, chớ nên không có sự cảnh giác cao độ, phải
biết chỗ tai hại quá lớn này!
Đối với
kẻ khác, chúng ta có chấp trước hay không? Ta thích
người này, ta ghét người kia, chấp trước
đấy! Ta đối xử tốt với người
này, đối với người kia chẳng tốt.
Đối với người, đối với sự,
đối với vật, thứ ǵ cũng đều chấp
trước, quư vị c̣n có thể thoát khỏi luân hồi
ư? Dẫu niệm Phật, vẫn chẳng thể văng
sanh! V́ sao chẳng thể văng sanh? Chẳng buông xuống chấp
trước! Đới nghiệp văng sanh, chư vị nhất
định phải hiểu, chính là mang theo cựu nghiệp.
Cựu nghiệp là ǵ? Tập khí vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước th́ được, chẳng
thể mang theo [những nghiệp] hiện hành. Hiện
hành, [tức là] nay quư vị vẫn phát tác, những thứ
ấy sẽ chẳng có cách nào mang theo. Nếu những thứ
ấy đều có thể mang theo, ai nấy đều
văng sanh cả rồi! Chớ nên không biết điều
này! Do vậy, đối với đạo tràng, chư vị
phải thường xuyên nghĩ, đạo là ǵ? Ở
nơi chốn ấy, mọi người đều tu
đạo. Đạo là buông xuống hết thảy bất
thiện, buông xuống hết thảy những thứ ǵ chẳng có trong tâm tánh, vậy th́ c̣n có thể chấp trước ư?
Trong Tam Quy Y, “quy y Tăng, chúng trung tôn”, [hăy suy xét] ư nghĩa của
chữ Tăng, Tăng là tiếng Phạn, là tiếng cổ
Ấn Độ, ư nghĩa của nó là như nay ta nói là “đoàn thể”. Tăng là
đoàn thể. “Chúng trung tôn”
(眾中尊), Chúng (眾) là đoàn thể, mọi người ở chung một
chỗ chẳng phải là đoàn thể ư? Nhưng
đoàn thể Tăng ấy nhất định là phải
tu Lục Ḥa Kính th́ mới gọi là Tăng. Chẳng có Lục
Ḥa Kính, sẽ chẳng gọi là Tăng. V́ thế, Tăng
chẳng nhất định là người xuất gia! Quư
vị tại gia học Phật. Đức Phật nói từ
bốn người trở lên cùng tu với nhau, trong gia
đ́nh quư vị, hai vợ chồng cùng với hai đứa
con nhỏ là bốn người. Cả nhà tu Lục Ḥa
Kính, gia đ́nh ấy gọi là Tăng đoàn. Trong tất
cả các đoàn thể, đoàn thể ấy đáng tôn
kính nhất, nay chúng ta nói Tôn (尊) là tôn kính, đáng tôn kính nhất. V́ sao đáng tôn kính
nhất? V́ bốn người quư vị đối xử
ḥa thuận!
Điều kiện
đầu tiên của sự ḥa thuận là Kiến Ḥa Đồng
Giải. Đức Phật thật sự cao minh đến
cùng cực! Hành động, lời dạy của Ngài chắc
chắn tương ứng với Pháp Tánh. Kiến Ḥa Đồng
Giải tương ứng với Pháp Tánh là ǵ? Chẳng có
ư kiến, kiến ḥa sẽ đồng giải. Tôi có ư kiến
của tôi, kẻ khác có ư kiến của họ, làm sao có thể
ḥa hợp cho được? Tất cả các ư kiến toàn là vọng
tưởng. Trong phần trước, tôi đă thưa bày
cùng chư vị, trong Đàn Kinh có nói: “Vốn chẳng có một vật”. Cớ sao quư vị
có ư kiến? Quư vị có ư kiến, tức là có một vật;
mỗi cá nhân đều có một vật, một vật ấy
sẽ chẳng giống nhau. Do vậy, Phật pháp kiến
lập trên [cơ sở] mọi người đều vứt
bỏ thành kiến. Kiến Ḥa Đồng Giải, sẽ
là công bằng. Nói kiểu này hay quá! Do vậy, đức Phật
hoàn toàn chẳng nói cách nghĩ và cách nh́n của quư vị là
sai lầm, nhất định phải vâng theo [cách nghĩ,
cách nh́n] của ta. [Nếu Ngài nói vậy], chẳng phải
là đức Phật hoành hành bá đạo ư? Ai sẽ bội
phục Ngài? Do vậy, đức Phật cao minh!
Khởi tâm động
niệm là sai lầm! Quư vị thấy trong tự tánh, tôi vừa
mới nói, chẳng có chấp trước, chấp trước
thảy đều buông xuống. Đấy chẳng phải
là Kiến Ḥa Đồng Giải hay sao? Nhưng như thế
nào? C̣n có phân biệt, c̣n có vọng tưởng, những thứ
ấy chẳng nghiêm trọng! Nghiêm trọng nhất là chấp
trước. Chẳng chấp trước, đại khái
là sẽ chẳng có vấn đề ǵ to lớn. Nhưng
vẫn phải tiến cao hơn, tiến tới mức
phân biệt cũng chẳng có. Không chỉ là chẳng chấp
trước, mà phân biệt cũng chẳng có, quư vị vào
trong tứ thánh pháp giới, tức là Bồ Tát và Phật
trong tứ thánh pháp giới. Tông Thiên Thai gọi vị Phật
ấy là Tương Tự Tức Phật, Ngài thuộc
địa vị Tương Tự, chẳng phải là thật.
V́ sao chẳng phải là thật? Ngài chưa buông vọng
tưởng xuống! Vọng tưởng là ǵ? [Chính là] khởi
tâm động niệm.
Chúng ta lắng ḷng
tư duy cẩn thận, mắt ta thấy sắc tướng
bên ngoài, tai nghe âm thanh, có khởi tâm động niệm hay
chăng? Tuy khởi tâm động niệm, vẫn chẳng
có phân biệt, vẫn chẳng có chấp trước, khi ấy
là vô minh, v́ c̣n khởi tâm động niệm. Chư vị
phải ghi nhớ, tuy khởi tâm động niệm, vẫn
chẳng dấy lên phân biệt, chấp trước,
nhưng vẫn chẳng thoát khỏi mười pháp giới
v́ chẳng phá vô minh! Phá vô minh là ǵ? Lục căn tiếp
xúc cảnh giới lục trần, chẳng khởi tâm,
không động niệm, chẳng dễ hiểu! [Để
giải thích] “không khởi tâm, không động niệm”, cổ
nhân dùng một tỷ dụ, tỷ dụ rất hay! Tâm giống
như một tấm gương. Quư vị thấy tấm
gương soi cảnh giới bên ngoài, nó có khởi tâm
động niệm hay không? Chẳng có! Tuy chẳng có khởi
tâm động niệm, nhưng [gương chiếu soi] cảnh
giới bên ngoài rành mạch, rơ ràng. Đấy là vô minh đă phá! Chúng
ta hăy xem lại thí dụ mà tôi vừa mới nói với mọi
người, một chén nước! Ông Giang Bổn Thắng
thí nghiệm với chén nước! Nước chẳng có
phân biệt, chẳng có chấp trước, nó có khởi
tâm động niệm hay không? Nó có! Chúng ta dùng thiện niệm
đối với nó, nó sẽ có phản ứng. Đối
với nó bằng ác niệm, nó cũng có phản ứng, phản ứng của nó là khởi tâm động niệm,
nhưng nó chẳng có phân biệt, chấp trước. V́ thế, các
thứ vật chất là ǵ? Hiện tượng vật chất
là do vô minh biến hiện. “Vô
minh bất giác sanh tam tế, cảnh giới làm duyên
tăng trưởng lục thô”.
Nếu sau khi
đă phá trừ vô minh, sẽ có cảnh giới bên ngoài hay
chăng? Chẳng có! Đấy là giả tướng. Những
tướng ấy sanh từ ǵ vậy? Sanh từ vô minh, chấp trước,
phân biệt, khiến cho hiện tướng nẩy sanh biến
hóa. Khó có lắm! Nay từ khoa học, chúng ta đă có chứng
minh [chứng tỏ] lời Phật dạy chẳng sai tí
nào! [Điều này] khiến cho chúng tôi nghĩ tới thời
cổ, chẳng có khoa học kỹ thuật, [thế mà] cổ
nhân có thể hiểu rơ, họ thông minh hơn chúng ta nhiều
lắm! Chúng ta chẳng có trí huệ cao như vậy,
nhưng do khoa học giúp đỡ, khiến cho chúng ta hiểu
rơ cảnh giới do đức Phật đă nói, sanh khởi
tín tâm! Nay chúng ta thấy toàn thể vũ trụ là hiện
tượng do vô minh biến hiện, do phân biệt và chấp
trước lại nẩy sanh biến hóa. Từ chỗ
này, chúng ta hăy suy nghĩ: Cái gọi là thế giới Hoa Tạng,
Nhất Chân pháp giới, Pháp Tánh Độ, chẳng kèm theo
vô minh, báo độ ấy quá thù thắng. Điều chư Phật
chứng đắc, mỗi người chúng ta đều
vốn có, cũng chẳng hiếm hoi, lạ lùng tí nào! Chỉ
cần buông xuống vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước, cảnh giới sẽ hiện tiền. Quư vị
thấy nói dễ dàng
lắm, sự thật xác thực là
như thế đó. Phàm phu thành Phật ngay trong một niệm,
chuyển biến trong một niệm ấy, phàm phu bèn thành
Phật. Khi một niệm đă mê, sẽ biến thành phàm
phu. Mê càng nặng, sẽ đọa càng sâu, đạo lư là
như thế đó!
Trong cảnh giới
hiện thực, tôi, bạn, kẻ khác, ba
người ở cùng với nhau, cảnh giới của
ba cá nhân chẳng giống nhau. Thế giới của ba cá
nhân, tức là trong cảnh giới ấy, ba người
chúng ta có sự cảm nhận khác nhau. Có người cảm
nhận khổ, có người cảm nhận lạc, có
người cảm nhận khổ lẫn lạc đều
chẳng có. Nếu quư vị hỏi do nguyên nhân ǵ ư? Câu
trả lời chính là câu nói của Văn Thù Bồ Tát trong
phần trước, “thiện
dụng kỳ tâm” (khéo dùng cái tâm). Dụng tâm bất
đồng, cảm thọ của quư vị sẽ khác nhau. Có thật sự thọ
hay không? Chẳng thật! Trong kinh giáo, đức Phật
đă nói rất rơ ràng, [các
thứ cảm thọ là] khổ,
lạc, ưu, hỷ, xả. Trong tâm bọn phàm phu có
ưu, hỷ, thân có khổ, lạc. Ngay trong lúc không khổ,
không lạc, không ưu, không hỷ, bèn gọi là Xả. Xả
Thọ là b́nh thường, nhưng thời gian [tồn tại
của Xả Thọ] rất ngắn, [chỉ là] trong
sát-na, được một lúc, [những cảm thọ khổ,
lạc, ưu, hỷ] lại dấy lên. Nếu vĩnh viễn
giữ được Xả Thọ, tâm chẳng có ưu hỷ,
thân chẳng có khổ lạc. Đó gọi là tam-muội,
là Chánh Thọ, tức là sự hưởng thụ b́nh
thường. Sự hưởng thụ b́nh thường
chính là chân lạc, là Cực Lạc. Nói các khác, chẳng có cảnh
giới tương đối. Tương đối là
hai; chẳng có tương đối, sẽ là pháp môn Bất
Nhị. Pháp môn Bất Nhị chính là Nhất Chân pháp giới,
là thế giới Cực Lạc, là thế giới Hoa Tạng,
pháp môn Bất Nhị mà! Chúng ta rớt vào Hai! Rất lắng
ḷng tư duy cảnh giới ấy, quư vị có thể lănh
hội đôi chút, lănh hội phảng phất.
Chúng ta nỗ lực
như thế nào để khế nhập cảnh giới
ấy? Chẳng có ǵ khác! Thầy dạy chúng ta buông xuống.
Buông xuống rồi lại buông xuống nữa th́ quư vị
mới có thể khế nhập. Quư vị chẳng chịu
buông xuống, sẽ vĩnh viễn chẳng thể khế
nhập. Trước tiên, buông xuống chấp trước
đối với hết thảy người, sự, vật.
Đức Phật dạy chúng ta, tâm tánh là b́nh đẳng,
hết thảy chúng sanh vốn trọn đủ. Chúng sanh
và Phật chẳng sai khác mảy may, nhưng Phật
đă buông xuống toàn bộ những vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước. Sở dĩ chúng sanh trở thành chúng sanh, là do không chịu buông xuống vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước! Chuyện
này kẻ khác chẳng thể giúp được, v́ sao? Vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước sanh khởi
từ trong tâm của chính quư vị, vẫn phải do chính
quư vị tự buông xuống! Nếu quư vị tùy thuận
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, tức
là quư vị tùy thuận lục đạo luân hồi. Hễ
quư vị buông chúng xuống, sẽ thoát khỏi lục
đạo luân hồi, lục đạo luân hồi chẳng
c̣n nữa. Chẳng chấp trước, sẽ chẳng có
lục đạo!
Do vậy, Vĩnh
Gia đại sư đă nói rất hay: “Mộng lư minh minh hữu lục thú” (Trong mộng
rành rành phô sáu nẻo). Mộng là mê hoặc, có vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước. “Giác hậu không không vô đại
thiên” (Giác rồi ba cơi rỗng toang hoang). Đă hiểu rơ
điều này, buông xuống! Buông xuống vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước, lục đạo và
mười pháp giới sẽ đều chẳng có! Do vậy,
lục đạo và mười pháp giới đều là
huyễn tướng. Trong kinh, đức Phật đă nêu
tỷ dụ rất hay: “Mộng,
huyễn, bọt, bóng”, chỗ nào là thật? Nhất Chân
pháp giới là thật, mười pháp giới và lục
đạo là giả, là cảnh giới trong mộng, chúng
ta phải giác ngộ! Hằng ngày học kinh giáo, hằng
ngày đều nghe, v́ sao vẫn chẳng giác? Điều
then chốt là không buông xuống được! Đối
với người, đối với sự, đối với
vật, hễ có một chuyện chẳng buông xuống, sẽ
là đại chướng ngại, chướng ngại
quư vị vượt thoát lục đạo, chướng
ngại quư vị văng sanh Tịnh Độ.
Từ những việc
vặt vănh này, [chẳng hạn như] chúng ta tẩy sạch
hàm răng, sẽ nghĩ hết thảy chúng sanh làm thế
nào để điều ḥa, thanh tịnh cái tâm. “Chư phiền năo” là vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, là Kiến
Tư, Trần Sa, Vô Minh. “Phệ”
(噬, cắn) ở đây có thể nói là “buông xuống”.
Ba thứ phiền năo đều buông xuống, thành Phật!
Trong phần trước, kinh Hoa Nghiêm đă nói rất rơ
ràng: Quư vị trở về Nhất Chân pháp giới. Nhất
Chân pháp giới mới là quê cũ của chính ḿnh. Trở về
Nhất Chân pháp giới, kinh Hoa Nghiêm nói trong Nhất Chân pháp
giới c̣n có bốn mươi hai tầng cấp, bốn
mươi hai tầng cấp ấy có thật hay chăng?
Thưa cùng chư vị, chẳng thể nói là có, chẳng
thể bảo là không có! Nếu quư vị nói là có, xác thực
là chẳng có, nơi Sự chẳng có, nhưng Lư th́ có. Cớ
sao nơi Lư th́ có? Chẳng đoạn tập khí vô minh! Vô
minh đă đoạn, quư vị mới vượt thoát
mười pháp giới, nhưng tập khí vô minh chưa
đoạn.
Tập khí có trở
ngại sự hay không? Chẳng trở ngại sự! Tập
khí vô minh chẳng trở ngại sự, nó cũng chẳng
khởi tác dụng ǵ, nhưng nó là có. Đoạn bằng
cách nào? Chẳng có bất cứ phương pháp nào cả! Hễ
có phương pháp, sẽ lại khởi tâm động niệm!
Quư vị phải biết, người trong Nhất Chân pháp
giới chẳng khởi tâm, không động niệm,
đương nhiên là chẳng có phân biệt, chấp
trước, họ tu bằng cách nào? Chẳng tu, cứ
để một thời gian dài, sẽ dần dần tự
nhiên chẳng có! V́ thế, cổ nhân đă nêu tỷ dụ
rất hay, dùng b́nh rượu. B́nh rượu đựng
rượu, đổ sạch rượu đi, lau chùi sạch
bóng. Xác thực là chẳng có tí rượu nào! Chẳng có một
giọt! Ngửi thử, vẫn c̣n có mùi. Mùi rượu ấy
gọi là tập khí. Đổ sạch rượu đi
[ví như] thành Phật. Trong mỗi cái b́nh đều sạch
bóng, nhưng có b́nh đổ trước, có cái đổ
sau. Đổ trước, ngửi thử, nhạt mùi
hơn. Đổ sau, ngửi thử, hương vị nồng
hơn đôi chút. Đấy là c̣n có sai khác, đạo lư là
như vậy đó. Có sạch hay không? Thảy đều
sạch!
Do vậy, đối
với bốn mươi mốt tầng cấp, chẳng thể nói là Có, chẳng thể bảo là Không, v́ nơi Sự chẳng có,
nhưng Lư th́ có! Phải đến khi nào mới thật sự
chẳng có tập khí? Trong kinh, đức Phật thường
nói là ba đại A-tăng-kỳ kiếp, thời gian dài
như vậy đó! Chúng ta có thể tưởng tượng
điều này. V́ quư vị có thể làm thí nghiệm. Thí
nghiệm ấy chính là đối với bốn
mươi hai tầng cấp, quư vị có thể dùng bốn
mươi hai cái b́nh đựng rượu, thảy đều
đổ hết rượu đi, lau chùi sạch,
nhưng như thế nào? Mỗi ngày đổ một b́nh,
có trước sau. Đại khái là để sau ba tháng, quư
vị ngửi xem, b́nh nào chẳng có tí mùi ǵ, lại ngửi
cái b́nh kia, c̣n có mùi đôi chút. Quư vị sẽ hiểu đạo
lư này!
Đức Phật
dạy chẳng sai! Sau ba đại A-tăng-kỳ kiếp,
sẽ hoàn toàn chẳng có [tập khí nữa], bèn gọi là vị
Phật viên măn rốt ráo! Do vậy, chư vị phải
biết, rốt ráo viên măn Phật và Phần Chứng Tức
Phật, nói thật ra, trí huệ, đức năng và
tướng hảo của các Ngài chẳng có mảy may sai khác ǵ, nhưng tập khí vô minh có dầy hay mỏng
sai khác. Trừ điều này ra, chẳng có ǵ sai khác. Nhất
định phải hiểu rành mạch, rơ ràng đạo
lư này; sau đấy quư vị mới biết “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành
Phật”. Minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật [mức
độ] thấp nhất là Sơ Trụ trong Viên Giáo, phá
một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân.
Đối với vô minh [của hàng Pháp Thân Bồ Tát], nói
đến bốn mươi mốt phẩm vô minh, chính là
nói đến tập khí vô minh, nói theo kiểu như thế.
Nếu chúng ta chẳng hiểu rơ ràng những điều
này, sẽ vĩnh viễn mê trong ấy, tín tâm tu học
của quư vị chắc chắn sẽ nẩy sanh chướng ngại. Đă hiểu
rơ ràng, hiểu rành rẽ,
sẽ chẳng có chướng ngại, mới biết buông xuống là quan trọng, chẳng
c̣n chấp trước nữa!
Tu hành th́ phải
khiến cho chúng ta “điều tịnh” cái tâm (tôi đọc như vậy,
mọi người dễ hiểu), thực hiện từ
chỗ nào? Thực hiện từ [mối quan hệ] nhân sự.
Chư vị phải biết, đối với sự,
đối với vật th́ khá dễ dàng, phiền toái nhất
là con người! Con người phiền toái ở chỗ
nào? Con người phiền toái ở chỗ c̣n có túc thế
nhân duyên. Ta đối xử với người ta bằng
ḷng tốt, họ báo đáp bằng ác ư. Làm thế nào
đây? Tâm của quư vị làm sao có thể thanh tịnh cho
được? V́ thế, giáo dục nhân quả là trọng
yếu. Hôm nay và ngày mai, chúng thường trụ trong đạo
tràng xếp đặt hai buổi giảng diễn. Hôm nay bằng
tiếng Phổ Thông, ngày mai bằng tiếng Quảng
Đông, chúng tôi mời cư sĩ Chung Mậu Sâm nói về
nhân quả hiện đại với mọi người!
Quư vị hiểu
nhân quả, ta đối xử với kẻ khác bằng
ḷng tốt, người ta đáp tạ bằng ác ư. Nếu
quư vị hiểu nhân quả ba đời, sẽ cười
mà thôi! Trong quá khứ, ta xử tệ với kẻ ấy,
nay chạm mặt nhau, sẽ là oan oan tương báo! Dẫu
ta đối xử với kẻ ấy [tốt đẹp
cỡ nào], nỗi oán hận của người ấy cứ
vọt trào, chúng ta đă hiểu, chớ nên so đo, sẽ
hóa giải! Chẳng có tâm oán hận kẻ đó, chẳng
có tâm báo thù, sẽ hóa trừ. V́ thế, chuyện lớn biến
thành chuyện nhỏ, chuyện nhỏ hóa thành chẳng có!
Nếu quư vị cứ ghi trong ḷng: “Gă này chẳng thể
chơi được! Ta đối xử tốt với
hắn dường ấy, mà hắn đáp trả như
thế đó, đồ ác nhân!” Thôi rồi, món nợ ấy
vẫn c̣n. Oan oan tương báo, đời đời kiếp
kiếp chẳng hết, chẳng xong, đôi bên đều
đau khổ! Kẻ chẳng liễu giải nhân quả
ba đời, thường là như vậy, oan oan
tương báo chẳng biết khi nào mới có thể kết
thúc! Hễ giác ngộ th́ mới có thể
kết thúc! Chẳng giác ngộ, sẽ vĩnh viễn tiếp
tục báo thù, là chuyện rất khổ năo. Đă giác ngộ,
đă hiểu rơ, dẫu quư vị đối đăi tôi tệ ác cỡ nào, tôi
cũng chẳng để bụng, biết đấy là
nhân quả trong đời trước, sẽ ngay lập tức
hóa giải. Hễ hóa giải, tâm sẽ thanh tịnh, chẳng
ghim trong ḷng. Ta đối với kẻ này chẳng tốt,
người này vẫn đối xử với ta khá lắm.
Chỉ có thể t́m được câu trả lời từ
nhân quả ba đời. Thật đấy! Chẳng giả
tí nào!
Thuở trước,
tôi ở Mỹ. Nước Mỹ có một nhà tiên tri, vẫn
chẳng kể như quá
xa, ông ta đă qua đời trong
Đệ Nhị Thế Chiến. Chúng tôi có xem sách của
ông ta, xem bản dịch bằng tiếng Hán. Trong ấy, có
một câu rất quan trọng; ông ta nói: “Người trên toàn thể thế giới, bất cứ
ai, những chuyện gặp gỡ trong một đời,
bất luận cát, hung, họa, phước, nghèo, giàu, sang,
hèn, cho đến những chuyện lặt vặt trong cuộc
sống thường ngày, đều có cái nhân từ
trước!” Nói cách khác, tuyệt
đối chẳng có một chuyện nào phát sanh ngẫu
nhiên, chẳng có chuyện nào không có tiền nhân (前因, cái nhân từ trước) mà bỗng dưng phát sanh, chẳng có! Nói cách khác,
điều này phù hợp với câu nói của cổ nhân: “Nhất ẩm, nhất trác, mạc
phi tiền định” (Một hớp uống, một miếng
ăn, không ǵ chẳng định sẵn). “Một hớp
uống, một miếng ăn” là chuyện nhỏ. Uống
một ngụm nước, ăn một miếng cơm,
chuyện nhỏ nhặt mà đều có tiền nhân! Do vậy,
quư vị mới biết giáo dục nhân quả quan trọng
lắm!
Tôi nói giáo dục
xét theo h́nh thức th́ có bốn loại: Gia đ́nh, nhà
trường, xă hội và tôn giáo. Nói đến nội dung
giáo dục, tôi cũng nói bốn loại, tức là luân lư,
đạo đức, nhân quả, tôn giáo, tức là nói về chân tướng, tức chân tướng của
muôn pháp trong vũ trụ. Nội dung của bốn loại
giáo dục khác nhau, đối với bốn khoa mục ấy,
thiên trọng khoa mục nào, mỗi thứ khác nhau, cạn
hay sâu sai khác! Cạn, sâu, rộng hẹp có sai khác, đấy
là nền giáo dục tốt đẹp. Nhân quả rất
trọng yếu! Biết có nhân quả, sẽ chẳng
đối lập với người khác. Dẫu bị
thua thiệt, dẫu bị lừa gạt, dẫu bị kẻ
khác lăng nhục, hăm hại, [vẫn là] tâm b́nh khí ḥa. Biết
là ǵ? Biết là có tiền nhân!
Trong kinh, đức
Phật đă giảng rất hay, nhưng rất nhiều
kẻ sơ sót. Nói ra th́ ai nấy đều biết, hễ
gặp chuyện bèn ngay lập tức hồ đồ, chẳng
biết vận dụng như thế nào! Đức Phật
bảo chúng ta: “Dục tri tiền
thế nhân, kim sanh thọ giả thị” (Muốn biết
cái nhân trong đời trước, những ǵ hứng chịu
trong đời này chính là nó đấy). Các vị hăy suy ngẫm
câu ấy, những ǵ ta hứng chịu trong suốt một
đời này, bất luận là vật chất hay tinh thần,
những ǵ phải gánh chịu là do đời trước
đă tạo nhân! “Dục tri
lai thế quả, kim sanh tác giả thị” (Muốn
biết cái quả cho đời sau, những ǵ tạo tác trong đời này chính là
nó đấy). Quư vị muốn biết đời sau ta có
quả báo ǵ chăng? Đời này, quư vị khởi tâm
động niệm, ngôn ngữ, tạo tác chính là [cái nhân
cho cái quả trong đời sau]. Nếu quư vị tham cứu
thấu triệt hai câu ấy, dẫu giáo dục nhân quả chẳng viên
măn th́ cũng chẳng sai khác cho mấy! Lời nhận định của ông Khải Tây (Edgar Cayce) tương ứng với
điều này,
tương ứng với câu “nhất ẩm, nhất trác, mạc
phi tiền định” của cổ nhân. Quư vị xem kỹ
ba câu ấy, sẽ hiểu rơ!
Thuở
trẻ, tôi được Chương Gia đại sư giảng cho tôi nghe.
Liễu Phàm Tứ Huấn đă ban cho tôi một khải thị
rất lớn. V́ thế, sau khi tôi học Phật (từ
hai mươi sáu tuổi trở đi), tôi nghiêm túc sửa
ác hướng lành, khởi tâm động niệm chẳng c̣n nghĩ
v́ chính ḿnh, thường nghĩ thay cho người khác. Thuận
theo tuổi tác mà phạm vi nghĩ tưởng ngày càng rộng.
Đến lúc đă tám mươi tuổi, [kể từ] bảy, tám
mươi tuổi, ư niệm chuyển thành khắp pháp giới
hư không giới. Nếu nói theo giáo dục nhân quả, quả
báo trong đời sau của tôi sẽ tốt đẹp.
Tuổi già chẳng có ác niệm, chẳng có ác ngôn, chẳng
có ác hạnh. Kẻ khác hủy báng tôi cũng thế,
lăng nhục cũng thế, hăm hại cũng thế,
tôi đều hoan hỷ tiếp nhận. Không chỉ là chẳng
có sân khuể, chẳng báo thù, mà tôi c̣n có tâm cảm ơn. Cớ
sao cảm ơn? Ở trong cảnh giới ấy, giống
như được thầy khảo thí, xem thử Nhẫn
Nhục Ba La Mật, xem thử công phu Lục Độ của
tôi đă đạt đến cảnh giới nào. Hễ
kiểm tra bèn t́m ra ngay!
Trong tâm mục của
tôi, [những người đối xử với tôi ác liệt
như thế] toàn là thiện tri thức, đều giúp tôi
nâng cao cảnh giới, cớ sao tôi chẳng cảm ơn?
V́ thế, tôi đă nói, chúng ta là người học Phật,
đặc biệt tu cái tâm thanh tịnh, tu Tịnh Độ.
Nhất định là chúng ta đối với người,
đối với sự, đối với vật, chẳng
có ư niệm đối lập, điều này rất trọng
yếu. Chẳng có ư niệm đối lập mới là
b́nh đẳng. Chẳng có ư niệm khống chế, sẽ
chẳng mê hoặc. Chẳng có ư niệm chiếm hữu, sẽ
chẳng có tâm tham. Tham, sân, si phải đoạn bằng
cách như vậy! Từ trong nội tâm của chính ḿnh, chẳng
đối lập với hết thảy người, sự,
vật, chẳng đối lập với pháp thế gian
và xuất thế gian, sẽ chẳng có sân khuể. Không chiếm
hữu, sẽ chẳng có keo tham. Không khống chế, sẽ
chẳng có mê hoặc. Đoạn tham, sân, si từ chỗ
này!
Nếu cao sâu th́
tôi chẳng dám bàn tới, tối thiểu là chúng ta nói về
Kiến Tư phiền năo, kinh Hoa Nghiêm gọi [Kiến
Tư phiền năo] là “chấp trước”, [người chẳng có ư niệm đối lập, chiếm
hữu, khống chế chính là người] đă buông xuống! Niệm Phật quyết định
được văng sanh, mức độ thấp nhất
là sanh vào cơi Phàm Thánh Đồng Cư, đáng tin cậy! Khẳng
định cơi Phàm Thánh Đồng Cư là thượng bối
văng sanh. Nếu công phu tốt hơn đôi chút, sẽ sanh
vào cơi Phương Tiện Hữu Dư. V́ sao chẳng thể
tiến cao hơn? V́ quư vị chẳng đoạn vọng
tưởng, phân biệt, chỉ là đoạn Kiến
Tư phiền năo. Hăy nhớ Kiến Tư phiền năo là đối với hết
thảy người, sự, vật trong thế gian và xuất
thế gian, chẳng có đối lập, chẳng có khống
chế, chẳng có chiếm hữu. Đấy là buông xuống
Kiến Tư phiền năo. Không vận dụng công phu chân thật
ở chỗ này, tâm quư vị làm sao thanh tịnh cho
được? Tâm của quư vị làm sao an cho được?
Tâm của quư vị làm sao b́nh đẳng cho được?
Tâm an, kinh Bát Nhă nói là “viễn
ly điên đảo mộng tưởng”. Thế giới
dẫu loạn như thế nào, ta chẳng loạn. Dẫu
thế giới có tai nạn rất lớn, ta sẽ chẳng
bị, chẳng kinh sợ mảy may! Sanh tử chẳng
hai! Thế giới này hủy diệt, ta sẽ đến
chỗ tốt đẹp hơn, sẽ chẳng bị đọa
lạc! Phải hiểu đạo lư này, phải hiểu
rơ ràng, minh bạch chân tướng sự thật này! Khi nào
sẽ văng sanh? Bất cứ lúc nào cũng đều có thể
văng sanh, bất cứ chỗ nào cũng đều có thể
văng sanh, quư vị nói xem, có tự tại, có vui sướng
lắm hay chăng?
“Phệ chư phiền năo” (Cắn các phiền năo),
chúng tôi nói rơ hơn đôi chút, chính là buông xuống phiền
năo, tâm sẽ tịnh. Tâm thanh tịnh, đương nhiên
là tâm quư vị sẽ an, sẽ b́nh, quư vị đối xử
với bất cứ ai cũng đều là đối
đăi b́nh đẳng, cư xử ḥa thuận. Đấy
là điều cần thiết cấp bách trong thế giới
hiện thời, chính quư vị làm được, nêu tấm
gương rất tốt, nêu khuôn mẫu rất tốt, làm cho người khác thấy. Làm cho kẻ
khác thấy là Hóa Tha, tự hành, hóa tha! Bản thân chúng ta chẳng làm, hoặc chẳng làm được, sẽ chẳng có tác dụng
cảm hóa người khác. Chính ḿnh làm được rồi
mới có thể cảm hóa người khác.
Do vậy
có thể biết, lời cổ nhân nói có lư, “tự hành vốn là
hóa tha”. Chính
ḿnh phải nhất định hết sức nghiêm túc nỗ
lực thực hiện. Thực hiện từ chỗ nào?
Làm từ Đệ Tử Quy, làm từ Thập Thiện
Nghiệp, làm từ Lục Ḥa Kính, làm từ Sa Di Luật Nghi. Xuất gia th́ c̣n thêm Sa Di Luật Nghi, tại
gia th́ ba khoa ấy là được rồi, đă viên măn.
Đệ Tử Quy, Thập Thiện Nghiệp, Lục Ḥa
Kính là hàng tại gia Bồ Tát! Bản thân quư vị chịu
làm, đấy là đại từ đại bi. V́ sao? Tự
ḿnh làm, sẽ đánh động người khác làm theo.
Chính ḿnh chẳng làm, chính ḿnh chẳng thể thành tựu,
cũng sẽ chẳng thể cảm hóa người khác.
Chính ḿnh làm, nghiêm túc làm, nếu làm rất khá, người khác vẫn
chưa bị cảm động, tức là chính ḿnh vẫn
làm chưa đủ! Thời thời khắc khắc răn nhắc chính ḿnh, khi người khác vẫn chưa bị cảm
động, chính ḿnh phải tăng thêm nỗ lực,
chưa đủ!
Để tấn
đức tu nghiệp, nhất định phải lấy
vua Thuấn làm gương, hăy nên thường nói đến
chuyện của vua Đại Thuấn. Ở trong hoàn cảnh
mà kẻ b́nh phàm sẽ không có cách nào tiếp nhận, Ngài rèn giũa
đức hạnh trong hoàn cảnh ấy. Nghiêm túc nỗ lực
ba năm, cảm động cha mẹ và em trai, cảm
động xóm giềng, làng nước, cảm động
vị quốc vương thuở đó, tức vua Nghiêu.
Ngài có thể làm được, cớ sao ta chẳng làm
được? Ngài có thể làm được, chẳng
có chi khác! Người hoàn toàn buông xuống chính ḿnh th́ mới
có thể làm được! Nay chúng ta chẳng làm
được là v́ lẽ nào? Không chịu buông xuống,
không chịu cúi đầu trước người khác; hễ
có lỗi lầm bèn giấu giếm, chẳng chịu sám hối.
V́ thế, quư vị chẳng làm được, hoặc làm
chẳng triệt để, nguyên nhân ở chỗ này. Thật
sự chẳng làm được, mỗi khi gặp khó
khăn, hăy nghĩ đến vua Thuấn. Đấy là một
tấm gương tốt cho chúng ta. Tấn đức tu
nghiệp th́ phải học tập theo tấm ḷng, dụng
tâm, phương pháp, hiệu quả của Ngài. Cổ nhân
nói: “Nhân nhân giai khả dĩ
thành Nghiêu Thuấn” (Ai cũng đều có thể trở thành vua Nghiêu, vua
Thuấn). Chỉ sợ chính ḿnh chẳng chịu làm! Phật
pháp nói: “Hết thảy chúng
sanh đáng nên thành Phật”, v́ quư vị có Phật Tánh.
À! Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta nói tới
chỗ này!
Tập 1520
Chư vị pháp
sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi
xuống. Xin xem phẩm Tịnh Hạnh thứ mười
một, xem từ bài kệ thứ ba trong đoạn kệ
tụng thứ năm.
(Kinh) Đại tiểu tiện thời,
đương nguyện chúng sanh, khí tham, sân, si, quyên trừ
tội pháp.
(經)大小便時。當願眾生。棄貪瞋痴。蠲除罪法。
(Kinh:
Khi đại tiểu tiện, nguyện cho chúng sanh, bỏ
tham, sân, si, trừ bỏ tội pháp).
Người thế
gian, chẳng phân biệt xưa nay, chẳng phân biệt
trong ngoài nước, có thể nói là đều nhất trí
coi đại tiểu tiện như thứ dơ bẩn
nhất. Nhưng trên thực tế, thứ dơ bẩn nhất
trong pháp thế gian lại bị kẻ b́nh phàm hoàn toàn xem nhẹ. Trong kinh giáo, đức Phật thường
nói đến Tam Độc phiền năo. Tam Độc mới
là thứ dơ bẩn nhất, chẳng biết c̣n dơ bẩn
hơn đại tiểu tiện bao nhiêu lần! Có thể
nói là chẳng có cách nào sánh ví được. Dơ bẩn
đến mức độ nào? Chỉ có Phật biết,
chỉ có Bồ Tát biết, tức là như hai câu sau [trong
bài kệ này] đă nói: “Tham,
sân, si tội pháp”. Bởi lẽ, khi đại tiểu
tiện, chúng ta muốn bài trừ, gạt bỏ hết thảy
những thứ bẩn thỉu. Bồ Tát là bậc giác ngộ,
tự nhiên là có thể sanh
khởi nguyện cho hết
thảy chúng sanh trong lục đạo khắp pháp giới,
hư không giới sẽ trừ bỏ căn bản phiền
năo Tam Độc. Trong tứ thánh pháp giới chẳng có, tức
là chẳng có những món tham, sân, si này, nhưng c̣n có ǵ? Họ c̣n có Trần Sa
phiền năo, c̣n có Vô Minh phiền năo. Trong tất cả hết
thảy các phiền năo, nghiêm trọng nhất không chi
hơn tham, sân, si, xác thực là người biết chuyện
này chẳng nhiều lắm! Không bỏ tham, sân, si, Nhất
Chân pháp giới sẽ bị vặn vẹo thành ba ác đạo.
Trong giáo pháp Đại
Thừa, đức Phật thường dạy chúng ta, có
thể nói là vô số lần lặp đi lặp lại, từ
bi đến cùng tột. Đức Thế Tôn chẳng ngại
phiền, cứ nhắc đi nhắc lại từng lần
một, do nguyên nhân ǵ? Phàm phu chẳng ghi nhớ chuyện ấy,
hết sức dễ quên! Đấy là do đạo lư nào?
Ác nghiệp huân tập từ vô thỉ kiếp, đă
dưỡng thành thói quen, đối với
thứ bất hảo nhất cứ
khăng khăng tham ái, chuyện này phiền phức lắm!
Trong pháp thế gian, tiếng tăm, lợi dưỡng,
ngũ dục, lục trần chính là đối tượng
của tham, sân, si, là cảnh giới của tội pháp
tham, sân, si. Chúng sanh trong lục đạo có kẻ nào chẳng
tham? Có ai chẳng sân? Có ai chẳng si? Hai tầng trên trong
thiên đạo là Sắc Giới và Vô Sắc Giới chẳng
đoạn sân, chỉ là công phu Tứ Thiền Bát Định đă
phục trụ sân, chứ chẳng đoạn. “Phục trụ” (伏住) là [chế
ngự] chẳng [để cho nó] khởi tác dụng. Khi
đánh mất công phu định lực, phiền năo sẽ
ngay lập tức dấy lên hiện hành!
Dẫu là Phi Tưởng
Phi Phi Tưởng Xứ Thiên, tức tầng cao nhất
trong Vô Sắc Giới, nhà Phật nói có hai mươi tám tầng
trời, đây là tầng thứ hai mươi tám, là tầng cao nhất, thọ mạng là tám vạn đại kiếp. Thọ
mạng của họ là do công phu định lực, tức
Đệ Bát Định, nhập Định ấy trong thời
gian dài lâu như thế, tám vạn đại kiếp! Rốt
cuộc tám vạn đại kiếp dài cỡ nào? Chư vị
hăy nghĩ kỹ xem! Trong kinh, đức Phật đă dạy
chúng ta: Một đại kiếp là nói đến chuyện
thế giới này một lần “thành, trụ, hoại,
không”. “Thành, trụ, hoại, không” là bốn trung kiếp. V́
thế, trong kiếp Thành và kiếp Trụ, thế giới
này h́nh thành, chúng sanh có thể sống trong đó, khi [thế giới] h́nh
thành là một trung kiếp. Khi nó cư trụ
(thế giới h́nh thành, vẫn c̣n tồn tại chưa
hư hoại) cũng là một trung kiếp. Nếu thế
giới hoại, đă bị hoại th́ hữu t́nh chúng
sanh của thế giới
ấy chẳng thể trụ [trong ấy].
Thế giới hoại cũng là một trung kiếp; Không (thế giới rỗng không) lại là một trung kiếp. Kế đó lại là
“thành, trụ, hoại, không”, vĩnh viễn tuần hoàn chẳng
ngừng. Bốn trung kiếp là một đại kiếp.
Tám vạn đại kiếp tức là thế giới này
“thành, trụ, hoại, không” tám vạn lần! Vị trời
ấy vẫn ở trong Định, quư vị nói thời
gian ấy lâu cỡ nào!
Nếu chúng ta hỏi,
thế giới thành, trụ, hoại, không, vị trời ấy
sẽ đến nơi đâu? Rốt cuộc vị ấy
ở chỗ nào? Vị ấy chẳng bị trở ngại.
V́ sao? Trụ trong Vô Sắc Giới. Ở Sắc Giới
th́ c̣n có trở ngại. Nếu thế giới hoại,
chư thiên thuộc Sắc Giới sẽ chẳng thể
trụ, nhưng Vô Sắc Giới chẳng bị trở ngại!
Nói thật ra, đấy là cảnh giới chẳng thể
nghĩ bàn trong lục đạo, nhưng chẳng thể
nói là giải thoát! Sau khi tám vạn đại kiếp
đă qua, vị ấy đánh mất công phu định lực,
thời gian duy tŕ định lực của vị ấy
chỉ có thể lâu như thế! Đến lúc đó,
tham, sân, si, mạn thảy đều hiện hành, chẳng
chế phục phiền năo được, chẳng chèn ép
được, chúng lại bùng lên. Sau khi chúng đă dấy
lên, sẽ lập tức bị đọa lạc xuống
dưới. Ngạn ngữ thường nói: “Trèo cao, ngă đau!” Người
ấy đă trèo đến đỉnh cao nhất, tức Phi Tưởng
Phi Phi Tưởng Xứ Thiên. Hễ đọa xuống, sẽ
là A Tỳ địa ngục. Do vậy, kẻ nào mong sanh
thiên, chớ nên không hiểu chân tướng sự thật.
Có liễu giải chân tướng sự thật, mới
biết pháp ấy chẳng phải là pháp rốt ráo, chẳng
thật sự giải quyết vấn đề!
Do vậy, Sắc
Giới từ [cơi trời] Sơ Thiền [trở lên], sau khi đă đắc Sơ Thiền, sẽ phục
trụ sân, nhưng tham và si vẫn có; bất
quá, nói theo mức độ th́ nhẹ hơn chúng ta khá nhiều.
Chư vị hăy hiểu, toàn là do công phu Thiền Định
sâu khống chế. Nếu muốn thật sự đoạn
những thứ ấy, Tứ Thiền Bát Định vẫn
chẳng được, vẫn phải
tiến cao hơn một cấp. Trong kinh Lăng Nghiêm,
đức Phật đă bảo là Cửu Thứ Đệ
Định, trong thế gian, công phu định lực cao
nhất trong lục đạo là Đệ Bát Định. Sâu hơn là Đệ Cửu
Định, được lắm, đă vượt thoát.
Tham, sân, si thật sự đoạn sạch. Do vậy, tám chữ “khí tham, sân,
si, quyên trừ tội pháp” (bỏ tham, sân, si, trừ khử
tội pháp) là [nói đến hạng] người nào vậy?
A La Hán! A La Hán thật sự làm được.
Đối với
Bồ Tát, nay chúng ta đang học tập kinh Hoa Nghiêm. Trong
kinh Hoa Nghiêm, đẳng cấp Bồ Tát nào sẽ thật
sự buông xuống tham, sân, si, chẳng c̣n tạo tội
nghiệp nữa? Trong kinh này, đức Phật đă dạy,
hàng Bồ Tát thuộc địa vị Thất Tín, nay chúng
ta đang học tập địa vị Thập Tín, đă vượt trội địa
vị Thất Tín. Bồ Tát thuộc
địa vị Thất Tín đă đoạn chứng, tức
là nói theo phương diện đoạn phiền năo, Ngài tương đương A La Hán và Bích Chi Phật, nhưng trí huệ và đức
năng chắc chắn A La Hán và Bích Chi Phật chẳng thể
sánh bằng! Sự thù thắng của Đại
Thừa là thù thắng ở chỗ
này, trí huệ cao hơn A La Hán quá nhiều, nhưng đoạn
phiền năo th́ giống nhau! Trong kinh giáo đă nói rất nhiều,
chúng ta hăy nên liễu giải!
Hiện tiền,
chúng ta phải học bằng cách nào? Điều quan trọng
nhất là phải giác ngộ, phải hiểu rơ, những
thứ ấy chẳng phải là những thứ tốt
đẹp. Trong các buổi giảng, chúng tôi thường
nhắc nhở các đồng học: Ích kỷ, tiếng
tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần,
tham, sân, si, mạn là những thứ chướng đạo!
Không chỉ chướng ngại quư vị chứng quả,
mà c̣n đóng lấp ngộ môn của quư vị. Lời này
nói như thế nào? Quư vị học giáo, nghe kinh, nghe pháp
chẳng khai ngộ là do bị những thứ ấy quấy
phá. Nếu chẳng có những thứ ấy, tôi nghĩ quư
vị nhất định sẽ chẳng khác Huệ
Năng đại sư cho mấy, vừa nghe kinh bèn đại
triệt đại ngộ.
Từ Đàn Kinh,
chúng ta thấy Huệ Năng đại sư tự thuật:
Ngài không biết chữ, chưa từng đi học, là một
gă tiều phu đốn củi, lao lực để sống, bán củi sống qua ngày. Trong hiện tại, nói với
người hiện thời về chuyện bán củi
để sống qua ngày, họ rất khó lư giải. V́ sao? Họ
chưa từng thấy. Hiện thời chẳng đốt
củi, mà dùng gas hay dùng điện. Lứa tuổi tôi, hoặc
tại những vùng hẻo lánh của Trung Hoa đại lục,
ở nông thôn có thể c̣n đốt củi nhóm ḷ. Quư vị
thấy nhà bếp trong đô thị hiện thời, chẳng
có ḷ, chỉ có bếp gas chứ đâu có bếp ḷ [đốt
củi]. Khi tôi mười mấy tuổi, sống ở Phước Kiến, lúc mười bốn,
mười lăm tuổi, [người dân khi đó] hăy c̣n
bán củi, bán nước, cuộc sống khá vất vả!
Huệ Năng
đại sư bán củi, đẵn củi trên núi, gánh
đến chốn thành thị để bán, bán được
tiền lại mua một chút gạo đem về
nhà phụng dưỡng mẹ già. Duyên của Ngài là do một
lần đi bán củi, bán củi xong, đă nhận
tiền, lúc sắp rời đi, nghe có người đang niệm
kinh, Ngài ở ngoài cửa sổ lắng nghe. Người ấy
đang niệm kinh Kim Cang, niệm đến chỗ “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ
tâm” (chớ nên trụ vào đâu
để sanh tâm), Ngài nghe
xong có ngộ xứ,
bèn hướng về người ấy
thỉnh giáo: “Ông đang niệm ǵ vậy?” Người
ấy bảo Ngài: “Niệm kinh Kim Cang”. “Ông có được kinh này từ
nơi đâu?” Người ấy nói từ chỗ Ngũ Tổ
ở Hoàng Mai mà có. Nói chuyện, nói rất hợp duyên, người niệm
kinh nghe Huệ Năng nói, cảm thấy người này ngộ
tánh rất cao, bèn đề nghị: “Tốt
nhất là ông nên đến Hoàng Mai tham lễ Ngũ Tổ”.
Ngài nghe nói cũng
rất hoan hỷ, nhưng trong nhà nghèo quá, sau khi Ngài rời
đi, ai sẽ nuôi mẹ? Hết sức khó có. Đấy
là duyên, người ta nói “duyên phận” quá thù thắng! Có vị
trưởng giả thấy t́nh h́nh ấy, cũng hết
sức hoan hỷ, đem
cho Huệ Năng đại sư
mười lạng bạc: “Ông hăy cầm về thu xếp
việc nhà để mẹ sống yên, ông chẳng c̣n lo lắng
nữa”. Đương nhiên là chúng ta có thể tưởng
tượng được, người b́nh phàm thấy
Ngài có ngộ tánh tốt đẹp như thế, vừa
nghe bèn có ngộ xứ, quá khó có! V́ thế, có người
phát tâm chăm sóc mẹ Ngài: “Ông hăy yên tâm tầm sư phỏng
đạo”. Chẳng dễ dàng! Ngài đến Hoàng Mai tám
tháng, Ngũ Tổ truyền y bát cho Ngài. Chỉ nghe Ngũ Tổ
giảng kinh một lần, tức là buổi tối
trước ngày Ngài rời đi, Ngũ Tổ giảng
kinh Kim Cang cho Ngài, cũng giảng đến câu “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ
tâm”, Ngài triệt ngộ! Khi ấy, Ngài hai mươi bốn
tuổi.
Hăy ngẫm xem,
chúng ta hai mươi bốn tuổi, hiểu điều
ǵ? V́ sao người ta vừa nghe, chẳng phải là ngàn
ngộ, mà là triệt ngộ, do nguyên nhân ǵ? Chẳng có tham,
sân, si, Ngài chẳng có chướng ngại! Nay chúng ta có
chướng ngại. Chướng ngại là mười
sáu chữ ấy, chúng ta có ích kỷ, tiếng tăm, lợi
dưỡng, có ngũ dục, lục trần, có tham, sân,
si, mạn. V́ thế, nghe kinh chẳng thể khai ngộ, niệm
Phật chẳng thể đắc nhất tâm. Lư nhất
tâm bất loạn là đại triệt đại ngộ;
Sự nhất tâm bất loạn, chúng ta thường nói là
đại ngộ, chẳng phải là triệt ngộ, mà
là đại ngộ. Công phu thành phiến là tiểu ngộ,
chúng ta đều chẳng đạt được!
Công phu thành phiến
là ǵ? Công phu thành phiến là chế phục phiền năo, là
phục trụ tham, sân, si. Tuy có, chúng chẳng khởi tác dụng,
một câu Phật hiệu của quư vị công phu đắc
lực. Nói “đắc lực”
nghĩa là trong mười hai thời, niệm ở
đâu, nghĩ tại đó, trong tâm quư vị thật sự
có Phật! Giống như chúng ta trong hiện thời, trong
tâm thật sự có tham, sân, si, mạn. Chúng ta hoàn toàn chẳng
phải là hằng ngày đều niệm tham, sân, si,
nhưng trong tâm thật sự có [tham, sân, si].
Nơi miệng có Phật, trong tâm chẳng
có Phật; trong tâm có tham, sân, si. V́ thế, Phật hiệu
chẳng khởi tác dụng. Chỉ có thể nói “đă gieo chủng tử Phật
trong A Lại Da Thức”, chẳng dấy lên tác dụng, chẳng nắm
chắc văng sanh! Chư vị phải biết, người
công phu thành phiến có thể nắm chắc
văng sanh! Công phu thành phiến cũng có ba bậc, chín phẩm.
Nếu là “thành phiến” thuộc
bậc thượng, tức là ba phẩm thượng, sẽ
văng sanh tự tại. Văng sanh tự tại là ǵ? Muốn
đi khi nào bèn đi khi đó. Muốn ở thêm mấy
năm cũng chẳng trở ngại! Đấy chưa
phải là Sự nhất tâm, hoặc Lư nhất tâm, chẳng
phải vậy, mà là công phu thành phiến.
Công phu phải
đắc lực! V́ sao chúng ta công phu chẳng đắc lực?
Chính là do chẳng buông xuống mười sáu chữ ấy.
Nếu thật sự chẳng buông xuống mười sáu
chữ ấy, sẽ chẳng thể văng sanh trong đời
này! Người niệm Phật phải biết, nếu chẳng
thể văng sanh trong đời này, đúng là quá đáng
tiếc! Thân người khó được, Phật pháp khó
nghe, đấy là sự thật ngàn muôn phần xác đáng!
Trong bài kệ Khai Kinh, cổ nhân đă nói: “Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ” (Trăm
ngàn vạn kiếp khó gặp gỡ), lời này là thật!
Cư sĩ Bành Tế Thanh đă nói càng hay hơn nữa, gặp
pháp môn Tịnh Độ là “một
ngày hiếm có khó gặp trong vô lượng kiếp”.
Chúng ta đă gặp gỡ, gặp rồi mà bỏ lỡ,
quư vị nói xem, đáng tiếc lắm thay!
Lỡ làng lần
này, lần sau gặp lại có thể là đă qua vô lượng
kiếp, chẳng thể nào đời sau quư vị c̣n có thể
gặp gỡ! Nếu ai chẳng thể văng sanh, đời
sau chắc chắn sẽ đọa lạc, chẳng phải
là tăng tấn cao hơn. V́ sao biết? Tăng tấn là
như hiện thời chúng ta đề
xướng Đệ Tử Quy và Thập Thiện Nghiệp,
thực hiện một trăm phần trăm,
như vậy th́ quư vị có thể nói là đời sau trọn
chẳng đọa vào ba ác đạo, đời sau nhất
định chẳng ở trong nhân gian mà là ở trên trời.
Dẫu sanh trong nhân gian, cũng là bậc có đại
phước báo, chẳng phải là kẻ b́nh phàm, chúng ta gọi
họ là “đạt quan quư
nhân”, nay gọi “nhà đại tư bản”, hoặc
“đại xí nghiệp gia”, sẽ biến thành hạng người như thế. Biến thành hạng
người như vậy th́ có tốt đẹp hay không?
Kể như khá lắm, nhưng quên sạch học Phật.
V́ thế, gặp gỡ Phật pháp được gọi
là “trăm ngàn vạn kiếp
khó gặp gỡ” chính là v́ đạo lư này!
Người hưởng
phước, mê man trong phước báo, đối với
kinh giáo Phật pháp chẳng nghe lọt tai! Dẫu nghe lọt
tai, mong học, cũng hộ tŕ Phật pháp như
Lương Vũ Đế, nhưng đối với vinh
hoa, phú quư, vẫn tham luyến y như cũ! Dẫu hộ
tŕ Phật pháp, vẫn là phước báo nhân thiên, chẳng
thể giải quyết vấn đề. Nói cách khác, quư vị
hăy chú tâm quan sát, tư duy từ chỗ này, [sẽ thấy]
vượt thoát lục đạo khó khăn lắm! Đời
này gặp gỡ là cơ duyên, quư vị thật sự hiểu
lục đạo khổ sở, tam đồ càng khổ
hơn. Thật sự muốn phát tâm xuất ly, nhưng chẳng
bỏ tham, sân, si, mạn, quư vị sẽ chẳng làm
được! Quư vị chẳng chịu bỏ
tham, sân, si, mạn, chẳng thể vứt bỏ ḷng ích kỷ,
chẳng thể vứt bỏ thị phi, nhân ngă,
chẳng thể vứt bỏ sự hưởng thụ
ngũ dục, lục trần, văng sanh sẽ khó lắm!
Trong kinh điển,
đức Thế Tôn đă dạy, người trong thế
giới Tây Phương là những ai? Kinh Di Đà nói rất
hay: “Chư thượng thiện
nhân câu hội nhất xứ” (Các vị
thượng thiện nhân nhóm họp cùng một chỗ).
Thượng thiện nhân đấy nhé! Tâm, ư niệm và
hành vi của chúng ta đều không tốt. Quư vị hăy
dùng Đệ Tử Quy làm tiêu chuẩn để cân nhắc
một phen. Đó là thiện nhân trong thế gian, trong nhân
đạo và Dục Giới Thiên; sau đấy quư vị lại
dùng kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo làm tiêu chuẩn
để cân nhắc một phen, mới biết chính ḿnh có
đáng coi là “thiện nhân”
hay không, có phù hợp tiêu chuẩn được nói trong
mười pháp giới hay không? Dùng tiêu chuẩn xuất
phát từ vọng tưởng và phân biệt của chính
chúng ta sẽ không được, người khác chẳng
thừa nhận tiêu chuẩn ấy. Tiêu chuẩn do chư
Phật, Bồ Tát, đại thánh đại hiền
đă nói th́ được khắp pháp giới, hư
không giới cùng nhau thừa nhận. Phải lấy điều
này làm tiêu chuẩn th́ mới được!
Tôi nói mười
sáu chữ ấy, chẳng cao, vẫn chưa đạt tới
A La Hán. Tôi chỉ nói theo tiêu chuẩn nào? Thấp nhất, tức
địa vị Sơ Tín Bồ Tát trong Thập Tín. Đối với Tiểu Thừa Tứ Quả Tứ Hướng, tôi
nói theo tiêu chuẩn Sơ Quả, chẳng thể thấp
hơn nữa. Nếu quư vị có thể đạt tới
tiêu chuẩn này, sẽ nhập môn, quư vị là tư cách ǵ?
Bồ Tát thuộc địa vị Sơ Tín trong Đại
Thừa, giống như quư vị vào học lớp Một
Tiểu Học, tức là Sơ Quả trong pháp Tiểu Thừa.
Tôi nói theo tiêu chuẩn này. Chúng ta chẳng làm được
tiêu chuẩn này, chẳng cần nói tới những thứ
cao hơn, có nói cũng vô dụng, toàn là nói suông! V́ thế,
tôi thường nhắc tới mười sáu chữ ấy,
thường xuyên cảnh tỉnh, chớ nên!
Vậy th́ làm
như thế nào? Quư vị có thể chuyển biến chúng
th́ là đúng! Chuyển ích kỷ thành đại công vô
tư, khởi tâm động niệm không nghĩ v́ chính
ḿnh, mà nghĩ đến người khác, nghĩ đến
xă hội, nghĩ cho hết thảy chúng sanh. Hễ chuyển,
ích kỷ là vọng tâm, do đă chuyển, sẽ là Bồ
Đề tâm. Chuyển tiếng tăm, lợi dưỡng,
biết chúng ta đời đời kiếp kiếp ở
trong lục đạo là do bị tiếng tăm, lợi
dưỡng làm hại. Danh là hư danh, quư vị thấy lợi
và hại thường ở cùng một chỗ! Quư vị
biết lợi là nhân, quả báo của nó là hại! Tham tiểu
lợi sẽ bị tiểu hại, tham đại lợi
sẽ bị đại hại, mấy ai biết điều
này! Cổ nhân đă ban cho chúng ta những chữ ấy,
trong đó có đạo lư rất sâu, quư vị phải biết
xem. Sau lợi mà có hại, chẳng cần điều lợi
ấy! Nếu nói [cặn kẽ] hai chữ ấy (lợi
và hại) cùng quư vị, có nói hai chữ ấy suốt hai
tháng cũng nói không xong! Chúng ta muốn tránh điều hại th́ chớ
nên tham lợi! V́ thế, tiếng tăm, lợi dưỡng quyết
định chẳng thể dính vào!
Sống trên thế
gian, phải học theo cuộc sống của Thích Ca Mâu Ni
Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật sống bằng cách đi khất
thực từng nhà. Măi cho đến hiện thời, Tiểu
Thừa Phật giáo ở vùng biển Nam như Thái Lan, Miến
Điện, vẫn hành theo chế độ khất thực
như xưa. Quư vị thấy trước mười hai
giờ trưa, người xuất gia thảy đều
đi ra ngoài, khắp nơi đều trông thấy, đều
khất thực bên ngoài. Trong chùa miếu của họ chẳng
nổi lửa nấu nướng, vẫn là giữa
trưa ăn một bữa, hành theo chế độ ấy.
Người ta cho ǵ ăn nấy, quyết định chẳng
có phân biệt, chẳng có chấp trước! Do vậy,
những quốc gia Tiểu Thừa hiện thời vẫn
duy tŕ cách sống như thời cổ. Chư vị phải
hiểu, từ đầu đến cuối, Phật pháp
dạy người ta “từ
bi làm gốc, phương tiện làm cửa”, người
ta cho ǵ ăn nấy, chẳng phân biệt. V́ thế, Phật
giáo đồ chẳng ăn chay. Nếu Phật giáo đồ
nhất định ăn chay, người ta muốn cúng
dường quư vị, hằng ngày đều phải chuẩn
bị đồ chay, vậy là quư vị đă gây phiền
toái cho người khác!
Chư vị phải
biết, trên toàn thể thế giới, tín đồ Phật giáo ăn chay chỉ có Trung Hoa. Tín đồ Phật giáo Nhật Bản không ăn chay, tín đồ Phật giáo Đại Hàn cũng không ăn chay! Chúng tôi đến
thăm quốc gia của họ, họ phải đặc
biệt nấu đồ chay cho chúng tôi, v́ họ biết
chúng tôi ăn chay! Đức Phật đề xướng
ăn chay, v́ Phật môn không nấu nướng, phải hiểu
ư nghĩa này. Ăn chay là ǵ? Tâm từ bi, chẳng nhẫn
tâm ăn thịt chúng sanh. Quư vị phải biết phong
trào ăn chay tại Trung Hoa là do Lương Vũ Đế
đề xướng, cũng rất khó có, chẳng dễ
dàng! Lương Vũ Đế đọc kinh Lăng Già,
thấy trong kinh đức Phật dạy hàng Bồ Tát: “Hàng Bồ Tát phát tâm đại từ
bi, chẳng nhẫn tâm ăn thịt chúng sanh”. Nhà vua thấy
vậy, rất cảm động, bắt đầu
ăn chay. Nhà vua là hộ pháp trong Phật môn, những kẻ hưởng ứng đầu tiên là người xuất
gia. Người xuất gia bắt đầu ăn chay; kế
đó, Phật tử tại gia cũng hưởng ứng.
Do vậy, biến thành đệ tử Phật tại
Trung Hoa đều phổ biến chấp nhận chuyện
này. Chúng ta phải hiểu điều này!
Do vậy, sang ngoại
quốc, chúng tôi lần đầu sang đó là hơn ba
mươi năm trước, lần đầu tiên đến
Nhật Bản thăm viếng. Khi đó, chúng tôi thấy
người xuất gia Nhật Bản bèn lấy làm lạ,
họ thấy chúng tôi cũng rất kỳ quái: “V́ sao chẳng
ăn thịt?”[2] Chúng tôi nh́n họ, [cũng thắc mắc] “v́ sao họ
ăn thịt?” Hiểu đạo lư bèn biết, bèn hiểu rơ, phong
tục tập quán tại mỗi nơi không giống nhau.
Giới luật nhà Phật cấm sát sanh, trọn chẳng
sát sanh! V́ thế, khất thực, người ta cúng dường
tam tịnh nhục, [tức
là những món thịt mà ta] chẳng
thấy giết, chẳng nghe tiếng [chúng nó kêu rên khi bị giết], chẳng phải v́ ta mà giết. Đó là tam tịnh
nhục. Lương Vũ Đế đề xướng
[ăn chay] có chánh xác hay chăng? Chánh xác, tốt lắm! Xác
thực là hữu ích rất lớn cho sức khỏe, chẳng
kết thù oán với hết thảy chúng sanh.
Trong kinh luận,
đức Phật đă dạy, tai nạn trong thế gian
có những thứ được gọi là đại
tam tai và tiểu tam tai. Đại tam tai là hỏa tai, thủy
tai, phong tai. Hỏa tai có thể cháy đến Sơ Thiền
Thiên. Thủy tai có thể nhấn ch́m Nhị Thiền Thiên.
Sơ Thiền, Nhị Thiền và Tam Thiền Thiên đều
có phong tai, gió có thể thổi nát Tam Thiền Thiên. Tứ
Thiền chẳng có tam tai, nên [cơi trời] Tứ Thiền
được gọi là Phước Thiên. Phước báo
to lớn, nơi ấy chẳng có tam tai. Những tai nạn
ấy đều là tai ương khi kiếp hoại, tức
là [sau khi] Thành và Trụ, trong lúc kiếp Hoại, ba món tai nạn ấy
bèn dấy lên. Hiện thời, trong thế giới chẳng
có [đại tam tai], thế gian hiện thời có tiểu
tam tai. Tiểu tam tai là ǵ? Binh đao kiếp, ôn dịch, đói
kém; đấy là tiểu tam tai.
Năm xưa, chúng
tôi học kinh giáo, thầy giảng tiểu tam tai chẳng
đủ thấu triệt, từ đầu đến cuối chúng tôi chẳng hiểu rơ lắm. Phải biết,
ba mươi hai năm trước, thuở ấy tôi bốn
mươi chín tuổi. Khi bốn mươi tám hay bốn
mươi chín tuổi, lần đầu tiên theo pháp sư
Đạo An sang thăm Nhật Bản. Lần đó, thời
gian [thăm viếng] cũng rất dài. Ở Nhật Bản,
hơn hai mươi ngày, đối với các tông phái chủ
yếu đều đến thăm. Đặc biệt là
đến thăm Trường Kỳ (Nagasaki) và Quảng
Đảo (Hiroshima); do vậy, hiểu rơ tiểu tam tai.
Nguyên lai, đức Phật nói tiểu tam tai là chiến
tranh vũ trang hạch nhân. Do vậy, chiến tranh nguyên tử
chỉ sợ chẳng có cách nào tránh được! V́
đức Phật nói binh đao kiếp là bảy ngày bảy
đêm, trong thời gian Kháng Chiến, chúng ta đánh nhau với
Nhật Bản suốt tám năm, Đệ Nhị Thế
Chiến cũng chẳng được coi là binh đao kiếp.
Kinh Phật nói binh đao kiếp trong tiểu tam tai là bảy
ngày, kế đó là ôn dịch, ôn dịch bảy tháng bảy
ngày, sau đấy là đói kém. Thời gian đói kém là bảy
năm bảy tháng bảy ngày. Tiểu tam tai được
nói theo cách như vậy!
Chúng tôi đến
Quảng Đảo và Trường Kỳ mới thấy,
bom nguyên tử ném xuống, khi đó dường
như là đă tám hay chín năm rồi. Phật tử ở
chỗ ấy bảo chúng tôi, chỗ bị ném bom đến
năm thứ tám mới mọc cỏ. Tôi bèn hiểu rơ, chiến
tranh là chiến tranh hạch
nhân, ôn dịch là ǵ? Chúng tôi nói là những
căn bệnh do bụi phóng xạ. Đúng vậy đó,
quư vị bị bụi phóng xạ của bom nguyên tử
gây tổn thương, thời gian là bảy tháng. Sau bảy
tháng bảy ngày, quư vị c̣n có thể sống sót, sẽ giữ
được cái mạng, nhưng di chứng về sau
cũng rất phiền toái. “Ôn
dịch” phải nên hiểu là chuyện này! Suốt bảy, tám
năm, mặt đất chẳng mọc cây cỏ, con
người chịu đói kém. Chúng tôi thấy hiện
tượng ấy, bỗng nghĩ đến những
điều đă nói trong kinh, [vỡ lẽ] đấy là
chiến tranh hạch nhân!
Hiện thời,
trên thế giới có khá nhiều quốc gia có vũ khí
hạch nhân, họ tồn trữ bom nguyên tử, bom khinh khí, tính chung có
thể đến mười vạn trái! Các nhà khoa học
nói [những quả bom ấy] có thể hủy diệt
địa cầu hai trăm lần, đáng sợ quá! V́ thế,
chiến tranh hạch nhân là cuộc chiến chẳng có thắng
hay bại, mà là cuộc chiến tranh cùng nhau chết sạch!
Nó có thể phát sanh hay không? Nói thông thường th́ chẳng
có nhiều khả năng! V́ sao? Đánh nhau đều
nói đến chuyện thắng trận. Cuộc chiến
tranh này chính là cùng nhau chết sạch, cho nên chiến tranh hạch
nhân không thể có quá nhiều khả năng phát sanh cho lắm. Không có nhiều
khả năng cho lắm, chẳng phải là sẽ tuyệt
đối không thể phát sanh. Dưới t́nh huống nào
sẽ có thể phát sanh? Mọi người phát cuồng, mọi
người đều điên khùng, nếu như vậy
th́ chắc chắn sẽ phát sanh!
Con người có
thể điên cuồng hay không? Rất có thể! Chẳng
có luân lư, đạo đức, chẳng có hiếu, đễ,
trung, tín, chẳng có lễ, nghĩa, liêm, sỉ, đáng ngại
quá! Hiện thời, trên khắp thế giới, tôi không
đọc những tin tức được đăng
tải, có các đồng tu kể với tôi. Tại các
nơi trên thế giới, cha mẹ giết con cái, con cái giết
cha mẹ, anh em giết lẫn nhau, luôn có những mẫu
tin ấy. Năm trước, tôi sang thăm Ba Lê, thăm
Luân Đôn, đồng tu ở những nơi ấy kể
với tôi: Hai tuần trước đó, có đứa em
mười bốn tuổi giết chết thằng anh. Khi
quan ṭa xét hỏi, nó làm như chẳng có chuyện ǵ xảy
ra, chẳng biết giết người là có tội lỗi, [chẳng biết] giết người là chuyện
không nên làm! Nó chẳng biết, làm sao được nữa! Trong tương lai, nếu nó ôm bom nguyên tử
quăng khắp nơi, nó cũng chẳng biết đó là có
tội, mà cũng chẳng biết đấy là sai lầm!
Đấy là do
nguyên nhân nào tạo thành? Có người bảo tôi, có thể
là do những tṛ chơi điện tử tạo thành! Từ nhỏ,
đă chơi tṛ chơi điện tử,
trong ấy, dạy quư vị sát nhân! Nó coi sát nhân, phóng hỏa
như tṛ chơi, quư vị nói c̣n làm sao được
nữa? Trong tương lai, ném bom nguyên tử lung tung
cũng là tṛ chơi! Chuyện này hết sức có thể
[xảy ra]. V́ thế, trong hiện thời, giáo dục luân
lư quan trọng hơn bất cứ thứ ǵ khác. Đă có
nhiều bom nguyên tử như vậy, nếu chẳng giáo
dục luân lư đạo đức, trong tương lai,
đại khái toàn là tṛ chơi điện tử. Đấy
chẳng phải là việc nhỏ, mà là đại sự!
V́ thế, nay chúng tôi hô hào toàn thể thế giới hăy coi
trọng giáo dục luân lư đạo đức, coi trọng
sự giáo dục nhằm cư xử ḥa thuận, đối
đăi b́nh đẳng giữa con người với nhau.
[Chuyện này] quan trọng hơn bất cứ điều
ǵ khác! Nếu hiện thời chẳng nghiêm túc nỗ lực
làm theo phương hướng này, chiến tranh vũ khí
nguyên tử trong tương lai [sẽ bị] coi như một
thứ tṛ chơi điện tử, trọn chẳng biết
đó là tội lỗi, trọn chẳng biết đó là
chuyện không nên! A! Nay đă hết thời gian rồi,
chúng ta nghỉ ngơi mấy phút.
***
Chư vị pháp
sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi
xuống. Trong phần trước, chúng tôi đă nói đến
tham, sân, si, đặc biệt là ngu si. Chúng ta đă nh́n vào
xă hội hiện tiền, đặc biệt là đám thanh
thiếu niên vô tri. Từ sự phạm tội của bọn
chúng mà tạo thành tai hại, đă tạo thành ảnh
hưởng rất nghiêm trọng, không ǵ chẳng phải
là do tâm sở si mê mà ra! Trong quá khứ, chúng ta chỉ biết
là do tham và sân mà tạo tội nghiệp nghiêm trọng.
Đối với ngu si, xác thực là đă lơ là, sơ
sót, chẳng lưu ư! Nh́n từ những chuyện trong hiện
thời, mới biết si mê nghiêm trọng, căn bệnh
này hết sức nặng nề, mang lại những tai nạn
có thể là tiểu tam tai như kinh Phật đă dạy,
đều là như nhà Phật thường nói “do cộng nghiệp cảm vời”.
Chẳng thể
nói người thế gian không có ai giác ngộ. Chúng ta
thường nghe khá nhiều vị có chí, có ḷng nhân trên quốc
tế, nhất là lấy Liên Hiệp Quốc làm đại
diện, họ truy cầu [mục tiêu] hóa giải xung
đột, xúc tiến xă hội an định, ḥa b́nh.
Đối với phương pháp giải quyết, người
phương Tây quá nửa chủ trương dùng bạo lực,
tức là dùng trả thù, dùng vũ lực để chế
tài (sanctions), hy vọng có thể đạt tới ḥa b́nh.
Nhưng từ sau sự kiện Mười Một tháng
Chín, mới có những người giác ngộ, [sử dụng]
thủ đoạn vũ lực hay báo thù sẽ chẳng
được! Do vậy mới lại suy nghĩ sâu xa
hơn, đă nghĩ đến chuyện vẫn phải dùng phương pháp ḥa b́nh. Chúng tôi hiểu, Liên Hiệp
Quốc chẳng phải là không nhiệt tâm mưu cầu
ḥa b́nh cho thế giới. Đă ba, bốn
mươi năm qua, mỗi năm mở không biết bao
nhiêu hội nghị,
thật sự là các vị học giả, chuyên gia đă tụ
tập với nhau để
thảo luận hóa giải bằng cách nào! Vẫn y như
cũ, chẳng có hiệu quả! Tần số xung đột
mỗi năm một tăng lên, tai hại mỗi lần một
nghiêm trọng hơn! Tôi tham dự các hội nghị ḥa
b́nh quốc tế như vậy tại Liên Hiệp Quốc
năm lần, hai lần khác chẳng phải do Liên Hiệp
Quốc triệu tập cuộc họp. Tôi
đă tham dự bảy lần, cho nên tôi thường nói:
“Hội nghị chẳng thể giải quyết”. Chuyện
này khiến cho chúng tôi nghĩ tới tiến sĩ Thang Ân Tỷ (Arnold
Toynbee) của nước Anh đă nói: “Muốn giải quyết vấn đề xă hội
trên thế giới, chỉ có học thuyết Khổng Mạnh
của Trung Hoa và Đại Thừa Phật pháp”, khiến
cho tôi nghĩ đến hai câu nói ấy.
Nho và Phật đều
chú trọng “tu thân làm gốc,
giáo học làm đầu”. Nho và Phật nhất trí quan
niệm này. Chúng ta suy ngẫm, [nhận thấy] xác thực
là chỉ có biện pháp này th́ mới có thể sanh ra hiệu
quả. V́ thế, năm trước chúng tôi thử mở
một khóa giảng về Đệ Tử Quy tại Ba Lê.
Ba ngày, mỗi ngày bốn tiếng đồng hồ, [tổng
cộng là] mười hai tiếng, thính chúng có đến
sáu, bảy trăm người, họ nghe hết sức
cảm động. Ở ngoại quốc, chúng tôi cũng
mở mấy chục khóa giảng như vậy; ở
trong nước, trong mấy năm qua, có thể là đă
hơn một ngàn lần, xác thực là đă sanh ra hiệu
quả! Giáo học trọng yếu! Trung Hoa từ xưa tới
nay đều chú ư vấn đề này, v́ thế, đề
xướng: “Kiến quốc,
quân dân, giáo học vi tiên” (Xây dựng đất nước,
cai trị nhân dân, giáo học làm đầu).
Trước hết,
tổ tiên chúng ta khẳng định “con
người tánh vốn lành”. Quư vị thấy Tam Tự Kinh
đă nói: “Nhân chi sơ, tánh bổn
thiện”. Bổn thiện chẳng phải là thiện trong thiện
ác. Thiện trong thiện ác là tập tánh, chẳng phải
là bản tánh. V́ tập tánh có thiện hay ác, giáo dục quan
trọng lắm! Do đó, chúng tôi thường nói, Phật,
Bồ Tát là do dạy dỗ mà ra. Các Ngài đều có thầy,
do thầy dạy. Người tốt là do dạy dỗ mà
ra, kẻ xấu cũng là do dạy dỗ mà ra. “Phần tử
khủng bố” như đă nói trong hiện thời
cũng là do dạy dỗ mà ra! Tùy thuộc quư vị dạy
như thế nào! Kẻ căn cơ từ bậc trung trở
xuống th́ phải dạy, bậc thượng thượng
căn sẽ chẳng có vấn đề! Những người
ấy được Phật pháp nói là “thiện căn và phước đức hết sức
sâu dầy”. Họ chẳng dễ ǵ bị ô nhiễm. Kẻ
căn tánh trung hạ th́ không được. Đó gọi
là “cận châu giả xích, cận
mặc giả hắc” (gần son th́ đỏ, gần
mực th́ đen), tùy thuộc quư vị dạy dỗ
như thế nào! Trung Hoa có kinh nghiệm dạy học hết
sức phong phú, tối thiểu là có năm ngàn năm kinh
nghiệm, có năm ngàn năm trí huệ, có năm ngàn
năm phương pháp và hiệu quả. Dạy ǵ vậy?
Dạy luân lư, dạy đạo đức, dạy nhân quả.
Đấy là nội hàm và h́nh thức của giáo dục
trong năm ngàn năm qua!
Trong quá khứ,
đă thiết lập h́nh thức cụ thể. Mỗi gia
tộc đều có từ đường. Từ
đường đại biểu hiếu đạo, luân
lư. Mỗi huyện thị đều có Khổng miếu.
Khổng miếu biểu thị sư đạo, từ
đường đại biểu hiếu đạo, [từ
đường và Khổng miếu biểu hiện tinh thần]
hiếu thân tôn sư. Thầy truyền thụ những ǵ?
Chủ yếu là đạo đức. Khổng Tử giáo
học gồm có bốn khoa mục, tức là đức hạnh, ngôn
ngữ, chánh sự, và văn học, lấy đạo
đức làm chủ yếu, tức đức hạnh.
Cơ cấu cụ thể thứ ba được thiết
lập là mỗi huyện thị đều có miếu Thành
Hoàng. Miếu Thành Hoàng dạy ǵ? Dạy nhân quả, bảo
cho quư vị biết thiện ác có báo ứng. Thiện có thiện
báo, ác có ác báo, chẳng phải là không báo, mà là chưa tới
thời điểm! Thời điểm là ǵ? Trong đời
quá khứ, mỗi người tu tập, tích lũy khác
nhau. Trong đời quá khứ, tu phước báo to lớn,
đời này tuy tạo tác rất nhiều tội nghiệp,
do người ấy vẫn chưa hưởng hết
phước, ác báo sẽ chậm lại đôi chút. Trong
đời quá khứ chẳng có phước báo, hiện tại
lại tạo ác nghiệp, báo ứng sẽ rất nhanh
chóng. Đạo lư ở chỗ này!
Loại thứ
tư là tôn giáo. Tôn giáo dạy điều ǵ? Tôn giáo chủ
yếu dạy chúng ta về chân tướng của vũ
trụ và nhân sinh. Như Phật pháp, trong bốn
mươi chín năm, Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói ǵ?
Năm xưa, tôi ở Đài Loan, có hỏi một vị
giáo sư đại học. Ông ta thường đến
nghe tôi giảng kinh, theo tôi cũng đă nhiều năm,
cũng dạy Phật học trong nhà trường. Có một
năm, Tết đến, ông ta đến gặp tôi, cho biết
đă mở một khóa giảng về Phổ Hiền Hạnh
Nguyện trong nhà trường. Tôi bèn hỏi ông ta: “Bốn
mươi chín năm, rốt cuộc Thích Ca Mâu Ni Phật
đă nói những ǵ? Ông hăy trả lời tôi bằng một
câu thôi!” Ông ta suy nghĩ rất lâu, chẳng nói được,
hỏi ngược lại tôi. Tôi nói: Kinh Bát Nhă có nói “chư pháp Thật Tướng”.
Tôi nói: “Dùng câu ấy để trả lời, ông có đồng
ư hay không?” Ông ta nghĩ ngợi rồi gật đầu!
Những ǵ do đức Thế Tôn đă nói trong bốn
mươi chín năm chính là “chư
pháp Thật Tướng”, tức là chân tướng hết
thảy các pháp. Chân tướng của hết thảy các
pháp, nếu quư vị chia nhỏ ra, sẽ chẳng ngoài
Tánh, Tướng, tức là tánh, tướng, sự, lư, nhân
và quả của hết thảy các pháp. Dùng sáu chữ ấy
để bao gồm, “tánh,
tướng, sự, lư, nhân, quả”. Ông ta rất đồng
ư với cách nh́n của tôi, một câu đă nói xong! Không chỉ
là đối với những ǵ do Thích Ca Mâu Ni Phật
đă nói trong bốn mươi chín năm, mà những
điều do mười phương ba đời hết
thảy chư Phật và ngàn kinh vạn luận đă nói
đều không ra khỏi phạm vi ấy. Người học
Phật chúng ta phải hiểu, phải có thể đáp
được, Phật pháp chẳng phải là mê tín!
Chúng ta chẳng thể
khế nhập là do tham, sân, si, Thập Ác. Tham, sân, si đại
diện cho Thập Ác. Nhất định phải đoạn
Thập Ác. Hễ đoạn Thập Ác, hết thảy tạo
tác của quư vị sẽ chẳng có lầm lỗi! “Quyên trừ tội pháp” (Trừ bỏ
tội pháp), Quyên (蠲) có nghĩa là trừ bỏ. Đă rửa sạch, trừ
khử, quư vị mới chẳng làm chuyện sai lầm! Lại
xem bài kệ kế tiếp, tức là bài thứ tư.
(Kinh) Sự ngật tựu
thủy, đương nguyện chúng sanh, xuất thế
pháp trung, tốc tật nhi văng.
(經)事訖就水。當願眾生。出世法中。速疾而往。
(Kinh: Xong việc
đến nước, nguyện cho chúng sanh, với pháp xuất
thế, nhanh chóng tiến về).
Bài kệ này
cũng hết sức có ư nghĩa. Quư vị đại tiểu
tiện xong, rửa tay sạch sẽ, bèn lập
tức rời khỏi, nói chung là sẽ chẳng
lưu luyến nơi ấy. Quư vị thấy từ chỗ
này đă dẫn phát hoằng nguyện của Bồ Tát, ở
đây đă tỷ dụ điều ǵ? Tỷ dụ lục
đạo! Sau khi đă bỏ mười ác nghiệp tham,
sân, si, mạn, vội vă rời khỏi lục đạo
luân hồi, quư vị sẽ vượt thoát. Tâm lượng
ấy chính là tâm lượng của Hoa Nghiêm: “Tâm bao thái hư, lượng châu
sa giới”. V́ thế, nguyện của Ngài là nguyện
cho hết thảy chúng sanh trong khắp pháp giới, hư
không giới. Quư vị thấy câu thứ hai trong mỗi bài
kệ đă phô rơ tâm lượng viên măn.
Phải biết “pháp xuất thế”. Lại hỏi,
thế gian là ǵ? Xuất thế gian là ǵ? Thưa cùng chư
vị, nếu thật sự có thế gian và xuất thế
gian, Huệ Năng đại sư đă nói hay lắm. Thế
gian và xuất thế gian là hai pháp, hai pháp chẳng phải
là Phật pháp. Phật pháp là pháp bất nhị. Lục Tổ
nói kiểu ấy chính là tiêu chuẩn tuyệt đối.
Mê th́ có hai, giác chẳng có hai. Do vậy, pháp thế gian và
pháp xuất thế gian là mê hay ngộ. Ngộ th́ là pháp xuất
thế, mê th́ là pháp thế gian. Nếu chư vị biết
mê và ngộ chẳng hai, sẽ thật sự giác ngộ.
Đă giác ngộ mà c̣n có thế gian và xuất thế gian, vẫn
là chẳng ngộ! Cái ngộ của người ấy có
thể nói là tiểu ngộ, hoặc [cùng lắm là] đại
ngộ, chẳng phải là triệt ngộ. Triệt ngộ
bất nhị! Bất nhị mà nói thành hai là để nói
với kẻ chẳng triệt ngộ. V́ sao? Họ sẽ
dễ hiểu, có thể lănh hội! Nếu quư vị nói bất
nhị, họ sẽ không hiểu! Nhưng [phải là
người] đă thật sự nhập bất nhị,
người ấy mới có thể nói là hai mà vẫn là nói
chẳng sai! Nếu chẳng ngộ nhập triệt để,
dẫu người ấy nói “bất
nhị”, vẫn là hai, cảnh giới khác hẳn!
Học tập câu
này bằng cách nào? Trước hết, quư vị phải hiểu
rơ ư nghĩa. Chúng tôi nói bằng lời lẽ đơn giản
cho mọi người dễ hiểu, tức là nhất
định phải nâng cao cảnh giới của chính ḿnh.
Đối với người học Phật, đây là
đại sự bậc nhất trong đời này, phải
không ngừng nâng cao cảnh giới của chính ḿnh, đó
là đúng. Từ nhân đạo tiến lên thiên đạo, từ Dục
Giới Thiên tiến lên Sắc Giới Thiên, từ Sắc Giới
Thiên tiến lên Vô Sắc Giới Thiên, từ lục
đạo tiến lên tứ thánh pháp giới, quư vị phải
không ngừng tăng tấn. Nay chúng ta duyên quá thù thắng,
ta không cần trải qua thiên đạo, chẳng cần
phải trải qua tứ thánh pháp giới, mà trực tiếp
tăng lên thế giới Cực Lạc. Thế giới Cực
Lạc là Nhất Chân pháp giới, chẳng ở trong mười
pháp giới. V́ thế, pháp môn này được gọi là “hoành siêu” (橫超, vượt thoát theo chiều ngang), chẳng phải
là “thụ xuất” (豎出, thoát ra
theo chiều dọc). Tám vạn bốn ngàn pháp môn đều
là tăng tấn cao hơn từng tầng một, gọi
là “thụ xuất tam giới”.
Pháp môn Tịnh Tông được gọi là “hoành siêu” v́ không cần trải qua thiên đạo,
không cần trải qua tứ thánh pháp giới, mà là trực
tiếp văng sanh Phật pháp giới. Thế giới Cực
Lạc là pháp giới của A Di Đà Phật; v́ thế,
pháp này được gọi là pháp môn đặc biệt,
phải quư trọng!
Làm như thế
nào mới có thể nắm chắc trong một đời
này? Quư vị phải buông xuống! Đấy là khi tôi học
Phật, tôi hai mươi sáu tuổi bèn học Phật,
Chương Gia đại sư dạy tôi, “thấy thấu suốt, buông xuống”. Phải
buông xuống ích kỷ, phải buông xuống tiếng
tăm, lợi dưỡng, quyết định chớ nên
bị nó dụ dỗ, mê hoặc, hăy buông xuống sự
hưởng thụ ngũ dục, lục
trần. Phải coi tiếng tăm, lợi dưỡng,
ngũ dục, lục trần như ǵ? Coi như thuốc
phiện hoặc những chất gây mê hoặc ma túy được nói trong hiện thời. Những thứ
ấy chính là morphine, là nha phiến (鴉片, thuốc phiện), chẳng rớ vào được.
Sau khi rớ phải chúng, sẽ bị nghiện ngập, hậu
hoạn khôn sánh, đến cuối cùng là phải nộp mạng!
Tan nhà nát cửa là chuyện nhỏ, cuối cùng là quư vị
phải nộp mạng, khiến cho quư vị nhà tan người
chết! Quư vị phải coi tiếng tăm, lợi dưỡng,
hưởng thụ ngũ dục, lục
trần như những thứ ma túy! Do vậy, cuộc sống
của bậc thánh hiền hết sức thanh cao, chẳng
phải là cuộc sống dư dật, áo có thể giữ
ấm là được rồi, ăn có thể no ḷng là
đủ rồi, chớ nên tham cầu. Lại nói, ăn uống
càng khỏe mạnh th́ càng đơn giản!
Thích Ca Mâu Ni Phật
đề xướng giữa trưa ăn một bữa,
chúng ta mỗi ngày ăn một bữa là đủ, bớt
khá nhiều việc! Có người nói “mỗi ngày ăn một
bữa chẳng được”, đến hỏi tôi, tôi
nói: “Xác thực là không được!” V́ sao tôi trả lời
khẳng định như thế? Kinh Phật dạy: “Hết thảy các pháp sanh từ
tâm tưởng”. Tâm quư vị nghĩ “ta ăn một bữa sẽ chẳng
đủ dinh dưỡng, nhất định gây hại
cho sức khỏe”, vậy th́ chắc chắn là quư vị [không thể
ăn một bữa] được! Quư vị phải hiểu,
hết thảy các pháp xác thực là do ư niệm làm chủ tể.
Tôi nói, đối với tôi một bữa cơm là
được rồi, tôi có tín tâm, [như vậy là] tôi [chỉ
ăn một bữa] th́ được! Ư niệm làm chủ
tể hết thảy, tín tâm làm chủ tể hết thảy.
V́ thế, trong kinh Hoa Nghiêm và Đại Luận (Đại Trí Độ Luận) đều nói: “Tín vi
đạo nguyên, công đức mẫu” (Ḷng tin là
nguồn đạo, là mẹ của các công đức). Nếu
mở rộng ư nghĩa câu này, sẽ là hết thảy các
pháp thế gian và xuất thế gian đều do tín tâm
thành tựu. Thiện là tín tâm, mà ác cũng là tín tâm. Làm chuyện
xấu mà chẳng có tín tâm, kẻ ấy làm chuyện xấu
cũng chẳng thành. V́ thế, tín tâm quan trọng hơn bất
cứ ǵ khác!
Thầy tôi là lăo
cư sĩ Lư Bỉnh Nam. Lăo nhân gia suốt đời
ăn một bữa. Ngài học Phật kể từ khi tiếp
xúc Phật pháp vào lúc ba mươi mấy tuổi. Sau khi được
tiếp xúc, Ngài liền ăn chay, lại c̣n nhiều năm giữ lệ giữa
trưa ăn một bữa. Ăn rất ít, thân thể khỏe
mạnh. Tôi theo Ngài mười năm, [nhận thấy]
Ngài chín mươi lăm tuổi vẫn tự chăm sóc
chính ḿnh. Hai năm cuối cùng mới nhận sự
chăm sóc của học tṛ. Chín mươi bảy tuổi
văng sanh. Lẽ ra, Ngài có thể sống đến một
trăm hai mươi, một trăm ba mươi tuổi,
nhưng ra đi sớm. Ra đi là v́ tâm từ bi quá nặng.
Ngài phát bệnh là do trúng độc thực phẩm. Học
tṛ rất tôn kính Ngài, nấu một chén ḿ dâng cho thầy
ăn. Ḿ ấy có vấn đề, nhưng người nấu
không biết. Đó là loại ḿ khô, bán ngoài chợ gói trong
bao ni lông trong suốt, gói thành từng bao một, đă quá hạn,
đă hết hạn sử dụng rồi. Hơn nữa,
trong đó nhất định là có thuốc chống phân hủy,
có chất hóa học. Nếu không, sẽ chẳng thể giữ
lâu như vậy, nhất định là thứ không tốt,
lại c̣n bị quá hạn!
Khi thầy ăn,
cảm thấy hương vị không ổn, nhưng thầy vẫn ăn hết. Thầy là một thầy thuốc giỏi,
y thuật thuốc Bắc của thầy hết sức
cao minh. Ăn xong, thầy bèn dùng thuốc giải để
giải trừ. Thầy có bản lănh ấy. Chúng tôi không
dám! V́ thế, chúng tôi ăn thứ ǵ đều rất
lưu ư, cẩn thận. Nửa năm sau, thầy lại
bị lần nữa, thầy ăn xong dùng thuốc giải
để hóa giải, nhưng không kịp. Chất độc khuếch tán quá nhanh, tổn thương thân thể
rất nặng, đại thương nguyên khí, thầy đă chín mươi bảy tuổi rồi! V́ thế,
trong lúc tuổi già, mỗi lần tôi đến thăm lăo
nhân gia, mỗi lần gặp mặt, thầy đều cảnh cáo tôi: “Ăn thứ ǵ cũng phải
cẩn thận. Đừng ăn những thứ trong tiệm
ăn. Nhất định là hết thảy những thức
ăn mà hương vị đă biến đổi, quyết
định chớ nên ăn!” Tối thiểu thầy dặn
tôi từ mười lần trở lên, cho nên tôi ghi nhớ
hết sức rơ rệt!
Khi ấy, tôi
cũng học theo lăo nhân gia, cũng học đ̣i giữa
trưa ăn một bữa, suốt năm năm. Tôi bỏ
bữa tối, khi đó đă là mười lăm năm.
Bữa sáng cũng bỏ luôn, chẳng ăn, [giữ
như vậy] năm năm, rất b́nh thường. Do vậy,
hiện thời có ngày tôi không ăn cơm, chẳng sao hết,
chẳng cảm thấy đói. Ăn này nọ rất ít,
quyết định chẳng ăn đồ vặt, chỉ ăn những thứ sạch
sẽ. Nhưng hiện thời, đích xác
là có rất nhiều nỗi phiền phức. Rau dưa th́
rau có phân bón, thuốc sát trùng, gạo th́ cũng có xen lẫn
chất hóa học trong ấy, gạo nh́n đẹp lắm!
Do vậy đối với chuyện ăn uống, thầy
hết sức cảm thán, nào phải là ăn cơm, ba bữa
cơm là nuốt thuốc độc đấy chứ!
Đúng thế, người hiện thời ba bữa
cơm là nuốt thuốc độc.
Tôi ở Úc, Úc và Nữu
Tây Lan (New Zealand) là phước địa, là tịnh độ
trên địa cầu trong hiện thời. Nơi ấy
đất rộng, người ít, tôi ở vùng nông thôn.
Đất đai tại nông thôn càng rẻ, sân rất lớn,
tính theo kiểu người Hoa sẽ là một trăm sáu
mươi tám mẫu. Sân to như thế, nên trồng rau
ngay trong ấy. Nay chúng tôi trồng đến mười mấy
loại rau, có thể cung cấp dài hạn cho ba trăm
người! Đạo tràng của chúng tôi chẳng
đông như vậy. Nói b́nh quân theo lẽ thường,
đạo tràng của chúng tôi kể cả khách từ bên
ngoài đến viếng thăm, tham học, đại khái
là bảy, tám chục người. V́ thế, rau ăn vẫn
không hết! Rau của chúng tôi chẳng dùng phân hóa học,
chẳng dùng thuốc sát trùng, rau hái ngoài vườn có thể
ăn sống, rất sạch sẽ. Lần này, chúng tôi tổ
chức một hoạt động có hơn một ngàn
người tham gia, may
sao lần này vườn rau bội
thu [đủ để cung cấp], những thứ rau chủ yếu toàn do tự
ḿnh trồng. Chuyện này ở Hương Cảng chẳng
làm được. Hương Cảng tấc đất,
tấc vàng, có chỗ nào để quư vị trồng rau?
Đó là chuyện ăn uống.
Từ kinh nghiệm
ăn uống của chính ḿnh, chúng tôi thưa tŕnh với thầy.
Khi đó, mỗi ngày tôi ăn một bữa, đă ăn
đến tháng thứ tám, tôi mới tŕnh lên thầy. Tôi
thưa: “Con cũng ăn một bữa”. Thầy hỏi:
“Thế nào? Thân thể cảm thấy như thế nào?”
Tôi thưa: “Rất b́nh thường”. Thầy vỗ bàn:
“Hăy vĩnh viễn ǵn giữ!” V́ sao? Chẳng cầu cạnh
kẻ khác, đời sống đơn giản, con người
đạt đến mức chẳng mong cầu, phẩm
hạnh sẽ tự cao. Đấy là chuyện vui sướng
nhất! Đó gọi là “niềm
vui của Khổng Tử, Nhan Hồi”, là niềm vui của
Phật, Bồ Tát, chẳng cầu cạnh ai, cuộc sống
đơn giản! Tôi giải thích với lăo nhân gia, tôi nói:
- Thân thể phải nên coi như một cỗ máy. Để
cỗ máy ấy hoạt động
vận hành, phải nhờ bổ
sung năng lượng. Thực phẩm chính là năng
lượng. Hoạt động của con người có
lao tâm và lao lực. Trên thực tế, lao tâm hay lao lực
tiêu hao năng lượng đều chẳng
nhiều! Năng lượng tiêu hao ở chỗ nào? Khi
đó, tôi nói, phải nên là chín mươi lăm phần
trăm tiêu hao v́ vọng tưởng! Thầy bảo:
“Đúng rồi!” Quư vị vọng tưởng nhiều, sẽ
tiêu hao năng lượng nhiều; do vậy, quư vị phải
bổ sung nhiều. Không nhiều th́ làm sao được?
Giống như hiện thời lái xe, quư vị thấy có
xe tốn nhiều xăng, có xe ít tốn xăng. Xe tốn
nhiều xăng mà quư vị chẳng cung cấp đủ,
nó chẳng chạy nổi! Xe ít tốn xăng, châm thêm
xăng một lần, có thể chạy rất xa; đạo
lư là như vậy đó!
Do vậy, đó là
lư do v́ sao Tăng đoàn của đức Thế Tôn, nay
chúng ta thấy kinh chép là một ngàn hai trăm năm
mươi lăm người, là một đoàn thể to
chừng ấy, ai nấy ăn một bữa trưa là
đủ. Nhưng Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh, giáo học,
giải đáp các vấn đề cho kẻ khác, gần
như từ sáng đến tối chẳng nghỉ
ngơi. Tinh thần và thể lực của Ngài do đâu mà
ra? Đương nhiên cũng là do bổ sung năng lượng.
Ngài tiêu hao rất ít, mỗi ngày bổ sung chút ít là đủ,
chẳng có vọng niệm. Quư vị thấy vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước thảy
đều chẳng có, lượng tiêu hao của Ngài rất
ít. V́ thế, đối với bậc A La Hán, chúng ta biết
A La Hán đă đoạn phiền năo, tham, sân, si, mạn,
toàn bộ mười sáu chữ như tôi đă nói đều
chẳng có. A La Hán mỗi tuần ăn một bữa, Bích
Chi Phật nửa tháng ăn một bữa. Họ đi khất
thực, A La Hán đi khất thực, mỗi tuần khất
thực một lần, chỉ ăn một bữa. Bích Chi
Phật hai tuần mới đi khất thực một lần,
phải hiểu đạo lư này!
Vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước thảy đều chẳng
có, bèn đoạn ẩm thực, chẳng cần ăn!
Trong tam giới, tức là trong lục đạo, Sắc Giới
Thiên chẳng c̣n ăn uống, trong Dục Giới th́ có. Dục
Giới có sáu tầng trời, càng lên cao càng ăn ít đi.
Đến Sơ Thiền bèn chẳng có [ăn uống].
Sơ Thiền đoạn trừ ngũ dục, tài, sắc,
danh, ăn uống, ngủ nghê thảy đều từ bỏ,
họ cũng chẳng ngủ. Chẳng cần ngủ nghê,
chẳng ăn uống! Chúng ta cảm thấy đấy là
một cảnh giới rất chẳng thể nghĩ bàn,
thật đấy, chẳng giả! Niềm vui ấy
được gọi là niềm vui của bậc thánh
nhân. Người đọc sách xưa kia tại Trung Hoa
thường nói “Khổng Nhan
chi lạc”, [tức là niềm vui] của Khổng Tử,
Nhan Hồi. Kẻ b́nh phàm trong thế gian thấy ông ta rất
nghèo túng. Quư vị thấy cuộc sống vật chất
của Nhan Hồi, “đan thực,
biều ẩm” (ăn cơm trong giỏ, uống nước
từ bầu), Khổng Tử trông thấy cũng không
đành ḷng, nhưng “Hồi dă
bất cải kỳ lạc” (Nhan Hồi chẳng thay
đổi niềm vui ấy). Cuộc sống của ông ta
hết sức vui sướng, chẳng cảm thấy
đời sống của chính ḿnh khổ sở! Niềm
vui của ông ta là ǵ? Niềm vui là đạo! Trong cuộc
sống, mỗi ngày ông ta đều có ngộ xứ. Giống
như trong Phật pháp nói “phiền
năo khinh, trí huệ trưởng”, [nghĩa là] phiền
năo mỗi ngày một nhẹ hơn, trí huệ mỗi ngày một
tăng trưởng, làm sao ông ta chẳng vui sướng
cho được?
Nhu cầu trong cuộc
sống vật chất đúng là mỗi năm một ít
hơn, rất dễ dàng thỏa măn. Chẳng cần cầu
nhiều! Cầu nhiều là quá phận. Hễ quá phận
bèn gạt ra, không cần nữa, đều bài tiết ra
ngoài. Quư vị hiểu đạo lư này, sẽ hiểu
đạo dưỡng sinh, sẽ hiểu rơ cách sống
lâu, khỏe mạnh. Làm như thế nào th́ mới có thể
đảm bảo khỏe mạnh, sống lâu? Để
giữ sức khỏe
và sống lâu, điều quan trọng
nhất là tâm thanh tịnh. Đối với hết thảy
các pháp thế gian và xuất thế gian, đều chẳng
có phân biệt, chẳng có chấp trước. Chúng ta chẳng
cần bàn tới vọng tưởng. Đoạn vọng
tưởng quá khó, chúng ta chẳng làm được! Kẻ b́nh phàm
chắc chắn chẳng làm được! Nhưng nếu
giảm phân biệt và chấp trước đến mức
độ thấp nhất, thân tâm của quư vị sẽ
khỏe mạnh, ăn uống rất ít cũng đủ!
Như vậy th́ đương nhiên là cảnh giới của
quư vị tăng cao, mới có thể “tốc tật nhi văng” (nhanh chóng hướng đến)
đạo thánh hiền, càng ngày càng gần với Phật,
Bồ Tát.
Nếu quư vị vẫn
lưu luyến tham, sân, si, Thập Ác, thân tham luyến giết,
trộm, dâm, miệng vẫn y như cũ nói dối, nói
đôi chiều, nói thêu dệt, ác khẩu, tham, sân, si, mạn
chẳng ngừng, chắc chắn chẳng thoát khỏi
luân hồi. Như vậy th́ quư vị sẽ cần ăn
nhiều; hễ nhiều, chắc chắn là sẽ tạo
tội nghiệp. V́ sao? Càng mê sâu hơn. Nay chúng ta hăy lắng
ḷng quan sát, người thế gian trong cuộc sống hằng
ngày đă tạo tội nghiệt quá nhiều, quá nặng,
quá đáng sợ. Những tội nghiệt ấy mọi
người đều gây tạo trọn khắp; người
gây tạo quá nhiều, sẽ chiêu cảm tam tai bát nạn.
Nay quư vị đang tạo nhân, nhân chỉ cần duyên
để chín muồi, quả báo chắc chắn sẽ hiện
tiền. Nhân tạo trong quá khứ, duyên tạo trong hiện
tại. Tuy trong quá khứ đă tạo đủ thứ bất
thiện, nay chẳng tạo, nay đoạn hết, có nhân
mà chẳng có duyên, quả báo sẽ không hiện tiền. Nếu
nay lại tiếp tục tạo, vậy là nhân duyên trọn
đủ, khẳng định là quả báo hiện tiền.
Đức Phật đă dạy rất rơ ràng, rất minh bạch
chân tướng sự thật này!
Chúng ta mong giúp
người thế gian hóa giải tai nạn, có thể [làm
được] hay không? Nói theo lư luận, sẽ tuyệt
đối là có thể. Nói theo Sự, sẽ có mức độ
khó khăn! Khó ở chỗ nào? Khó ở chỗ giác ngộ.
Dùng phương pháp ǵ để giúp chúng sanh giác ngộ?
Giáo học. Đức Thế Tôn tại thế, suốt
đời chẳng nài mệt nhọc, hằng ngày dạy
dỗ mọi người. “Giảng
kinh, thuyết pháp” chính là lên lớp. Lên lớp nhằm mục
tiêu nào? Mục tiêu là giúp cho mọi người phá mê khai ngộ.
Hễ ngộ, họ sẽ chẳng tạo tội nghiệp,
vấn đề được giải quyết. Lúc mê, họ
sẽ làm càn, làm quấy; giác ngộ, họ sẽ chẳng
tạo, biết đoạn ác tu thiện. Ai nấy đều
quay đầu, chẳng tạo ác nghiệp, đều biết tu
thiện, đều biết tích công lũy đức, tai nạn
sẽ lập tức hóa giải. V́ thế, trong hiện thời,
giáo học là đại sự bậc nhất!
Hiện thời, kẻ
giác ngộ ít, kẻ mê hoặc nhiều! Cũng may là hiện
thời khoa học kỹ thuật phát triển, ít ỏi mấy
người vẫn được! Chúng ta lợi dụng
khoa học kỹ thuật cao, dùng truyền h́nh vệ tinh,
lợi dụng mạng Internet, lợi dụng đài radio
công cộng để giúp người thế gian giác ngộ,
vẫn c̣n kịp, c̣n được. Nếu chẳng có những
công cụ ấy, đúng là hết cách xoay sở, mắt thấy
hiện tượng tận thế đă chập chờn
trước mắt, đại nạn ấy chư Phật,
Bồ Tát đều chẳng giúp được. V́ thế,
tuy khoa học có hại, nhưng cũng có lợi, chỉ cần
chúng ta dùng cho khéo, đúng như vừa mở đầu phẩm
kinh này, Văn Thù Bồ Tát đă bảo chúng ta hăy khéo dùng
cái tâm. “Nhược chư Bồ
Tát thiện dụng kỳ tâm, tắc hoạch nhất thiết
thắng diệu công đức” (Nếu
chư Bồ Tát khéo dùng cái tâm, sẽ đạt được
hết thảy công đức thù thắng, nhiệm mầu).
Tiếp đó, Ngài nêu ra mười thí dụ. Mười
câu ấy đều là cương lănh, triển khai ra, sẽ
là vô lượng vô biên công đức lợi ích, đều
là vi diệu thù thắng khôn sánh. Trong phẩm kinh này, có tất
cả một trăm bốn mươi mốt nguyện.
Trong phần trước, tôi đă thưa tŕnh cùng quư vị,
đấy là nêu thí dụ. Trong cuộc sống hằng
ngày, trải qua sự việc để luyện tâm. Kẻ
b́nh phàm sẽ thấy là
chuyện vặt vănh chẳng đáng
nhắc tới, [nhưng đối với Bồ Tát, chuyện
dẫu nhỏ nhặt đến mấy] đều có thể
dẫn phát đại Bồ Đề tâm. Một trăm bốn
mươi mốt nguyện ấy chính là đại
Bồ Đề tâm. Quư vị thấy ngay cả chuyện
đại tiện, tiểu tiện, vào nhà vệ sinh, đều
có thể dẫn phát hoằng nguyện thù thắng như vậy.
Đó là công đức thù thắng nhiệm mầu!
Chúng ta phải biết
học, phải nghiêm túc học. Sau khi đă học, phải
thực hiện. Như trong đoạn này, [toàn là] chuyện hằng ngày phải làm. Sáng ra thức dậy
phải súc miệng. “Thủ chấp
dương chi” (Tay cầm nhành dương), nay chúng ta tay cầm bàn chải
đánh răng. “Tước
dương chi thời” (Lúc nhai nhành dương), tức là
khi đang súc miệng. Đại tiện, tiểu tiện,
chúng ta làm hằng ngày,
nhưng đều chẳng biết phát
tâm. Quư vị thấy Bồ Tát, đối với những
việc nhỏ nhặt ấy đều tương ứng
với tâm đại Bồ Đề. C̣n chúng ta đối
với những việc vặt vănh ấy bèn tương ứng
với tập khí phiền năo. Quư vị hăy ngẫm xem,
tương ứng với ích kỷ, tương ứng với
ngũ dục, lục trần, tương ứng với tham, sân,
si, mạn, hỏng bét, chẳng tương ứng với
Tứ Hoằng Thệ Nguyện và đại Bồ Đề
tâm. Nguyện đầu tiên trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện
là “chúng sanh vô biên thệ nguyện
độ”. Quư vị thấy người ta niệm nào
cũng nguyện cho chúng sanh, tức là tương ứng với
Tứ Hoằng Thệ Nguyện, tương ứng với
chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi.
Đấy là đại Bồ Đề tâm, tương ứng
với Bồ Đề tâm. Từ những chỗ này, chúng
ta hăy chú tâm quan sát, nghiêm túc phản tỉnh, quư vị sẽ
biết, ta và Phật, Bồ Tát khác nhau ở chỗ nào? Ở
ngay chỗ này! Người ta mặc quần áo, ăn
cơm, tắm rửa, súc miệng, đại tiểu tiện,
đều tương ứng với đại Bồ
Đề tâm và Tứ Hoằng Thệ Nguyện; đấy
là Phật, là Bồ Tát.
Nếu chúng ta có thể
giác ngộ, có thể quay đầu, sửa lỗi đổi
mới, cũng có thể thực hiện như vậy, chẳng
phải là quư vị đă thành Phật, thành Bồ Tát ư?
Phật, Bồ Tát là do con người tu thành, chẳng phải
do trời sanh. Ai nấy đều có Phật Tánh, tánh con
người vốn lành. Giác ngộ, sẽ tự nhiên
tương ứng, chẳng miễn cưỡng mảy
may! Nay chúng ta học tập miễn cưỡng dường ấy, là do tập khí phiền năo quá sâu, quá nặng, quên sạch
sành sanh bổn thiện và Phật Tánh của chính ḿnh. Chuyện
là như thế đó! Quư vị không học kinh giáo, căn
bản là sẽ chẳng biết. Sau khi đă học mới
biết, mới biết chính ḿnh ô nhiễm nghiêm trọng.
Quay đầu khó khăn, nhưng nhất định phải
quay đầu. Chẳng quay đầu, sẽ phải chịu
nỗi khổ về sau, tức nỗi khổ luân hồi
trong lục đạo. Hôm nay đă hết thời gian rồi,
chúng tôi nói tới chỗ này!
Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh
Phẩm thứ mười một,
Tịnh Hạnh Phẩm
Phần 29 hết
[1] Tiền Tế, Hậu Tế và Tiền Hậu Tế là ba thuật ngữ của Pháp Tướng Duy Thức. Theo luận Du Già quyển năm mươi sáu: Quá khứ là Tiền Tế, vị lai là Hậu Tế. Hiện tại được gọi là Tiền Hậu Tế v́ nó là Tiền Tế của vị lai, và là Hậu Tế của quá khứ. Do vậy, thuật ngữ này được dùng để nói về bất cứ một thời điểm nào. Chẳng hạn, trong một sát-na hiện tại, sát-na trước đó là Tiền Tế, sát-na sau sát-na trong hiện tại thuộc về Hậu Tế.
[2] Thoạt đầu, Phật giáo tại Nhật Bản hầu như cũng tuân thủ thanh quy như Phật giáo tại Trung Hoa. Với sự thành lập của Tịnh Độ Chân Tông, do Thân Loan (Shinran) không hoàn toàn là tăng sĩ, ông ta tự nêu gương lấy vợ trước, cho nên hầu như toàn thể “tăng sĩ” của Tịnh Độ Chân Tông đều noi gương có vợ. Sau này, Nhật Liên Tông (Tân Pháp Hoa Tông) cũng theo quy chế ấy. Đến thời kỳ Minh Trị Duy Tân dưới thời Nhật Hoàng Minh Trị (Meiji), nhà vua cho phép tăng chúng ăn thịt, cưới vợ. Đến nay, hầu như Tăng sĩ Nhật Bản đều có gia đ́nh, không ăn chay. Chùa chiền được chia thành hai loại: Tử tôn viện tức là chùa được truyền từ đời cha sang đời con. Cha làm trụ tŕ, con trưởng sẽ kế nhiệm trụ tŕ. Loại thứ hai là thập phương tùng lâm th́ phải là người độc thân mới được sống tại đó. Trước khi được công nhận là trụ tŕ, tăng sĩ thuộc tử tôn viện phải đến thập phương tùng lâm tu học từ ba năm đến năm năm, thọ tam đàn đại giới trong một ngày, rồi mới được cấp chứng thư (độ điệp) có đủ tư cách trụ tŕ. Có người đă nhận định, tăng sĩ tại Nhật giống Bà La Môn thời đức Phật, tức là có thời kỳ tại gia (tuy sống trong chùa, nhưng là chùa nhà), xuất gia tu học (đến tu học trong thập phương tùng lâm hay vào các học viện, đại học thuộc tông phái của ḿnh), hoàn tục cưới vợ (tức là đă tốt nghiệp, cưới vợ, sinh con, tuy vẫn mang danh xưng là tăng sĩ).